Alice Ball một cô gái trẻ người Mỹ gốc Phi va` bệnh phong

Afro USUK

Ở tuổi 23, cô đã chữa khỏi một căn bệnh đã hành hạ nhân loại suốt nhiều thế kỷ. Rồi cô qua đời. Một người đàn ông da trắng đánh cắp sáng kiến của cô và trở nên nổi tiếng. Suốt 60 năm, thế giới không hề biết đến tên cô.

Một cô gái trẻ người Mỹ gốc Phi bước vào phòng thí nghiệm hóa học tại Đại học Hawaiʻi và bắt đầu làm việc với một vấn đề tưởng như bất khả thi.

Trong nhiều thế kỷ, bệnh phong — nay gọi là bệnh Hansen — là án tử gắn liền với sự cô lập. Bệnh nhân bị đưa vào các khu cách ly, xa gia đình, chờ đợi cơ thể tàn tạ dần. Phương pháp điều trị duy nhất là dầu chaulmoogra, chiết xuất từ hạt của một loài cây nhiệt đới.

Nhưng có một vấn đề nghiêm trọng: dầu quá đặc. Nếu tiêm, nó gây u cục đau đớn dưới da. Nếu uống, nó gây buồn nôn và hầu như không được hấp thụ. Bệnh nhân chịu đựng phương pháp điều trị gần như khổ sở như chính căn bệnh.

Các bác sĩ trên toàn thế giới đã cố gắng suốt nhiều thập kỷ để khiến loại dầu này hiệu quả. Và tất cả đều thất bại.

Cho đến khi Alice Ball xuất hiện.

Sinh ra ở Seattle năm 1892, Alice bộc lộ tài năng từ rất sớm. Cô tốt nghiệp không chỉ một mà hai bằng cử nhân — Hóa dược và Dược học — từ Đại học Washington. Vào thời điểm hầu hết các trường đại học thậm chí còn không nhận sinh viên da đen, đặc biệt là phụ nữ da đen.

Ở tuổi 23, cô lấy bằng thạc sĩ hóa học tại Đại học Hawaiʻi, trở thành một trong những phụ nữ đầu tiên — và là phụ nữ da đen đầu tiên — đạt được điều này tại trường.

Nghiên cứu của cô gây chú ý với bác sĩ Harry Hollmann, người đang điều trị bệnh nhân phong tại Bệnh viện Kalihi. Ông đến gặp Alice với một thử thách: Liệu cô có thể biến dầu chaulmoogra thành dạng có thể tiêm được không?

Những gì Alice làm tiếp theo đã cứu sống hàng ngàn người.

Cô tách được các hợp chất hoạt tính trong dầu — các ethyl ester của acid béo — và phát triển kỹ thuật khiến chúng tan trong nước. Lần đầu tiên trong lịch sử, dầu chaulmoogra có thể được tiêm vào máu bệnh nhân một cách an toàn và hiệu quả.

Kết quả thật phi thường. Những bệnh nhân bị cách ly suốt nhiều năm bắt đầu hồi phục. Các triệu chứng cải thiện. Một số thậm chí được xuất viện khỏi các khu cách ly và đoàn tụ với gia đình.

Alice Ball đã giải được bài toán mà các nhà khoa học trước đó thất bại suốt nhiều thế hệ.

Cô mới 23 tuổi.

Rồi bi kịch xảy ra.

Tháng 12/1916, chỉ vài tháng sau bước đột phá, Alice Ball đột ngột qua đời. Cô mới 24 tuổi.

Nguyên nhân chính xác vẫn không rõ — một số người cho rằng do phơi nhiễm hóa chất trong phòng thí nghiệm, người khác nghĩ là biến chứng bệnh khác. Tuy nhiên, nguyên nhân cái chết của Ball đến nay vẫn chưa được xác định rõ, vì giấy chứng tử ban đầu của cô đã bị sửa đổi để ghi là tử vong do bệnh lao. Chỉ biết rằng cô vẫn chưa kịp công bố kết quả. Công trình đột phá của cô chỉ tồn tại trong ghi chú.

Và rồi một điều không thể chấp nhận đã xảy ra.

Arthur Dean, chủ tịch Đại học Hawaiʻi, đã lấy nghiên cứu của Alice, tinh chỉnh kỹ thuật đôi chút và công bố — dưới cái tên duy nhất của mình.

Thế giới y học ca ngợi “Phương pháp Dean.”

Trong nhiều thập kỷ, nó được dùng để điều trị bệnh nhân phong trên khắp Thái Bình Dương, tại Philippines, khắp châu Á và châu Phi. Phương pháp đó cứu sống hàng ngàn người và mang lại hy vọng cho vô số gia đình.

Arthur Dean chưa từng nhắc đến tên Alice Ball.

Dù chỉ một lần.

Trong 60 năm, công lao của cô bị xóa bỏ. Một nữ nhà hóa học da đen trẻ tuổi, người đã làm được điều mà không ai làm nổi, đã bị quên lãng. Bị chôn vùi. Bị xóa khỏi lịch sử.

Cho đến năm 1977, khi một nhà sử học tên Kathryn Takara bắt đầu nghiên cứu về các nhà khoa học đầu tiên ở Hawaiʻi. Bà tìm được luận văn của Alice. Bà thấy các ghi chép trong phòng thí nghiệm. Bà ghép lại toàn bộ câu chuyện.

Sự thật hé lộ: “Phương pháp Dean” thực chất là “Phương pháp Ball”. Và người ta mới biết rằng Dean thực ra cũng chẳng đóng góp gì nhiều để thay đổi sáng kiến của Alice Ball.

Sự ghi nhận hiếm hoi dành cho công trình của Ball chỉ xuất hiện sáu năm sau khi cô mất. Năm 1922, tên cô được nhắc trong bài báo của bác sĩ Harry T. Hollmann, và phương pháp của cô được gọi là “Phương pháp Ball”.  Sau nhiều năm nghiên cứu này được các học giả tại Đại học Hawai‘i, bao gồm Kathryn Takara và Stanley Ali, công khai cho toàn thế giới biết sự thật.

Năm 2004, học giả Paul Wermager trích dẫn một cuộc phỏng vấn năm 1921, trong đó Arthur Dean nhấn mạnh tầm quan trọng của những người đi trước trong quá trình phát triển chiết xuất chaulmoogra. Tuy vậy, theo Wermager, báo cáo đó lại chỉ nhắc các cộng sự khác của Dean, chứ không hề nhắc đến Ball.

Tháng 3/2016, Hawaiʻi Magazine đưa Alice Ball vào danh sách những người phụ nữ có ảnh hưởng nhất trong lịch sử Hawaii. Năm 2017, Paul Wermager thành lập học bổng “Alice Augusta Ball Endowed Scholarship” nhằm hỗ trợ sinh viên theo học các ngành hóa học, sinh học, hóa sinh hoặc vi sinh.

Năm 2018, một công viên mới tại khu Greenwood ở Seattle được đặt tên theo cô. Đến năm 2019, Trường Y học Nhiệt đới và Vệ sinh London khắc tên cô lên phù điêu ở mặt tiền tòa nhà chính, cùng với Florence Nightingale và Marie Curie, để ghi nhận những đóng góp của họ cho khoa học và sức khỏe toàn cầu.

Tháng 2/2020, bộ phim ngắn The Ball Method được công chiếu tại Liên hoan phim Pan African. Sinh viên Đại học Hawai‘i sau đó đặt câu hỏi liệu nhà trường có nên làm nhiều hơn để khắc phục sai lầm của cựu hiệu trưởng Dean, trong đó có đề xuất đổi tên tòa nhà Dean Hall thành Ball Hall để vinh danh cô.

Ngày 6/11/2020, một vệ tinh mang tên cô (NuSat 9 hay “Alice”, COSPAR 2020-079A) được phóng vào vũ trụ.

Ngày 28/2/2022, Thống đốc David Ige ký tuyên bố chọn ngày này là “Ngày Alice Augusta Ball” tại Hawaii, trong buổi lễ đặc biệt tổ chức tại khuôn viên Đại học Hawaiʻi ở Mānoa. Buổi lễ diễn ra bên cạnh Bachman Hall, dưới tán cây chaulmoogra được trồng để tưởng nhớ cô, với sự tham dự của hơn 100 người, bao gồm Đệ nhất phu nhân Dawn Ige và Hiệu trưởng UH David Lassner.

Đến tháng 12/2024, sau nghị quyết của Hội đồng Giảng viên UH Mānoa, một bức tượng của Alice Ball được đặt tại Thư viện Hamilton để vinh danh cô.

Năm 2007, cô được truy tặng Huy chương Danh dự — giải thưởng cao quý nhất của trường Đại học Hawaiʻi.

Nhưng điều quan trọng nhất là:

Alice Ball chỉ mới 23 tuổi khi cô giải được một vấn đề đã thách thức nhân loại suốt hàng thế kỷ.

Cô là một phụ nữ da đen vào năm 1915, trong một lĩnh vực luôn loại trừ những người giống cô.

Cô đã cứu hàng ngàn người bằng tài năng của mình.

Và rồi một người đàn ông có quyền lực đã xóa tên cô, chiếm lấy công trình của cô.

Suốt 60 năm, thế giới tin vào một lời nói dối.

Nhưng sự thật luôn có cách trở lại. Câu chuyện của Alice Ball không bị mất — nó chỉ chờ được kể ra.

Ngày nay, phương pháp của cô được ghi nhận trong lịch sử y khoa. Sinh viên học kỹ thuật của cô trong lớp hóa học. Các nhà khoa học trẻ — đặc biệt là phụ nữ da màu — biết tên cô và nhìn thấy khả năng cho chính mình.

Di sản của Alice Ball không chỉ là khoa học. Nó nhắc chúng ta rằng:

Tài năng tồn tại ở khắp nơi, không chỉ trong những người ta “mong đợi.”

Lịch sử thường xóa bỏ công lao của phụ nữ và người da màu — nhưng công trình của họ vẫn còn đó.

Một con người, với sự cống hiến và thiên tài, có thể thay đổi cuộc sống của hàng ngàn người.

Alice Ball chưa bao giờ thấy phát minh của mình được tôn vinh. Cô không bao giờ biết mình đã cứu bao nhiêu người. Cô không được ghi nhận đúng lúc.

Nhưng công trình của cô vẫn sống. Bệnh nhân được chữa lành. Gia đình được đoàn tụ. Những cuộc đời được cứu.

Và hơn một thế kỷ sau, chúng ta nhớ đến tên cô.

Alice Augusta Ball. Nhà hóa học. Người tiên phong. Người cứu sống hàng ngàn người.

Hai mươi ba tuổi khi cô thay đổi lịch sử y học.

Ra đi ở tuổi hai mươi bốn — nhưng không bao giờ bị xóa bỏ thật sự.

Tài năng của cô không thể bị chôn vùi. Chỉ là thế giới mất sáu mươi năm để thừa nhận nó.

Hãy nhớ đến cô ấy. Hãy kể câu chuyện của cô ấy. Hãy tôn vinh sự thật.

