50 Năm – Còn Đó Nỗi Buồn – Phạm Tín An Ninh     

Phạm Tín An Ninh                   

    

     Ngày 24.2.2025 tại Đại Hội Đồng LHQ, Hoa Kỳ đã quay lưng trước đồng minh NATO cùng hầu hết các quốc gia thuộc thế giới tự do, chính thức đứng về phía Nga, Iran, Bắc Hàn, và những nước thân CS, bỏ phiếu chống lại nghị quyêt lên án Nga gây chiến tranh xâm lược Ukraine, nhân dịp thế giới kỷ niệm 3 năm ngày Vladimir Putin xua quân vào lãnh thổ Ukraine. Sau đó, cả thế giới lại bàng hoàng, khi vị Tổng thống thứ 47 của Hoa Kỳ đã tỏ ra thân thiện với kẻ thù Nga, ca ngợi, bênh vực tên đồ tể Putin trong khi hết lời mạt sát, nhục mạ TT Zelensky, người đồng cấp, từng là đồng minh thân tín của Hoa Kỳ. Đã vậy, Tổng thống Mỹ còn đòi phải được khai thác khoảng sản, đất quý, tài sản quốc gia của Ukraine để trừ vào số tiền viện trợ trước đây. Có lẽ đây là nguyên nhân tiềm ẩn đưa đến cuộc tranh luận gay gắt, trở thành trận cải vã nặng nề ngay tại Tòa Bạch Ốc, giữa TT Zelensky của Ukraine và TT D.Trump cùng PTT J.D Vance của Hoa Kỳ vào ngày 28.2.2025, trước sự chứng kiến của các cơ quan truyền thông hiện diện cùng cả thế giới qua màn ảnh truyền hình. Sau khi “mời” TT Zelensky cùng phái đoàn tùy tùng ra khỏi Phòng Bầu Dục, TT Trump cũng đã quyết định ngưng tức khắc mọi viện trợ quân sự cũng như cung cấp tin tức tình báo, nhằm áp lực Ukraine phải nhanh chóng ngồi vào bàn hội nghị theo sự sắp xếp của Hoa Kỳ. Đến hôm nay, kết quả hội đàm tuy chưa chính thức ngã ngũ, nhưng ai cũng đã nhìn thấy trước số phận của Ukraine!

Sự kiện này xảy ra đúng vào thời điểm người Việt chuẩn bị tưởng niệm 50 năm, ngày kết thúc cuộc chiến Việt Nam. Chính xác hơn là ngày Miền Nam Việt Nam hay nước VNCH bị CS Bắc Việt cưỡng chiếm, cũng với sự phản bội tương tự của đồng minh Hoa Kỳ, khi Mỹ và Bắc Việt đã cùng bắt tay thỏa thuận ký kết hiệp định mạo danh Hòa Bình vào ngày 27.1.1973 tại Paris, quyết định số phận của VNCH, quốc gia chính trong cuộc chiến nhưng bị áp lực để (gần như) phải đứng bên lề. Trong các cuộc hội đàm, phái đoàn VNCH bị xếp ngồi ngang hàng với (cái gọi là) Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam, trong khi ai cũng biết đó chỉ là đám tay sai, con rối do CSBV nặn ra.

Vẫn biết rằng, quyết định của nước lớn đối với đồng minh luôn tùy thuộc vào quyền lợi của chính đất nước họ, tuy nhiên điều đau lòng là cung cách hành xử khi quay lưng, phản bội lại những người từng một thời nhận là bạn, cùng sống chết bên nhau. Tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu, ngày 29.4.1975, tại Đài Loan, ngay sau đêm đầu tiên bị áp lực phải rời khỏi nước, khi trả lời cho một đại diện của chính phủ Mỹ, cũng đã lên tiếng trong ngậm ngùi, cay đắng “Làm kẻ thù của Mỹ thì rất dễ, nhưng làm bạn rất khó”

Ukraine và VNCH bị đồng minh Hoa Kỳ bỏ rơi khi cuộc chiến đấu của hai quốc gia này có cùng một đích: tự vệ, chống lại quân xâm lược. Chỉ khác là trong cùng tình huống này, Ukraine có nhiều may mắn hơn VNCH. Bởi cuộc chiến Việt Nam kéo dài quá lâu, có hơn 58.000 quân nhân Mỹ tử trận, một số khác bị bắt làm tù binh, đẩy phong trào phản chiến tại Hoa Kỳ ngày một dâng cao, đỉnh điểm vào tháng 5/ 1970, đã có đến 4 triệu sinh viên thanh niên liên tục xuống đường, gây bạo động, một số đã bị cảnh sát bắn chết. Thời điểm này đại đa số dân chúng Mỹ, qua lưỡng viện quốc Hội, không còn ủng hộ cuộc chiến Việt Nam. Cũng phải thẳng thắn để thừa nhận, trên thực tế quân dân VNCH đã không chiến đấu hết lòng và dũng cảm bằng Ukraine, và các cấp lãnh đạo, đặc biệt vị tổng thống của họ rất xứng đáng. Ngoài ra, Ukraine vẫn còn được đa số dân chúng Mỹ ủng hộ, quan trọng hơn, được Tổ Chức Hiệp Ước Bắc Đại Tây Dương (NATO) và gần như toàn bộ Âu Châu luôn hết lòng, sát cánh. Trong khi ở vào thời điểm (trước và sau) Hiệp định Paris ký kết, VNCH gần như cô thân độc mã. Cùng lúc bị Mỹ bỏ rơi, các đồng minh khác như Úc, Nam Hàn, Thái Lan, kể cả Phi Luật Tân cũng đều theo Mỹ, quay lưng!

***

Vào thời gian này, đơn vị chúng tôi đang hành quân tảo thanh tại khu vực Kontum – Tây Nguyên, sau khi vừa liên tục tạo các chiến thắng lẫy lừng, đánh tan các lực lượng hùng hậu thuộc Mặt Trận B-3 của tướng CS Hoàng Minh Thảo. Với khẩu hiệu “sinh Bắc tử Nam”, CSBV chuyên áp dụng chiến thuật biển người, đẩy đám bộ đội, đa phần là thanh niên, sinh viên miền Bắc bị cưỡng bách nhập ngũ, như những con thiêu thân lao theo sau các trận địa pháo, để bằng mọi giá phải chiếm được căn cứ Charlie của Tiểu Đoàn 11 Nhảy Dù,  mở cánh cửa ngõ xua chiến xa T-54 với hỏa tiễn tầm nhiệt của Liên Xô, tràn ngập BTL Tiền Phương SĐ22BB tại Tân Cảnh, chiếm cứ một vùng Bắc Kontum. Sau đó, một lực lượng Cộng quân hùng hậu hơn, gồm Sư Đoàn 320, Sư Đoàn 2 (sau này tăng cường thêm Sư Đoàn 968 từ Lào sang), cùng 4 trung đoàn biệt lập 66, 95, 20, 24, Trung đoàn Đặc công 400, 2 trung đoàn Pháo,  6 tiểu đoàn Phòng không và 1 tiểu đoàn Tăng T-54… tràn xuống phía Nam nhằm thôn tính thành phố Kontum, trong ý đồ tiến chiếm Pleiku, nơi có bản doanh của BTL/QĐII/VNCH hầu dùng làm bàn đạp tràn xuống đồng bằng, duyên hải, nhưng chúng đã bị thảm bại trước một lực lượng VNCH, với chỉ duy nhất mỗi Sư Đoàn 23 BB cùng 3 tiểu đoàn Pháo Binh và 1 chi đoàn chiến xa M-41 cơ hữu, đặc biệt được Không quân (giai đoạn đầu có B-52 của Hoa Kỳ) yễm trợ. Điều này đủ để chúng tỏ khả năng chiến đấu của Quân Lực VNCH.

Ngay trong trận chiến đầu tiên tại tuyến Tây Bắc Kontum, vào sáng ngày 14.5.1972. cả hai Trung đoàn 28 và 64 của Sư Đoàn (Thép) 320 CS cùng 1 tiểu đoàn xe tăng bị tiêu diệt, làm cho cả sư đoàn có tiếng, kỳ cựu này bị kiệt quệ, không còn khả năng chiến đấu. Sau đó chỉ đúng 10 ngày, sáng sớm ngày 24.5.72. trong trận tấn công cùng lúc vào Tòa Giám Mục,  Bệnh Viện 2 Dã Chiến và vòng đai phi trường Kontum,  cả Trung đoàn 52 thuộc Sư Đoàn 2 (Quảng Đà) mới tăng cường từ vùng Quảng Nam vào, bị đánh tan, đã phải giải thể. Một số lớn cán binh của Trung đoàn 141 thuộc sư đoàn này bị bắt và ra hồi chánh. (Những thất bại này CSBV đã phải công nhận qua chính các hồi ký, quân sử của họ)

Chiến thắng Kontum vào Mùa Hè 1972 của đơn vị chúng tôi ở Quân Đoàn II, cùng lúc với Bình Long ở Quân Đoàn III và QuảngTrị ở Quân Đoàn I đã bẻ gãy ý đồ thôn tính VNCH của CSBV, khi lợi dụng việc Hoa Kỳ vừa rút hết quân về nước, đồng thời cắt giảm tối đa quân viện cho VNCH, sau chiêu bài “Việt Nam Hóa Chiến Tranh”.

Nhưng rồi Hiệp Định Paris ngày 27.1.1973 như một trận gió chướng tàn độc, cuốn trôi hầu hết những chiến công mà chúng tôi đã phải trả bằng biết bao máu xướng để đạt được, cùng lúc làm tiêu hao hào khí mà quân sĩ đơn vị chúng tôi vừa dâng cao trong men say chiến thắng. Hiệp định Paris mà Hoa Kỳ và Bắc Việt đã thỏa hiệp, ký kết trên nỗi đau thương, phẫn uất cùng thân xác của những người lính khốn khổ chúng tôi, chính là huyệt mộ do chính Hoa Kỳ đào lên nhằm chôn sống quân lực và cả quốc gia đồng minh VNCH sau đó.

Ủy Ban Nobel Hòa Bình NaUy năm 1973 đã phải vô cùng xấu hổ và ân hận khi có một quyết định vội vã, sai lầm, trao giải cho Henry Kissinger và Lê Đức Thọ. Bị cả thế giới và nhiều dân biểu NaUy phản đối, một số thành viên bất mãn rút tên ra khỏi Ủy Ban. Sau đó chính Lê Đức Thọ đã phải từ chối nhận giải, vì hơn ai hết, chính cá nhân ông ta và cả Bộ chính trị Đảng CS đều biết trước là sẽ không hề có hòa bình, bởi họ đã mưu đồ từ trước, không hề tôn trọng hiệp định mà chỉ lợi dụng những kẻ hở có toan tính, để đẩy mạnh cuộc chiến nhằm sớm cưỡng chiếm Nam Việt Nam.

Hiệp định mang tên Hòa Bình, nhưng kỳ thực chỉ là hình thức ngưng bắn kiểu “da beo”, để các lực lượng CSBV không phải rút về Bắc mà được tiếp tục hiện diện hợp pháp tại các phần đất mà chúng vừa lấn chiếm, cùng lúc Hoa Kỷ cắt hết viện trợ quân sự cho VNCH để đổi lấy tù binh, trong khi CSBV vẫn được Trung Cộng, Liên Xô cùng khối CS gia tăng tối đa viện trợ. Lợi dụng tình hình này, CSBV đã ào ạt chuyển đại quân, chiến xa, vũ khí, đạn dược, nhiên liệu vào chiến trường miền Nam theo đường mòn Hồ Chí Minh, và một số từ Lào sang để gia tăng cường độ các cuộc tấn công, trong khi chúng tôi phải chiến đấu trong những điều kiện vô cùng khó khăn, thiếu thốn, từ quân số, vũ khí, đạn dược, nhiên liệu, đến mọi phương tiện khác.

