Hai nữ sinh trung học bị bạn đánh hội đồng dã man

Hai nữ sinh trung học bị bạn đánh hội đồng dã man

Nguoi-viet.com

Hai nữ sinh cấp 2 bị nhóm bạn đánh hội đồng. (Hình: Báo Người Lao Ðộng cắt từ clip)

NGHỆ AN (NV) – Cho rằng bị xúc phạm, một nhóm nữ sinh trường cấp 2 ở huyện Quỳnh Lưu đã xông vào túm tóc, dùng dép và chân tay đánh hội đồng vào đầu, mặt, và người 2 nữ sinh khác đến đổ máu.

Ngày 5 tháng 10, trên mạng xã hội xuất hiện clip dài hơn 1 phút nhưng đã gây xôn xao dư luận và hàng ngàn bình luận vì hành động đánh đập bạn rất phản cảm của một nhóm nữ sinh.

Nội dung clip ghi cảnh một nhóm nữ sinh Trường Trung Học Cơ Sở Quỳnh Long, huyện Huỳnh Lưu nắm tóc, dùng dép đánh vào mặt và đạp lên 2 bạn nữ sinh khác. Vừa đánh bạn, nhóm nữ sinh này còn liên tục chửi thề, văng tục. Mặc dù bị đánh rất đau, chảy máu mặt nhưng 2 nữ sinh bị đánh không hề chống cự. Trong khi đó, nhiều học sinh khác đứng xung quanh chứng kiến.

Nói với phóng viên Người Lao Ðộng, cùng ngày, ông Trần Hoài Nam, hiệu trưởng Trường Trung Học Cơ Sở Quỳnh Long, xác nhận, vụ việc xảy ra vào chiều ngày 4 tháng 10 tại xã Quỳnh Long. Nhóm học sinh gồm 6 người tham gia đánh bạn là học sinh lớp 9 của trường. Hai nữ sinh bị đánh là học sinh trường trung học cơ sở xã Quỳnh Thuận, cùng huyện.

“Nhà trường đã mời những phụ huynh của những học sinh tham gia đánh hội đồng 2 nữ sinh lên làm việc,” ông Nam cho biết. (Tr.N)

“Tình đã len trong mầu nắng mới,”


“Tình đã len trong mầu nắng mới,”
Lòng anh buồn vời vợi em ơi
Niềm ái ân rung động trên môi
Tình đâu khôn lựa nên lời thắm tươi.”

(Nhạc: Phạm Duy/Lời: Lưu Trọng Lư – Thú Đau Thương)

(Rm 5: 2-5)

 Trần Ngọc Mười Hai

Vào lúc bần-đạo ngồi viết những giòng chữ này, thì bên ngoài trời đất rất Sydney đang đi vào những ngày đầu Xuân, tiết trời thật dễ chịu có ánh nắng chan-hoà với không khí nhẹ êm mà lại phải nghe đi nghe lại, dù rất hay, những lời ca về một Thú đau thương” tơi bời dù thật tuyệt ở đêm nhạc “Hát Cho Nhau nghe” ở Sydney hôm 03/7/2016 như sau:


“Ðã héo lắm nụ cười trong mộng

Ðã mờ dần hình bóng thân yêu

Ðã lam tím cả cảnh chiều

Trong hồn lặng đã hiu hiu mộng tàn

Ðể gối chăn nằm yên chốn cũ

Hãy lịm người trong thú đau thương.


Tình đã không một lần nữa tới

Nhìn nhau buồn vời vợi em ơi

Rượu ái ân em cạn trên môi

Lệ anh xin nhỏ nên lời đắng cay.

 

Hãy xếp lại muôn vàn ân ái

Ðừng thương nhau đừng ái ngại nhau

Thuyền yêu không ghé bến sầu

Như đêm thiếu phụ bên lầu không trăng

Thành kiếp sao còn băng mãi mãi

Ðể lòng buồn mãi mãi không thôi.”

(Phạm Duy/Lưu Trọng Lư – bđd)

“Kiếp sau không còn băng mãi mãi, để lòng buồn mãi mãi không thôi” ư? Khiếp! Sao mà buồn đến thế? Phải chăng là, “thú đau thương” vẫn là cái thú rất buồn sầu của đời người, rất nên nỗi?

Vâng. Thú gì thì thú, có đau thương mãi mãi hay “thuyền yêu không ghé bến sầu” đi chăng nữa, vẫn chỉ là những chuyện ở tiểu-thuyết hoặc truyện kể về cuộc đời chứ chẳng phải là cuộc đời chính-hiệu, mãi thế đâu. Không tin ư? Mời bạn và mời tôi, ta cứ ghé mắt nhìn vào Lời Vàng bậc thánh-hiền từng khẳng-định, như sau:

“Nhưng không phải chỉ có thế;

chúng ta còn tự hào khi gặp gian truân, vì biết rằng:

ai gặp gian truân thì quen chịu đựng;

ai quen chịu đựng, thì được kể là người trung kiên;

ai được công nhận là trung kiên, thì có quyền trông cậy.

Trông cậy như thế, chúng ta sẽ không phải thất vọng,

vì Thiên Chúa đã đổ tình yêu của Ngài vào lòng chúng ta,

nhờ Thánh Thần mà Ngài ban cho chúng ta.”

(Rôma 5: 2-5)

Tương-quan ta có đối với nhau, không chỉ là các giao-dịch qua đó ta chuyển-tải cho nhau các sự/việc cùng lợi ích rất tích-cực mà thôi. Nhưng còn là chốn miền trong đó người người hành-xử với nhau và cho nhau rất độ-lượng theo cung-cách cho đi chính con người mình. Và, người người còn đại-độ đến mức-độ tha-thứ cho nhau khi gặp sự xấu mình vẫn áp-đặt vào nhau và cho nhau như thế.

Tương-quan ta có với nhau như thế, sẽ là và vẫn là những gì duy-trì được tình-yêu thương/mẫn cảm của con người đối với con người, trong mọi tình-huống cuộc đời, rất hôm nay.

Có tương-quan là có đời sống chung-đụng giữa người cận thân và cận lân, không phải lúc nào cũng tốt đẹp, hoặc trôi chảy như truyện kể ở bên dưới:

“Tôi đón cha lên thành phố. Nếu nói là đón mẹ lên thì thích hợp với hoàn cảnh hơn. Nhưng mẹ tôi đã xa cõi đời từ lúc tôi lọt lòng. Sự ra đi của mẹ, trong thâm tâm tôi vẫn luôn là một sự đánh đổi quá khắc nghiệt của tạo hóa, mà nỗi đau đớn còn dành lại một vị đắng ở đầu môi. Và người ở lại phải sống tốt cho cả hai phần đời. Tôi đã có thật nhiều cố gắng.


Cha tôi, người đàn ông lam lũ. Cha gầy, gầy lắm, mà không phải chỉ gầy do sức khỏe, mà thời gian đã ngấm dần trong từng thớ thịt cha, già cỗi và yếu ớt. Người đàn ông cô độc ngần ấy tháng năm của tôi.


Bao nhiêu lần ôm cha ngủ. Từ bé, lúc lớn lên đi xa trở về, hay khi tôi đi làm có tiền thường gọi điện cho ông:“cha, lên thành phố với con, con lo được mà”. Ông hỏi dò “có thiệt không đó, cu con, không để tiền cua gái hả?” Rồi ông cười khà khà. Hôm sau đã có mặt ở nhà tôi. Mang nào gà, nào vịt, nào trái cây. Và không quên mang theo một cúc rượu để cha con nhâm nhi.

 Nhưng sao lần này, nằm cạnh ông, nhìn ông ngủ, tôi …tôi không diễn tả nỗi cảm xúc của mình. Nước mắt ở đâu cứ như nước sôi đang đun trào, cứ thế đẩy vung mà ra. Chắc vì tôi mới được làm cha, chắc lẽ thế.


Tôi lấy vợ rất muộn. Vợ là người thành phố, con nhà danh giá. Nhưng với nỗ lực và cố gắng của mình, tôi độc lập về kinh tế, không phải dựa bóng nhà vợ.


Khi mọi người quây quần quanh thằng Mỏ(con trai yêu quý của tôi), nhìn nó kháu khỉnh đáng yêu quá. Nhà vợ rất đông người tới. Ai cũng đòi được bế thằng Mỏ nụng nịu. Bà ngoại thằng Mỏ (là người rất khó tính) nói “ông Nội bế cháu đích tôn một chút này”, cha đưa tay ra định bế thì bà ngoại khựng lại.


“Trời ơi, tay ông nội sao thế, thế thì hỏng da của cháu mất….”. Bà ngoại giữ thằng Mỏ lại trong lòng, vừa nói vừa nhìn bàn tay cha tôi dò xét.


“Ờ….vâng, tôi lỡ…để tôi…đi rửa..”. Cha tôi ấp úng rồi đi ra nhà sau để rửa tay.


“À, chắc ông mới làm than đó má”. Tôi nói đỡ, rồi theo cha ra sau. Mọi người lại xúm lại đòi bế thằng Mỏ. Cha tôi rửa tay, và đúng là ông làm than thật. Tức là ông phơi mớ than củi mang từ quê lên để cho vợ tôi nằm hong, khỏi nhức mỏi đau lưng sau này. Nhưng ông làm xong từ sáng sớm rồi kia mà, lẽ nào cha tôi đã già nên lẫm cẫm rồi, chẳng còn nhớ mà rửa tay nữa. Cha ơi…


Thấy ông đứng cặm cụi rửa tay, khó nhọc. Tôi tiến lại “cha, để con rửa cho cha”.

 “Thôi đi cu con, hồi bé cha rửa tay rửa chân cho mày, giờ học đòi à, nhưng chưa đến lúc đâu….”.
“Đưa con coi nào”, tôi giằng lấy tay ông. Trời ơi, hai bàn tay ông chai sần, những lớp da bị tróc mẻ, nham nhỡ đỏ lừ.


“Cha bị sao thế, cha đừng rửa bằng xà bông nữa”…Tôi nói.

“Ờ, hồi trước, hồi trẻ ấy, cha mày đi xây, bị xi ăn, bị dị ứng. Hôm qua tao thấy trước sân nhà mày có chỗ bị hỏng, tao hòa ít xi gắn lại. Ai ngờ lâu thế mà nó cũng bị lại…”


Ông nói rồi lững thững đi vào. Vừa đi vừa chùi chùi hai bàn tay vào áo, cái dáng còng còng như oặn trĩu bởi yêu thương. Cha bước đi không còn vững nữa rồi, năm tháng ơi.…..


Là trưởng phòng kinh doanh một công ty, tôi đi tối ngày, tranh thủ chạy về lúc trưa, lúc tối muộn. Nên cha làm gì, mọi người làm gì tôi cũng không rõ hết. Nhà tôi ở ngoại ô. Có một khoảng sân nhỏ, trồng một ít cây cối. Trong những tháng ngày này, được làm cha, được sống trong cảnh gia đình sum vầy thế này. Tôi ngỡ cuộc đời như một giấc mơ. Hay đúng hơn là cuộc đời ai rồi cũng đến lúc sống đúng như một giấc mơ, khi đã cố gắng thật nhiều.


Từ chuyện bàn tay, mà cha chưa bế cháu Mỏ một lần nào. Không chỉ vì ánh mắt e dè của bà ngoại thằng Mỏ. Mà có lẽ ông tự ái(bệnh người già mà), ông muốn mọi người được vui. Và hơn hết ông thương thằng Mỏ, như bà ngoại nói “da cháu còn nhạy cảm, như thế là không tốt”. Tôi cũng chỉ im lặng. Vì nghĩ mọi thứ đều hợp lý. Hay tại vì cha là đàn ông(yêu thương để trong lòng), ít ra cha cũng không như bà ngoại, khi một ngày không ẵm thằng Mõ vài lần nũng nịu là ăn cơm không nổi.


Thế là cha tôi, ngày ngày lầm lũi ngoài khoảng sân nhỏ. Ông nấu nước Vằng (một loại lá cho người đẻ uống rất tốt), ông quét sân, thỉnh thoảng qua chỗ mấy ông già cùng khu phố ngồi chơi. Rồi lại thỉnh thoảng về ngắm thằng Mỏ. Vợ tôi còn bảo “ở nhà ông còn giặt cả tả, quần áo cho Mỏ”.

 Mặc dù có bà ngoại, hay mấy cô em vợ tôi, mà họ toàn giặt máy. Nhưng khi chưa kịp bỏ vào máy là ông lại bê đi giặt tay. Bà ngoại cũng không muốn ông phiền lòng, nên cũng đành im lặng. Nhưng tôi biết sau đó bà ngoại lại lén bỏ vào máy giặt lại, may mà bà không để cha biết….


Thời gian cứ thế trôi đi, cuộc sống bình lặng êm đềm. Nhưng tình cảm trong tôi đang dậy sóng, vì từ Cha thiêng liêng, mỗi lúc vợ hay bà ngoại bế thằng Mỏ đều chỉ vào tôi bảo “gọi ba đi, ba ba, ba ba”. Thằng bé chỉ nhìn rồi cười, đáng yêu vô vàn vô tận.


Cho đến một ngày, khi tôi đang đi công tác tỉnh, vợ gọi điện “chồng, về nhà đi, ông nội vào viện rồi”. Tôi về ngay, về liền. Cha tôi đứng lên chiếc ghế đẩu để phơi tả cho thằng Mỏ, bị trượt ngã. Khi tôi về đến nơi ông đã tỉnh, bác sĩ bảo chỉ bị chấn thương nhẹ, cần điều trị vài ngày là hết. Tôi thở phào. Bà ngoại và vợ nhìn tôi ái ngại.


Tôi về nhà lấy đồ cho cha. Tôi lục túi của ông. Một ít quần áo, một tút thuốc quê đã hút phần nữa (cha tôi nghiện thuốc lá). Và…một cuốn sổ, nhỏ bằng lòng bàn tay, màu nâu cũ kỹ, một chiếc bút được kẹp ở giữa. Tôi tò mò, tôi mở nó ra, mở ngay trang đang kẹp bút. Tôi đọc:


“Vậy là cháu nội tôi đã chào đời được một tuần. Nhìn con trai vui, mới biết mình đã già, đã sống hết phần đời mình mất rồi. Buồn vui lẫn lộn. Khi về bên kia gặp vợ, có thể an lòng. Nhưng mà sao già này buồn quá. Muốn được ôm thằng Mỏ vào lòng quá. Mà….Già này nhớ những tháng ngày xưa, khi vợ bỏ lại hai cha con ra đi, một mình nuôi con trai. Một mình bế nó trên tay, một mình cho nó uống sữa, một mình ru nó ngủ, trong đêm thâu. Ôi mới như hôm qua đây thôi, mà sờ lên mái tóc đã bạc trắng mất rồi. Con trai à, cháu Mỏ à, già này yêu hai cu lắm….Bàn tay chết tiệt này,sao mày lại giở chứng đúng lúc thế….”


Tôi lật tiếp những trang viết đầu, những ngày tháng đầu đời:

“Vợ anh nhớ em, nhớ nhiều…anh không có gì để ví được”….

“Em yên lòng, anh sẽ nuôi con, anh sẽ sống cho cả hai cuộc đời, anh sẽ làm được…”
“Vợ, anh không chịu được nỗi đau này…..”

“Vợ ơi…”


Dài lắm, tôi đọc mãi, đọc mãi, đến lúc những dòng chữ ngoệch ngoạc của cha nhòa đi bởi nước mắt tôi nhỏ xuống. Tôi mới dừng lại. Cha viết nhật ký. Ông giấu tôi kỹ quá, giấu tài quá. Đàn ông như cây Lim cây Táu, mà tâm hồn ông như Liễu như Mai, rũ xuống vì yêu thương, rũ xuống vì tình cảm, rũ xuống vì cô độc. Ôi, cha già của con!


“Anh ơi làm gì lâu thế, làm đưa đồ vào cho nội thay đi, anh còn ngủ ư”. Vợ tôi kêu vọng lên lầu.