Vì Alice Ball đã chứng minh rằng khoa học không có giới hạn về giới tính, chủng tộc hay thời gian.

*Sưu tầm dịch


 

NGƯỜI BẢO TRỢ CỦA TÔI- Tác Giả: Tam Nguyễn

Xuyên Sơn

Với lý lịch 8 năm tù trong trại cải tạo cộng sản, gia đình tôi sang Mỹ theo diện HO 15 đầu trọc: không thân nhân bảo trợ.

Tôi đã trải qua.

Ngày cùng vợ con lên phi trường ra đi, cũng là một ngày đầy nước mắt.

Cha tôi đã chết đúng ngày tôi lên đường.

Ngày đi không thể dời.

Chỉ còn cách quỳ lạy xác cha.

Tạ từ mẹ già và người thân, tôi lặng lẽ cúi đầu ra đi không một người đưa tiễn. Ngồi trên phi cơ mà tưởng chừng như tôi đang ngồi trên đống lửa.

Rồi đoạn cuối của cuộc hành trình đã đến.

Theo chân các hành khách, tôi dắt dìu vợ con ra khỏi máy bay.

Ra đón gia đình chúng tôi có một số người Mỹ và Việt Nam, tôi còn đang ngỡ ngàng với người và cảnh quá lạ xa nầy thì một bà đầm Mỹ đến ôm tôi và trao bó hoa, chụp hình lưu niệm.

Sau vài sự giới thiệu (mà lúc đó đầu óc tôi trống rỗng) gia đình tôi được bà Mỹ bảo trợ tên là Helen dẫn ra xe và chở về một apartment mà bà đã thuê sẵn.

Vợ chồng tôi đi từ ngạc nhiên nầy đến ngạc nhiên khác khi thấy sự chuẩn bị quá ư đầy đủ của bà bảo trợ: từ cục xà bông, cái khăn tắm, cuộn giấy đi cầu đến cái móc áo… mọi vật dụng cần thiết đều có sẵn, tại phòng khách với chiếc TV hiệu SONY 20 inch mà cả cuộc đời tôi không bao giờ dám mơ ước tới thì nay đã hiện hữu và từ nay tôi không còn phải lội bộ thật xa đến xóm chợ đầu làng để xem những trận đá banh với cái TV cà rịch cà tang…

Còn 2 thằng con tôi thì hả hê với chiếc máy game.

Vợ tôi cứ xuýt xoa mãi sao mà họ tử tế quá… tôi còn được biết

(qua người Việt Nam dịch lại) là tiền nhà tháng đầu bà bảo trợ đã tặng cho tôi.

Sau khi đã chỉ dẫn những cách sử dụng vài vật dụng cần thiết trong nhà cũng như những điều không được làm như không mở cửa cho người lạ mặt v.v… mọi người từ giã ra về, riêng bà bảo trợ thì dặn tôi chuẩn bị các thứ giấy tờ cần thiết để sáng mai bà đến đón gia đình tôi lúc 9 giờ.

Bà còn nói đùa là nhớ mở cửa cho bà…

Cả đêm đó tôi trằn trọc không sao ngủ được dù người tôi mệt mỏi rã rời sau chuyến hành trình dài.

Sáng hôm sau và dài dài sau đó, bà bảo trợ đã đón đưa gia đình chúng tôi đi làm những thủ tục lúc đầu như làm thẻ An Sinh Xã Hội, khám sức khoẻ, nộp giấy tờ cho 2 con tôi đi học và hướng dẫn vợ con tôi, chỉ bảo tôi từ đường đi nước bước cho đến khi tôi bắt đầu thi đậu lái xe thì bà nghĩ rằng tôi có thể tạm quen dần với cuộc sống, nên thỉnh thoảng khi có việc cần bà mới đến, tuy nhiên những ngày Chúa Nhật bà thường đưa gia đình tôi đi, sau đó về chơi và ăn uống ở nhà bà rồi bà dạy Anh Văn cho vợ chồng tôi.

Căn nhà bà ở một nơi thật yên tĩnh và có vườn hoa xinh xắn, qua tâm tình với bà, tôi được hiểu rõ về lý do tôi được bà bão lãnh, bà kể lại rằng sỡ dĩ bà chọn bảo trợ tôi vì khi đọc hồ sơ ở Hội Từ Thiện USCC được biết đơn vị của tôi ngày xưa đóng ở PLEIKU mà nơi đây chồng bà đã

công tác rồi mất tích.

Bởi địa danh Pleiku cứ ám ảnh tâm trí bà và trong những giấc mơ, Bà thấy chồng hiện về mặt mũi đầy máu và nói rằng ông đã được một người nông dân Việt Nam cứu nhưng vì vết thương quá nặng nên ông không sống được!

Bà cũng đã cho tôi xem những bức hình chồng bà chụp những cảnh Pleiku như Biển Hồ, núi Hàm Rồng, hình người Thượng mang gùi dẫn nhau từng đàn trên đường ra chợ… tất cả đối với bà là những kỷ niệm còn sót lại của chồng bà nhưng đối với tôi là cả một vùng trời kỷ niệm thân thương của cuộc đời quân ngũ.

Chồng bà đã mãn nhiệm kỳ ờ Việt Nam nhưng tình nguyện ở lại công tác tiếp và bị mất tích, bà tự hỏi không hiểu cái gì ở Việt Nam đã hấp dẫn chồng bà.

Bà còn kể cho tôi nghe vài món ăn Việt Nam mà chồng bà ưa thích

và nay thì bà đang thực tế cùng ăn với gia đình tôi và tỏ ra thích thú lắm.

Tình thân giữa gia đình tôi và bà bảo trợ càng ngày càng thấm thiết.

Vì không có con cái nên mọi tình thương bà dồn cho 2 đứa con tôi.

Thời gian khi con tôi đau phải nằm bệnh viện, ngày nào bà cũng đến chăm nom săn sóc với nỗi lo hiện trên nét mặt như chính người thân yêu của bà. 

Tôi thỉnh thoảng vẫn đến dọn dẹp mảnh vườn nhỏ của bà, bà trả thù lao nhưng tôi từ chối thì bà tế nhị mua cho vợ hoặc con tôi những thứ khác.

Bà cho biết bà đang làm việc tình nguyện ở một bệnh viện và thỉnh thoảng bà có cộng tác với

Hội Hồng Thập Tự.

Đôi khi tôi thấy bà đem quần áo về nhà giặt sạch sẽ, ủi cẩn thận và bỏ vào thùng mang đi.

Bà âm thầm làm việc liên tục, ít khi thấy bà nghỉ ngơi và lúc nào bà cũng vui vẻ biểu hiện qua khuôn mặt đầy lòng nhân ái.

Thỉnh thoảng bà cũng thường hay hỏi tôi về đời sống người dân ở Việt Nam.

Bà rất quan tâm và thông cảm với những khốn khổ mà người Việt Nam đang gánh chịu.

Khi biết có bão lụt ở Việt Nam, bà rất tích cực đóng góp vào công việc cứu trợ, nhất là bà thường gởi tiền giúp cho trẻ em Cô Nhi Viện Việt nam.

Một hôm thật tình cờ tôi gặp bà cũng đến hiến máu ở Trung tâm Hiến Máu thành phố, tôi càng thấy thương và kính phục bà nhiều hơn. 

Gặp nhau tại đây, bà nhìn tôi với ánh mắt thông cảm và hài lòng khi thấy tôi cũng hiện diện, nhìn tấm thẻ ghi ngày hiến máu của bà đã gần hết chỗ ghi ngày tháng tôi được biết thêm đây không phải là lần đầu tiên bà đến đây.

Tại nơi nầy tôi cũng được dịp quan sát và thấy người Mỹ họ đi hiến máu thật đông mà giới trẻ đi hiến máu cũng không phải là ít, tôi ao ước trong

cộng đồng Việt Nam chúng ta mọi người động viên nhau đến với Trung Tâm Hiến Máu thì thật là quý báu lắm thay.

Sau nầy có lần bà hỏi tôi bên Việt Nam có đi hiến máu đông không, tôi thật tình kể với bà rằng tôi chỉ thấy chỉ có những người dân nghèo ở Sài gòn phải đi bán máu để kiếm sống, bà tỏ ra xót xa!

Càng gần gũi biết về bà tôi càng thương bà hơn.

Tôi kính trọng bà như chị ruột của tôi, gặp những gì khó khăn tôi thường đến nhờ bà hướng dẫn và ngược lại bà cũng không giấu tôi những nỗi niềm riêng tư của bà.

Bà đã bỏ đi cả quãng đời thanh xuân để sống âm thầm với kỷ niệm mặc dù có bao chàng trai đã đến cầu hôn bà khi bà là một thiếu nữ trẻ đẹp.

Sự thủy chung của bà như viên ngọc quý giữa cái xã hội thay chồng đổi vợ như thay áo ở xứ Mỹ văn minh nầy.

Theo bà công tác từ thiện đã giúp bà vượt qua mọi cám dỗ để đứng vững đến ngày hôm nay.

Có lần tôi hỏi bà sao không nuôi chó hoặc mèo cho vui.

Bà nói bà cũng thích và thương thú vật lắm nhưng bà phải dành thì giờ làm những công việc khác có ích hơn và tiền mua thức ăn cho súc vật để dành giúp cho người nghèo có được miếng sống thì quý hơn.

Từ những suy nghĩ đơn sơ đầy tình người, những giúp đỡ thiết thực của bà đối với người dân nghèo Việt Nam và cá nhân gia đình tôi, tôi không biết dùng lời lẽ nào để nói lên lòng biết ơn Bà.

Tôi chỉ cầu xin ơn trên cho bà luôn được mạnh khoẻ để đem tình thương đến cho mọi người.

Một hôm bà nói với tôi rằng từ lâu bà ao ước được đi thăm Việt Nam

một chuyến, nhất là đi đến cái xứ Pleiku đó, bà muốn tôi cùng đi và nói khi nào tôi sẵn sàng đi được thì báo cho bà biết.

Qua Mỹ hơn 4 năm, tôi cũng nhớ Mẹ già và quê hương lắm, muốn về thăm nhưng ngặt nỗi nếu đi cả vợ chồng và 2 đứa con vào dịp Hè thì quá tốn kém.

Như hiểu được khó khăn của tôi, Bà nói sẽ tặng  vé máy bay cho cả gia đình tôi.

Nói vậy chứ tôi đâu dám nhận vì vợ chồng tôi đã mang ơn bà nhiều quá. Cuối cùng tôi đã báo cho bà là dịp Hè tới được nghỉ, tôi và thằng con trai lớn sẽ cùng bà đi Việt Nam, bà vui mừng ra mặt, tôi chưa thấy lần nào bà vui như lần nầy.

Bà nói được đi Việt Nam là bà mãn nguyện lắm.

Bà đưa ra những dự tính phải làm khi đến Việt Nam.

Thời gian như ngắn lại, bà đếm từng ngày, chỉ còn ba tuần nữa thôi.

Nhưng rồi tang thương lại một lần nữa ập xuống.