Hồi tưởng thời gian này, tôi bỗng thấy đồng cảm và thấm thía với tâm trạng của người lính trẻ Paul Bäumer, nhân vật chính trong “All Quiet On The Western Front” (Mặt Trận Miền Tây Vẫn Yên Tĩnh), tác phẩm viết về chiến tranh nổi tiếng của nhà văn Đức, Erich Maria Remarque, mặc dù tình huống tương tự đã xảy ra từ thời Đê Nhất Thế Chiến, hơn 55 năm trước:

“Ngày tháng trôi qua. Mùa hè 1918 này là mùa hè đẫm máu và kinh hoàng nhất. Thời gian giống như những thiên thần đang bay lượn trên vùng hủy diệt một cách không thể hiểu nổi. Dường như ai cũng biết rằng chúng tôi sẽ phải thua trong cuộc chiến này. Nhưng rất ít ai nói ra điều ấy. Chúng tôi đang bị đẩy lui. Chúng tôi không còn đủ quân số, không đủ tiếp liệu, đạn dược để có khả năng phản kích sau cuộc tổng công kích này. Duy chỉ có các chiến dịch hành quân là còn đang tiếp diễn – và những cái chết sẽ vẫn còn tiếp tục…”

Là những người trực tiếp chiến đấu, cận kề quân sĩ, chúng tôi đã phải xót xa, đau đớn đến dường nào khi chứng kiến đồng đội của mình ngã xuống mỗi ngày trong tình trạng tức tưởi, oan khiên như thế!

                   

                    (Trên đường ra trận – ảnh từ Internet)

Hơn mười năm phục vụ trong một đơn vị Bộ Binh bình thường, nhưng chúng tôi chưa hề một lần chiến bại, ngay cả những trận chiến gay go, đẫm máu nhất, với lực lượng địch đông gấp nhiều lần và vũ khí tối tân hơn, điễn hình như trận chiến Kontum. Vậy mà bỗng dưng chúng tôi trở thành những người bại trận. Bi thảm và tủi nhục hơn là dù có “gãy súng”, “buông súng” hay không, chúng tôi cũng bị thuộc về bên phía “đầu hàng” theo lệnh của ông tướng mới lên làm tổng thống ba ngày, nhân danh Tổng Tư Lệnh. Sau này, có người bảo ông làm đến đại tướng mà ngây thơ, nghe theo lời dụ dỗ, móc nối của ai đó và một người em ở phía bên kia, tin Cộng sản sẽ thành lập “chính phủ ba thành phần” Có người lại bảo ông giành chức tổng thống chỉ để làm một điều duy nhất – đầu hàng. Cũng có người bênh vực, bảo nhờ ông đầu hàng nên tránh được một cuộc tắm máu, và có đủ thời gian cho một số người kịp chạy đến Subic Bay hay đảo Guam, sang Mỹ sớm. Là những thằng lính khốn khổ nhất, năm tháng chỉ ở trong núi rừng, dưới các giao thông hào, ngộp thở với tiếng bom đạn cùng bao nhiêu thứ lệnh lạc chiến trường, chúng tôi đâu có biết gì về chính trị bẩn thỉu, nhất là các biến cố dồn dập, hỗn độn trong những ngày tháng cuối cùng tại thủ đô Sài gòn.

Trong chiến tranh, thắng bại dù sao cũng là lẽ thường tình. Cuộc nội chiến Mỹ 1861-1865, Nam quân đã đầu hàng Bắc quân, và trong Đệ Nhị Thế Chiến, nước Nhật hùng mạnh đã phải đầu hàng quân đội đồng minh, sau khi hai quả bom nguyên tử do Mỹ thả xuống thành phố Hiroshima và Nagasaki. Kẻ chiến thắng đã hành xử văn minh, nhân bản như thế nào, cho dù các cuộc chiến ấy cũng vô cùng tàn khốc, cướp đi rất nhiều sinh mệnh của hai bên – cả dân lẫn lính. Nhưng cuộc bại trận của chúng tôi sao mà phẫn uất và đau đớn quá.

Bị đồng minh phản bội, bỏ rơi trong đành đoạn, tức tưởi. Thua một kẻ địch không đáng để thua. Một chế độ tự do nhân bản, văn minh, phồn thịnh lại phải đầu hàng một chế độ man rợ, nghèo nàn, lạc hậu. Có lẽ trong lịch sử chiến tranh Đông-Tây, chưa từng có những người lính nào ở phe thắng trận lại ngồi khóc ở vệ đường trên phần đất vừa mới chiếm được – như trường hợp nhà văn bộ đội CS Dương Thu Hương và nhiều người khác nữa– bởi nhận ra mình bị lừa dối, uổng phí cả một thời trai trẻ để đi “giải phóng” một miền đất tự do, văn minh, nhân bản, giàu có, hạnh phúc gấp vạn lần “miền Bắc xã hội chủ nghĩa” của mình.

Đến hôm nay, cuộc chiến oan nghiệt ấy đã kết thúc vừa đúng nửa thế kỷ. Hầu hết những dấu tích chiến tranh trên quê hương đã bị “bên thắng cuộc” chôn xóa, hủy diệt, ngoại trừ một số rất ít được chọn lọc, tô son thiếp vàng, trưng bày trong các viện bảo tàng, nhằm để tô vẽ, tuyên truyền. Trong số chứng tích còn sót lại là những nấm mồ xác xơ của hàng vạn tử sĩ miền Nam, nằm trong các nghĩa trang tiêu điều hoang phế, bị kẻ chiến thắng đập phá, hủy hoại, nhục mạ. Thực ra, họ rất muốn phá hủy hoàn toàn cho sạch hết chứng tích cuộc chiến mà chính họ đã làm hoen ố lịch sử dân tộc một thời, như đã từng san bằng, giải tỏa một số các nghĩa trang quân đội ở các tỉnh miền Trung, nhưng sở dĩ một số ít nghĩa trang lớn còn sót lai, dù trong tình trạng bị phá hủy, thay tên gọi (như NTQĐ Biên Hòa trở thành một nghĩa trang dân sự địa phương lạ lẫm nào đó), chỉ nhằm để kiếm lợi trong các cuộc tuyên truyền, thương lượng, đổi chác với Hoa Kỳ cùng Thế Giới Tự Do, và cũng để gạt gẫm, lừa mị đồng bào miền Nam hầu ngụy tạo một chút gì cái “tình dân tộc” trong chiêu bài “hòa hợp hòa giải”.

                   

Mới đây, có người phát hiện Nghĩa trang Sư Đoàn 22BB hoang phế nằm lẫn khuất trong một vùng núi rừng Bình Định. Cây cỏ và cả rác rến gần như che lấp hàng ngàn mộ phần tử sĩ rêu phong. Một số đồng đội, nhà hảo tâm trong và ngoài nước cùng hô hào đóng góp, nhờ một số các anh chị em còn nặng tấm lòng với miền Nam trong nước tiếp tay, phát quang, sơn sửa, kẻ lại tên tử sĩ và dựng lại các tấm bia gãy đổ. Vậy mà, sau đó họ đã bị chính quyền CS đe dọa, ngăn chặn, gây bao phiền muộn. Kế hoạch trùng tu “kín” một số nghĩa trang hoang phế khác trong vùng cũng vì đó mà đành phải hủy bỏ.

                      

 Hàng vạn trại tù vội vàng được dựng lên sau tháng 4/1975, trên khắp mọi miền đất nước, nhằm đày ải, hành hạ, giết dần mòn gần một triệu quân cán chính, trí thức, văn nghệ sĩ, kể cả nhà sư và linh mục miền Nam. Giờ hầu hết những trại nằm trong rừng sâu, núi thẳm đã biến mất, một số trại tù lớn ở các thành phố thì đã được nâng cấp, sửa sang để trở thành những trại giam lớn của tỉnh hay cấp nhà nước. Tuy nhiên cứ thi thoảng người dân lại phát hiện một số nấm mồ “tù cải tạo” nằm sâu trong núi rừng Lào Cai, Yên Bái hoang vu, giờ chỉ còn mỗi tấm bia xám xịt rêu phong, lẫn khuất dưới cỏ cây từ gần 50 năm trước.

                       

             (Mộ tù cải tạo trong rừng núi Yên Bái – ảnh từ youtube)

Một chứng tích đau lòng khác, những thương binh VNCH  bị đối xử tệ hại, đang phải sống từng ngày khốn cùng trong nước, Phần đông, theo thời gian đã chết do nghèo đói, bệnh tật. Số còn lại cũng đã già nua, sống lây lất trên các vỉa hè góc phố. Vậy mà họ vẫn không yên với một chế độ thiếu vắng tính nhân bản, tình tự dân tộc, luôn nặng hận thù. Với nghĩa tình cùng lòng tri ân của những đồng đội, đồng bào từ hải ngoại và cả trong nước, vận động gom góp gởi về, qua các vị Linh mục nhân từ thuộc Dòng Chúa Cứu Thế Sài gòn, để các vị tổ chức mỗi năm một, hai lần buổi họp mặt “Bên nhau đi nốt cuộc đời”, như là một chút ủy lạo trong tinh thần huynh đệ chi binh và biết ơn những người đã hy sinh một phần thân thể, vậy mà chính quyền CS cũng đã tìm mọi cách gây khó khăn, đe dọa, ngăn chặn cấm đoán, để cuối cùng phải hủy bỏ.

                     

                    Thương phế binh VNCH – ảnh Dân Làm Báo)

Chứng tích quan trọng và sinh động hơn, là sự hiện diện của hơn 5 triệu người Việt đã phải bỏ nước ra đi, đang sống lưu vong trên khắp mặt địa cầu. Sau tháng 4.1975, cả một miền Nam “thua cuộc” đã nhanh chóng trở thành một vùng đất chết, khốn cùng, bi thảm. Người dân có cảm giác như bị lưu đày ngay trên chính quê hương mình. Tương lai chỉ còn là những cơn ác mộng. Thời ấy, mọi người chỉ còn biết nhìn ra biển khơi mênh mông để ước mơ một sự đổi thay nào đó ở phía bên kia chân trời mịt mờ vô định. Và còn gì đau đớn hơn khi con người nghĩ tới chuyện phải bỏ quê hương ra đi lại là một niềm khát vọng! Trong suốt lịch sử thăng trầm của dân tộc, chưa có thời kỳ nào mà người dân phải bỏ cả quê hương, nhà cửa, mồ mả ông bà cha mẹ để vượt thoát ra đi trong cái chết. Chính quyền CS từng tuyên truyền, bôi xấu họ là bọn phản quốc chạy theo chân đế quốc nhằm tìm chút bơ thừa sữa cặn, để rồi không lâu sau đó lại âu yếm, chiêu dụ, gọi họ là những “khúc ruột ngàn dặm”, những “sứ giả”của quê hương, dân tộc. Thực chất, các cộng đồng người Việt tỵ nạn trên hầu hết các quốc gia tự do – mà chính quyền CS vẫn luôn xem là “các thế lực thù địch”- đa phần đã thành công vượt bậc tại các quốc gia định cư, thế hệ con cháu thành đạt trên đủ mọi lãnh vực, từ giáo dục, khoa học kỹ thuật, chính trị, quân sự, văn học, âm nhạc. Đó là những đóng góp rất tích cực cho các quốc gia đón nhân họ, nhưng cũng là những chất xám quý báu mà chính quyền CS trong nước hằng mơ ước.

Trong suốt 50 năm, kẻ chiến thắng đã cố tình biến miền Nam, vùng đất tự do văn minh hạnh phúc xinh đẹp một thời, trở nên nghèo nàn, khốn khổ hơn so với cái nôi “cách mạng” miền Bắc, nhưng rồi dù có bị đàn áp, bần cùng hóa. phân biệt đối xử đến đâu, người miền Nam vẫn luôn giữ được văn minh, nhân bản, và đất miền Nam vẫn luôn đáng yêu, đáng sống. Đã có hằng triệu triệu người dân miền Bắc bỏ quê cha đất tổ tìm vào đất phương Nam, mong được đổi đời. Mật độ dân số miền Nam, đặc biệt tại Sài gòn ngày một đông đúc, có khi gấp gần 5 lần so với tháng 4.1975, nhà cửa, cao ốc thi nhau dựng lên bừa bãi, đến nỗi nhiệt độ trở nên nóng bức trong cả mùa đông, và nhiều con đường phố đã trở thành sông, chỉ sau một cơn mưa, dù không lớn lắm. Ngay cả các tỉnh Cao Nguyên, miền Trung, giờ cũng đầy những người miền Bắc bỏ xứ vào đây lập nghiệp, giành nương chiếm rẫy của những người Thượng, vốn từng bao nhiêu đời khai sơn phá thạch, sống chết ở đây.

