Chồng bà đã cho bà vào trại tâm thần suốt ba năm

Tội của bà không phải là bạo lực, không phải cuồng loạn, cũng không phải mê sảng.

Tội của bà là dám suy nghĩ bằng chính cái đầu của mình.

Năm 1860, Elizabeth Parsons Ware Packard 43 tuổi.

Bà đã kết hôn 21 năm, là mẹ của sáu người con, sống ở vùng nông thôn bang Illinois. Nhìn bề ngoài, bà là hình mẫu “đúng chuẩn” của một người vợ thời đó: đứng đắn, đạo mạo, biết chữ, có đức tin.

Nhưng Elizabeth còn hơn thế.

Bà đọc triết học, đọc thần học. Bà đặt câu hỏi. Bà tin rằng đức tin chân chính không thể tách rời lương tri và lý trí. Rằng tin Chúa không có nghĩa là phải ngừng suy nghĩ.

Chồng bà, Theophilus Packard, thì không nghĩ vậy.

Ông ta là một mục sư Tin Lành với niềm tin Calvin cứng nhắc, và tin rằng mình có quyền tuyệt đối trong gia đình. Với ông ta, việc Elizabeth chất vấn thuyết tiền định, từ chối vâng phục mù quáng và muốn tự đưa ra kết luận riêng không phải là tư duy — mà là nổi loạn.

Và một người phụ nữ nổi loạn, theo ông ta, là… bệnh hoạn.

Luật pháp bang Illinois lúc đó đứng hẳn về phía người chồng.

Chỉ cần lời khai của chồng, một người vợ có thể bị đưa vào trại tâm thần không cần xét xử, không cần bác sĩ, không cần bằng chứng, và cũng không có quyền tự bào chữa. Lời của người đàn ông là đủ.

Một ngày nọ, không báo trước, Elizabeth bị bắt đưa đi và nhốt vào trại tâm thần Jacksonville.

Bà không la hét. Không chống cự.

Bà bình tĩnh giải thích rằng mình hoàn toàn tỉnh táo và muốn được gặp một người có thẩm quyền.

Không ai nghe.

Cánh cửa đóng lại sau lưng bà.

Bên trong trại, Elizabeth sớm nhận ra một sự thật lạnh người:

Nơi này không đầy những phụ nữ điên loạn hay nguy hiểm.

Nó đầy những người vợ nói quá nhiều, những cô gái không chịu cúi đầu, những người phụ nữ có quan điểm, niềm tin hoặc sự độc lập khiến đàn ông xung quanh khó chịu.

Có người bị nhốt vì dám nghi ngờ giáo lý.

Có người vì từ chối hôn nhân sắp đặt.

Có người vì muốn tự quản lý tài sản của mình.

Có người… chỉ vì quá thẳng thắn.

Elizabeth hiểu ra:

“Điên” thường chỉ là cái nhãn để buộc phụ nữ phải im lặng.

Điều kiện trong trại vô cùng tàn nhẫn.

Bệnh nhân bị trói, bị cách ly, bị trừng phạt vì những lỗi nhỏ nhặt, bị đối xử tàn nhẫn dưới danh nghĩa “điều trị”. Ở đó, sức khỏe tâm thần không quan trọng.

Chỉ có sự phục tùng là quan trọng.

Elizabeth không khuất phục.

Bà quan sát. Ghi nhớ. Lắng nghe câu chuyện của những người xung quanh. Khi có thể, bà viết lén, ghi lại tên tuổi, bất công, cách thức lạm quyền. Bà hiểu rằng trí óc là thứ duy nhất họ không thể cướp đi — trừ khi bà tự giao nộp nó.

Suốt ba năm, bà bị giam giữ, trong khi các con lớn lên không có mẹ. Chồng bà kiểm soát thư từ, đi đâu cũng kể rằng vợ mình “không ổn định”. Còn xã hội bên ngoài thì mặc nhiên tin rằng trại tâm thần biết họ đang làm gì.

Năm 1863, Elizabeth được thả ra, nhưng lại bị trao về cho chồng — vẫn bị coi là điên, vẫn không có quyền công dân.

Bà không chấp nhận.

Elizabeth yêu cầu một phiên tòa công khai.

Năm 1864, trước bồi thẩm đoàn gồm 12 người đàn ông, Elizabeth làm điều mà không người phụ nữ nào trong hoàn cảnh của bà được mong đợi sẽ làm:

bà tự bào chữa cho chính mình.

Bà nói điềm tĩnh. Rõ ràng. Logic.

Bà trả lời từng câu hỏi. Trình bày niềm tin của mình. Và bóc trần luận điệu cho rằng bất đồng quan điểm đồng nghĩa với điên loạn.

Bồi thẩm đoàn chỉ mất bảy phút.

Phán quyết là nhất trí:

Elizabeth Packard hoàn toàn tỉnh táo. Và bà chưa từng điên.

Chồng bà nổi giận điên cuồng.

Nhưng Elizabeth đã tự do.

Bà hoàn toàn có thể dừng lại ở đó.

Nhưng bà không làm vậy.

Elizabeth hiểu rằng chiến thắng của riêng bà chẳng có ý nghĩa gì nếu cả hệ thống vẫn còn nguyên. Hàng nghìn phụ nữ khác vẫn có thể bị xóa sổ nhân phẩm chỉ bằng một chữ ký của chồng, cha hay người giám hộ nam.

Và bà biến sự sống sót của mình thành một sứ mệnh.

Bà viết sách vạch trần hệ thống trại tâm thần và các kẽ hở pháp luật cho phép lạm quyền. Bà công bố những câu chuyện chi tiết về sự tàn nhẫn và nỗi đau âm thầm của những phụ nữ tỉnh táo bị giam cầm vô cớ. Bà đi khắp nơi — thường là một mình — trực tiếp gặp các nhà lập pháp, đứng trước nghị viện và yêu cầu cải cách.

Bà bị khinh thường. Bị chế giễu. Bị tấn công.

Bà vẫn không dừng lại.

Từng bang, từng bang một, luật pháp bắt đầu thay đổi.

Nhờ Elizabeth Packard, phụ nữ có quyền được xét xử trước khi bị đưa vào trại tâm thần. Có quyền có luật sư, trình bày bằng chứng, bảo vệ sự tỉnh táo của mình trước tòa. Những người chồng mất đi quyền lực tuyệt đối để nhốt vợ chỉ vì bất tuân hay bất đồng quan điểm.

Quyền lực không kiểm soát đã trở thành quyền lực phải chịu trách nhiệm.

Elizabeth Packard sống đủ lâu để thấy những cải cách của mình lan rộng khắp nước Mỹ. Bà chưa bao giờ ngừng viết. Chưa bao giờ ngừng nói. Chưa bao giờ ngừng khẳng định rằng sức khỏe tâm thần không thể được định nghĩa bằng sự vâng lời.

Chồng bà từng cố xóa sổ bà bằng cách gọi bà là điên.

Ngược lại, bà trở thành một trong những nhà cải cách quan trọng nhất thế kỷ XIX về sức khỏe tâm thần và quyền phụ nữ.

Cuộc đời bà vừa là lời cảnh báo, vừa là minh chứng:

Quyền được suy nghĩ không tự nhiên mà có.

Nó từng bị tước đoạt, bị đánh cắp, bị biến thành vũ khí chống lại những ai dám nghĩ khác.

Và đôi khi, thứ duy nhất ngăn cách giữa im lặng và công lý là một con người từ chối chấp nhận một lời nói dối.

Elizabeth Packard đã từ chối.

Và pháp luật buộc phải lắng nghe.


 

LỜI NÓI SAU CÙNG CỦA TRỊNH BÁ PHƯƠNG TRONG PHIÊN TÒA SƠ THẨM

Fb Manh Dang

Cách nay tròn 4 năm, năm 2021, anh Trịnh Bá Phương, một dân oan Dương Nội, phải ra tòa lãnh bản án 10 năm tù giam chỉ vì nói sự thật về vụ đàn áp đẫm máu vào Đồng Tâm. Vụ tấn công do Bộ Công an tổ chức với hơn 3000 công an đủ các lực lượng, vũ khí trang bị tận răng… bắn chết cụ Lê Đình Kình, bắn trọng thương cụ Bùi Viết Hiểu, mở đầu bi kịch Đồng Tâm.

Dưới đây là nói sau cùng của anh Trịnh Bá Phương tại phiên tòa trước khi hội đồng xét xử vào nghị án:

——-///——-

“Tôi đấu tranh với mong muốn đất nước tôi không còn tình trạng hàng trăm người bị đánh chết trong đồn công an.

Tôi đấu tranh với mong muốn không còn tình trạng người Việt phải rời bỏ quê hương đi làm thuê ở xứ người qua những tổ chức buôn người với vỏ bọc xuất khẩu lao động.

Tôi đấu tranh với mong muốn không còn tình trạng ruộng đất với bờ xôi ruộng mật là sinh kế của người nông dân bị Đảng Cộng Sản cướp đoạt.

Tôi đấu tranh với mong muốn không còn tình trạng Đảng cử, dân bầu và người dân phải được bầu cử tự do và tôi dấu tranh để người dân chúng tôi không còn bị cai trị bởi Đảng Cộng Sản Việt Nam, một tổ chức hèn với giặc, ác với dân.

Tôi đấu tranh với mong muốn không còn tình trạng áp bức bóc lột  và tôi chống Đảng Cộng Sản Việt Nam là việc làm chính nghĩa.

Tôi không có tội với dân với nước. Chính Đảng Cộng Sản Việt Nam mới là tổ chức phản bội, bán nước, hại dân.

Nhân dân và lịch sử sẽ phán xét tội ác của Đảng Cộng Sản đã gây ra với dân tộc Việt Nam”.

Trịnh Bá Phương


Nỗi buồn của hận thù còn lớn hơn “nỗi buồn chiến tranh”- Tác Giả: Hoàng Quốc Dũng

Ba’o Dan Chim Viet

Tác Giả: Hoàng Quốc Dũng

11/12/2025  

Gần đây, tại Việt Nam, cuốn Nỗi buồn chiến tranh được vinh danh trong một giải thưởng văn học. Một cử chỉ cần thiết, vì cuốn tiểu thuyết này là tiếng nói hiếm hoi dám đi thẳng vào vết thương chiến tranh bằng sự trung thực của một con người đã kinh qua chiến tranh đó.

Thế nhưng ngay lập tức, nhiều kẻ giáo điều phản đối quyết liệt, tâm trí họ vẫn còn bị trói buộc bởi những tư duy cũ, lỗi thời. Chiến tranh đã kết thúc nửa thế kỷ, mà trong lòng họ, cuộc chiến và hận thù vẫn còn nguyên vẹn.

Chính phản ứng ấy làm tôi nhớ đến một câu chuyện khác, xa xưa hơn một nghìn năm, nhưng lại soi chiếu vào hiện tại Việt Nam một cách kỳ lạ. Một câu chuyện về hận thù, trả thù, và sự phi lý mà con người có thể đạt đến khi họ không chịu buông bỏ quá khứ.

Đó là câu chuyện về Giáo hoàng Formose.

Câu chuyện tưởng như hoang tưởng này là một màn hài kịch đen, một cảnh tượng phi lý chỉ có thể bước ra từ tiểu thuyết trào lộng. Nhưng đó là sự thật. Và nó nói lên một điều rất sâu sắc, rất đáng sợ về cơ chế của hận thù chính trị.

Formose đã chết được chín tháng khi kẻ thù của ông, người kế nhiệm ông, Giáo hoàng Étienne VI, quyết định đưa ông ra xét xử. Người ta đào xác Formose lên, mặc lại phẩm phục giáo hoàng, đặt ông ngồi trên ngai rồi mở một phiên tòa thật. Ở đó họ buộc tội ông, họ gào thét vào một thân xác bất động, họ chặt những ngón tay đã từng ban phúc rồi ném xác ông xuống sông.

Trong truyền thống Công giáo, khi ban phúc, linh mục hay giáo hoàng giơ ba ngón tay, ngón cái, trỏ và giữa, tượng trưng cho Ba Ngôi Thiên Chúa: Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Vì vậy, khi kẻ thù của Formose chặt ba ngón tay này, đó không chỉ là sự xúc phạm thân xác mà còn là cách tước bỏ biểu tượng thiêng liêng, phủ nhận mọi phép lành và mọi thẩm quyền tôn giáo ông từng mang.

Một người chết. Một thi thể lạnh ngắt. Vậy mà hận thù vẫn đòi phải sỉ nhục, phải trả thù cho bằng được như thể ông vẫn còn sống.

Không có minh họa nào rõ hơn cho sự thật này: hận thù không tự dừng lại. Nó tự nuôi mình. Nó lớn lên. Nó đòi hỏi nhiều hơn. Nếu kẻ thù còn sống, ta muốn đánh bại. Nếu hắn gục ngã, ta muốn đạp nát. Nếu hắn chết rồi, ta vẫn muốn trả thù ngay cả trên xác chết.

