VỊ THÁNH

VỊ THÁNH

Palidoro, Ý. Tháng 9 năm 1943. Đức Quốc xã đã chiếm đóng ngôi làng sau khi Ý đầu hàng, và nỗi kinh hoàng bao trùm khắp đường phố.

Khi một vụ nổ giết chết hai lính Đức tại một kho đạn dược, quân SS đòi trả thù. Chúng bắt giữ 22 thường dân vô tội – nông dân, cha mẹ, những người đàn ông bình thường không liên quan gì đến vụ nổ. Quân Đức không quan tâm đến tội lỗi. Chúng muốn trả thù.

Phải có người chết.

Salvo d’Acquisto, một lữ đoàn phó (vice-brigadier) 23 tuổi trong lực lượng Carabinieri của Ý, đã chứng kiến ​​cảnh tượng diễn ra. Anh nhìn thấy nỗi kinh hoàng trong mắt những người đàn ông đó. Anh biết họ có gia đình đang chờ đợi ở nhà – vợ con, cha mẹ, những người sẽ không bao giờ hiểu tại sao người thân của họ không trở về.

Và anh đã đưa ra một lựa chọn vang vọng suốt lịch sử.

Salvo bước ra và thú nhận đã gây ra vụ nổ. Đó hoàn toàn là một lời nói dối – anh không hề ở gần kho đạn khi sự việc xảy ra. Nhưng anh nhìn thẳng vào mắt viên chỉ huy Đức và khăng khăng rằng chỉ mình anh phải chịu trách nhiệm. Anh yêu cầu họ thả những người vô tội và hành quyết ông.

Người Đức chấp nhận lời thú tội của ông.

22 thường dân được trả tự do. Salvo d’Acquisto bị dẫn đến nơi hành quyết.

Các nhân chứng sau đó làm chứng rằng anh vẫn bình tĩnh cho đến phút cuối cùng. Không van xin. Không nước mắt. Chỉ có sự nghiêm trang lặng lẽ khi đối mặt với đội hành quyết vào ngày 23 tháng 9 năm 1943, biết rằng cái chết của mình đồng nghĩa với việc 22 gia đình sẽ được trọn vẹn.

Súng trường nổ. Salvo ngã xuống. Và 22 người đàn ông đáng lẽ phải chết ngày hôm đó đã trở về nhà để ôm gia đình họ – được cứu bởi một chàng trai trẻ đã chọn hy sinh tất cả vì người lạ.

Nước Ý không bao giờ quên anh. Sự hy sinh của anh đã trở thành huyền thoại – một ngọn hải đăng trong bóng tối của chiến tranh.

Năm 1983, Giáo hoàng John Paul II đã phong chân phước cho Salvo d’Acquisto là một vị tử đạo, công nhận rằng hành động cuối cùng của anh không chỉ là chủ nghĩa anh hùng mà còn là biểu hiện của tình yêu hoàn hảo, vị tha.

Ngày nay, các tượng đài tưởng niệm anh trên khắp nước Ý tôn vinh ký ức về anh. Trường học dạy về câu chuyện của anh. Ngày 23 tháng 9 được kỷ niệm như ngày mà một chàng trai 23 tuổi đã chứng minh rằng ngay cả khi cái ác vây quanh, lòng dũng cảm cá nhân vẫn có thể cứu sống mạng người.

Salvo d’Acquisto đã không phải chết vào ngày hôm đó. 22 người đàn ông đó không phải là trách nhiệm của anh. Anh có thể im lặng, sống sót qua chiến tranh, xây dựng một cuộc đời.

Thay vào đó, anh đã chọn một điều gì đó lớn lao hơn. Anh đã chọn đảm bảo rằng 22 sinh mạng khác sẽ được tiếp tục—rằng trẻ em sẽ không lớn lên mà không có cha, rằng vợ sẽ không trở thành góa phụ, rằng cha mẹ sẽ không chôn cất con trai của họ.

Những lời cuối cùng của anh, theo lời kể của các nhân chứng, rất đơn giản: “Thà một người chết còn hơn nhiều người vô tội.”

Đó không chỉ là chủ nghĩa anh hùng. Đó là hình thức tình yêu cao cả nhất mà nhân loại có thể thể hiện—sự sẵn sàng hy sinh mạng sống của mình để người khác được sống.

Sự hy sinh của Salvo d’Acquisto nhắc nhở chúng ta rằng ngay cả trong những chương đen tối nhất của lịch sử, khi sự tàn ác và thù hận dường như không thể ngăn chặn, thì một người duy nhất đưa ra một lựa chọn dũng cảm có thể tạo ra ánh sáng không bao giờ lụi tàn.

Hai mươi hai gia đình đã trở về nhà đêm đó vì một chàng trai trẻ quyết định rằng mạng sống của họ quan trọng hơn mạng sống của chính mình.

From: taberd & NguyenNThu


 

CHÁY LAN – Lm. Minh Anh Tgp. Huế

Lm. Minh Anh Tgp. Huế

“Hãy lo làm ăn sinh lợi cho tới khi tôi đến!”.

“Rất dễ xác định khi một thứ gì đó bốc cháy; nó đốt các vật chung quanh. Ngọn lửa nào không cháy lan sẽ tắt. Lửa không cháy là một mâu thuẫn! Kitô hữu không có ‘lửa tông đồ’ là một mâu thuẫn! Hãy xem lại việc kết hiệp của họ với Chúa Kitô!” – Elton Trueblood.

Kính thưa Anh Chị em,

Tin Mừng hôm nay nói đến việc ‘cháy lan’ của người môn đệ, biểu hiện qua ba hạng người được trao cùng một nén ân sủng – từ Chúa Kitô – với cùng một mệnh lệnh, “Hãy lo làm ăn sinh lợi!”.

Hạng thứ nhất – “sinh lợi” mười nén, năm nén. Vua trở lại, phúc trình của họ thật đáng mừng. Đây là những môn đệ đã để cho lửa cháy sáng. Thiên Chúa không trao nén bạc để chôn giấu, nhưng để mỗi người tạo nên ‘một sự khác biệt vĩnh viễn’ trong cuộc sống người khác. Với họ, việc tông đồ không là gánh nặng nhưng là niềm vui; và chính niềm vui tiếp sức cho sự ‘cháy lan’ ấy. Như lửa gặp gió, nhiệt thành của họ tác động theo cấp số nhân. “Đừng bao giờ nghi ngờ rằng, một nhóm nhỏ những công dân tận tâm, suy nghĩ sâu sắc, có thể thay đổi thế giới!” – Margaret Mead.

Bà mẹ thời Macabê là một mẫu gương rực sáng của sự “sinh lợi”. Bà can trường chứng kiến bảy người con chịu chết vì trung thành với lề luật. Bà tin “Đấng Tạo Hoá đã nắn đúc nên loài người… Do lòng thương xót, Người sẽ trả lại cho các con thần khí và sự sống!” – bài đọc một. Chính niềm xác tín ấy mà đức tin của bà sẽ ‘cháy lan’ cho các thế hệ sau.

Hạng thứ hai – “bọc khăn giữ kỹ”. Không làm điều xấu; họ chỉ sợ. Nỗi sợ làm họ tê liệt, khiến ân sủng bị chôn vùi. Sợ hãi thường là dấu của một tương quan ‘chưa đủ tin cậy’ vào Chúa; và vì thế, không thể ‘cháy lan’. Phụng sự Chúa luôn đòi bạn bước ra khỏi vùng an toàn, trao những gì mình có vào tay Ngài, và để Ngài làm phần còn lại. “Sợ hãi không thể tồn tại khi có đức tin. Hãy buông nhu cầu kiểm soát, nhảy một bước đức tin và sợ hãi sẽ tan như sương sớm!” – John Harricharan.

Hạng thứ ba – công khai chống lại Vương Quốc – phá hoại thay vì cộng tác. Họ từ chối ân sủng, từ chối chủ quyền Thiên Chúa trên đời mình. Chúa Giêsu mạnh mẽ nói về họ không nhằm đe doạ, nhưng là cảnh báo nghiêm túc về hậu quả tự nhiên của việc khước từ ánh sáng. “Sự nổi loạn của con người không thể vô hiệu quyền tể trị của Thiên Chúa, nhưng có thể đem tai họa về cho mình!” – A. W. Tozer.

Anh Chị em,

Ước gì bạn và tôi thuộc hạng “sinh lợi” cho Chủ! Nếu đang cháy sáng, hãy tạ ơn; nếu sợ hãi, hãy để dụ ngôn lay động, kéo chúng ta ra khỏi sự an thân. Không ai hối hận khi đặt trái tim và linh hồn vào việc phụng sự Chúa. Muốn trở nên người có thể ‘cháy lan’, chúng ta cần kết hiệp với Chúa Kitô đêm ngày, tìm kiếm Ngài, đặt Ngài – Lửa Tình Yêu – tận sâu thẳm lòng mình. Thật đáng ao ước, “Lạy Chúa, khi thức giấc, con được thoả tình chiêm ngưỡng Thánh Nhan!” – Thánh Vịnh đáp ca.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, đừng để thời gian, sức khoẻ và những mài mòn khiến ‘lửa’ trong con leo lét! Con sẽ ‘cháy lan’, cháy mãi, cháy cho các thế hệ, cả sau khi con đã hoá tro!”, Amen.

Lm. Minh Anh (Tgp. Huế)  

*************************************************************

Lời Chúa Thứ Tư Tuần XXXIII Thường Niên, Năm Lẻ

Sao anh không gửi bạc của tôi vào ngân hàng ?

✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Lu-ca.    Lc 19,11-28

11 Khi ấy, dân chúng đang nghe Đức Giê-su, thì Người kể thêm cho họ một dụ ngôn, vì Người đang ở gần Giê-ru-sa-lem và vì họ tưởng là Triều Đại Thiên Chúa sắp xuất hiện đến nơi rồi. 12 Vậy Người nói : “Có một người quý tộc kia trẩy đi phương xa lãnh nhận vương quyền, rồi trở về. 13 Ông gọi mười người trong các tôi tớ của ông đến, phát cho họ mười nén bạc và nói với họ : ‘Hãy lo làm ăn sinh lợi cho tới khi tôi đến.’ 14 Nhưng đồng bào ông ghét ông, nên họ cử một phái đoàn đến sau ông để nói rằng : ‘Chúng tôi không muốn ông này làm vua chúng tôi.’

15 “Sau khi lãnh nhận vương quyền, ông trở về. Bấy giờ ông truyền gọi những đầy tớ ông đã giao bạc cho, để xem mỗi người làm ăn sinh lợi được bao nhiêu. 16 Người thứ nhất đến trình : ‘Thưa ngài, nén bạc của ngài đã sinh lợi được mười nén.’ 17 Ông bảo người ấy : ‘Khá lắm, hỡi đầy tớ tài giỏi ! Vì anh đã trung thành trong việc rất nhỏ, thì hãy cầm quyền cai trị mười thành.’ 18 Người thứ hai đến trình : ‘Thưa ngài, nén bạc của ngài đã làm lợi được năm nén.’ 19 Ông cũng bảo người ấy : ‘Anh cũng vậy, anh hãy cai trị năm thành.’

20 “Rồi người thứ ba đến trình : ‘Thưa ngài, nén bạc của ngài đây, tôi đã bọc khăn giữ kỹ. 21 Tôi sợ ngài, vì ngài là người khắc nghiệt, đòi cái không gửi, gặt cái không gieo.’ 22 Ông nói : ‘Hỡi đầy tớ tồi tệ ! Tôi cứ lời miệng anh mà xử anh. Anh đã biết tôi là người khắc nghiệt, đòi cái không gửi, gặt cái không gieo. 23 Thế sao anh không gửi bạc của tôi vào ngân hàng ? Có vậy, khi tôi đến, tôi mới rút ra được cả vốn lẫn lời chứ !’ 24 Rồi ông bảo những người đứng đó : ‘Lấy lại nén bạc nó giữ mà đưa cho người đã có mười nén.’ 25 Họ thưa ông : ‘Thưa ngài, anh ấy có mười nén rồi !’ 26 Ông đáp lại : ‘Tôi nói cho các anh hay : phàm ai đã có, thì sẽ được cho thêm ; còn ai không có, thì ngay cái nó đang có cũng sẽ bị lấy đi.

27 ‘Còn bọn thù địch của tôi kia, những người không muốn tôi làm vua cai trị chúng, thì hãy dẫn chúng lại đây và giết chết trước mặt tôi.’”

28 Đức Giê-su nói những lời ấy xong, thì dẫn đầu các môn đệ, tiến lên Giê-ru-sa-lem.