“Ờ…anh biết rồi….”. Tôi quẹt nước mắt. Gấp nhật ký của cha, bỏ lại cẩn thận.


Tôi phải lén đi ra, bởi không muốn ai nhìn thấy mình đang khóc, rồi phi ngay xe tới bệnh viện. Cứ tưởng được làm cha, cảm thấu được nổi thương xót khi cha mình đã ở tuổi xế chiều. Nhưng mà, thực sự giờ tôi mới nghiệm ra một điều, là với cha mẹ, dù mình có đi mòn cả lối đời cũng không thể nào thấu hết những tình thương yêu mà họ dành cho con cái. Không thể hết được đâu. Cho nên, dù ở vị trí nào, cũng chỉ biết sống cho tốt, cho thật tốt, thế mà vẫn cảm tưởng như tình cảm mình đáp lại cho mẹ cha cũng chỉ là gáo nước giữa đồng khô nắng cháy mà thôi. Những hình ảnh về cha hiện lên trong đầu, mắt tôi đỏ ngầu hoen lệ, chứa chan.


“Cha…”, tôi mở cửa phòng bệnh viện.

“ Gì đấy cu con, cha đây mà, cha có trốn đi đâu chớ, cái thằng này”. Cha vẫn gọi tôi như thế. Cả phòng bệnh đông lắm. Cha tôi ngồi dựa vào tường, tay đưa gói bánh cho đứa trẻ con ai ở giường bên, cha bụm bụm vào má nhóc con đó.


Tôi chạy lại, mặc kệ ai nhìn, mặc kệ là gì đi nữa, tôi ôm lấy cha. Tôi quay mặt vào tường, cho những giọt nước mắt lăn chảy không ai thấy, tôi nói trong tiếng nấc:


“Cha, xin lỗi cha, con đã quên……”.

Bệnh viện, âm thanh ồn ả vốn dĩ, mà sao tôi nghe yêu thuơng đập đầy nơi tim. …….

 

Đúng thế. Có trở-thành người cha, mới thấu-hiểu được lòng của Ông/Bà như câu truyện ở trên. Về lại với Đạo Chúa, niềm tin chỉ có được cách vững-chãi một khi ta nếm trải và thấy được Thiên-Chúa ngang qua các ẩn-dụ như thể Chúa đang đi cạnh ta, kể truyện và nếm được mùi vị ngọt-ngào của Ngài và ta được tháp-nhập vào với Chúa, như đoạn trích-dẫn dưới đây:

“Rất nhiều lần, ta cứ bị rơi vào bẫy-cạm của ngôn-ngữ nên đã sử-dụng đường lối rất thân quen về những chuyện đại loại như thế. Nhưng, tất cả vẫn là giòng chảy, không đổi thay. Và, ta không thể bắt chụp hoặc giữ chặt nó được. Đó, là thứ không-gian lưng chừng ở ngưỡng cửa phía dưới thấp, tục gọi là Chora (tức chốn miền thị-trấn rất quê nhà). Và khi đó, lại như thể có người đi bên cạnh cứ nói chuyện dụ-ngôn cho mình thưởng-lãm. Đây, là cảm-nghiệm về sử-dụng ngôn-ngữ một cách rất khác hẳn. Kiểu cách này, thường khiến ta bị xúc-động đến độ phải ngồi xuống một chốc lát, chẳng nói gì.

 Thế đó, là phản-ứng “nội-tại”, rất chức-năng. Người kể, lại sử dụng từ-vựng hoặc tuyên ngôn cùng dấu hiệu theo cung-cách riêng-tây của họ. Tức, đã ngưng không còn theo kiểu-cách của người kể hoặc sử-dụng ngữ-pháp theo phương-thức bình-thường nữa, nhưng lại nhìn thẳng mặt vào nữ-thần Medusa để thấy như thể bà ta vẫn chưa chết, nhưng rất đẹp. Và, miệng bà cười rất tươi, như reo vui thật diễm kiều… (x. Helene Cixous,The Laugh of Medusa). Kể truyện dụ-ngôn theo kiểu như thế, sẽ đặt mọi người vào trạng-thái có chút “nếm trải” cũng rất hay.” (X. Lm Kevin O’Shea CSsR, Niềm Tin: Nỗi-Niềm của Con Tim, Chương 2 Phần Iwww.giadinhanphong.com)

Và, nếm trải niềm tin-tưởng như một cảm-nghiệm khác theo nhận-định của đấng bậc trên ghi như sau:

“Các sử-gia xưa nay thường triển-khai ý-nghĩa của “viễn cảnh”. Đó là ảnh-hình mang tính thị-giác bao hàm một luận-cứ rất ưu-việt. Đôi lúc, nó rất xa vời lại không có rào cản nào xuất hiện ở chính giữa. 

Thật ra thì, sử-gia nhà ta lại ưa-thích lối viết đầy ẩn-dụ nhằm nắm-giữ sự vật xa vời qua một chọn-lựa mang sắc-mầu riêng-tư, đầy ẩn-dụ ức. Đó, là thực-tại khác hẳn tầm-nhìn của người ở vị-thế đứng trụ mà quan-sát. Tất cả, đều nhận ra điều này khi xem xét sự-việc theo “viễn cảnh” cũng rất thật. 

Có vị coi đó là chuyện “nếm trải”, tức: sử-dụng thứ ẩn-dụ khác hẳn. Bởi, “nếm trải” chẳng làm sao có được nghĩa đúng-đắn của thứ ngôn ngữ ta thường dùng. Xưa nay, ta vẫn ưa vẫn thích “mùi ngon/vị ngọt”, nhưng không “nếm trải” được gì, nếu không đưa nó vào miệng rồi nuốt ực, ngõ hầu thưởng thức nó cách tận tình. Và khi đó, ta lại sẽ kêu lên: “Ôi chao là ngọt!” hoặc: “Úi chà! Sao mà đắng thế?” Hoặc: “Cay ơi là cay!”… Cũng có thể, chất ta “nếm trải” lại không thuận/hợp với ta; hoặc: ta chẳng ưa thích nó chút nào. Vấn đề là: mùi ngon/vị ngọt ấy, sẽ loại bỏ mọi khoảng cách, để rồi có người lại dõng-dạc tuyên-bố: “Ăn gì, bạn sẽ là người ấy!” 

Thời Trung-cổ, truyền-thống phổ-đại chuyên sử-dụng ngôn-ngữ ẩn-dụ, như từ-vựng “nếm trải” ta nghe/biết về Chúa. Đây, là khía-cạnh phổ-cập cũng rất thường, vào buổi trước; tức: thời, mà con người có “cảm-giác linh-thiêng” như vật-thể hữu-hình, tựa hồ như thế. “Cảm-giác linh-thiêng”, điều-động bằng giác-quan tổng-thể hệt như một giao-hưởng-khúc gồm đủ mọi giác-quan thay cho ẩn-dụ. Chìa khoá chính cho giác-quan tổng-thể này, không là thị-kiến tạo nên vị-giác tổng-hợp, nhưng là thứ vị-giác thiêng-liêng linh-đạo. Xem như thế, ta trở thành bản-vị có đính-kèm vật-thể mà ta lĩnh-hội được theo cung-cách linh-thiêng giống hệt như thế. 

Nói tóm lại, Chúa để lại “mùi ngon/vị ngọt” nơi ta. Chúa có “mùi vị ngon ngọt” của riêng Ngài, ở mọi thời. Truyền-thống nhận định theo giác-quan như thế lại rực-sáng hơn, khi các đan-sĩ khổ-hạnh như người anh em hèn mọn Dòng Xitô lưu ý (đặc biệt là thánh Bernađô thành Clairvaux, đấng thánh hiền lành được biết nhiều dưới danh hiệu là “Tiến-sĩ-Mật” rất nổi cộm mà anh em đồng môn gọi ngài bằng danh-xưng rất gọn như: “Mật Huynh” cho “tiện bề sổ sách”; và truyền thống này, lan tràn sang các nữ-tử dòng Bê-ganh cũng như các tu-sinh dòng nữ ở mạn Bắc nước Đức, rất đặc biệt.” (Nguồn:“Hãy nếm và xem Thiên Chúa ngọt ngào dường bao.”(Tv 33: 9): The flavour of God in the monastic West,Rachel FultonJournal of Religion vol. 86, N.2, p. 169-ff)

Và, thêm một “nếm trải” khác cũng lạ-kỳ không kém, vẫn được đấng bậc ở trên khẳng-định rằng:

“Ẩn-dụ “nếm trải” được diễn-tả như vui thích, thoải mái mang tính-chất rất chữa lành ngõ hầu dẫn đưa người hiệp-thông rước Chúa sẽ được tháp-ghép vào cơ thể Ngài để gắn bó cho chặt. Tin như thế, là hiểu rằng: để được sống còn, ta cần có và cần chọn cảm-giác ngọt ngào, vẫn rất ngon. Ta còn tiến xa nhiều hơn là chỉ “nếm trải” Chúa rất đích thực, đến độ ta trở nên giống như Chúa. Trở nên con cái của Chúa. Bởi, khi có được sự khai sáng ấy, đã thấy nhiều người có được chọn lựa cả về thị giác lẫn vị-giác, tức tập trung không chỉ vào “nhãn quan”, mà thôi. Một khi ta gặp loại hình thực phẩm mới mẻ nào đó và được mời ăn thử, thì cũng sẽ có đổi thay cũng rất mới.

 Như thế là, ta có thể tháp-ghép vào chính con người mình những gì khả dĩ giết chết hoặc chữa lành, những gì làm cho ta thêm bệnh hoạn hoặc nuôi ta cho tốt. Có chuyện ngộ nghĩnh là chất đường ngọt ngào lần đầu tiên được sản xuất theo số lượng lớn lao, là vào thế kỷ thứ 19-20 tại Anh quốc và nước Mỹ: cũng vào thời bấy giờ người người đã thấy mất mát đáng kể về tôn-giáo, lẫn niềm tin.

 Ngôn-ngữ sử dụng cho giòng chảy ở dưới mang một chút dáng dấp có hơi Mỹ-quốc, nhưng cũng là lập trường đáng để ta quan tâm.” (X. Lm Kevin O’Shea CSsR, bđd)

Thế đó là những ví-dụ cụ-thể về tương-quan có “nếm trải” ở cuộc đời con người. Tương-quan giữa người với người được diễn-tả bằng những lập-luận về đạo-đức, triết-lý, và cả đến truyện kể ở chốn dân-gian phàm trần nhiều trải-nghiệm. Tương-quan ấy, còn được toả-lan rộng khắp bằng 4 bộ-môn nghệ-thuật như cầm, kỳ, thi, hoạ. Chí ít là, thi-ca và âm-nhạc như ca-từ được dẫn sau đây:

“Tình đã len trong mầu nắng mới,”
Lòng anh buồn vời vợi em ơi.
Niềm ái ân rung động trên môi,
Tình đâu khôn lựa nên lời thắm tươi.

Ðã héo lắm nụ cười trong mộng

Ðã mờ dần hình bóng thân yêu

Ðã lam tím cả cảnh chiều

Trong hồn lặng đã hiu hiu mộng tàn

Ðể gối chăn nằm yên chốn cũ

Hãy lịm người trong thú đau thương.


Tình đã không một lần nữa tới

Nhìn nhau buồn vời vợi em ơi

Rượu ái ân em cạn trên môi

Lệ anh xin nhỏ nên lời đắng cay.

 Hãy xếp lại muôn vàn ân ái

Ðừng thương nhau đừng ái ngại nhau

Thuyền yêu không ghé bến sầu

Như đêm thiếu phụ bên lầu không trăng

Thành kiếp sao còn băng mãi mãi

Ðể lòng buồn mãi mãi không thôi.”

(Phạm Duy/Lưu Trọng Lư – bđd)

 Quyết thế rồi, nay mời bạn/mời tôi, ta cứ thế mà hiên-ngang tiến về phía trước mang theo trong mình những quan-điểm/lập-trường mình sẵn có. Để rồi, sẽ cùng người anh người chị ở thánh-hội Nước Trời mãi mai vui tươi thực-hiện một sống đạo rất tuyệt vời.

Thế đó, là ý/lực xin được gửi tới mỗi người và mọi người thích đọc những giòng chảy rất phiếm, hôm nay và mai ngày, trong cõi thế.

Trần Ngọc Mười Hai

Vẫn chỉ muốn chuyển-tải

Những gì mình tâm-niệm

Bấy lâu nay

Mà thôi.

Hãy quỳ lạy nhìn xem cho sướng đã,

Suy Tư Tin Mừng Tuần thứ 28 thường niên năm C 09/10/2016

Tin Mừng (Lc 17: 11-19)

 Trên đường lên Giêrusalem, Đức Giêsu đi qua biên giới giữa hai miền Samari và Galilê. Lúc Người vào một làng kia, thì có mười người phong hủi đón gặp Ngài. Họ dừng lại đằng xa và kêu lớn tiếng:

Lạy Thầy Giêsu, xin dủ lòng thương chúng tôi!”Thấy vậy, Đức Giêsu bảo họ:

“Hãy đi trình diện với các tư tế.”

Đang khi đi thì họ được sạch. Một người trong bọn, thấy mình được khỏi, liền quay trở lại và lớn tiếng tôn vinh Thiên Chúa. Anh ta sấp mình dưới chân Đức Giêsu mà tạ ơn. Anh ta lại là người Samaritanô. Đức Giêsu mới nói:

“Không phải cả mười người đều được sạch sao? Thế thì chín người kia đâu? Sao không thấy họ trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại bang này?”

Rồi Ngài nói với anh ta:

“Đứng dậy về đi! Lòng tin của anh đã cứu chữa anh.” 

 * * *

“Hãy quỳ lạy nhìn xem cho sướng đã”,

Không gì tiên cho sánh kịp bường thơ.

Tính chất thanh mà phẩm vật không ngờ,

Rất ưa-chuộng màu nhơn-đức sạch-sẽ.”

(Dẫn từ thơ Hàn Mặc Tử)

Mai Tá lược dịch.

“Nhơn đức sạch sẽ” và “tính chất thanh”, phải chăng nhà thơ nay cũng có tâm-sự của người bệnh-hoạn mà Chúa gặp trên đường làng? Đường làng Chúa đi, Ngài gặp đủ mọi người bệnh. Bệnh thể xác, bệnh tâm-hồn. Gặp cả những người có “nhơn đức sạch-sẽ”  cần “phiêu-diêu trong gió nhẹ”, như trình-thuật mới vừa đây.

Trình-thuật vừa đây, như có muôn vàn lời dạy của Đức Chúa nghe rất quen. Lời dạy Chúa gửi đến với mọi người ở phố chợ lẫn kinh-thành. Lời Chúa dạy hôm nay, cò đính kèm những hỏi-han rất chân-tình: “Không phải mười người đều được sạch cả sao?” (Lc 17: 17)

Theo trình-thuật, có đến những mười người bệnh kêu-cầu được Chúa chữa lành. Ngài làm thế, là để đưa người bệnh trở về lại với xã-hội bình-thường, với cộng-đoàn tình-thương Ngài luôn mến mộ.

Người bệnh ngặt-nghèo hôm nay, là một Samaritanô khác, vẫn người ngoài Đạo. Vì ở ngoài, nên người bệnh hôm nay chẳng thể nào được coi là có “nhơn-đức sạch-sẽ” dưới cặp mắt nhà Đạo. Dù có là Samaritanô, Hy Lạp hay Do-thái được Chúa chữa lành, đã mấy ai biết quay trở về! Quay về, dù chỉ để nhìn-nhận ơn lành đã khỏi bệnh. Hay chỉ để chiêm-ngưỡng dung-nhan Đấng chữa lành cứu vớt mà ngợi-khen.

