Tĩnh tâm ở Giáo Triều Roma với Đức Thánh Cha

Giảng Thuyết: Linh mục dòng OFM , Roberto Paosolini.

Roberto Pasolini O.FM Cap. ( Milan , ngày 5 tháng 11 năm 1971) là một nhà thần học người Ý và là tu sĩ dòng Phan xi cô của Giáo hội Công giáo , Giảng thuyết viên cho Phủ Giáo hoàng .

Tiểu sử

Đang khi là một kỹ sư máy tính trẻ,  tham gia điều hành lĩnh vực máy tính, cũng như hoạt động chính trị, anh Roberto chợt khám phá ra rằng các hệ tư tưởng không làm cho con người tự do hơn. Tự do duy nhất chỉ có thể đến từ Chúa vì “tự do thực sự là giải thoát bản thân khỏi cảm giác tội lỗi, bởi vì sự cứu chuộc của Chúa Kitô đã khôi phục lại mối liên hệ tốt đẹp với Chúa”. Rồi ơn gọi của Chúa đến …

Cha Roberto khấn trọn đời trong Dòng Phanxicô của các anh em Capuchin vào ngày 7 tháng 9 năm 2002 và được thụ phong linh mục vào ngày 23 tháng 9 năm 2006. Sau khi lấy bằng tiến sĩ thần học Kinh Thánh tại Đại học Giáo hoàng Gregorian ở Rome, Ngài là giáo sư ngôn ngữ Kinh Thánh và Kinh thánh tại Studio Teologico Laurentianum Interprovincial của dòng Phan xi cô khó khăn,  Capuchin ở Milan và Venice.

Cha Roberto PasoliniNgày 20 tháng 12 năm 2024, Cha Roberto Pasolini, giảng thuyết cho Giáo hoàng, đã kêu gọi các nhà lãnh đạo Giáo hội hãy trân trọng phẩm chất “khiêm nhường” trong dịp tĩnh tâm Giáng sinh, kêu gọi các tín hữu noi gương Chúa Kitô và phản đối nhu cầu phải cảm thấy “quan trọng trong mắt người khác”. | Nguồn: Ảnh do Festival Bíblico cung cấp

Hội nghị Trung ương 15, cuộc chơi của những kẻ tiếm quyền-*Đặng Đình Mạnh

Ba’o Nguoi-Viet

December 15, 2025

*Chuyện Vỉa Hè

*Đặng Đình Mạnh

Hội nghị Trung ương lần thứ 15 của Đảng Cộng sản Việt Nam đang diễn ra trong một thời điểm đặc biệt, vì đây là hội nghị trung ương cuối cùng trước kỳ Đại hội đảng Cộng Sản lần thứ XIV, dự kiến tổ chức vào đầu năm 2026.

Theo thông lệ chính trị nhiều thập niên qua, Hội nghị Trung ương 15 không chỉ là một kỳ họp “chuẩn bị”, mà thực chất là nơi hoàn tất việc sắp xếp nhân sự cao cấp nhất của toàn bộ hệ thống chính trị, từ hệ thống trung ương đảng đến hệ thống chính quyền trung ương.

Trung ương đảng họp để “nhất trí” theo những gì mà Bộ Chính trị CSVN và các ban bệ thu hẹp đã quyết định trước. Những kẻ ngồi ở hàng ghế đầu không phải là cùng một đẳng cấp với những kẻ ngồi ở các hàng ghế sau. Ghế càng xa, vai vế càng kém. (Hình: Chinhphu.vn)

Nói cách khác, Hội nghị Trung ương 15 chính là nơi quyết định ai sẽ lãnh đạo đất nước trong 5 năm tới, dù danh nghĩa pháp lý của các quyết định này sẽ được “hoàn thiện” bằng thủ tục hợp thức hóa ở Đại hội XIV và các kỳ họp của Quốc hội sau đó.

Điều đáng bàn không chỉ là kết quả nhân sự, mà là cơ chế quyết định nhân sự – nơi mà ít nhất ba chủ thể chính trị căn bản của một quốc gia, gồm nhân dân, Quốc hội và ngay cả tuyệt đại bộ phận hơn 5 triệu đảng viên Đảng Cộng sản đều bị loại ra ngoài quá trình tấn cử.

Nhân dân, người “chủ đất nước” nhưng hoàn toàn bị “chầu rìa”

Theo nguyên tắc dân chủ của một chính thể cộng hòa và theo chính thể Hiến pháp Việt Nam, thì “Nhân dân là chủ thể tối cao của quyền lực nhà nước”. Tuy nhiên, trong thực tiễn chính trị hiện nay, nhân dân không có bất kỳ vai trò nào trong việc lựa chọn các lãnh đạo cao cấp nhất của quốc gia.

Nhân dân không được đề cử ứng viên mà mình tin cậy. Nhân dân không được tranh luận về các ứng viên lãnh đạo. Nhân dân không được bỏ phiếu bầu lãnh đạo. Nhân dân thậm chí không được biết trước danh sách ứng viên. Họ, nhân dân, chỉ là người cuối cùng nhận thông tin, sau khi mọi thỏa thuận, sắp xếp, cân bằng phe phái đã hoàn tất trong nội bộ một nhóm rất nhỏ các cán bộ cao cấp của Đảng Cộng sản.

Điều nghịch lý là, mọi quyết định của những người được “tấn cử” này, sau khi được tấn phong chính thức, đều tác động trực tiếp và sâu sắc đến vận mệnh quốc gia, đến sinh kế, quyền tự do, cơ hội sống, học tập và làm việc của trăm triệu người dân. Nhưng người dân lại hoàn toàn bị gạt ra ngoài tiến trình lựa chọn. Trong bất kỳ nền chính trị nào có chính quyền tự nhận là “của dân”, thì đây là một nghịch lý khó có thể biện minh.

Quốc hội, cơ quan “quyền lực cao nhất” nhưng chỉ đóng vai trò “nghị gật”, hợp thức hóa sự tiếm quyền

Theo Hiến pháp, Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, có quyền bầu và phê chuẩn các chức danh quan trọng như Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Chánh án Tòa án Tối cao, Viện trưởng Viện Kiểm sát Tối cao, các Phó Thủ tướng, Bộ trưởng và nhiều chức vụ then chốt khác.

Tuy nhiên, trên thực tế, Quốc hội không hề được tham gia gì vào quá trình lựa chọn nhân sự, mà chỉ thực hiện vai trò bỏ phiếu chuẩn thuận các nhân sự đã được Đảng Cộng sản “quy hoạch, giới thiệu và quyết định trước”.

Nói cách khác, quyền lực hiến định của Quốc hội bị vô hiệu hóa bởi nghị quyết của đảng. Việc bỏ phiếu tại Quốc hội trở thành một thủ tục mang tính nghi lễ, nơi mà kết quả đã được định sẵn, và mọi lá phiếu chỉ có tác dụng hợp thức hóa quyết định đã được đưa ra từ nơi khác. Khi cơ quan quyền lực cao nhất của quốc gia không có quyền lựa chọn, không có quyền bác bỏ thực chất, thì danh xưng “quyền lực cao nhất” chỉ còn tồn tại trên giấy tờ.

Đảng viên cũng bị loại ra ngoài việc chọn lãnh đạo của chính đảng mình

Không chỉ nhân dân và quốc hội, mà ngay cả tuyệt đại bộ phận gồm hơn năm triệu đảng viên đảng Cộng sản Việt Nam cũng không có quyền tham gia vào việc lựa chọn lãnh đạo cao cấp nhất của đảng.

Hội nghị Trung ương 15, với số lượng rất hạn chế các ủy viên trung ương và một nhóm còn hẹp hơn nữa trong Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã sắp xếp xong toàn bộ nhân sự chủ chốt, từ chức vụ Tổng Bí thư, Thường trực Ban Bí thư, Chủ nhiệm các Ủy ban… cho đến các vị trí chiến lược khác.