Một buổi chiều thứ sáu như thường lệ trên đường từ Hội Hồng Thập Tự về nhà, xe bà đã bị một xe truck do một tài xế Việt Nam đụng phải và bà đã trút hơi thở cuối cùng nơi bệnh viện không một người thân.

Nhận tin mà tôi tưởng chừng như xung quanh đất trời sụp đổ, tôi chết lặng hồi lâu.

Cuộc đời sao quá oan nghiệt, ước nguyện thật nhỏ nhoi của bà đã không thành.

Biết đâu Thượng Đế muốn dành cái chết như phần thưởng cho riêng bà.

Biết đâu giờ này bà đã gặp lại chồng bà và hai ông bà đang hạnh phúc bên nhau nơi miền miên viễn.

Có lẽ Thượng Đế không muốn bà phải lặn lội đường xa tìm tin tức chồng trong vô vọng và Ngài cũng không muốn bà phải tận mắt chứng kiến cảnh khốn khổ của người dân Việt Nam đang sống dưới chế độ phi nhân của cộng sản.

Gia đình tôi hoà lẫn giữa đám đông người Mỹ trong đám tang thật

cảm động để đưa tiễn bà lần cuối, viếng xác bà khi còn đặt ở nhà quàn, tôi thấy mặt bà đã được trang điểm thật đẹp, trông bà thật thanh thản và mặt bà như có vẻ mãn nguyện… tôi muốn được ôm từ biệt bà lần cuối

và thét lên rằng:

“Chị ơi sao đành bỏ em”!

Vợ tôi đã ngất xỉu khi quan tài bà hạ huyệt.

Sau cái chết của bà, gia đình tôi thấy thật trống vắng, hai con tôi lúc nào cũng nhắc tới bà với nhiều nhớ thương.

Vợ chồng tôi cũng dự định chuyển đi tiểu bang khác ấm áp hơn để hy vọng tìm một chút an bình.

Nay ngồi ngẫm lại những sự việc xảy ra: ngày bà chết cũng đúng vào ngày cha tôi mất (mùa lễ Phục Sinh).

Rồi cả bà và chồng bà đều chết bởi người Việt Nam gây ra, tôi không hiểu tại sao có thể như vậy…

Lòng tôi quặn thắt khi nghĩ đến bà, gia đình tôi mang ơn bà mà không bao giờ trả được.

Nhớ thương bà tôi chỉ biết đặt ảnh bà cùng chung với bàn thờ cha tôi,

cha mẹ tôi đã sinh ra tôi còn bà đã cho tôi lý tưởng sống.

Bây giờ trên bàn thờ cha tôi có thêm bức hình của bà Helen.

Chị ngồi đây với cha tôi và hàng năm ngày cúng giỗ cha tôi cũng là ngày tôi cúng giỗ chị.

Mộ chị sẽ không quạnh hiu vì có chúng tôi đến với chị như khi chị còn sống trên cõi đời nầy.

Sau đám tang bà Helen một thời gian, một hôm tôi sững sờ khi luật sư báo cho biết theo di chúc, bà Helen để lại tặng cho vợ chồng tôi căn nhà của bà và ngoài ra bà còn tặng 100 ngàn đô la cho Cô Nhi Viện ở Việt Nam.

Khi gia đình tôi dọn về căn nhà của bà, tôi tự hỏi mình đã làm gì để được hưởng phần thưởng nầy.

Suốt cuộc đời tôi phải sống trong ân tình ngút ngàn mà không bao giờ trả được.

Trước mộ bà, tôi thầm khấn vái “chị Helen sống linh chết thiêng xin

phù hộ gia đình tôi, dẫn đường soi lối cho tôi đi theo lý tưởng của chị:

sống vì mọi người”

Tác Giả: Tam Nguyễn


 

SA MẠC NỞ HOA- TGM Giu-se Vũ Văn Thiên

TGM Giu-se Vũ Văn Thiên

 Sứ điệp và chứng từ của Thánh Gio-an Tẩy Giả gắn liền với sa mạc.  Ông sống trong sa mạc, làm bạn với muông thú, ăn mật ong rừng và mặc áo bằng da lạc đà.  Ông khởi đầu sứ mạng cũng ở trong sa mạc, bằng lời kêu gọi sám hối.  Con người khổ hạnh ấy có sức hấp dẫn lạ kỳ, đến nỗi dân thành từ Giê-ru-sa-lem, Giu-đê-a và vùng ven sông Gio-đan đều đổ xô đến nghe ông giảng.  Trong đó có cả những người thuộc phái Pha-ri-siêu và phái Sa-đốc.  Vào thời đó, hai phái này mâu thuẫn và không đội trời chung.  Sứ điệp của Gio-an Tẩy Giả đã gắn kết họ trong việc lắng nghe và thành tâm sám hối.

 Trước đó bảy trăm năm, ngôn sứ I-sai-a đã tiên báo về sự kiện này.  Ông chiêm ngưỡng một viễn tượng tương lai: Sa mạc sẽ nở hoa.  Đồng khô cỏ cháy mừng rỡ reo hò.  Vị ngôn sứ diễn tả một tương lai mà cỏ cây cũng như con người, đều biết nhảy múa và thể hiện niềm vui.  Lý do làm sao mà vui thế? Thưa, vì Thiên Chúa đến đây rồi.  Lúc đó, người què đi được, thậm chí còn nhảy nhót như nai; người mù sáng mắt; người điếc nghe thấy, và tất cả cùng nhau tiến về Xi-on.  Tiến về Xi-on là tiến về nhà Chúa, để gặp gỡ và tôn vinh Ngài.

 Lúc đó, ông Gio-an đang ở trong tù.  Có thể khi ông kêu gọi mọi người sám hối để chuẩn bị đón Đấng Thiên Sai, ông cũng không hiểu hết những gì mình nói.  Bởi vậy, lúc bị bắt cầm tù, ông cảm thấy hoang mang.  Trong cảnh ngục tối, có lẽ ông đặt câu hỏi: “Vị ngôn sứ thành Na-da-rét thực ra có phải là Đấng Ki-tô mà ông loan báo?”  Trăn trở này đã khiến ông sai môn đệ đến hỏi Đức Giê-su: “Thầy có thật là Đấng phải đến không, hay chúng tôi còn phải đợi ai khác?”  Chúa Giê-su không trả lời thẳng câu hỏi của các môn đệ này, nhưng Người nói đến kết quả lời rao giảng là các phép lạ Người đã thực hiện.  Ông Gio-an nghe những lời này, chắc chắn cảm thấy an tâm vì những gì ngôn sứ I-sai-a nói trước đó nay đã được thực hiện.  Qua câu trả lời, Đức Giê-su muốn nhắn gửi tới Gio-an Tẩy giả: “hãy an tâm!  Hãy vui lên, hỡi sa mạc và đồng khô cỏ cháy, vùng đất hoang, hãy mừng rỡ trổ bông….”

 Kiên nhẫn đợi chờ, đó cũng là thông điệp là Phụng vụ muốn gửi đến chúng ta trong Chúa Nhật này.  Bởi lẽ năm nào chúng ta cũng nghe nói đến việc Chúa sắp đến.  Hình ảnh người nông phu được Thánh Gia-cô-bê diễn tả (Bài đọc II) cho thấy sự kiên nhẫn sẽ được đền đáp.  Trong khi chờ đợi Chúa đến, người tin Chúa phải thực hành đức bác ái yêu thương, “đừng phàn nàn kêu trách lẫn nhau, để khỏi bị xét xử.”

 Ông Gio-an Tẩy Giả đã thi hành sứ vụ trong sa mạc.  Hôm nay, xã hội của chúng ta cũng đang rơi vào tình trạng sa mạc hóa.  Đó là sự dửng dưng của con người, và bạo lực dối trá tràn lan khắp nơi.  Những khủng hoảng về gia đình và đạo lý đang làm cho xã hội này trở nên khô cằn, ngược lại với cảnh nhộn nhịp phát triển của một cuộc sống được gọi là “hiện đại.”  Chính trong bối cảnh này, người tin Chúa được trao sứ mạng làm cho sa mạc nở hoa.  Thay vì bình phẩm phê phán, chúng ta hãy đóng góp phần mình để giảm thiểu bạo lực, đầy lùi dối trá và cổ võ tình thương, khởi đi từ gia đình, rồi đến với cộng đồng xã hội.  Khi cố gắng làm cho sa mạc cuộc đời nở hoa, là chúng ta làm lan tỏa chất Tin Mừng đến mọi góc khuất của cuộc đời.  Thánh Gia-cô-bê viết: “Anh em hãy noi gương các ngôn sứ là những vị đã nói nhân danh Chúa.”  Sống thanh tao giữa cuộc đời đầy bạo loạn, đó là sống ơn gọi Ki-tô hữu và thi hành chức năng ngôn sứ mà Chúa ban cho chúng ta khi lãnh nhận Bí tích Thanh Tẩy.

 Cùng chung một nội dung với Bài đọc I, Thánh vịnh 145 được hát lên trong Phụng vụ như cảm nghiệm sâu xa về những điều tốt lành Chúa đang làm cho mình.  Với lăng kính Ki-tô giáo, chúng ta tin Đức Ki-tô là Đấng giải phóng con người khỏi nô lệ tội lỗi mà các ngôn sứ và Thánh vịnh đã tiên báo.  Người đến để thiết lập một thế giới mới, nơi đó người với người không còn là lang sói, nhưng tất cả đều là anh chị em với nhau, có cùng một Cha trên trời (x. Mt 5,45).

 Ông Gio-an Tẩy Giả là gương mẫu cho chúng ta.  Sứ mạng của Ki-tô hữu là dọn đường cho Chúa.  Tuy vậy, trước hết chúng ta phải đón Chúa đến trong cuộc đời mình.  Gio-an được Đức Giê-su khen ngợi đặc biệt, và đánh giá ông là người cao trọng nhất trong số những phàm nhân.  Nếu chúng ta thực thi sứ mạng ngôn sứ một cách nghiêm túc, chúng ta cũng được chúc phúc như vị Tiền Hô.  Đôi khi người tin Chúa cũng bị cám dỗ bỏ cuộc và hoang mang.  “Phúc thay người nào không vấp ngã vì tôi.”  Đó cũng là lời Chúa Giê-su đang nhắn gửi chúng ta hôm nay.

 Lời Chúa hôm nay thấm đượm niềm vui.  Niềm vui vì được Chúa tạo dựng, được Chúa yêu thương và được Ngài cứu độ.  Ki-tô hữu còn vui vì có Đức Giê-su hiện diện trong cuộc đời mình.  Cảm nhận được niềm vui và hạnh phúc của người phụng sự Chúa, chúng ta sẽ có khả năng và nhiệt huyết đem niềm vui đến cho anh chị em mình. 