 

Trăm hoa đua nở trên đất Bắc – Hoàng Văn Chí

Ba’o Dan Chim Viet

Tác Giả: Nguyễn Văn Lục

18/11/2025

Câu chuyện xảy ra đã 2/3 thế kỷ. Tưởng rằng đã cũ. Nhưng đọc lại nó thì như thể câu chuyện mới đây thôi.

Tập tài liệu này xét ra còn hữu ích về mặt lịch sử và văn học. Nhờ nó mà ta hiểu được tầm vóc của phong trào NVGP cũng như sức đề kháng, đấu tranh và mặt khác mức độ đàn áp khốc liệt của Hà Nội.

Nó là tiếng chuông cảnh báo và đòi hỏi tự do ngôn luận của một số giới trí thức nhà văn Hà Nội.

Nó mở đường cho những Dương Thu Hương, Phạm Thị Hoài đến Vũ Thư Hiên, Bùi Tín sau này.

Bên cạnh đó, người lãnh đạo uy tín và kiệt xuất của Phong trào NVGP trở thành nạn nhân bị đầy đọa cực kỳ dã man của chế độ cộng sản Hà Nội

500 nghệ sĩ, trí thức miền Bắc đi theo kháng chiến chống Pháp mà phần lớn là đảng viên cộng sản.  Nhưng kinh qua cuộc chỉnh phong và Cải cách ruộng đất một cách tàn bạo và sắt máu sau năm 1954 khi về tiếp thu Hà Nội. Điều gì đã xảy ra trước mắt họ và thực tế như thế nào?

Họ đã thất vọng và vỡ mộng.

Từ đó mở đầu cho giai đoạn của một phong trào xin ra khỏi đảng với những tên tuổi như Trần Dần, Tử Phác, Hoàng Cầm.

Và cuối cùng mở ra một cách lan rộng một phong trào Nhân Văn Giai Phẩm, mùa xuân năm 1956. Tiêu biểu qua hai câu thơ sau đây:

“ Dù một sợi tóc còn cứa vào Nhân phẩm.

Tôi còn hét to, dù khản tiếng, tàn hơi.”. Hai câu thơ tóm gọn tinh thần Nhân Văn Giai phẩm.

Bài viết này của tôi muốn nhìn lại và trân trọng giới thiệu cuốn Trăm Hoa Đua Nở Trên đất Bắc của cụ Hoàng Văn Chí. Người đã thu tập tài liệu và mãi đến năm 1959, ấn bản đầu tiên mới xuất hiện tại Sài Gòn.

Một chi tiết nhỏ đặt ra là cụ Hoàng Văn Chí vào Saigon đầu năm 1955, làm sao cụ có tài liệu về Trăm Hoa Đua nở?

Chúng ta cần biết rằng miền Nam không công nhận Hiệp Định Genève và Ủy Hội kiểm soát đình chiến. (Ủy hội này gồm ba thành viên là Gia Nã Đại, Ấn Độ và Ba Lan)

Nhiều phần cho thấy là họ đi lại giữa Bắc và Nam như cơm bữa. Và điều ấy cho phép Canada thường mang những tài liệu, báo chí miền Bắc vào miền Nam qua bộ Thông tin nhờ đó cụ Hoàng Văn Chí có cơ hội thu tập và viết : Trăm Hoa Đua Nở trên đất Bắc.

Phong trào NVGP vừa mở ra một viễn tượng tương lai đầy hy vọng và phấn khởi. Tuy nhiên qua tài liệu cũa Vũ Thư Hiên qua cuốn Đêm Giữa  Ban Ngày vốn là “người trong cuộc” nên hiểu rõ đâu là sự thật, đâu là  sự lừa dối.

Cộng thêm lời trần tình của Phùng Quán đã  dành ra ba ngày, ba đêm ở bên cạnh Nguyễn Hữu Đang cho thấy sự đối xử tàn tệ, dã man của cộng sản sau khi ra tù.

Điều đó giúp kẻ viết bài này hiểu ro thực chát đảng cộng sản là gi`? Họ đầy đọa một con người cho đến khi chết làm tôi càng xác tín rằng cộng sản là một thứ “trục của điều xấu” và không thể là điều gì khác.

Những nguyên nhân khách quan và chủ quan của cuộc nổi dậy của trí thức miền Bắc.

Nguyên nhân khách quan

Những nguyên nhân khách quan là tình hình biến chuyển quốc tế đã ảnh hưởng trực tiếp đến Bắc Việt.

Việc thứ nhất là việc hạ bệ Stalin của Krushchev.

Nội bộ về các cuộc thanh trừng tại điện Kremlin như hạ bệ Beria, lật đổ Malenkov và nhất là hạ bệ uy tín của Stalin mặc dầu Stalin đã chết. Lý do hạ bệ uy tín của Stalin là để làm khuây khỏa lòng dân Nga vốn đã bị khốn cực dưới thời Stalin. Việc đổ tội lên đầu Stalin là một kế sách xây dựng uy tín cho người kế vị và cũng là dịp để thanh trừng nội bộ..

Các đại biểu đã dự Hội nghị lần thứ 20 của Đảng Cộng Sản Liên Xô đã được chứng kiến và nghe những lời kết tội của Krushchev: như việc Stalin đã lưu dầy các dân  tộc thiểu số, thủ tiêu hàng vạn đảng viên đối lập, hàng ngàn sĩ quan Hồng quân. Krushchev đã vạch ra những ngu độn và sai lầm của triều đại Stalin. Krushchev đã chỉ ra những sai lầm trong bệnh sùng bái cá nhân.. Người cầm đầu phong trào là  Dundinsev đã viết bài:” Cơm áo không đủ”.

Cạnh đó, tình hình ở Ba Lan, Hung Gia Lợi.

Balan vốn có một truyền thống quốc gia rất mạnh nên phong trào chống Nga ở Balan bột phát trước tiên. Sau vụ Poznan (28-6-56), nhà cầm quyền Liên xô thấy sức mạnh của quốc gia này nên tìm cách đàn áp phong trào. Nhưng Krushchev đành cố gắng ve vuốt Ba Lan kể từ khi Gomulka được thả ra từ nhà tù được trở về.

Hung Gia Lợi.

Chỉ vài tháng sau, Sô Viết phải đối phó với cuộc nổi dạy của dân chúng Hung. Krushchev ra lệnh cho quân đội đàn áp. Và vụ Budapest trở thành vang dội khắp thế giới và có ảnh hưởng trực tiếp đến tinh thần dân chúng ở Bắc Việt cũng như  Đệ tam quốc tế ở khắp các nước chư hầu.

Ở Việt Nam, do các ảnh hưởng trên nên có chiến dịch sửa sai có nói đến “bệnh tôn sùng cá nhân” và “chính sách tập thể.”

Nạn nhân đầu tiên là sửa sai trong Cải cách ruộng đất bằng cách hạ bệ Trường Chinh và ông Hồ Viết Thắng và thả ra 12 ngàn đảng viên bị cầm tù vì bị quy lầm là địa chủ trong số đó có nhiều người bị lên án tử hình.

Việc sửa sai ấy đã tạo ra sự xung đột giữa các đồng chí đã bị tố sai để họ trả thù tạo ra sự xung đột giữa đảng viên “cũ” và đảng viên “mới”.

Phần các bần cố nông đã chót nghe lời đảng tố sai nay sợ bị rạch mồm, cắt lưỡi nên vội vàng tẩu thoát ra Hà Nội hoặc Nam Định.

Theo Vũ Thư Hiên, việc cải cách ruộng đất chỉ là cái vỏ ngoài cho một mưu đồ chính trị. Tất cả những khẩu hiệu ca ngợi nông dân: “ nông dân là quân chủ lực”, “ giải phóng nông dân” “ Tiêu diệt cường hào ác bá, đánh đổ địa chủ, phú nông” “ruộng đất về tay dân cày” “ nông dân vùng lên giành lấy chính quyền” chỉ nhằm củng cố vị trí cai trị đất nước của Đảng. Đảng cần tiêu diệt những người đi tiên phong trong cuộc kháng chiến chống Pháp là những người mang trong đầu tư tưởng bình đẳng được đề cao trong cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, vì thế, họ không phải, và không thể là những thần dân ngoan ngoãn. Cái mà Đảng cần .

Hơn nữa, mâu thuẫn ruộng đất hoàn toàn không phải là một lớp tay sai tuyệt đối trung thành, gọi dạ bảo vâng.

Cái gọi là Cải cách ruộng đất hoàn toàn không vì mục tiêu cải cách ruộng đất.

Không có, và không hề có về một cuộc điều tra nào về tình hình việc phân bổ ruộng đất trong xã hội, là điều tất yếu phải làm trước khi tiến hành cải cách ruộng đất.

Hơn nữa, mâu thuẫn ruộng đất hoàn toàn không phải là vấn đề nóng bỏng ở vùng giải phóng (vùng chính quyền kháng chiến) trong giai đoạn cả nước cần tập trung tinh thần và sức lực vào mục tiêu giành độc lập.

Đấu tố diễn ra liên miên, ngày một khốc liệt. Người dân cày dung dị hôm trước được Đảng phóng tay phát động vụt trở thành hung tợn, mặt bừng bừng khoái trá trong niềm vui hành hạ đồng loại.

Tôi kinh hoàng nhìn cảnh tượng không hiểu nổi. Nườm nượp lướt qua mắt tôi từng bày đàn người bị kích thích bởi mùi máu, hăm hở đi dưới lá cờ đỏ sao vàng không phải để chiến đấu với quân xâm lược mà với chính đồng bào mình.
Tại xã Ngô Xá, làng Ngò, Thanh Hóa, nơi có dinh cơ gia đình cụ cử Nguyễn Thượng Hiền. Người ta trói chặt hai tay rồi dong mẹ một người bạn tôi đi khắp làng chỉ vì bà trót dại nói điều gì đó mất lập trường hoặc không vừa lòng cán bộ giảm tô giảm tức. Tôi biết rõ bà là ai. Khi chiến tranh vừa bùng nổ, bà là Hội trưởng hay Hội phó Hội Liên Hiệp Phụ Nữ Thái Bình. Mất đất, làm nghề hàng xáo, buôn thúng bán mẹt. Chúng tôi nghe tiếng kêu khóc chạy tới thì thấy mấy anh du kích quen đang lôi xềnh xệch kéo bà đi. Hai tay bị trói giơ lên trời, bà xiêu vẹo bước sau họ, kêu gào thảm thiết : “ Ới cụ Hồ ơi, Cụ trông xuống mà xem người ta đối xử với con dân Cụ thế này đây.”

Ở một xã khác, một người đàn bà bị trói vào hai cây nứa bắt chéo, bên dưới là một đống lửa. “con mẹ ni là phú nông phản động, ngoan cố lắm, những người bâu quanh nhao nhao nói thế. Người đàn bà quằn quại mãi, tới khi ngất đi mới được người ta hạ xưống.

Cha một người bạn khác của tôi chỉ là một cán bộ quèn trong ngành giáo dục, nhưng hoạt động cách mạng từ trước 1945. Khi cuộc giảm tô, giảm tức bắt đầu, ông bị bắt vì tội là đảng viên Quốc Dân đảng. Ông thắt cổ tự tử để lại bức thư tuyệt mệnh: “ Oan cho tôi lắm, cụ Hồ ơi. Tôi trung thành với Cụ, với Đảng. Tôi không phản bội. Hồ Chí Minh muôn năm. ( Quốc Dân đảng được thành lập từ năm 1925, trước đảng cộng sản 5 năm cùng có mục tiêu chung là chống Pháp dành độc lập.)

Người ta vu cho bất cứ ai mà họ muốn giết là Quốc Dân đảng.

Trong một ngôi đình, tôi thấy người ta lấy gai bưởi cắm vào đầu ngón tay một cô gái. Có trời biết cô ta bị tội gì, có thể cô ta chỉ có một tội duy nhất là con địa chủ.. Cứ mỗi câu hỏi, những kẻ tra tấn lại nhấn những cái gai sâu thêm một chút làm cho cô gái rú lên vì đau, quằn quại trong dây trói.

Một cụ già tóc bạc phơ bị tròng giây vào cổ, lôi xềnh xệch trên đường như một con chó. Lũ trẻ làng rùng rục chạy theo sau vỗ tay reo hò, cười ngặt nghẽo. Tôi nhìn chúng rùng mình- những đứa trẻ này sẽ lớn lên với trái tim không phải của giống người?

Trich Vũ Thư Hiên, Đêm giữa ban ngày, trg 41-43)

Những nguyên nhân chủ quan.

Nhìn chung quanh mình, người trí thức cộng sản chỉ thấy đói khổ cùng cực. Chính bản thân họ bị bóc lột, trấn áp còn khốn khổ hơn trong thời kỳ chiến tranh.