Có nhìn-nhận đó là ơn lành hay không, vấn-đề đặt ra vẫn là: Chúa nghĩ sao, khi có kẻ quay về cảm-kích, biết ơn như người Samaritanô rất ngoài Đạo? Vâng. Chúa vẫn thường bảo: “Hãy đứng dậy mà đi! Lòng tin của anh đã cứu-chữa anh.”

Lời vàng hôm nay, Chúa kêu gọi người còn bệnh-hoạn hay đã được chữa-lành, là: “Hãy đứng dậy mà đi!”Hãy đi mà lập lại cuộc đời, có đổi mới. Đổi mới, theo đường-hướng Ngài đã chỉ-dẫn. Đổi mới, không chỉ kinh-nghiệm rất thực về thể-lý mà thôi. Nhưng, còn tái-tạo tương-quan tốt với người đồng loại, với Cha, với Chúa.

Tái-tạo tương-quan, là đem hy-vọng đến trên những người đang mang tật bệnh. Bệnh phong, bệnh lở ghẻ theo kiểu Lazarô và các bệnh khác nơi tâm tưởng, như: kỳ-thị, áp-bức, hờn căm. Như: khai-thác/bóc lột kẻ thua kém, sống phè-phỡn, những xa-hoa.

Tật bệnh phong cùi kể ra đây, đâu đáng sợ bằng thái-độ của người tự cho mình “hơn hẳn”. Cho rằng mình thuộc giới quí-phái/đạo-hạnh. Những người vẫn tự-tôn, tự đại, khinh-khi, có thành-kiến. Tật bệnh phong cùi ngày nay, là thái-độ của những người vẫn không chấp-nhận đồng-hành với những ai thấp-kém thua mình. Của những người mà ta vẫn gặp trên đường làng, chạy theo chân Chúa chỉ để bới móc, phân-bua.

Người mắc phong cùi hôm nay, còn là người bệnh mới chớm SIDA, cúm gà, ho lao, ung-bướu, thôi đã thấy bức tường phân-cách, ly-tan như ở Bá-Linh, Gaza , hoặc tường rào cốt sắt, sát biên-giới nước Mexicô nghèo?

Tật bệnh phong cùi hôm nay không chỉ là tật bệnh ngoài da hiếm thấy nơi xã-hội phương Tây, nhưng vẫn là căn bệnh thấm dần nơi tâm-khảm làm con người trở nên chai sạn. Chai đá đầy sạn/sỏi, ngay trong lòng nhà Đạo, dù ngày ngày vẫn cầu mà không nguyện.

Chai sạn bệnh-tật hôm nay, diễn-bày nơi thái-độ của giới cầm-quyền Đạo/đời chỉ biết có luật và lệ, chỉ chú-tâm đến trật-tự lớp lang, hầu giành quyền huy-động, bảo ban. Đó là thứ “cùi phong/ghẻ lở” thấy rất nhiềy ở mọi nơi.

Nhưng vấn-đề đặt ra là: nếu bắt buộc phải ở cạnh hoặc sống chung với những người bệnh nan-y hôm nay, ta có cả gan ra tay nâng-đỡ hoặc ôm hôn họ, hay không? Ôm hôn, nâng đỡ hay vẫn chạy trốn mỗi khi thấy người cùi rung chuông, cảnh-báo?

Người giang tay chực chờ ta đỡ nâng/giùm giúp là nạn-nhân của tật-bệnh quái-đản, tựa phung hủi, SIDA, đồng tính luyến ái, vv.. vẫn cần ta loại bỏ thái-độ chê-bai, kỳ-thị, hoặc lẩn-tránh. Người tật bênh hôm nay, vẫn mong người đời thay-đổi thái-độ đối với chính mình trong giao-tiếp. Thay-đổi tương-quan lạnh nhạt như các luật-sĩ, Pharisêu khi xưa vẫn làm.

Là môn đệ theo chân Chúa lên đường rao-giảng, ta không chỉ thấy cần mỗi việc thăng-tiến con người, mà thôi. Dù, có là thăng-tiến quyền-lợi của những người bị coi là khác văn-hoá, đạo-giáo hoặc tâm-linh, thể-lý. Nhưng, vẫn nghe lời Đức Chúa dặn-dò “Hãy đi mà trình-diện với các tư-tế”. Trình-diện với các tư-tế, để chứng-tỏ là mình được chữa lành, tức: có “nhơn đức sạch sẽ”, đã gột bỏ mọi hãi-sợ. Không còn thái-độ làm ngơ, xa lánh người bệnh nữa; nhưng đã biết khoan-dung. Khoan-dung gột sạch, thể-hiện đúng như lời thánh Phaolô trong thư gửi người đồ-đệ: “Vì Tin Mừng, tôi chịu khổ, tôi phải mang cả xiềng xích!… Bởi vậy, tôi cam chịu mọi sự, để mọi người đạt ơn cứu vớt trong Đức Kitô, hưởng vinh-quang muôn đời.” (2Tm 2: 9-10).

Để mọi người đạt ơn cứu-vớt và chữa lành, là đã tự gột tẩy chính mình để có được “nhơn đức sạch sẽ” hầu “đứng dậy mà đi” thực-hiện Lời Chúa đã khuyên dạy. Thực-hiện Lời Ngài khuyên dạy, sẽ không còn coi rẻ, đào-thải khỏi xã-hội và giáo-hội, những người xưa nay bị chê-bai, nhờm tởm và xa lánh những người bệnh phong cùi, của thời-đại.

Phong cùi thời-đại, đôi khi lại chính là con/cháu, bạn bè hoặc những người mà ta đang chung sống trong cộng-đồng, khác màu da, khác văn-hoá và đạo-hạnh. Những người đang khốn-khổ vì phong-cách ta đối-xử với họ. Giả như, các bé câm điếc bẩm-sinh, các trẻ bị hội-chứng Down, hay người đồng tính luyến ái, bị xã hội ruồng bỏ, có đến gần, ta sẽ xử sự với họ như thế nào? Phải chăng vẫn cứ trách-móc với phân-trần: “Sao Chúa để người của tôi ra như thế này?”

Vâng. Cũng như người Samaritanô bệnh tật, mọi người trong cộng-đoàn ta chung sống, cần được cứu vớt và chữa lành. Chữa lành hoàn-toàn, không còn những gì độc-hại từ hệ-thống tân-kỳ, của ngày hôm nay. Hệ-thống, chuyên bóp méo mọi tương-quan tốt đẹp ta đang có với mọi người chung quanh.

Tham-dự Tiệc Thánh hôm nay, ta cầu mong cho thế-giới sẽ không còn những kẻ bị đào-thải ra khỏi xã-hội và Giáo-hội. Không còn ai bị đối-xử như người phong cùi, phải xa lánh nữa.

Lm Richard Leonard sj biên-soạn –  

Mai Tá lược dịch.

“Nếu chúng ta kiên tâm chịu đựng, chúng ta sẽ cùng thống trị với Đức Kitô”.

“Nếu chúng ta kiên tâm chịu đựng, chúng ta sẽ cùng thống trị với Đức Kitô”.   2 Tm 2, 8-13

Tuyết Mai

Con người trải qua bao nhiêu thời đại, bao nhiêu thế kỷ thì mẫu số chung của con người vẫn là thích sống phục dịch cho cá nhân của mình, cho tấm thân hay chết của mình để rồi Hỏa Ngục là nơi luôn chôn sống linh hồn của con người đời đời kiếp kiếp không có ngày ra.   Bởi thực tế của sự giầu sang, sung sướng, có người hầu kẻ hạ, có nhà cao cửa rộng, có của cải chất đống đầy, có tiền xài phung phí, muốn gì được nấy ngay … Thì thử hỏi ai mà không thích muốn có?.

Từ cái sự giầu của cải thì con người lại muốn có danh vọng, có quyền lực trong tay rồi thì nó gắn liền với sự tham lam, muốn lấy của người làm của mình.   Vâng, khi sự giầu có ấy rất thường làm cho con người ta đi đến sự sa đọa, mất đi nhân tính, mất đi sự bác ái tối thiểu cần phải có ở một con người.   Trở thành người vô cảm, vô đạo đức vì nó đi liền với phá thai và giết hại người để mình được cai trị và thống lãnh đất đai nơi mình làm Chủ.

Chớ có đâu lại ngược ngạo là con người ta đi tìm sự thiếu thốn, đau khổ và cam chịu với số phận không mấy may mắn của mình nhất là bị người đời khinh chê.   Và nhất là không có được cuộc sống thoải mái mà không đổ mồ hôi, nước mắt ra mới có được … Chớ làm sao lại được giầu có sung túc như bao người khác.   Do đó mà chuyện ganh ghét nhau xẩy ra là sự thường tình giữa người giầu có và người nghèo.

Nhưng làm người thì có mấy ai chịu chấp nhận cái thua thiệt, cái thiếu thốn, cái yếu kém hay cái thiếu khả năng của chính mình bao giờ? Mà không là sự cố gắng không ngừng dù sự cố gắng ấy có nguy hiểm đến tánh mạng hay nguy hiểm cho linh hồn sống đời của mình, thưa có phải?.   Ai bảo rằng sự cố gắng kiếm tiền nơi chúng ta không có sự suy nghĩ chín chắn trước khi làm điều gì? Thưa có chứ nhưng sự chọn lựa ấy nếu không có Chúa ở cùng thì nó chỉ dẫn đến Sự Dữ và mất linh hồn mà thôi.

Hiện tại và tương lai của lớp trẻ con người mai hậu có nên tốt lành hay có nên xấu đi hơn thì chúng ta cũng phải thừa nhận là chúng xuất phát từ nơi gia đình của từng người chúng ta mà ra.   Chúng ta không thể đổ thừa cho ai khác cả vì chúng ta thiếu trách nhiệm và bổn phận làm cha mẹ trong gia đình.   Đẩy mọi trách nhiệm cho trường học, cho ông bà, cho người giữ trẻ và cho chính phủ phải gánh vác thì xin thưa càng ngày những người trẻ chúng học từ những người trông coi chúng.

Là thành phần thiếu đạo đức, thiếu sự giáo dục về đức dục trong học đường, thiếu nền tảng đạo đức ngay từ trong gia đình thì làm sao đòi hỏi những đứa trẻ chúng nên tốt cho được? Nói chi chúng bị đẩy ra ngoài xã hội khi chúng đã ở tuổi trưởng thành là khi chúng đã tốt nghiệp đại học.   Trong khi đạo đức là nền tảng cần phải có từ khi chúng ở tuổi còn rất nhỏ.

Chúng cần phải được giáo dục là có Thiên Chúa là Đấng vô cùng quyền năng hằng hữu và vô cùng yêu thương con người.   Chúng cần phải được giáo dục là có Thiên Đàng, Luyện Ngục và Hỏa Ngục từ khi chúng có sự hiểu biết thì khi chúng làm việc gì hay điều gì trái với lương tâm thì chúng cũng tự hỏi lòng là sự việc ấy có giúp ích cho linh hồn của chúng được sống muôn đời ở đời sau hay làm nguy hại cho linh hồn của chúng phải bị tù chung thân nơi Hỏa Ngục đọa đày?.

Vâng, chúng trẻ thời nay hơn bao giờ hết là rất cần được học biết là có Thiên Chúa hiện hữu vì Người là Đấng luôn yêu thương chúng ta.   Người không bao giờ muốn mất chúng ta vào tay quỷ dữ như cha mẹ trần gian không bao giờ muốn điều gì dữ tợn hay vô cùng đau thương mà con cái chúng ta rất yêu thương phải gánh chịu một mình.   Bởi dễ hiểu vì cha mẹ trần gian ai cũng có giới hạn chớ không như Thiên Chúa vô cùng của chúng ta ở trên Trời, Người chỉ luôn muốn ban phát cho tất cả chúng ta mọi điều lành mà thôi.

Nguyện xin Thiên Chúa ở trên tòa cao, xin thương ban cho tất cả chúng con được hằng ngày dùng đủ.   Sống sao cố gắng làm cho Danh Chúa được cả sáng, Nước Cha trị đến, ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên Trời cùng được sống bên Mẹ Maria, Mẹ Chúa Trời và là Mẹ của toàn thể nhân loại chúng con.

Nguyện xin Mẹ Maria gìn giữ xác hồn của chúng con ngày đêm cùng dạy dỗ cho chúng con biết làm điều lành tránh điều dữ để hằng ngày chúng con có được cuộc sống an vui, hạnh phúc vì biết rằng Mẹ và Thiên Chúa luôn yêu thương chúng con hôm nay, ngày mai và mãi mãi ở muôn đời sau.   Amen.

Y Tá của Chúa,

Tuyết Mai

7 tháng 10, 2016

Ánh mắt nhân hậu của người Nữ Tu đang nói gì với con người hôm nay?

Ánh mắt nhân hậu của người Nữ Tu đang nói gì với con người hôm nay?

Trần Phong Vũ

7-10-2016

Tín điệp của một nữ tu

Ảnh chụp nữ tu xuống đường biểu tình phản đối Formosa hôm 2-10-2016. Nguồn: Facebook.

Bám sát những bản tin nóng trên mạng sáng Chúa Nhật 2 tháng 10 vừa qua, người viết vô cùng xúc động khi bắt gặp tấm hình trên đây trong bài tường thuật kèm theo hình ảnh sống động, mô tả quang cảnh cuộc xuống đường ôn hòa của hàng chục ngàn đồng bào Kỳ Anh trước nhà máy của tổ hợp gang thép Formosa.

Hình một nữ tu trẻ trang phục đen mang cổ áo trắng trước đám đông cảnh sát cơ động (CSCĐ). Tay phải cô cầm trang giấy, tay trái chỉ vào hàng chữ: Hủy hoại môi trường là một tội ác – Vì Công Lý, hãy đứng lên! ĐỪNG SỢ!

Tôi không rõ tên tuổi, lý lịch và Nhà Dòng cô đang tu học. Tôi cũng không biết trong rừng người lớn bé, già trẻ, nam giới, nữ giới, bất chấp họng súng của công an mật vụ buổi sáng hôm ấy, ngoài cô còn có những nữ tu nào khác?

Nhưng điều này với tôi, không quan trọng. Chỉ một tấm hình đơn độc này[1] đã đủ nói lên tất cả ý nghĩa trầm lắng thác ngụ bên trong nó về một suy tư, một tác động, một phản ứng dây chuyền có thể có đối với từng trái tim, từng nhân thể trong đám đông nhân loại hôm nay. Dĩ nhiên có công luận khắp nơi qua ống kính báo giới quốc tế. Cụ thể là người Việt Nam, những người cùng mang chung dòng máu Việt tộc như cô.

Cũng trong số ấy, có một người đáng tuổi ông nội, ông ngoại cô đang mò mẫm trên máy vi tính ghi lại những dòng này, đêm nay.

Với tâm tư, trí não héo úa bị bào mòn từng phút giây theo quy luật bất biến của thời gian, của định mệnh con người, nhưng may mắn Thượng Đế còn cho chút hơi sức và sự minh mẫn cuối đời để tôi gõ những con chữ trên bàn phiếm, mong làm bật lên trong muôn một những ‘tiếng nói không lời’ ẩn giấu bên trong ánh mắt nhân hậu mà người nữ tu muốn gửi tới cho đồng bào cô, nói chung, con người hôm nay.

Hủy hoại môi trường là một tội ác

Môi trường ở đây chỉ điều kiện thuận lợi về khung cảnh sống của con người. Như thế, hủy hoại môi trường là hành vi xúc phạm tới thiên nhiên (đất, nước, biển, không khí), là một tội ác – nếu không muốn nói là Đại Ác – đối với nhân loại!

Con người, ngoài thân xác còn có phẩm giá, là vốn quý tạo hóa ban cho. Ý thức điều này hơn tất cả ai khác, Mẹ Têrêsa thành Calcuta, Ấn Độ đã dâng hiến trọn đời để chăm lo, săn sóc những kiếp người cùng khổ. Khi chọn con đường tu trì, người thiếu nữ có cặp mắt và nét cười nhân hậu trong tấm hình trên hẳn cũng cưu mang trong lồng ngực mình trái tim của Mẹ. Từ đấy, cô đã chia sẻ đến tận cùng nỗi đau của đồng bào, trong số đó có những tín hữu của cô, khi chứng kiến thảm họa cá chết phơi trắng hơn 200 cây số trải dài bãi biển bốn tỉnh miền Trung quê hương cô từ hôm 06-4-2016.