50 năm, nền giáo dục “xã hội chủ nghĩa” lạc hậu, xuống cấp đã làm cho bao thế hệ học trò trở nên thua kém rất xa so với thế giới chung quanh. Đến nỗi một cô giảng viên trường Đại học sư phạm (Thái Bình) đã công khai trong một chương trình trên truyền hình Hà Nội, rằng “Tự Lực Văn Đoàn là một gánh cải lương, và ông Nhất Linh là ca sĩ cổ nhạc”. Tệ hại và tủi nhục hơn là tình trạng tha hóa trong ngành giáo dục, kể cả thầy giáo và hoc trò, Chuyện thầy giáo gạ tình, hiếp dâm nữ sinh cũng như chuyện học trò, kể cả nữ sinh, đánh nhau và đánh luôn cả thầy cô giáo, gần như là chuyện thường tình.

Đặc biệt, ngôn ngữ Việt (cả tiếng nói lẫn chữ viết) bị biến cải một cách tùy tiện, ngốc nghếch, kể cả muốn Tàu hóa như trường hợp ông giáo sư tiến sĩ Bùi Hiền nào đó. Lịch sử (và môn Sử học) được dựng lên từ bao điều dối trá. “Anh hùng Lê Văn Tám” được xây tượng đài, đặt tên cho các con đường lớn, công viên, trường học, bắt học trò cả nước phải học tập, noi gương như một vị anh hùng. Thực chất, lại là một người không hề có thật, mà chỉ là nhân vật tưởng tượng trong một phim truyện của đạo diễn Phan Vũ, nhằm để tuyên truyền. Thực chất, lại là một người không hề có thật, mà chỉ là nhân vật tưởng tượng trong một phim truyện nhằm để tuyên truyền. Chính ông GS Trần Huy Liệu, Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử VN đã thú nhận với GS Phan Huy Lê, nhân vật Lê Văn Tám là do mình “dựng” nên và nhờ GS Phan Huy Lê sau này khi đất nước yên ổn, nói lại giùm, lỡ khi đó ông Trần Huy Liệu không còn nữa.  (GS Phan Huy Lê: Trả lại sự thật hình tượng Lê Văn Tám, Khoa Đông phương học). Và ông Phan Huy Lê đã công bố sự thật này vào tháng 2 năm 2005,  nên người dân trong nước đều biết câu chuyện gian dối lừa mị này, vậy mà đảng và nhà nước vẫn không hề một lời lên tiếng.

50 năm, nền văn học “xã hội  chủ nghĩa” còn lại những gì, ngoài mấy trăm bài thơ nịnh Bác của đám văn nô, tiêu biểu cỡ Tố Hữu “Ta bên người, người tỏa sáng trong ta/ Ta bỗng lớn bên Người một chút…” hay “ Xta-lin ơi!/Hỡi ôi Ông mất, đất trời có không?/Thương cha, thương mẹ, thương chồng/Thương mình thương một, thương Ông thương mười), cùng các bản nhạc “đỏ”: Bác đang cùng chúng cháu hành quân, Trường Sơn Đông Trường Sơn Tây,Tiếng Chày Trên Sóc Bam Bo,  Năm Anh Em Trên Một Chiếc Xe Tăng, Cô Gái Vót Chông… mà đám văn công hát đi hát lại trong mấy ngày lễ lớn, và tất nhiên chẳng ai còn muốn nghe, với họ có khi đó chỉ là một cách “tra tấn” thính giác của con người!

Nhưng 50 năm với những bản tình ca miền Nam, một thời bị cho là nhạc vàng, cấm đoán, đến nỗi có người hát (như Toán Xồm, Lộc Vàng) đã từng bị đàn áp,  tù đày để người phải bỏ mình, người thì gần cả một đời khốn đốn, giờ lại làm mê mẫn say đắm mọi người lớn nhỏ, kể cả những “đồng chí lãnh đạo”, công an, bộ đội, từ Nam ra Bắc, từ thành phố cho đến các hang cùng ngõ hẻm, vùng sâu vùng xa, Mà oái ăm thay, đa phần những bản nhạc tình ca này lại viết rất đẹp về lính VNCH, người lính “bên thua cuộc”.

Trong một bài tiểu luận viết vào ngày 1.1.2022, dưới nhan đề “Níu một thời, giữ một đời”, nhà văn Ban Mai, một trí thức trẻ của chế độ (giảng viên tại Trường Đại Học Quy Nhơn) đã viết:

“Việt Nam, sau năm 1975 kết thúc chiến tranh giữa hai miền Nam – Bắc. Hòa bình đã đến sau mấy thập niên tang tóc vì bom rơi, đạn nổ.

Thế nhưng, người Miền Nam đã không thể tưởng tượng nổi, tiếp sau đó là một thảm cảnh kinh hoàng… Trầm trọng hơn nữa: Sự xơ xác tinh thần của trí thức Miền Nam không còn được tự do trình bày suy nghĩ, không còn được tự do hấp thụ tri thức nhân loại. Thay vào đó là những đợt học tập chính trị triền miên, theo một định hướng duy nhất: Chủ nghĩa Marx.Tất cả sách báo, văn học nghệ thuật bị tịch thu tiêu hủy, nền văn chương Miền Nam hoàn toàn bị bôi xóa. Giống như thời man rợ của Tần Thủy Hoàng năm 210 trước công nguyên…

Bắt đầu sau năm 1975, những thế hệ sinh ra và lớn lên ở Việt Nam không hề biết đã từng có một nền văn học nghệ thuật Miền Nam vô cùng gía trị với nhiều thể loại “trăm hoa đua nở”, đề cao tự do, dân chủ, với ý thức khai phóng, nhân bản, theo kịp trào lưu thế giới…

Bên trong nước, mấy năm gần đây có một bạn trẻ Nguyễn Trường Trung Huy ở Sài Gòn cũng dày công sưu tầm Văn học Miền Nam và bộ sưu tập của bạn ngày một đồ sộ đáng cho ta kinh ngạc, đó là một kỳ công. Tôi tin rằng, trên đất nước Việt Nam này có nhiều người thầm lặng âm thầm tìm kiếm, lưu giữ một nền văn chương nhân bản mà ta tưởng rằng đã chết sau năm 1975. Ngày nay, giới nghiên cứu văn học trong nước đang ngày càng tìm kiếm để nghiên cứu, mới đây trong một đề thi luận văn bậc trung học phổ thông, có một giáo viên đã đem bài thơ “Ta về” của Tô Thùy Yên cho học sinh bình giảng, với những câu thơ đầy tính nhân văn:

“Ta về như lá rơi về cội

Bếp lửa nhân quần ấm tối nay

Chút rượu hồng đây xin rưới xuống

Giải oan cho cuộc biển dâu này”.

(Tô Thùy Yên là một sĩ quan VNCH, từng bị tù đầy qua nhiều trại giam trong gần 13 năm, sau tháng 4.1975)

Tuy đây chỉ mới là một hành động đơn lẻ nhưng đó là một tín hiệu vui.

 Tôi tin rằng, sẽ không còn bao lâu nữa dòng Văn chương Miền Nam (1954-1975) sẽ được đưa vào giảng dạy chính thức trong nhà trường, nó xứng đáng được trả về với đúng vị trí của nó trong tiến trình phát triển văn học Việt Nam hiện đại, không ai và không một thể chế nào có thể bôi xóa một thời đại lịch sử của nước nhà. Giữ gìn, bảo tồn và chia xẻ Văn học Miền Nam cho đời sau là trách nhiệm của chúng ta, của tôi và các bạn những người yêu tiếng Việt, những người yêu văn chương Việt Nam”

Một vị giáo sư khác trong nước, chuyên nghiên cứu về Văn Học Việt Nam đã khẳng định “Trong hai thập niên 1955-1975, nếu không có Văn Học Miền Nam, thì nền Văn Học Việt Nam xem như không hề có, hoặc chẳng có gì cả!”

Nhà thơ, nhà giáo cũng là nhà báo nổi tiếng miền Bắc, Hoàng Hưng, trong bài viết “Về ảnh hưởng của Văn hóa miền Nam (VNCH) sau 1975”, sau khi hết lời ca ngợi lối sống, văn hóa, văn học miền Nam, đã kết luận:

“…nhìn một cách tổng thể, toàn bộ đời sống miền Nam, trong đó có đời sống văn hoá, văn học, trong 45 năm qua đã dần dần “giải phóng” người dân miền Bắc khỏi cái nhà tù lớn trong đó con người bị buộc phải giả tạo, “gồng mình” hoặc bị mê hoặc mà mù quáng tuân phục trong thời chiến và theo “định hướng XHCN….

Đến nay nó vẫn tiếp tục đóng góp vào tiến trình “giải Cộng” gian lao của đất nước! Chắc chắn sẽ đến một ngày, đất nước chứng kiến một cuộc phục hưng văn hoá, văn học, đi tiếp con đường mà văn hoá, văn học miền Nam đã đi. Con đường Tự Do, Nhân Bản, Hội Nhập Quốc Tế.”

Sau 50 năm, tất nhiên đất nước cũng đã có những đổi thay nhất định. Cơ sở hạ tầng, đặc biệt tại các đô thị có nhiều phát triễn, đời sống người dân ở đây có khá hơn so với nông thôn. Tuy nhiên trên thực tế, Việt nam vẫn còn tụt hậu khá xa so với nhiều nước chung quanh. Chính ông TBT Tô Lâm mới đây đã công khai tuyên bố: “Cách đây 50 năm vào những năm 1960-1970, Singapore chỉ mong được sang Bệnh viện Chợ Rẫy (Sài gòn) để chữa bệnh, giờ thì ta lại ước mơ được vào khám bệnh ở Singapore.”

Theo thống kê của IMF (International Monetary Fund/Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế), lợi tức tính theo đầu người ở Việt Nam cho năm 2025 là 4,986 Mỹ kim (Mk), trong khi ở Singapore là 93,956 Mk, và so với hầu hết các quốc gia Đông Nam Á khác, mức sống của người dân Việt nam đều rất thấp:

-Hàn Quốc(Nam Hàn): 37,675 Mk

-Nhật Bản               :  35,611 Mk

-Đài Loan               :  34,944 Mk

-Malaysia               :  14,423 Mk

-Thái Lan               : 7,754 Mk

Tệ hơn, Việt nam còn thấp hơn nhiều so với cả Mộng Cổ (Mongolia), một nước chỉ có đồng cỏ và sa mạc, với lợi tức trung bình của người dân năm 2025 ở đây là: 7,576 Mk.

Điều đặc biệt đáng chú ý hơn là trong hầu hết các quốc gia Đông Âu, mới giã từ chế độ CS khoảng 30 năm nay, người dân đều có lợi tức cao hơn nhiều so với Việt Nam (4,896 Mk).

-Tiệp Khắc (Czech Republic) = 33,038 Mk

-Hung Gia Lợi (Hungary)   = 25,703 Mk

-Ba Lan (Poland)                 = 25,040 Mk

-Lỗ Ma Ní (Romani)           = 21,570 Mk

-Bảo Gia Lợi (Bulgari)       = 18,456 Mk

Tuy vậy, chủ trương làm “kinh tế thị trường (với cái đuôi) theo định hướng XHCN” thực tế cũng đã làm giàu nhanh chóng cho hầu hết tầng lớp đảng viên, gia đình và phe nhóm, đưa họ sớm trở thành những nhà tư bản “đỏ”, đào thêm cái hố ngày càng sâu giữa giai cấp giàu (đảng) và nghèo (dân). Điều này hoàn toàn trái ngược mục tiêu “đấu tranh giai cấp” mà đảng CS từng hô hào; đấu tố, giết hại dã man hàng mấy vạn người vô tôi trong “Cải Cách Ruộng Đất”, lộ rõ chiêu trò lừa gạt “giải phóng miền Nam”, và hiện nguyên hình một đám thảo khấu khi chủ trương “tiêu diệt tư sản mại bản” rất tàn độc ngay sau khi cướp được miền Nam.