TGM Giu-se Vũ Văn Thiên

 From: Langthangchieutim


 

Chrismas Musics 2025 – P3

Sent: Friday, December 12, 2025 

Subject: Subj.: Chrismas Musics 2025 – P3

1/ O HOLY NIGHT (Kìa Vầng Hào Quang) VNA-TV 120425 

https://youtu.be/3whKu2W0AW4?si=x6bXe9sj1gISNttE

 2/ Hang Bê-Lem | Cẩm Vân – Khắc Triệu ft. MPU Choir | Giấc mơ đêm mùa đông 2025

 https://youtu.be/qgloKZhXm8s?si=cvS5vCLskv-HDu8_ 

3/ Best Christmas Choir Songs 2026 Best Christmas Carols 2026 

https://youtu.be/TpUgbvU295M?si=lgkgXf2ZxwayjrLt 

4/ TOP 10 Must-Listen Christmas Classics This Season – Wendy Kokkelkoren 

https://youtu.be/evj5XeSYC1Q?si=NhRVw8hZmENo9s2w

From: NguyenNThu

9 tổ chức kêu gọi quốc tế đòi CSVN thả bà Phạm Đoan Trang

Ba’o Nguoi-Viet

December 12, 2025

HÀ NỘI, Việt Nam (NV) – Chín tổ chức nhân quyền quốc tế đã cùng đứng tên chung kêu gọi cộng đồng quốc tế áp lực chế độ Hà Nội trả tự do cho nhà báo độc lập Phạm Đoan Trang.

Bà Phạm Đoan Trang, năm nay tuổi, năm nay 47 tuổi, bị nhà cầm quyền CSVN kết án 9 năm tù ngày 14 Tháng Mười Hai 2021 vì vu cho bà tội “Tuyên truyền chống” chế độ độc tài, đảng trị và cực kỳ tham nhũng tại Việt Nam.

Nhà báo độc lập Phạm Đoan Trang bị chế độ Hà Nội lôi ra tòa ngày 14 Tháng Mười Hai 2021, kết án 9 năm tù vì bà đã can đảm đấu tranh cho nhân quyền tại Việt Nam. (Hình: VNA)

“Phạm Đoan Trang là biểu tượng của quyền tự do báo chí và sự kiên cường. Bà dấn thân cho công lý và tự do báo chí không được phép bị bỏ quên. Bà xứng đáng được đặt lên hàng đầu các hoạt động ngoại giao và cộng đồng quốc tế phải làm hết tất cả mọi nỗ lực trong quyền hạn của mình để cho bà được trả tự do”.

Nhân ngày Quốc tế Nhân Quyền 10 Tháng Mười Hai, liên minh các tổ chức vận động cho bà Phạm Đoan Trang viết trong bức thư ngỏ gửi các chính phủ để thúc giục họ tích cực hành động mà nhờ đó bà có thể hy vọng chấm dứt tù tội. Liên minh 9 tổ chức đó gồm cả Phóng viên Không Biên giới (RSF), Văn Bút Quốc tế (PEN international), Ủy ban Bảo vệ Ký giả (CJP), Ân Xá Quốc tế v.v…

“Phạm Đoan Trang là biểu tượng của tự do báo chí nên tiếng nói của bà là đại diện cho tấy cả những người bị chế độ bịt miệng. Bà xứng đáng được tôn vinh cho lòng can đảm chứ không phải đáng bị bỏ tù trong những điều kiện khắc nghiệt, xa gia đình hàng ngàn cây số, chỉ vì đã làm nhiệm vụ của một nhà báo. Cộng đồng quốc tế phải vận dụng tất cả mọi nguồn lực để đòi CSVN trả tự do cho bà.” Lời bà Aleksandra Bielakowska, Giám đốc vận động khu vực Á Châu – Thái Bình Dương viết trong điện thư của RSF.

Theo thông tin mà các tổ chức trên được biết, sức khỏe của bà Phạm Đoan Trang ngày càng tồi tệ khi bị giam giữ trong những điều kiện tệ hại, lại không được chăm sóc y tế từ hệ quả những lần bị Công an CSVN hành hung dã man đến vỡ đầu, đánh gãy chân. Thêm nữa, ở trong trại giam An Phước tỉnh Bình Dương, bà bị di chứng từ dịch Covid-19 kéo dài như viêm xoang mãn tính, viêm khớp và nhiều vấn đề phụ khoa khác.

Bà là một nhà báo độc lập với những bài viết rất sắc sảo về tình hình thời sự chính trị tại Việt Nam phổ biến trên mạng xã hội và được hàng trăm ngàn người theo dõi suốt nhiều năm cho đến khi bị bắt. Bà là tác giả của một số sách vận động dân chủ hóa đất nước, nổi tiếng như “Chính trị bình dân”, “Cẩm nang nuôi tù”, “Phản kháng phi bạo lực” v.v…

Nhưng nhiều phần, tập tài liệu “Báo cáo Đồng Tâm” là đỉnh điểm đã dẫn tới việc chế độ Hà Nội quyết định bỏ tù bà để bịt miêng. Trong tài liệu này, bà kể lại từ nguyên ủy sâu xa của việc cưỡng chế đất nông nghiệp của dân xã Đồng Tâm huyện Mỹ Đức, Hà Nội, đến cuộc đàn áp đẫm máu đêm mùng 8 Tháng Giêng 2020 của hơn 3 ngàn lính công an, Cảnh sát cơ động. Những gì được kể ra trái với truyền thống bưng bít sự thật của chế độ Hà Nội về các cuộc cưỡng chế đất của dân.

Tấm hình này phổ biến trên YouTube nhân dịp bà Phạm Đoan Trang được Bộ Ngoại giao Mỹ vinh danh năm 2022 là một trong những phụ nữ can đảm trên thế giới. (Hình: YouTube)

Hồi Tháng Mười năm nay, cũng đã có 21 tổ chức quốc tế thúc giục các chính phủ trên thế giới áp lực buộc chế độ Hà Nội trả tự do vô điều kiện cho bà Phạm Đoan Trang. Tuy nhiên dù là áp lực trực tiếp chế độ Hà Nội hoặc gián tiếp qua các đối tác kinh tế chính trị với nhà cầm quyền độc tài này, người ta không hề thấy có kết quả khi chế độ ấy tảng lờ đối với áp lực cho nhân quyền.

Thậm chí, ngay sau khi bà bị kết án tù, một nhóm gồm 8 chuyên gia nhân quyền của Cao Ủy Nhân quyền LHQ, mà CSVN cũng là thành viên, đòi trả tự do cho bà, cũng bị chế độ bưng tai bịt mắt. Họ cho biết việc kết án tù Phạm Đoan Trang theo điều 88 Luật hình sự CSVN là “điều luật được viết một cách mơ hồ và vi phạm các chuẩn mực quốc tế về nhân quyền.”

Trong khi bà Phạm Đoan Trang bị CSVN đàn áp thẳng tay, bà lại được nhiều tổ chức quốc tế vinh danh và trao tặng giải thưởng vì những gì bà đã làm cho người dân trong nước, bất chấp khủng bố, tù tội. Năm 2022, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ vinh danh bà là một trong những phụ nữ can đảm trên thế giới.(NTB)


 

 

TỰ HỐI – Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

“Êlia đã đến rồi mà họ không nhận ra!”.

“Không dám nhìn nhận sự thật về chính mình là kẻ thù lớn nhất của đời sống thiêng liêng!” – Henri Nouwen.

Kính thưa Anh Chị em,

Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu bộc lộ một sự thật đáng tiếc. Người đương thời không nhìn nhận Gioan; vì thế, họ không nhận biết Ngài. Lý do, họ không dám nhìn nhận sự thật về chính mình – tự phụ, kiêu căng, báng bổ; nói cách khác, họ không ‘tự hối!’.

‘Tự hối’ là mở lòng cho Thiên Chúa thay vì trốn chạy Ngài. Vậy mà không chỉ không trốn chạy, chúng ta còn phải như Gioan – mở đường cho Chúa Kitô – chuẩn bị cho việc “đến liên tục” của Ngài trong đời sống. Muốn được thế, trước hết, chúng ta phải mở đường cho Ngài ngay trong chính bản thân mình. Ngài đã đến một lần trong lịch sử, nhưng cũng mong muốn đến trong linh hồn, gia đình và cộng đồng chúng ta từng ngày. Và Ngài chỉ có thể đến nếu chúng ta dám để cho ân sủng Ngài biến đổi. “Chúng ta không thể chuẩn bị thế giới cho Chúa Kitô nếu chưa chuẩn bị tâm hồn mình!” – Henri de Lubac.

Vậy mà việc nhìn nhận sự thật về bản thân không hề dễ dàng. Nó đụng chạm lòng tự phụ, thói quen, và cả những niềm vui giả tạo vốn đã gắn vào bản ngã. Khi từ chối điều này, chúng ta từ chối hồng ân tha thứ và đổi mới. Vì vậy, ‘tự hối’ không chỉ là nhận lỗi; nhưng còn là bắt đầu một hành trình thiêng liêng mới, nơi chúng ta khám phá chiều sâu của lòng thương xót Chúa, nhận ra sự tốt lành của Ngài. Mùa Vọng, mùa nhận ra lỗi lầm, thú nhận chúng, và tìm kiếm ơn tha thứ trong Bí tích Hoà Giải. Từ việc nhận ra lòng thương xót Chúa, chúng ta lớn lên trong việc thương xót người khác. “Thực hành ăn năn mở lòng cho Chúa và cho phép lòng thương xót của Ngài chảy qua chúng ta đến tha nhân!” – Von Balthasar.

“Lạy Thiên Chúa, xin phục hồi chúng con, xin toả ánh tôn nhan rạng ngời, để chúng con được ơn cứu độ!”. Hãy để lời Thánh Vịnh đáp ca vang lên trong lòng chúng ta vào những ngày này. Một lỗi lầm được nhận diện là một cánh cửa hé mở cho ân sủng Chúa, để được phục hồi, chữa lành và lớn lên trong ánh sáng của Chúa. Vì thế, tự hối không làm cho sợ hãi hay mặc cảm; trái lại, là cánh cửa dẫn đến bình an và sự sống mới; là nhịp cầu giữa chúng ta và Thiên Chúa, giữa những hạn chế của mình và ơn gọi nên thánh.

Anh Chị em,

“Êlia đã đến rồi mà họ không nhận ra!”. Hôm nay, Chúa Kitô muốn chúng ta nhận ra Ngài đang đến dưới nhiều hình thức – trong người nghèo, trong những đau khổ của thế giới, trong Lời Chúa, và trong các dấu chỉ bình dị của đời sống. Nếu chúng ta không khiêm nhường ‘tự hối’, Ngài có thể vẫn hiện diện nhưng chỉ lướt qua. Chỉ khi tâm hồn được thanh tẩy và cởi mở, ánh sáng Ngài mới soi thấu những góc tối thường bị bỏ qua. “Nếu để Chúa Kitô đi vào đời mình, chúng ta chẳng mất gì… chỉ trong tình bạn với Ngài, cánh cửa sự sống mới được mở rộng!” – Bênêđictô XVI.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, để nhân tâm con không còn dao động, giúp con nhìn nhận tội lỗi mình – điều đang ngăn cản con với Chúa – Cho con ước ao hết lòng được gột rửa chúng!”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế) 

**************************************

Lời Chúa Thứ Bảy Tuần II Mùa Vọng

 Ông Ê-li-a đã đến rồi mà họ không nhận ra.

✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Mát-thêu.     Mt 17,10-13

10 Đang khi thầy trò từ trên núi xuống, các môn đệ hỏi Đức Giê-su rằng : “Sao các kinh sư nói rằng ông Ê-li-a phải đến trước ?” 11 Người đáp : “Đúng thế, ông Ê-li-a đến và sẽ chỉnh đốn mọi sự. 12 Nhưng Thầy nói cho anh em biết : ông Ê-li-a đã đến rồi và họ không nhận ra ông, nhưng đã xử với ông theo ý họ muốn. Con Người cũng sẽ phải đau khổ vì họ như thế.” 13 Bấy giờ các môn đệ hiểu Người có ý nói về ông Gio-an Tẩy Giả.


 

VÌ SAO NHIỀU QUỐC GIA THẮNG TRONG CHIẾN TRANH NHƯNG THUA TRONG HÒA BÌNH?

Anh Chi TTV2 – Quan điểm cá nhân

Có một nghịch lý xuyên suốt lịch sử hiện đại:

Những nhà nước từng chiến thắng vẻ vang trong chiến tranh lại thường thất bại cay đắng trong hòa bình.

Đế quốc Nga thắng Thế chiến II nhưng Liên Xô tan rã năm 1991.

Nam Tư chiến thắng phát xít nhưng vỡ vụn trong nội chiến.

Cuba, Triều Tiên, Ethiopia, Angola… đều là những ví dụ của sự vinh quang trên mặt trận quân sự nhưng lao đao trong quản trị thời bình.

Vì sao?

Bởi chiến tranh và hòa bình đòi hỏi hai năng lực khác nhau.

Một nhà nước có thể rất mạnh trong chiến tranh nhưng lại không có bộ gen phù hợp để tồn tại trong hòa bình.

  1. Chiến tranh cần quyền lực tập trung; hòa bình cần quyền lực phân tán

Trong chiến tranh, mô hình hiệu quả nhất là:

– Mệnh lệnh từ trên xuống

– Kỷ luật tuyệt đối

– Sự hy sinh cá nhân cho mục tiêu chung

– Tập trung quyền lực để ra quyết định nhanh

Nhưng một mô hình quyền lực tập trung không thể vận hành xã hội dân sự trong hòa bình, nơi cần:

– Cơ chế kiểm soát

– Minh bạch

– Luật pháp độc lập

– Báo chí giám sát

– Người dân phản biện

Nhà nước quen dùng mệnh lệnh chiến tranh sẽ bị “đơ cứng” trong quản trị kinh tế – xã hội.

Một xã hội nhiều vấn đề nhưng lại ít cơ chế phản hồi giống như chiếc nồi áp suất không có van xả.

  1. Chiến tranh tôn vinh hy sinh; hòa bình đòi hỏi năng lực

Hậu chiến, nhiều vị trí chủ chốt được trao cho những người “có công” trong chiến đấu — điều hợp lý ở thời điểm ấy.

Nhưng ở thời bình, quốc gia cần chuyên gia:

– Kinh tế

– Luật pháp

– Công nghệ

– Giáo dục

– Quản trị công

Khi tiêu chuẩn bổ nhiệm vẫn dựa vào “thành tích cách mạng” thay vì năng lực quản trị, nhà nước bị mắc kẹt trong vinh quang quá khứ, không bước kịp thời đại.

Năng lực không tự sinh ra từ lòng dũng cảm.

Một vị tướng giỏi chiến trận chưa chắc là người xây dựng được thể chế pháp quyền.

  1. Cơ chế chiến tranh không chống được tham nhũng thời bình

Khi chiến tranh kết thúc, lượng tài nguyên tái thiết khổng lồ đổ vào hệ thống.

Nếu thiếu minh bạch – thiếu kiểm soát, thì tham nhũng trở thành sản phẩm tự nhiên.

Ví dụ điển hình:

– Liên Xô kiểm soát kinh tế thời chiến rất tốt, nhưng trong hòa bình, cơ chế bao cấp – độc quyền đẻ ra hệ thống tham nhũng khổng lồ.

– Nam Tư của Tito đoàn kết trong chiến tranh, nhưng sau hòa bình, các nhóm lợi ích địa phương tranh giành tài nguyên, dẫn đến sụp đổ.

Một bộ máy được xây dựng để đánh giặc không thể tự chuyển đổi thành bộ máy minh bạch.

  1. Tâm lý “kẻ thù” không phù hợp với xã hội dân sự

Trong chiến tranh: ai đặt câu hỏi = có thể nghi ngờ là kẻ phá hoại.

Trong hòa bình: người dân phải có quyền đặt câu hỏi, chất vấn, phản biện.

Nhưng nhiều nhà nước bước ra từ chiến tranh không thay đổi tư duy đối – lập:

– Phản biện bị xem là chống đối

– Báo chí bị kiểm soát

– Dân bị coi là đối tượng quản lý, không phải đối tác xây dựng quốc gia

– Cơ quan công quyền quen dùng biện pháp cưỡng chế hơn là phục vụ

Khi người dân trở thành “đối tượng”, còn nhà nước giữ tư duy “trật tự chiến tranh”, thì xã hội sớm muộn cũng rơi vào mâu thuẫn.

  1. Chiến thắng không đồng nghĩa với khả năng phát triển kinh tế

Lịch sử chứng minh:

đánh trận giỏi không đồng nghĩa quản lý kinh tế giỏi.

Hàn Quốc và Nhật Bản phát triển thần kỳ sau chiến tranh không phải nhờ chiến thắng, mà nhờ:

– Cải cách thể chế

– Tự do hóa kinh tế

– Minh bạch hóa bộ máy

– Giáo dục và công nghệ

– Tôn trọng quyền công dân

Ngược lại, nhiều quốc gia thắng chiến tranh nhưng stagnate (đình trệ) trong hòa bình vì:

– Duy trì cơ chế bao cấp

– Không khuyến khích sáng tạo

– Sợ thay đổi

– Sợ mất quyền kiểm soát

– Tâm lý tự mãn vì quá khứ

Sự tự mãn là kẻ thù của phát triển.

  1. Không có kẻ thù chung, sự đoàn kết thời chiến tan rã

Trong chiến tranh, toàn dân đoàn kết vì địch rất rõ ràng.

Trong hòa bình, các lợi ích nhóm xuất hiện:

– Nhóm kiểm soát tài nguyên

– Nhóm kiểm soát đất đai

– Nhóm kiểm soát quyền lực địa phương

– Nhóm kinh tế – chính trị

Nếu nhà nước không có cơ chế điều phối và kiểm soát quyền lực hiệu quả, thì xung đột lợi ích nội bộ phá hủy sự ổn định.

Nói cách khác:

chiến tranh thống nhất – hòa bình phân rã.

  1. Không chuyển đổi được từ “tự do chiến đấu” sang “tự do công dân”

Một quốc gia chỉ thực sự chiến thắng trong hòa bình khi:

– Quyền con người được bảo đảm

– Luật pháp bảo vệ dân, không chỉ bảo vệ bộ máy

– Cơ quan công quyền minh bạch và chịu trách nhiệm

– Công an – quân đội phục vụ dân, không đứng trên dân

– Người dân được quyền giám sát Nhà nước

Nếu một nhà nước coi hòa bình như “sự kéo dài của chiến tranh bằng biện pháp hành chính”, thì nó sẽ thua.

Một nhà nước thắng chiến tranh nhờ sức mạnh tập trung,

nhưng thắng hòa bình lại cần năng lực phân quyền, minh bạch, pháp quyền và tôn trọng nhân dân.

Nếu không thay đổi, vinh quang quá khứ trở thành chiếc neo kéo quốc gia đi xuống.

Hòa bình không phải là phần thưởng, mà là bài kiểm tra.

Và nhiều quốc gia đã không vượt qua bài kiểm tra đó.

Hong Thai Hoang

 


 

 “CHA DONALD CALLOWAY: TỪ NGHIỆN NGẬP VÀ TỘI LỖI ĐẾN ƠN GỌI LINH MỤC”

Thao Teresa

  1. Xuất thân và tuổi thơ

Donald Calloway sinh ngày 29 tháng 6 năm 1972 tại Dearborn, Michigan, Hoa Kỳ. Gia đình ông sau đó chuyển đến West Virginia, rồi sang miền Nam California (Los Angeles – San Diego). Do cha/cha dượng phục vụ trong quân đội, gia đình thường xuyên di chuyển, khiến tuổi thơ của ông không có nhiều sự ổn định.

  1. Tuổi trẻ lạc lối: nghiện ngập – tội lỗi – mafia Nhật

Lớn lên trong môi trường thiếu định hướng, Donald rơi vào con đường sa ngã rất sớm:

– Khoảng 11 tuổi, ông đã bắt đầu dùng ma túy, nghiện ngập và sống buông thả.

– Ông bỏ học giữa chừng, lang thang và tiếp tục chìm trong tệ nạn.

– Khi gia đình chuyển sang Nhật Bản, Donald bỏ nhà đi, tham gia vào lối sống trụy lạc và dính líu đến tội phạm.

– Ông trở thành người vận chuyển ma túy và tiền cho mafia Nhật Bản (Yakuza).

– Năm 15 tuổi, ông bị trục xuất khỏi Nhật Bản vì các hoạt động phạm pháp.

– Trở về Mỹ, Donald nhiều lần vào trung tâm cai nghiện, nhưng liên tục tái nghiện.

18 tuổi, ông bị bắt và vào tù tại Louisiana.

– Thời gian này, Donald sống lang thang, nghiện ngập nặng, tinh thần suy sụp, có lúc muốn kết thúc cuộc đời mình.

Đó là giai đoạn đen tối nhất – tưởng chừng không còn hy vọng cho tương lai.

  1. Bước ngoặt hoán cải – Ánh sáng trở lại

Ơn Chúa đến một cách bất ngờ nhưng mạnh mẽ:

– Một đêm kia, trong lúc tâm hồn trống rỗng và rối loạn, Donald vô tình lấy từ tủ sách gia đình một quyển sách về Đức Mẹ Medjugorje.

– Khi đọc, ông cảm nhận một sự đánh động sâu xa: nỗi hối hận, khao khát thay đổi và ước muốn trở về với Thiên Chúa.

– Ông bắt đầu đến nhà thờ, tham dự Thánh lễ, xưng tội và quyết tâm làm lại cuộc đời.

– Nhờ ơn sủng này, ông xin gia nhập –  Dòng Thừa Sai Đức Mẹ Vô Nhiễm – MIC, một dòng tu nổi tiếng về lòng sùng kính Đức Mẹ và Lòng Thương Xót.

Từ một kẻ sa đọa, Donald bước vào hành trình trở thành môn đệ của Đức Kitô.

  1. Học vấn – Đào tạo – Lãnh chức linh mục

Sau khi hoán cải, Donald quyết tâm học hành và tu luyện:

– Ông hoàn thành chương trình Đại học (B.A.) tại – Franciscan University of Steubenville.

– Học Thần học tại – Dominican House of Studies, nhận bằng M.Div. và S.T.B.