Từ giai cấp tiểu tư sản, họ tụt xuống thành vô sản.

Từ địa vị lãnh đạo tư tưởng, họ tụt xuống cái mà Mao ngang nhiên gọi là:” không ích lợi bằng cục phân”.

Đời sống vật chất trong thời kỳ chiến tranh, họ đã đã phải bấm bụng nhịn đói, nhịn thèm. Nhưng nay đã hòa bình mà tình trạng vẫn vậy, không thấy thhay đổi.

Ông Phan Khôi khi trở về Hà Nội được bạn bè cũ đãi cơm có thịt gà.. Cầm miếng thịt gà lên, cụ nói đùa: “Chín năm nay, tao lại mới gặp mày.”

Câu nhận xét ấy đã trở thành giai thoại trên nhiều cửa miệng giới cầm bút.

Nhiều sự thật khác cũng đã được bóc trần.. .

Như tại tòa soạn báo Văn Nghệ, trong số 8 biên tập viên có vợ thì 6 người đã thất nghiệp hay bán thất nghiệp….Những trang giấy trắng đáng lẽ chỉ dùng làm thơ cũng đã bao lần trở thành  giấy xin việc… Những đơn ấy gởi đi rồi rơi vào im lặng, không nghe một tiếng trả lời.

Như trường hợp nhà thơ Hữu Loan nằm trong bóng tối của một gian nhà nhỏ ở ngoại ô Hà Nội không có tiếng vợ kêu con khóc. Hữu Loan, chỉ mơ ước có một ngọn đèn giàu để đêm đêm ngồi viết..

Hai năm sau hòa bình, chúng ta thấy nhiều nhà văn có tài bị buộc chặt vào địa vị bằng những sợi lụa có tẩm thuốc độc.

Trong khi những nhà văn thuộc giai cấp lãnh đạo như Nguyễn Công Hoan, Nguyễn Tuân, Nguyễn Đình Thi, Hoài Thanh, Xuân Diệu, Phạm Huy Thông, Trần Hữu Thước, Đặng Thái Mai, Hồ Đắc Di, Hằng Phương, Lương Xuân Nhị, Ngụy Như Kon Tum vv.. chỉ thấy họ ra các chỉ thị, các thông báo, các kế hoạch cho bọn quần chúng văn nghệ phải thi hành..

Trước thực trạng ấy, cụ Phan Khôi phân tích, có hai giai cấp văn nghệ.

Cấp trên là giai cấp lãnh đạo văn nghệ. Và giai cấp dưới là quần chúng văn nghệ.

Sự thực thì có nhiều người nói thẳng là có thứ “cai văn nghệ” và thứ “ cu ly văn nghệ” trong thực trạng người bóc lột người.

Và thực tế là một cuộc tranh đấu giai cấp, giai cấp thống trị, “ngồi mát ăn bát vàng” và một giai cấp bị trị, bị bóc lột đến tận xương tủy.

Nguyễn Công Hoan kể, khi sang dự Hội Nghị Văn Hóa Á Châu đã vào ở khách sạn Asoka là khách sạn nổi tiếng là nơi trú ngụ của các bậc đế vương trên thế giới.

Một thi sĩ dấu tên đã làm bài thơ mỉa mai, miệt thị sau đây đăng trong báo Văn Nghệ số 24 ra ngày 10-10-1957.

Ông “ Vỗ ngực”

Học thuật văn chương chửa sạch nghề

Tập tòe lên lớp cũng khen chê
Giáo điều khó nuốt lèn thô bạo

Lý luận không tiêu kéo nặng nề,

Tình cảm khô khan như củi gộc.

Phê bình nồng nặc tựa cơm khê

Anh em vặn lại cùng kỳ lý

Vỗ ngực ông giơ đảng chực lòe.

Tên “Lý trưởng văn nghệ” Nguyễn Công Hoan đã từng nằm ở khách sạn Asoka đã mắng cụ Phan Khôi là tên cu ly văn nghệ, Phan Khôi vốn đáng tuổi bố Nguyễn Công Hoan..

Nhân dịp thượng thọ 70 tuổi, giữa lúc ai ai cũng lảng tránh, cụ bèn làm một bài thơ để mừng kỷ niệm ngày thượng thọ của cụ với hai câu thơ như sau:

Lên 70 rồi mẹ nó ơi!

  Thọ ta, ta chúc nọ phiền ai..

Nguyễn Công Hoan ngay lập tức đáp trả đã làm một bài thơ họa lại như sau:

Nhắn bảo Phan Khôi khốn kiếp ơi!

Thọ mi, mi chúc chứ hòng ai.

Văn chương/Đù mẹ thằng cha bạc!

 Tiết tháo! Tiên sư cái mẽ ngoài

Lô dích, trước cam làm kiếp chó

Nhân văn, nay lại hít gì voi, Sống dai thêm tuổi cho thêm nhục,

Thêm nhục cơm trời, chẳng thấy gai.

Đại khái thì toàn bộ giai cấp mới đều có ngôn từ trịch thượng, giọng điệu đểu cáng và hèn hạ như vậy.

Trách chi mình Nguyễn Công Hoan…

Để đáp lễ, cụ Phan khôi  kêu gọi mọi người đứng lên làm “tổng vệ sinh” quét sạch lũ chúng:

Những người đã đánh bại xâm lăng

Đỏ bừng mặt vì những tên quốc sỉ

Ngay giữa thời nô lệ

Là người, chúng ta không ai biết cúi đầu.

Cụ Phan Khôi phẫn uất nên viết mạnh như sau:

Làm sao cũng chẳng làm sao

Dẫu có thế nào cũng chẳng làm chi,

Làm chi cũng chẳng làm chi

Dẫu có làm gì cũng chẳng làm sao”.

Họ còn ví những người trí thức như những người đàn bà đẹp để thấy mình bị lợi dụng, ruồng bỏ, khủng bố như cảnh Hồ Xuân Hương thuở xưa:

Chém cha cái kiếp lấy chồng chung

Kẻ đắp chăn bông, kẻ lạnh lùng.

Cụ Phan Khôi cũng ngán cảnh bị bỏ ngoài ra ngoài lề:

“Tuổi già thêm bệnh hoạn

Kháng chiến thấy thừa ta

Mối sầu như tóc bạc

 Hễ cắt lại dài ra.”

Tuy nhiên, xét tổng quát nói chung, sự phản kháng cũng vẫn chỉ là những tiếng than vãn, những lời oán trách gián tiếp vì không được đãi ngộ.

Vẫn thiếu một không khí đấu tranh thực sự, một sự phản kháng vùng lên đối mặt kẻ thù.

Xin nêu một trường hợp: Trường hợp bà Thụy An.

Tên thật của bà là Lưu Thị Yến. (1916-1989). Chồng bà là nhà báo Bùi Nhung. Có thời ông làm giám đốc đài phát thanh Hà nội. Bà có 7 người con, chỉ ly thân năm 1949. Lý do cuộc chia tay: bà Lưu Thị Yến có em gái là Lưu Thị Trạch có liên hệ mật thiết với ông Bùi Nhung nên bà Yến đã lặng lẽ nhường chồng cho em gái.

Bà từng là học trò Võ Nguyên Giáp, từ đó nảy sinh cũng là mối tình đầu của bà. Bà đã vào Nam sau trở ra Bắc và có mối liên hệ với ông Đỗ Đình Đạo, người của Quốc Dân Đảng. Sau Đỗ Đình Đạo đột tử khi bà Thụy An vắng nhà, người ta nghi ngờ do Thụy An đầu độc Đỗ Đình Đạo.

Sau này, mặc dù bà không liên hệ trực tiếp trong nhóm NVGP, vậy mà bà bị tù đầy lâu nhất cùng với Nguyễn Hữu Đang.

Phần Võ Nguyên Giáp đã im bặt không dám bênh vực bà.

Điều đó cho thấy tâm địa của cán bộ cao cấp trong đảng hèn nhát như thế nào?

Theo Vũ Thư Hiên viết trong Đêm giữa ban ngày, trang 36 như sau về trường hợp Phạm Văn Đồng không dám đứng ra bênh vực cho trường hợp  bố của Vũ Thư Hiên bị bắt: “  Việc tập thể quyết định , tôi làm gì được”.

Theo mẹ Vũ Thư Hiên thì:” Phạm Văn Đồng là người không tồi, không tệ bạc, nhưng ba phải vụng về và cực kỳ vô tích sự”.

Còn dưới mắt bà thì: “Ông Hồ Chí Minh coi như đã chết vào đêm cha tôi bị bắt.”

Phần Trường Chinh, dưới mắt bà, ông có an ủi vài câu, còn hứa hẹn điều này điều  kia, nhưng rồi ông chẳng làm gì hết.”.

Nhà văn Nguyễn Tuân, tác giả Vang bóng một thời đã có một nhận xét cay nghiệt nổi tiếng: “ “Nước ta là một pháp trường trắng. Không có đầu rơi, không có máu chảy, mà có người chết.”

Trong khi đó, Tố Hữu vẫn công khai, vênh váo như một tên thi sĩ cuồng si, vô liêm sỉ và khát máu với những câu thơ dơ dáy, nịnh bợ như:

Hoan hô Hồ Chí Minh

Cây hải đăng vô sản.

Bão táp chẳng rung rinh

Lửa trường kỳ cách mạng

Hoan hô sít ta lin

 Đời đời cây đại thụ

 Rợp bóng mát hòa bình

Hoặc là:

Chúng ta có bác Hồ

Thế giới: sít ta lin
Đảng ta phải mạnh to

Thế giới phải đỏ mình.

Ở một chỗ khác, Tố Hữu tỏ ra một tên hung đồ, khát máu:

Giết, giết, bàn tay, không phát nghỉ.

Cho ruộng đồng lúa tốt, thuế mau xong,

Cho đảng bền lâu, cùng rập bước chung lòng

Thờ Mao Chủ tịch, thờ sít ta lin bất diệt…

Phải chăng đó là sự nghiệp chói lọi của thơ văn Tố Hữu mà nếu ở miền Nam, thứ thơ văn  đó chỉ là rác rưởi vứt vào trong thùng rác?

Đến lượt Xuân Diệu tỏ ra không kém trò nịnh hót như Tố Hữu:

Mỗi lần tranh đấu gay go

Chúng con lại được Bác Hồ tới thăm

Nghe lời Bác dạy khuyên răn,

Chúng con ước muốn theo chân của Người

Chúng con thề nguyện một lời

Quyết tâm thành khẩn.. lột người từ đây”.

Phần người viết, chỉ muốn bước ra khỏi thứ văn chương xú uế này trong suốt khoảng thời gian từ 1950-1954 trong vùng cộng sản chiếm đóng với những tên cán bộ “Bốn Túi” (Bốn túi là những cán bộ cao cấp, cán bộ cấp dưới chỉ có hai túi).

Đến nỗi trong dân gian có câu: “ Phi bốn túi bất thành phu phụ.”

  • Cuộc Khởi nghĩa bắt đầu.

Lê Đạt, một nhà thơ trẻ nhất với chuyện Ông bình vôi trong đó có câu:“Những kiếp người sống lâu trăm tuổi. Y như một cái bình vôi.

Càng sống càng tồi

Càng sống càng bé lại.

Phải chăng ám chỉ Hồ Chí Minh?

-Trần Dần. ( 1924-1951).

Ông từng sáng tác cuốn “ Người người lớp lớp.. Nhờ cuốn sách này, ông được cử đi Trung Quốc để viết dẫn giải bằng tiếng Việt cho cuốn phim “Chiến thắng Điện Biên Phủ” do cán bộ Trung Cộng quay.

Nhìn rõ cảnh đất nước Trung Cộng, ông thất vọng vọng nên tuyên bố: Chớ nên theo đường lối văn nghệ Trung Quốc”.

Sau đó, ông tự ý xin ra khỏi đảng, ngang nhiên sống với người yêu không cần cưới xin.. Đảng tính trừng trị, nhưng thời kỳ đó còn có phong trào di cư nên đành chịu..

Nhưng bài của Trần Dần dài hơn 500 câu mới cho thấy sự khổ cực, khốn đốn của vợ chồng tác giả. Bài thơ bộc lộ cho thấy miền Bắc quá cực khổ. Khi về Việt Nam xảy ra một việc quan trọng.. Đó là việc Trần Dần lấy vợ, bất chấp sự cấm đoán của đảng. Trần Dần phải xin phép để được cưới vợ. Đảng đã giới thiệu nhiều cô gái, nhưng Trần Dần đều từ chối.

Khi hòa bình trở lại, tình cờ ông gặp một cô gái tiểu tư sản ở phố Sinh Từ, sống bơ vơ một mình, vì bố mẹ họ hàng cô đều di cư vào miền Nam không kịp mang theo..