Cá không phải tự nhiên chết.

Nguyên do khiến cá bị lấy đi sự sống vì cái ác ẩn sâu trong tim đen những con người mang tâm địa quỉ dữ. Nó không chỉ xuất hiện hôm nay. Nó đã có mặt để trực tiếp phá phách con người từ tạo thiên lập địa. Tương tự như bàn tay nhám nhúng vào ruộng lúa của người Do Thái theo “dụ ngôn cỏ lùng” trong Kinh Thánh Tân Ước[2].

Khởi từ niềm cảm thông sâu xa ấy, thôi thúc cô mang nguyên tu phục hòa nhập với đám đông đồng bào, đồng đạo giáo xứ Đông Anh xuống đường hôm Chúa Nhật 02-9 để cùng mọi người bày tỏ thái độ, nói lên quan điểm: Hủy hoại môi trường là một tội ác!

Tội ác không đơn thuần gây ra cái chết của biển, của cá, của người.

Nó chỉ là cái ngọn của nan đề. Dưới đáy sâu của tảng băng chìm, hàm ẩn bốn cái chết của lương tâm, luân lý, lý trí và chính trị như nhận định của Đức Cha Ngô Quang Kiệt, nguyên TGM Hà Nội trong cuộc viếng thăm Vũng Áng gần đây[3].

Thủ phạm trực tiếp hủy hoại môi trường biển bốn tỉnh miền Trung là tập đoàn gang thép Formosa, với sự đồng lõa của những kẻ tham nhũng bán nước, mang lòng dạ dã thú ở Ba Đình. Tác hại của nó không chỉ cướp đi nghề nghiệp, cơm ăn, áo mặc, sức khỏe, gây bệnh tật chết chóc cho đồng bào ngay lúc này. Hơn thế nó còn để lại những di lụy khủng khiếp cho nhiều thế hệ mai sau như kinh nghiệm tìm thấy trong bài viết “Từ Minamata (Nhật Bản) tới Vũng Áng (Việt Nam)…” chúng tôi đã chỉ ra mới đây.

Khi phơi bày trên tấm giấy in suy nghĩ này trong buổi xuống đường sáng Chúa Nhật 2 tháng 10, trước hết người nữ tu trẻ muốn nói rõ tâm tình, quan điểm của cô với những kẻ có ác tâm hủy hoại môi trường biển. Để cảnh cáo họ và cũng để thông tri cho thế giới loài người cùng biết. Không ngừng ở đấy, cô còn muốn gửi một tín điệp để đánh thức lương tri nhóm CSCĐ đang vây quanh, kể cả đám an ninh mặc thường phục, các thành phần du đãng bị mua chuộc và cả lũ dòi bọ ‘dư luận viên’ đang len lỏi, quấy phá cả chục ngàn đồng bào tham gia biểu tình chống Fomosa, thủ phạm hủy hoại môi trường biển. Dĩ nhiên trong đó bao gồm cả tập đoàn tham nhũng, bán nước Hà Nội.

Vì Công Lý & Sự Thật, hãy cùng nhau đứng dậy!

Cho dù ở cương vị một nữ tu yếu đuối, nhưng vì mang sẵn tinh thần của cố LM Chân Tín, các Linh Mục Nguyễn Văn Lý, Phan Văn Lợi, cố TGM Nguyễn Kim Điền, nguyên TGM Ngô Quang Kiệt, cố GM Lê Đắc Trọng, nguyên GM Hoàng Đức Oanh, GM Nguyễn Thái Hợp (Việt Nam), GM Nguyễn Văn Long (Úc Châu)…, cô hiểu rằng: trước khi rửa tội để trở thành tín hữu Công giáo, trước khi dâng hiến cuộc đời vào nhà dòng thành một nữ tu, vốn dĩ cô đã là người mang giòng máu Việt Nam. Cô tự thấy mình không thể buông xuôi không làm gì để cam phận là con người vô cảm trước nỗi bất hạnh của tha nhân, nhất là khi tha nhân không phải ai khác mà là người đồng hương ruột thịt chung màu da tiếng nói với cô.

Chính từ những cảm nghiệm ấy, chuyện cô chia chung niềm đau của ngư dân trước thảm họa môi trường bị hủy hoại đưa tới cảnh biển chết, cá chết, người chết, không chỉ là mối giao cảm mang tính thế tục giữa đời thường. Xa hơn, nó còn là một trách nhiệm liên đới chuyên chở giá trị tinh thần khơi nguồn từ giáo huấn trong Thánh Công Đồng Chung Vatican II, mà Giáo Hội cô đòi buộc[4].

Không nói ra miệng, nhưng các tu sĩ Dòng Chúa Cứu Thế, từ cha nguyên Giám Tỉnh Phạm Trung Thành tới cố LM Vũ Khởi Phụng, các LM Lê Quang Uy, Đinh Hữu Thoại, Nguyễn Văn Khải, Lê Ngọc Thanh, Nguyễn Ngọc Nam Phong… và các cha Triều như LM Đặng Hữu Nam, Trần Đình Lai… đều cùng có chung một tâm niệm.

Phát xuất từ ý thức cao độ mang tính thánh thiêng ấy, cô chỉ vào tờ giấy mang trên tay trong khi theo chân hàng chục ngàn người xuống đường đòi hỏi công lý và sự thật, nhằm mục tiêu nhắc nhở mọi người rằng: Công Lý phải được thực thi.

Từ đấy, nhân danh một nữ tu nhỏ bé, cô mời gọi toàn thể đồng bào, thuộc mọi tôn giáo, mọi giai tầng xã hội hãy nhất tề đứng dậy, triệu người như một, quyết liệt đòi hỏi kẻ ác phải hồi tâm và tập đòan ăn trên ngồi trước, -lâu nay chuyên đè đầu cưỡi cổ bức hiếp lương dân-, phải trả lại cho họ tất cả những quyền năng thiêng liêng của con người mà Thượng đế đã ban cho từ khi còn là một bào thai trong lòng mẹ.

Những quyền năng bất khả chuyển nhượng này từng được giáo dân Phú Yên đồng loạt lên tiếng kêu đòi khi họ cùng vị Linh Mục chánh xứ ca vang bản nhạc “Trả lại cho dân” của cố nhạc sĩ Việt Dzũng trong một Thánh Lễ cầu nguyện cho các nạn nhân. Đây cũng là thời gian chuẩn bị hồ sơ pháp lý, chuẩn bị phương tiện để truy tố Formosa và những thế lực gian ác đứng đàng sau đã gây ra thảm họa môi trường cho người dân bốn tỉnh miền Trung. Hiển nhiên khi cất tiếng đồng ca bàn nhạc này, các nạn nhân muổn nhắn gửi tập đoàn lãnh đạo đảng và nhà nước cộng sản Việt Nam, cách riêng Tòa án Kỳ Anh, nơi họ sắp nạp hồ sơ khiếu kiện:

“Trả lại đây cho nhân dân tôi – quyền tự do – quyền con người – quyền được nhìn, được nghe, được nói.

Quyền được chọn chân lý tự do

Quyền xóa bỏ độc tài, độc tôn

Trả lại đây! – Quyền phúc quyết của toàn dân

Dân biết điều gì dân cần – để tự do mưu cầu hạnh phúc.

(…)

Đừng sợ!

Thấu rõ tâm trạng âu lo, sợ hãi của con người, từ hơn hai ngàn năm trước, Chúa Giêsu Cứu Thế, Đấng khai mở kỷ nguyên Tân Ước, trong những năm rao giảng Tin Mừng Nước Trời cũng như các dịp hiện ra cùng các môn đệ sau khi phục sinh, hàng trăm lần đã lên tiếng trấn an đám đông dân chúng theo Ngài: “ĐỪNG SỢ!”

Trong những lần trở về thăm quê hương trước khi nổ ra biến cố Đông Âu, chấm dứt chế độ cộng sản tại cái nôi của chủ nghĩa Mác-xít Lê-nin-nít là Liên Bang Xô-Viết, đứng trước đám đông giới lao động thuộc Công Đoàn Đoàn Kết Ba Lan (và trong các Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới sau này), rất nhiều lần Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II cũng đã lập đi lập lại điệp khúc này: “ĐỪNG SỢ!”

Như thế từ ngàn xưa sự sợ hãi vốn đã là một chứng bệnh thâm căn cố đế của con người, chẳng từ ai. Nhưng khi con người bị áp đặt dưới những chế độ độc tài phi nhân tính thì với mưu toan thâm độc, những thủ đoạn tàn ác, coi rẻ mạng sống người dân, tâm trạng sợ hãi này càng gia tăng thập bội. Lâu dần nó trở thành quán tính. Hệ quả trực tiếp là nó tước đi khỏi con người lòng tự trọng, khiến cho khả năng tự đề kháng không còn, để mặc nhiên biến thành những kẻ nô lệ, cam tâm chấp nhận mọi thứ đòn thù của chế độ gây ra cho mình, cho tha nhân.

Người dân trước nỗi sợ hãi

Những chỉ dấu lạc quan chừng mực

Quan sát mối tương quan giữa quần chúng và chế độ cộng sản trong những năm gần đây, mặc dầu cung cách cai trị bằng bạo lực của Hà Nội trên căn bản không thay đổi, quần chúng nói chung đã bớt sợ hơn. Người dân gặp chuyện oan khuất đã biết và dám tìm đến bên nhau, tìm sự nương tựa để chống lại những thế lực tham lam, gian ác.

Nông dân từ các tỉnh miền Bắc lũ lượt kéo về vườn hoa Mai Xuân Thưởng ở Hà Nội để đưa đơn khiếu kiện. Cùng lúc những “Bà Mẹ” sống quanh vùng đồng bằng sông Cửu Long ở miền Nam từng một thời được chế độ coi là người ơn của “cách mạng”, sau khi bị chính chế độ trở mặt cướp bóc tài sản, ruộng nương cũng theo nhau tìm về khu vực nhà thờ Đức Bà Sài Gòn nơi có cái gọi là Văn Phòng II Quốc Hội để kêu đòi công lý. Từ đấy những cuộc đấu khẩu tay đôi giữa người dân thấp cổ bé miệng trước cửa quyền, với viên chức các cấp trong ngành an ninh thường xuyên diễn ra công khai. Đây là những chỉ dấu khác thường, hiếm thấy vài thập niên trước.

Khỏang tháng 6 tháng 7 vừa qua, một buổi sáng giữa phố phường Hà Nội, du khách và cư dân đã có dịp chứng kiến quang cảnh công an, an ninh chìm nổi sững sờ đứng nhìn bà Giáo Thảo trang phục màu tráng, xắn tay áo cất tiếng nêu đích danh chửi những tên đầu sỏ của chế độ đã sai bọn đầu gấu ngăn cản bà đi biểu tình chống thảm nạn môi trường biển bị hủy hoại. Câu chuyện gia đình Đoàn Văn Vươn ở Hải Phòng, trường hợp bà con Dương Nội công nhiên chống lại lực lượng công an bộ đội võ trang hỗ trợ bọn tài phiệt nước ngoài lấn chiếm đất đại, cướp đoạt tài sản của họ là những chỉ dấu cụ thế cho thấy người dân ngày nay đã dám trực diện đương đầu với cường quyền, bạo lực.

Cho đến tháng 5-2014 khi Bắc Kinh trắng trợn điều giàn khoan khủng vào sâu lãnh hải trong vùng đặc quyền kinh tế Việt Nam thì tình trạng bớt sợ hãi giảm thêm một mức đáng kể. Cả ngàn thanh niên sinh viên rầm rộ xuống đường ở Sài gòn, các tỉnh lân cận, kể cả ở Vũng Áng nơi được coi là nhượng địa cho Tàu, với khẩu hiệu và biểu ngữ công khai chống Trung Cộng xâm lăng. Tại một số nơi đã có bạo động, một số doanh nghiệp làm ăn của Tàu cộng đã bị đập phá. Máu đã đổ. Có người đã chết. Nhìn chung trong một chừng mực nào đó, phía nhà cầm quyền tỏ ra đã biết tự chế trước sự phẫn nộ của quần chúng.

Căn nguyên nào khiến chế độ chùn bước trước phản ứng của người dân?

Nhìn chung, vì xu thế đã đổi khác.

Trước hết là những mâu thuẫn đấu đá trong nội bộ cấp cao của đảng và nhà nước ngày càng bộc lộ dẫn tới tâm trạng bất bình, bất tín đối với guồng máy công quyền ngày càng lan rộng. Tâm trạng này không chỉ phát sinh trong quảng đại quần chúng mà còn lan rộng tới những đảng viên và các giới chức trong hệ thống cầm quyền từ trung ương tới địa phương. Bên cạnh đó, hiện tượng tràn ngập các phương tiện truyền thông hiện đại trong dân chúng cùng với sự trưởng thành về ý thức công dân của các thành phần xã hội, cách riêng giới trẻ, cũng là những yếu tố làm thay đổi sự thăng bằng trong mối tương quan giữa người dân và chế độ. Sau hết là tình trạng tham nhũng, thối nát đưa tới sự xuống dốc thê thảm về kinh tế, văn hóa, xã hội và sự bùng nổ của các tổ chức xã hội dân sư trong vài năm gần đây.

Tuy vậy, người ta cũng không loại bỏ tâm trạng hoài nghi về một mưu toan của giới cầm quyền, lùi một bước để câu thì giờ lượng định sức để kháng của người dân, trước khi tiến tới bước thứ hai. Có điều dù sự thể ra sao, không ai có thể phủ nhận kể từ khi kẻ thù truyền kiếp của dân tộc là Bắc Kinh công khai lộ rõ mưu toan xâm lước đất nước ta thì khát vọng “thoát Trung” không còn giới hạn trong giới chuyên gia trí thức nữa. Nó đã trở thành một hiện tượng phổ biến trong quảng đại quần chúng trong nước.

Biến cố Formosa, một cơ hội ngàn vàng

Thảm họa biển bị đầu độc gây ra thảm họa cá chết hàng loạt phơi trắng mấy trăm cây số bãi biền bốn tỉnh miến Trung là một khúc rẽ quan trọng, một cơ hội có một không hai trong cuộc đấu tranh đối mặt với thù trong, giặc ngoài. Trong nỗi đau chết chóc, bệnh tật, hàng trăm ngàn ngư dân và những thành phần sống bám vào biển như nghề nuôi trồng thủy hải sản, công nghệ làm muối bị thất nghiệp khiến cho nhiều triệu đồng bào lâm cảnh lầm than đói khổ, biến cố này cũng phơi trần trước dư luận trong ngoài nước về những sự thật đàng sau tổ hợp gang thép Formosa.

Sự hiểu biết thô thiển ban đầu khiến mọi người yên tâm với ý nghĩ Formosa xuất xứ từ Đài Loan là một quốc gia tự do, đã bị phá vỡ. Sự thật cho biết sau cái vỏ bọc mang nhãn hiệu đảo quốc của người Tàu không cộng sản, bên trong công ty gang thép này là cả một hệ thống kỹ thuật và chuyên viên đến từ Bắc Kinh. Do đó chúng ta có lý chứng cụ thể để đề quyết: tổ hợp Formosa ở Vũng Áng là con đẻ của Hoa Lục. Từ đấy sự kiện nhà máy của công ty này âm thầm xả thải độc chất chì, thủy ngân xuống lòng biển Vũng Áng không phải vô tình hay đơn phương. Trái lại, nó là một chủ ý có tính toán nằm trong toàn bộ âm mưu diệt chủng của Bắc Kinh để sửa soạn cho việc thực hiện giai đoạn chót mật ước Thành Đô, biến đất nước ta thành một thuộc quốc!