– Tiếp tục học S.T.L. chuyên ngành Thánh Mẫu học (Mariology) tại International Marian Research Institute.

– Ngày 31 tháng 5 năm 2003, Donald Calloway được – truyền chức linh mục tại National Shrine of the Divine Mercy (Massachusetts, Hoa Kỳ).

Từ đây, cuộc đời ông bước sang chương mới: sống trọn vẹn cho Thiên Chúa và Hội Thánh.

  1. Sứ vụ linh mục – Truyền giáo – Viết sách

Trong sứ vụ của mình, cha Donald Calloway đã phục vụ với nhiều vai trò:

– Giữ các nhiệm vụ quan trọng trong Dòng MIC như – Vicar Provincial và Vocation Director.

– Trở thành nhà giảng thuyết – nhà truyền giáo nổi tiếng khắp thế giới.

– Tác giả của nhiều sách thiêng liêng, đặc biệt cuốn “Consecration to St. Joseph” được hàng triệu tín hữu đón nhận.

Giảng thuyết mạnh mẽ về sức mạnh của Kinh Mân Côi, lòng sùng kính Đức Mẹ và Lòng Thương Xót Chúa.

– Dẫn các chuyến hành hương đến nhiều thánh địa trên thế giới.

– Vì yêu thích lướt sóng, ngài được nhiều người gọi bằng biệt danh dễ thương: “the surfer priest”  linh mục lướt sóng.

  1. Ý nghĩa từ cuộc đời cha Donald Calloway

Câu chuyện đời ngài là một chứng tá đầy sức mạnh:

– Thiên Chúa không bao giờ bỏ rơi ai, dù họ tội lỗi đến mức nào.

– Không bao giờ quá muộn để quay đầu và trở về với Chúa.

– Lòng sùng kính Đức Mẹ có thể chạm đến những tâm hồn tội lỗi nhất.

– Quá khứ không quyết định tương lai – ơn Chúa có thể làm mới toàn bộ cuộc đời.

Ngày nay, cha Calloway dùng chính dấu tích đau thương của tuổi trẻ để nâng đỡ những ai đang nghiện ngập, tuyệt vọng, lạc lối – chứng minh rằng:

Không ai là quá tội lỗi để Thiên Chúa không thể cứu.

  1. Trích từ cha Donald Calloway

“Chúa Giêsu Kitô là Ngôi Sao thật sự của thế giới.”

– Thế giới có nhiều “ngôi sao”:

– cầu thủ bóng đá

– ca sĩ nổi tiếng

– diễn viên

Nhưng tất cả rồi sẽ qua đi.

Chỉ có Chúa Giêsu Kitô là Ngôi Sao không bao giờ lụi tàn

là Đấng luôn tỏa sáng và dẫn dắt nhân loại.”

Câu chuyện hoán cải của cha Donald Calloway cho chúng ta thấy rằng không có ai quá tội lỗi để bị Chúa bỏ rơi, và cũng không có vết thương nào sâu đến mức ân sủng không thể chữa lành. Một con người từng nghiện ngập, sa đọa, bạo lực, vô thần… đã trở thành một linh mục thánh thiện, được cả thế giới biết đến như một chứng nhân mạnh mẽ của Lòng Thương Xót Chúa và tình yêu của Đức Mẹ.

Chúa đã không chọn người hoàn hảo. Chúa chọn người “đã từng gãy đổ” để nói với nhân loại rằng ơn Chúa mạnh hơn bóng tối, và ai biết mở lòng ra thì đều có thể trở nên mới.

Nhìn vào cuộc đời cha Calloway, chúng ta cũng được mời gọi soi lại chính mình:

Có những vùng tối nào trong trái tim mà ta chưa trao cho Chúa?

Có những thói quen, yếu đuối, vết thương hay tội lỗi nào mà ta nghĩ rằng “mình không bao giờ thay đổi được”?

Câu chuyện của ngài nhắc chúng ta nhớ:

Ơn Chúa không nhìn quá khứ, chỉ nhìn trái tim biết trở về.

Nguồn tham khảo chính:

“Donald Calloway”  Wikipedia. (Wikipedia 1)

“Biography”  fathercalloway.com. (fathercalloway.com 11)

Bài viết “Từ kẻ chuyển ma túy cho mafia Nhật, trở thành linh mục”. ([Hội dòng Đaminh Tam Hiệp][6])

Link chính thức để đọc thêm: [https://fathercalloway.com/…/fathercalloway…/biography/)

[1]: https://en.wikipedia.org/wiki/Donald_Calloway… “Donald Calloway”

[2]: https://de.wikipedia.org/wiki/Donald_Calloway… “Donald Calloway”

[3]: https://cgvdt.vn/roi-bo-mafia-nhat-de-tro-thanh-linh-muc… “Rời bỏ mafia Nhật để trở thành linh mục”

[4]: https://www.columbuscatholicwomen.com/an-interview…/… “An Interview with Fr. Donald Calloway, MIC”

[5]: https://www.catholic.com/profile/fr-donald-calloway… “Fr. Donald Calloway | Catholic Answers Profile”

[6]: https://daminhtamhiep.net/…/tu-ke-chuyen-ma-tuy-cho…/… “Từ kẻ chuyển ma túy cho mafia Nhật, trở thành linh mục”

[7]: https://chnetwork.org/…/fr-donald-calloway-m-c…/… “Fr. Donald Calloway, M.I.C.: Kicked Out of Japan as a Teen …”

[8]: https://www.206tours.com/…/fr-donald-calloway-the…/… “Fr. Donald Calloway, The Pilgrimage King!”

[9]: https://www.thedivinemercy.org/…/maybe-youve-seen-him… “Maybe You’ve Seen Him on Film?”

[10]: https://saintpaulseminary.org/…/joyful-catholic…/… “Joyful Catholic Leaders Show: Out of the depths with Fr. …”

[11]: https://fathercalloway.com/biography/?utm_source=chatgpt.com “Biography”


 

Người phụ nữ thầm lặng tên Thu

Kim Dao Lam

 Fb Tri Nguyen Ông Tám

Người phụ nữ thầm lặng tên Thu

Trong những câu chuyện đấu tranh cho dân chủ và nhân quyền ở Việt Nam, người ta thường nhắc đến những cái tên như Trịnh Bá Phương – người đàn ông kiên cường, dũng cảm đối diện với nhà tù và bạo lực chỉ vì dám lên tiếng cho người dân mất đất, cho những nạn nhân của bất công. Nhưng ít ai nhắc đến người phụ nữ luôn đứng sau lưng anh, lặng lẽ gánh lấy mọi nỗi đau lớn nhất: Thu Đỗ – người vợ, người mẹ, người đồng chí bất khuất.

Thu Đỗ không phải là người thích xuất hiện trước ống kính. Chị không diễn thuyết hùng hồn, không livestream dài dòng. Chị chỉ làm một việc duy nhất, ngày này qua ngày khác: sống sót để giữ lửa cho gia đình, để con cái còn có mẹ, để chồng dù trong tù vẫn còn biết rằng ở ngoài kia có một người phụ nữ nhỏ bé đang thay anh chống lại cả bầu trời sụp đổ.

Khi Trịnh Bá Phương bị bắt lần thứ nhất, rồi lần thứ hai, rồi bị kết án 10 năm tù với tội danh “tuyên truyền chống nhà nước”, rồi lần thứ ba thêm 11 năm chỉ vì một tờ giấy do người khác viết. Người ta thấy Thu Đỗ gầy đi trông thấy. Chị không khóc trước mặt ai. Chị chỉ lặng lẽ đi thăm nuôi, mang theo những gói bánh, chai nước mắm, và những lá thư viết tay mà anh Phương không bao giờ được đọc hết vì cán bộ trại giam giữ lại. Có lần chị kể, trên đường về từ trại giam Nam Hà, chị ngồi trên xe buýt mà nước mắt cứ rơi, nhưng chị lấy tay áo lau thật nhanh vì không muốn hành khách nhìn thấy. “Mình mà khóc thì ai lau nước mắt cho các con?” – chị nói, giọng nhẹ như gió.

Hai đứa con của anh chị, đứa nhỏ nhất còn chưa biết chữ “tù” nghĩa là gì. Thu Đỗ một mình nuôi con, một mình làm thuê, một mình đối mặt với những lần công an đến nhà “làm việc”, bị gọi lên đồn tra hỏi đến khi về được nhà thì trời đã gần sáng . Chị vẫn dậy nấu cơm cho con đi học, vẫn cười thật tươi khi con hỏi: “Mẹ ơi hôm nay mẹ ngủ đủ chưa?”. Không ai biết rằng tối hôm trước chị đã bị dọa dẫm, bị đe dọa sẽ cho cả nhà “đi theo chồng”.

Nhưng Thu Đỗ không bao giờ đầu hàng. Chị học cách livestream như chồng từng làm, giọng run run ban đầu, rồi dần dần đanh thép hơn. Chị kể về những ngày anh Phương bị tra tấn trong tù, về những vết thương không lành rồi lại mới, về những lần anh tuyệt thực đến kiệt sức. Chị nói mà như khóc, nhưng mắt vẫn khô: “Tôi chỉ muốn chồng tôi được chữa bệnh, được đối xử như một con người. Có gì sai đâu mà phải chịu thế này?”.

Có một chi tiết rất nhỏ mà khiến nhiều người rơi nước mắt: Mỗi lần đi thăm nuôi về, chị lại mang theo một chiếc áo anh Phương mặc trong tù để giặt. Chị giặt thật sạch, phơi khô, gấp thật gọn rồi… cất vào tủ, không mặc. Chị bảo: “Để dành, khi nào anh về thì mặc, còn thơm mùi nhà”. Chiếc tủ ấy đã chứa gần chục chiếc áo như thế suốt bốn năm qua.

Thu Đỗ không phải anh hùng theo nghĩa bắn súng hay hô khẩu hiệu. Chị là anh hùng theo cách đau đớn nhất của một người vợ, một người mẹ Việt Nam: dùng chính thân mình để che chắn cho chồng con trước bão tố. Chị không có vũ khí, chỉ có tình yêu và lòng kiên nhẫn ghê gớm của một người phụ nữ tưởng như yếu đuối mà lại mạnh mẽ hơn cả thép.

Hôm nay, khi Trịnh Bá Phương vẫn còn trong song sắt, khi những bản án bất công vẫn treo lơ lửng trên đầu những người dám nói thật, thì ở một góc nhỏ Hà Nội, vẫn có một người phụ nữ tên Thu Đỗ ngày ngày thắp hương thì thầm: “Anh ơi, em và các con vẫn ổn. Anh cứ yên tâm đấu tranh. Em ở đây, chờ anh về… dù phải chờ bao lâu cũng được”.

Và trong lòng những người biết câu chuyện này, đều thầm cầu nguyện: Mong một ngày không xa, người phụ nữ nhỏ bé ấy sẽ được ôm chồng trong vòng tay còn ấm hơi nhà, thay vì chỉ ôm những chiếc áo đã giặt sạch sẽ đang nằm lặng lẽ trong tủ.