Tên cô là Bùi thị Ngọc Khuê, sau có ba con với Trần Dần là Trần thị Băng Kha, Trần Trọng Văn và Trần Trọng Vũ.(họa sĩ)

Trần Dần xin phép, nhưng đảng không cho. Vì một lý do: Người con gái đó theo đạo Thiên Chúa. Trần Dần đã khuyên người con gái đó mang nhà cửa đất đai của bố mẹ để lại nộp cho “Ủy ban tài sản của những người vắng mặt” để hai người có thể yêu nhau trong khi thiên hạ ùn ùn đi vào miền Nam.

Xin trích một đoạn như sau:

Ta đi giữa trời mưa đất Bắc

Tai bỗng nghe những tiếng thì thầm

Tiếng người nói xen tiếng đời ầm ả.

Chúng phá hiệp thương!

Liệu có hiệp thương

Liệu có tuyển cử?

Liệu tổng hay chẳng tổng?

Liệu đúng kỳ hay chậm vài năm?

Ôi! Xưa nay Người vẫn tin Người.

Người vẫn kinh hoàng trước tương lai.

Vì chữ Người viết hoa nên cán bộ lãnh đạo vin ngay vào cớ đó để buộc tội cho Trần Dần có ý ám chỉ ông Hồ Chí Minh, vì xưa nay chữ Người viết hoa vẫn dành riêng cho ông Hồ.. Vì thế Trần Dần bị bắt, bị mang ra đấu tố trước một cuộc họp đông đảo của toàn thể các văn nghệ sĩ trong Hội các nhà văn.

 Trần Dần bị quy vào tội phản động.

Phẫn uất quá, Trần Dần cứa cổ tự tử, nhưng không chết, sau này vẫn mang một cái sẹo ở cổ. Cái sẹo đó như một minh chứng của sự áp bức văn nghệ dưới chế độ cộng sản miền Bắc.

Trên đây là những điều “tốt đẹp” được ghi lại về Trần Dần.

Nhưng cần nhớ rằng, truớc sau Trần Dần vẫn là người cộng sản nên cố hữu vẫn phải bày tỏ bề ngoài sự căm thù miền Nam để có thể sống còn.

Nhưng cụ Hoàng Văn Chí một cách nào đó, quá cẩn thận, đã xóa bỏ những khẩu hiệu, những đoạn sắt máu tuyên truyền, phê phán tiêu cực về miền Nam.

Như tội ác Mỹ Ngụy vv.. để độc giả miền Nam dễ chấp nhận.

Một điều khó hiểu nữa là ông Hoàng Văn Chi trong cuốn Trăm Hoa Đua Nở đã không có một dòng về Nguyễn Hữu Đang cũng như Trương Tửu.

Đặc biệt trong tập Trần Dần Ghi, ông đã công khai giọng điệu tuyên truyền chống miền Nam.

Tôi thấy không cần thiết phải ghi lại tập thơ này. Cho dù bất mãn thế nào với Đảng, sự sống còn, sự tồn tại của ông vẫn thuộc về đảng nên ông vẫn phải bám cái phao cứu chống miền Nam để tồn tại.

  • Giai phẩm mùa thu ra đời.

Ngày 29 tháng 8, 1956, Giai phẩm Mùa Thu, tập I ra đời.

Trong tập này, cụ Phan Khôi , một người không biết sợ đã giáng một đòn chí mạng vào đầu giai cấp lãnh đạo. Bài viết nhan đề như một phát súng lệnh:” Phê bình lãnh đạo văn nghệ”.

Bài viết đã gây một làn sóng dư luận khắp Hà Nội. Tờ Thời -Mới ví bài của cụ Phan Khôi như một “quả bom tạ” thả ngay giữa Hà Nội.

Có người còn nói rằng 90 năm mới lại nghe tiếng nói “sang sảng” của cụ Phan Khôi.

  • Mặt trận tấn công mở rộng.

Tính từ tháng tám 1956 trở đi, quần chúng văn nghệ đã làm chủ được dư luận và tình thế. Vì thế, để đấu tranh rộng rãi về chính trị nên cụ Phan, Nguyễn Hữu Đang và Trần Duy bèn cùng nhau đứng chung xuất bản một tờ báo. Đó là tờ Nhân Văn. Tờ Nhân Văn số I ra đời ngày 15 tháng 9. Giới sinh viên đại học hưởng ứng một cách sôi nổi cũng cho ra đời một tờ báo chống đảng lấy tên là Đất Mới.

Bên cạnh đó tờ Trăm Hoa của thi sĩ Nguyễn Bính cũng cho đăng một loạt bài mới đả kích đảng.

Phong trào chống đảng lan rộng đến tờ Thời- Mới là tờ báo hàng ngày trước đây vẫn tỏ ra ngoan ngoãn nay cũng đổi chiều.

Chưa kể các tờ Cứu-Quốc, cơ quan của Mặt Trận Tổ Quốc cũng nêu ra những tệ hại của chế độ trong Mục Sổ Tay.

Đặc biệt, tờ Nhân Dân, tờ Học Tập, cơ quan chính thức của Đảng cũng nêu ra nhiều “sai lầm” của Đảng.

Nói chung trong suốt ba tháng, nhân phong trào sửa sai, đồng loạt các tờ báo lên tiếng, phản bác về bệnh “quan liêu” , bệnh “bè phái lãnh đạo”, bổ những nhát búa chí mạng vào đầu giai cấp thống trị.

Phần các báo chí của Đảng thì bất đắc dĩ, thấy người ta nói đúng quá nên cũng phải hùa theo để cho thấy họ không ngoan cố và cho rằng những sai lầm đó chỉ là nhất thời và cá biệt, còn nói chung Đảng và nhà nước bao giờ cũng sáng suốt.

Nếu có sai lầm là do những cán bộ cấp dưới gây ra, còn cấp trên vẫn nắm vững chính sách.

Nhưng các báo chí đối lập không thèm đếm xỉa đến cấp dưới, mà vẫn chĩa mũi vào cấp lãnh đạo nên cuối cùng mới có Hồ Viết Thắng phải đứng ra đọc bản Tự-kiểm thảo về những sai lầm Về cải cách ruộng đất.

Võ Nguyên Giáp cũng thay mặt Đảng công nhận những “khuyết điểm”.

-Đảng đóng cửa báo Nhân Văn.

Đảng mở chiến dịch gọi đích danh báo Nhân Văn là tay sai của địch, là gián điệp phòng nhì của Mỹ, hoặc  tờ-rốt-kít..

Dựa vào các kiến nghị của mọi tầng lớp nhân dân.. Đảng ra lệnh cho Ủy ban Hà Nội đóng cửa tờ Nhân Văn và tịch thu mọi số báo đã phát hành.

Ngày 15 tháng 12, 1956, Hồ Chí Minh ký một sắc lệnh tước quyền tự do ngôn luận của báo chí và phải phục vụ nền vô sản chuyên chính.

Sắc lệnh cũng dọa phạt tù từ 5 năm đến khổ sai chung thân.

Sau lệnh đó, các tờ Trăm Hoa, Đất-Mới, Giai phẩm đều tắt tiếng và ra lệnh mồm về mấy điều cấm đoán:

  • Không được chống chính phủ, chống chế độ.
  • Không được xúi dục nhân dân và bộ đội làm loạn.
  • Không được tiết lộ các bí mật quân sự.
    -Không được đăng bài vở có hại đến thuần phong mỹ tục

Những nhà văn trẻ lên tiếng.
– Phùng Quán.

Phùng Quán là một sinh viên trẻ, hăng máu trước từng viết bài: “Chống tham ô lãng phí” đăng trong Giai phẩm Mùa Thu.

Lần này, Phùng Quán viết bài “Lời mẹ dặn” với những câu thơ đanh thép và sắc bén như sau:

Yêu ai cứ bảo là yêu

Ghét ai cứ bảo là ghét

Dù ai ngon ngọt nuông chiều

Cũng không nói yêu thành ghét

Dù cầm dao dọa giết

Cũng không nói ghét thành yêu.

Ông viết tiếp:

Tôi muốn làm nhà văn chân thật trọn đời

Đường mật công danh không làm ngọt được lưỡi tôi

Sét nổ trên đầu không xô tôi ngã

Bút giấy tôi, ai cướp giật đi

Tôi sẽ dùng dao viết văn trên đá.

Cuối cùng thì cũng vẫn cụ Phan Khôi xuất hiện với chuyện “Ông Năm Chuột” trong đó gián tiếp cụ ngụ ý giai cấp thống trị thuở xưa cũng như giai cấp thống trị ngày nay đều đầy rãy những thối nát, nhưng cố tình che đậy.

Sau bài của Phan Khôi, đảng bắt phải đình bản tờ báo ngay tức khắc, đồng thời bắt 304 văn nghệ sĩ đi chỉnh huấn cho đến khi tự kiểm thảo để nhận biết sai lầm của mình.

Tuy nhiên, có bốn người không chịu đi dự lớp chỉnh huấn: Phan Khôi, Trương Tửu, Thụy An và Nguyễn Hữu Đang.

Đảng ra lệnh bắt Nguyễn Hữu Đang và Thụy An giam vào Hỏa Lò.

Phần Trương Tửu bị cất chức giáo sư ở trường đại học Văn Khoa, vợ con và gia đình nhà vợ bị bao vây kinh tế, nghĩa là rút giấy phép buôn bán.

Phần cụ Phan Khôi đã 73 tuổi, lại vốn có nhiều uy tín trong nước, nhất là đối với trí thức miền Nam nên được để yên.. Tuy nhiên, bị “ treo dò” không được tiếp xúc với ai và cũng không ai được tới thăm hỏi.

Nguyễn Đình Thi còn kết án mấy người trong Nhân Văn Giai phẩm là “ cả vú lấp miệng em”.

Phần cụ Phan Khôi lại đưa ra số  Văn, 36 câu truyện Ông Năm Chuột ám chỉ xỏ xiên Hồ Chí Minh. Chính vì vậy báo Văn bị đóng cửa ngay tức khắc.

Sau này Phan Khôi còn bịa ra câu truyện Cây cứt lợn- cây cộng sản. Có nơi gọi là cây chó đẻ, rồi Cỏ cụ Hồ.

Phần Trần Dần nổi tiếng với bài Nhất Định thắng..

“ Tôi bước đi- không thấy phố_ không thấy nhà- chỉ thấy mưa sa trên mầu cờ đỏ..

Phùng Cung đóng góp với bài: Con ngựa già của Chúa Trịnh.

Ngụ ý của bài này là đả kích bọn văn sĩ trước kia có tài như Xuân Diệu, Hoài Thanh, Cù Huy  Cận, chỉ vì ham miếng đỉnh chung mà cam  tâm làm tôi mọi cho chế độ..

Nói chung bất cứ nhà văn nào đã dùng ngòi bút ca tụng chế độ mong vinh thân phì gia thì văn chương của họ không thể nào hay được.

  • Trường hợp Văn Cao

Văn Cao tên thật là Nguyễn Văn Cao, sinh năm 1920 trong một gia đình nghèo, ở Lạch Tray, gần Hải Phòng. Ngay từ nhỏ Văn Cao đã có khiếu về âm nhạc đã nổi tiếng hát hay.  Chẳng những ông nổi tiếng về nhạc mà còn có tài về họa và thơ.

Ông nổi tiếng với bài Tiếng quân ca và được Võ Nguyên Giáp mời lên chiến khu để khen thưởng và ban cho một khẩu súng lục.

Ông cũng là người đứng ra đánh nhịp cho  đoàn Thanh niên Xung phong hát bài Tiếng quân ca ở  Nhà Hát lớn. Ngay hôm ấy là ngày 19 tháng 8, 1945, Việt Minh cướp chính quyền ở Hà nội.

Sau khi Việt Minh lên nắm quyền, Văn Cao được cử làm Thường vụ hội Văn hóa Việt Nam.. Ông làm thêm bài Không-quân Việt Nam và Hải quân Việt Nam.

Lúc này danh tiếng ông nổi như cồn lên đến tột bực. Ông giao thiệp với ông chủ nhà in Rạng Đông. Cô con gái chủ nhà in Rạng Đông phải lòng người nhạc sĩ tài hoa và hai người lấy nhau.. Vi phạm tội lấy con gái tư sản nên bị Đảng bỏ rơi..

Kháng chiến bùng nổ, Văn Cao chạy lên Lào Cay, sau về Tuyên Quang rồi mở một tiệm Cà phê ở phố Yến, thuộc Vĩnh Yên.

Trong thời gian này, ông sáng tác được Trường Ca Sông Lô và được kết nạp vào đảng.