Khi Đại hội đảng XIV diễn ra vào đầu năm 2026, việc bỏ phiếu của hàng nghìn đại biểu thực chất chỉ còn là hình thức hợp thức hóa những quyết định đã được định trước. Các phương án khác, nếu có, cũng không tồn tại như những lựa chọn thực sự. Như vậy, đảng viên, lại không có quyền lựa chọn lãnh đạo của chính tổ chức mà họ là thành viên và được yêu cầu “tuyệt đối trung thành với Đảng”.

Một cơ chế tấn cử tiếm quyền quyền lực quốc gia

Khi đặt ba chủ thể chính trị này cạnh nhau, có thể thấy một nghịch lý mang tính hệ thống: Nhân dân không được tham gia; Quốc hội không được quyết định; Đảng viên không được lựa chọn. Quyền lực tấn cử, vì thế không thuộc về bất kỳ chủ thể chính trị chính danh nào, mà tập trung vào một nhóm rất nhỏ những người đang nắm quyền lực cao nhất trong Đảng Cộng sản.

Đây không còn là “tập trung dân chủ” theo nghĩa lý luận mà đảng Cộng Sản thường rêu rao, mà là sự tập quyền, độc tài thuần túy, nơi dân chủ chỉ còn là mỹ từ bị lợi dụng triệt để, và tính cạnh tranh chính trị công bằng bằng bầu cử tự do gần như bằng không. Thay vào đó, là sự thanh trừng, đấu đá tranh giành quyền lực giữa các phe phái trong đảng, trên cơ sở ngành nghề, hoặc địa phương cục bộ.

Hệ quả: khủng hoảng tính chính danh và trách nhiệm chính trị

Một cơ chế lựa chọn lãnh đạo như vậy tất yếu dẫn đến những hệ quả dễ nhìn thấy trước, gồm: Khủng hoảng tính chính danh, vì lãnh đạo không do dân chọn, không chịu sự cạnh tranh, không đối diện với khả năng bị thay thế bởi lá phiếu.

Khủng hoảng trách nhiệm chính trị, vì khi quyền lực không được giao từ nhân dân, thì người nắm giữ quyền lực không chịu trách nhiệm trước nhân dân.

Gia tăng đấu đá phe phái, vì quyền lực không được phân xử bằng lá phiếu công khai, tự do mà bằng thỏa thuận hậu trường.

Quốc hội CSVN ngày 20 Tháng Mười 2025, khai mạc khóa họp cuối năm và cũng là cuối cùng của nhiệm kỳ này. Báo chí tây phương gọi quốc hội CSVN là “con dấu cao su” vì chỉ bấm nút hay giơ tay “nhất trí” theo lệnh đảng. (Hình: Nhạc Nguyễn/AFP/Getty Images)

Hội nghị Trung ương 15, trong bối cảnh đó, không chỉ là một sự kiện nội bộ của Đảng Cộng sản, mà là một tấm gương phản chiếu bản chất của cơ chế quyền lực hiện hành, rằng quyền lực được quyết định trong phạm vi hẹp, khép kín, và xa rời các chủ thể chính trị mà lẽ ra phải là trung tâm.

Tóm lại, một quốc gia hiện đại không thể được dẫn dắt lâu dài bằng một cơ chế tấn cử mà người dân đứng ngoài, Quốc hội đứng ngoài, và ngay cả đảng viên cũng đứng ngoài. Khi mọi quyết định then chốt đều được định đoạt trước trong những hội nghị kín, thì các thiết chế còn lại chỉ đóng vai trò sân khấu hóa cho một kịch bản đã hoàn chỉnh.

Hội nghị Trung ương 15, vì thế không chỉ là bước chuẩn bị cho Đại hội XIV của đảng CSVN, mà còn là một sự hình thức tiếm quyền quyền lực chính trị trong một quốc gia. Chúng sẽ không mang lại tính chính danh cho những người nắm giữ các chức vụ lãnh đạo cao cấp, mà chúng chỉ giúp xác nhận kẻ chiến thắng trong cuộc thỏa hiệp từ việc tranh giành, đấu đá chiếm giữ quyền lực chính trị trong đảng mà thôi.

Viết từ Hoa Thịnh Đốn, ngày 14 Tháng Mười Hai 2025


 

Tôi lấy quyền nào mà làm các điều ấy (Mt 21:24)-Cha Vương

Một ngày bình an trong yêu thương tha thứ nhé.

Cha Vương

Thứ 2 T3MV: 15/12/2025  (n16-24)

TIN MỪNG: Đức Giê-su đáp: “Còn tôi, tôi chỉ xin hỏi các ông một điều thôi; nếu các ông trả lời được cho tôi, thì tôi cũng sẽ nói cho các ông biết tôi lấy quyền nào mà làm các điều ấy. (Mt 21:24)

SUY NIỆM: Trong cuộc sống, bạn không tránh khỏi những sai lầm và thiếu sót. Vì sự bất toàn này cho nên bạn cũng không tránh khỏi những lời chỉ trích của những người xung quanh. Có những lời chỉ trích đôi khi khó nghe nhưng nó sẽ giúp bạn phát hiện ra khuyết điểm và biết cách hoàn thiện bản thân hơn mỗi ngày. Bạn thử nghĩ coi cuộc sống sẽ như thế nào nếu tất cả mọi người đều không phê bình hay chỉ trích những lỗi sai của nhau? Cũng giống như một người không thèm đứng trước tấm gương soi để coi hình dáng bên ngoài của mình như thế nào. 

   Trong bài Tin Mừng hôm nay bạn thấy các thượng tế và kỳ mục hạch hỏi Chúa về quyền bính của Ngài: “Ông lấy quyền nào mà làm các điều ấy? Ai đã cho ông quyền ấy?” Có lẽ họ đã quên đi Chúa Giêsu là Thiên Chúa, và do đó Ngài có thẩm quyền trên mọi sự. Chúa Giê-su đáp: “Tôi chỉ xin hỏi các ông một điều thôi; nếu các ông trả lời được cho tôi, thì tôi cũng sẽ nói cho các ông biết tôi lấy quyền nào mà làm các điều ấy. Vậy, phép rửa của ông Gio-an do đâu mà có? Do Trời hay do người ta?” Họ mới nghĩ thầm: “Nếu mình nói: “Do Trời”, thì ông ấy sẽ vặn lại: “Thế sao các ông lại không tin ông ấy?”Còn nếu mình nói: “Do người ta”, thì mình sợ dân chúng, vì ai nấy đều cho ông Gio-an là một ngôn sứ.” Họ mới trả lời Đức Giê-su: “Chúng tôi không biết.” Người cũng nói với họ: “Tôi cũng vậy, tôi không nói cho các ông là tôi lấy quyền nào mà làm các điều ấy.” (Mt 21:24-27)

   Chúa biết câu trả lời “không biết” là không thành thật, “giả nai” vì họ lo sợ dân chúng nói ra sự thật mà họ không đồng ý cho nên Ngài cũng không trả lời họ. Đúng là họ đã mất đi một cơ hội vàng ngọc để đến gần với Chúa. Hôm nay, bạn hãy xin Chúa ban cho một quả tim khiêm nhường đủ để biết lắng nghe những lời chỉ trích phê bình của người khác. Vẫn biết rằng đôi khi nó khó nghe thật đó, nhưng nó có khả năng giúp bạn phát hiện ra những khuyết điểm và biết cách hoàn thiện bản thân để đến gần Chúa mỗi ngày.

LẮNG NGHE: Kẻ giấu tội mình sẽ không thành đạt, nhưng ai xưng thú và chừa tội sẽ được xót thương. (Cn 28:13)

CẦU NGUYỆN: Lạy Chúa, xin giúp con biết nhận ra những khuyết điểm của bản thân và cải thiện đời sống để sống tốt đẹp hơn mỗi ngày.