Thu Đỗ – cái tên đẹp như một cánh hoa giữa mùa đông lạnh giá. Chị không cần ai phong thánh. Chị chỉ cần chồng được tự do, con cái được bình yên. Thế thôi mà sao khó đến thế.

Nhưng chị vẫn tin. Và vì chị tin, nên chúng ta cũng xin được tin cùng chị: rằng tình yêu và lòng kiên định cuối cùng sẽ thắng cả nhà tù và bất công.

Cảm ơn chị, Thu Đỗ – người vợ Việt Nam đẹp nhất mà chúng tôi từng biết.


 

11 NGƯỜI BẦU VÀ 34 NGƯỜI MẸ ĐƠN THÂN KHÔNG ĐỒNG

Nguyễn Văn Tịch 

 11 NGƯỜI BẦU VÀ 34 NGƯỜI MẸ ĐƠN THÂN KHÔNG ĐỒNG

Nhà Tạm Lánh Mai Tiến không đồng là nơi giúp cho các mẹ bầu và mẹ đơn thân. Đây là Quán Trọ của Giáo hội, giáo phận Xuân Lộc cho những mẹ đang gặp khó khăn đến tá túc lúc bị bỏ lại, lúc khó khăn, lúc bị bạo hành, lúc lang thang… Quán Trọ Mai Tiến luôn đủ chỗ cho các mẹ và các bé, bởi vì tấm lòng của các đức giám mục và của Giáo hội luôn luôn thương xót, thì chỗ ở vẫn còn.

11 mẹ bầu và 34 mẹ đơn thân hiện trong Nhà Tạm Lánh là con số ai nghe cũng hỏi : còn đủ chỗ, đủ phòng cho các mẹ nữa không. Nhà Tạm Lánh Mai Tiến đã dự trù những căn phòng, những bữa cơm, sữa bỉm, nơi chăm sóc trẻ… Tôi chỉ nghĩ đơn giản, mình còn có tấm lòng thì các mẹ và các bé vẫn chỗ ăn ở….

Thật ấm lòng khi thấy các mẹ muốn phá thai, giờ tiếp tục cưu mang con và sinh con. Thật ý nghĩa khi thấy các bé đáng lẽ đã dừng lại ở Nghĩa Trang Thai Nhi giờ vẫn được sống và được yêu thương, được lớn lên. Thật vui khi thấy các mẹ lại đầy sức sống : đi làm, sống tốt hơn, sống trên đôi chân mình và chăm sóc con cái của mình…. Với đủ công việc : rửa chén, bảo mẫu, giáo viên, công nhân, làm việc nhà,… để các mẹ có cuộc sống và nuôi con cái.

Sáng sáng các mẹ gửi con lên nhà trẻ, tung tăng đi làm, chiều về lên nhà trẻ đón con về, chăm sóc con, tối ăn cơm chung, đọc kinh cầu nguyện và nghỉ ngơi ấm áp, riêng tư. Mỗi phòng các mẹ tự sắp xếp và chăm sóc phòng của mình ngăn nắp, sạch sẽ như căn nhà riêng để cuộc sống các mẹ có tư cách, có trách nhiệm và tử tế với mọi người chung quanh. Khi nào các mẹ hoà giải được gia đình, tự lập thì rời Nhà Tạm Lánh Mai Tiến để hội nhập với xã hội.

Các bé được tiêm vaccin theo chương trình của chính phủ cũng rất đầy đủ. Nhà sơ sinh cho các bé dưới 1,5 tuổi, nhà trẻ cho các bé từ 1,5-6 tuổi. Tất cả cũng trong Nhà Tạm Lánh Mai Tiến, thuận tiện. Còn các bé lớp 1 trở lên thì ra trường nhà nước học, hết giờ học về lại Nhà Tạm Lánh.

Xin cám ơn Giáo hội Mẹ đã cho con sứ vụ này, Xin cám ơn tất cả quý vị và các bạn cùng con làm thành Quán Trọ không đồng cho những phận người bị bỏ lại, tha hương và gánh nặng nề đến 4 con. Cầu xin ơn Trên ban sức khoẻ, bình an, lòng thương xót và thánh thiện để chúng ta tiếp tục là Quán Trọ cho các phận người mang gánh nặng nề không phân biệt tôn giáo.

Linh Mục Giuse Nguyễn Văn Tịch, TB BVSS giáo phận Xuân Lộc.


 

CHUYỆN CỦA BA CHÚ KHỈ – Mônica Têrêsa Túy Nga

CHUYỆN CỦA BA CHÚ KHỈ KHÔNG NHÌN KHÔNG NGHE KHÔNG NÓI

Mônica Têrêsa Túy Nga

(Viết với ánh nhìn đời thường) 

  1. Giới thiệu

*Xét về mặt giá trị mỹ thuật thì ba chú khỉ tượng trưng cho ba KHÔNG, làm bằng gốm mỹ nghệ cao cấp được nung bao phủ bên ngoài lớp sơn bóng nổi vân màu xanh cẩm thạch này xứng đáng bị gia chủ nào đó đem vứt bỏ vào ngày 28 Tết vừa qua. Vì nhìn chúng vừa cũ kỹ, vừa lại có chú đã bị gảy mất một bàn chân, có chú bị trầy sờn một bàn tay nữa… Thế mà tôi đã hân hoan đi ôm lượm mang hết về nhà, rửa chùi thật sạch, rồi ân cần đặt bên cạnh gốc cây mai nhỏ ngoài ngõ. Những ngày Mừng Xuân, con cháu rút hết về quê ăn Tết, tôi ở nhà một mình. Ngoài giờ đi tham dự Thánh lễ ở giáo đường và đọc Kinh cầu nguyện tại gia ra, tôi để mặc cho  ba chú khỉ khọt này múa máy làm khuấy động tâm trí tôi! Vì đây là sự “khuấy động” hướng thiện, gợi hứng cho tôi ngồi viết bài này. Rất mong nhận lại được nhiều ý kiến đóng góp, cho các vấn đề được sáng tỏ và hữu ích hơn. 

  1. Hình thức và một thoáng truy cứu về nguồn gốc

 *Cả ba chú khỉ hiện diện trước mặt tôi đều được nghệ nhân cho đổ khuôn theo kiểu ngồi chồm hổm, mỗi chú cao khoảng một tấc rưởi, nhìn kỹ tôi không thấy có chú nào toát nét vui vẻ gì cả. Nhưng chịu khó nhìn cho sâu hơn, toàn bộ cho tôi bắt gặp cái “khí thế ưng chịu” phải là như thế! Cho mọi sự giao thoa được bình yên. Thật thấy mà thương thay!! Và, vì “thương” nên tôi tìm hiểu thêm, được biết:- Ba bức tượng của ba chú khỉ này từ rất lâu nay được thoát thai từ bức tượng thần Vajrakilaya có sáu tay ở Ấn Độ. Mỗi đôi tay của tượng thần Vajrakilaya giơ cao lên để bịt kín đôi mắt, bịt kín miệng, và bịt kín hai tai của mình lại. Hiện nay ở vùng Nikko, cách Tokyo khoảng 140 cây số về  hướng Bắc, trong đền Toshogu hãy còn đó một bức điêu khắc cổ bằng gỗ quí, trong đó có ba chú khỉ nhìn rất sống động, ẩn ý triết lý răn dạy người đời một cách cao siêu, của một nghệ nhân  nổi tiếng vào thế kỷ 17, ông tên là Hidan Jingoro. Và Mizaru, Kikazaru, Lwazaru, là tên của ba chú khỉ đó. Chú khỉ Mizaru bịt mắt, không nhìn. Chú khỉ Kikazaru bịt tai, không nghe. Và chú khỉ Lwazaru, bịt miệng, không nói. Phía sau của ba chữ không nhìn không nghe không nói, chúng ta thấy có hai nguyên âm và hai phụ âm đứng gần nhau kết thành âm đôi zaru. Zaru khi phát âm ra lại giống trài trại với Saru, mà nghĩa của Saru là con khỉ. Thế là từ đó hình ảnh của ba con khỉ thân mến như đã nói bên trên được lên ngôi, làm biểu tượng khuyên răn con người. Con người nên nhìn, khi cần phải nhìn. Con người nên nói, khi cần phải nói. Con người nên nghe, khi cần phải nghe. Cả ba hành xử vừa nêu, ngay trong Năm Thánh này, đem kết hợp chặt chẽ với Lòng Thương Xót của Thiên Chúa, thì không có gì sánh bằng. 

  1. Nhìn – nghe – nói: Ba thú khoái của ma quỷ!

Có lẽ nên thử nghĩ lại mà xem, nếu toàn thể loài người chúng ta ai cũng không nhìn không nghe không nói gì cả thì hẳn thế giới này đã thành một thế giới câm. Đức Chúa Trời của chúng ta chưa hề ban cho chúng ta một thế giới câm như vậy. Ngài luôn muốn đoàn con cháu của Ngài sống đoàn kết yêu thương và vui vẻ hạnh phúc bên nhau. Ngài ban cho loài người đôi mắt  để nhìn vạn vật đẹp xung quanh. Ngài ban cho đôi tai để con người nghe điều hay lẽ phải, nghe được luôn các âm điệu dịu dàng ngọt lịm của thinh không là bầu trời xanh dẫn đưa con người gặp được vị Cha chung hằng ngự trên cõi thiên đàng. Ngài ban cho cái miệng để cho vào bao tử thức ăn thức uống có chọn lựa để nuôi thân, và để đôi môi phát ra êm ái những lời tế nhị ngọt ngào, giúp người xấu trở nên tốt, giúp người tốt càng lúc càng được tốt hơn. Thế nhưng, bất cứ ở nơi đâu càng tập trung nhiều người quyết chí sống đời thánh thiện, thì nơi đó là nơi “hấp dẫn” nhất đối với loài ma quỷ! Ma quỷ sẵn sàng len vào thần trí của con người không có hoặc không vững Đức Tin, để biến con người này trở thành công cụ sắc bén của chúng. Trong các tài liệu bộc bạch về lời Giảng Lễ của Cố Đức Thánh Cha Phanxicô chúng ta, tôi rất tâm đắc câu ngài nói: 

 <<Cái hay cái tuyệt vời của loài ma quỷ là chúng làm cho chúng ta không hề biết chúng chính là ma quỷ>>. 

Từ câu nói thực tế và rất chính xác trên của Cố Đức Thánh Cha Phanxicô, tôi xin phép được suy ra: Người chính là ma quỷ, nhưng rất dễ dàng làm cho người khác lầm tưởng họ là người thánh thiện người chân chính, chính là các Đấng bậc có chức có quyền cao trọng, hay có chức quyền phó cao trọng trong Giáo hội, phân nhỏ xuống Ông Bà Anh Chị làm Trưởng nhóm, phó nhóm, làm thơ ký trong các cộng đoàn, nói riêng và nói chung. Vì vậy, việc quyết tâm không mở cửa tâm linh cho loài ma quỷ nhảy xổm vào, làm chủ và quấy rối bản tâm, là việc làm phải chú ý hàng đầu, không loại trừ bất cứ ai, ngay trong thời điểm mà Ánh sáng và Bóng tối – Thiện lành và Tội lỗi đang tranh giành quyền lợi riêng. 