Vụ kiện Formosa và cuộc xuống đường của các nạn nhân

Thắng lợi lớn nhất trong vụ kiện thế ký hôm 27-9 vừa qua là các ngư dân thấp cổ bé miệng Vũng Áng đã phá vỡ mưu toan thâm độc của Hà Nội trong việc xé lẻ người dân gặp cùng một chuyện oan khuất không được khiếu kiện tập thể. Điều này đã được chế độ pháp lý hóa bằng luật lệ. Nhưng trước sức mạnh áp đảo về tinh thần do các nạn nhân được sự hỗ trợ mạnh mẽ đàng sau của đồng bào khắp nước đã đẩy cái gọi là Tòa án Nhân dân huyện Kỳ Anh phải bó tay. Dù tìm hết cách gây khó khăn để trì hoãn nhưng cuối cùng họ đã phải cắn răng chấp nhận một lần 506 hồ sơ khiều kiện của các nạn nhân Phú Yên do linh mục Đặng Hữu Nam đại diện.

Nhận định về trường hợp hi hữu này, luật sư Lê Quốc Quân nói: đây là một tiền lệ rất lạc quan mở ra cho hàng chục, hàng trăm ngàn hồ sơ khiếu kiện sắp tới buộc các Tòa án địa phương phải chấp nhận. Riêng luật sư Võ An Đôn cho rằng khả năng thắng kiện của các nạn nhân hủy hoại môi trường Vũng Áng rất cao với xác xuất 100%. Lý do khiến ông tin như vậy vì chính Formosa đã công khai nhận tội xả thải độc chất xuống biển Vũng Áng tạo nên nguyên nhân cá chết hàng loạt khiến người dân địa phương lâm cảnh khốn cùng trong cuộc họp báo để xin lỗi và nhận bồi thường $US 500 triệu hôm 30-6-2016. Vì thế, theo ông vụ kiện chỉ là một thủ tục pháp lý tiếp theo về phía nguyên đơn nhằm quy những trách nhiệm trầm trọng hơn cho bên bị. Tuy nhiên, vẫn theo luật sư Đôn, vụ án có được giải quyết dứt khoát và mau chóng hay không còn tùy vào mức độ lương thiện của nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam.

Từ những nhận định trên đây, cuộc xuống đường bất bạo động của hàng chục ngàn người dân hạt Đông Anh hôm Chúa nhật 02-9 vừa qua có giá trị xác lập lại quan điểm và lập trường cương quyết, dứt khoát của các nạn nhân vụ hủy hoại mội trường để đòi hỏi công lý phải được thi hành nghiêm chỉnh, đáp lại ý nguyện của các nạn nhân qua những yêu sách được liệt kê trong hồ sơ khiếu kiện.

* Thứ nhất, vĩnh viễn trục xuất tổ hợp Formosa ra khỏi lãnh thổ Việt Nam.

* Thứ hai, đòi buộc tổ hợp này phải trả lời trước pháp luật, bồi thường tương xứng cho hàng trăm ngàn nạn nhân trực tiếp và gián tiếp của biến cố Vũng Áng.

* Thứ ba, đòi buộc thủ phạm phải áp dụng những kỹ thuật tân tiến để trả lại nguyên trạng trong lành, tinh sạch cho biển.

Khả năng nâng cấp vụ kiện ra tòa án quốc tế trong tương lại tùy thuộc kết quả đạt được tại các tòa án địa phương. Khi ấy, tội phạm sẽ không còn giới hạn ở giặc ngoài mà sẽ ứng vào chính những Lê Chiêu Thống, Trần Ích Tắc thời đại, những tay đầu sỏ Ba Đình đã trắng trợn “cõng rắn cắn gà nhà”.

Thay cho lời kết luận

Trong bối cảnh chung trên đây. sự xuất hiện bất ngờ của người nữ tu với ánh mắt và nụ cười nhân hậu bên cạnh đám cảnh sát cơ động đang canh chừng mấy chục ngàn đại diện cả triệu nạn nhân trong cuộc xuống đường phản kháng hành vi phá hoại môi trường biển của Formosa và những kẻ đồng lõa, không chỉ là một hiện tượng lạ, hiếm thấy. Ẩn sâu bên trong đó là một lời cảnh cáo ôn hòa nhưng nghiêm khắc có giá trị của tất cả những khẩu hiệu, những biểu ngữ và hàng trăm, hàng ngàn bài viết trong những ngày qua gom lại. Nó mang biểu tượng của một Tín Điệp từ Trời gửi Đất, từ Thiên Đường gửi Địa Ngục, của nơi Niết Bàn gửi tới chốn A-Tì.

_____

[1] Sau đó, mở video link quay toàn cảnh cuộc xuống đường hực lửa đấu tranh nhưng trật tự và ôn hòa của bà con Đông Anh, tôi bắt gặp lại hình ảnh sống động của người nữ tu giữa đám đông người biểu tình, trong đó có công an sắc phục, thường phục, có ‘dư luận viên’ trà trộn và những toán CSCĐ.

[2] Phúc âm Thánh sử Mát-Thêu đoạn 13 từ câu 24 đến câu 30 trang 103 do Nhóm Các Giờ Kinh Phụng Vụ, Sài gòn phiên dịch và chú thích, ấn hành ở Hànội năm 2008.

[3] “Tôi thấy cái chết của biển cũng như của cá chỉ là cái ngọn vấn đề. Cái chính gây ra cái chết này là do cái chết của tâm hồn con người. Tôi thấy ít nhất có bốn cái chết: cái chết của lương tâm, cái chết của luân lý, cái chết của lý trí, và cái chết của chính trị.”

[4] Lời mở đầu Hiến Chế “Giáo Hội Trong Thế Giới Ngày Nay”, Thánh Công Đồng Chung Vatican II ghi rõ như sau: “Vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng của con người ngày nay, nhất là của người nghèo và những ai đau khổ, cũng là vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng của các môn đệ Chúa Kitô, và không có gì thực sự là của con người mà lại không gieo âm hưởng trong lòng họ” (Trích bản dịch Thánh Công Đồng Chung Vatican II của Giáo Hoàng Chủng Viện Đà Lạt)

Phân tích pháp lý về tuyên bố của Bộ Công an Việt Nam về Việt Tân

Phân tích pháp lý về tuyên bố của Bộ Công an Việt Nam về Việt Tân

Lê Công Định
Trên phương diện pháp lý, chỉ Tòa án mới được trao thẩm quyền tuyên một phán quyết xác định bản chất pháp lý của một tổ chức chính trị hoặc xã hội nào trên lãnh thổ Việt Nam, từ đó xem tổ chức ấy có hoạt động khủng bố hay không. Một cơ quan hành pháp như Bộ Công an hoàn toàn không có thẩm quyền đó.

Giả định nếu Bộ Công an có thẩm quyền, thì chẳng lẽ khi áp dụng Bộ luật Hình sự, các Tòa án – vốn thuộc ngành tư pháp – buộc phải chấp hành tuyên bố hay quy định riêng của một cơ quan thuộc ngành hành pháp chăng? Nếu thế thì Bộ Công an trở thành cơ quan siêu quyền lực, đuợc quyền sinh sát đối với toàn dân, tự đặt ra luật và buộc Tòa án xét xử dân theo luật do mình tuyên bố. Quốc hội và Tòa án càng trở nên bù nhìn và thủ giữ vai trò hình thức.
Động thái này của Bộ Công an cho thấy thể chế nhà nước pháp quyền của Việt Nam đang suy thoái nghiêm trọng theo hướng độc đoán tuyệt đối, bất chấp mọi chuẩn mực pháp lý tối thiểu mà các quốc gia thành viên Liên hiệp quốc công nhận. Đề nghị các Đại biểu Quốc hội hãy lên tiếng phản đối tuyên bố chuyên quyền và vượt quyền này của Bộ Công an.
Do đuợc ban hành sai thẩm quyền, nên tuyên bố và quy định dưới đây của Bộ Công an là vô giá trị và vô hiệu, người dân không cần tuân thủ:
“Việt tân” là tổ chức khủng bố, do đó, người nào có hành vi tham gia, tuyên truyền, lôi kéo, xúi giục người khác tham gia, tài trợ, nhận tài trợ của “Việt tân”; tham gia các khóa đào tạo, huấn luyện do “Việt tân” tổ chức; hoạt động theo sự chỉ đạo của “Việt tân”… sẽ đồng phạm tội khủng bố, tài trợ khủng bố và sẽ bị xử lý theo quy định của pháp luật Việt Nam.”
FB Lê Công Định

Hà Nội: CA câu lưu LM Đặng Hữu Nam vì đấu tranh bảo vệ môi trường

Hà Nội: CA câu lưu LM Đặng Hữu Nam vì đấu tranh bảo vệ môi trường

 
CTV Danlambao – Linh mục Anton Đặng Hữu Nam, quản xứ Phú Yên thuộc giáo phận Vinh đã bị công an mặc thường phục chặn giữa đường và “mời” đến công an phường Dịch Vọng, quận Cầu Giấy-Hà Nội để “làm việc”.
Linh mục Đặng Hữu Nam cho biết, sự việc xảy ra vào khoảng 12 giờ 30 phút ngày 04/8/2016, khi cha Nam vừa rời khỏi trụ sở ĐSQ Đài Loan.
Người trực tiếp làm việc với linh mục Đặng Hữu Nam là đại úy Phạm Văn Trung, đội phó đội điều tra quận Cầu Giấy. Ông này nói rằng, có một người tên là Lê Văn Kiên, ngụ tại xóm 4, xã An Hòa, huyện Quỳnh Lưu, Nghệ An viết đơn tố cáo linh mục Đặng Hữu Nam nhận 50.000 USD của đảng Việt Tân để “phát cho giáo dân đi biểu tình chống phá nhà nước”. Tuy nhiên, cơ quan công an này đã không trình được đơn tố cáo theo yêu cầu của Linh mục Đặng Hữu Nam. Thậm chí, khi được hỏi về số Chứng minh nhân dân của người tố cáo để xác định thông tin, công an cũng không chứng minh được.
Cha Đặng Hữu Nam khẳng định đơn tố cáo chỉ là thư nặc danh và việc này là “trò bịa đặt”. Vì thế ông không thừa nhận tính pháp lý của “đơn tố cáo” này. Không chứng minh được việc có đơn tố cáo cha Nam nhận 50.000 USD của Việt Tân, công an Hà Nội buộc tội cha tổ chức biểu tình để chống phá nhà nước và viết bài đưa lên mạng. Linh mục Nam khẳng định việc thể hiện quan điểm là quyền tự do ngôn luận. Linh mục Đặng Hữu Nam cũng khẳng định mình không tổ chức biểu tình chống nhà nước mà là dâng Thánh lễ, kêu gọi giáo dân nói riêng, và người Việt Nam nói chung phải bảo vệ Tổ quốc. Trong các buổi thánh lễ, linh mục Nam đều cầu nguyện cho công lý và hòa bình, cho quốc thái dân an, cầu cho chính những người lãnh đạo cộng sản phải biết yêu nước và có trách nhiệm với người dân. Việc tuần hành bảo vệ môi trường và kêu gọi tình yêu thương không phải là biểu tình. Trước khi tổ chức các cuộc tuần hành, linh mục Đặng Hữu Nam đều thông báo với trưởng công an huyện để đề nghị cơ quan này bảo vệ người dân khi tham gia tuần hành.
Trao đổi với CTV Danlambao, linh mục Đặng Hữu Nam cho biết ông đi Hà Nội để chữa bệnh và giải quyết một số công việc. Trong đó có việc xin visa để sang Đài Loan theo lời mời của Linh mục Phero Nguyễn Văn Hùng để bàn thảo một số công việc về Tôn giáo.
Linh mục Anton Đặng Hữu Nam là một trong những người đấu tranh mạnh mẽ trong vấn đề bảo vệ môi trường. Từ khi thảm họa môi trường xảy ra, cha Nam thường xuyên tổ chức các cuộc tuần hành, thánh lễ cầu nguyện cho công lý và hòa bình, bênh vực ngư dân. Có những cuộc tuần hành thu hút vài ngàn giáo dân tham dự.
Đây không phải lần đầu tiên linh mục Đặng Hữu Nam bị sách nhiễu, bị bắt vô cớ và bị câu lưu tại đồn công an.
Tháng 12 năm 2015, cha Nam đã bị đánh đập, hành hung khi ông đang trên đường đi chữa bệnh.
Linh mục Đặng Hữu Nam cho biết, dù mang trong người hai căn bệnh hiểm nghèo là ung thư não và ung thư máu, nhưng cha luôn hết mình phụng sự Chúa, làm chứng cho sự thật và dấn thân cho công lý và hòa bình.

Nạn Lạm Thu & Thói Cửa Quyền

Nạn Lạm Thu & Thói Cửa Quyền

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến

RFA

Ảnh của tuongnangtien

tuongnangtien

Viết về sự nghiệp của Tô Hoài, có nhà phê bình văn học đã đưa ra một nhận xét rất đáng quan tâm:

“Từ sau 1945, ngoài làm báo, làm xuất bản hoặc làm công tác đối ngoại, ông còn tham gia sinh hoạt tổ dân phố, các hoạt động của mặt trận, của tổ chức người già… nói chung là trăm thứ bà rằn linh tinh khác… Ở nước nào kia, còn có thể có hạng nghệ sĩ thu mình lại trong tháp ngà, ở ta, cái bàn viết của nhà văn nằm giữa cuộc đời.” (Vương Trí Nhàn. Cánh Bướm & Hoa Hướng Dương, NXB Phụ Nữ, Hà Nội: 2006).

Nhờ kinh nghiệm “linh tinh bà rằn” của một người cầm bút “từng tham gia sinh hoạt tổ dân phố” nên độc giả của Tô Hoài được biết thêm (ít/nhiều) về sinh hoạt của lực lượng dân phòng ở miền Bắc, Việt Nam:

“Tôi đi tuần tra. Một tốp hai người đeo băng đỏ, tay cầm cái đèn hai pin của đội dân phòng … Phó ban Đại hay đi tuần với tôi, có khi tôi rủ, có khi Đại đợi. Chẳng phải đến lượt đi đôi với Đại, mà Đại thích đi với tôi. Đêm nằm khàn, Đại nhớ bia. Nửa đêm chúng tôi vào quán Gió hàng bia nhà mậu, uống thả cửa, trả tiền không lấy…”

Ngoài bia “uống thả cửa” ra, anh em dân phòng (thỉnh thoảng) cũng được những người dân thấp cổ bé miệng xì ra cho “vài đồng” tiền lẻ để bôi trơn mấy việc linh tinh. Đôi khi, món “quà lót tay” đơn giản chỉ là “một củ khoai còn nóng” từ mấy mẹt quà rong. (Tô Hoài. Chiều Chiều, NXB Hội Nhà Văn, Hà Nội: 1999).

-Thế thôi á?

Vâng, chỉ có thế thôi nhưng đây là một phát kiến tuyệt vời của nước CSVN. Chính phủ gần như không phải chi một xu nào ráo, cũng khỏi phải sắm sửa đồng phục, giầy/dép, hay mũ/nón gì sốt cả – kể cả nón tai bèo – nhưng vẫn duy trì được một lực lượng “trị an” hữu hiệu chưa từng thấy.

Chỉ cần đeo cái băng đỏ vào tay là trở thành ngay đám dân phòng, tháo ra đút túi thì biến ra … quần chúng tự phát. Biến hoá cứ ma nên người dân còn gọi đây là là đám … âm binh hay cô hồn sống!

Dân phòng tác nghiệp. Ảnh: infonet

Sau ngày 30 tháng 4, cùng với ông công an phường, bà tổ trưởng dân phố, anh công an khu vực, chị hội trưởng phụ nữ, đám dân phòng cũng (“nối vòng tay lớn”) vô tới trong Nam. Cung cách sinh hoạt thì vẫn y như ở Hà Nội thôi. Cứ đeo cái băng đỏ vào rồi đi loanh quanh “la liếm” kiếm ăn khắp hang cùng, ngõ hẹp.