Đó là cơ chế. Và cơ chế ấy, tôi đã tận mắt chứng kiến trong cuộc chiến tàn khốc nhất mà tôi từng sống qua, cuộc chiến đã xé nát Việt Nam, đất nước của tôi, và làm rạn vỡ linh hồn dân tộc cho đến tận hôm nay.

VIỆT NAM, NGƯỜI CHẾT CŨNG KHÔNG YÊN. NGƯỜI SỐNG LẠI CÀNG KHÔNG.

Hận thù ở Việt Nam không chờ đến cái chết mới bùng lên. Bên thắng cuộc không quên. Bên thua cuộc cũng không quên. Và hầu như mỗi người đều mở một phiên tòa trong tâm trí mình, xét lại, buộc tội, cáo trạng, lật đi lật lại những ký ức tưởng đã chôn sâu.

Trầm trọng hơn cả La Mã thế kỷ IX, hận thù ở Việt Nam đã sống lâu hơn chiến tranh, lâu hơn con người, lâu hơn cả một thế hệ. Chiến tranh kết thúc khi tôi tròn đôi mươi. Năm mươi năm sau nó vẫn còn sờ sờ ra đó, mặc dù tôi và nhiều người bạn đã chủ trương hòa giải ngay khi chiến tranh vừa kết thúc. Và lạ lùng thay, những người chủ trương hòa giải lại bị đánh phá bởi cả hai phía, bên thắng cuộc cũng như bên thua cuộc, thậm chí còn đang bị tù đầy.

Nhưng đây là điều người Việt cần nghe.

Sau phiên tòa xử xác chết đó, Giáo hoàng Étienne VI, kẻ đứng ra xét xử một người đã chết, bị lật đổ, bị tống giam và cuối cùng bị siết cổ chết trong ngục. Thành Rome, chán ngấy cảnh trả thù vô nghĩa, đã quay lưng lại với những kẻ gieo hận. Người ta vớt xác Formose lên, chôn cất lại và phục hồi danh dự cho ông.

Cuối cùng, hận thù đã thua. Vì đến một lúc nào đó, người ta nói: đủ rồi.

Và Việt Nam thì sao?

Nửa thế kỷ nay, chúng ta tiếp tục sống lại cuộc chiến ấy, mỗi người trong một chiến tuyến ký ức của riêng mình.

Hận thù nuôi dưỡng hận thù nhưng chẳng xây nổi điều gì.Nó không trả lại công lý cho người đã khuất. Nó cũng không chữa lành được người đang sống.

Không dân tộc nào có thể bước tới tương lai trong khi cứ kéo lê một xác chết phía sau.

Chúng ta cũng vậy.

Người La Mã, nổi tiếng vì những cuộc tranh chấp không hồi kết, cuối cùng cũng tỉnh táo. Họ nhận ra rằng càng kéo dài sự trả thù càng làm ô uế chính mình.

Chúng ta đang đến đúng điểm đó ?

Đã đến lúc Việt Nam ngừng bới lại những oán hờn cũ, thôi dựng lại những phiên tòa ký ức để xét xử nhau mãi, hướng về những người đang sống, về những đứa trẻ chưa từng chọn cuộc chiến này, và nói: quá đủ rồi.

Không ai từ bên ngoài có thể mang hòa giải đến cho chúng ta. Chỉ chính chúng ta mới làm được điều đó.

Câu chuyện về Formose từ hơn một nghìn năm trước dạy ta một điều giản dị mà sâu sắc: hận thù chẳng mang lại gì, và cuối cùng nó sẽ quay lại nuốt chửng chính những kẻ nuôi dưỡng nó.

Vậy hãy học lấy bài học ấy. Cứ ôm hận mãi thì chết cả nút.

Cũng là một kiểu ngu. Mà cái ngu kéo dài nửa thế kỷ thì người ta gọi thẳng là NGU LÂU.

Ngoài hiên mưa vẫn rơi.

“Buồn dâng lên đôi môi…

Buồn đau hoen ướt mi ai rồi…”

Cái buồn đi trong đêm khuya ấy, cái buồn rơi theo đêm mưa ấy — tôi sợ rằng nó sẽ còn theo người Việt chúng ta rất lâu nữa.

Tôi bi quan, vì tôi tin nỗi buồn này, nỗi buồn của hận thù, sẽ còn dài hơn cả cuộc đời tôi.

Và có lẽ, nó sẽ theo tôi sang tận thế giới bên kia, nếu chúng ta không dừng lại ngay từ bây giờ.

Paris 07/12/2025


 

NHỮNG LÁ THƯ CHẾT – Thiên Phúc

Cách đây ít năm, một thành phố nước Anh có thanh niên tên là Fred Armstrong. Chàng làm ở bưu điện và người ta gọi chàng là trưởng ban thư chết vì chàng có nhiệm vụ giải quyết những lá thư đề sai địa chỉ hoặc thiếu sót hay khó đọc. Chàng sống trong một ngôi nhà cũ với cô vợ nhỏ nhắn. Một đứa con gái nhỏ và một cậu con trai còn bú sữa. Sau cơm tối, chàng thích phì phèo tẩu xì gà rồi kể cho cả nhà nghe những kỹ thuật mới nhất trong việc khám phá địa chỉ của những cánh thư lạc. Chàng tự coi mình như một người thám tử. Trong khung trời hiền hòa của chàng chẳng có gợn mây mù nào.

Cho đến một sáng kia, cậu con trai của chàng ngã bệnh. Thoạt nhìn thấy đứa bé, bác sĩ có vẻ suy tư. Và chỉ trong vòng bốn mươi tám tiếng đồng hồ là cục cưng của chàng không còn nữa.

Fred Armstrong buồn bã, tâm hồn chàng tan nát điếng nghẹn. Bà mẹ và cô bé Maria cũng khổ sầu không kém, nhưng họ quyết tự kiềm chế và vui sống với những gì còn lại. Nhưng ông bố thì không vậy. Cuộc đời của chàng bây giờ quả là một cánh thư chết không định hướng. Mỗi sáng đi làm việc như một người mộng du, ai hỏi chàng mới nói, mà nói rất ít. Chàng làm việc trong yên lặng, ăn một mình, ngồi như tượng đá ở bàn cơm, và đi ngủ thật sớm. Nhưng người vợ biết là chàng thức gần trắng đêm, mắt mở thao láo ngó lên trần nhà. Ngày lại ngày, tháng năm qua, tháng chạp đến, chàng càng tỏ ra thờ ơ suy nhược hơn nữa.

Bà vợ cố gắng thuyết phục chồng. Nàng bảo: “Tuyệt vọng như vậy là bất công đối với kẻ chết cũng như với người sống.” Nàng sợ thái độ lầm lì đó sẽ đưa chàng tới bệnh viện tâm thần.

Giáng Sinh đã gần tới. Một buổi chiều xám ngắt. Fred đang phân loại thư từ thì thấy có một lá thư dứt khoát là không thể chuyển được. Địa chỉ của người nhận nguệch ngoạc bằng bút chì như sau:

“Kính gởi Ông già Noel Bắc Cực.”

Armstrong định xé vất nó vào sọt rác nhưng có một thúc đẩy nào đó khiến chàng mở thư và đọc:

“Ông già Noel thân mến,

Năm nay nhà cháu buồn lắm. Vậy ông khỏi mang quà tới cho cháu nữa. Mùa xuân vừa rồi, thằng cu nhà cháu về trời. Cháu chỉ xin mỗi điều là khi ông tới nhà cháu, ông mang dùm đồ chơi về trời cho em cháu. Cháu để đồ chơi của nó ở gần lò sưởi góc bếp: con ngựa gỗ, cỗ xe lửa và hết mọi thứ khác. Em cháu thích phi ngựa ghê lắm, ông mang hết về cho nó và đừng để gì cho cháu cả, Nhưng xin ông cho ba cháu cái gì để ba cháu giống như hồi trước. Xin ông làm cho ba cháu lại hút xì gà và tiếp tục kể chuyện cho cháu. Cháu nghe ba nói với má là chỉ có “đời đời” mới làm cho ba cháu lành được thôi. Vậy xin ông gởi cho ba cháu một ít cái “đời đời” nhé. Cháu hứa sẽ rất ngoan ngoãn.

Ký tên

Marian.

Tối hôm đó, trên những con đường phố sáng rực đèn. Fred Armstrong rảo bước thoăn thoắt. Vào đến sân nhà chàng bật quẹt châm xì gà. Khi vừa mở cửa, chàng xả một hơi thuốc dài. Làn khói giống như một vòng hào quang quanh đầu hai mẹ con Marian đang trố mắt ngạc nhiên. Chàng lại tươi cười như trước.

***

Cuộc sống của mỗi người chúng ta đều phải trải qua những thăng trầm không thể tránh khỏi. Có những tháng ngày xem ra vô vọng không còn thiết sống. Có những lúc mây mù bao phủ khiến chúng ta không còn thấy đâu là lối thoát. Đôi khi qúa tuyệt vọng, chúng ta tự hỏi: tại sao Thiên Chúa để xảy ra nhiều đau khổ và bất công như thế ? Thực ra, Thiên Chúa không tạo ra đau khổ, cũng không gây ra bất công, bởi vì Ngài là tình yêu thương và là sự công bằng vô biên.

Nhiều khi chúng ta có cảm tưởng Thiên Chúa không nhận lời mình cầu xin. Nhưng chúng ta quên rằng cầu nguyện không phải là xin Thiên Chúa làm theo ý chúng ta, mà là tự đặt mình trong tư thế sẵn sàng thực thi ý Chúa. Chương trình của Ngài vượt quá trí hiểu hẹp hòi và cái nhìn thiển cận của chúng ta.

Kitô giáo có một nghịch lý rất lớn, đó là kêu gọi con người nhìn vào Thập giá như biểu tượng của hy vọng, nhìn vào đau khổ và cái chết như khởi đầu của ơn phúc. Chắc chắn, Chúa Giêsu không phải là người rao giảng sự chết chóc.

Kitô giáo không phải là đạo của khổ đau. Đức Kitô cũng không tự mình đi tìm cái chết; mãi mãi cái chết ấy vẫn là một bản án bất công của con người dành cho Thiên Chúa. Ngài cũng không đòi chúng ta phải đi tìm thập giá, Ngài chỉ khuyến khích: Hãy vác lấy thập giá mình mỗi ngày.”

Mà kỳ thực, có cuộc sống nào mà không có đau khổ. Có ai thóat khỏi khổ đau? Từ khi Ngôi Hai giáng sinh và cứu chuộc, thập giá đã biến thành nguồn ơn cứu rỗi, cái chết đã trở thành Tin Mừng. Tin Mừng chính là Thiên Chúa luôn yêu thương dìu dắt con người trong mọi nghịch cảnh của cuộc sống.

Từ đây, thất vọng đã bừng sáng lên niềm hy vọng. Những đau khổ của chúng ta sẽ không đi vào quên lãng, nhưng mang lại cho chúng ta niềm hạnh phúc mai sau.

C. Delavigne đã nói: “Sống là chiến đấu mà phần thưởng ở trên trời”. Cervatès còn xác quyết: “Ở đâu có đời sống thì ở đó có niềm hy vọng.” Chính trong niềm hy vọng mà chúng ta nhìn thấy hoa trái của hạt giống mình đã gieo vãi. Bên kia những vất vả, mất mát, thử thách đau khổ, người Kitô hữu luôn được mời gọi để nhìn thấy những ánh sao của niềm hy vọng, như Ba Vua tìm lại ánh sao sau khi lạc mất.

***

Lạy Chúa Hài Đồng, Chúa đã Giáng Sinh để chia sẻ những khổ đau của nhân loại chúng con. Xin cho con đừng bao giờ thất vọng, ngã lòng vì những đau khổ thử thách, nhưng cho con luôn cảm nghiệm được tình Chúa yêu thương và được lớn lên trong niềm tin tưởng phó thác. Xin ban thêm cho con niềm hy vọng và nâng đỡ con trong cuộc sống. Xin củng cố trong con niềm tin tưởng, lạc quan, để mỗi khi tiếp xúc với con, mọi người sẽ thấy bừng sáng lên niềm hy vọng vào cuộc sống. Amen!

Thiên Phúc

From: ngocnga_12 & NguyenNThu


 

THÔNG ĐIỆP KÉP CỦA GIÁNG SINH – Rev. Ron Rolheiser, OMI

 Rev. Ron Rolheiser, OMI

 Tôi cực kỳ hạnh phúc khi một số bạn bè là nhà hoạt động xã hội gửi cho tôi các tấm thiệp Giáng Sinh với lời chúc: “Nguyện xin Bình an Chúa Kitô làm phiền bạn!”  Chẳng lẽ chúng ta không thể có một ngày trong năm để vui vẻ ăn mừng mà không để cái tôi vốn đã chẳng vui vẻ gì giờ lại gánh thêm cảm giác tội lỗi sao?  Chẳng phải Giáng Sinh là thời gian để chúng ta tận hưởng cảm giác làm trẻ thơ lần nữa sao?  Hơn nữa, như Karl Rahner từng nói, chẳng phải Giáng Sinh là thời gian Chúa cho chúng ta được phép vui vẻ sao?  Thế thì sao lại không vui vẻ?