Sự làm giàu bộc phát (và bất chính) của tầng lớp tư bản đỏ này đã kéo theo hiện tượng xuống cấp từ Giáo Dục, Văn Hóa, Y Tế, tha hóa về Đạo Đức, Xã Hội và cả Tôn Giáo. Đặc biệt nhất là vấn nạn thối nát, tham nhũng – tất nhiên ngay trong hàng ngũ đảng CS, kể cả những lãnh đạo cao cấp nhất, từ hàng tướng lãnh, thứ bộ trưởng, thủ tướng đến cả chủ tịch nước – như là một thứ quốc nạn không còn thuốc chữa. Chức quyền được chuyền tay theo kiểu “cha truyền con nối”, “gia đình trị” của thời phong kiến. Đảng đứng trên pháp luật, thu tóm mọi quyền lực, tài sản quốc gia. Đảng viên sống phè phởn giàu sang trên đầu những người dân cùng khốn. Đám con cháu, những “hạt giống đỏ”, được đưa sang du học tại các trường tư nổi tiếng ở các nước tư bản, tất nhiên bằng tiền của nhà nước hoặc từ tham nhũng, chuẩn bị cho các vai trò kế vị.

Một ông thủ tướng (sau đó là chủ tịch nước) từng mở miệng khoe khoang “Việt nam bây giờ đang là một đất nước đáng sống nhất, cái cột đèn ở hải ngọai mà có chân thì cũng đã chạy hết về VN” (sic!). Trong khi ấy, hàng vạn cô con gái phải bỏ cha mẹ, người tình sang làm vợ cho những ông già bệnh hoạn, tàn tật ở tận Đài Loan, Nam Hàn, như một thứ nô lệ, kể cả nô lệ tình dục. Nhiều cô không liên lạc được với gia đình, Một số bị giết chết hoặc bị bán vào các động mãi dâm. Tại một số nước Á châu, báo chí công khai quảng cáo dịch vụ “mua vợ Việt Nam” với giá bằng một món đồ chơi rẻ mạt. Trong lịch sử dân tộc, dù có những giai đoạn lệ thuộc khó khăn, nhưng không có thời kỳ nào mà thân phận những người con gái, đàn bà Việt Nam lại rẻ rúng và thê lương như thế. Chính quyền đã “xuất khẩu” hàng vạn, hàng trăm ngàn người lao động đi khắp thế giới, ngay cả những nước nghèo ở tận châu Phi, nhằm kiếm sống và kiếm thêm ngoại tệ cho nhà nước. Đã vậy vẫn cứ tiếp tục những dòng người tìm mọi cách trốn khỏi Việt nam, để một số phải chết ngạt trong những chiếc xe đông lạnh, kín mít, một số phải sống trong núi rừng, trồng á phiện và bị bắt, vì không có quốc gia nào chấp nhận để dung thân. Một sự kiện đáng xấu hổ, khi nhóm chín người tháp tùng chuyên cơ của bà Chủ tịch Quốc Hội Nguyễn Thị Kim Ngân trong chuyến viếng thăm “hữu nghị” Hàn Quốc, vào đầu tháng 12.2018, đã bỏ trốn khi vừa mới bước chân lên đất khách. Đó là chưa kể một số ra nước ngoài chỉ để ăn cắp, làm gái điếm, đến nỗi cái “hộ chiếu” Việt nam đã từng trở thành nỗi ô nhục.

Sau đúng 50 năm, tại Sài gòn, trước cả mấy tháng, nhà nước CSVN đang chuẩn bị rầm rộ mừng ngày “Thống Nhất”, thao dượt một cuộc diễn binh rất qui mô mà tốn phí dự trù hằng chục triệu Mỹ kim, vẫn với lời ca “thề phanh thây uống máu quân thù” vẫn với các khẩu hiệu “đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào”, hừng hực không khí kiêu ngạo, hận thù. Trong khi ấy, đã có những anh bộ đội có mặt trong đoàn quân giải phóng ngày nào, theo chân nhà văn Dương Thu Hương (ngồi khóc ở vệ đường, khi nhận ra mình bị lừa gạt để chém giết đồng bào, hủy hoại cả một miền Nam nhân bản, văn mình, giàu đẹp) giờ cũng đã tột cùng ăn năn hối hận, như trường hợp cựu cán binh Bình Ngọc với bài thơ “Xin Lỗi Tháng Tư!”:

Thời trai trẻ, gác bút nghiên, gác mọi ước mơ …lên đường ” đánh Mỹ!”

Cây súng trên vai, máu đỏ trong tim!

Mụ lí trí! Hùng hục vượt Trường Sơn.

Đêm nghỉ, ngày đi, giày vẹt gót , áo sờn vai thấm lạnh!

Mẹ còng lưng vắt kiệt sức, mỏi mòn, thao thức đợi con về!

“Ba mươi tháng Tư” Bên Thắng cuộc, hả hê

Con trở thành kẻ “kiêu binh!” trong đoàn “quân Giải phóng!”

Nhưng! Ba mươi tám năm sau con vô cùng thất vọng!

Không hiểu mình đi Giải phóng cho ai?

Chễm chệ trên cao, toàn những kẻ bất tài!

Đáy xã hội, nhiều “dân oan!” mất đất.

Những nghịch lý, tai ương…chồng chất!

Khoảng cách “sang, hèn” cứ rộng mãi ra.

Người ở “quê” không còn tha thiết với “ao nhà”.

Tràn vào Miền Nam “ngoạ, chiếm, xâm canh…từ núi, rừng, chợ búa, thị thành, lầu cao, gác tía ….!”

Đi đâu, ở đâu cũng gặp toàn người “ngoài ấy”.

Nhà cửa, ruộng vườn ngoài ấy họ bỏ hoang???

Quê Hương tôi, tên thật đẹp (làng Vàng).

Cũng có đình, chùa, bờ xôi, ruộng mật!

Không hiểu vì sao nhiều người “bỏ tất” để vào Nam chen lấn, đua đòi?

Riêng tôi!

Đã mấy năm nay, tôi đã làm kẻ “chạy trốn!”

Trốn khỏi “sai lầm” những năm, tháng …đã đi qua!

Mỗi tháng Tư về tôi lại nhớ vào Nam!

Xin lỗi ! “tháng Tư!”

Xin lỗi ! Miền Nam, những việc tôi đã làm!

Xin lỗi tất cả!

Cả những người “bên thua cuộc!”

Biết sao được !

Mọi người chúng ta sinh ra, đâu có thể chọn được thời cuộc

Nhưng! Lẽ đời, Đen, trắng phải phân minh!

Xin lỗi! “tháng Tư!”

Hãy tha thứ cho mình! Rất chân thành, chứ không phải lời giả dối.

Hay trường hợp của Trần Đức Thạch, cựu phân đội trưởng trinh sát, Tiểu đoàn 8, Trung đoàn 266, Sư đoàn 341, Quân đoàn 4, qua các bài thơ

Tạ Lỗi Miền Nam

Tôi sinh ra ở miền bắc

Không hình dung ra giặc thế nào

Người ta hô hào

Phải căm thù giặc…?

Người ta dạy tôi là người miền bắc

Phải biết thương yêu đồng bào miền nam

Bà con ruột thịt đang lầm than

Dưới gót giày của Mỹ Diệm…

Những người con nông dân thật thà như đếm

Mặc áo lính vai khoác súng lên đường

Hồn nhiên tin là đi bảo vệ tổ quốc quê hương

Đánh đuổi quân xâm lược…

Thống nhất đất nước

Mới ngớ ra “Quân ta đánh dân mình

Miền nam giàu và dân sống văn minh

Không đói khát vật vờ như dân miền bắc…”

Hận ngút trời đứa nào lừa tuổi xuân tôi coi dân mình là giặc!

Sám Hối

Thế hệ chúng tôi tội lỗi ngập đầu

Nhìn con cháu lòng muôn hổ thẹn…

Thế hệ chúng tôi một thời chinh chiến

Thắng lợi mang về là xua đuổi văn minh

Thắng lợi mang về là làm khổ dân mình

Để đểu cáng lên ngôi gây tội ác

Thế hệ chúng tôi hoàn toàn lầm lạc

Quên dân tộc mình theo chủ nghĩa Mác Lê Nin

Bệnh hoạn tư duy méo mó cách nhìn

Gieo thù hận trong lòng con cháu

Thế hệ chúng tôi đổ bao xương máu

Chẳng ý nghĩa gì khi dân tộc điêu linh

Chẳng ý nghĩa gì khi đất nước tanh bành

Lãnh thổ giang sơn bị ngoại bang gậm nhắm

Thế hệ chúng tôi cuộc đời cay đắng lắm

Mất chính mình mang tội ác với tương lai

Riêng những người lính miền Nam, sau nhiều năm bị tù ngục, đọa đầy, nhiều gia đình ly tán, lưu lạc khắp bốn phương trời, nếu còn sống sót giờ cũng đã trên dưới 80, nhưng vết thương từ cuộc chiến bất hạnh ấy vẫn mãi luôn âm ỉ trong lòng. Một quãng đời trai trẻ, những vinh nhục, những đớn đau tức tưởi trong giờ khắc phải buông súng, cùng những món nợ máu xương chưa trả được cho đồng đội anh em, rồi cùng sẽ xót xa theo họ về cõi vô cùng.

Xin được đồng cảm với tâm sự của một đồng đội đàn anh, nhiều năm chiến đấu bên nhau, từng là một cấp chỉ huy trẻ tuổi, thao lược:

“Tuổi đời chồng chất, sức khỏe và những hăng say của tuổi thanh xuân ngày tháng nguội dần. Tôi thấy cuộc sống mình hụt hẫng hoang mang. Mỗi năm lại vắng thêm đồng đội và rồi một ngày nào đó, cũng sẽ tới lượt mình. Điều tự nhiên này, thực chất chẳng phải là nỗi ưu tư bởi vì đó là quy luật. Nhưng điều làm tôi suy ngẫm là ý nghĩa về cuộc đời của chính mình, thế hệ chúng ta, qua những việc đã làm, những đau thương đã trải…thực sự là gì, hoặc chẳng là gì hết?”

 Phạm Tín An Ninh

Cuối tháng 4-2025  

From: haiphuoc47& NguyenNThu


 

KHÔNG CÓ KẾ HOẠCH HẬU THUẪN – Lm. Mark Link, S.J.

Lm. Mark Link, S.J.

Chúa Giêsu trao cho các môn đệ nhiệm vụ hoàn tất công trình của Người bằng cách chia sẻ Tin Mừng cho toàn thể thế giới.

Có một huyền thoại xưa về việc lên trời của Đức Giêsu.  Theo huyền thoại này, khi Đức Giêsu đến thiên đường, thân thể của Người vẫn còn các vết thương của khổ hình thập giá.

Chân tay của Người vẫn còn mang vết đinh.  Cạnh sườn Người vẫn còn dấu vết của cây giáo.  Lưng của Người vẫn còn các vết sẹo vì roi vọt, và đầu của Người vẫn còn các thương tích vì gai nhọn.

Khi các thánh trên trời nhìn thấy các dấu vết này, họ phủ phục trước mặt Chúa Giêsu.  Họ bàng hoàng khi thấy sự đau khổ Người đã gánh chịu.  Sau đó thiên thần Gabrien đứng lên nói với Chúa Giêsu:

“Lạy Chúa, sự đau khổ mà Ngài gánh chịu ở thế gian thật lớn lao chừng nào!  Nhưng tất cả mọi người dưới thế có biết và có cảm kích những gì Ngài đã kinh qua vì họ, và yêu thương họ như thế nào không?”

Chúa Giêsu trả lời:

“Ô, không! Chỉ có một ít người ở Palestine biết điều đó.  Phần còn lại thì không nghe biết gì về ta.  Họ không biết ta là ai.  Họ không biết ta phải đau khổ thế nào, và ta yêu thương họ thế nào.”

Thiên thần Gabrien bàng hoàng khi nghe thế. Sau đó người nói với Chúa Giêsu:

“Làm thế nào những người còn lại ở dưới thế có thể biết về sự đau khổ và tình yêu của Ngài?”

Chúa Giêsu nói:

“Trước khi từ giã, ta có nói với Phêrô, Giacôbê, và Gioan, và một vài người bạn của họ, là hãy đi nói với toàn thể thế giới về ta.