THỰC HÀNH: Tập đừng phản kháng mạnh hay tỏ ra tức giận đến những lời chỉ trích. Lắng nghe, cầu nguyện và phân định coi sự thật ở chỗ nào. “Nụ cười có thể hàn gắn mọi thứ, còn sự tức giận có thể giết chết hàng triệu điều. Cái bắt tay có thể động viên hàng chục người, trong khi cái chỉ tay khiến hàng ngàn người rời xa bạn.” (Israelmore Ayivor) 

From: Do Dzung

*********************

PEACE IN SOUL – Fr. Xuan Duong, CSsR

TRẬT TỰ XÓT THƯƠNG – Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

 Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

“Những người thu thuế và gái điếm sẽ vào Nước Thiên Chúa trước các ông!”.

“Điều Chúa muốn tôi dâng Ngài là một tâm hồn tan nát và một trái tim bầm tím. Mãi cho đến khi lòng kiêu hãnh tan vỡ, bạn mới hiểu được những sâu nhiệm của Ngài. Bởi lẽ, Chúa chỉ làm được những điều vĩ đại ngang qua những con người đã từng để Ngài vùi dập đến tan nát. Thật không thể tin được!” – Charles Spurgeon.

Kính thưa Anh Chị em,

“Để Ngài vùi dập đến tan nát!” – đó cũng là nghịch lý của Lời Chúa hôm nay vốn đảo lộn mọi thước đo quen thuộc. Và Thiên Chúa có thể mặc khải một trật tự khác – ‘trật tự xót thương!’.

Sôphônia phơi bày sự phản loạn của Giêrusalem – thành thánh không nghe lời. Thế nhưng, Thiên Chúa không kết thúc lịch sử bằng sự huỷ diệt, Ngài hứa sẽ thanh luyện môi miệng chư dân, để họ cũng kêu cầu và phụng thờ Ngài; đồng thời, Ngài sẽ giữ lại một nhóm nhỏ Israel – khiêm tốn, nghèo hèn – bài đọc một. Chính nhóm nhỏ ấy sẽ trở thành hạt giống của một dân mới – Giáo Hội. Từ đáy sâu ấy, Thánh Vịnh đáp ca vang lên không như tiếng kêu của kẻ mạnh nhưng là tiếng thở dài của những ai không còn gì để bám víu ngoài Chúa, “Kẻ nghèo hèn kêu xin, và Chúa đã nhậm lời!”. “Thiên Chúa có hai ngai: một trên trời cao nhất, và một nơi trái tim bé nhỏ nhất!” – D.L. Moody.

Tin Mừng đưa chúng ta đi xa hơn. Chúa Giêsu công bố một lời gây choáng – những người thu thuế và gái điếm sẽ vào Nước Thiên Chúa trước! Ngài không tôn vinh tội lỗi, nhưng vạch trần một ảo tưởng nguy hiểm – ảo tưởng “công chính tự thân”. Những con người bị xã hội loại trừ đó biết mình trống rỗng; vì thế, họ hoán cải. Trái lại, những kẻ tự cho mình đạo đức lại khép kín trước ân sủng. Với dụ ngôn hai người con được sai đi làm vườn nho, một người thưa “không” rồi hối hận đi vào vườn; người kia thưa “vâng” lại không đi. Nước Thiên Chúa không dành cho những lời nói đẹp, mà cho hành động quay đầu với những ‘chọn lựa mới’; dành cho ai sám hối, chứ không dành cho ai có ‘lời hứa hay vị thế’. “Chỉ có hai loại người: kẻ công chính nghĩ mình là tội nhân, và hạng tội nhân nghĩ mình công chính!” – Blaise Pascal.

Anh Chị em,

“Những người thu thuế và gái điếm sẽ vào Nước Thiên Chúa trước các ông!”. Lời ấy đang ngỏ với bạn và tôi, những con người đang sống trong một nền “văn hoá son phấn”, theo cách nói của Đức Phanxicô – nơi vẻ ngoài dễ che khuất con người thật bên trong. Mùa Vọng, mùa mời gọi chúng ta dừng lại, chiêm ngắm “sự an tĩnh của hang đá” để tự hỏi, tôi đang thuộc nhóm nào? Kẻ tự mãn hay người biết mình nghèo nàn, cần được cứu? Nhìn lên thập giá, chúng ta thấy sự khủng khiếp của tội lỗi, nhưng cũng nhận ra sự vĩ đại của tình yêu. Mùa Vọng, vì thế, còn là mùa để Chúa “vùi dập con tim đến tan nát” khỏi những lớp vỏ che đậy, hầu được chữa lành trong lòng xót thương của Ngài. “Kitô hữu là người cổ cứng được bẻ gãy, trán bướng bị vỡ nát, trái tim đá bị đập tan!” – John Piper.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, xin giúp con nhận ra con người thật của con, cho dù phải vỡ vụn khi con nghe những lời ‘không thể tin được’ Chúa dành cho con!”, Amen.

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

*********************************************

Lời Chúa Thứ Ba Tuần III Mùa Vọng

Ông Gio-an đã đến, và những người tội lỗi đã tin.

✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Mát-thêu.    Mt 21,28-32

28 Khi ấy, Đức Giê-su nói với các thượng tế và kỳ mục trong dân rằng : “Các ông nghĩ sao ? Một người kia có hai con trai. Ông ta đến nói với người thứ nhất : ‘Này con, hôm nay con hãy đi làm vườn nho.’ 29 Nó đáp : ‘Con không muốn !’ nhưng sau đó, nó hối hận, nên lại đi. 30 Ông đến gặp người thứ hai, và cũng bảo như vậy. Nó đáp : ‘Thưa ngài, con đây !’ nhưng rồi lại không đi. 31 Trong hai người con đó, ai đã thi hành ý muốn của người cha ?” Họ trả lời : “Người thứ nhất.” Đức Giê-su nói với họ : “Tôi bảo thật các ông : những người thu thuế và những cô gái điếm vào Nước Thiên Chúa trước các ông. 32 Vì ông Gio-an đã đến chỉ đường công chính cho các ông, mà các ông không tin ông ấy ; còn những người thu thuế và những cô gái điếm lại tin. Phần các ông, khi đã thấy vậy rồi, các ông vẫn không chịu hối hận mà tin ông ấy.”


 

“Nếu ĐCSVN không cướp được chính quyền năm 1945 thì:

Luật sư Nguyễn Văn Đài và FANS 

Nguyễn Minh Cần,  Nguyên phó chủ tịch ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội viết:

“Nếu ĐCSVN không cướp được chính quyền năm 1945 thì:

1/ Cuộc đấu tranh giành độc lập của dân ta đã theo con đường khác, rất có thể là theo con đường của cụ Phan Châu Trinh, và dân tộc chúng ta sẽ sớm giành được độc lập mà không phải đổ máu, giống như nhiều nước khác trong vùng Đông Nam Á, Nam Á;

2/ Chúng ta tránh được nạn ám hại các người đứng đầu các đảng phái yêu nước – phần đông họ là những thành phần ưu tú của dân tộc – bằng những ban ám sát của ĐCS;

3/ Tránh được cuộc cải cách ruộng đất đẵm máu, tàn bạo, làm trên 100 nghìn người chết oan uổng và làm đảo lộn đạo lý truyền thống của dân tộc, mà có một cuộc cải cách ruộng đất ôn hòa, hợp tình, hợp lý để tạo điều kiện cho sự phát triển kinh tế;

4/ Tránh được những cuộc cải tạo công thương nghiệp và cưỡng bức hợp tác hóa nông nghiệp làm suy sập nền kinh tế của đất nước và triệt tiêu các lực lượng năng động nhất trong nền kinh tế;

5/ Tránh được những trận đàn áp văn nghệ sĩ, trí thức làm cho văn hóa, văn học nghệ thuật nước ta tụt hậu hàng nhiều thập niên, trái lại, nền văn hóa, văn học nghệ thuật nước nhà được tự do chắc chắn đã nảy sinh được nhiều thành tựu rực rỡ;

6/ Dân tộc ta tránh được cuộc chiến tranh Bắc Nam kéo dài hàng chục năm trời làm gần một chục triệu người dân và binh sĩ của cả hai phía phải bỏ mạng, tránh được sự chia rẽ nặng nề của dân tộc đến nay vẫn còn khó khăn hòa giải hòa hợp;

7/ Tránh được hệ thống những trại tù mang danh “trại cải tạo” để đày đọa hàng trăm nghìn con người yêu nước, những trí thức có tinh thần tự do và dân chủ và tránh được cái chết oan uổng của hàng vạn con người;

8/ Tránh được cái “công hàm 14.9.1958 của Phạm Văn Đồng”, không có chuyện dâng đất, dâng biển dễ dàng cho Trung Quốc như vừa qua, không có chuyện bauxit Tây Nguyên, cho thuê rừng đầu nguồn, đưa hàng chục nghìn lao động Trung Quốc vào các vùng xung yếu của nước ta, và đặc biệt là không có nguy cơ mất nước như ngày nay ….