Còn đối với một người giáo dân bình thường như tôi, ma quỷ sẽ có cách cám dỗ ngọt ngào êm ái khác, nếu hằng ngày tôi sống buông lơi Lời Chúa và không xem các giờ Kinh Phụng Vụ là việc làm rất cần thiết nữa. Và nếu tôi đã là như vậy, thì tôi sẽ để cho đôi mắt tôi, đôi tai tôi, và cái miệng của tôi hoạt động một cách ráo riết, không hề biết mệt mỏi. 

-Đôi mắt tôi: Trừ giờ nằm ngủ, chúng cần mở to, để nhìn bên này, ngó bên kia. Nếu chúng ngó nhìn không rõ, chúng sẽ khiến tôi xê dịch chỗ đứng, cho tầm nhìn được ngắn hơn, để chúng soi rọi bới xới chuyện của người khác. Ai là người biết nhún nhường và thân thiện với tôi, đôi mắt tôi sẽ nhìn họ với ánh nhìn có chút phần thông cảm. Ai là người không cùng phe phái với tôi, chống đối tôi, đôi mắt của tôi sẵn sàng ban cho họ những tia hận thù và chia rẽ. 

-Đôi tai tôi: Vì tôi là tay sai của loài ma quỷ, nên tôi rất ghét nghe lời hay ý đẹp. Trái lại tôi rất khoái nghe các cô bà xúm nhau “tám” chuyện của người khác. Ôi thôi nào là chuyện đánh ghen của xóm trên kéo dài xuống chuyện giựt hụi của xóm dưới…. Nào là chuyện ông cha ở nhà thờ này giảng hay, ông cha ở nhà kia giảng dở ẹc. Nào là dì phước này mặt đẹp như tiên sa, tu sẽ không bền; dì phước nọ nhìn xấu xí, đi tu là phải, chứ ở ngoài đời, ai mà cưới cho. Đại khái, chuyện “tám, tám, tám…” của họ càng hoành tráng, đôi tai của tôi càng khoái nghe.

 -Cái miệng tôi: Phải nhìn nhận rằng thị giác và thính giác của tôi là hai cơ quan truyền thông rất hữu hiệu trong việc đưa các sự kiện lên bộ não tôi, một bộ não vốn hay tưởng tượng và cường điệu ra thêm. Rồi từ bộ não tôi con đường truyền thông này được tuôn ra miệng, buộc tôi phải nói… nói… và nói…. Nói sự thật không đã, tôi bèn thêm mắm dậm muối thêm vô, để chuyện không có gì tôi nói cho thành có, tôi mới thỏa lòng. 

Kết quả: Tôi bị gia đình, xóm giềng, bạn bè …xếp tôi vào hạng người đáng ghê tởm!Cần tránh xa ra! Nếu không sẽ bị họa lây những chuyện không hay do chính tôi gây ra.

 4-Bài học quý giá

Sau khi bị mọi người bỏ rơi, như vừa nói bên trên, tôi giựt mình, nhìn lại chính mình! Và, ngay giờ đây ba chú khỉ tượng trưng cho ba KHÔNG, tên Mizaru, Kikazaru, và Lwazaru chính là ba vị Thầy của tôi. 

– Chú khỉ Mizaru bịt mắt không nhìn, dạy tôi chỉ nhìn khi cần phải nhìn. Mà nếu đã nhìn thì hãy nhìn với ánh mắt của Lòng Chúa Xót Thương, từ đó mọi chuyện dù có xấu cũng được từ từ hóa giải cho thành tốt. 

-Chú khỉ Kikazaru bịt tai không nghe, dạy tôi biết lắng nghe với tinh thần biết trân trọng mọi sự, nhất là biết lấy lương tâm ra mà phân biệt tốt xấu phải trái để:- Hoặc tôi học theo gương sáng, hoặc tôi lấy bước vấp ngã của người khác mà làm kinh nghiệm cho con đường thẳng tiến tốt lành của mình. 

-Chú khỉ Lwazaru bịt miệng không nói, dạy tôi nên nói, khi cần thiết phải nói. Và nếu đã nói thì tôi chỉ nên luôn nói lời khiêm nhường dịu ngọt êm tai để làm vui lòng người khác. Cho dù người đang đứng trước mặt tôi đã từng làm đau lòng tôi. Hy sinh như vậy đâu ăn thua gì đối với Tình Yêu Thiên Chúa hằng ban cho tôi, nhất là trong Năm Thánh Lòng Chúa Thương Xót này. 

  1. Kết bài

“Ra đây lên núi chơi với khỉ

Khỉ nhảy cà tang ta nhảy cà tưng

Nhảy cho đã để quên đời khỉ gió

Mai mạnh giò ta tiếp bước gian truân”.

(Trích thơ của Nhạc sĩ Đynh Trầm Ca)

Và, theo tôi, không có gian truân nào khốn khổ cho bằng cái gian truân khi ta phải chiến đấu với ý thức hệ của chính bản thân ta. 

Mônica Têrêsa Túy Nga

From:  Ngoc Bich & KimBang Nguyen


 

BẢO ĐẠI – HOÀNG ĐẾ ĐA TÌNH VỀ LÀM RỂ GÒ CÔNG…

Việt Luận – Viet’s Herald

Trần Văn Nhựt

Chuyện tình nào cũng ít được suông sẻ, kể cả nhà vua cũng vậy. Muốn làm rể Gò Công không phải là dễ.

Gái Gò Công không tự cho mình là đẹp, nhưng tự hào có được Hoàng Hậu Nam Phương. Hoàng Hậu duy nhứt của triều Nguyễn, qua 12 – 13 đời vua, trị vì 153 năm, đó là bà Nguyễn Hữu Thị Lan – (Mariette Jeanne Nguyễn Hữu Thị Lan con của Ông Nguyễn Hữu Hào). Người đẹp nhứt thời bấy giờ, bà đã ba năm liền trúng giải hoa hậu Đông Dương. Người đã chiếm trọn trái tim Hoàng Đế Bảo Đại khi mới gặp mặt lần đầu tiên trên chiếc tàu D’Artagnan. Hoàng Đế si tình đến nỗi thà bỏ ngôi vua chớ không chịu bỏ làm rể xứ Gò. Thật vậy, khi bị bà Từ Cung từ chối, Bảo Đại nói nếu không lấy được Thị Lan thì sẽ “ở vậy” suốt đời. Nếu chọn một trong hai, tôi sẽ chọn Thị Lan chớ không chọn ngai vàng. Đó là lời thuật của viên bí thư của Bảo Đại.

Ai ở Gò Công mà không biết Nguyễn Hữu Hào rể của Ông Huyện Sỹ tức Lê Phát Đạt đã xây ba nhà thờ: Chợ Đũi, Hạnh Thông Tây và Thủ Đức để dâng cúng cho dân địa phương. Dân địa phương thường gọi là nhà thờ Huyện Sỹ.

Cái trở ngại lớn nhứt của Bảo Đại đó là triều đình nhà Nguyễn thì chủ trương chống lại công giáo, chống lại dân Tây mà Tây thì bị xem là kẻ xâm lược nước mình, còn gia tộc của Nguyễn Hữu Thị Lan thì quốc tịch Pháp và nặng nhứt là sùng đạo.

Người Nam Kỳ từ đầu thế kỷ 20 đã truyền miệng nhau câu “Nhất Sỹ, nhì Phương, tam Xường tứ Định”. Nghĩa là người giàu nhứt Nam Kỳ thời đó là gia đình Huyện Sỹ (Tỷ phú), tức ông ngoại của Nguyễn Hữu Thị Lan.

Nếu so với Hoàng Đế cuối cùng của Trung Hoa – vua Phổ Nghi sau khi bị hạ bệ thì bị đày đi nông trường cải tạo nhiều năm mới được cho về làm công dân Trung Quốc, thì Bảo Đại – người Rể Gò Công nầy may mắn hơn nhiều, diễm phúc hơn nhiều cũng là nhờ bà Hoàng Hậu Nam Phương – Người con gái Gò Công làm nên lịch sử.

Muốn làm rể Gò Công không phải là dễ. Đầu tiên là việc chống đối của triều đình. Các quan đại thần, ông nào cũng có con gái lớn chạc bằng hoặc nhỏ tuổi hơn cũng đều muốn gả cho Bảo Đại. Đó là truyền thống, đó là danh dự suốt cuộc đời làm quan cho triều đình. Làm Quốc trượng ai ai mà không ham.

Trong đoạn hồi ký “Con Rồng An Nam” ông tâm sự: “M.J Lan có một vẻ đẹp thùy mị của người con gái miền Nam, hiền lành và quyến rũ làm tôi say mê.

Vì vậy tôi ngỏ ý xin cưới cô và cô đã đồng ý nhưng với điều kiện:

– Gia đình cô đồng ý trước đã

– Về phía gia đình cô Mariette Jeanne Lan cũng đồng ý nhưng phải thêm các điều kiện sau:

– Nguyễn Hữu Thị Lan phải được tấn phong Hoàng Hậu Chánh Cung ngay ngày cưới.

– Được giữ nguyên đạo Công Giáo, và các con khi sinh ra phải được rửa tội theo luật công giáo và giữ đạo.

-Riêng Bảo Đại thì vẫn giữ đạo cũ là Phật giáo.

-Phải được Tòa Thánh La Mã cho phép.

Tiếp đó cụ Tôn Thất Nhân nêu lý do: Thị Lan chỉ đậu tú tài toàn phần Pháp không thể so ra với Trạng Nguyên xứ ta, lại đòi làm Hoàng Hậu nữa thì không thể chấp nhận được.

Trước Hoàng Tộc, Bảo Đại thẳng thắn trả lời Tôn Nhân Phủ như sau: “Trẫm cưới vợ cho trẫm đâu phải cưới cho cụ Tôn Thất Hân và Triều đình đâu.” Câu nói lịch sử mà tất cả triều thần đều trố mắt nhìn nhau chịu thua. Tình yêu là sức mạnh. Tình yêu là trên tất cả.

Cuối cùng thì tình yêu đã thắng. Ngày cưới được ấn định vào ngày 20 tháng 3 năm 1934. Bảo Đại đúng 21 tuổi, và Nguyễn Hữu Thị Lan 19 tuổi. Bảo Đại chính thức là Rể Gò Công. Ngày mùng 10 tháng 2 (tức tháng 3 năm 1934) lễ tấn phong Hoàng Hậu được diễn ra rất trọng thể ở điện Dưỡng Tâm.

Bảo Đại chính thức đã có với Nam Phương Hoàng Hậu năm người con: hai trai và ba gái:

Hoàng tử Bảo Long 1936

Công chúa Phương Mai, ngày 1 – 4 năm 1937.

Công chúa Phương Liên, ngày 3 – 11 năm 1938.

Công chúa Phương Dung, ngày 5 – 2 năm 1942.

Hoàng tử Bảo Thắng năm 1948.

Trần Văn Nhựt