“Họ nói với nhiều người mà họ có thể.  Những người ấy, đến lượt họ, sẽ nói với người khác.  Theo cách ấy, sau cùng toàn thể thế giới sẽ biết về tình yêu của ta dành cho họ.”

Bấy giờ thiên thần Gabrien lại càng bối rối hơn nữa.  Vì thiên thần biết loài người dễ thay đổi chừng nào.  Người biết họ dễ quên chừng nào.  Người biết họ dễ hồ nghi chừng nào.  Do đó người quay sang Chúa Giêsu và nói:

“Nhưng, lạy Chúa, nếu Phêrô, Giacôbê, và Gioan mệt mỏi hay thất bại thì sao?  Nếu họ quên Ngài thì sao?  Nếu họ bắt đầu có những hồ nghi về Ngài thì sao?

“Và ngay cả khi không có điều gì xảy ra, nếu những người được nghe họ nói trở nên thất vọng thì sao? Nếu họ quên đi thì sao?  Nếu họ bắt đầu có những hồ nghi về Ngài thì sao?

“Ngài không nghĩ đến các điều này hay sao?  Ngài không có một kế hoạch hậu thuẫn hay sao – nếu trong trường hợp?”

Chúa Giêsu trả lời:

“Ta có nghĩ đến tất cả những điều này, nhưng ta quyết định không có một kế hoạch hậu thuẫn.  Đây là kế hoạch duy nhất ta có.

“Ta trông nhờ vào Phêrô, Giacôbê, và Gioan không làm ta thất vọng.  Ta trông nhờ vào những người mà họ nói không làm ta thất vọng.”

Hai mươi thế kỷ sau, Chúa Giêsu vẫn không có kế hoạch nào khác.  Người trông nhờ vào Phêrô, Giacôbê, và Gioan, và họ đã không làm Người thất vọng.  Người trông nhờ vào những người mà các tông đồ nói với họ, và họ đã không làm Người thất vọng.  Và giờ đây Chúa Giêsu trông nhờ vào chúng ta.

Lễ Thăng Thiên là một trong những lễ quan trọng nhất của niên lịch phụng vụ.

Đó là ngày mà chúng ta cử hành việc Chúa Giêsu trở lại với Chúa Cha.

Chúng ta có thể so sánh Lễ Thăng Thiên với việc chuyền gậy từ lực sĩ này sang lực sĩ kia trong cuộc chạy đua tiếp sức.

Vào ngày này 2,000 năm trước, Chúa Giêsu đã chuyền chiếc gậy công việc của Người cho ông Phêrô, Giacôbê, và Gioan.  Sau đó, đến lượt họ chuyền gậy này sang những người sau họ.  Lần lượt, những người này chuyền gậy cho chúng ta.  Và giờ đây đến lượt chúng ta chuyền gậy cho những người khác.

Nói về thực tế, điều này có nghĩa gì?

Có phải nó có nghĩa chúng ta hãy ra đi và rao giảng về Chúa Giêsu, như các ông Phêrô, Giacôbê, và Gioan đã làm?  Có phải điều đó có nghĩa hãy đặt loa phóng thanh trong các thương trường và nói với mọi người về Chúa Giêsu?

Nó có thể có nghĩa như thế cho một số người, nhưng với hầu hết chúng ta nó có nghĩa căn bản hơn việc này.  Nó có nghĩa cơ bản hơn.  Nó có nghĩa sống lời giảng dạy của Chúa Giêsu ngay trong đời sống của mỗi người chúng ta.

Cách bắt đầu rao giảng về Chúa Giêsu cho thế gian là bắt đầu rao giảng về Chúa Giêsu cho chính mình.  Một ngạn ngữ Trung Hoa có nói:

“Nếu có điều đúng trong tâm hồn, sẽ có sự mỹ miều trong con người.
Nếu có sự mỹ miều trong con người, sẽ có sự hài hòa trong gia đình.
Nếu có sự hài hòa trong gia đình, sẽ có trật tự trong quốc gia.
Nếu có trật tự trong quốc gia, sẽ có hòa bình trên thế giới.”

Cách mở đầu rao giảng về Chúa Giêsu cho thế gian là bắt đầu sống lời Chúa trong cuộc đời mình.  Một khi chúng ta bắt đầu thi hành điều này, thông điệp của Chúa Giêsu sẽ bắt đầu gợn sóng trong thế giới.  Và nếu có đủ Kitô Hữu làm điều này, gợn sóng đó sẽ trở nên một cơn thủy triều, và thủy triều đó sẽ thay đổi mặt đất trong một phương cách mà chúng ta không bao giờ mơ tưởng có thể được.

Đây là thông điệp của buổi lễ hôm nay.  Đây là thách đố mà các bài đọc hôm nay đề ra cho chúng ta. 

Chúa Giêsu trông nhờ vào chúng ta.

Hãy kết thúc với những lời của Chúa Giêsu nói với các môn đệ trong Bài Giảng Trên Núi.  Trong ánh sáng của những gì chúng ta vừa nói, những lời này có một ý nghĩa đặc biệt.  Chúa Giêsu nói:

“Các con giống như muối cho toàn thể nhân loại.  Nhưng nếu muối mất vị mặn của nó, không cách chi làm cho nó mặn lại.  Nó trở nên vô dụng, bị quăng ra ngoài và người ta chà đạp lên.

“Các con giống như ánh sáng cho toàn thế giới.  Một thành xây trên núi thì không thể che giấu được.  Cũng thế, ánh sáng của các con phải chiếu tỏa trước mọi người, có như thế họ sẽ thấy những điều tốt lành các con làm và ngợi khen Cha các con ở trên trời.” (Mt 5:13-16).

Lm. Mark Link, S.J.

From: Langthangchieutim

RỒI SẼ HÂN HOAN – Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

 Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

“Anh em sẽ lo buồn, nhưng nỗi buồn của anh em sẽ trở thành niềm vui!”.

Trong “Niềm Vui Của Các Thánh”, Jean Pierre de Caussade chỉ ra bí quyết để xua tan lo lắng và u buồn, “Mỗi ngày, bạn hãy ‘phó thác’ quá khứ cho lòng thương xót của Thiên Chúa; ‘phó mặc’ tương lai cho sự quan phòng của Ngài; và ‘phó dâng’ hiện tại cho tình yêu Ba Ngôi. Được như thế, bạn sẽ nghiệm ra rằng, niềm vui luôn chiếm ưu thế, linh hồn bạn rồi sẽ hân hoan như các thánh đã hân hoan!”.

Kính thưa Anh Chị em,

Lời Chúa hôm nay đề cập nỗi buồn và niềm vui; nhưng vì niềm vui luôn chiếm ưu thế nên sau những muộn phiền lo lắng, các môn đệ của Chúa Giêsu ‘rồi sẽ hân hoan!’.

Chúa Giêsu nói đến u buồn của các môn đệ vì sự ra đi của Ngài; nhưng sau đó, Ngài nói, “nỗi buồn của anh em sẽ trở thành niềm vui” – niềm vui “lại thấy Thầy”. Lần đầu đến Côrintô, Phaolô được cặp đôi Aquila và Priscilla tiếp; họ cho ông một chỗ ở, một việc làm. Và còn nhiều hơn thế! Về sau, qua các thư, Phaolô tiết lộ, họ còn có những ‘căn phòng’ tương tự ở Êphêsô, Rôma, nơi các tín hữu học và dạy giáo lý, chia sẻ Lời Chúa và cử hành Thánh Thể. Bạn sẽ ngạc nhiên khi nhớ lễ “Hai thánh dệt lều Aquila và Priscilla” mừng vào ngày 8/7 hàng năm! “Họ là các giáo dân đã hiến tặng “đất tốt” cho việc phát triển đức tin” – Bênêđictô XVI. Nhờ họ, “Chúa đã mặc khải ơn Người cứu độ trước mặt chư dân” – Thánh Vịnh đáp ca. Phaolô và các giáo đoàn sơ khai hẳn đã trải nghiệm sự ‘hiện diện đầy ủi an’ của Chúa Phục Sinh qua họ.

Ở đây, chúng ta có một hình ảnh tuyệt vời về những gì mà Giáo Hội được kêu gọi để trở thành. Đó là một ‘cộng đồng các kẻ tin’ vốn sẵn sàng nâng đỡ nhau, đặc biệt những lúc khó khăn; một sứ vụ mà chúng ta – ở bất cứ thời điểm nào – trong mọi đấng bậc cùng chia sẻ, dù là nam hay nữ, trẻ hay già, độc thân hay lập gia đình. Đó là sứ vụ mà Thánh Thần luôn thúc đẩy, truyền cảm hứng, để mỗi người trở nên sự ‘hiện diện đầy ủi an’ của Chúa Phục Sinh cho người khác. Nhờ đó, ai ai cũng có thể trải nghiệm ‘Chúa là nguồn vui’; giữa bao khó khăn, mỗi người ‘rồi sẽ hân hoan’ nhờ sự bổ trợ của các thành viên khác.

Anh Chị em,

“Nỗi buồn của anh em sẽ trở thành niềm vui!”. “Giêsu Nguồn Vui” luôn nhịp bước bên chúng ta, Ngài không cất đi những khốn khổ trên hành trình, nhưng luôn hiện diện để bạn và tôi đi trọn con đường Ngài đi. Vấn đề là chúng ta có biết ‘phó thác’ quá khứ cho lòng thương xót của Thiên Chúa; ‘phó mặc’ tương lai cho sự quan phòng của Ngài; và ‘phó dâng’ toàn thể hiện tại cho tình yêu Ba Ngôi? Tắt một lời, nếu Chúa Phục Sinh luôn ‘chiếm chỗ’ ưu tiên ở trung tâm cuộc sống chúng ta, chúng ta ‘sẽ lại thấy Ngài’. Thấy Ngài trong kinh nguyện; thấy Ngài trong Thánh Thể; thấy Ngài trong Lời, và nhất là thấy Ngài trong những con người mà chúng ta phục vụ hay những con người đang tiếp sức cho chúng ta. Đó là những thành viên của Hội Thánh – hoặc ngay cả – chưa gia nhập Hội Thánh.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, để có thể chia sẻ ‘Giêsu Nguồn Vui’ cho những ai vui ít buồn nhiều, cho con nhận ra sự ‘hiện diện đầy ủi an’ của Chúa trong từng phút giây ngày sống của con!”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế)   

***********************************************************

Thứ Năm Tuần VI Phục Sinh

Anh em sẽ lo buồn, nhưng nỗi buồn của anh em sẽ trở thành niềm vui.

✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Gio-an.   Ga 16,16-20

16 Khi ấy, Đức Giê-su nói với các môn đệ rằng : “Ít lâu nữa, anh em sẽ không còn trông thấy Thầy, rồi ít lâu nữa, anh em sẽ lại thấy Thầy.”

17 Bấy giờ vài người trong nhóm môn đệ của Đức Giê-su hỏi nhau : “Người muốn nói gì khi bảo chúng ta : ‘Ít lâu nữa, anh em sẽ không trông thấy Thầy, rồi ít lâu nữa, anh em sẽ lại thấy Thầy’ và ‘Thầy đến cùng Chúa Cha’ ?” 18 Vậy các ông nói : “’Ít lâu nữa’ nghĩa là gì ? Chúng ta không hiểu Người nói gì !” 19 Đức Giê-su biết là các ông muốn hỏi mình, nên bảo các ông : “Anh em bàn luận với nhau về lời Thầy nói : ‘Ít lâu nữa, anh em sẽ không trông thấy Thầy, rồi ít lâu nữa, anh em sẽ lại thấy Thầy’. 20 Thật, Thầy bảo thật anh em : anh em sẽ khóc lóc và than van, còn thế gian sẽ vui mừng. Anh em sẽ lo buồn, nhưng nỗi buồn của anh em sẽ trở thành niềm vui.”


 

Phúc thay ai có tâm hồn trong sạch, vì họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa.” (Mt 5:8) – Cha Vương

Hôm nay Chúa ao ước bạn có một quả tim đơn sơ và trong sạch đó. Bạn có thể làm Chúa hài lòng được không?