 À, chuyện này phức tạp lắm.  Giáng Sinh là thời gian Chúa cho chúng ta được phép vui vẻ, là thời gian như lời Chúa nói qua ngôn sứ Isaia: “Hãy làm khuây khỏa dân Ta.  Hãy nói những lời khuây khỏa!”  Nhưng Giáng Sinh cũng là thời gian cho thấy khi Thiên Chúa sinh ra cách đây 2000 năm, chẳng nhà nào có chỗ cho Ngài.  Chẳng có chỗ cho Ngài trong nhà trọ.  Cuộc sống bận rộn và những kỳ vọng của mọi người đã ngăn họ dành cho Ngài một nơi để ra đời.  Và điều đó vẫn không thay đổi. 

Nhưng trước hết, tôi xin nói đến sự khuây khỏa Chúa Giêsu đem lại khi ra đời.  Nhiều năm về trước, tôi có tham gia hội đồng của một giáo phận lớn.  Trong giờ sinh hoạt, người điếu hành chương trình chia chúng tôi thành các nhóm nhỏ, mỗi nhóm được yêu cầu trả lời một câu hỏi: Một điều duy nhất, quan trọng nhất mà Giáo hội cần thách thức thế giới thực hiện ngay lúc này?

 Các nhóm gửi lại câu trả lời, mỗi nhóm lại nêu ra một thách thức đạo đức hoặc thiêng liêng quan trọng: “Chúng ta cần thách thức xã hội biết thực thi công lý hơn!”  “Chúng ta cần thách thức thế giới biết có đức tin thật và đừng nhầm lẫn Lời Chúa với ý muốn của riêng mình.”  “Chúng ta cần thách thức thế giới biết nghiêm túc hơn về đạo đức tình dục.  Chúng ta đã lạc lối rồi!”  Đây đều là những thách thức cần thiết, và tốt đẹp.  Nhưng không nhóm nào nói: “Chúng ta cần thách thức thế giới đón nhận sự khuây khỏa của Thiên Chúa!”  Cứ cho là thế giới hiện nay đang có nhiều bất công, bạo lực, kỳ thị chủng tộc, kỳ thị giới tính, tham lam, ích kỷ, tình dục bừa bãi, và giả danh đức tin vì lợi ích riêng, nhưng hầu hết những người trưởng thành cũng đang sống trong đau đớn, lo âu, thất vọng, mất mát, trầm cảm, và mặc cảm tội lỗi không cách nào cởi bỏ.  Nhìn đâu cũng thấy những tâm hồn nặng trĩu.  Hơn nữa, quá nhiều người đang sống với tổn thương và thất vọng, họ chẳng thấy Thiên Chúa và Giáo hội là lời giải cho nỗi đau của mình, mà thậm chí còn là một phần gây nên nỗi đau đó.

 Thế nên, khi rao giảng Lời Chúa, Giáo hội trước hết phải cam đoan với thế giới về tình yêu thương, sự quan tâm và sự tha thứ của Thiên Chúa.  Lời Chúa, trước hết là sự khuây khỏa cho chúng ta, thật sự là nguồn tối hậu của mọi khuây khỏa.  Chỉ khi nào thế giới biết đến sự khuây khỏa nơi Lời Chúa, thì thế giới mới đón nhận các thách thức kèm theo.

Và thách thức đó, trong mọi thách thức khác là dành chỗ cho Chúa Kitô trong nhà trọ, nghĩa là mở rộng lòng mình, nhà mình và thế giới mình sao cho Chúa Kitô có thể đến và sống ở đó.  Với khoảng cách 2000 năm, chúng ta dễ dàng phán xét gay gắt những người đồng thời với Chúa Giêsu đã không nhận ra thánh Giuse và Đức Mẹ đang cưu mang ai, đã không tạo một nơi xứng đáng để Ngài hạ sinh, đã không nhận ra Ngài là Đấng Thiên sai.  Sao họ có thể mù tối như thế?  Nhưng chính phán xét đó có thể áp dụng trên chúng ta.  Chúng ta đâu hẳn đã dành chỗ cho Chúa trong nhà trọ của mình. 

Khi có một người mới sinh ra trên đời, thì người đó chiếm lấy một chỗ vốn trước đây chưa từng có ai.  Đôi khi, con người mới đó được chào đón nồng hậu, được có ngay một không gian yêu thương và được mọi người xung quanh mừng vui vì sự hiện diện mới này.  Nhưng không phải lúc nào cũng thế, đôi khi, như hoàn cảnh của Chúa Giêsu, người ta chẳng tạo một không gian yêu thương và cũng chẳng chào đón sự hiện diện mới này. 

Thời nay chúng ta thấy chuyện này trong sự miễn cưỡng chào đón người nhập cư, một chuyện xảy ra gần như khắp thế giới và sẽ là lời phán xét sau này cho thế hệ chúng ta.  Liên hiệp quốc ước tính có 19,5 triệu người tị nạn trên thế giới, những người chẳng được ai hoan nghênh.  Tại sao lại không hoan nghênh?  Chúng ta đâu phải người xấu, và hầu như lúc nào chúng ta cũng có thể quảng đại rộng rãi vô cùng mà.  Nhưng để làn sóng nhập cư này tràn vào sẽ gây phiền toái cho cuộc đời chúng ta.  Cuộc đời của chúng ta sẽ phải thay đổi.  Chúng ta sẽ mất đi nhiều tiện nghi hiện thời, mất nhiều thứ vốn đã quen thuộc, và mất đi phần nào cảm giác an toàn.

 Chúng ta không phải là người xấu, các chủ quán trọ hai ngàn năm trước cũng thế, họ không biết mình đang làm gì khi bỏ mặc, quay lưng với thánh Giuse cùng Đức Mẹ.  Tôi luôn có một lòng cảm thông dành cho họ.  Có lẽ bởi tôi, cũng đang vô thức làm hệt như họ.  Một người bạn của tôi thích nói rằng, “Tôi phản đối cho thêm người nhập cư vào… Vì tôi đã vào rồi mà!” 

Bình an của Chúa Kitô, thông điệp tiềm ẩn và bối cảnh không êm đẹp trong việc Chúa Kitô xuống thế, nếu hiểu được, chắc chắn sẽ làm phiền chúng ta.  Và mong sao chúng cũng đem lại sự khuây khỏa sâu sắc cho chúng ta.

 Rev. Ron Rolheiser, OMI

 From: NguyenNThu


 

THUẬN THEO THÁNH THẦN-Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

“Chúng tôi không biết!”.

“Thánh Kinh không công nhận một đức tin nào mà không dẫn đến sự mềm mỏng, cũng như không sự mềm mỏng nào mà không bắt nguồn từ đức tin! Chúa Thánh Thần là tác nhân của ‘chuyển động kép’ đó. Để được khôn ngoan, bạn hãy thuận theo Thánh Thần!”. – Wilson Tozer.

Kính thưa Anh Chị em,

Lời khuyên của Tozer được gặp lại qua Lời Chúa hôm nay! Phù thuỷ Bilơam không thể làm gì khác hơn điều mà Thánh Thần buộc ông làm; các thượng tế và kỳ lão thời Chúa Giêsu thì không; họ không ‘thuận theo Thánh Thần!’.

Sách Dân Số kể lại, khi Israel tiến gần đất hứa, vua Moáp sai Bilơam đến nguyền rủa họ. Với người xưa, lời nguyền của thầy sãi mang sức mạnh thần linh. Tuy nhiên, trên đường đi, thiên thần Chúa chặn lối con lừa của Bilơam. Bilơam đánh nó không thương tiếc. Cuối cùng, qua miệng con lừa, Thiên Chúa lên tiếng; mắt Bilơam mở ra. “Thiên Chúa có thể dùng những điều bất ngờ để nói sự thật về Ngài – ngay cả qua một con lừa!” – Aaron Profitt. Buộc phải vâng theo Thần Khí, Bilơam không thể chúc dữ, nhưng chỉ có thể chúc lành. Không những thế, ông còn loan báo, “Một vì sao xuất hiện từ Giacóp, một vương trượng trỗi dậy từ Israel”. Thật nghịch lý, một người ngoại giáo lại là khí cụ của Chúa, chỉ vì ông chịu ‘thuận theo Thánh Thần’.

Trái lại, các thượng tế và kỳ lão thời Chúa Giêsu thì không. Sau khi Ngài thanh tẩy Đền Thờ, họ chất vấn, “Ông lấy quyền nào mà làm các điều ấy?”. Chúa Giêsu đáp lại bằng một câu hỏi then chốt, “Phép rửa của Gioan do đâu mà có, do trời hay do người ta?”. Ngài biết, nếu nhận Gioan, họ buộc phải nhận Ngài. Sau khi cân nhắc thiệt hơn, họ trả lời, “Chúng tôi không biết!”. Đó không phải là thiếu hiểu biết, nhưng là một sự từ chối ‘thuận theo Thánh Thần’. “‘Chúng tôi không biết’ không phải là ngu dốt, nhưng là sự từ chối!” – David Guzik.

“Chúng tôi không biết!”. Họ không biết vì không muốn biết; vì nếu biết, họ phải thay đổi, từ bỏ quyền lợi và địa vị. Họ né tránh sự thật để giữ quyền lực! Trong khi đó, với Chúa Giêsu, biết Ngài không chỉ là nhận ra Ngài là Đấng Thiên Sai, nhưng còn là để Ngài giải phóng và cứu độ. Thánh Vịnh đáp ca vang lên như một lời khẩn xin, “Lạy Chúa, nẻo đường Ngài, xin dạy cho con biết!”.

Anh Chị em,

“Chúng tôi không biết!”. Câu nói ấy không chỉ thuộc về quá khứ, nó vẫn được lặp lại nơi mỗi chúng ta, mỗi khi sự thật đòi chúng ta hoán cải. Biết thì phải thay đổi từ cách sống cho đến tư duy; vì thế, chúng ta thường chọn không biết. “Tiến bộ là điều không thể nếu không có thay đổi; và ai không thể thay đổi tư duy thì không thể thay đổi gì cả!” – Bernard Shaw. Mùa Vọng mùa bạn và tôi dám nói với Chúa Giêsu, “Lạy Chúa, con biết!”. Con biết mình yếu đuối; con biết Chúa thương con là kẻ tội lỗi. Chỉ khi đó, chúng ta mới thật sự ‘thuận theo Thánh Thần’, để được Ngài biến đổi và tạo nên một khác biệt, ít nữa – trước hết – từ chính bản thân mình.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, con thường cứng cỏi vì thiếu lòng tin; cho con được mềm mỏng và biết thuận theo tiếng Chúa trong những ngày hồng phúc này!”, Amen.

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

 **************************************************

Lời Chúa Thứ Hai Tuần III Mùa Vọng

Phép rửa của ông Gio-an bởi đâu mà có ?

✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Mát-thêu.    Mt 21,23-27

23 Khi ấy, Đức Giê-su vào Đền Thờ, và trong khi Người giảng dạy, các thượng tế và kỳ mục trong dân đến gần Người và hỏi : “Ông lấy quyền nào mà làm các điều ấy ? Ai đã cho ông quyền ấy ?” 24 Đức Giê-su đáp : “Còn tôi, tôi chỉ xin hỏi các ông một điều thôi ; nếu các ông trả lời được cho tôi, thì tôi cũng sẽ nói cho các ông biết tôi lấy quyền nào mà làm các điều ấy. 25 Vậy, phép rửa của ông Gio-an do đâu mà có ? Do Trời hay do người ta ?” Họ mới nghĩ thầm : “Nếu mình nói : ‘Do Trời’, thì ông ấy sẽ vặn lại : ‘Thế sao các ông lại không tin ông ấy ?’ 26 Còn nếu mình nói : ‘Do người ta’, thì mình sợ dân chúng, vì ai nấy đều cho ông Gio-an là một ngôn sứ.” 27 Họ mới trả lời Đức Giê-su : “Chúng tôi không biết.” Người cũng nói với họ : “Tôi cũng vậy, tôi không nói cho các ông là tôi lấy quyền nào mà làm các điều ấy.”


 

Thời kỳ Minh Trị Thiên Hoàng và cuộc Minh Trị Duy Tân

Thời kỳ Minh Trị Thiên Hoàng và cuộc Minh Trị Duy Tân

Minh Trị Thiên hoàng

(3 tháng 11 năm 1852 – 30 tháng 7 năm 1912)

Tháng 4 năm 1868, các lãnh tụ samurai trẻ đưa một thanh niên – Minh Trị Thiên Hòang lên ngôi với 5 Lời thề Hiến Chương (Charter Oath) như sau:

Điều 1: Dự trù thiết lập các hội đồng (quốc hội) rộng rãi khắp nơi, để lấy quyết định cho mọi thảo luận công cộng.

Điều 2 : Mọi giai cấp cao hay thấp phải đoàn kết thi hành việc quản trị đất nước

Điều 3: Mọi công dân phải được phép đeo đuổi nguyện vọng để tránh sự bất bình.