Nói tóm lại, nếu ĐCSVN không cướp được chính quyền năm 1945 thì ngày nay đất nước Việt Nam từ lâu rồi đã được tự do, dân chủ và độc lập thật sự, đã đạt được mức tiến bộ về mọi mặt không kém gì các nước tiên tiến trong vùng, như Nam Hàn, Đài Loan.”

Fbk.  Nguyễn Doãn Đôn

Ảnh nguồn mạng


 

Thư Gửi Cho Chính Mình Khi Về Già

Con à, khi con già đi…

Đừng cố dạy ai điều gì. Dù con có đúng, hãy nhớ lại, ngày xưa chính con cũng khó chịu thế nào khi người lớn tuổi luôn cho rằng họ biết hết.

Đừng ép buộc ai, cũng đừng cố bảo vệ hết thảy những người thân khỏi mọi nỗi khổ của cuộc đời. Chỉ cần yêu họ thôi là đủ. 

Đừng suốt ngày than phiền về bệnh tật, về hàng xóm, về chính quyền hay về lương hưu. Đừng biến mình thành một bà cụ cáu kỉnh. 

Đừng mong chờ con cái phải biết ơn. Hãy nhớ: không có con cái nào vô ơn cả – chỉ có những bậc cha mẹ dại khờ, đặt quá nhiều kỳ vọng vào lòng biết ơn. 

Đừng bao giờ nói những câu khó nghe như:

“Ngày xưa mẹ bằng tuổi con thì…”,

“Cả tuổi thanh xuân mẹ đã hy sinh cho con…”,

“Mẹ lớn tuổi hơn nên mẹ biết nhiều hơn…”.

Những lời ấy chẳng giúp gì, chỉ khiến người nghe thêm nặng lòng.

Nếu có cháu, hãy để chúng gọi con bằng bất cứ cái tên nào chúng thích. Điều quan trọng không phải là cách gọi, mà là tình cảm chúng dành cho con. 

Đừng lãng phí tiền vào những liệu pháp “cải lão hoàn đồng”. Vô ích thôi. Hãy dành số tiền ấy cho một chuyến đi, một trải nghiệm vui, một kỷ niệm đẹp.

Đừng soi gương trong bóng tối để tự lừa dối mình. Hãy nhìn thẳng vào tuổi tác, và cố gắng giữ cho mình nét thanh lịch, sang trọng. Không cần trẻ lại, chỉ cần đẹp trong sự chín muồi. 

Hãy chăm sóc chồng con, ngay cả khi ông ấy đã trở thành một ông già gầy yếu, khó tính. Đừng quên rằng, đã có lúc ông ấy trẻ trung, mạnh mẽ, vui tươi… Và có thể chính lúc này, ông ấy mới thật sự cần con nhất.

Đừng cố chạy theo thời đại: con không cần phải rành công nghệ mới, không cần ép mình theo dõi mọi tin tức, không cần học thêm mọi thứ chỉ để “không tụt hậu”. Hãy làm những gì khiến con vui, thế là đủ.

Đừng tự trách mình vì những gì đã qua – trong đời con hay trong đời con cái. Con đã làm hết sức rồi.

Và trên hết, hãy giữ phẩm giá của mình, trong bất kỳ hoàn cảnh nào. Cho đến giây phút cuối cùng.

Cuối cùng, xin nhớ: nếu con còn sống, nghĩa là vẫn có ai đó cần đến con. 

Tác giả vô danh – nhưng như viết cho tất cả chúng ta.

From: TU-PHUNG


 

Quyền lực và tiền bạc có đem lại hạnh phúc? – Tác giả: Phùng Văn Phụng

Tác giả: Phùng Văn Phụng

 Say mê quyền lực cũng như say mê tiền bạc đó là điều thường thấy của con người khi còn sống ở trần thế này. Quyền lực và tiền bạc thường dính liền nhau. Có quyền thì dễ kiếm tiền. Có tiền thì dễ kiếm quyền. Tiền và quyền dính quyện vào nhau.

 Khi con người đam mê quyền lực và say mê tiền bạc còn ghê gớm hơn người say rượu hay say thuốc, nếu say mê quá đáng bất chấp đạo lý, lẽ phải, thiếu lòng yêu thương, thường nhận lãnh hậu quả khôn lường được.

 Thí dụ vì say mê quyền lực và tiền bạc như trường hợp sau: 

1)Hậu thương vụ AVG: Bắt giam 2 cựu Bộ trưởng Nguyễn Bắc Son và Trương Minh Tuấn

2 cựu Bộ trưởng Nguyễn Bắc Son và Trương Minh Tuấn 

Theo báo Thanh niên, ngày 23.2, Cơ quan Cảnh sát điều tra Bộ Công an đã ra quyết định khởi tố bị can; lệnh bắt bị can để tạm giam; lệnh khám xét đối với ông Nguyễn Bắc Son, nguyên Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông và ông Trương Minh Tuấn, nguyên Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông, cùng về tội danh vi phạm quy định về quản lý và sử dụng vốn đầu tư công gây hậu quả nghiêm trọng” quy định tại khoản 3 điều 220 bộ luật hình sự năm 2015.

Theo BBC, ngày 10/7/2018, Bộ Công an đã khởi tố vụ án liên quan đến thương vụ Mobifone mua AVG, làm thất thoát khoảng 8000 tỷ đồng ngân sách nhà nước.

 Trường hợp nhà giàu cũng khóc, cũng khổ: 

2)Chủ cà phê Trung nguyên: 

Theo báo Zing. Việt Nam, khối tài sản của ông chủ cà phê Trung Nguyên theo như luật sư của ông Vũ cũng đưa ra 13 bất động sản chung có giá trị 725 tỷ đồng.

Về các tài sản khác được xác minh tại ngân hàng (tháng 10/2018) vào khoảng 2.102 tỷ đồng, gồm tiền mặt, ngoại tệ, vàng. 

Vì vụ ly hôn với vợ là bà Lê Hoàng Diệp Thảo, Chủ tịch tập đoàn Trung Nguyên Đặng Lê Nguyên Vũ than thở, đau đớn nói rằng “Tiền nhiều đề làm gì?”

 Ông Vua Cafe Trung Nguyên: Tiền Nhiều Để Làm Gì?

https://www.youtube.com/watch?v=jr5AgBvAaz0 

* * * Có câu chuyện, một ông trùm người Trung Quốc qua đời, để lại cho vợ 1,9 tỉ đô trong ngân hàng. Bà vợ ông sau đó đã lấy người lái xe của chính ông. Người lái xe nói: Tôi đã nghĩ tôi phải làm việc cho ông chủ mình. Nhưng giờ đây tôi mới nhận ra rằng cả đời ông chủ làm việc cho tôi. 

* * *

Điều quan trọng là sống lâu hơn là có nhiều của cải. Vì vậy chúng ta phải cố gắng để sống khỏe mạnh.