Cha Vương

Thứ 4: 28/05/2025 

TIN MỪNG: Phúc thay ai có tâm hồn trong sạch, vì họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa.” (Mt 5:8)

HOA QUẢ THỨ 12: Khiết Tịnh (thanh khiết, đức thanh sạch) là thói quen tiết chế ham muốn tình dục vì lý do chính đáng. (Theo Thánh Thomas Aquino và triết gia Aristotle)

SUY NIỆM: Trong xã hội mà những phim ảnh đồi truỵ đang len lỏi vào từng ngõ nhách của môi trường sống của con người một cách quá dễ dàng thì thật là nguy hiểm quá. Có những người ôm cái iPhone/iPad của mình trong phòng riêng hoặc trong mền đến nỗi mặt mũi họ phờ phạc ra, họ quên ăn quên ngủ. Mình không giám kết án họ đã xem gì hoặc chơi những trò chơi gì nhưng đây là nỗi lo âu rất lớn của các bậc phụ huynh và các nhà giáo dục. Khi con người đã không kiềm chế được ham muốn dục vọng của mình như—tình dục, chè chén, chơi bời, dâm đãng, bài bạc… thì việc giáo dục về đức khiết tịnh lại càng trở nên cấp bách. Con người sẽ bị mất đi nhân tính và họ quên đi những việc họ đang làm hoàn toàn trái ngược với ý định của Thiên Chúa. Do đó đức kiết tịnh rất cần thiết để giúp con người biết tự chủ hoặc chế ngự các đam mê để được bình an hạnh phúc, nếu không thì họ sẽ trở thành nô lệ của những đam mê và trở nên bất hạnh. Sống khiết tịnh là nhiệm vụ của mỗi người tuỳ theo mỗi ơn gọi. Có ba hình thức sống khiết tịnh: khiết tịnh của bậc hôn nhân, khiết tịnh của người góa bụa và khiết tịnh của kẻ đồng trinh. Giáo Hội không ca tụng lối sống này mà loại bỏ lối sống khác. Hiển nhiên, như hoa quả của Chúa Thánh Thần, khiết tịnh không phải là điều người ta có thể đạt đến nếu không muốn bỏ công cầu nguyện hay nỗ lực. Quả ngọt trên cây thường xuất hiện sau cùng. Vì thế, để là hoa quả  của Thánh thần, đòi hỏi một quá trình vun trồng thật tốt trong ơn nghĩa Chúa. Để bắt đầu sống khiết tịnh trong thế giới với đủ loại cám dỗ, bạn phải có một đời sống nội tâm mạnh mẽ; kết hiệp với Chúa qua việc ăn chay hãm mình, tham dự Thánh Lễ thường xuyên và lãnh nhận các bí tích sẽ là những việc cần thiết cho những ai muốn đạt được nhân đức này.

LẮNG NGHE: Thánh Phaolô viết: “Đêm sắp tàn, ngày gần đến. Vậy chúng ta hãy loại bỏ những việc làm đen tối và cầm lấy vũ khí của sự sáng để chiến đấu. Chúng ta hãy ăn ở cho đứng đắn như người đang sống giữa ban ngày: không chè chén say sưa, không chơi bời dâm đãng, cũng không cãi cọ ghen tương. Nhưng anh em hãy mặc lấy Chúa Giêsu Kitô, và đừng chiều theo tính xác thịt mà thoả mãn các dục vọng” (Rm 13:12-14).

CẦU NGUYỆN: Lạy Chúa Thánh Thần là hơi thở của hồn con, xin tạo cho con một quả tim trong sạch, với đôi mắt trong ngần và thanh khiết để con chiêm ngưỡng vinh quang của Chúa.

THỰC HÀNH: Xoá bỏ những kênh YouTube không lành mạnh. 

From: Do Dzung

**************************

Quả Tim Trong Sạch – Thánh Vịnh 50

Quốc tế đồng loạt kêu gọi trả tự do cho nhà báo Phạm Đoan Trang

Ba’o Dat Viet

May 28, 2025

 HÀ NỘI — Nhân ngày sinh nhật lần thứ 46 của nhà báo độc lập Phạm Đoan Trang (25 Tháng Năm, 1978), bốn tổ chức nhân quyền quốc tế đã lên tiếng yêu cầu nhà cầm quyền Cộng sản Việt Nam trả tự do ngay lập tức và vô điều kiện cho bà – người đang thụ án 9 năm tù vì các hoạt động ôn hòa, phản biện xã hội.

Trong một tuyên bố chung, các tổ chức gồm Phóng Viên Không Biên Giới (RSF), Ủy Ban Bảo Vệ Nhà Báo (CPJ), Hội Văn Bút Hoa Kỳ (PEN America) và Sáng Kiến Pháp Lý Việt Nam (LIV) nhấn mạnh rằng tình trạng giam giữ bà Trang là “không thể chấp nhận được” và kêu gọi cộng đồng quốc tế gia tăng áp lực để Hà Nội chấm dứt sự đàn áp đối với giới làm báo độc lập.

“Xuyên qua các bài viết nghiêm túc và với sự can đảm khác thường, Phạm Đoan Trang là biểu tượng cho cuộc đấu tranh vì quyền được biết và tự do báo chí tại Việt Nam. Việc bà bị cầm tù là điều không thể dung thứ,” bà Aleksandra Bielakowska, Giám đốc Vận động khu vực Châu Á – Thái Bình Dương của RSF tuyên bố. Bà cũng nhấn mạnh tình trạng sức khỏe đáng lo ngại của bà Trang sau gần 5 năm bị giam giữ, và yêu cầu nhà chức trách phải cho bà tiếp cận đầy đủ các dịch vụ y tế độc lập.

Bà Phạm Đoan Trang bị bắt vào Tháng Mười, 2020 tại Sài Gòn, sau nhiều năm bị theo dõi và sách nhiễu vì các bài viết phản ánh hiện thực xã hội Việt Nam dưới sự cai trị của một chế độ độc đảng. Bà bị tuyên án 9 năm tù vào cuối năm 2021 với cáo buộc “tuyên truyền chống nhà nước” – một điều khoản mơ hồ trong Bộ luật Hình sự Việt Nam, lâu nay bị giới quan sát quốc tế xem là công cụ để dập tắt tiếng nói bất đồng.

Trước khi bị bắt, bà Trang là một trong những tiếng nói nổi bật nhất trong giới báo chí độc lập tại Việt Nam. Bà là đồng sáng lập Luật Khoa tạp chí – một trang báo mạng chuyên cung cấp kiến thức pháp lý và chính trị cho công chúng – và là tác giả của nhiều tài liệu hướng dẫn người dân tự bảo vệ quyền lợi hợp pháp. Năm 2019, RSF vinh danh bà với giải thưởng “Tự do báo chí.” Một năm sau, Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ trao tặng bà danh hiệu “Phụ nữ can đảm toàn cầu.”

Bà Trang là hiện thân của thế hệ trí thức trẻ, dám lên tiếng trước bất công, đấu tranh ôn hòa vì quyền con người, và chấp nhận mọi hiểm nguy – bao gồm cả tù đày – để đòi hỏi một xã hội công bằng, minh bạch hơn.

Việc bà bị giam giữ tiếp tục gây phẫn nộ trong giới hoạt động quốc tế, vốn lâu nay vẫn chỉ trích tình trạng đàn áp tự do ngôn luận tại Việt Nam. Các tổ chức nhân quyền cho rằng bản án dành cho bà Trang là bằng chứng rõ ràng cho thấy chính quyền Cộng sản Việt Nam đang bóp nghẹt quyền tự do biểu đạt, bất chấp những cam kết với cộng đồng quốc tế.

Thông điệp từ tuyên bố chung là rõ ràng: Phạm Đoan Trang không nên ở trong tù. Việc bà bị giam giữ không chỉ là một sự bất công cá nhân, mà còn là lời cảnh báo đáng sợ về tình trạng tự do báo chí đang bị đe dọa nghiêm trọng tại Việt Nam. Và nếu cộng đồng quốc tế tiếp tục im lặng, những tiếng nói như của bà Trang có thể sẽ mãi mãi bị bịt kín sau song sắt.


 

Kinh tế Việt Nam đang đứng bên bờ vực thẳm-Trần Anh Quân

Ba’o Nguoi-Viet

May 27, 2025

Trần Anh Quân

Tổng Bí Thư Tô Lâm nhắc nhở “tiền trong dân còn nhiều,” Thủ Tướng Phạm Minh Chính liền phát động thi đua làm giàu: CSVN đang chuẩn bị in thêm tiền để chơi canh bạc “lạm phát cao.”

CSVN ủ mưu gom tiền trong dân

“Tiền trong dân còn nhiều” là câu nói khiến người ta nhớ tới Vương Đình Huệ, khi ông này còn là Chủ tịch Quốc hội. Ông Huệ nói câu hồi tháng Mười năm 2021, khi Việt Nam đang chìm trong dịch bệnh cúm Tàu và vẫn chưa có giải pháp gì để vực dậy nền kinh tế. Nên ông Huệ muốn “huy động” tiền trong dân để cứu vãn tình hình sau đại dịch.

Thật ra, người đầu tiên phát biểu “tiền trong dân còn nhiều” chính là ông Tô Lâm. Hồi Tháng Bảy năm 2016, khi mới lên ghế bộ trưởng Bộ Công An được ba tháng, ông Lâm nói trước chính phủ rằng “hàng nghìn tỷ đồng cá độ đổ vào mùa bóng đá năm nay, hàng nghìn tỷ đồng các tổ chức kinh doanh đa cấp huy động được dễ dàng… cho thấy lượng tiền tồn đọng trong dân rất lớn.” Từ đó, ông Lâm đã tổ chức nhiều chiến dịch tấn công các đường dây cá độ để gom tiền về cho Bộ Công An. Nổi bật trong các chiến dịch đó là vụ khởi tố đường dây cờ bạc của Phan Sào Nam và Thiếu Tướng Nguyễn Thanh Hoá (cục trưởng Cục Cảnh Sát công nghệ cao).

Ngày 17 Tháng Năm, ông Lâm một lần nữa nhắc: “Tiền trong dân rất nhiều, chỉ số tài chính, số dân gửi tiết kiệm vào ngân hàng rất lớn mà tỉnh không biết cách dựa vào nguồn vốn đó phát triển kinh tế. Nhân dân không biết kinh doanh, không biết sản xuất, không mở được doanh nghiệp thì tỉnh làm sao thu được thuế mà người dân lại rất vất vả.”

Tổng bí thư CSVN thừa nhận rằng người dân đã mất niềm tin vào hệ thống ngân hàng, nên không dám đi gửi tiền nữa, gây khó khăn cho việc huy động tiền trong dân. Báo trong nước dẫn lời ông Lâm: “Tiền vào ngân hàng càng tăng thêm sức mạnh quốc gia. Làm sao phải huy động được toàn bộ sức của dân, không để tiền nhàn rỗi. Nhưng nếu người dân không tin tổ chức tín dụng nữa sẽ để tiền ở nhà. Trong khi hệ thống tín dụng vay rất khó, doanh nghiệp không vay được để kinh doanh, lại sinh ra tín dụng đen, lãi suất cao.”

Ngay sau chỉ đạo của ông Lâm, hôm 18 Tháng Năm, Thủ Tướng Phạm Minh Chính thông báo Chính Phủ đang giao Bộ Nội Vụ xây dựng kịch bản phát động “phong trào cả nước thi đua làm giàu.”

Việc gấp rút huy động tiền trong dân và phát động thi đua làm giàu lần này cho thấy hai chuyện: thứ nhứt, tiền trong nhà nước đã cạn kiệt; thứ hai, các doanh nghiệp nhà nước cũng không thể làm giàu nữa (vì đụng đâu cũng lỗ, ví dụ: than, điện, xăng…). Với tình hình này thì sắp tới, chắc chắn CSVN sẽ in thêm tiền để “chữa cháy.”