Sau Hòa bình, Văn Cao phụ trách ban nhạc ở đài phát thanh ở Hà Nội.. Năm 1956, ông tham gia phong trào Nhân Văn giai phẩm với hai bài thơ: Anh có nghe không? Và bài Những ngày báo hiệu mùa xuân…Ông đã bị Xuân Diệu vu khống chính trị viết một bài: Những tư tưởng nghệ thuật của Văn Cao tố cáo Văn Cao là” con người phản phúc, hai mặt giả dối như con mèo, là một tên phù thủy toan dùng âm binh để chọi nhau với Đảng”.

Theo nhà văn Vũ Thư Hiên thì Văn Cao  còn:” là tên đầu sỏ trí thức mưu toan đoạt quyền lãnh đạo của Đảng”. Cho nên toàn bộ vụ Nhân Văn Giai Phẩm chỉ là trò cờ gian bạc lận.

Bản thân Văn Cao từng tâm sự với Vũ Thư Hiên như sau: “

Hồi ấy, văn nghệ sĩ còn tin Đảng lắm, còn yêu Đảng lắm. Gì thì gì, Đảng vẫn là Đảng của mình, cậu hiểu không? Là ruột thịt của mình. Nhưng là trí thức, bọn mình không quen, không thích tin mù quáng. Bọn mình thấy xã hội có những khuyết tật, những cái cần sửa chữa. Mới lên tiếng cảnh báo  Đảng cầm quyền thì phải đề xuất với Đảng, chứ còn đề xuất với ai?

Trích Vũ Thư Hiên Đêm giữa ban ngày, trang 567)

Những ngày báo hiệu mùa xuân là một đoạn  trong bài thơ dài: Những người trên cửa biển in trong tập thơ của 4 người: Hoàng Cầm, Lê Đạt, Văn Cao, Trần Dần do nhà xuất bản Văn Nghệ phát hành.

Nói chung, mặc dầu Văn Cao nổi tiếng và thành công, nhưng cuộc sống suốt đời vẫn lầm than, túng thiếu nếu so với Phạm Duy ở miền Nam thì khác nhau một trời, một vực.

Khi chết, đám tang Văn Cao, Phùng Quán, Trần Dần, Trần Đức Thảo đều được tổ chức tương đối trọng thể mặc dầu chỉ là bề ngoài.

Xét cho cùng, tiếng nói của của những trí thức trong NVGP cho đến ngày Nguyễn Hữu Đang mất, 8/2/2007 vẫn bị ngăn chặn và kiểm soát.

Trường hợp Nguyễn Hữu Đang, biểu tượng chống đảng nói thay cho một lời kết luận

Nguyễn Hữu Đang (1913-2007)

(Xin tóm lược bài viết và phỏng vấn của bà Thụy Khuê).

Nguyễn Hữu Đang là một người trí thức đấu tranh cho tự do dân chủ hàng đầu và là cột trụ của phong trào NVGP.

Nguyễn Hữu Đang bị bắt, bị cầm tù trên trại Hà Giang, rồi bị quản thúc tổng cộng 59 năm, từ tháng 4 năm 1958 đến tháng 2 , năm 2007 đến khi ông mất.

Ông hoạt động và tham gia Mặt trận Dân chủ Đông dương cùng với Trần Huy Liệu, Nguyễn Đức Kinh cùng với Đặng Xuân Khu tức Trường Chinh.

Ông cũng là người được Hồ Chí Minh tin tưởng giao cho trọng trách tổ chức ngày lễ đài ngày 2/9/1945. Mà theo Nguyễn Hữu Đang kể lại: ông cụ giao cho tôi một mình, về rồi tập hợp một số anh em, phương tiện chỉ có hai bàn tay trắng, một đồng xu không có, một ki lô gỗ, ki lô xi măng cũng không có thì làm thế nào bây giờ trong hoàn cảnh khó khăn như vậy..

Và chỉ có 4 ngày, ông vận động hội Truyền Bá Quốc ngữ, hội Văn hóa Cứu quốc và hội Hướng đạo sinh, cả ba dưới quyền điều khiển của ông..

Nguyễn Hữu Đang đã thành công trong việc quy tụ hơn nửa triệu người ở các thành phần dân tộc khác nhau  của mọi thành phần đến Ba Đình dự Ngày Độc Lập 2/9/45.

Đó là thành công không nhỏ của Nguyễn Hữu Đang.

Từ năm 1938-1945 ông hoạt động trong Hội Truyền Bá Quốc Ngữ với nhiều chức vụ như Ủy viên ban Trị sự Trung ương, trưởng ban cổ động.vv tiếp tục hoạt động chống nạn mù chữ.

1945-1946 giữ các chúc vụ Thứ trưởng bộ Thanh niên, chủ tịch  Ủy Ban Vận Động Mặt Trận Văn Hóa.

Ông hoạt động trong NVGP từ tháng 9/1956 với Nhân Văn, số 1 và chấm dứt với Nhân Văn số 6 và bị đình bản tháng 12/56.

Tháng tư/1958, Nguyễn Hữu Đang bị bắt trên đường vào miền Nam.

Ngày 19/1/1960, ông bị đưa ra tòa án cùng với bà Thụy An, Trần Thiếu Bảo, Phan Tại và Lê Nguyên Chí…

Bị kết án 15 năm tù, 5 năm mất quyền công dân về tội: phá hoại chính trị.

Từ Hỏa Lò chuyển lên Yên Bái, rồi trại Hà Giang.

1973 được thả cùng với Thụy An, diện” Đại xá chính trị phạm trong Hiệp định Paris” và bị quản chế ở Thái Bình.

Sau này, theo Nguyễn Huy Tưởng:

Nguyễn Hữu Đang tiêu cực. Ở đâu cũng thấy không vừa ý. Người có caractère, ở đâu cũng ảnh hưởng tới anh em. Với những tư tưởng rất là nguy hiểm, điển hình cho một chiến sĩ làm cách mạng bất mãn.”

Nguyễn Hữu Đang đã chọn đúng thời cơ.

Vị thế của Trường Chinh và đảng cộng sản yếu đi sau chiến dịch cải cách ruộng đất đẫm máu. Ngoai nước, việc hạ bệ Staline ở Đại hội XX ở Liên Xô là nguyên cớ cho cho những khuynh hướng tranh đấu cho tự do dân chủ có cơ hội hành động.

Nguyễn Hữu Đang với tài tổ chức và hùng biện trong lớp học 18 ngày, đã chiếm được cảm tình và lòng tin của giới trí thức và văn nghệ sĩ cấp tiến..

Vì vậy, ông nắm lấy cơ hội và đứng ra tổ chức NVGP với những người bạn từng hoạt động trong kháng chiến như Trương Tửu, Trần Thiếu Bảo, Lê Đạt, Hoàng Cầm đã làm giai phẩm mùa Xuân..

Vai trò chủ động của Nguyễn Hữu Đang đã được nhiều người chấp nhận: “Nếu không có Đang, không ai có thể tập hợp anh em được.. Sẽ không có tham luận với những đề nghị: gặp Trung ương, ra báo .. mà cũng không có tờ Nhân Văn.

Mạnh Phú Tứ coi Đang như tên đầu sỏ :

Hắn lẩn mình và rút lui vào bí mật. Suốt bốn số báo đầu, người ta không thấy bài nào ký tên Nguyễn Hữu Đang.. Nhưng chính hắn là linh hồn của tờ báo.. Hắn tìm tiền, kiếm giấy, thu xếp việc ấn loát và viết bài, nhưng lại ký tên người khác.. Hắn che lấp những nguồn tài chính, những kẻ cung cấp phương tiện bằng hình thức dối trá là nêu danh những người góp tiền in báo, có một nhân lên mười. Hắn còn họp hành bí mật với những nhà văn chông Đảng, với những người tư sản và trí thức cũng đang muốn lợi dụng thời cơ để phất lên lá cờ chính trị.. Hắn luôn luôn bàn mưu, lập kế với bọn Trương Tửu.. Hắn đã trở thành một thứ lãnh tụ của một bọn người cơ hội có âm mưu chính trị.”

Kết luận Nguyễn Hữu Đang là một khuôn mặt, văn hóa và đấu tranh trên trường chính trị ở Việt Nam. Một người theo Đảng từ năm 16 tuổi nên hơn ai hết, ông hiểu rõ quy luật tuân thủ của một cán bộ cộng sản. Nhưng ông đã tự mình  đứng ra ngoài trật tự ấy. Nhưng ông vẫn luôn luôn giữ vị trí tự do hành động cũng như tư tưởng của mình.

Nhưng cuối cùng thì Nguyễn Hữu Đang đã thất bại.. Sự thất bại của Nguyễn Hữu Đang cũng là sự thất bại CHUNG CỦA MỘT DÂN Tộc Và hậu quả của sự thất bại ấy còn kéo dài cho đến bây giờ..

Nó cho thấy Nước Việt Nam cho đến thế kỷ XXI vẫn còn chưa nhận ra được mình để thực hiện những quyền cơ bản và tất yếu nhất của con người mà đầu tiên là quyền Tụ Do tư tưởng.

Sụ thất bại của Nguyễn Hữu Đang cũng là sự thất bại của Phong trào NVGP dưới cái nhìn của Phùng Quán lúc cuối đời.

Ra khỏi nhà tù nhỏ với 15 năm lưu đầy từ trại giam này đến trại giam khác, cuối cùng Nguyễn Hữu Đang cũng được thả ra. Tuổi đã sấp xỉ 80, về Thái Bình, không nhà, không cửa, không vợ con, không việc làm.

Nhà văn Phùng Quán, ngày 26 tết, xin tiền vợ quyết đi thăm Nguyễn Hữu Đang ở quê hương Thái Bình. Hỏi thăm nhiều nơi, nhiều người, không ai biết Nguyễn Hữu Đang ở đâu. Cuối cùng cũng tìm ra chỗ ở của Nguyễn Hữu Đang. Ông đang tá túc tại trường Phổ thông cấp I, II xã Vũ Công. Ông Đang ở gian đầu hồi cái nhà bếp của khu tập thể giáo viên, trước mặt là ao cá bác Hồ của xã. Một cô giáo chỉ: Bác ấy đang ngồi ở bực cầu ao kia kìa. Tôi đi vòng quanh, lặng nhìn anh. Đầu anh đội cái mũ cối méo mó, khoác cái ruột áo bông thủng be bét, quần lao động màu cháo lòng, hai ống chân ôm vòng hai dây cao su đen, nom như vòng cùm sắt, chắn hẳn để nhét hai ống quần vào đó chống rét, lưng anh khòng hình chữ C viết nghiêng…

Tôi chợt nhớ cách đây rất lâu, tôi được nghe những người cùng thời với anh kể. Hồi Mặt trận Bình Dân, Nguyễn Hữu Đang là cán bộ Đảng được cử ra hoạt động công khai, ăn vận sang trọng như công tử của Hà thành, thắt cà vạt đỏ chói, đi khắp Trung, Nam Bắc diễn thuyết, oai phong hùng biện, tuyên truyền cách mạng. Mỗi lần cách mạng cần tiền để hoạt động. Nguyễn Hữu Đang có thể đến bất kì nhà tư sản Hà nội nào giàu có vay vàng và tiền. Mà những người này trao vàng, tiền cho anh đều không đòi hỏi một thứ giấy tờ gì, vì họ tin sâu sắc rằng trao tiền cho anh là trao tận tay cho cách mạng.

Và bây giờ, anh ngồi đó, gần 80 chục tuổi, không vợ, không con, không cửa, không nhà, lưng khòng chữ C viết nghiêng, tỉ mỉ cọ rữa những viên gạch vỡ- chẳng hiểu để làm gì- như người bõ già trong truyện Hương Cuội của NguyễnTuân.

Nguyễn Hữu Đang nhận ra tôi hỏi: Chú về đây từ lúc nào thế? Hai anh em chúng tôi ôm chặt nhau giữa bậc cầu ao và cả hai  gương mặt già nua đẫm lệ.

Cái chái bếp căn hộ độc thân của anh rộng khoảng 5 mét vuông chặt kín những tư trang đồ đạc. Mấy cây sào ngọn tre gác dọc ngang sát mái, treo đến cả chục cái khăn mặt rách xơ như giẻ lau bát, áo may ô thủng nát, quần lao động vá víu. Cặp quần đeo lủng lẳng một chùm lục lạc làm bằng vỏ hộp dầu cao Sao Vàng xuyên thủng buộc dây thép, bên trong có hòn sỏi nhỏ. Đụng vào, chùm lục lạc rung lên leng keng, nghe rất vui tai.