Chỉ khác có điều là lực lượng dân phòng ở thành phố Hồ Chí Minh (quang vinh) không chịu ăn khoai, hay sắn luộc. Họ quen với món “cơm tấm bì sườn” truyền thống ở vùng đất trù phú này rồi, theo như tường thuật của nhà báo Thụy Du:

Nhân dịp ông Bí thư thành ủy – Đinh La Thăng vi hành xuống địa phương. Du tôi có bài phỏng vấn bỏ túi với bà con lối xóm:

     – Chào chú Năm hưu trí, đón nhận tin này chú thấy thế nào?

     – Tao đang lo vụ này nè! Trên phường họ có cho biết là đầu tuần này là ông ấy xuống kiểm tra. Đề nghị một vài cán bộ lão thành chuẩn bị tinh thần, nếu ông Thăng có hỏi thì lựa lời nói tốt cho địa phương.

     – Vậy chú lo cái gì?

     …

Anh Tư taxi đang ngồi cà phê gần bên liền lên tiếng:

     – Thế mà cũng gọi là nhà báo. Mày có thuộc câu này chưa: “Cướp đêm là giặc. Cướp ngày là … vừa nói anh Tư vừa chỉ tay về hướng một nam thanh niên mặc quân phục cảnh sát đi cùng ba chú dân phòng lớn tuổi đang gom bàn ghế của quán cháo vỉa hè”. Ở đâu cũng vậy, với đám này thì không có hụi sống, chỉ toàn hụi chết mà thôi. Khốn nạn là bà con vừa đóng tiền mà còn phải năn nỉ để được chúng nó nhận.

Em Hai cơm tấm xen vào:

     – Đâu phải chỉ có vậy. Có hôm bán ế quá, vậy mà mấy ông dân phòng chạy xe máy ra lấy gần chục hộp cơm sườn, nói là phường họp đột xuất, kêu mình ủng hộ miễn phí. Anh nhà báo thấy có tức không? Có muốn từ chối cũng không được.

Với kiểu ủng hộ (“muốn từ chối cũng không được”) này thì những đĩa cơm sườn đến tay người mua, tất nhiên, sẽ đều phải xén đi chút xíu. Thu nhập của người bán, đương nhiên, cũng bị bớt lại đôi phần.

Tuy nhiên, theo tôi, em Hai cơm tấm không nên vì thế mà bực tức (hay “bức xúc”) làm chi, cho má nó khi. Cứ coi như là một kiểu đóng thuế đi,  thuế gián thu. Hay nói cách khác là “khéo thu” hay “thu khéo.” Nhà Nước móc túi thiên hạ – một cách khéo léo – bằng tay của đám dân phòng để duy trì một lực lượng hùng hậu nhưng không cần phải trả đồng tiền lương nào cả.

Mà lương tháng ở Việt Nam, nếu có, cũng chỉ đủ cho công nhân viên sống cỡ 10 ngày là hết. Bởi vậy, việc “thu khéo” (hay “thu thêm”) không chỉ xẩy ra ở vỉa hè Sài Gòn hay Hà Nội.

Thuế gián thâu được thâu khắp chốn, bằng nhiều tên gọi khác nhau (bôi trơn, hối lộ, tham nhũng) tùy theo từng chuyện. Riêng chuyện chung chi lặt vặt xẩy ra ở phi trường, hay trên đường phố (khi bị các anh hùng núp tuýt còi) thì được coi như là tiền mãi lộ, chớ không phải hối lộ – như Thiếu tướng Nguyễn Văn Tuyên, Cục Trưởng Cục CSGT, đã xác nhận.

Cái nước mình nó thế nên toàn dân cứ thế mà chi. Không (nghe) ai phàn nàn hay la lối gì ráo trọi, trừ những kẻ sống ở nước ngoài – theo như tin loan của BBC:

“Một nhóm những người gốc Việt Nam đang sống ở Đức và châu Âu đã tổ chức biểu tình trước Tổng Lãnh sự quán Việt Nam tại Frankfurt am Main, Đức chiều ngày 25/9 yêu cầu chấm dứt lạm thu và thói cửa quyền.”

Sự việc vô cùng đáng tiếc này lẽ ra đã không xẩy ra nếu người dân có chút thông hiểu (và thông cảm) hơn với đời sống của giới nhân viên sứ quán.

Như đã thưa, không có chuyện “lạm thu” ở bất cứ cơ quan công quyền nào thuộc nhà nước Việt Nam. Đây chỉ là một thứ thuế gián thu, và cũng là chuyện chẳng đặng đừng, theo lời của ông Đặng Xương Hùng – cựu lãnh sự Việt Nam tại Geneve – trong một cuộc phỏng vấn dành cho blogger Nguyễn Thị Từ Huy (RFA) vào hôm 26 tháng 7 năm 2016:

Câu chuyện visa cụ thể là thế nào, thưa ông?

Chuyện visa, khi tôi tiết lộ những chi tiết cụ thể, tôi biết những người bạn tôi ở Bộ ngoại giao chắc sẽ trách tôi nhiều lắm. Vì rằng chỉ mới ba, bốn năm nay thôi, tôi vẫn còn sống vì nó và kiếm ra đồng tiền vì nó. Nhưng cái lòng tôi muốn nói ra vì rằng tôi có một người bạn còn trẻ ở Bộ mới lần đầu ra nước ngoài và khi tiếp xúc với câu chuyện visa, đã thốt lên rằng“Thu tiền lệ phí visa như thế làm mất uy tín của Bộ Ngoại giao quá anh nhỉ”. Tôi đã trả lời: Đi công tác ở sứ quán, không có tiền chia từ visa, mình không còn thừa ra đồng nào để mà tiết kiệm đâu em ạ. Rồi em sẽ quen dần thôi”.

Và vì rằng cả hai chúng tôi đều cùng một ý nghĩ là thà nếu nhà nước cho chúng tôi hưởng một chế độ tiền lương chính đáng tương đương nào đó, còn hơn là dành cho chúng tôi một “chế độ mập mờ” để chúng tôi phải “gian dối”” trong lệ phí visa.

Cũng theo ông Đặng Xương Hùng thì công chức bộ của Bộ Ngoại Giao “chỉ có lương cơ bản chừng khoảng 500 USD/ tháng.” Với số tiền nhỏ nhoi này mà một nhân viên thuộc Toà Tổng Lãnh Sự ở Houston dùng để ăn sáng thì có thể dư nhưng ở San Francisco thì chắc thiếu, còn ở Washington (D.C) thì thiếu chắc!

Bởi vậy, “mập mờ và gian dối” là chuyện tất nhiên. Và hống hách là hệ quả tất yếu. Cái thái độ thường bị “hiểu lầm” là “cửa quyền” của các ông/bà quan sứ của nước ta, chả qua, chỉ để khoả lấp cái mặc cảm do những việc làm khuất tất của họ mà thôi.

Biểu tình chống lạm thu, đòi minh bạch hóa các thủ tục lãnh sự tại Frankfurt – CHLB Đức. Ảnh & chú thích: Dân Luận

Có cậu dân phòng nào mà muốn hạnh hoẹ mấy cô hàng rong chỉ để được ăn (không) một củ khoai luộc hay một đĩa cơm sườn đâu, nếu họ nhận được đồng lương tử tế đủ chi cho thực phẩm hàng ngày. Những viên chức của Bộ Ngoại Giao cũng thế. Họ cũng muốn làm việc một cách đàng hoàng, công chính chứ, nếu được trả lương đủ sống.

Tôi nói chẻ hoe ra như thế với hy vọng có sự thông hiểu (và thông cảm) hơn giữa người dân và giới nhân viên sứ quán để chúng ta khỏi mất thời giờ vào việc biểu tình nữa. Vô ích!

Đối với nhà đương cuộc Hà Nội thì lạm thu không phải là quốc nạn mà là quốc sách. Nạn “lạm thu và cửa quyền” sẽ không thể nào chấm dứt, nếu cái chế độ (khốn nạn) hiện hành vẫn còn tồn tại.

Câu chuyện về cuộc đời.

Xin giữ gìn tình bạn.

Câu chuyện về cuộc đời.

Đời người ngắn ngủi, quá khứ rồi cũng trở thành kỷ niệm. Nếu như có thể, mỗi dịp năm mới đừng quên họp mặt lớp, gặp mặt bạn học, ôn lại tình bạn xưa.

Có lẽ bạn đang bận rộn với gia đình, sự nghiệp. Hay có lẽ bạn cảm thấy mệt mỏi trước áp lực dòng đời. Cũng có lẽ hoàn cảnh xã hội của chúng ta không như nhau. Và có lẽ tính tình chúng ta có đôi chỗ khác biệt. Nhưng cho dù thế nào, hãy tin tưởng dù xã hội có thay đổi, dòng đời có trôi mau, thì tình bạn mãi mãi không phai mờ, và cũng không bao giờ thay đổi.

tinh-ban-1

 

 

 

 

 

 

 

Không chăm vào lợi ích vật chất, không lợi dụng lẫn nhau, đó là viên ngọc quý mà  bạn tặng cho nhau. Vậy còn chần chừ gì nữa mà không đến với nhau  để ôn lại thời kỳ vàng son?

10 năm, 20 năm, 30 năm, hay thậm chí 40 năm, 50 năm, họp mặt sẽ trở thành bữa tiệc của cuộc sống, để chúng ta chợt nhận ra rằng, dẫu cuộc đời trôi qua như mây khói, nhưng tình bạn là  cao quý.

tinh-ban-2
Người xưa có câu: “Tu trăm năm mới ngồi cùng thuyền, tu nghìn năm mới ngủ chung gối, tu năm đời mới học cùng  lớp.”

Các bạn học của tôi, giữa biển người mênh mông, chúng ta không sớm gặp nhau, biết đâu khi chúng ta muốn lại khôngđược. Đừng đánh mất cơ hội trùng phùng, hạnh ngộ bạn nhé.

tinh-ban-3

 

 

 

 

 

 

 

 

Thời gian dần trôi qua, sân trường xưa đã trở thành dĩ vãng, nhưng mỗi lần nhớ lại thời đi học, ta lại xao xuyến, bồi hồi, xúc động.

Tình bạn là thuần khiết nhất, mộc mạc nhất, cao quý nhất, xúc động nhất, lãng mạn nhất, kiên cố nhất, vĩnh bền nhất. Cùng học chung lớp, vui thì cười, giận thì mắng, dỗi hờn thì quay mặt lặng thinh.. Hôm nay ngồi nhớ lại chuyện xưa, có lẽ bạn và tôi đều mỉm cười mãn nguyện.

tinh-ban-4

Các bạn học cũ của tôi, cảm ơn các bạn đã làm bạn với tôi những năm tháng ấy, để cho tôi học cách yêu thương và trân trọng. Trân trọng một thời thanh xuân, rạng rỡi. Cầu mong các bạn mạnh khỏe,  chân cứng đá mềm, cầu mong chúng ta  cùng biết quý trọng tình bạn mãi mãi cho đến trọn đời!

Nguồn internet.

Đạo tại Tâm

Đạo tại Tâm

Dongten.net

dao-tai-tam

“Đạo Tại Tâm” là câu nói cửa miệng của nhiều người xưa nay, nó đã trở nên một thành ngữ phổ biến trong dân gian, từ người bình dân cho đến người có học. Nó quá quen thuộc đến nỗi người ta đã hiểu sai cái ý nghĩa đích thực của nó, rồi mỗi người hiểu theo ý riêng của mình, sinh nhiều lạm dụng và tranh cãi, cho cả người ủng hộ lẫn người phản đối.

CÁCH HIỂU ĐẠO TẠI TÂM NƠI MỘT SỐ NGƯỜI

Người ta hiểu “đạo tại tâm” nhiều cách khác nhau, đôi khi trái ngược nhau. Có người hiểu Đạo là giữ trong lòng chứ không cần thiết phải phô trương bên ngoài. Người khác lại hiểu giữ đạo cốt ở tâm hồn, còn cái bề ngoài chỉ là phụ thuộc, có cũng được, không có cũng chẳng quan trọng. Lại có cách hiểu Đạo là cái lõi, kiểu giữ đạo là vỏ, chỉ là phụ, nên cái vỏ chỉ có giá trị nhất thời. Cũng có người hiểu Đạo Tại Tâm là cách ngụy biện của kẻ “vô đạo”, cho rằng giáo lý tôn giáo của họ không có chuyện Đạo Tại Tâm. Một cách hiểu dung hòa cho rằng Đạo (tại tâm) là nội dung, còn giữ đạo là hình thức, đạo chú trọng về nội dung nên nói vậy, nhưng cần có cả nội dung lẫn hình thức mới được hoàn hảo. Và còn nhiều cách hiểu khác nhau, tùy theo ý niệm hoặc thành kiến để hiểu Đạo và Tâm theo nhãn quan của mỗi người .

Người đả phá việc theo “đạo tại tâm” cũng tìm những lý lẽ, viện những câu chuyện ví dụ làm luận cứ cho cái tiền đề khá mơ hồ theo cách hiểu của họ. Khái niệm hoặc định nghĩa về Đạo Tại Tâm không được đề ra một cách thỏa đáng, không dựa trên nguồn gốc có cơ sở trên lãnh vực đạo học và văn hóa tư tưởng, nên cách giải thích và phản bác của mỗi người khác nhau, cái lý đưa ra khiến người nghe không thỏa mãn, dù họ khó phản biện được.

Như vậy nếu hiểu Đạo, hiểu Tâm theo ý mỗi người thì không còn biết chân lý nằm ở chỗ nào, cũng chẳng nhận ra bản thể của Đạo, và cũng không tìm thấy cái Tâm Nguyên Bản của nó.

Vậy Đạo và Tâm từ đâu và bản chất của nó như thế nào?

ĐẠO VÀ TÂM

Ngoài Ấn Độ theo Ấn giáo, Do Thái giáo của Israel và một số quốc gia theo Hồi giáo, hầu hết các nước Á châu đều thấm nhiễm triết lý, tư tưởng và luân lý của Khổng, Lão và Phật. Vì vậy muốn hiểu Đạo và Tâm theo nghĩa “đạo tại tâm”, không gì hơn là tìm đến Đạo học Đông phương, nơi xuất xứ ra thành ngữ này. Nơi đây, cái gốc được căn cứ trên cơ sở của “Tam giáo Đồng nguyên”, tức Khổng, Lão và Phật.

– Nho Giáo:

Đức Khổng Tử nói: “Thiên mệnh vị chi Tánh, suất tánh vị chi Đạo, tu Đạo vị chi Giáo” (Cái mệnh Trời phú cho gọi là Tánh, theo Tánh gọi là Đạo, sửa mình cho đúng Đạo gọi là Giáo –  sách Trung Dung).

Nho giáo cho rằng theo Đạo là tuân thủ theo Thiên lý, mà Thiên lý với bản tánh con người là một, cho nên theo Đạo là cốt để sửa cái tính con người cho hợp với Thiên lý. Nên Đạo với con ngưòi là một.

Đức Khổng nói rằng: “Đạo bất viễn nhân, nhân chi vi Đạo nhi viễn nhân, bất khả dĩ vi Đạo” (Đạo không xa rời bản tánh con người, nếu theo Đạo mà để xa cái bản tánh con người, thì không phải là Đạo –  sách Trung dung).

Cũng như: “Đạo tại nhĩ nhi cầu chư viễn, sự tại dị nhi cầu chư nan” (Đạo ở gần sao lại đi tìm ở xa, sự việc dễ sao lại làm cho nó khó – Mạnh tử). Ở gần là ở trong ta (tâm), việc dễ vậy mà lại tự gây (khi hành đạo) cho nó phức tạp.

Do đó Đạo luôn gắn bó với con người, nằm trong con người, đó chính là lương tâm, thiện tánh.