Với một chiếc điện thoại xịn thì 70% công năng của nó chúng ta không dùng đến

Với một chiếc xe đắt tiền thì 70% tốc độ và các đồ phụ kiện là không cần thiết

Với 1 căn biệt thự thì đến 70% không gian là chúng ta không dùng đến 70% quần áo trong tủ của bạn không được mặc tới

Cả cuộc đời làm việc thì đến 70% số tiền kiếm được là dành cho người khác tiêu

Vì vậy chúng ta phải bảo vệ và tận dụng hết khả năng 30% còn lại của chính mình bằng cách:

– Đi kiểm tra sức khỏe thường xuyên, cho dù không ốm đau

– Uống nhiều nước, ngay cả khi không khát

– Học cách buông bỏ, ngay cả khi đối diện với những vấn đề nghiêm trọng

– Học cách thỏa hiệp, ngay cả khi bạn là người đúng

– Học cách khiêm tốn, ngay cả khi bạn giàu có và có quyền lực

– Học cách bằng lòng, ngay cả khi bạn không giàu

– Tập luyện thể thao, ngay cả khi bạn bận rộn

– Dành thời gian cho những người bạn yêu mến 

Cuộc sống này rất ngắn ngủi, vì vậy hãy vui vẻ sống, tìm cách sống có ý nghĩa nhất, hạnh phúc nhất, trọn vẹn nhất nếu có thể!

(từ Do Tan Hung) 

* * * Theo báo tin nóng 24h/Việt Nam, ngày 30/06/2019,

 Bình Phước: Bắt giữ nghi phạm sát hại mẹ ruột vì mâu thuẫn tiền bạc

Vì tiền bạc mà con đã giết mẹ ruột: ông Châu văn Hưng, 37 tuổi, đã giết mẹ ruột là bà Trần Thị Mộng Hoa, 53 tuổi. 

Bài báo viết: “Tại cơ quan điều tra, bước đầu Hưng khai nhận, khoảng 20 giờ 30 phút tối 29/6, sau khi hát karaoke tại nhà ông Vũ Văn Giáp (cách nhà khoảng 100 mét) thì Hưng cùng mẹ mình là bà Trần Thị Mộng Hoa trở về nhà trước, ông Văn (bố Hưng) ở lại hát tiếp”.

“Khi về đến nhà, giữa Hưng và mẹ là bà Hoa xảy ra cự cãi do mâu thuẫn về tiền bạc. Trong lúc tức giận, Hưng đã dùng kéo đâm nhiều nhát vào cổ và người bà Hoa”. 

CÓ THỂ và KHÔNG THỂ (Trầm Thiên Thu)

 Cuộc sống có nhiều mối liên kết giữa vật chất và tinh thần, có loại CÓ THỂ và có loại KHÔNG THỂ. Có lẽ thứ “rắc rối” nhất là vật chất, tiền bạc, bởi vì “cội rễ sinh ra mọi điều ác là lòng ham muốn tiền bạc” (1 Tm 6:10). Người ta nói rằng “Tiền là Tiên, là Phật, là sức bật của tuổi trẻ, là sức khỏe của tuổi già, là cái đà danh vọng, là cái lọng che thân”…

 Theo Việt ngữ, Tiền là Tiên bị đè bởi cái đà “dấu huyền” nên thành Tiền. Bất cứ mối quan hệ nào “dính líu” tới nó đều gặp “phiền phức” lắm. Về mối liên quan với tiền bạc, một thi sĩ người Na Uy (quên tên rồi) có nhận định thú vị thế này:

Tiền có thể mua được thực phẩm nhưng không thể mua được sự ngon miệng.

Tiền có thể mua được thuốc tốt nhưng không thể mua được sức khỏe.

Tiền có thể mua được kiến thức nhưng không thể mua được sự khôn ngoan.

Tiền có thể mua được sự lộng lẫy nhưng không thể mua được vẻ đẹp.

Tiền có thể mua được trò cười nhưng không thể mua được niềm hoan hỉ.

Tiền có thể mua được người quen nhưng không thể mua được bạn tri kỷ.

Tiền có thể mua được người hầu nhưng không thể mua được sự trung thành.

Tiền có thể mua được sự nhàn rỗi nhưng không thể mua được sự bình an.

 Theo cách lý luận đó, chúng ta có thể lý luận thêm nhiều điều khác trong cuộc sống. Chẳng hạn vài điều này:

 Tiền có thể mua được trang phục đẹp nhưng thể không mua được nhân cách.

Tiền có thể mua được ngôi nhà nhưng không thể mua được tổ ấm.

Tiền có thể mua được đám cưới nhưng không thể mua được hạnh phúc.

Tiền có thể mua được đám giỗ nhưng không thể mua được lòng hiếu thảo.

Tiền có thể mua được chiếc giường êm nhưng không thể mua được giấc ngủ ngon.

Tiền có thể mua được bằng cấp nhưng không thể mua được sự giáo dục.

Tiền có thể mua được chức tước nhưng không thể mua được uy tín.

Tiền có thể mua được tiệc mừng nhưng không thể mua được lý tưởng.

Tiền có thể mua được tác phẩm nhưng không thể mua được tài năng.

Tiền có thể mua được bảo hiểm nhưng không thể mua được sự an toàn.

Tiền có thể mua được tặng vật từ thiện nhưng không thể mua được lòng nhân đạo.

Tiền có thể mua được hoa, nến, nhang, đèn… nhưng không thể mua được lòng thành kính.

Tiền có thể mua được nhân chứng nhưng không thể mua được phép lạ.

Tiền có thể mua được nhà thờ nhưng không thể mua được đức tin.

Tiền có thể mua được đài tưởng niệm nhưng không thể mua được phúc trường sinh.

 Chính Chúa Giêsu đã khuyến cáo: “Anh em đừng tích trữ cho mình những kho tàng dưới đất, nơi mối mọt làm hư nát, và kẻ trộm khoét vách lấy đi. Nhưng hãy tích trữ cho mình những kho tàng trên trời, nơi mối mọt không làm hư nát, và kẻ trộm không khoét vách lấy đi. Vì kho tàng của anh em ở đâu thì lòng anh em ở đó” (Mt 6:19-21; Lc 12:33-34).

 Chúa Giêsu mạnh mẽ xác định: “Không ai có thể làm tôi hai chủ, vì hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia, hoặc sẽ gắn bó với chủ này mà khinh dể chủ nọ. Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi Tiền Của được” (Mt 6:24; Lc 16:13).

 Phùng Văn Phụng 

Tháng 07/2019

Chồng bà đã cho bà vào trại tâm thần suốt ba năm

Tội của bà không phải là bạo lực, không phải cuồng loạn, cũng không phải mê sảng.

Tội của bà là dám suy nghĩ bằng chính cái đầu của mình.

Năm 1860, Elizabeth Parsons Ware Packard 43 tuổi.

Bà đã kết hôn 21 năm, là mẹ của sáu người con, sống ở vùng nông thôn bang Illinois. Nhìn bề ngoài, bà là hình mẫu “đúng chuẩn” của một người vợ thời đó: đứng đắn, đạo mạo, biết chữ, có đức tin.

Nhưng Elizabeth còn hơn thế.

Bà đọc triết học, đọc thần học. Bà đặt câu hỏi. Bà tin rằng đức tin chân chính không thể tách rời lương tri và lý trí. Rằng tin Chúa không có nghĩa là phải ngừng suy nghĩ.

Chồng bà, Theophilus Packard, thì không nghĩ vậy.

Ông ta là một mục sư Tin Lành với niềm tin Calvin cứng nhắc, và tin rằng mình có quyền tuyệt đối trong gia đình. Với ông ta, việc Elizabeth chất vấn thuyết tiền định, từ chối vâng phục mù quáng và muốn tự đưa ra kết luận riêng không phải là tư duy — mà là nổi loạn.

Và một người phụ nữ nổi loạn, theo ông ta, là… bệnh hoạn.

Luật pháp bang Illinois lúc đó đứng hẳn về phía người chồng.