Điều 4: Mọi hủ tục trong quá khứ sẽ bị dẹp bỏ và tất cả mọi việc đều chỉ dựa trên các luật của Thiên Nhiên.

Điều 5: Hiểu biết sẽ được tìm kiếm khắp thế giới, để củng cố nền tảng cai trị của hoàng đế.

Có 3 điểm đáng chú ý nhất trong 5 lời thề này:

1/ Chuẩn bị cho một mô hình hiến pháp, chuyển từ một chế độ phong kiến sang một chế độ quốc hội nghị viện, tức là trao quyền lại cho quốc dân

2/ Đoạn tuyệt quyết liệt với một nền văn hóa cũ không còn thích hợp.

3/ Tìm kiếm những kiến thức mới trên khắp thế giới để canh tân đất nước.

Trong suốt thời gian trị nước Nhật từ năm 1968 cho đến 1912 Minh Trị Thiên Hoàng luôn theo đuổi 5 lời thề lúc nhậm chức.

Là một người vốn thông minh và sáng suốt, vua Minh Trị ý thức rõ ràng trách nhiệm của mình đối với tiền nhân và đối với tiền đồ của đất nước, đã dồn mọi tâm quyết vào việc canh tân đất nước để bắt kịp Tây Phương. May mắn cho giới trí thức Nhật là trong thời gian trị vì Minh Trị cũng là cơ hội thuận tiện nhất cho họ thi thố tài năng.

Ngày nay khi nói về vua Minh Trị, điều mà người Nhật biết ơn ông không phải là những đóng góp trong công cuộc canh tân đất nước, mà còn vì ông biết đặt quyền lợi đất nước lên trên quyền lợi cá nhân. Sau khi nghiên cứu quá trình phát triển của nền văn minh Tây Phương các nhà Tây học của Nhật nhận ra rằng muốn bắt kịp họ không phải chỉ học về kỹ thuật, mà còn phải có một thể chế chính trị do dân và vì dân. Sau 3 năm soạn thảo và bàn luận cuối cùng vào tháng 9 năm 1871 Hội Đồng Quốc Gia ra đời. Đây là bước đầu trước khi áp dụng thể chế Quân Chủ Lập Hiến theo kiểu Anh Quốc. Tháng 12 năm 1885 nước Nhật có Thủ tướng đầu tiên do Nhật Hoàng đề cử và đến đầu năm 1889 bản Hiến pháp đầu tiên ra đời, Nhật Bản chính thức trở thành nước theo thể chế quân chủ lập hiến, gồm Quốc Hội Nghị Viện do dân bầu. Đây là hệ thống chính phủ đại diện cho dân đầu tiên ở Á Châu.

Những năm đầu của Triều Đại Minh Trị là một giai đoạn khó khăn nhất, vấn đề nan giải làm sao để tập trung quyền hành về một mối, có nghĩa là phải dẹp bỏ các lãnh chúa địa phương, mà dưới quyền các lãnh chúa địa phương này là các võ sĩ sumarai. Chính quyền Minh Trị giải quyết bằng cách bồi thường cho các lãnh chúa địa phương và các samurai hoặc tuyển dụng các samurai cũ vào quân đội quốc gia mới thành lập.

Từ năm 1876 trở đi, trên đường phố Nhật Bản không còn thấy cảnh các samurai mặc quần áo võ sĩ, để tóc dài, đeo kiếm bên hông, trước đó là một đặt quyền. Xem như cuộc Cách Mạng Duy Tân đã hoàn tất mà không phải đổ máu giống như cuộc Cách mạnh Pháp năm 1789.

Cuộc cách mạng canh tân bắt đầu ngay sau khi vua Minh Trị lên ngôi, kéo dài 30 năm (1868-1898). Nhờ cuộc cách mạng này mà nước Nhật đã tạo được những thay đổi thần kỳ, là nền móng cơ bản đưa Nhật bản trở thành một trong những cường quốc trên thế giới. Trong đó 10 năm đầu là giai đoạn quan trọng nhất mà người Nhật gọi là “Thời kỳ Văn minh khai hóa”.

Khi nói về cuộc canh tân Minh Trị người ta thường nghĩ đơn giản đó là sự mở cửa để giao thương và học kỹ thuật tân tiến của Tây Phương. Thật sự không phải như vậy. Học hỏi kỹ thuật của Tây Phương chỉ là mặt nổi bên ngoài, thực chất của cuộc Minh Trị Duy Tân là người Nhật muốn học những tinh hoa văn minh của người Tây Phương để tự khai hóa mình và để gìn giữ được nền độc lập quốc gia.

May mắn thay cho nước Nhật, vào thập niên 1860, một nhóm trí thức Nhật Bản vì niềm hãnh diện dân tộc cùng với ý thức trách nhiệm đối với tiền đồ đất nước, quyết định tìm đến các nước Tây Phương để học hỏi. Họ nôn nóng cái gì cũng muốn biết, từ kỹ thuật, quân sự, chế độ chính trị cho đến tư tưởng, phong tục tập quán….

Họ ra đi bằng nhiều cách khác nhau, kẻ đi Âu, người đi Mỹ, kẻ đi chính thức, người trốn xuống các tàu buôn…tìm đến tập nơi, nhìn thấy tận mắt những thành quả của nền văn minh để so sánh với hiện trạng của đất nước mình và tránh vết xe đổ của nhà Thanh.

Sự nghiệp đáng nói của các bậc tiền nhân dân tộc Nhật Bản là không để mất cái đã có trong quá trình tiếp thu cái mới. Dù ngỡ ngàn trước ánh sáng của nền văn minh Tây Phương nhưng người Nhật lúc nào cũng chủ trương phải giữ lại tinh thần của Nhật Bản với niềm tự hào: “Người Âu Châu không dạy cho người Nhật mà chính vì người Nhật tự mình muốn học hỏi các phương pháp tổ chức dân sự và quân sự của phương Tây”.

Riêng đối với chính quyền, muốn đổi mới thì phải có kiến thức về kỹ thuật, kinh tế, chính trị, quan hệ ngoại giao, luật pháp… những ngành này mới lạ và chưa có ai dạy ở Nhật, cho nên chỉ còn cách là phải gởi người ra Tây Phương học hỏi Chính phủ chọn ra các sinh viên ưu tú gởi đi du học, bất kể là nam hay nữ, dựa vào năng khiếu của từng người gởi đến một quốc gia thích hợp nhất. Họ không chọn một quốc gia nào làm kiểu mẫu, mà chọn mô hình tốt nhất ở mỗi lãnh vực. Họ gởi người đến Đức để học về kỹ thuật, quân đội và y khoa, đến Anh học về hải quân-hàng hải, đến Pháp học về luận pháp và tòa án, đến Mỹ học về thương mại và mậu dịch.

Đồng thời một phái đoàn Ngoại giao của chính phủ có tên Iwakura Mission gồm 48 viên chức cao cấp bao gồm những nhân vật lỗi lạc như Itō Hirobumi, Ōkubo Toshimichi, Kido Takayoshi, Mori Arinori, trưởng phái đoàn là Bộ Trưởng Iwakura Tomomi, thực hiện một chuyến công du đến Âu Châu và Mỹ từ tháng 12 năm 1871 cho đến tháng 9 năm 1873 (gần 2 năm). Mục đích của chuyến đi là để đàm phám lại các hiệp ước bất bình đẳng đã ký với các nước Âu Châu và Hoa Kỳ, nhưng chính yếu là để thu thập các thông tin về quân sự, kinh tế, kỹ thuật, xã hội.. tại những nơi mà họ thăm viếng để trở về thực hiện chương hiện đại hóa đất nước.

Chính những thành phần đi du học hay tu nghiệp này, sau khi trở về trở thành lực lượng nồng cốt cho công cuộc canh tân, điển hình như Itō Hirobumi trở thành thủ tướng đầu tiên của Nhật và Mori Arinori trở thành Bộ Trưởng Giáo Dục – được xem là người sáng lập ra hệ thống giáo dục hiện đại của Nhật.

Học hỏi được từ người Mỹ, người Nhật bắt đầu thành lập những hội trí thức để chia sẻ nhau thông tin và phổ biến tư tưởng đến quần chúng. Hội có nhiều ảnh hưởng nhất với xã hội trong giai đoạn này là Hội Trí Thức Meirokusha, do Mori Arinori và Nishimura Shigeki sáng lập năm 1873, quy tụ những nhà khai sáng theo Tây học có tâm quyết như Nishi Amane, Tsuda Mamichi, Nakamura Masanao, Katô Hiroyuki, Mitsukuri Shuuhei, Fukuzawa Yukichi, Sugi Kôji, Mitsukuri Rinshô, Nishimura Shigeki.

Mục đích của hội là giới thiệu văn minh Tây Phương và khuyết khích người Nhật canh tân theo chiều hướng này. Họ lập ra tờ báo Meiroku – tạp chí tư tưởng đầu tiên ở Nhật để thảo luận mọi đề tài liên quan đến đất nước, xã hội, từ vấn đề vợ chồng, cách dạy con, đạo đức nam nữ, vấn đề hôn nhân, cho đến những việc trọng đại hơn như vấn đề giáo dục, tín ngưỡng, các quyền tự do, quyền được bình đẳng, quyền được chọn một quốc hội do dân bầu. Họ cũng bàn về tiền tệ, thuế má, mậu dịch, tài chính v.v..

Đồng thời hội chỉ dẫn cho người dân học cách suy nghĩ và phương pháp tư duy mới để vượt qua lối mòn của nho giáo chỉ lập lại những gì trong sách vỡ và may mắn cho họ là có nhiều người trẻ ở lứa tuổi 40 trong số các thành viên để tiếp nối và phần đông đã tham gia chính quyền để thực hiện hoài bão khai hóa quốc dân.

Các học giả Nhật làm điều này bằng cách dịch sách vở của Tây Phương sang tiếng mẹ đẻ, và áp dụng theo phương châm: “Thầy làm sao trò làm vậy.” Người Đức chế tạo cơ khí ra sao họ cố gắng làm theo như vậy, người Anh đóng tàu và tổ chức hải quân ra sao họ làm giống như vậy, người Pháp tổ chức hệ thống luật pháp ra sao họ cũng bắt chước làm theo như vậy…nhưng 10, 20 năm sau trò có thể qua mặt cả thầy.

Trong thời gian 10 năm đầu này, các tác phẩm chính yếu của nền văn minh Tây Phương đều được dịch sang tiếng Nhật tiêu biểu như: Lịch sử nền Văn minh của nước Anh (History of Civilization in England) của Henry T. Buckle, Khế ước xã hội (Du contrat social) của Jean-Jacques Rousseau, Quyền con người (Rights of Man) của Thomas Paine, Sự Thịnh Vượng của Quốc Gia (the Wealth of Nations) của Adam Smith, Tự Do Luận (On Liberty) và Các nguyên Lý về Chính Trị Kinh Tế Học (Principles of political economy) của John Stuart Mill, Tinh thần của luật pháp (De l’esprit des lois) của Montesquieu, Tự giúp (Self-help) của Samuel Smiles, Thuyết Tiến Hóa (The Theory of Evolution) của Charles Darwin….

Việc dịch thuật từ tiếng Anh, Đức hay Pháp sang tiếng Nhật là một việc vô cùng khó khăn đối với các học giả Nhật vào thời phôi thai này, lý do là vì tiếng Nhật giống như tiếng nôm của ta dựa trên tiếng Hán, cho nên họ phải tự tìm ra những từ ngữ khoa học hay triết học tương xứng. Vậy mà họ vẫn vượt qua được. Chỉ việc này thôi họ đã đi trước người Trung Hoa và Việt Nam rất xa.

Thời kỳ Văn minh khai hóa này cũng tạo ra một dòng “văn học khai sáng”, ở đó các nhà văn viết hàng loạt “tiểu thuyết chính trị” để giải thích, không phải chỉ cho quốc dân mà còn cho những người lãnh đạo đất nước, hiểu về những giá trị của con người, về lợi ích của giáo dục, về bản chất của Tinh thần luật pháp, về dân chủ như một “giá trị đạo đức” và “phương thức quan hệ” trong xã hội, về con đường để rèn luyện văn hóa dân chủ và tuân thủ những giá trị đạo đức đó…

Những tên tuổi lớn của Nhật trong thời kỳ này gồm có Katô Hiroyuki là người tiên phong của nghành chính trị học, Nishi Amane mở đầu cho ngành triết học. Mitshkusi Rinsho là cha đẻ nghành nghiên cứu luật pháp. Sugi là người sáng lập ra ngành xác xuất thống kê (statistics). Fukuzawa Yukichi dẫn đầu trong ngành giáo dục, nhà tư tưởng Nakae Chômin được xem là một “Jean-Jacques Rousseau của phương Đông” v.v….

Những nhà canh tân của Nhật trong thời kỳ này không xa rời thực tế của đất nước họ. Vì tư tưởng của Tây Phương hoàn toàn mới lạ đối với đại đa số quần chúng, cho nên họ phải trang bị cho mình một kiến thức toàn khoa để đáp ứng được nhu cầu của thực tế.