Cho nên:  “Đạo bất khả tu du ly dã, khả ly phi Đạo dã” (đã là Đạo thì không giây phút nào xa lìa được, nếu xa lìa được thì không phải là đạo – sách Trung dung).

Theo Nho giáo thì Tâm và Tánh là thần minh, là linh giác của con người, cũng còn gọi là linh tâm, giác tánh.

Nho giáo xem Tâm và Tánh ban đầu vốn lành, nhưng sở dĩ con người có tâm tánh độc ác, là do càng ngày càng tập nhiễm những điều xấu, mà xa dần cái tánh bổn thiện. Nên bài học vỡ lòng của đạo Nho là: “Nhơn chi sơ, tánh bổn thiện; Tánh tương cận, tập tương viễn ” (Tánh thuở ban đầu của con người vốn lương thiện, luôn gần gũi với điều lành, nhưng vì tập nhiễm tánh xấu, nên xa dần điều lương thiện – Tam Tự Kinh).

Cũng như thuyết “Tri Hành Hợp Nhất” của Vương Dương Minh  (14721528), một nho gia nổi tiếng đời nhà Minh, Trung Quốc, nói cái Tâm là cái “Trí lương tri” của con người đã được phú bẩm, cần quay về mình (tâm) để tìm lại nó, nhờ sự soi sáng và dẫn dắt của nó mà thi hành đạo.

Vì vậy phương châm tu hành của Nho giáo dạy phải: “Tồn Tâm Dưỡng Tánh”, tức là giữ cái thiện tâm luôn tồn tại, và nuôi dưỡng cái tánh vốn lành của mình, đừng cho tiêm nhiễm những điều xấu. Nó được căn cứ trên LÒNG NHÂN (cái tâm), thể hiện qua TAM CƯƠNG và NGŨ THƯỜNG (thực hành đạo).

– Lão Giáo:

Đức Lão Tử cho Đạo là tinh thần, là Bản Nguyên của trời đất, vạn vật, nên trời đất vạn vật là bản thể của đạo, vì thế Đạo lưu hành trong vũ trụ, tàng ẩn trong muôn vật, cho nên vật nào cũng có phần linh diệu của Đạo bên trong để điều hòa, trưởng dưỡng cho nó. Đạo không có hình tướng, rất khó diễn tả, nên con người chỉ lấy Tâm để cảm nhận và hình dung Đạo mà thôi.

Còn Tâm Tánh là Thiên lương (Tâm nguyên thủy), có sẵn trong con người, còn gọi là Lương tâm và Thiện tánh, cứ nhìn thẳng trở vào Tâm Tánh của chính mình thì sẽ thấy Đạo.

Tâm Tánh có sẵn trong mỗi người ban đầu, nó hồn nhiên, vô tư vô dục, lương thiện như tâm hồn của đứa trẻ con mới sinh ra, nên Lão Tử so sánh cái Thiên lương của con người như là tâm của đứa con đỏ, gọi là “Xích tử chi tâm”. Cái Tâm phát sinh ra các tư tưởng, làm chủ cái thân, là cái hồn của con người. Nhưng trong tâm lại có động, có tịnh. Ý động thì khí hành, ý tịnh thì khí lặng, cho nên khí hành hay lặng đều từ cái Ý của Tâm mà ra.

Nhưng sở dĩ có sự biến dạng thành hung ác, là do tập nhiễm vật dục làm thay đổi từ tốt trở nên xấu. Vì vậy con người trở thành thánh nhân cũng do bởi Tâm, mà sống như thú vật cũng do cái Tâm sai khiến. Nên đường hướng tu hành của Lão giáo lấy sự hư tĩnh để tu luyện đó là: “Tu tâm luyện tánh” (sửa tâm và trau dồi tánh).

Tu Tâm là sửa lòng cho trong sạch, cốt làm cho tâm con người luôn thanh tịnh, làm chủ được bản thân mình, không để thất tình lục dục dẫn dắt. Luyện Tánh là tập cái tánh trở thành không không, đừng để ảnh hưởng bởi thất tình (hỉ, nộ, ái ố, ai, cụ, dục), lúc đó con người sẽ được cái Tâm sáng tỏ soi dẫn, hành động sẽ theo sự tự nhiên của cái lý Vô Vi, có nghĩa là không làm, tức là không can thiệp vào quy luật tự nhiên, để con người sống theo tự nhiên, để cùng với tự nhiên mà tiến hóa (vô cầu, vô tranh, vô đoạt, vô chấp).

– Phật Giáo:

Đạo đối với Đức Phật rất đơn giản, đó là “Không được bám víu vào bất cứ gì cả”, nghĩa là để cho cái Tâm trở nên hư không. Trong quá trình tu tập, Phật tử phải quay về tìm cái “Tâm Phật” của mình. Nhà Phật gọi Tâm và Tánh là Chân như, Chân tâm, Phật tánh… Trong mỗi chúng sanh đều có Chân tâm và Phật tánh. Cái Tâm Chân bất sanh bất diệt, nên cũng gọi là Thường trụ Chân tâm. Vì vậy phương hướng tu hành của Phật giáo dạy phải: “Minh Tâm Kiến Tánh”, nghĩa là làm cho sáng cái Tâm thì sẽ thấy rõ cái Tánh.

Về cái Tâm, Ðức Phật khuyên dạy chúng sinh hãy lo tu tập “Tứ Vô Lượng Tâm”, tức là “bốn thứ tâm rộng lớn không đo lường được”. Đó là các Tâm: “Từ, Bi, Hỷ, Xả”. Phật dạy hãy mở rộng bốn Tâm này, không hạn chế, cho tất cả các loài hữu sinh ở khắp bốn phương. Đây là những đặc tính giúp con người trở nên tốt đẹp, hoàn thiện, là lối sống của bậc thánh. Nếu mỗi người tự cố gắng thực hành “Tứ Vô Lượng Tâm”, không phân biệt tôn giáo, chủng tộc, thành phần, đẳng cấp trong xã hội thì mỗi người sẽ trở thành một “thánh nhân” trong một thế giới hòa bình, an lạc.

Người Phật tử lấy Từ, Bi, Hỷ, Xả làm nền tảng cho sự phát triển thánh hạnh. Tâm “Từ” là khả năng hiến tặng niềm vui cho tha nhân, cho người khác. Tâm “Bi” là khả năng làm vơi đi nỗi khổ đang có mặt. Tâm “Hỷ” là niềm vui, lòng thanh thản do từ bi đem tới. Tâm “Xả” là thư thái nhẹ nhàng, tự do, không kỳ thị.

Người phật tử thực hành giáo lý nhà Phật gọi là “hành giả”, dù niệm Phật để thanh tịnh hư không – gỡ khỏi mọi ràng buộc – dù  hành giả ra đi để cứu nhân độ thế, cũng đều là thực hành tâm linh tìm về Chân tánh để gặp Đạo. Như vậy Đạo với đời sống tâm linh cũng chỉ là một chứ không có sự tách biệt.

– Hệ kết:

Tóm lại các pháp môn tu luyện để ngộ đạo và đắc đạo của Tam giáo tuy danh xưng và phương tiện thể hiện có khác nhau, nhưng tựu trung cũng khuyên người thực hành đạo phải:

– “Tồn tâm dưỡng tánh” đối với Nho giáo

– “Tu tâm luyện tánh” đối với Lão giáo

–  “Minh tâm kiến tánh” đối với Phật giáo

Đạo chẳng phải nơi lời nói, mà nơi kết quả sự thật mình làm, chẳng phải nơi câu kệ câu kinh mà phải thể hiện ra. Nếu chỉ nghiên cứu suông kinh điển để làm một kẻ trí đạo “năng thuyết bất năng hành” thì cũng chẳng khác gì người ngồi đó chỉ biết diễn tả phân tích đủ thứ món ăn tuyệt diệu trên đời, nhưng rốt cuộc bụng họ vẫn đói meo, hoặc như con lạc đà trên lưng mang nặng trĩu gỗ trầm hương, nhưng chẳng bao giờ nó thưởng thức được hương thơm của trầm cả. Phải biến nhận thức của mình thành hành động cụ thể. Có như vậy mới đi đúng đường và mang lại lợi ích thực sự.

Để đi vào đạo, con người chỉ cần biết thức tỉnh quay vào chính mình thì sẽ nhận ra “Chân tánh”, được “Tính bản thiện”, được cái “Thiên lương”, lúc đó sẽ được nó soi tỏ và dẫn dắt, đồng thời sẽ gặp được Đạo.

Như vậy Đạo với đời sống tâm linh là một, mà hoạt động tâm linh không hề tách biệt với đời sống thực tại, cũng như tâm linh luôn gắn liền với thể chất như bóng với hình, vì Tâm và Vật không thể phân chia. Nói cách khác, hoạt động tâm linh luôn hiện hữu trong đời sống con người, tức là đạo không lìa xa cuộc sống. Vì thế người theo đạo không có nghĩa là phải từ bỏ các hoạt động hằng ngày, để theo đuổi một cái gì xa vời ngoài cái thực tại. Sống theo đạo là sống một cuộc sống cho ra sống, đáng sống với cuộc đời, sống một cách có ý thức và chủ động trong mọi sinh hoạt, chứ không phải sống một cách máy móc thụ động.

Muốn được vậy thì con người phải lấy Tâm làm gốc, Đạo làm nền, là trung tâm trong đời sống tâm linh, mà cũng là trung tâm của tất cả hoạt động của đạo được thể hiện ra bên ngoài. Nên Đạo Nho mới nói: “Đạo bất khả tu du ly dã” (đạo không giây phút nào xa lìa được), và “Đạo tại nhĩ nhi cầu chư viễn” (đạo ở gần đừng tìm nơi xa).

“Tam giáo đồng nguyên” chính là vậy.

CÔNG GIÁO VỚI ĐẠO TẠI TÂM

Căn cứ trên Kinh Thánh và Giáo lý Hội thánh Công giáo (GLHTCG), “Thuở ban đầu con người đơn sơ trong trắng như trẻ thơ vô tội, chưa bị rối loạn vì tội lỗi. Con người sống an bình hoà hợp với Thiên Chúa, với mọi người, và với bản thân mình” (St 2).

Cũng như: “Con người đầu tiên không những được tạo dựng là tốt lành, mà còn được sống trong tình thân nghĩa với Đấng Tạo Hóa của mình, trong sự hài hòa với chính mình và với vạn vật xung quanh. Tình thân nghĩa và sự hài hòa này chỉ thua kém vinh quang của công trình tạo dựng mới trong Đức Kitô” (GLHTCG số 374).

Và: “Hội Thánh, khi giải thích một cách chính thống ngôn ngữ biểu tượng của Thánh Kinh dưới ánh sáng của Tân Ước và Truyền Thống, dạy rằng: nguyên tổ chúng ta, ông Ađam và bà Evà, đã được tạo dựng trong tình trạng thánh thiện và công chính nguyên thủy. Ân sủng của sự thánh thiện nguyên thủy đó là được tham dự vào sự sống của Thiên Chúa” (GLHTCG số 375).

Đặc biệt hơn, Sách Sáng Thế 1, 26 – 27 nói: “Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh Thiên Chúa. Trong các loài Chúa đã dựng nên, chỉ có con người được Thiên Chúa ban cho linh hồn thiêng liêng, bất  tử.  Nhờ đó, con người có khả năng hiểu biết, chọn lựa điều hay lẽ phải và quyết tâm loại trừ điều xấu để hướng đến hạnh phúc đích thực và trọn vẹn”. Vì linh hồn thiêng liêng, có trí tuệ, ý chí và tự do, nên con người có khả năng hướng về sự thiện đích thực và hạnh phúc muôn đời.

Cái Tâm của con người được hiểu là toàn thể cõi lòng, đó là lương tâm ngay lành, là ý chí (ý muốn), là sự tự do, trong đó có cả sự nhận thức thông qua trí tuệ của con người – vì không thể tách trí tuệ ra khỏi cái Tâm được – đã được Thiên Chúa phú bẩm trong linh hồn. Đó là hình ảnh của Thiên Chúa, dù một thai nhi hay trẻ sơ sinh cũng hội đủ tố chất của cái Tâm này.

Kinh Thánh và GLHTCG nêu trên cho biết, cái Tâm nguyên thủy của con người hoàn toàn tốt lành, thiện hảo chứ không yếu đuối, mê muội, nhiều dục vọng xấu xa… Nó được hòa nhập vào thân xác không thể phân chia, trở thành một bản tính, như GLHTCG số 365 nói: “Sự thống nhất xác hồn thâm sâu đến độ linh hồn phải được coi là “mô thể” của thân xác; nghĩa là, nhờ linh hồn thiêng liêng mà thân xác, vốn được cấu tạo bằng vật chất, là một thân xác nhân linh (corpus humanum) và sống động; tinh thần và vật chất nơi con người không phải là hai bản tính được nối kết lại, nhưng sự kết hợp của chúng tạo thành một bản tính duy nhất”.

Tình trạng ban đầu của vạn vật là tốt lành, không có đau khổ và sự dữ. Chính tội lỗi của con người đã làm hỏng sự tốt lành nguyên thuỷ và làm con người mất hạnh phúc. Tuy nhiên tình trạng đau khổ của con người không đến nỗi tuyệt vọng như người ta đáng phải chịu, bởi vì Thiên Chúa nhân từ sẽ tìm cách cứu vớt. (St 1)

Công giáo là đạo được Đức Giêsu Kitô, Thiên Chúa Làm Người mạc khải, gọi là Đạo Từ Trời. Thiên Chúa Là Tình yêu (Ga 4, 16), Người đã hoàn tất trong lề luật “Mến Chúa yêu Người”, nên cũng được gọi là Đạo Yêu Thương, Bác Ái. Vì vậy Đức Ái là trung tâm điểm của đạo, xuất phát từ cái Tâm yêu thương, thể hiện qua hành vi bác ái. “Nếu tôi nói được các tiếng của loài người và thiên thần, mà tôi không có bác ái, thì tôi chỉ là tiếng đồng la vang dội hoặc não bạt vang động. Và nếu tôi được nói tiên tri, thông biết mọi mầu nhiệm và mọi khôn ngoan; nếu tôi có đầy lòng tin, đến nỗi chuyển dời được núi non, mà không có bác ái, thì tôi vẫn là không. Nếu tôi phân phát mọi của cải tôi có để nuôi kẻ nghèo khó, nếu tôi nộp mình để chịu thiêu đốt, mà tôi không có bác ái, thì không làm ích gì cho tôi” (1 Cr 13, 1-3).

Cũng như, “Nước Thiên Chúa đang ở giữa các ông” (Lc 17, 21), ngoài ý nghĩa cho mọi người, còn nói lên ở trong lòng, trong tâm mỗi người nữa, nơi đó tình yêu ngự trị  trong tâm hồn mỗi người. Nước Thiên Chúa chính là mọi người yêu thương và sống bác ái với nhau, trong Đức Kitô.

Bác ái được căn cứ và xuất phát từ cái Tâm, nên câu nói “Đạo tại tâm” xuất phát từ Đạo học Đông Phương không những không mâu thuẫn hay trái với đạo Công giáo, mà nó còn am hợp một cách diệu kỳ, khá thú vị.

KẾT LUẬN

Có thể nói trong suốt dòng thời gian xưa nay, vấn đề “đạo tại tâm” luôn được nhiều người nhắc tới  như một sự “cảnh tỉnh” về đạo, với nỗi suy tư khác nhau, tùy theo góc độ nhìn nhận và hiểu biết nơi mỗi người, nhiều khi vô tình đi đến sự lệch lạc mà không biết. Chính vì vậy mới có tình trạng tự mâu thuẫn trong lý do của những người ủng hộ “đạo tại tâm”, cũng như nơi những người đả phá nó. Nếu sự nhận thức về đạo mà thiếu thành tâm thiện chí thì dễ dẫn đến cực đoan, đưa đến những ngõ ngách, sinh ra sự cố chấp vô lối, như “bốn người mù xem voi” vậy.