Chỉ cần lời khai của chồng, một người vợ có thể bị đưa vào trại tâm thần không cần xét xử, không cần bác sĩ, không cần bằng chứng, và cũng không có quyền tự bào chữa. Lời của người đàn ông là đủ.

Một ngày nọ, không báo trước, Elizabeth bị bắt đưa đi và nhốt vào trại tâm thần Jacksonville.

Bà không la hét. Không chống cự.

Bà bình tĩnh giải thích rằng mình hoàn toàn tỉnh táo và muốn được gặp một người có thẩm quyền.

Không ai nghe.

Cánh cửa đóng lại sau lưng bà.

Bên trong trại, Elizabeth sớm nhận ra một sự thật lạnh người:

Nơi này không đầy những phụ nữ điên loạn hay nguy hiểm.

Nó đầy những người vợ nói quá nhiều, những cô gái không chịu cúi đầu, những người phụ nữ có quan điểm, niềm tin hoặc sự độc lập khiến đàn ông xung quanh khó chịu.

Có người bị nhốt vì dám nghi ngờ giáo lý.

Có người vì từ chối hôn nhân sắp đặt.

Có người vì muốn tự quản lý tài sản của mình.

Có người… chỉ vì quá thẳng thắn.

Elizabeth hiểu ra:

“Điên” thường chỉ là cái nhãn để buộc phụ nữ phải im lặng.

Điều kiện trong trại vô cùng tàn nhẫn.

Bệnh nhân bị trói, bị cách ly, bị trừng phạt vì những lỗi nhỏ nhặt, bị đối xử tàn nhẫn dưới danh nghĩa “điều trị”. Ở đó, sức khỏe tâm thần không quan trọng.

Chỉ có sự phục tùng là quan trọng.

Elizabeth không khuất phục.

Bà quan sát. Ghi nhớ. Lắng nghe câu chuyện của những người xung quanh. Khi có thể, bà viết lén, ghi lại tên tuổi, bất công, cách thức lạm quyền. Bà hiểu rằng trí óc là thứ duy nhất họ không thể cướp đi — trừ khi bà tự giao nộp nó.

Suốt ba năm, bà bị giam giữ, trong khi các con lớn lên không có mẹ. Chồng bà kiểm soát thư từ, đi đâu cũng kể rằng vợ mình “không ổn định”. Còn xã hội bên ngoài thì mặc nhiên tin rằng trại tâm thần biết họ đang làm gì.

Năm 1863, Elizabeth được thả ra, nhưng lại bị trao về cho chồng — vẫn bị coi là điên, vẫn không có quyền công dân.

Bà không chấp nhận.

Elizabeth yêu cầu một phiên tòa công khai.

Năm 1864, trước bồi thẩm đoàn gồm 12 người đàn ông, Elizabeth làm điều mà không người phụ nữ nào trong hoàn cảnh của bà được mong đợi sẽ làm:

bà tự bào chữa cho chính mình.

Bà nói điềm tĩnh. Rõ ràng. Logic.

Bà trả lời từng câu hỏi. Trình bày niềm tin của mình. Và bóc trần luận điệu cho rằng bất đồng quan điểm đồng nghĩa với điên loạn.

Bồi thẩm đoàn chỉ mất bảy phút.

Phán quyết là nhất trí:

Elizabeth Packard hoàn toàn tỉnh táo. Và bà chưa từng điên.

Chồng bà nổi giận điên cuồng.

Nhưng Elizabeth đã tự do.

Bà hoàn toàn có thể dừng lại ở đó.

Nhưng bà không làm vậy.

Elizabeth hiểu rằng chiến thắng của riêng bà chẳng có ý nghĩa gì nếu cả hệ thống vẫn còn nguyên. Hàng nghìn phụ nữ khác vẫn có thể bị xóa sổ nhân phẩm chỉ bằng một chữ ký của chồng, cha hay người giám hộ nam.

Và bà biến sự sống sót của mình thành một sứ mệnh.

Bà viết sách vạch trần hệ thống trại tâm thần và các kẽ hở pháp luật cho phép lạm quyền. Bà công bố những câu chuyện chi tiết về sự tàn nhẫn và nỗi đau âm thầm của những phụ nữ tỉnh táo bị giam cầm vô cớ. Bà đi khắp nơi — thường là một mình — trực tiếp gặp các nhà lập pháp, đứng trước nghị viện và yêu cầu cải cách.

Bà bị khinh thường. Bị chế giễu. Bị tấn công.

Bà vẫn không dừng lại.

Từng bang, từng bang một, luật pháp bắt đầu thay đổi.

Nhờ Elizabeth Packard, phụ nữ có quyền được xét xử trước khi bị đưa vào trại tâm thần. Có quyền có luật sư, trình bày bằng chứng, bảo vệ sự tỉnh táo của mình trước tòa. Những người chồng mất đi quyền lực tuyệt đối để nhốt vợ chỉ vì bất tuân hay bất đồng quan điểm.

Quyền lực không kiểm soát đã trở thành quyền lực phải chịu trách nhiệm.

Elizabeth Packard sống đủ lâu để thấy những cải cách của mình lan rộng khắp nước Mỹ. Bà chưa bao giờ ngừng viết. Chưa bao giờ ngừng nói. Chưa bao giờ ngừng khẳng định rằng sức khỏe tâm thần không thể được định nghĩa bằng sự vâng lời.

Chồng bà từng cố xóa sổ bà bằng cách gọi bà là điên.

Ngược lại, bà trở thành một trong những nhà cải cách quan trọng nhất thế kỷ XIX về sức khỏe tâm thần và quyền phụ nữ.

Cuộc đời bà vừa là lời cảnh báo, vừa là minh chứng:

Quyền được suy nghĩ không tự nhiên mà có.

Nó từng bị tước đoạt, bị đánh cắp, bị biến thành vũ khí chống lại những ai dám nghĩ khác.

Và đôi khi, thứ duy nhất ngăn cách giữa im lặng và công lý là một con người từ chối chấp nhận một lời nói dối.

Elizabeth Packard đã từ chối.

Và pháp luật buộc phải lắng nghe.


 

LỜI NÓI SAU CÙNG CỦA TRỊNH BÁ PHƯƠNG TRONG PHIÊN TÒA SƠ THẨM

Fb Manh Dang

Cách nay tròn 4 năm, năm 2021, anh Trịnh Bá Phương, một dân oan Dương Nội, phải ra tòa lãnh bản án 10 năm tù giam chỉ vì nói sự thật về vụ đàn áp đẫm máu vào Đồng Tâm. Vụ tấn công do Bộ Công an tổ chức với hơn 3000 công an đủ các lực lượng, vũ khí trang bị tận răng… bắn chết cụ Lê Đình Kình, bắn trọng thương cụ Bùi Viết Hiểu, mở đầu bi kịch Đồng Tâm.

Dưới đây là nói sau cùng của anh Trịnh Bá Phương tại phiên tòa trước khi hội đồng xét xử vào nghị án:

——-///——-

“Tôi đấu tranh với mong muốn đất nước tôi không còn tình trạng hàng trăm người bị đánh chết trong đồn công an.

Tôi đấu tranh với mong muốn không còn tình trạng người Việt phải rời bỏ quê hương đi làm thuê ở xứ người qua những tổ chức buôn người với vỏ bọc xuất khẩu lao động.

Tôi đấu tranh với mong muốn không còn tình trạng ruộng đất với bờ xôi ruộng mật là sinh kế của người nông dân bị Đảng Cộng Sản cướp đoạt.

Tôi đấu tranh với mong muốn không còn tình trạng Đảng cử, dân bầu và người dân phải được bầu cử tự do và tôi dấu tranh để người dân chúng tôi không còn bị cai trị bởi Đảng Cộng Sản Việt Nam, một tổ chức hèn với giặc, ác với dân.

Tôi đấu tranh với mong muốn không còn tình trạng áp bức bóc lột  và tôi chống Đảng Cộng Sản Việt Nam là việc làm chính nghĩa.