Bên cạnh những sinh viên gởi đi du học, họ còn sẵn sàng trả số lương hậu hĩ cho các giáo sư, chuyên viên Tây Phương đến Nhật dạy tại các trường đại học, trường dạy nghề, cố vấn cho các công ty tư nhân và các cơ quan của chính phủ. Theo tài liệu của học giả Fukuzawa trong quyển “Khuyến Học” cho biết là chỉ trong 4 năm, từ 1868-1812, để học hỏi thể chế chính trị, xã hội và kỹ thuật của Phương Tây, chưa kể phần tư nhân, chính phủ Minh Trị, đã thuê hơn 500 chuyên viên, học giả sang Nhật làm việc, trong đó đông nhất là Bộ Công Nghiệp có 130 cố vấn Tây Phương.

Dĩ nhiên giữa những nhà canh tân không phải là không có những xung đột vì bất đồng quan điểm nhưng như một nhà văn Nhật đã nhận xét: “Cảnh tượng buổi đầu thời cận đại ở Nhật giống như một sân khấu lớn đầy những diễn viên đóng mọi vai trò. Những trào lưu tư tưởng đã xung đột, kết hợp, giao thoa với nhau để làm nguồn cảm hứng tạo ra một nước Nhật cận đại phong phú và đa dạng”

Dù đứng trên quan điểm nào những nhà tư tưởng khai sáng Nhật Bản cũng có chung một quan điểm là họ không thể đi ngược lại quá trình tiến hóa của nhân loại, từ man rợ tiến tới văn minh. Đồng thời họ cũng không thể quên chân lý từ ngàn xưa đến nay là muốn mở mang trí tuệ thì trước hết con người phải được thoải mái về vật chất.

Kết quả của 10 năm Khai Hóa Văn Minh

Nếu chỉ cần có 25 năm người Nhật đã biến một nước Nhật hoang tàn đổ nát sau Đệ Nhị Thế Chiến trở thành một cường quốc kinh tế thứ nhì trên thế giới, thì gần 100 năm trước đó người Nhật cũng làm được một phép lạ kinh tế tương tự. Chỉ có 10 năm sau khi bắt đầu cuộc Minh Trị Duy Tân, người Nhật đã tạo ra được những thành đáng nể, qua mặt cả một số nước ở Âu Châu.

Dưới đây chỉ là vài kết quả tiêu biểu:

– Năm 1871 hệ thống bưu điện, điện tín được thành lập.

– 1872 đường xe lửa nối liền Tokyo với hải cảng Yokohama dài gần 40km, Kobe được nối liền với Osaka năm 1874 và với Kyoto 3 năm sau, Tokyo – Kobe năm 1877.

– Cùng năm 1872 Bộ Giáo Dục được thành lập để quản trị từ bậc Tiểu Học lên đến Đại Học.

– Nhiều đại học được thành lập trong thời gian này, Đại Học Tsukuba được thành lập năm (1872), Đại Học Tokyo (1877), trước đó Đại học tư nhân của Fukuzawa là Keio được thành lập năm 1858.

– Xưởng đóng tàu tại Hyogo (Kobe) được thành lập 1868.

– Các hãng chế tạo vũ khí hiện đại tại Tokyo và Okasa cũng được thành lập.

– Năm 1870 hãng chế tạo đồ tiêu dùng Mitsubishi ra đời

– 1876, Mitsui Bank, ngân hàng tư nhân đầu tiên của Nhật được thành lập…

và vô số những thành quả khác.

Đến năm 1895 thì Nhật đã trở thành một nước mạnh nhất ở Á Châu khi đánh bại Trung Hoa và 10 năm họ đã thật sự trở thành một cường quốc sau khi đánh bại Nga tại eo biển Đối Mã. Chiến thắng này đã làm sửng sốt tất cả các nước Tây Phương bởi vì không ai nghĩ  họ có thể chiến thắng trước sức mạnh quân sự của Nga. Nên nhớ là vào thời điểm 1905 Nga đã là một đế quốc, lãnh thổ bao gồm phần lớn các nước trong Liên Bang Sô Viết cũ, rộng đến 23 triệu cây số vuông, dân số 140 triệu, trong lúc Nhật chỉ rộng có 377 ngàn cây số vuông, dân số 45 triệu vào thời điểm đó.

Tính từ năm 1868 đến 1905, có nghĩa là chỉ 37 năm kể từ khi cuộc Minh Trị Duy Tân bắt đầu, nước Nhật từ một nước phong kiến tụt hậu trở thành một cường quốc hiện đại trên thế giới. Thành tích thần kỳ là nhờ lòng yêu nước và niềm kiêm hãnh dân tộc là động lực khiến họ đoàn kết trên dưới một lòng quyết tâm đưa đất nước lên vị trí ngang hàng với các cường quốc Tây Phương.

Ngoài yếu tố tinh thần, một bài học mà chúng ta có thể học được từ cuộc Cách Mạnh Duy Tân của người Nhật là họ đã biết cách làm như thế nào để chuyển hóa từ một nước lạc hậu sang một nước văn minh.

Ngoài Minh Trị Thiên Hoàng, sẽ thật thiếu sót vô cùng nếu không nói về một nhân vật lỗi lạc khác của Nhật đã có công đóng góp rất lớn cuộc Minh Trị Duy Tân – một người mà cho đến ngày nay người Nhật vẫn gọi là “Người khai sinh ra nước Nhật hiện đại”.

Phạm Hoài Nam


 

NGHI NGỜ VÀ ĐẤU TRANH – Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

“Thầy có thật là Đấng phải đến, hay chúng tôi còn phải đợi ai khác?”.

“Chúa chúng ta đã rời khỏi thế gian mà không để lại bất kỳ thông điệp bằng văn bản nào. Giáo lý của Ngài chính là Ngài!” – Fulton Sheen.

Kính thưa Anh Chị em,

Câu hỏi cốt lõi của Kitô giáo không phải là tin điều gì, nhưng là tin vào Ai? Tin Mừng hôm nay chạm đến câu hỏi ấy khi Gioan sai đồ đệ đến hỏi Chúa Giêsu, “Thầy có thật là Đấng phải đến?”. Đó là một câu hỏi rất ‘con người’ – câu hỏi của sự ‘nghi ngờ và đấu tranh!’.

Gioan là người dọn đường, đã thấy Thánh Thần ngự xuống trên Chúa Giêsu, đã giới thiệu Ngài là “Chiên Thiên Chúa”. Chẳng lẽ ông không biết Ngài? Hay phải chăng đó là một phương pháp sư phạm để các đồ đệ tự mình khám phá điều ông đã biết? Hoặc có thể Gioan đang ‘nghi ngờ và đấu tranh’ với đức tin của mình khi đang bị giam cầm? Tin Mừng không khẳng định giả thuyết nào, nhưng điều đó dẫn chúng ta đến một nhận định: đức tin không lớn lên bên ngoài thử thách, mà ngay trong thử thách! “Đức tin không cần ở trong nhà kính để khỏi gió mưa; thời gian dễ dàng làm yếu đức tin, thử thách mạnh mẽ củng cố nó!” – Elizabeth George.

Với câu hỏi của Gioan, Chúa Giêsu không trả lời trực tiếp mà bằng các dấu chỉ – kẻ mù thấy, kẻ điếc nghe, kẻ què đi, người nghèo nghe Tin Mừng – bài đọc một. Đó là những gì Isaia đã loan báo về ngày Chúa đến cứu dân. Ngài đang đến, không theo những mong đợi nóng vội; nhưng hiền hoà chữa lành, phục hồi và ban lại sự sống từ bên trong. Vì thế, thái độ cần có khi đức tin chúng ta bị thử thách là kiên nhẫn,Kìa xem nhà nông!”; “Anh em cũng vậy, hãy kiên nhẫn và bền tâm vững chí!” – bài đọc hai. Kiên nhẫn không phải là thụ động, nhưng là ở lại trong niềm tin, cả khi chưa thấy kết quả. Ratzinger từng nói, “Người ta không bao giờ đạt được đức tin trọn vẹn; đức tin phải được ‘sống đi sống lại’ trong cuộc sống và trong đau khổ!”. Chính lúc ‘nghi ngờ và đấu tranh’ là lúc đức tin được tinh luyện.

Trong bối cảnh ấy, “Lạy Chúa, xin đến cứu chúng con!” – Thánh Vịnh đáp ca – không phải là tiếng nói của những người đã “nắm chắc mọi câu trả lời”, nhưng là lời van vỉ của những ai đang “chờ đợi trong đêm tối!”. Khi không thể giải thích, người tín hữu vẫn có thể cầu xin; và chính lời cầu xin ấy “giữ họ ở lại” với Thiên Chúa! “Cầu nguyện không phải là xin Thiên Chúa giải thích, nhưng là ‘ở lại với Ngài’ khi không có lời giải thích!” – Henri Nouwen.

Anh Chị em,

“Thầy có thật là Đấng phải đến?”. Gioan không kém vĩ đại vì đã đặt câu hỏi; trái lại, chính trong ‘nghi ngờ và đấu tranh’, lời chứng của Gioan càng trở nên giá trị và rạng rỡ. Chúa Nhật Hồng nhắc chúng ta rằng, niềm vui Kitô giáo không phát sinh từ việc đã thấy hết, nhưng từ việc biết chắc rằng – Chúa đang đến! Ngay giữa thử thách, Hội Thánh vẫn mỉm cười hy vọng, vì Đấng Phải Đến đang ở rất gần! “Đức tin bước lên những bậc thang mà tình yêu đã dựng, và nhìn qua những cửa sổ mà hy vọng đã mở!” – Charles Spurgeon.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, con không xin hiểu hết, chỉ xin được ‘ở lại với Chúa’ trong lúc không hiểu gì!”, Amen.

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

***********************************

LỜI CHÚA CHÚA NHẬT III MÙA VỌNG, NĂM A

Thầy có thật là Đấng phải đến không, hay là chúng tôi còn phải đợi ai khác ?

✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Mát-thêu.    Mt 11,2-11

2 Đang ngồi tù, ông Gio-an nghe biết những việc Đức Ki-tô làm, liền sai môn đệ đến hỏi Người rằng : 3 “Thầy có thật là Đấng phải đến không, hay là chúng tôi còn phải đợi ai khác ?” 4 Đức Giê-su trả lời : “Các anh cứ về thuật lại cho ông Gio-an những điều mắt thấy tai nghe : 5 Người mù xem thấy, kẻ què bước đi, người cùi được sạch, kẻ điếc nghe được, người chết trỗi dậy, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng, 6 và phúc thay người nào không vấp ngã vì tôi.”

7 Họ đi rồi, Đức Giê-su bắt đầu nói với đám đông về ông Gio-an rằng : “Anh em ra xem gì trong hoang địa ? Một cây sậy phất phơ trước gió chăng ? 8 Thế thì anh em ra xem gì ? Một người mặc gấm vóc lụa là chăng ? Kìa những kẻ mặc gấm vóc lụa là thì ở trong cung điện nhà vua. 9 Thế thì anh em ra xem gì ? Một vị ngôn sứ chăng ? Đúng thế đó ; mà tôi nói cho anh em biết, đây còn hơn cả ngôn sứ nữa. 10 Chính ông là người Kinh Thánh đã nói tới khi chép rằng : Này Ta sai sứ giả của Ta đi trước mặt Con, người sẽ dọn đường cho Con đến.

11 “Tôi nói thật với anh em : trong số phàm nhân đã lọt lòng mẹ, chưa từng có ai cao trọng hơn ông Gio-an Tẩy Giả. Tuy nhiên, kẻ nhỏ nhất trong Nước Trời còn cao trọng hơn ông.”


 

ĐOẠN TUỔI NGUY HIỂM NHẤT.

Dieu Le

(Bài viết dành riêng cho người độ tuổi 70 – 79)

Khi về già mọi người muốn có một cuộc sống khỏe mạnh. Họ nhận ra rằng ′′Sức khỏe là của cải”. Nhưng để có được trường thọ, trong 10 năm từ 70 đến 79 tuổi rất quan trọng!

Học giả Israel đã phát hiện ra điều đó, 70 -79 tuổi là giai đoạn nguy hiểm. Trong giai đoạn này, nhiều cơ quan khác nhau của cơ thể giảm nhanh chóng. Đây là một thời kỳ thường xuyên mắc các bệnh lão khoa khác nhau, và thông thường dễ bị tăng huyết áp, xơ vữa động mạch, tăng huyết áp và tiểu đường.

Sau khi bước vào độ tuổi 80, những căn bệnh trên sẽ giảm đi, sức khỏe tinh thần và thể chất có thể trở lại ở như độ 60 – 69 tuổi.

Có nghĩa là, tuổi từ 70 đến 79 tuổi được gọi là

′′nhóm tuổi nguy hiểm”. Việc chăm sóc sức khỏe 10 năm từ 70 đến 79 tuổi là rất quan trọng.