Sau đó, tôi được anh giải thích chùm lục lạc. Đi lại trong đường làng, những đêm tối trời, anh thường bị những thanh niên đi xe đạp, xe máy phóng ẩu đâm sầm vào làm anh ngã trẹo tay, sẩy gối. Học tập sáng kiến của các đồng bào dân tộc ở Việt Bắc, treo mõ vào cổ trâu-trâu gõ mõ, chó leo thang, anh Đang chế chùm lục lạc đeo vào cạp quần trên đường vắng, báo hiệu có nghe tiếng lục lạc loong coong ngang thắt lưng tự nhiên cảm thấy đỡ cô độc.

Chính giữa gian trái có kê cái tủ gỗ tạp nhỏ, hai cánh mọt ruỗng không khép kín lại được, khóa một chiếc khóa lớn như khóa nhà kho. Trên nóc tủ, xếp một chồng mũ cối, mũ vải, mũ lá mà ở Hà nội người ta thường quẳng vào đống rác. Cạnh tủ là một cái giường cá nhân, bốn chân giường được thông đỡ bằng bốn chồng gạch. Trên giường một đống chăn bông rách thủng và một xấp quần áo cũ làm gối.. Sát chân giường kê một chiếc bàn siêu vẹo chỉ có hai chân, hai chân kia được thay bằng hai sợi dây thép buộc treo vào tường.

Anh nói giọng Lão Trang: Một cái bàn bốn chân là một con vật, khi nó chỉ còn hai chân, nó là một con người.

Trên mặt bàn xếp kín các chai lọ, vỏ đồ hộp. Dưới gầm bàn là mấy chục đôi dép cao su hư nát, đút quai, được bó thành tùng bó, hai cái vại muối dưa rạn nứt, sứt miệng, một đống bản lề như đống sắt vụn, đinh cong queo, màu dây thép han rỉ.

Hai cái vại tôi nhặt về cọ rửa sạch sẽ, lật đít lên làm thành cái ghế ngồi vừa vững chắc lại vừa mát. Chú ngồi thử xem, có khác gì ngồi trên đôn xứ thời Minh.Tất cả những đồ lề đó được phủ lên một lớp bụi lúc tôi bước vào gian buồng mờ mịt khói.

Anh dọn ra cái đĩa rồi chọn  ra hai cát bát hương đậy viên gạch vỡ gắp ra năm sáu viên gì đó tròn tròn, đen xỉn nom rất khả nghi.. Anh chỉ vào một đĩa, giới thiệu thực đơn( Đĩa nay là chả cóc, đĩa này là chả nhái). Nhờ ăn hai thứ đặc sản nay mà tôi rất khỏe. Còn khỏe hơn cả chú.

Anh giải thích: Giờ này các cô giáo nấu ăn, bếp tập thể lẫn với khói, cái mũi được bồi dưỡng. Tôi đã trộn rơm với bùn trát những khe hở sát mái, nhưng khói vẫn cứ lọt sang. Anh cười: Chịu khói một chút, nhưng cũng có cái lợi, thỉnh thoảng được ngửi mùi xào nấu lẫn với khói, cái mũi được bồi dưỡng.

 Trong việc dở nào cũng có việc hay và ngược lại.

Tôi nói: để em đạp xe ra chợ mua cái gì về ăn..

Thôi khỏi cần, chú về chơi hôm nay là rất gặp may. Sáng nay, tôi vừa chế biến được một mẻ thức ăn vô địch. Chú nếm rồi sẽ biết. Cơm cũng có sẵn rồi. Tôi mới nấu vào lúc sáng ủ vào lồng ủ rơm còn nóng hổi.

Ba năm trở lại đây, tôi phải ăn cơm nhão., nếu ăn cơm khô thì bị nghẹn..Tôi nấu cơm với nước vo gạo nên rất bổ.. Chẳng là các cô giáo thường bỏ phí nước vo gạo. Tôi đưa cho các cô cái chậu, dặn đổ nước vo gạo vào đấy cho tôi, để tôi chắt ra nấu lẫn với cơm.. Tinh túy của gạo là nằm trong nước vo, bỏ đi thật phí phạm.

Anh nói rồi anh xăng xái lấy chùm chìa khóa buộc chung với chùm lục lạc, mở khóa tủ tìm chai rượu. Tôi liếc nhìn vào mấy ngăn tủ, những xấp chai lọ, vỏ đồ hộp, vỏ lon bia và nhiều chồng các loại bao thuốc lá. Anh lúi húi tìm một lúc khá lâu rồi mới lôi ra được chai rượu cam còn già nửa. Đây rồi, bây giờ già hóa ra lẩm cẩm. Để chỗ này lại hóa ra tìm chỗ khác.

Tôi mỉm cười nói: nhìn anh cứ tưởng anh là một nhà quý tộc Nga thời Sa Hoàng. Tự tay tìm thứ rượu quý cất giữ 100 năm  trong hầm rượu để đãi khách quý.

Tôi chỉ những chồng bao thuốc lá nói: Anh chơi sưu tập những bao thuốc lá à?

Ông gọi những bao thuốc lá ngoại là hàng Đối Lưu.

Ông Đang đổi những bao thuốc lá ngoại cho lũ trẻ mà ông gọi là lực lượng quần chúng, và lũ trẻ bán cho ông những con cóc, con nhái. Đổi ba số lấy ba  con cóc hoặc năm con nhái. Bởi vậy tôi mới nói là hàng Đối lưu. Chú hiểu chưa. Mỗi tháng, tôi chỉ cần ba, bốn chục cái vỏ bao là thừa chất đạm, mà là loại đạm cao cấp. Chú ăn thịt cóc của của tôi rồi thấy các thịt khác đều nhạt hoét…

Anh rót rượu ân cần chọn viên chả bỏ vào bát tôi, âu yếm, trân trọng làm tôi ứa nước mắt.

Thấm thoát như thế mà đã 47 năm trôi qua.. Anh còn nhớ như in ngày hôm đó..Tại sao tôi nhớ, vì đó là thời khắc lịch sử, 28 tháng tám, phải được tính từng phút một. Năm đó, tôi bước vào tuổi băm ba. Chính phủ cách mạng lâm thời họp tại Bắc Bộ phủ.. để quyết định ngày ra mắt quốc dân đồng bào… Hôm đó, tôi có việc cần giải quyết gấp nên đến nơi thì phiên họp vừa giải tán. Vừa bước lên mấy bậc thềm thì cụ Nguyễn Văn Tố từ trong phòng họp đi ra. Cụ mừng rỡ chụp lấy tay tôi nói: anh vào ngay đi, cụ Hồ đang đợi anh trong đó. Tôi theo cụ Tố vào trong. Đó là lần đầu tiên, tôi được gặp mặt ông cụ. Ông cụ ngồi ở ghế tựa, mặc bộ quần áo chàm, tay chống lên ba toong. Cụ Tố kéo tôi lại trước mặt cụ, giới thiệu: “ Thưa  cụ, đây là ông Nguyễn Hữu Đang, người mà phiên  họp quyết định cử làm Trưởng ban tổ chức ngày lễ.. Cụ Hồ nhìn tôi một lúc với cặp mắt rất sáng, cặp mắt mà sau này thần dân cả nước đồn rằng có bốn con ngươi..- như muốn cân nhắc đánh giá người mà cụ quyết định giao trọng trách. Cụ Hồ hỏi tôi với giọng Nghệ rất gần giọng cụ Phan Bội Châu mà có lần tôi đã được nghe. Chính phủ lâm thời quyết định làm lễ ra mắt quốc dân đồng bào vào ngày mồng hai tháng chin. Chú có đảm đương được việc tổ chức buổi lễ không? Tôi tính rất nhanh trong đầu, tháng tám có 31 ngày, như vậy là chỉ còn bốn ngày thôi. Tôi suy nghĩ cân nhắc từng phút hình dung ra tất cả những khó khăn mà tôi phải vuợt qua trong khi mình chỉ có hai bàn tay trắng.. Tôi nói với cụ Hồ: Việc cụ giao là quá khó, vì gấp quá rồi.

Cụ Hồ nói ngay, có khó thì mới giao cho chú.

Cụ nói thế khiến tôi bừng bừng khí thế muốn lập lên được những kỳ tích.

Tôi đứng dạy, thưa cụ, vậy con xin nhận nhiệm vụ.. Con xin hứa cố gắng hết sức để hoàn thành nhiệm vụ.

Cụ Hồ dáng bộ rất vui vẻ…

Cụ Hồ đứng dạy bắt tay tôi: thế thì chú ra về bắt tay ngay vào việc..

Nghĩ thế nào, tôi quay lại. Cụ Hồ hỏi, chú còn cần gì nữa? Thưa cụ để hoàn thành trọng trách, xin cụ trao cho con một quyền. Quyền gì chú cứ nói đi. Quyền được huy động tất cả những gì cần thiết cho buổi lễ về người cũng như về của.. Được rồi, tôi trao cho chú cái quyền đó. Nếu ai hỏi huy động theo lệnh của ai? Cho phép chú được trả lời theo lệnh của chủ tịch Hồ Chí Minh.

Công việc đầu tiên là tôi thảo  một công văn, anh vừa nói vừa gắp thêm mấy viên chả cóc trong bát hương..rồi kể tiếp.. Nội dung như sau: ngày mồng 2 tháng 9, năm 1945 Chính phủ Cách mạng Lâm thời sẽ làm lễ ra mắt quốc dân đồng bào, tuyên ngôn độc lập tại vườn hoa Ba Đình. Đồng bào được mời đến hội quán Trí Tri, phố Hàng Quạt gặp ban tổ chức. Thông cáo được gửi ngay tới tất cả báo chí hằng ngày với hàng tít thật lớn chạy hết trang báo..Người đến chật Hội quán. Người ghi tên vào các công tác, người góp tiền, góp vàng, góp vải vóc, gỗ ván. Nhiều người từ chối không lấy giấy biên nhận..Biết bao anh hùng, liệt nữ đóng góp cho nền độc lập của dân tộc đâu có lấy giấy biên nhận.. Tôi mời mọi người dự cuộc họp chớp nhoáng và đưa ra ý kiến: Việc cần thiết trước tiên là phải dựng một lễ đài Độc Lập thật đẹp, thật lớn, thật uy nghi..xứng đáng với ngày lịch sử trọng đại này tại trung tâm vườn hoa Ba Đình để chính phủ lâm thời đứng lên ra mắt. Một người chạc ba mươi tuổi, ăn mặc lối nghệ sĩ bước ra nói: Tôi là họa sĩ Lê Văn Đệ, tôi xin tình nguyện nhận việc dựng lễ đài.. Trưa nay, tôi sẽ mang bản phác thảo lễ đài đến ban tổ chức xem xét. Tôi bắt tay họa sĩ nói: Tôi được biết tên tuổi anh từ lâu và cũng nhiều lần được xem tranh của anh.. Tôi xin thay mặt Ban tổ chức hoan nghênh việc đóng góp của anh.

Nhưng lễ đài là một công trình kiến trúc tuy dựng gấp rút, tạm thời, nhưng phải đặt những tiêu chuẩn không thể thiếu của nó như sự vững chắc, sự hài hòa công trình với tổng thể. Nói ví dụ nếu như không vững chắc, nó đổ xụp xuống thì ngày lễ coi như thất bại. Bởi vậy cần một kiến trúc sư phối hợp với anh. Một người trẻ tuổi ăn mặc chỉnh tề từ trong đám đông bước ra tự giới thiệu: Tôi là kiến trúc sư Ngô Huy Quỳnh cùng hoạt động trong hội Văn Hóa Cứu Quốc với anh Phạm Văn Khoa. Hôm qua được anh Khoa cho biết ý đồ của Ban tổ chức . Tôi đã vẽ xong bản đề án thiết kế lễ đài. Anh Quỳnh trải cuốn giấy can cầm sẵn trên tay trải lên mặt bàn. Đó là toàn cảnh lễ đài Độc Lập mà sau này chú được nhìn thấy trên báo chí. Bản vẽ thật đẹp, thật chi tiết tỉ mỉ. Lễ đài với tổng thể vườn hoa Ba Đình vị trí dựng lễ đài, chiều cao, chiều rộng, mặt bằng, mặt cắt ngang, cắt dọc, độ lớn các xà gỗ, tổng diện tích mặt ván ốp lát..

Sau khi nghe anh Quỳnh thuyết trình, tôi xem xét cân nhắc rồi đặt bút ký duyệt bản thiết kế, đóng dấu ban tổ chức. Sau đó,  tôi nói với hai anh Lê Văn Đệ và Ngô Huy Kình là Ban tổ chức quyết giao việc này cho hai anh.(Các anh cần gì, chúng tôi cố lo chạy đầy đủ. Hiện nay, chúng tôi có một kho với bảy ngàn thước len đỏ, cần dùng bao nhiêu, các anh cứ lấy mà dùng).