Tôi không có tội với dân với nước. Chính Đảng Cộng Sản Việt Nam mới là tổ chức phản bội, bán nước, hại dân.

Nhân dân và lịch sử sẽ phán xét tội ác của Đảng Cộng Sản đã gây ra với dân tộc Việt Nam”.

Trịnh Bá Phương


Nỗi buồn của hận thù còn lớn hơn “nỗi buồn chiến tranh”- Tác Giả: Hoàng Quốc Dũng

Ba’o Dan Chim Viet

Tác Giả: Hoàng Quốc Dũng

11/12/2025  

Gần đây, tại Việt Nam, cuốn Nỗi buồn chiến tranh được vinh danh trong một giải thưởng văn học. Một cử chỉ cần thiết, vì cuốn tiểu thuyết này là tiếng nói hiếm hoi dám đi thẳng vào vết thương chiến tranh bằng sự trung thực của một con người đã kinh qua chiến tranh đó.

Thế nhưng ngay lập tức, nhiều kẻ giáo điều phản đối quyết liệt, tâm trí họ vẫn còn bị trói buộc bởi những tư duy cũ, lỗi thời. Chiến tranh đã kết thúc nửa thế kỷ, mà trong lòng họ, cuộc chiến và hận thù vẫn còn nguyên vẹn.

Chính phản ứng ấy làm tôi nhớ đến một câu chuyện khác, xa xưa hơn một nghìn năm, nhưng lại soi chiếu vào hiện tại Việt Nam một cách kỳ lạ. Một câu chuyện về hận thù, trả thù, và sự phi lý mà con người có thể đạt đến khi họ không chịu buông bỏ quá khứ.

Đó là câu chuyện về Giáo hoàng Formose.

Câu chuyện tưởng như hoang tưởng này là một màn hài kịch đen, một cảnh tượng phi lý chỉ có thể bước ra từ tiểu thuyết trào lộng. Nhưng đó là sự thật. Và nó nói lên một điều rất sâu sắc, rất đáng sợ về cơ chế của hận thù chính trị.

Formose đã chết được chín tháng khi kẻ thù của ông, người kế nhiệm ông, Giáo hoàng Étienne VI, quyết định đưa ông ra xét xử. Người ta đào xác Formose lên, mặc lại phẩm phục giáo hoàng, đặt ông ngồi trên ngai rồi mở một phiên tòa thật. Ở đó họ buộc tội ông, họ gào thét vào một thân xác bất động, họ chặt những ngón tay đã từng ban phúc rồi ném xác ông xuống sông.

Trong truyền thống Công giáo, khi ban phúc, linh mục hay giáo hoàng giơ ba ngón tay, ngón cái, trỏ và giữa, tượng trưng cho Ba Ngôi Thiên Chúa: Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Vì vậy, khi kẻ thù của Formose chặt ba ngón tay này, đó không chỉ là sự xúc phạm thân xác mà còn là cách tước bỏ biểu tượng thiêng liêng, phủ nhận mọi phép lành và mọi thẩm quyền tôn giáo ông từng mang.

Một người chết. Một thi thể lạnh ngắt. Vậy mà hận thù vẫn đòi phải sỉ nhục, phải trả thù cho bằng được như thể ông vẫn còn sống.

Không có minh họa nào rõ hơn cho sự thật này: hận thù không tự dừng lại. Nó tự nuôi mình. Nó lớn lên. Nó đòi hỏi nhiều hơn. Nếu kẻ thù còn sống, ta muốn đánh bại. Nếu hắn gục ngã, ta muốn đạp nát. Nếu hắn chết rồi, ta vẫn muốn trả thù ngay cả trên xác chết.

Đó là cơ chế. Và cơ chế ấy, tôi đã tận mắt chứng kiến trong cuộc chiến tàn khốc nhất mà tôi từng sống qua, cuộc chiến đã xé nát Việt Nam, đất nước của tôi, và làm rạn vỡ linh hồn dân tộc cho đến tận hôm nay.

VIỆT NAM, NGƯỜI CHẾT CŨNG KHÔNG YÊN. NGƯỜI SỐNG LẠI CÀNG KHÔNG.

Hận thù ở Việt Nam không chờ đến cái chết mới bùng lên. Bên thắng cuộc không quên. Bên thua cuộc cũng không quên. Và hầu như mỗi người đều mở một phiên tòa trong tâm trí mình, xét lại, buộc tội, cáo trạng, lật đi lật lại những ký ức tưởng đã chôn sâu.

Trầm trọng hơn cả La Mã thế kỷ IX, hận thù ở Việt Nam đã sống lâu hơn chiến tranh, lâu hơn con người, lâu hơn cả một thế hệ. Chiến tranh kết thúc khi tôi tròn đôi mươi. Năm mươi năm sau nó vẫn còn sờ sờ ra đó, mặc dù tôi và nhiều người bạn đã chủ trương hòa giải ngay khi chiến tranh vừa kết thúc. Và lạ lùng thay, những người chủ trương hòa giải lại bị đánh phá bởi cả hai phía, bên thắng cuộc cũng như bên thua cuộc, thậm chí còn đang bị tù đầy.

Nhưng đây là điều người Việt cần nghe.

Sau phiên tòa xử xác chết đó, Giáo hoàng Étienne VI, kẻ đứng ra xét xử một người đã chết, bị lật đổ, bị tống giam và cuối cùng bị siết cổ chết trong ngục. Thành Rome, chán ngấy cảnh trả thù vô nghĩa, đã quay lưng lại với những kẻ gieo hận. Người ta vớt xác Formose lên, chôn cất lại và phục hồi danh dự cho ông.

Cuối cùng, hận thù đã thua. Vì đến một lúc nào đó, người ta nói: đủ rồi.

Và Việt Nam thì sao?

Nửa thế kỷ nay, chúng ta tiếp tục sống lại cuộc chiến ấy, mỗi người trong một chiến tuyến ký ức của riêng mình.

Hận thù nuôi dưỡng hận thù nhưng chẳng xây nổi điều gì.Nó không trả lại công lý cho người đã khuất. Nó cũng không chữa lành được người đang sống.

Không dân tộc nào có thể bước tới tương lai trong khi cứ kéo lê một xác chết phía sau.

Chúng ta cũng vậy.

Người La Mã, nổi tiếng vì những cuộc tranh chấp không hồi kết, cuối cùng cũng tỉnh táo. Họ nhận ra rằng càng kéo dài sự trả thù càng làm ô uế chính mình.

Chúng ta đang đến đúng điểm đó ?

Đã đến lúc Việt Nam ngừng bới lại những oán hờn cũ, thôi dựng lại những phiên tòa ký ức để xét xử nhau mãi, hướng về những người đang sống, về những đứa trẻ chưa từng chọn cuộc chiến này, và nói: quá đủ rồi.

Không ai từ bên ngoài có thể mang hòa giải đến cho chúng ta. Chỉ chính chúng ta mới làm được điều đó.

Câu chuyện về Formose từ hơn một nghìn năm trước dạy ta một điều giản dị mà sâu sắc: hận thù chẳng mang lại gì, và cuối cùng nó sẽ quay lại nuốt chửng chính những kẻ nuôi dưỡng nó.

Vậy hãy học lấy bài học ấy. Cứ ôm hận mãi thì chết cả nút.

Cũng là một kiểu ngu. Mà cái ngu kéo dài nửa thế kỷ thì người ta gọi thẳng là NGU LÂU.

Ngoài hiên mưa vẫn rơi.

“Buồn dâng lên đôi môi…

Buồn đau hoen ướt mi ai rồi…”

Cái buồn đi trong đêm khuya ấy, cái buồn rơi theo đêm mưa ấy — tôi sợ rằng nó sẽ còn theo người Việt chúng ta rất lâu nữa.

Tôi bi quan, vì tôi tin nỗi buồn này, nỗi buồn của hận thù, sẽ còn dài hơn cả cuộc đời tôi.

Và có lẽ, nó sẽ theo tôi sang tận thế giới bên kia, nếu chúng ta không dừng lại ngay từ bây giờ.