Dưới đây là một số bước đơn giản được gọi là ′′Làm mười điều mỗi ngày′′ Điều này sẽ giúp bạn vượt qua giai đoạn ′′nhóm tuổi nguy hiểm′′ của cuộc đời mình.

  1. Nước

Nước là ′′thức uống tốt nhất và rẻ nhất cho sức khỏe”. 3 thời điểm quan trọng với mỗi lần 1 ly nước:

Cốc đầu tiên: Sau khi ra khỏi giường. Bạn có thể uống một ly nước trong một cái bụng rỗng. Ngay cả khi chúng ta không cảm thấy khát nước sau khi thức dậy, máu ở trạng thái bị đặc do thiếu nước. Do đó, sau khi ra khỏi giường, bạn phải từ từ bổ sung nước càng sớm càng tốt.

Cốc thứ hai: Sau khi tập thể dục. Một bài tập thể dục phù hợp là một trong những nền tảng của trường thọ. Tuy nhiên, sau khi tập thể dục, đặc biệt chú ý cần phải bổ sung và thay thế nước. Điều này đực biệt khuyến khích đối với người già.

Cốc thứ ba: Trước khi đi ngủ. Một cốc nước trước khi đi ngủ có thể làm giảm độ nhớt của máu một cách hiệu quả và làm chậm quá trình lão hóa. Giúp chống lại đau thắt ngực, nhồi máu cơ tim và các bệnh khác.

  1. Cháo

Trung Quốc Daily Online đã công bố một nghiên cứu 14 năm do Đại học Harvard thực hiện trên 100,000 người. Thấy rằng mỗi ngày một bát cháo ngũ cốc nguyên hạt khoảng 28 gram giảm 5% đến 9% tử vong và giảm cơ hội mắc bệnh tim mạch. Các loại ngũ cốc nguyên hạt như gạo lứt, ngô và tam giác mạch dường như đã tránh được tất cả các bệnh, đặc biệt là bệnh tim.

  1. Một cốc sữa

Sữa được gọi là ′′huyết trắng ′′ và có trong cơ thể con người. Giá trị dinh dưỡng của nó được biết đến với rất nhiều canxi, chất béo và protein. Sữa và các sản phẩm từ sữa được khuyến nghị dùng hàng ngày là 300 gam. Khuyên nghị uống một hoặc hai bình sữa 200 ml hoặc gói sữa mỗi ngày.

  1. Một quả trứng

Trứng có thể nói là loại thực phẩm thông dụng nhất của con người. Tỷ lệ hấp thụ protein trứng của cơ thể có thể cao hơn 98 %.

  1. Một quả táo

Nghiên cứu hiện đại tin rằng táo có tác dụng hạ mỡ máu, giảm cân, ngăn ngừa ung thư, ngăn ngừa lão hóa, tăng cường trí nhớ, và làm cho da mịn màng và mềm mại. Lợi ích sức khỏe của táo màu khác nhau:

Táo đỏ có tác dụng hạ lipid máu và làm mềm mạch máu

Táo xanh có tác dụng dưỡng gan và giải độc, chống trầm cảm nên thích hợp hơn cho người trẻ.

Táo vàng có tác dụng tốt trong việc bảo vệ thị giác.

  1. Một củ hành

Hành có giá trị dinh dưỡng rất cao và có nhiều chức năng, bao gồm việc giúp hạ đường huyết, giảm mỡ máu, ngăn ngừa ung thư, bảo vệ tim mạch và các bệnh về não, và chống vi khuẩn, ngăn ngừa cảm cúm, bổ sung canxi và xương. Ăn hành tây ít nhất ba hoặc bốn lần một tuần.

  1. Một miếng cá

Các nhà dinh dưỡng Trung Quốc đã cảnh báo rằng ăn “bốn chân” còn tệ hơn ăn “hai chân”, ăn “hai chân” còn tồi tệ hơn ăn “không có chân”.

′′Không có chân′′ chủ yếu đề cập đến cá và nhiều loại rau khác nhau. Các protein chứa trong cá dễ dàng được tiêu hóa và hấp thụ. Lượng axit béo không bão hòa trong chất béo, đặc biệt là axit béo đa năng, tương đối tốt cho cơ thế.

  1. Bước đi nhẹ nhàng

Đây có tác dụng chống lão hóa thần kỳ. Khi người cao tuổi đi bộ (khoảng 1 km hoặc ít hơn) đều đặn trong hơn 12 tuần, sẽ đạt được hiệu quả về dáng và vòng eo, và cơ thể trở nên dẻo dai và không dễ bị mệt mỏi. Ngoài ra, tập thể dục bằng cách đi bộ cũng có lợi cho việc chữa đau đầu, đau lưng, đau vai., và có thể thúc đẩy giấc ngủ.

Các chuyên gia tin rằng đi bộ 30 phút mỗi ngày có thể thoát khỏi nguy hiểm của ′′bệnh người cao tuổi”. Những người đi 10,000 bước một ngày sẽ giảm nguy cơ mắc các bệnh về tim mạch và mạch máu não.

  1. Một sở thích

Có một sở thích, dù là trông hoa, nuôi chim, sưu tầm tem, câu cá, hay vẽ tranh, hát, chơi cờ, và du lịch, đều có thể giúp người già duy trì sự tiếp xúc rộng rãi với xã hội và thiên nhiên. Điều này làm mở rộng những thú vị của người già. Họ sẽ yêu và trân trọng cuộc sống.

  1. Tâm trạng vui vẻ

Người già nên duy trì cảm xúc tốt vì những điều này cực kỳ quan trọng đối với sức khỏe của họ. Các bệnh mãn tính thường gặp ảnh hưởng đến người già có liên quan chặt chẽ đến những cảm xúc tiêu cực của người già:

Nhiều bệnh nhân mắc bệnh tim, mạch vành, bị nhồi máu cơ tim do kích thích các cảm xúc bất lợi dẫn đến tử vong đột ngột; Tính nóng là điều ′′xấu′′ dẫn đến huyết áp cao. Trong trường hợp kéo dài và nghiêm trọng sẽ có thể gây ra đột quỵ, suy tim, tử vong đột ngột,.; Các cảm xúc tiêu cực như tức giận, lo lắng và đau buồn có thể khiến lượng đường huyết tăng lên, gây rối loạn chuyển hóa trong cơ thế.

Điều này cho thấy tâm trạng tối quan trọng như thế nào!

FB CA THƯƠNG


 

Alice Ball một cô gái trẻ người Mỹ gốc Phi va` bệnh phong

Afro USUK

Ở tuổi 23, cô đã chữa khỏi một căn bệnh đã hành hạ nhân loại suốt nhiều thế kỷ. Rồi cô qua đời. Một người đàn ông da trắng đánh cắp sáng kiến của cô và trở nên nổi tiếng. Suốt 60 năm, thế giới không hề biết đến tên cô.

Một cô gái trẻ người Mỹ gốc Phi bước vào phòng thí nghiệm hóa học tại Đại học Hawaiʻi và bắt đầu làm việc với một vấn đề tưởng như bất khả thi.

Trong nhiều thế kỷ, bệnh phong — nay gọi là bệnh Hansen — là án tử gắn liền với sự cô lập. Bệnh nhân bị đưa vào các khu cách ly, xa gia đình, chờ đợi cơ thể tàn tạ dần. Phương pháp điều trị duy nhất là dầu chaulmoogra, chiết xuất từ hạt của một loài cây nhiệt đới.

Nhưng có một vấn đề nghiêm trọng: dầu quá đặc. Nếu tiêm, nó gây u cục đau đớn dưới da. Nếu uống, nó gây buồn nôn và hầu như không được hấp thụ. Bệnh nhân chịu đựng phương pháp điều trị gần như khổ sở như chính căn bệnh.

Các bác sĩ trên toàn thế giới đã cố gắng suốt nhiều thập kỷ để khiến loại dầu này hiệu quả. Và tất cả đều thất bại.

Cho đến khi Alice Ball xuất hiện.

Sinh ra ở Seattle năm 1892, Alice bộc lộ tài năng từ rất sớm. Cô tốt nghiệp không chỉ một mà hai bằng cử nhân — Hóa dược và Dược học — từ Đại học Washington. Vào thời điểm hầu hết các trường đại học thậm chí còn không nhận sinh viên da đen, đặc biệt là phụ nữ da đen.

Ở tuổi 23, cô lấy bằng thạc sĩ hóa học tại Đại học Hawaiʻi, trở thành một trong những phụ nữ đầu tiên — và là phụ nữ da đen đầu tiên — đạt được điều này tại trường.

Nghiên cứu của cô gây chú ý với bác sĩ Harry Hollmann, người đang điều trị bệnh nhân phong tại Bệnh viện Kalihi. Ông đến gặp Alice với một thử thách: Liệu cô có thể biến dầu chaulmoogra thành dạng có thể tiêm được không?

Những gì Alice làm tiếp theo đã cứu sống hàng ngàn người.

Cô tách được các hợp chất hoạt tính trong dầu — các ethyl ester của acid béo — và phát triển kỹ thuật khiến chúng tan trong nước. Lần đầu tiên trong lịch sử, dầu chaulmoogra có thể được tiêm vào máu bệnh nhân một cách an toàn và hiệu quả.

Kết quả thật phi thường. Những bệnh nhân bị cách ly suốt nhiều năm bắt đầu hồi phục. Các triệu chứng cải thiện. Một số thậm chí được xuất viện khỏi các khu cách ly và đoàn tụ với gia đình.

Alice Ball đã giải được bài toán mà các nhà khoa học trước đó thất bại suốt nhiều thế hệ.

Cô mới 23 tuổi.

Rồi bi kịch xảy ra.

Tháng 12/1916, chỉ vài tháng sau bước đột phá, Alice Ball đột ngột qua đời. Cô mới 24 tuổi.

Nguyên nhân chính xác vẫn không rõ — một số người cho rằng do phơi nhiễm hóa chất trong phòng thí nghiệm, người khác nghĩ là biến chứng bệnh khác. Tuy nhiên, nguyên nhân cái chết của Ball đến nay vẫn chưa được xác định rõ, vì giấy chứng tử ban đầu của cô đã bị sửa đổi để ghi là tử vong do bệnh lao. Chỉ biết rằng cô vẫn chưa kịp công bố kết quả. Công trình đột phá của cô chỉ tồn tại trong ghi chú.

Và rồi một điều không thể chấp nhận đã xảy ra.

Arthur Dean, chủ tịch Đại học Hawaiʻi, đã lấy nghiên cứu của Alice, tinh chỉnh kỹ thuật đôi chút và công bố — dưới cái tên duy nhất của mình.

Thế giới y học ca ngợi “Phương pháp Dean.”

Trong nhiều thập kỷ, nó được dùng để điều trị bệnh nhân phong trên khắp Thái Bình Dương, tại Philippines, khắp châu Á và châu Phi. Phương pháp đó cứu sống hàng ngàn người và mang lại hy vọng cho vô số gia đình.

Arthur Dean chưa từng nhắc đến tên Alice Ball.

Dù chỉ một lần.

Trong 60 năm, công lao của cô bị xóa bỏ. Một nữ nhà hóa học da đen trẻ tuổi, người đã làm được điều mà không ai làm nổi, đã bị quên lãng. Bị chôn vùi. Bị xóa khỏi lịch sử.

Cho đến năm 1977, khi một nhà sử học tên Kathryn Takara bắt đầu nghiên cứu về các nhà khoa học đầu tiên ở Hawaiʻi. Bà tìm được luận văn của Alice. Bà thấy các ghi chép trong phòng thí nghiệm. Bà ghép lại toàn bộ câu chuyện.

Sự thật hé lộ: “Phương pháp Dean” thực chất là “Phương pháp Ball”. Và người ta mới biết rằng Dean thực ra cũng chẳng đóng góp gì nhiều để thay đổi sáng kiến của Alice Ball.

Sự ghi nhận hiếm hoi dành cho công trình của Ball chỉ xuất hiện sáu năm sau khi cô mất. Năm 1922, tên cô được nhắc trong bài báo của bác sĩ Harry T. Hollmann, và phương pháp của cô được gọi là “Phương pháp Ball”.  Sau nhiều năm nghiên cứu này được các học giả tại Đại học Hawai‘i, bao gồm Kathryn Takara và Stanley Ali, công khai cho toàn thế giới biết sự thật.

Năm 2004, học giả Paul Wermager trích dẫn một cuộc phỏng vấn năm 1921, trong đó Arthur Dean nhấn mạnh tầm quan trọng của những người đi trước trong quá trình phát triển chiết xuất chaulmoogra. Tuy vậy, theo Wermager, báo cáo đó lại chỉ nhắc các cộng sự khác của Dean, chứ không hề nhắc đến Ball.

Tháng 3/2016, Hawaiʻi Magazine đưa Alice Ball vào danh sách những người phụ nữ có ảnh hưởng nhất trong lịch sử Hawaii. Năm 2017, Paul Wermager thành lập học bổng “Alice Augusta Ball Endowed Scholarship” nhằm hỗ trợ sinh viên theo học các ngành hóa học, sinh học, hóa sinh hoặc vi sinh.