Lễ đài phải được dựng xong trong vòng 48 giờ. Đúng 5 giờ sáng ngày mồng 2 tháng 9,  tôi sẽ đến nghiệm thu. Chúc các anh thành công.

Sáng ngày 31/tháng 8, tôi đến Bắc bộ phủ gặp cụ Hồ như đã chỉ thị. Sau khi nghe tôi bá cáo ngắn gọn, đầy đủ mọi việc có liên quan tới ngày lễ. Cụ nói giọng hết sức nghiêm trọng: “ “Chú phải nhớ ngày 2/9 tới sẽ là một ngày lịch sử. Đó là khép lại  cuộc cách mạng  tháng Tám và ngày khai sinh nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa”,

“ Ông Đang ơi, ông Đang ơi, tiếng con nít gọi nheo nhéo  ngoài cửa cắt ngang câu truyện của anh… Tôi nhìn ra thấy hai chú bé chạc 9, 10 tuổi, mỗi chú cầm một cành tre thõng thượt một con rắn nước, mình đầu cành tre, đầu bị đập nát còn rỉ máu một con rắn nước, mình nhỏ bằng chuôi dao: “ Ông có đổi rắn nước không ạ?

Anh Đang bỏ đũa bước ra cửa, xem xét cẩn thận hai con rắn nước rồi nói. “ Các cháu định đổi như thế nào?. “chúng cháu xin mỗi con rắn hai cái vỏ bao ba số.”.. “ Các cháu đừng giở thói bắt chẹt”. Giọng nói và dáng bộ của anh đã chuyển sang giọng dịch vụ đổi chác. Mỗi con rắn này chỉ giá trị bằng hai con cóc. Nhưng thôi thì ông cũng đành chịu thiệt vậy. Mỗi con một vỏ bao ba số, các cháu có đổi thì đổi, không đổi thì thôi… Hai chú bé ngần ngừ một lúc rồi nói: chúng cháu đổi ạ. Anh quay vào, mở khóa tủ, chọn lấy ra hai cái vỏ bao ba số, đưa cho mỗi chú một chiếc. và cầm lấy hai con rắn. Hai chú bé cũng quan sát cẩn thận hai cái vỏ bao không kém ông Đang xem xét hai con rắn. Một chú nói:” Ông đổi cho cháu cái vỏ bao khác.., cái nay bên trong không có tờ giấy vàng. Anh cầm lấy cái vỏ bao xem lại cười. Được ông sẽ đổi cho bao khác. Sau này chú mà làm cán bộ thu mua thì nhà nước không phải chịu thua thiệt.

Anh cầm hai con rắn bỏ vào cái rổ con ở góc nhà, mặt tươi hẳn lên như người buôn bán vừa vớ được món hời. “ Thịt rắn còn bổ hơn thịt nhái, tối mai tôi sẽ đãi chú món rắn om riềng mẻ.

Tôi ở chơi với anh Đang ba ngày, thuê một anh phó nháy ở xã rên chụp mấy pô ảnh làm kỷ niệm.

Bữa cơm tiễn tôi, anh có vẻ mặt hơi buồn, vừa dùng đũa tém tém mấy khúc rán om mặn chát muối trong đĩa, anh vừa nói: Hiện nay tôi đang cố gắng hoàn thành thiên hồi ký thuật lại tất cả những gì có liên qun đến thế sự, kể từ khi bước chân vào con đường hoạt động cách mạng cho đến những năm tháng gần đây..Trong hồi ký, tôi sẽ đề cập đến những việc mà từ trước tới nay tôi chưa hề tiết lộ với ai. Ví dụ như bản thảo “Tuyên ngôn Độc lập”, nhưng không kịp, vì bản chính đã đưa đi in mất rồi. Là Trưởng ban tổ chức ngày lễ, tôi phải phụ trách việc in ấnnhững tài liệu có liên quan đến vận mệnh đất nước này, nhưng như chú biết đấy hiện nay trong Bảo tàng Hồ Chí Minh cũng như Bảo tàng lịch sử không có bản thảo “ Tuyên Ngôn Độc Lập.” Tôi sợ làm không kịp mất, gần 80 chục tuổi rồi mà lại không có điều kiện làm việc, ban đêm coi như chịu chết, đèn đón tù mù, đúng là đóm thật. Anh im lặng một lúc lâu, nhìn tôi rồi ngẩng lên hỏi tôi. “ Chú có biết điều tôi lo lắng nhất hiện nay là gì không? Không đợi tôi đoán, anh nói luôn: Tôi lo lắng nhất là không biết chết ở đâu. Lúc sống thì tôi ở nhờ nhà ai chẳng được. Ở đây cũng như ở trên Hà Nội. Nhưng lúc chết thì người thân mấy cũng làm phiền người ta. Có ai muốn một người không phải ruột rà máu mủ lại nằm chết trong nhà mình? Ngay cả cái chái bếp này cũng vậy, tôi nằm chết phiền đến nhà trường, các thày cô, các cháu học sinh.. Bởi vậy mà hai năm nay, tôi không muốn lên Hà Nội. Ở đây, tại quê hương bản quán, tôi đã chọn sẵn chỗ để nằm chết. Chú ra đây tôi chỉ cho, đứng ở đây cũng nhìn thấy.

Tôi theo anh ra, đứng trên cái trụ xi măng cầu ao cá. Gió mùa Đông-Bắc lạnh thấu xương tổi thốc vào mặt hai anh em. Anh chỉ tay về phía một bụi tre gần cuối xóm đơn độc giữa cánh đồng, ngọn tre đang vật vã trong gió buốt.” Đấy, dưới chân bụi tre ấy có một chỗ trũng, nhưng bằng phẳng, phủ đầy lá tre rụng, rất vừa người tôi. Tôi sẽ nằm đó chết để khỏi phiền ai. Tôi đã chọn con đường ngắn nhất để có thể bò kịp đến đó, trước khi nhắm mắt xuôi tay.”

Trở vào nhà, cả người tôi ớn lạnh, chắc là bị cảm… Tôi dốc hết rượu ra bát, uống ực một hơi chống lạnh. Rượu vào lời ra, tôi cất giọng ngâm to mấy câu thơ của Phùng Cung gửi tôi về tặng anh:

Gót ngọc men về thung cũ

 Quỳ dưới chân quê

Trăm sự cúi đầu.
Xin quê rộng lượng

Chút thổ phần bó xéc cuối thôn.

Đôi dòng kết luận

Bạn đọc cần đọc từng câu, từng chữ của Phùng Quán. Mỗi câu, mỗi chữ đều phản ánh tâm tư con người Nguyễn Hữu Đang.

Nó nói lên tất cả, nó gián tiếp “chửi cha” chế độ, trù dập con người, phải ty tiện đổi chác để được con rắn nước, con cóc, con nhái mà bình thường chỉ cần nghe nói đến đã lợm giọng, muốn nôn mửa huống chi khen ngon và lại còn khen lấy khen để là bổ dưởng dưỡng.

Mỗi lời khen của Nguyễn Hữu Đang là một lời tố cáo gián tiếp một chế độ bất nhân, mất nhân tính.

Tuy nhiên, về mặt chính trị khách quan mà nói, các cuộc nổi dạy ở BaLan, Hungary, Tiệp Khắt là một sự nổi dạy của quần chúng.

Không có sự vùng dậy của quần chúng nhân dân, các cuộc nổi dạy ở Đông Âu chắc chắn đi đến thất bại.

Điều đó đau xót cho thấy rằng, phong trào NVGP là một cuộc đối đầu đơn độc giữa nhà cầm quyền và một nhóm trí thức đơn độc mà quần chúng thản nhiên, thờ ơ đứng bên ngoài như một kẻ ngoài cuộc.
Sự thật cho thấy, nhà cầm quyền từng bước một cho thấy họ đàn áp thẳn tay mà hai nạn nhân hàng đầu là bà Thụy An vốn không thuộc nhóm NVGP và người cầm đầu là Nguyễn Hữu Đang.

Và kể từ đó đến ngày hôm nay  2025 đã không còn một cơ hội đứng lên tranh đấu đòi tự do dân chủ.

Một số cá nhân tranh đầu lẻ loi nhận những án tù trước sự thờ ơ, thản nhiên của trong số hơn 106 triệu người dân như trường hợp Trần Huỳnh Duy Thức hiện nay.


 

CSVN kêu gọi 5 Việt kiều ở hải ngoại bị chụp mũ ‘khủng bố’ ra đầu thú

Ba’o Nguoi-Viet

November 17, 2025

HÀ NỘI, Việt Nam (NV) – Sau hơn một tháng ban hành cáo trạng truy tố năm người gốc Việt ở hải ngoại với cáo buộc “khủng bố” và “hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân,” Bộ Công An CSVN lại kêu gọi “ra đầu thú, nếu không sẽ bị xét xử vắng mặt.”

Theo báo VietNamNet, hôm 17 Tháng Mười Một, Cơ Quan An Ninh Điều Tra Bộ Công An đã ban hành bản kết luận điều tra, chuyển hồ sơ đến Viện Kiểm Sát Tối Cao đề nghị truy tố, xét xử vắng mặt đối với các ông bà: Đào Minh Quân, tự Đào Văn, ở Orange County, tiểu bang California; Phạm Lisa (tên khác là Phạm Anh Đào, Lisa Phạm) ở Denmark, tiểu bang South Carolina; Huỳnh Thị Thắm (tức Huỳnh Tammy Thắm) ở Riverside County, California; Lâm Ái Huệ (tức Lâm Kim Huệ, Huệ Lâm) ở Canada, và Đào Kim Quang (tên khác là Francis Andre Solvang, Đào Văn Tiền) ở Oslo, Na Uy.

Một phiên tòa xử các bị cáo bị cho là liên quan đến tổ chức của ông Đào Minh Quân. (Hình: Tuổi Trẻ)

Những người này bị cáo buộc về các tội “khủng bố nhằm chống chính quyền nhân dân;” “hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân,” xảy ra tại Sài Gòn và một số tỉnh, thành phố khác.

Theo Bộ Công An, những người nêu trên là “phản động lưu vong, cầm đầu, cốt cán” trong tổ chức Chính Phủ Quốc Gia Việt Nam Lâm Thời – một tổ chức thành lập tại Orange County, California, từ hơn 30 năm trước.

“Bộ Công An kêu gọi các bị can nhanh chóng ra đầu thú để được hưởng chính sách khoan hồng của pháp luật và thực hiện quyền bào chữa. Nếu không ra trình diện hoặc đầu thú thì coi như từ bỏ quyền tự bào chữa và sẽ bị xét xử vắng mặt,” bản kết luận nêu.

Trước đó, hôm 2 Tháng Mười vừa qua, Viện Kiểm Sát Tối Cao ở Hà Nội đã ban hành cáo trạng truy tố và phát lệnh truy nã, đồng thời kêu gọi năm người nêu trên ra đầu thú, song không có kết quả.

Liên quan vụ án này, Cơ Quan An Ninh Điều Tra cũng đề nghị truy tố, xét xử đối với 19 bị can ở Việt Nam về tội “hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân.”

Kho xe gắn máy vi phạm bị cháy rụi hồi Tháng Tư, 2017, công an cáo buộc nhóm của ông Đào Minh Quân đốt phá. (Hình: Thái Hà/VnExpress)

Trong những năm qua, CSVN xử tù ít nhất 100 người, đa phần ở tuổi trung niên và cao niên, bị cho là liên quan đến tổ chức Chính Phủ Quốc Gia Việt Nam Lâm Thời.

Không riêng gì nhóm này, nhiều cá nhân chỉ phát biểu quan điểm chính trị khác với đường lối độc tài đảng trị của đảng CSVN qua mạng xã hội, vận động dân chủ hóa đất nước, đều bị bắt bỏ tù với các cáo buộc “tuyên truyền chống nhà nước” hay “hoạt động lật đổ.” Càng ngày, bản án mà họ đối diện càng nặng nề hơn trước. (Tr.N) [kn]


 

Cái chết của cô giáo trẻ…- Thái Hạo

Công Tú Nguyễn –  Chuyện tuổi Xế Chiều

Thái Hạo

  “Buồn quá anh Hạo ạ, có cô giáo trẻ sinh năm 2003 mới tự tử hôm qua, dạy ở trường tư thục gần chỗ tôi ở, nghe đâu do áp lực từ công việc, bạn ấy còn trẻ, kinh nghiệm chưa nhiều, kĩ năng chưa hoàn thiện, sức chịu đựng có giới hạn,… Bạn ấy đang cần nhiều hơn sự hỗ trợ từ đồng nghiệp, từ P.H, từ nhà trường… Sau sự việc này những người nên hỗ trợ bạn ấy liệu có “giật mình”? Thật buồn khi phải chia sẻ với anh trong những ngày này, những ngày tháng 11. Thương bạn ấy, và gia đình bạn ấy”.