Tiền đền bù quan chức nghỉ việc gấp 7 lần tiền miễn học phí

CSVN đang dùng hàng chục ngàn tỷ đồng trả cho quan chức nghỉ việc sớm, nhưng chỉ chi ra vài ngàn tỷ để miễn học phí cho học sinh

Trong kỳ họp Quốc hội CSVN mới đây, có 436/438 dân biểu đã tán thành thông qua Nghị quyết về điều chỉnh, bổ sung dự toán ngân sách Nhà nước năm 2025. Trong đó có việc điều chỉnh, bổ sung dự toán ngân sách Trung ương năm 2025 để chi trả 44,000 tỷ đồng cho cán bộ công chức viên chức nghỉ việc sau khi tinh gọn bộ máy nhà nước.  Đồng thời, chuyển 6,623 tỷ đồng tiền dự toán chi thường xuyên ngân sách Trung ương năm 2024 chưa phân bổ sang năm 2025 để thực hiện chính sách miễn học phí, và thực hiện các nhiệm vụ phát sinh do sắp xếp tổ chức bộ máy theo phê duyệt của các cấp thẩm quyền.

Tính ra thì số tiền bổ sung để đền bù cho cán bộ nghỉ việc sớm gấp 7 lần số tiền chi ra để miễn học phí cho học sinh.  Vấn đề là không phải tất cả các học sinh đều được miễn học phí, mà từ năm học 2025-2026 mới bắt đầu miễn học phí cho học sinh các trường công lập. Trong khi đó lượng học sinh bị đẩy vào trường tư là rất lớn. Vào trường tư không phải do các em học dở, hay gia đình giàu có, dư dả; mà là vì không đủ trường công lập. Không vào trường công được thì chẳng lẽ nghỉ học, cho nên hàng triệu học sinh buộc phải học trường tư.

Ngoài ra, miễn học phí nhưng tiền sách giáo khoa vẫn tăng, kèm theo đó thì các trường công lập vẫn thu tiền điện, nước, máy móc trang thiết bị nhà trường (mỗi năm mỗi đổi và năm nào cũng đóng thêm), tiền ăn uống cho học sinh bán trú, tiền quỹ lớp, quỹ trường, tiền học phụ đạo, bổ sung kiến thức, ngoại khoá, các môn tăng cường ngoài chương trình… Nói là miễn học phí nhưng thực tế là tăng thêm rất nhiều chi phí khác.

Đối với những mầm non của Tổ quốc thì CSVN đối xử như vậy. Nhưng đền bù cho quan chức mất việc thì lại rất ưu ái. Tại sao họ nghỉ hưu sớm, tại sao bị đào thải, tại sao lại nằm trong nhóm bị tinh gọn? Có phải là vì làm không được việc, không đủ năng lực phục vụ người dân, mua chức mua quyền rồi dư thừa quan chức? Tại sao những kẻ vô dụng (thậm chí ăn hại, hối lộ tham nhũng sách nhiễu) mà lại được đền bù tiền tỷ để nghỉ hưu non?

Nhìn vào mức chênh lệch gấp 7 lần kia thì cũng thấy CSVN đãi ngộ ai, muốn xây dựng đất nước như thế nào. Đừng nghĩ rằng sau tinh gọn thì đất nước sẽ vươn mình đi vào kỷ nguyên mới theo lời ông Tô Lâm, người dân phải chuẩn bị tâm thế “gồng mình” để đóng thuế bù đắp vô các khoản đền bù cho lãnh đạo cộng sản. Nếu có vươn mình, thì chỉ có tiền thuế, tiền điện, tiền xăng, tiền phạt vi phạm giao thông, giá cả hàng hoá là chắc chắn sẽ vươn lên thôi.

Ai cũng biết các chỉ số phát triển kinh tế, tăng trưởng GDP ở Việt nam hầu như là những báo cáo láo, chạy theo thành tích, đảm bảo chỉ tiêu.

Rõ ràng nền kinh tế Việt Nam hiện đang đứng bên bờ vực thẳm.


 

Mâu thuẫn, bác sĩ ở Đồng Nai đâm đồng nghiệp ngay trong phòng khám

Ba’o Nguoi-Viet

May 28, 2025

ĐỒNG NAI, Việt Nam (NV) – Chỉ vì mâu thuẫn trong sinh hoạt, ông bác sĩ ở thành phố Long Khánh, tỉnh Đồng Nai, đã dùng dao tấn công đồng nghiệp ngay trong phòng khám bệnh.

Hôm 28 Tháng Năm, Công An Tỉnh Đồng Nai đã bắt giữ nghi can Trần Xuân Hiền, bác sĩ Khoa Nội Soi, Phòng Khám Đa Khoa Ái Nghĩa, ở xã Bàu Trâm, thành phố Long Khánh, thuộc hệ thống Y Khoa Ái Nghĩa Đồng Nai, để điều tra về tội “giết người.”

Nghi can Trần Xuân Hiền cầm dao tấn công đồng nghiệp. (Hình: Người Lao Động)

Báo Người Lao Động dẫn điều tra ban đầu cho biết, nghi can Hiền có “mâu thuẫn trong sinh hoạt” với đồng nghiệp là Bác Sĩ Trần Nguyễn H., Khoa Nhi, cùng làm chung tại phòng khám nên nảy sinh ý định đánh “dằn mặt.”

Chiều 23 Tháng Năm, nghi can Hiền lấy hai con dao để vào balô rồi đi vào phòng làm việc riêng của Bác Sĩ Trần Nguyễn H. tại phòng khám trên.

Lúc này, phòng khám không có khách, chỉ có điều dưỡng Nguyễn Thị Diễm My đang làm việc. Thế là nghi can Hiền đề nghị cô My ra ngoài để “hai bác sĩ nói chuyện với nhau.”

Ngay sau khi cô My ra ngoài, nghi can Hiền chốt cửa. Trong phòng, cả hai nói về mâu thuẫn cũ. Tức giận, nghi can Hiền rút hai con dao trong balô đâm Bác Sĩ Trần Nguyễn H. nhiều nhát vào đầu, vai…

Hoảng sợ, nạn nhân xô cửa để thoát thân nhưng không mở được cửa.

Nghe tiếng la hét, một số nhân viên phòng khám chạy vào can ngăn nghi can Hiền để nạn nhân chạy ra ngoài.

Một trong những phòng khám thuộc hệ thống Y Khoa Ái Nghĩa ở Đồng Nai, nơi hai bác sĩ đang làm việc. (Hình: DoctorTrust)

Bác Sĩ Trần Nguyễn H. được đồng nghiệp đưa đi cấp cứu tại bệnh viện Đa Khoa Long Khánh và may mắn không nguy hiểm đến tính mạng.

Gây án xong, nghi can Hiền đến công an nộp hung khí và đầu thú.

Nhận xét sự việc trên báo Thanh Niên, độc giả “nongmanhha 160667” bày tỏ: “Loạn thật, hai ngành đứng đầu gọi là Nhân với Đức là giáo dục và y tế, nhưng giáo viên oánh giáo viên, giờ bác sĩ oánh bác sĩ.”

“Bác sĩ cũng giang hồ như ai. Chạy xe ngoài phố lỡ va chạm cũng lao vào đấm đá. Lực lượng thi hành luật mặc thường phục thì ‘tát dân’ thoải mái. Học sinh đánh bạn hội đồng. Dường như ‘văn hóa đánh lộn’ theo kiểu giang hồ lên ngôi [ở Việt Nam] thì phải,” độc giả “khainguyen091757” ngao ngán viết. (Tr.N)


 

  “NGỤY” ĐÃ XÀI TIỀN CỦA DÂN ĐỂ XÂY DỰNG SÂN BAY TÂN- SƠN- NHỨT  NHƯ THẾ NÀO ?-Tác giả  Nguyễn Quốc Việt

Thienlong Nguyen

Tác giả  Nguyễn Quốc Việt

Năm 1960, phi trường Tân Sơn Nhứt được nâng cấp đường băng hạng A dài 3.000 mét để tiếp nhận phi cơ phản lực. Dự án do Mỹ tài trợ 4,5 triệu đô-la Mỹ (USD), VNCH bỏ 70 triệu đồng từ ngân sách.

Việc bỏ thầu tại Washington. Mỹ đề nghị Việt Nam cử đoàn giám sát. Sau nhiều thảo luận giữa Bộ Công chánh – Giao thông và Nha Hàng không dân sự, cuối cùng chỉ hai người được cử đi là kỹ sư Tạ Huyến và kỹ sư Nguyễn Xuân Hiếu. Cả hai đều học ở Pháp về và tu nghiệp thêm chuyên môn tại Mỹ, trực tiếp tham gia từ giai đoạn nghiên cứu tiền dự án. Thời gian đi 3 tuần, phụ cấp 20 đô-la Mỹ mỗi ngày và 3.000 đô-la Mỹ giao tế phí.

Danh sách hai người đi được Tổng trưởng Công chánh – Giao thông và Tổng trưởng Ngoại giao đồng ý, chuyển trình Phủ Tổng thống xem xét. Đích thân TT Ngô Đình Diệm đọc công thư và bút phê ba điểm:

– Chỉ cho đi một kỹ sư, bởi việc giám sát không cần phải hai người. Nếu cần thêm gì, thì đại sứ Việt Nam tại Mỹ giúp đỡ.

– Chỉ cho đi 2 tuần, không được đi 3 tuần, vì việc bỏ thầu chỉ diễn ra trong vài ngày.

– Cắt bỏ hết 3.000 đô-la Mỹ giao tế phí, vì kỹ sư giám sát không cần giao tế gì lớn.

Cuối cùng, TT Ngô Đình Diệm yêu cầu các thiểm bộ liên quan Công chánh, Ngoại giao và Nha Hàng không phải nghiêm khắc rút kinh nghiệm. Tình hình quốc gia đang khó khăn, không được lãng phí tiền đóng thuế của Quốc dân Đồng bào!

“Ngụy” đã xài tiền của dân như thế đấy!

Còn CHXHCN VN xài tiền của dân sao hè?

( Hình  trên mạng  )


 

TRÊN MẢNH ĐẤT TỰ DO, XIN ĐỪNG QUÊN LÒNG BIẾT ƠN

Tu Le

Trên đời này, có những điều càng dễ có, ta càng dễ quên. Như ánh sáng buổi sáng, như không khí trong lành, như một ngụm nước mát giữa ngày hè. Và như chính tự do.

Tự do là một điều đẹp, nhưng không hề rẻ. Người ta thường nói đến nó bằng những từ lớn lao: “quyền sống”, “nhân phẩm”, “dân chủ”, “hiến chương”… Nhưng tự do, trước hết, là một mảnh đất. Một nơi để đứng mà không sợ bị xua đuổi. Một nơi để nói mà không sợ bị bắt bớ. Một nơi để nghĩ điều mình nghĩ, tin điều mình tin, và sống cuộc đời mà mình chọn.

Nước Mỹ – với tất cả phức tạp và mâu thuẫn của nó – vẫn là một mảnh đất như vậy. Một miền đất mà hàng triệu con người đã và đang tìm đến, không phải vì nó hoàn hảo, mà vì nó cho cơ hội để làm lại từ đầu. Dẫu là hợp pháp hay bất hợp pháp, người ta đến đây mang theo một ước vọng rất người: được sống.

Nhưng bất kỳ ai đã từng cày xới đất đai, làm nên một căn nhà, cũng hiểu rằng: không có “miếng đất tốt” nào là vô tình có được. Nó phải được giữ gìn. Phải có người đứng lên khi nó bị xâm lăng. Phải có người dám cãi lại những gì bất công. Phải có người chấp nhận rời quê, ra chiến trận, không chắc mình có ngày về.

Đó là những người lính Mỹ – không phải với hình ảnh oai hùng trong phim ảnh, mà là những con người rất thực: có vợ, có con, có mẹ già. Họ không hoàn hảo. Họ cũng không luôn đúng. Nhưng trong thời khắc quyết định, họ đã chọn bảo vệ điều mà nước Mỹ hằng tôn thờ: tự do.

Không ai bắt buộc ai phải cúi đầu. Nhưng cúi đầu trước sự hy sinh là một cách sống đẹp. Là dấu hiệu của lòng biết ơn. Là thứ nhắc ta rằng, mỗi lần bước chân trên đất Mỹ, là một lần ta nên tự hỏi: mình đã làm gì để xứng đáng với cơ hội này?

Người biết ơn không phải người yếu đuối. Trái lại, biết ơn là một sức mạnh. Nó làm lòng mình mềm lại trước khổ đau của người khác. Nó khiến ta dừng lại một chút trước khi phán xét, la ó, đòi hỏi. Nó dạy ta sống như người trưởng thành: không coi cái mình đang có là điều dĩ nhiên.