Năm 2018, một công viên mới tại khu Greenwood ở Seattle được đặt tên theo cô. Đến năm 2019, Trường Y học Nhiệt đới và Vệ sinh London khắc tên cô lên phù điêu ở mặt tiền tòa nhà chính, cùng với Florence Nightingale và Marie Curie, để ghi nhận những đóng góp của họ cho khoa học và sức khỏe toàn cầu.

Tháng 2/2020, bộ phim ngắn The Ball Method được công chiếu tại Liên hoan phim Pan African. Sinh viên Đại học Hawai‘i sau đó đặt câu hỏi liệu nhà trường có nên làm nhiều hơn để khắc phục sai lầm của cựu hiệu trưởng Dean, trong đó có đề xuất đổi tên tòa nhà Dean Hall thành Ball Hall để vinh danh cô.

Ngày 6/11/2020, một vệ tinh mang tên cô (NuSat 9 hay “Alice”, COSPAR 2020-079A) được phóng vào vũ trụ.

Ngày 28/2/2022, Thống đốc David Ige ký tuyên bố chọn ngày này là “Ngày Alice Augusta Ball” tại Hawaii, trong buổi lễ đặc biệt tổ chức tại khuôn viên Đại học Hawaiʻi ở Mānoa. Buổi lễ diễn ra bên cạnh Bachman Hall, dưới tán cây chaulmoogra được trồng để tưởng nhớ cô, với sự tham dự của hơn 100 người, bao gồm Đệ nhất phu nhân Dawn Ige và Hiệu trưởng UH David Lassner.

Đến tháng 12/2024, sau nghị quyết của Hội đồng Giảng viên UH Mānoa, một bức tượng của Alice Ball được đặt tại Thư viện Hamilton để vinh danh cô.

Năm 2007, cô được truy tặng Huy chương Danh dự — giải thưởng cao quý nhất của trường Đại học Hawaiʻi.

Nhưng điều quan trọng nhất là:

Alice Ball chỉ mới 23 tuổi khi cô giải được một vấn đề đã thách thức nhân loại suốt hàng thế kỷ.

Cô là một phụ nữ da đen vào năm 1915, trong một lĩnh vực luôn loại trừ những người giống cô.

Cô đã cứu hàng ngàn người bằng tài năng của mình.

Và rồi một người đàn ông có quyền lực đã xóa tên cô, chiếm lấy công trình của cô.

Suốt 60 năm, thế giới tin vào một lời nói dối.

Nhưng sự thật luôn có cách trở lại. Câu chuyện của Alice Ball không bị mất — nó chỉ chờ được kể ra.

Ngày nay, phương pháp của cô được ghi nhận trong lịch sử y khoa. Sinh viên học kỹ thuật của cô trong lớp hóa học. Các nhà khoa học trẻ — đặc biệt là phụ nữ da màu — biết tên cô và nhìn thấy khả năng cho chính mình.

Di sản của Alice Ball không chỉ là khoa học. Nó nhắc chúng ta rằng:

Tài năng tồn tại ở khắp nơi, không chỉ trong những người ta “mong đợi.”

Lịch sử thường xóa bỏ công lao của phụ nữ và người da màu — nhưng công trình của họ vẫn còn đó.

Một con người, với sự cống hiến và thiên tài, có thể thay đổi cuộc sống của hàng ngàn người.

Alice Ball chưa bao giờ thấy phát minh của mình được tôn vinh. Cô không bao giờ biết mình đã cứu bao nhiêu người. Cô không được ghi nhận đúng lúc.

Nhưng công trình của cô vẫn sống. Bệnh nhân được chữa lành. Gia đình được đoàn tụ. Những cuộc đời được cứu.

Và hơn một thế kỷ sau, chúng ta nhớ đến tên cô.

Alice Augusta Ball. Nhà hóa học. Người tiên phong. Người cứu sống hàng ngàn người.

Hai mươi ba tuổi khi cô thay đổi lịch sử y học.

Ra đi ở tuổi hai mươi bốn — nhưng không bao giờ bị xóa bỏ thật sự.

Tài năng của cô không thể bị chôn vùi. Chỉ là thế giới mất sáu mươi năm để thừa nhận nó.

Hãy nhớ đến cô ấy. Hãy kể câu chuyện của cô ấy. Hãy tôn vinh sự thật.

Vì Alice Ball đã chứng minh rằng khoa học không có giới hạn về giới tính, chủng tộc hay thời gian.

*Sưu tầm dịch


 

NGƯỜI BẢO TRỢ CỦA TÔI- Tác Giả: Tam Nguyễn- Truyen ngan HAY

Xuyên Sơn

Với lý lịch 8 năm tù trong trại cải tạo cộng sản, gia đình tôi sang Mỹ theo diện HO 15 đầu trọc: không thân nhân bảo trợ.

Tôi đã trải qua.

Ngày cùng vợ con lên phi trường ra đi, cũng là một ngày đầy nước mắt.

Cha tôi đã chết đúng ngày tôi lên đường.

Ngày đi không thể dời.

Chỉ còn cách quỳ lạy xác cha.

Tạ từ mẹ già và người thân, tôi lặng lẽ cúi đầu ra đi không một người đưa tiễn. Ngồi trên phi cơ mà tưởng chừng như tôi đang ngồi trên đống lửa.

Rồi đoạn cuối của cuộc hành trình đã đến.

Theo chân các hành khách, tôi dắt dìu vợ con ra khỏi máy bay.

Ra đón gia đình chúng tôi có một số người Mỹ và Việt Nam, tôi còn đang ngỡ ngàng với người và cảnh quá lạ xa nầy thì một bà đầm Mỹ đến ôm tôi và trao bó hoa, chụp hình lưu niệm.

Sau vài sự giới thiệu (mà lúc đó đầu óc tôi trống rỗng) gia đình tôi được bà Mỹ bảo trợ tên là Helen dẫn ra xe và chở về một apartment mà bà đã thuê sẵn.

Vợ chồng tôi đi từ ngạc nhiên nầy đến ngạc nhiên khác khi thấy sự chuẩn bị quá ư đầy đủ của bà bảo trợ: từ cục xà bông, cái khăn tắm, cuộn giấy đi cầu đến cái móc áo… mọi vật dụng cần thiết đều có sẵn, tại phòng khách với chiếc TV hiệu SONY 20 inch mà cả cuộc đời tôi không bao giờ dám mơ ước tới thì nay đã hiện hữu và từ nay tôi không còn phải lội bộ thật xa đến xóm chợ đầu làng để xem những trận đá banh với cái TV cà rịch cà tang…

Còn 2 thằng con tôi thì hả hê với chiếc máy game.

Vợ tôi cứ xuýt xoa mãi sao mà họ tử tế quá… tôi còn được biết

(qua người Việt Nam dịch lại) là tiền nhà tháng đầu bà bảo trợ đã tặng cho tôi.

Sau khi đã chỉ dẫn những cách sử dụng vài vật dụng cần thiết trong nhà cũng như những điều không được làm như không mở cửa cho người lạ mặt v.v… mọi người từ giã ra về, riêng bà bảo trợ thì dặn tôi chuẩn bị các thứ giấy tờ cần thiết để sáng mai bà đến đón gia đình tôi lúc 9 giờ.

Bà còn nói đùa là nhớ mở cửa cho bà…

Cả đêm đó tôi trằn trọc không sao ngủ được dù người tôi mệt mỏi rã rời sau chuyến hành trình dài.

Sáng hôm sau và dài dài sau đó, bà bảo trợ đã đón đưa gia đình chúng tôi đi làm những thủ tục lúc đầu như làm thẻ An Sinh Xã Hội, khám sức khoẻ, nộp giấy tờ cho 2 con tôi đi học và hướng dẫn vợ con tôi, chỉ bảo tôi từ đường đi nước bước cho đến khi tôi bắt đầu thi đậu lái xe thì bà nghĩ rằng tôi có thể tạm quen dần với cuộc sống, nên thỉnh thoảng khi có việc cần bà mới đến, tuy nhiên những ngày Chúa Nhật bà thường đưa gia đình tôi đi, sau đó về chơi và ăn uống ở nhà bà rồi bà dạy Anh Văn cho vợ chồng tôi.

Căn nhà bà ở một nơi thật yên tĩnh và có vườn hoa xinh xắn, qua tâm tình với bà, tôi được hiểu rõ về lý do tôi được bà bão lãnh, bà kể lại rằng sỡ dĩ bà chọn bảo trợ tôi vì khi đọc hồ sơ ở Hội Từ Thiện USCC được biết đơn vị của tôi ngày xưa đóng ở PLEIKU mà nơi đây chồng bà đã công tác rồi mất tích.

Bởi địa danh Pleiku cứ ám ảnh tâm trí bà và trong những giấc mơ, Bà thấy chồng hiện về mặt mũi đầy máu và nói rằng ông đã được một người nông dân Việt Nam cứu nhưng vì vết thương quá nặng nên ông không sống được!

Bà cũng đã cho tôi xem những bức hình chồng bà chụp những cảnh Pleiku như Biển Hồ, núi Hàm Rồng, hình người Thượng mang gùi dẫn nhau từng đàn trên đường ra chợ… tất cả đối với bà là những kỷ niệm còn sót lại của chồng bà nhưng đối với tôi là cả một vùng trời kỷ niệm thân thương của cuộc đời quân ngũ.

Chồng bà đã mãn nhiệm kỳ ờ Việt Nam nhưng tình nguyện ở lại công tác tiếp và bị mất tích, bà tự hỏi không hiểu cái gì ở Việt Nam đã hấp dẫn chồng bà.

Bà còn kể cho tôi nghe vài món ăn Việt Nam mà chồng bà ưa thích và nay thì bà đang thực tế cùng ăn với gia đình tôi và tỏ ra thích thú lắm.

Tình thân giữa gia đình tôi và bà bảo trợ càng ngày càng thấm thiết.

Vì không có con cái nên mọi tình thương bà dồn cho 2 đứa con tôi.

Thời gian khi con tôi đau phải nằm bệnh viện, ngày nào bà cũng đến chăm nom săn sóc với nỗi lo hiện trên nét mặt như chính người thân yêu của bà. 

Tôi thỉnh thoảng vẫn đến dọn dẹp mảnh vườn nhỏ của bà, bà trả thù lao nhưng tôi từ chối thì bà tế nhị mua cho vợ hoặc con tôi những thứ khác.

Bà cho biết bà đang làm việc tình nguyện ở một bệnh viện và thỉnh thoảng bà có cộng tác với Hội Hồng Thập Tự.

Đôi khi tôi thấy bà đem quần áo về nhà giặt sạch sẽ, ủi cẩn thận và bỏ vào thùng mang đi.

Bà âm thầm làm việc liên tục, ít khi thấy bà nghỉ ngơi và lúc nào bà cũng vui vẻ biểu hiện qua khuôn mặt đầy lòng nhân ái.

Thỉnh thoảng bà cũng thường hay hỏi tôi về đời sống người dân ở Việt Nam.

Bà rất quan tâm và thông cảm với những khốn khổ mà người Việt Nam đang gánh chịu.

Khi biết có bão lụt ở Việt Nam, bà rất tích cực đóng góp vào công việc cứu trợ, nhất là bà thường gởi tiền giúp cho trẻ em Cô Nhi Viện Việt nam.

Một hôm thật tình cờ tôi gặp bà cũng đến hiến máu ở Trung tâm Hiến Máu thành phố, tôi càng thấy thương và kính phục bà nhiều hơn. 

Gặp nhau tại đây, bà nhìn tôi với ánh mắt thông cảm và hài lòng khi thấy tôi cũng hiện diện, nhìn tấm thẻ ghi ngày hiến máu của bà đã gần hết chỗ ghi ngày tháng tôi được biết thêm đây không phải là lần đầu tiên bà đến đây.

Tại nơi nầy tôi cũng được dịp quan sát và thấy người Mỹ họ đi hiến máu thật đông mà giới trẻ đi hiến máu cũng không phải là ít, tôi ao ước trong  cộng đồng Việt Nam chúng ta mọi người động viên nhau đến với Trung Tâm Hiến Máu thì thật là quý báu lắm thay.

Sau nầy có lần bà hỏi tôi bên Việt Nam có đi hiến máu đông không, tôi thật tình kể với bà rằng tôi chỉ thấy chỉ có những người dân nghèo ở Sài gòn phải đi bán máu để kiếm sống, bà tỏ ra xót xa!

Càng gần gũi biết về bà tôi càng thương bà hơn

Tôi kính trọng bà như chị ruột của tôi, gặp những gì khó khăn tôi thường đến nhờ bà hướng dẫn và ngược lại bà cũng không giấu tôi những nỗi niềm riêng tư của bà.

Bà đã bỏ đi cả quãng đời thanh xuân để sống âm thầm với kỷ niệm mặc dù có bao chàng trai đã đến cầu hôn bà khi bà là một thiếu nữ trẻ đẹp.

Sự thủy chung của bà như viên ngọc quý giữa cái xã hội thay chồng đổi vợ như thay áo ở xứ Mỹ văn minh nầy.