Như đã trình bày, Đạo và Tâm gắn liền với nhau như hình với bóng, như xác với hồn chứ không thể tách biệt. Bởi vì cái Tâm (心) mới là nơi ở (tại – 在 ) của cái Đạo (道). Mà đạo là sống, là hành, là thi thố ra bên ngoài, gọi là hành đạo (hành giả).

Còn theo sự nhận thức bình dị nhất, đạo là việc đạo đức, còn tâm là lòng dạ, nó được thể hiện trong cuộc sống. Nó cũng đúng, vẫn thuận hợp và có ý nghĩa với cụm từ “đạo tại tâm”, vì phải có lòng mới làm việc đạo đức được.

Con người theo đạo dễ lâm vào một số trường hợp, như giữ đạo theo kiểu giả hình, kiêu kỳ, vụ lợi, hình thức, lập dị, đồng bóng… Vì vậy dễ bị người khác chống đối, mà cách lên án thông thường nhất là nại vào câu nói “đạo tại tâm” để phản kháng. Cũng có những người lợi dụng câu này để che lấp, bào chữa cho những cái vô tâm và bê bối trong việc sống và giữ đạo.

Thực ra ít có người xuyên tạc hay hiểu lầm câu “đạo tại tâm” một cách thành tâm, thành thật với bản thân. Vì một khi có sự thành tâm thành ý tìm Đạo thì tự nhiên trong Tâm của con người sẽ thấy cái Đạo ló dạng, và họ sẽ không ngần ngại thi hành đạo đã chiếu soi trong tâm hồn của họ.

Như vậy, ĐẠO TẠI TÂM  (道 在 心) đã được trình bày khái quát trên cơ sở từ nguồn gốc của nó (tam giáo), cũng như xem xét qua mạc khải trong Thánh Kinh của Kytô giáo. Vấn đề đã tạm ổn trong sự nhận thức và hiểu biết hạn hẹp về Đạo và Tâm. Đây là vấn đề mà con người khó thấu triệt, dành cho các vị đã “đắc đạo” và những thánh nhân mới có thể quán thông được nó. Tuy vậy ai cũng có thể dùng cái Tâm của mình để gặp được Đạo, tùy theo cơ duyên tu dưỡng nơi mỗi người để được nhiều hay ít. Như trong Công giáo là tùy thuộc vào ân ban của Thiên Chúa, nhờ Đức Kitô, với điều kiện là phải thành tâm với chính mình để tìm đạo, sẽ gặp được hình ảnh củaThiên Chúa trong chính mình và nơi tha nhân.

Hàn Cư Sĩ

(Bài viết được tác giả gửi đến dongten.net)

Sách tham khảo:

-Tứ Thư trọn bộ (Dịch giả: Đoàn Trung Còn)

– Đạo Đức Kinh (Dịch giả: Nguyễn Hiến Lê)

– Phật Học Tinh Hoa (Nguyễn Duy Cần)

– Sách Giáo Lý Công Giáo và nguồn internet.

TẠ ƠN CHÚA TRONG MỌI HOÀN CẢNH

TẠ ƠN CHÚA TRONG MỌI HOÀN CẢNH

cam-on-doi

Có một câu thơ mà dường như ta vẫn hay nhìn thấy ở đâu đó.  Một câu thơ cho ta ý thức về những niềm vui không do mình tạo ra mà do cuộc sống ban tặng cho chúng ta.  Câu thơ ấy viết rằng:

“Cảm ơn đời mỗi sớm mai thức dậy, ta có thêm ngày nữa để yêu thương”.

Thật đẹp cho tâm hồn con người biết cám ơn.  Biết cám ơn là biểu lộ một tấm lòng lạc quan yêu đời.  Biết cám ơn biểu lộ một cung cách khiêm nhường để đón nhận mọi sự trong yêu thương và kính trọng.

Người không biết cám ơn sẽ luôn bất mãn vì những gì đang xảy ra.  Người không biết cảm ơn sẽ thiếu tôn trọng người làm ơn và món quà được đón nhận.

Ngược lại, người biết cám ơn sẽ cảm thấy vui và hạnh phúc trong mọi hoàn cảnh cuộc đời.

Họ biết cám ơn Chúa khi mỗi sáng mai thức dậy đang khi đó có hàng vạn người không còn thức dậy.

Họ biết cám ơn cha mẹ đã cho họ góp mặt vào trần thế.  Cám ơn thầy cô cho họ kiến thức.  Cám ơn bạn bè đã dìu họ đi qua những khúc quanh của dòng đời.  Cám ơn cuộc đời đã cho họ kinh nghiệm để sống hạnh phúc hơn.

Cám ơn làm cho tâm hồn con người an vui hạnh phúc.  Không biết cám ơn sẽ làm cho tâm hồn bi quan, thất vọng và chán chường.

Trong tích truyện kể về ông Matthew Henry là một học giả Kinh Thánh lừng danh vào đầu thế kỷ 18.  Một ngày kia, ông bị bọn cướp trấn lột và đêm hôm đó, Henry đã ghi xuống cuốn nhật ký của ông như sau: Hãy để cho lòng ta cảm tạ Thượng Đế.

Thứ nhất, bởi vì cho đến bây giờ ta mới bị ăn cướp; trước đây ta chưa bao giờ bị bọn cướp đón đường cả.

Thứ nhì, bởi vì mặc dầu bọn chúng cướp cái ví tiền, nhưng chúng nó không cướp mất mạng sống của ta.

Thứ ba, bởi vì mặc dầu chúng nó cướp sạch những gì ta có trên người lúc đó, nhưng cũng chẳng đáng giá là bao.

Thứ tư, ta là người bị cướp, chứ ta không phải là quân đi ăn cướp.

Một con người biết cám ơn luôn nhìn mọi sự trong nhãn quan tích cực.  Họ luôn thấy ánh bình minh xuyên qua màn đêm tăm tối của cuộc đời.  Họ không bi quan khi cánh cửa khép lại nhưng luôn tìm kiếm những lối đi khác cho bản thân.

Nhưng tiếc thay, người biết cám ơn lại quá ít!  Rất nhiều người đã không nhận ra cuộc đời họ là một chuỗi hồng ân của Chúa để cám ơn.  Họ không nhận ra tình thương của gia đình, bè bạn và cuộc đời dành cho họ để tri ân.  Họ vẫn sống trong bi quan để oán trời – oán đất về những gì đã – đang xảy ra trong cuộc đời của họ.

Dầu vậy giữa cuộc đời vẫn còn đó những lời cám ơn chân thành.  Dầu chỉ là số 1 so với số 9 quên cám ơn.  Ở giữa cuộc sống phồn hoa vẫn còn đó những gia đình cùng nhau đọc kinh, dâng lễ để tạ ơn Chúa đã phù hộ bình an.  Ở giữa cuộc sống bon chen hối hả vẫn còn đó những người con thảo hiếu mẹ cha qua việc chăm sóc cha mẹ già yếu.  Ở giữa chợ đời thị phi vẫn còn đó những người thiện nguyện phục vụ vô vị lợi để trả ơn cuộc đời.

Lời Chúa hôm nay cho ta thấy thái độ thật khiêm cung của người phong hủi được chữa lành.  Anh cám ơn Chúa với một thái độ khiêm tốn thẳm sâu.  Anh sấp mình trước vị ân nhân đã cứu anh.  Một thái độ cho thấy từ nay anh sẽ làm nô bộc cho người thi ân.  Một thái độ tôn kính dành cho Đấng có quyền năng xua trừ sự dữ trên cuộc đời anh.  Nhưng tiếc thay, con số biết cám ơn lại là con số nhỏ.  Chỉ một trong 10 người biết cám ơn, còn lại vẫn cho mình được quyền sống, quyền hưởng lộc mà không cần cám ơn.

Cuộc sống sẽ đẹp hơn nếu chúng ta biết cám ơn.  Cám ơn Chúa và cám ơn nhau sẽ làm cho con người thân thiện với nhau hơn.  Cám ơn Chúa mỗi sáng mai thức dậy vì đang khi đó có thể nhiều người sẽ không còn khả năng thức dậy.  Cám ơn Chúa mỗi khi chúng ta có dịp làm một việc thiện, một việc nghĩa đầy yêu thương đang khi đó có nhiều người không có khả năng để làm điều đó.  Cám ơn đời vì trên dòng đời hối hả vẫn còn có những người bạn cầm lấy tay ta để cảm thông, để nâng đỡ và dìu dắt chúng ta.

Xin cho chúng ta đủ khiêm tốn để cám ơn trong mọi sự, vì tất cả là hồng ân. Tất cả đều do Chúa mà có. Con người chỉ là thụ tạo nhưng được Chúa yêu thương và ban cho mọi sự trên trần gian.  Xin cho lời tạ ơn của chúng ta luôn vang dội không gian, hòa vào vạn vật để tôn vinh chúc tụng và ngợi khen tình thương Chúa vẫn ấp ủ đời ta và gìn giữ chở che chúng ta.  Amen!

Lm. Jos Tạ Duy Tuyền

langtghangchieutim gởi

Hỡi người biểu tình, hãy luôn cảnh giác…

  Hỡi người biểu tình, hãy luôn cảnh giác…

Mai Tú Ân (Danlambao)  Cuộc biểu dương lực lượng của bà con giáo dân ở trước cửa công ty Formosa đã thành công tốt đẹp bởi sự thắng lợi trong tầm mức của một cuộc đấu tranh ôn hòa bất bạo động. Nhưng vẫn có những bài học mà chúng ta phải rút ra từ trong thắng lợi này và làm nền tảng cho những cuộc xuống đường khác trong tương lai…

Trong cuộc biểu dương lực lượng ngày 2/10/2016 thì hẳn các cha xứ cùng giáo dân không hề có ý định tấn công các lực lượng CSCĐ đang đứng thành một hàng rào để bảo vệ bức tường rào của Formosa ở đằng sau. Có lẽ cuộc biểu dương lực lượng của bà con giáo dân và lương dân đã đến đúng điểm cần đến, cho một cuộc mitinh rầm rộ khí thế nhưng hoàn toàn ôn hòa trên tinh thần bất bạo động Thiên Chúa Giáo. Và đấy cũng là một chiến thắng không có gì phải bàn cãi cho những người biểu tình khi họ đến được nơi cần đến, và thể hiện khí thế ở nơi cần thể hiện khí thế.

Nhưng trong diễn tiến thì có một nhóm người nhỏ, có Trời biết họ là ai nhưng chắc chắn không phải là những giáo dân trật tự được dẫn dắt bởi linh mục Phe rô Trần Đình Lai, đã tấn công hàng rào CSCĐ bằng ném đá. Trong số người tấn công nhỏ này, có thể là những ngư dân phẫn uất, hay những người bị thản họa Formosa gây khốn đốn, mà cũng có thể lại chính là người của chính quyền, CA cài cắm vào hàng ngũ của người biểu tình để tìm cách gây bạo lực, bạo loạn, cũng như gây mọi cớ để đổ thừa cho người biểu tình, để chính quyền ra tay đàn áp. Chẳng có gì là quá đáng khi ta nói đây là một chiêu bài quen thuộc của những người CS trong suốt sự nghiệp “dựng nước và giữ nước” của họ. Và cái cái cách cho người của họ vào cài cắm và tấn công cảnh sát của họ để kích động bạo lực là chuyện họ sẵn sàng làm ngay, nếu cần.

Trở lại cuộc biểu tình ở Formosa thì ta thấy làm lạ là lịch xuống đường đã công khai trước đó mấy ngày nhưng lực lượng đối phó thì lèo tèo vài chục đến hơn 100 người và lọt thỏm giữa hàng ngũ đông đảo của người biểu tình. Không biết ý đồ của những người thực thi pháp luật hôm đó nhưng vẫn có dư luận cho rằng họ định ‘thí” số CSCĐ ít ỏi đó hoặc “thí” ngay cả Formosa để mưu việc lớn. Ngay cả hàng rào có lớp CSCĐ của họ cũng đứng dàn hàng ngang chỉ có một lớp người mỏng manh trước số rất đông người biểu tình. Điều này ngược lại hoàn toàn với qui tắc chống biểu tình đông người là phải có nhiều lớp CSCĐ, mỗi lớp phải có nhiều hàng người gắn kết và hỗ trợ chặt chẽ cho nhau để bảo vệ hàng rào. Nên khi bị ném vài hòn sỏi, vì cũng chẳng có đá để mà ném thì hàng ngũ CSCD này co cụm rồi chạy biến mất. Formosa thất thủ. Dân tràn lên, leo lên rào và hò reo. Nhưng các cha xứ đã ban hành lệnh rút quân sau khi đạt thắng lợi, và đương nhiên làm thất bại thảm hại âm mưu nào đó, nếu có của chính quyền.

Tôi tin rằng các cha xứ dẫn dắt không bao giờ ra cái lệnh ném đá và đa phần, nếu không phải là tuyệt đối số giáo dân đều không làm chuyện đó. Chắc chắn không ai lại tấn công lực lượng công an chỉ để tiến chiếm lấy cái hàng rào cả. Ta có thể nghe tiếng các người lãnh đạo cuộc biểu tình luôn la thét coi chừng những kẻ lạ mặt ném đá vào CS. Giáo dân phải ngồi xuống để phát giác những kẻ trà trộn.

Ta hãy xem một đoạn trích trên đài BBC tường thuật vụ này:

Linh mục Phê đô Trần Đình Lai nói người dân “Không được ném chai lọ, không được ném đất”, …”không được bạo động, tất cả ôn hòa”.

“Cảnh sát không được đánh dân, dân và cảnh sát không được xô xát,” ông Lai nói khi cuộc xô xát ngắn dừng lại.

Vị linh mục này phát biểu cuộc biểu tình là để “đòi hỏi những người đã gây ra thảm họa này phải bồi thường công bằng, trả lại môi trường xanh sạch cho dân tộc”.

“Người dân đứng ở cổng chính Formosa, trèo lên tường treo các băng-rôn khẩu hiệu, nhưng không có cuộc đập phá nào, không ai đập phá,” BBC

Và cũng gần như ngay sau đó, lực lượng giáo dân đã có lệnh rút lui, và các thành phần khác trong đoàn biểu tình cũng rút theo giáo dân. Như vậy rõ ràng là đã lệnh ôn hòa từ người biểu tình để đáp trả xứng đáng thái độ ôn hòa của các lực lượng an ninh trong ngày 2/10/2016 đó. Nói một cách văn vẻ thì không ai đã vượt qua lằn ranh Đỏ của ngày hôm đó, và cuộc biểu tình đã thành công tốt đẹp.

Biểu tình, xuống đường là sự thể hiện quyền lợi không thể bàn cãi của đông đảo người dân, hành động để phản đối, hay ủng hộ một việc nào đấy thiết thực với họ. Nếu không gặp phải sự trấn áp, phá hoại của chính quyền thì nó cũng không bao giờ biến thành bạo động hay mất kiểm soát mà mãi chỉ là các cuộc xuống đường hòa bình của lòng dân. Người dân tham gia xuống đường để thể hiện tiếng nói của mình, và vì những điều thiết yếu đến cuộc sống của họ chứ không phải do ai hay cái gì kích động cả. Đa phần họ đều là những công dân tôn trọng pháp luật, và nếu là giáo dân thì đều là những người kính Chúa, yêu nước… Họ xuống đường để đề đạt nguyện vọng với chính quyền và cũng như thể hiện sự phản đối hòa bình với chính quyền và tất cả đều muốn mọi sự diễn ra trong bình an, yên ổn. Chính quyền nên xem mỗi lần có đông đảo người dân xuống đường như là một “dịp may” để nhìn lại mình, để xem lại cách hành xử của mình chứ đừng vì nỗi sợ hãi nào đó mà hành động ngược lại với ý chí của người dân.

Bởi nâng thuyền là dân mà lật thuyền cũng là dân…

5.10.2016
Mai Tú Ân
danlambaovn.blogspot.com