Paris 07/12/2025


 

NHỮNG LÁ THƯ CHẾT – Thiên Phúc

Cách đây ít năm, một thành phố nước Anh có thanh niên tên là Fred Armstrong. Chàng làm ở bưu điện và người ta gọi chàng là trưởng ban thư chết vì chàng có nhiệm vụ giải quyết những lá thư đề sai địa chỉ hoặc thiếu sót hay khó đọc. Chàng sống trong một ngôi nhà cũ với cô vợ nhỏ nhắn. Một đứa con gái nhỏ và một cậu con trai còn bú sữa. Sau cơm tối, chàng thích phì phèo tẩu xì gà rồi kể cho cả nhà nghe những kỹ thuật mới nhất trong việc khám phá địa chỉ của những cánh thư lạc. Chàng tự coi mình như một người thám tử. Trong khung trời hiền hòa của chàng chẳng có gợn mây mù nào.

Cho đến một sáng kia, cậu con trai của chàng ngã bệnh. Thoạt nhìn thấy đứa bé, bác sĩ có vẻ suy tư. Và chỉ trong vòng bốn mươi tám tiếng đồng hồ là cục cưng của chàng không còn nữa.

Fred Armstrong buồn bã, tâm hồn chàng tan nát điếng nghẹn. Bà mẹ và cô bé Maria cũng khổ sầu không kém, nhưng họ quyết tự kiềm chế và vui sống với những gì còn lại. Nhưng ông bố thì không vậy. Cuộc đời của chàng bây giờ quả là một cánh thư chết không định hướng. Mỗi sáng đi làm việc như một người mộng du, ai hỏi chàng mới nói, mà nói rất ít. Chàng làm việc trong yên lặng, ăn một mình, ngồi như tượng đá ở bàn cơm, và đi ngủ thật sớm. Nhưng người vợ biết là chàng thức gần trắng đêm, mắt mở thao láo ngó lên trần nhà. Ngày lại ngày, tháng năm qua, tháng chạp đến, chàng càng tỏ ra thờ ơ suy nhược hơn nữa.

Bà vợ cố gắng thuyết phục chồng. Nàng bảo: “Tuyệt vọng như vậy là bất công đối với kẻ chết cũng như với người sống.” Nàng sợ thái độ lầm lì đó sẽ đưa chàng tới bệnh viện tâm thần.

Giáng Sinh đã gần tới. Một buổi chiều xám ngắt. Fred đang phân loại thư từ thì thấy có một lá thư dứt khoát là không thể chuyển được. Địa chỉ của người nhận nguệch ngoạc bằng bút chì như sau:

“Kính gởi Ông già Noel Bắc Cực.”

Armstrong định xé vất nó vào sọt rác nhưng có một thúc đẩy nào đó khiến chàng mở thư và đọc:

“Ông già Noel thân mến,

Năm nay nhà cháu buồn lắm. Vậy ông khỏi mang quà tới cho cháu nữa. Mùa xuân vừa rồi, thằng cu nhà cháu về trời. Cháu chỉ xin mỗi điều là khi ông tới nhà cháu, ông mang dùm đồ chơi về trời cho em cháu. Cháu để đồ chơi của nó ở gần lò sưởi góc bếp: con ngựa gỗ, cỗ xe lửa và hết mọi thứ khác. Em cháu thích phi ngựa ghê lắm, ông mang hết về cho nó và đừng để gì cho cháu cả, Nhưng xin ông cho ba cháu cái gì để ba cháu giống như hồi trước. Xin ông làm cho ba cháu lại hút xì gà và tiếp tục kể chuyện cho cháu. Cháu nghe ba nói với má là chỉ có “đời đời” mới làm cho ba cháu lành được thôi. Vậy xin ông gởi cho ba cháu một ít cái “đời đời” nhé. Cháu hứa sẽ rất ngoan ngoãn.

Ký tên

Marian.

Tối hôm đó, trên những con đường phố sáng rực đèn. Fred Armstrong rảo bước thoăn thoắt. Vào đến sân nhà chàng bật quẹt châm xì gà. Khi vừa mở cửa, chàng xả một hơi thuốc dài. Làn khói giống như một vòng hào quang quanh đầu hai mẹ con Marian đang trố mắt ngạc nhiên. Chàng lại tươi cười như trước.

***

Cuộc sống của mỗi người chúng ta đều phải trải qua những thăng trầm không thể tránh khỏi. Có những tháng ngày xem ra vô vọng không còn thiết sống. Có những lúc mây mù bao phủ khiến chúng ta không còn thấy đâu là lối thoát. Đôi khi qúa tuyệt vọng, chúng ta tự hỏi: tại sao Thiên Chúa để xảy ra nhiều đau khổ và bất công như thế ? Thực ra, Thiên Chúa không tạo ra đau khổ, cũng không gây ra bất công, bởi vì Ngài là tình yêu thương và là sự công bằng vô biên.

Nhiều khi chúng ta có cảm tưởng Thiên Chúa không nhận lời mình cầu xin. Nhưng chúng ta quên rằng cầu nguyện không phải là xin Thiên Chúa làm theo ý chúng ta, mà là tự đặt mình trong tư thế sẵn sàng thực thi ý Chúa. Chương trình của Ngài vượt quá trí hiểu hẹp hòi và cái nhìn thiển cận của chúng ta.

Kitô giáo có một nghịch lý rất lớn, đó là kêu gọi con người nhìn vào Thập giá như biểu tượng của hy vọng, nhìn vào đau khổ và cái chết như khởi đầu của ơn phúc. Chắc chắn, Chúa Giêsu không phải là người rao giảng sự chết chóc.

Kitô giáo không phải là đạo của khổ đau. Đức Kitô cũng không tự mình đi tìm cái chết; mãi mãi cái chết ấy vẫn là một bản án bất công của con người dành cho Thiên Chúa. Ngài cũng không đòi chúng ta phải đi tìm thập giá, Ngài chỉ khuyến khích: Hãy vác lấy thập giá mình mỗi ngày.”

Mà kỳ thực, có cuộc sống nào mà không có đau khổ. Có ai thóat khỏi khổ đau? Từ khi Ngôi Hai giáng sinh và cứu chuộc, thập giá đã biến thành nguồn ơn cứu rỗi, cái chết đã trở thành Tin Mừng. Tin Mừng chính là Thiên Chúa luôn yêu thương dìu dắt con người trong mọi nghịch cảnh của cuộc sống.

Từ đây, thất vọng đã bừng sáng lên niềm hy vọng. Những đau khổ của chúng ta sẽ không đi vào quên lãng, nhưng mang lại cho chúng ta niềm hạnh phúc mai sau.

C. Delavigne đã nói: “Sống là chiến đấu mà phần thưởng ở trên trời”. Cervatès còn xác quyết: “Ở đâu có đời sống thì ở đó có niềm hy vọng.” Chính trong niềm hy vọng mà chúng ta nhìn thấy hoa trái của hạt giống mình đã gieo vãi. Bên kia những vất vả, mất mát, thử thách đau khổ, người Kitô hữu luôn được mời gọi để nhìn thấy những ánh sao của niềm hy vọng, như Ba Vua tìm lại ánh sao sau khi lạc mất.

***

Lạy Chúa Hài Đồng, Chúa đã Giáng Sinh để chia sẻ những khổ đau của nhân loại chúng con. Xin cho con đừng bao giờ thất vọng, ngã lòng vì những đau khổ thử thách, nhưng cho con luôn cảm nghiệm được tình Chúa yêu thương và được lớn lên trong niềm tin tưởng phó thác. Xin ban thêm cho con niềm hy vọng và nâng đỡ con trong cuộc sống. Xin củng cố trong con niềm tin tưởng, lạc quan, để mỗi khi tiếp xúc với con, mọi người sẽ thấy bừng sáng lên niềm hy vọng vào cuộc sống. Amen!

Thiên Phúc

From: ngocnga_12 & NguyenNThu