Tôi tin rằng, nếu mỗi người nhập cư – bất kể từ đâu đến – giữ trong tim một chút biết ơn, họ sẽ yêu nước Mỹ hơn. Không bằng lời nói, mà bằng việc làm: làm việc chăm chỉ hơn, tử tế hơn, không làm hoen ố danh nghĩa tự do. Và nếu người bản xứ, trong lòng cũng giữ được chút bao dung, họ sẽ hiểu rằng: không ai bỏ xứ ra đi vì họ thích phiêu lưu. Họ đi vì không còn lựa chọn.

Giữa một thế giới ngày càng xáo động, nơi người ta dễ chia phe, dễ lên án, dễ quên cội rễ – thì lòng biết ơn chính là sợi dây cuối cùng giữ ta lại với nhau.

_______

By: Khoai G7

CHÂN DUNG MỘT SIÊU LỪA!

Nguyễn Hoàng Tuấn 

Hãy nhìn qua sự nghiệp hoành tráng của người đàn ông này. Ông từng bị bắt vào Nhà tù Liên bang Mỹ do bị kết tội trong nhiều phi vụ lừa đảo khác nhau. Sau khi ra tù, Comisar tuyên bố quy ẩn giang hồ, rửa tay gác kiếm và trở thành một chuyên gia cố vấn… chống lừa đảo. Ông sau đó còn xuất hiện trên nhiều chương trình truyền hình rồi xuất bản cả một cuốn sách mang tựa đề “Cẩm nang chống lừa đảo ở Mỹ” (2012). Nhìn chung, con đường hoàn lương của Comisar có vẻ ổn thỏa, nhưng cái làm cho mọi người nhớ nhất chính là một trong những phi vụ hồi ông mới vào nghề.

Dường như thấy rằng, trong những phi vụ gạt người khác, những tay thích lừa cứ nhất thiết phải “nói dối”, Comisar tự nhủ với chính mình “tại sao lại không nói thật nhỉ?” Nghĩ là làm, chàng trai Comisar trẻ tuổi liền đặt mua một mẩu quảng cáo trên tờ tạp chí quốc gia National Enquirer với nội dung như sau:

“Thiết Bị Phơi Đồ Năng Lượng Mặt Trời, chỉ với giá 49,95 đô la. Các kiểm định khoa học cho thấy, thiết bị này đảm bảo dùng tốt lên đến 5 năm nếu được cung cấp đủ ánh sáng mặt trời. Không phải dùng bất kì một nguồn năng lượng nào khác, không pin, không điện. Miễn phí giao hàng toàn quốc.”

Những khách hàng xem được dòng chữ này tỏ ra khá là hứng thú với sản phẩm. Ai cũng biết nỗi niềm phơi đồ canh nắng chạy mưa khá là khổ sở, đó là còn chưa kể đến mùi ẩm mốc nếu quần áo không được hong khô hoàn toàn. Giờ mà có thiết bị không dùng năng lượng gì cả, chỉ tốn khoảng 50 đô la để giải quyết vấn đề này thì còn gì bằng. Thế là, những đơn hàng nối tiếp bay về.

Thời gian chờ đợi dằng dặc không cản được cảm giác háo hức khi nhận được sản phẩm. Các khách hàng cẩn thận cắt xé từng mẩu băng dán, nhẹ nhàng gỡ hộp ra và trước mặt họ, được đóng gói kĩ càng giữa hộp, là một… đoạn dây phơi đồ! Có gì đó có vẻ sai sai, rõ ràng là họ đặt hàng một thiết bị phơi đồ dùng năng lượng mặt trời chứ đâu phải đoạn dây này chứ? Vài khách hàng tìm cách liên lạc cho người bán (Comisar) và nhận được phản hồi như sau:

Sản phẩm là một thiết bị phơi đồ, đúng không? – Đúng.

Dùng năng lượng mặt trời, tức là ánh nắng, đúng không? – Đúng.

Đảm bảo dùng tốt nếu cung cấp đủ ánh sáng mặt trời? – Đúng.

Không pin, không điện, miễn phí giao hàng? – Cũng đúng nốt.

Vậy đích thị người bán đã cung cấp đúng sản phẩm y như quảng cáo, không có gì khuất tất ở đây cả.

Đến lúc này thì khách hàng đã vỡ lẽ ra họ bị “lừa” một cách không thể thật thà hơn. Không có bằng chứng hay lý do gì để khởi kiện nhà bán hàng, người mua đành ngậm bồ hòn làm ngọt. Phi vụ này của Comisar đi vào sách giáo khoa của những kẻ lừa đảo khi hoàn toàn né được những cáo buộc liên quan đến pháp luật (mặc dù về sau, rồi ông cũng bị vào tù trong một phi vụ khác). Chỉ bằng những lời lẽ không thể nào thật hơn, Comisar đã chứng minh rằng, sức mạnh của ngôn từ thật vô cùng khó lường. Chỉ cần muốn, người ta có thể đổi trắng thay đen một cách rất ư dễ dàng. Giữa dòng đời nhiễu nhương, nơi lòng tin của con người liên tục bị thử thách, đừng chỉ đề phòng với những lời nói dối, vì biết đâu, ngay cả những lời nói thật 100% đấy cũng chắc gì đã tốt đẹp hơn?

( Sưu tầm )

MỘT CHUYỆN TÌNH KHÔNG CÓ TRONG SÁCH GIÁO KHOA

Tu Le

Người ta thường nói, tình yêu không có tuổi. Nhưng mấy ai dám yêu khi cả thế giới quay lưng?

Câu chuyện của Emmanuel và Brigitte – Tổng thống nước Pháp và người phụ nữ hơn ông 24 tuổi – là một minh chứng lặng lẽ nhưng mạnh mẽ rằng tình yêu, nếu là thật, thì chẳng cần ai cho phép.

Brigitte năm ấy là cô giáo dạy văn. Mái tóc vàng óng, giọng nói trầm ấm và đôi mắt từng trải. Bà yêu thơ Rimbaud, say mê Racine, tin rằng văn chương có thể chạm được đến nơi sâu thẳm nhất trong tâm hồn một con người. Và rồi, một cậu học trò 15 tuổi – Emmanuel – bước vào lớp.

Cậu học trò khác thường. Ít nói, nhưng khi nói thì ánh mắt như thiêu đốt. Một đứa trẻ con mang dáng dấp của người trưởng thành. Brigitte không ngờ, trong hàng chục gương mặt tuổi mới lớn ngày ngày lắng nghe bài giảng của mình, lại có một cậu bé sớm nhận ra điều mà bà chưa từng dám nghĩ: trái tim bà vẫn biết yêu.

Cậu ấy nói: “Một ngày nào đó, em sẽ cưới cô.”

Brigitte cười, như bao lần người lớn cười trước giấc mơ ngông cuồng của tuổi trẻ. Nhưng Emmanuel thì không quên. Ngược lại, cậu sống như thể cả đời mình chỉ để chứng minh lời hứa ấy là thật.

Gia đình đưa cậu đi xa. Dư luận dấy lên. Bạn bè rời bỏ. Nhưng tình yêu đôi khi chỉ cần hai người, và sự im lặng của thế giới cũng là một thứ chấp thuận. Họ lặng lẽ viết thư cho nhau. Lặng lẽ sống, lặng lẽ đợi.

Thời gian trôi, Brigitte ly hôn. Emmanuel tốt nghiệp, đi làm, rồi bước chân vào chính trường. Họ kết hôn vào năm 2007, sau hơn một thập kỷ gắn bó thầm lặng.

Ngày ông đắc cử tổng thống, bà đứng bên cạnh – không như một “phu nhân quyền lực”, mà như người bạn đời hiểu ông nhất. Không ồn ào, không phát ngôn hoa mỹ. Bà không là chiếc bóng sau lưng, mà là mặt trăng dịu dàng luôn dõi theo mặt trời.

Người đời gọi bà là “cô giáo yêu học trò”, là “phu nhân già hơn chồng”, là “một sự bất thường trong chính trị châu Âu”. Nhưng bà không cần sửa lại những danh xưng đó. Bà chỉ nhẹ nhàng sống. Và yêu. Như cách bà từng dạy học – tận tụy và đầy đam mê.

Tình yêu thật sự không nằm trong khuôn mẫu. Nó không đo bằng tuổi tác, danh vị, hay số đông ủng hộ. Nó nằm trong ánh nhìn hai người dành cho nhau – giữa đám đông ồn ào, họ vẫn thấy nhau.

Ở một thế giới mà người ta dễ yêu nhanh và quên vội, có một Tổng thống từng là cậu học trò nhỏ giữ lời hứa thuở mười lăm. Có một cô giáo từng sợ hãi, từng hoài nghi, nhưng rồi chọn bước theo trái tim.

Đó là chuyện tình không có trong sách giáo khoa, nhưng đủ để viết nên một trang đẹp trong đời thật

ST


 

Đám đông nổi lên chống hai ông [Phao-lô và Xi-la] . Các quan tòa, sau khi đã cho lột áo hai ông, thì ra lệnh đánh đòn. (Cv 16:22)- Cha Vương

Ngày Thứ 3 tràn đầy ân sủng và sức mạnh của Chúa Thánh Thần nhé.

Cha Vương

Thứ 3, : 27/5/2025

TIN MỪNG: Đám đông nổi lên chống hai ông [Phao-lô và Xi-la] . Các quan tòa, sau khi đã cho lột áo hai ông, thì ra lệnh đánh đòn. (Cv 16:22)

SUY NIỆM: Tại sao Phao-lô và Xi-la bị đánh đòn và tống giam? Trong Sách Tông Đồ Công Vụ 16:16-20 kể rằng Phao-lô tỏ vẻ bực mình vì “một đầy tớ gái đón gặp chúng tôi; cô ta bị quỷ thần ốp và thuật bói toán của cô làm lợi nhiều cho các chủ của cô.” Tức khắc Phao-lô quay lại bảo quỷ: “Nhân danh Đức Giê-su Ki-tô, ta truyền cho ngươi phải xuất khỏi người này!” Ngay lúc ấy, quỷ thần liền xuất. Điều này làm chấn động và gây rối mưu toan tính toán riêng của họ trong thành phố khiến đám đông tham gia cùng quan tòa tấn công Phao-lô và Si-la. 

Nhìn vào thế giới ngày nay tuy nạn cấm đạo vẫn còn đang xảy ra ở một số vùng nhưng hầu hết các giáo hữu không phải đương đầu với những thử thách khó khăn như Phao-lô và Si-la. Tuy nhiên, bạn có thể bị những cám dỗ như mê tín dị đoan hoặc bị những hoạt động tội lỗi đang hoành hành trong đời sống hằng ngày. Đây cũng là một thử thách không nhỏ cho nên Chúa muốn bạn hãy đặt hết niềm tin tưởng vào sức mạnh và quyền năng của Chúa Thánh Thần để xin Ngài trợ giúp. Ngài đang hoạt động mạnh mẽ trong cuộc sống và thế giới. Sự lựa chọn là do bạn. Chúa hay ma quỷ? Đừng có nửa vời, nguy hiểm to đó! Chúa Thánh Thần được mệnh danh là: Đấng Phù trợ, Đấng Thánh hoá, Đấng ban Sự Sống, Đấng Bầu Chữa, Đấng An Ủi, Thần Chân lý. Vậy hôm ngay mời bạn hãy chạy đến Chúa Thánh Thần để xin Ngài hướng dẫn phù trợ.

LẮNG NGHE: Này con được THIÊN CHÚA phù trì, / thân con đây, CHÚA hằng nâng đỡ. / Con tự nguyện dâng Ngài lễ tế, / lạy CHÚA, con xưng tụng danh Ngài, / vì danh Ngài thiện hảo. (Tv 54:6,8)

CẦU NGUYỆN: Lạy Chúa Thánh Thần, xin cho con luôn biết lắng nghe và tìm kiếm Ngài để mọi việc làm của con hôm nay được hoàn thành dưới sự linh ứng của Ngài hầu mang lại hiệu quả tốt đẹp.

THỰC HÀNH: Bỏ ra 5 phút cầu nguyện cho hoà bình trên thế giới. 

From: Do Dzung

*************************

Thánh Thần Hãy Đến – Diệu Hiền ft. Phi Nguyễn