Theo bà công tác từ thiện đã giúp bà vượt qua mọi cám dỗ để đứng vững đến ngày hôm nay.

Có lần tôi hỏi bà sao không nuôi chó hoặc mèo cho vui.

Bà nói bà cũng thích và thương thú vật lắm nhưng bà phải dành thì giờ làm những công việc khác có ích hơn và tiền mua thức ăn cho súc vật để dành giúp cho người nghèo có được miếng sống thì quý hơn.

Từ những suy nghĩ đơn sơ đầy tình người, những giúp đỡ thiết thực của bà đối với người dân nghèo Việt Nam và cá nhân gia đình tôi, tôi không biết dùng lời lẽ nào để nói lên lòng biết ơn Bà.

Tôi chỉ cầu xin ơn trên cho bà luôn được mạnh khoẻ để đem tình thương đến cho mọi người.

Một hôm bà nói với tôi rằng từ lâu bà ao ước được đi thăm Việt Nam

một chuyến, nhất là đi đến cái xứ Pleiku đó, bà muốn tôi cùng đi và nói khi nào tôi sẵn sàng đi được thì báo cho bà biết.

Qua Mỹ hơn 4 năm, tôi cũng nhớ Mẹ già và quê hương lắm, muốn về thăm nhưng ngặt nỗi nếu đi cả vợ chồng và 2 đứa con vào dịp Hè thì quá tốn kém.

Như hiểu được khó khăn của tôi, Bà nói sẽ tặng  vé máy bay cho cả gia đình tôi.

Nói vậy chứ tôi đâu dám nhận vì vợ chồng tôi đã mang ơn bà nhiều quá. Cuối cùng tôi đã báo cho bà là dịp Hè tới được nghỉ, tôi và thằng con trai lớn sẽ cùng bà đi Việt Nam, bà vui mừng ra mặt, tôi chưa thấy lần nào bà vui như lần nầy.

Bà nói được đi Việt Nam là bà mãn nguyện lắm.

Bà đưa ra những dự tính phải làm khi đến Việt Nam.

Thời gian như ngắn lại, bà đếm từng ngày, chỉ còn ba tuần nữa thôi.

Nhưng rồi tang thương lại một lần nữa ập xuống.

Một buổi chiều thứ sáu như thường lệ trên đường từ Hội Hồng Thập Tự về nhà, xe bà đã bị một xe truck do một tài xế Việt Nam đụng phải và bà đã trút hơi thở cuối cùng nơi bệnh viện không một người thân.

Nhận tin mà tôi tưởng chừng như xung quanh đất trời sụp đổ, tôi chết lặng hồi lâu.

Cuộc đời sao quá oan nghiệt, ước nguyện thật nhỏ nhoi của bà đã không thành.

Biết đâu Thượng Đế muốn dành cái chết như phần thưởng cho riêng bà.

Biết đâu giờ này bà đã gặp lại chồng bà và hai ông bà đang hạnh phúc bên nhau nơi miền miên viễn.

Có lẽ Thượng Đế không muốn bà phải lặn lội đường xa tìm tin tức chồng trong vô vọng và Ngài cũng không muốn bà phải tận mắt chứng kiến cảnh khốn khổ của người dân Việt Nam đang sống dưới chế độ phi nhân của cộng sản.

Gia đình tôi hoà lẫn giữa đám đông người Mỹ trong đám tang thật cảm động để đưa tiễn bà lần cuối, viếng xác bà khi còn đặt ở nhà quàn, tôi thấy mặt bà đã được trang điểm thật đẹp, trông bà thật thanh thản và mặt bà như có vẻ mãn nguyện… tôi muốn được ôm từ biệt bà lần cuối

và thét lên rằng: “Chị ơi sao đành bỏ em”!

Vợ tôi đã ngất xỉu khi quan tài bà hạ huyệt.

Sau cái chết của bà, gia đình tôi thấy thật trống vắng, hai con tôi lúc nào cũng nhắc tới bà với nhiều nhớ thương.

Vợ chồng tôi cũng dự định chuyển đi tiểu bang khác ấm áp hơn để hy vọng tìm một chút an bình.

Nay ngồi ngẫm lại những sự việc xảy ra: ngày bà chết cũng đúng vào ngày cha tôi mất (mùa lễ Phục Sinh).

Rồi cả bà và chồng bà đều chết bởi người Việt Nam gây ra, tôi không hiểu tại sao có thể như vậy…

Lòng tôi quặn thắt khi nghĩ đến bà, gia đình tôi mang ơn bà mà không bao giờ trả được.

Nhớ thương bà tôi chỉ biết đặt ảnh bà cùng chung với bàn thờ cha tôi, cha mẹ tôi đã sinh ra tôi còn bà đã cho tôi lý tưởng sống.

Bây giờ trên bàn thờ cha tôi có thêm bức hình của bà Helen.

Chị ngồi đây với cha tôi và hàng năm ngày cúng giỗ cha tôi cũng là ngày tôi cúng giỗ chị.

Mộ chị sẽ không quạnh hiu vì có chúng tôi đến với chị như khi chị còn sống trên cõi đời nầy.

Sau đám tang bà Helen một thời gian, một hôm tôi sững sờ khi luật sư báo cho biết theo di chúc, bà Helen để lại tặng cho vợ chồng tôi căn nhà của bà và ngoài ra bà còn tặng 100 ngàn đô la cho Cô Nhi Viện ở Việt Nam.

Khi gia đình tôi dọn về căn nhà của bà, tôi tự hỏi mình đã làm gì để được hưởng phần thưởng nầy.

Suốt cuộc đời tôi phải sống trong ân tình ngút ngàn mà không bao giờ trả được.

Trước mộ bà, tôi thầm khấn vái “chị Helen sống linh chết thiêng xin phù hộ gia đình tôi, dẫn đường soi lối cho tôi đi theo lý tưởng của chị: sống vì mọi người”

Tác Giả: Tam Nguyễn


 

SA MẠC NỞ HOA- TGM Giu-se Vũ Văn Thiên

TGM Giu-se Vũ Văn Thiên

 Sứ điệp và chứng từ của Thánh Gio-an Tẩy Giả gắn liền với sa mạc.  Ông sống trong sa mạc, làm bạn với muông thú, ăn mật ong rừng và mặc áo bằng da lạc đà.  Ông khởi đầu sứ mạng cũng ở trong sa mạc, bằng lời kêu gọi sám hối.  Con người khổ hạnh ấy có sức hấp dẫn lạ kỳ, đến nỗi dân thành từ Giê-ru-sa-lem, Giu-đê-a và vùng ven sông Gio-đan đều đổ xô đến nghe ông giảng.  Trong đó có cả những người thuộc phái Pha-ri-siêu và phái Sa-đốc.  Vào thời đó, hai phái này mâu thuẫn và không đội trời chung.  Sứ điệp của Gio-an Tẩy Giả đã gắn kết họ trong việc lắng nghe và thành tâm sám hối.

 Trước đó bảy trăm năm, ngôn sứ I-sai-a đã tiên báo về sự kiện này.  Ông chiêm ngưỡng một viễn tượng tương lai: Sa mạc sẽ nở hoa.  Đồng khô cỏ cháy mừng rỡ reo hò.  Vị ngôn sứ diễn tả một tương lai mà cỏ cây cũng như con người, đều biết nhảy múa và thể hiện niềm vui.  Lý do làm sao mà vui thế? Thưa, vì Thiên Chúa đến đây rồi.  Lúc đó, người què đi được, thậm chí còn nhảy nhót như nai; người mù sáng mắt; người điếc nghe thấy, và tất cả cùng nhau tiến về Xi-on.  Tiến về Xi-on là tiến về nhà Chúa, để gặp gỡ và tôn vinh Ngài.

 Lúc đó, ông Gio-an đang ở trong tù.  Có thể khi ông kêu gọi mọi người sám hối để chuẩn bị đón Đấng Thiên Sai, ông cũng không hiểu hết những gì mình nói.  Bởi vậy, lúc bị bắt cầm tù, ông cảm thấy hoang mang.  Trong cảnh ngục tối, có lẽ ông đặt câu hỏi: “Vị ngôn sứ thành Na-da-rét thực ra có phải là Đấng Ki-tô mà ông loan báo?”  Trăn trở này đã khiến ông sai môn đệ đến hỏi Đức Giê-su: “Thầy có thật là Đấng phải đến không, hay chúng tôi còn phải đợi ai khác?”  Chúa Giê-su không trả lời thẳng câu hỏi của các môn đệ này, nhưng Người nói đến kết quả lời rao giảng là các phép lạ Người đã thực hiện.  Ông Gio-an nghe những lời này, chắc chắn cảm thấy an tâm vì những gì ngôn sứ I-sai-a nói trước đó nay đã được thực hiện.  Qua câu trả lời, Đức Giê-su muốn nhắn gửi tới Gio-an Tẩy giả: “hãy an tâm!  Hãy vui lên, hỡi sa mạc và đồng khô cỏ cháy, vùng đất hoang, hãy mừng rỡ trổ bông….”

 Kiên nhẫn đợi chờ, đó cũng là thông điệp là Phụng vụ muốn gửi đến chúng ta trong Chúa Nhật này.  Bởi lẽ năm nào chúng ta cũng nghe nói đến việc Chúa sắp đến.  Hình ảnh người nông phu được Thánh Gia-cô-bê diễn tả (Bài đọc II) cho thấy sự kiên nhẫn sẽ được đền đáp.  Trong khi chờ đợi Chúa đến, người tin Chúa phải thực hành đức bác ái yêu thương, “đừng phàn nàn kêu trách lẫn nhau, để khỏi bị xét xử.”

 Ông Gio-an Tẩy Giả đã thi hành sứ vụ trong sa mạc.  Hôm nay, xã hội của chúng ta cũng đang rơi vào tình trạng sa mạc hóa.  Đó là sự dửng dưng của con người, và bạo lực dối trá tràn lan khắp nơi.  Những khủng hoảng về gia đình và đạo lý đang làm cho xã hội này trở nên khô cằn, ngược lại với cảnh nhộn nhịp phát triển của một cuộc sống được gọi là “hiện đại.”  Chính trong bối cảnh này, người tin Chúa được trao sứ mạng làm cho sa mạc nở hoa.  Thay vì bình phẩm phê phán, chúng ta hãy đóng góp phần mình để giảm thiểu bạo lực, đầy lùi dối trá và cổ võ tình thương, khởi đi từ gia đình, rồi đến với cộng đồng xã hội.  Khi cố gắng làm cho sa mạc cuộc đời nở hoa, là chúng ta làm lan tỏa chất Tin Mừng đến mọi góc khuất của cuộc đời.  Thánh Gia-cô-bê viết: “Anh em hãy noi gương các ngôn sứ là những vị đã nói nhân danh Chúa.”  Sống thanh tao giữa cuộc đời đầy bạo loạn, đó là sống ơn gọi Ki-tô hữu và thi hành chức năng ngôn sứ mà Chúa ban cho chúng ta khi lãnh nhận Bí tích Thanh Tẩy.

 Cùng chung một nội dung với Bài đọc I, Thánh vịnh 145 được hát lên trong Phụng vụ như cảm nghiệm sâu xa về những điều tốt lành Chúa đang làm cho mình.  Với lăng kính Ki-tô giáo, chúng ta tin Đức Ki-tô là Đấng giải phóng con người khỏi nô lệ tội lỗi mà các ngôn sứ và Thánh vịnh đã tiên báo.  Người đến để thiết lập một thế giới mới, nơi đó người với người không còn là lang sói, nhưng tất cả đều là anh chị em với nhau, có cùng một Cha trên trời (x. Mt 5,45).

 Ông Gio-an Tẩy Giả là gương mẫu cho chúng ta.  Sứ mạng của Ki-tô hữu là dọn đường cho Chúa.  Tuy vậy, trước hết chúng ta phải đón Chúa đến trong cuộc đời mình.  Gio-an được Đức Giê-su khen ngợi đặc biệt, và đánh giá ông là người cao trọng nhất trong số những phàm nhân.  Nếu chúng ta thực thi sứ mạng ngôn sứ một cách nghiêm túc, chúng ta cũng được chúc phúc như vị Tiền Hô.  Đôi khi người tin Chúa cũng bị cám dỗ bỏ cuộc và hoang mang.  “Phúc thay người nào không vấp ngã vì tôi.”  Đó cũng là lời Chúa Giê-su đang nhắn gửi chúng ta hôm nay.

 Lời Chúa hôm nay thấm đượm niềm vui.  Niềm vui vì được Chúa tạo dựng, được Chúa yêu thương và được Ngài cứu độ.  Ki-tô hữu còn vui vì có Đức Giê-su hiện diện trong cuộc đời mình.  Cảm nhận được niềm vui và hạnh phúc của người phụng sự Chúa, chúng ta sẽ có khả năng và nhiệt huyết đem niềm vui đến cho anh chị em mình. 

TGM Giu-se Vũ Văn Thiên

 From: Langthangchieutim