Đó là một trong nhiều tin nhắn tôi nhận được từ 2 hôm nay về vụ việc đau lòng này. Tìm hiểu thì biết cô giáo tên là Tr. T. H. G, đang dạy lớp 1 ở trường Tiểu học – THCS – THPT Nguyễn Bỉnh Khiêm (Quảng Ninh). Đây cũng là một trường tư thục.

Cô giáo Tr. T. H. G sinh năm 2003, tức năm nay mới 22 tuổi, vừa mới ra trường và bước vào nghề được vài tháng (?).

Đọc “thư tuyệt mệnh” cô để lại cho bố mẹ, rồi nhìn hình – một cô giáo trẻ măng, xinh đẹp, buồn và thương tiếc. Trong thư, cô không nói cụ thể và chi tiết về lý do, nhưng cũng phần nào hé lộ: “con không chịu được áp lực này, mọi thứ dường như đều là lỗi của con”, “mỗi ngày con đều kiệt sức vì mệt mỏi”, “nhưng cái khó khăn này con cảm thấy thật vô nghĩa”…

Cô đã phải chịu những “áp lực” gì, từ ai, cụ thể ra sao? “Khó khăn này” là khó khăn gì, đến từ đâu, tính chất ra sao? “Lỗi” mà cô nhắc đến là lỗi gì, ai kết luận/quy kết chúng cho cô? Chúng có phải là nguyên nhân quyết định dẫn đến việc cô tự tử hay không?

Theo tôi, dù cô giáo đã tự mình làm “điều dại dột”, nhưng với những điểm còn tù mù và sự bất thường này, các cơ quan chức năng của tỉnh Quảng Ninh cần vào cuộc điều tra để minh bạch thông tin và có kết luận về những yếu tố liên quan đến quyết định tự tử của cô, Bộ Giáo dục cũng cần phải có tiếng nói trước vụ việc đau thương này. Để nếu vì cô đã phải chịu những sự bất công/phân biệt đối xử hoặc bị những trù dập nào đó mà phải tìm đến cái chết thì trả lại chút công bằng muộn màng cho cô và gia đình cô.

Việc điều tra này là cần thiết còn vì: nếu cái chết của cô không liên quan gì đến những sai phạm hoặc “vấn đề” trong trường Tiểu học – THCS – THPT Nguyễn Bỉnh Khiêm thì cũng xóa đi những dư luận đang âm thầm lan rộng có thể làm ảnh hưởng đến uy tín và quyền lợi của nhà trường. Đồng thời, nếu cái chết của cô là có liên quan thì phải làm rõ nguyên nhân, xác định trách nhiệm của tổ chức và các cá nhân liên quan.

Điều quan trọng là nếu sau điều tra mà thấy môi trường giáo dục này đang thực sự “có vấn đề” thì cần phải có giải pháp cả trước mắt và lâu dài để sửa chữa kịp thời, mang lại những thay đổi bền vững, tránh việc nuôi dưỡng bất công và những tai họa tiềm tàng phía trước – như vừa xảy ra với cô giáo Tr. T. H. G.

Nếu cái chết của cô giáo trẻ là vì “áp lực công việc” thì ngành giáo dục và nhà nước nói chung phải có trách nhiệm rà soát, kiểm tra và điều chỉnh mang tính hệ thống. Vì đây không phải lần đầu tiên một giáo viên tự tử vì “áp lực công việc”.

Cuối cùng, xin được chia sẻ nỗi đau vô hạn này cùng gia đình cô giáo. Mong gia đình sớm vượt qua để cùng làm sáng tỏ những vấn đề có liên quan, để cô giáo được thanh thản trong một đời sống khác, nơi có lòng yêu thương, sự ấm áp và niềm hạnh phúc hơn nhiều hơn…

Thái Hạo


 

10 CÂU  NÓI  KINH ĐIỂN CỦA NGƯỜI DO THÁI

Trong cuộc sống, những câu nói dưới đây vô cùng chuẩn xác và có thể giúp chúng ta định hướng được những việc nên làm:

  1. Một cốc nước sạch vì một giọt nước bẩn mà trở nên vẩn đục, nhưng một cốc nước đục không thể vì một giọt nước sạch mà trở nên tinh khiết.
  1. Trên đời này có 3 thứ mà người khác không thể cướp được từ chúng ta:

– Một là thực phẩm đã ăn vào dạ dày

– Hai là ý tưởng giấu trong tim

– Ba là những cuốn sách đã in vào não bộ

  1. Ngựa thường dễ bị khuỵu chân trên những con đường đất mềm, con người dễ ngã gục trong những lời đường mật.
  1. Trên đời này không có sự phân biệt rõ ràng giữa bi kịch và hỉ kịch (hạnh phúc). Nếu bạn có thể bước ra từ bi kịch, đò là hỉ kịch. Nếu bạn chìm đắm mãi trong hỉ kịch, đó là bi kịch.
  1. Nếu bạn chỉ biết chờ đợi, sự việc xảy ra sau đó chỉ có thể làm bạn già nua.
  1. Nếu không đọc sách, đi vạn dặm đường chẳng qua cũng chỉ là một người đưa thư.
  1. Khi hàng xóm nhà bạn gảy đàn lúc 24h sáng, chớ vội bực tức. Bạn có thể đợi đến 4h sáng sang gõ cửa gọi anh ta dậy và nói rằng bạn rất thích giai điệu anh ta vừa chơi.
  1. Bạn bè thực sự không phải là những người có thể ngồi với nhau nói chuyện cả ngày không hết mà là những người ngay cả khi chẳng nói với nhau câu nào vẫn không cảm thấy ngại ngùng.
  1. Thời gian là thầy thuốc sẽ chữa lành những vết thương trong tâm hồn nhưng tuyệt đối không phải là cao thủ trong việc giải quyết vấn đề vướng mắc.
  1. Thà hối hận trước những việc sai trái  đã làm còn hơn là không biết hối hận.

 From: ngocnga_12 & NguyenNThu

Bị Bộ Công an Việt Nam khởi tố, ông Lê Trung Khoa lên tiếng

BBC Vietnamese

Ông Lê Trung Khoa nói “có bất ngờ một chút” khi nhận được tin mình bị Bộ Công an Việt Nam khởi tố, nhưng trên thực tế đã lường trước việc này từ lâu.

Nhà báo Lê Trung Khoa, người sáng lập và chủ biên trang Thoibao.de tại Đức, vừa bị Bộ Công an Việt Nam khởi tố và phát lệnh bắt tạm giam.

Trong thông báo được phát đi vào tối ngày 17/11/2025, Cơ quan An ninh điều tra Bộ Công an cho biết đã ra quyết định khởi tố bị can và lệnh bắt tạm giam ông Lê Trung Khoa và ông Đỗ Văn Ngà để điều tra về tội “Làm, tàng trữ, phát tán, tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm nhằm chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” theo Điều 117 Bộ luật Hình sự.

Bộ Công an Việt Nam nói gì?

Bộ Công an cho biết vụ án hình sự liên quan đã được khởi tố vào ngày 8/11/2025 và giờ đây là bước khởi tố bị can.

Theo thông báo của Bộ Công an được đăng trên trang Thông tin Chính phủ, kết quả điều tra vụ án có đủ căn cứ xác định ông Lê Trung Khoa, sinh năm 1971 tại Thanh Hóa, và ông Đỗ Văn Ngà, sinh năm 1977 tại Gia Lai, đã có hành vi làm, tàng trữ, phát tán, tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm nhằm chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Bộ Công an cho biết ông Khoa có quốc tịch Việt Nam, có hộ khẩu thường trú tại phường Đống Đa, thành phố Hà Nội.

Trên thực tế, ông Khoa đã sinh sống tại Đức nhiều năm. Trong cuộc trả lời phỏng vấn BBC News Tiếng Việt mới đây, ông cho biết mình mang quốc tịch Đức từ năm 2024.

Giải thích thêm vào tối 17/11 về vấn đề quốc tịch, ông Khoa cho biết ông hiện mang hai quốc tịch Đức và Việt Nam.

Việc ông Khoa mang quốc tịch Đức sẽ khiến các nỗ lực bắt giữ ông từ phía Bộ Công an Việt Nam gặp nhiều trở ngại về pháp lý và ngoại giao.

Ông Lê Trung Khoa hoạt động báo chí truyền thông tại Đức nên có thể hiểu là ông được điều chỉnh và bảo vệ bởi các quy định pháp luật về tự do báo chí, tự do biểu đạt của nước này.

Ông Ngà được xác định có quốc tịch Việt Nam, thường trú tại xã Tuy Phước Đông, tỉnh Gia Lai, khu vực thuộc tỉnh Bình Định trước đây.

Thông báo của Cơ quan An ninh điều tra Bộ Công an cho biết cơ quan này đang phối hợp với Viện Kiểm sát nhân dân tối cao “điều tra, làm rõ vụ án, hành vi phạm tội của các bị can để xử lý theo quy định pháp luật”.

Ông Lê Trung Khoa nói gì?

Ông Lê Trung Khoa, hiện sống tại Đức, là người sáng lập và chủ biên trang Thoibao.de, nơi thường đăng tải thông tin về chính trị Việt Nam, trong đó có nhiều bài viết về tranh giành quyền lực, tham nhũng, các vụ bê bối chính trị. Ông cũng thường đăng tải các nội dung tương tự trên các nền tảng mạng xã hội như YouTube, Facebook.

Dù bị chặn ở Việt Nam, trang Thoibao.de vẫn thu hút đông đảo người xem từ trong nước.

Trước đây, ông Khoa cho biết cảnh sát tại Đức từng nhận được thông tin ông bị đe dọa giết và đã triển khai biện pháp bảo vệ ông.

Chia sẻ với BBC News Tiếng Việt về việc mình bị khởi tố, nhà báo Lê Trung Khoa nói: “Tôi nghĩ rằng thời điểm này là thời điểm rất quyết định vì trong thời gian vừa qua chúng tôi đã đối diện với rất nhiều hình thức tấn công từ phía Việt Nam. Cụ thể nhất là những đợt tấn công DoS từ chối dịch vụ đối với trang Thoibao.de, rồi tấn công bằng các báo cáo [trên nền tảng mạng xã hội] để xóa bài của chúng tôi diễn ra hằng ngày.”

Ông Khoa nhận định rằng có thể phía Việt Nam đã mua những phần mềm mã độc của những công ty ở châu Âu trị giá nhiều triệu đô la để tấn công, nhưng không thành công.

“Bây giờ khi không làm được gì chúng tôi vì chúng tôi vẫn tiếp tục đăng tin thì phía Việt Nam dùng con bài khởi tố,” ông nói.

Về quyết định khởi tố của Bộ Công an Việt Nam, nhà báo Lê Trung Khoa nói: “Tôi muốn nhắn nhủ đến Chính phủ Việt Nam rằng trong Hiến pháp của Nhà nước Việt Nam cũng đã quy định rất rõ về do biểu đạt, tự do báo chí. Vậy quý vị hãy thực hiện đúng điều đó cho mọi công dân của mình, kể cả những công dân Việt Nam đang ở nước ngoài. Cần phải tôn trọng điều đó và phải tôn trọng pháp luật.”

Ông Khoa cho biết mặc dù bản thân sẽ cẩn thận hơn, và sẽ thông báo với các cơ quan chức năng liên quan của Đức để họ nắm được diễn biến mới từ phía chính quyền Việt Nam, nhưng vụ truy tố không làm ảnh hưởng đến công việc hàng ngày của ông và Thoibao.de.

Điều 117

Điều 117 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi năm 2017, 2025) quy định về tội danh “Làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm nhằm chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”.

Đây là điều luật được sửa đổi từ Điều 88 của Bộ luật hình sự 1999 và có khung hình phạt cao nhất lên đến 20 năm tù.

Chính quyền Việt Nam từng áp dụng Điều 117 để khởi tố, bắt giam nhiều nhà hoạt động, người dân khiếu kiện đất đai, nhà báo tự do và những người bất đồng chính kiến khác.

Trong số những người từng bị khởi tố, bắt giam và phạt tù theo Điều 117 có nhà giáo Nguyễn Năng Tĩnh, nhà báo độc lập Phạm Chí Dũng, nhà văn Nguyễn Tường Thụy, bà Cấn Thị Thêu và các con của bà là Trịnh Bá Phương và Trịnh Bá Tư (những người dân đòi đất và trở thành nhà hoạt động)…

Từ trước đến nay, nhiều cá nhân, tổ chức trong nước và quốc tế đã lên tiếng kêu gọi, yêu cầu bãi bỏ Điều 117, vì điều này có thể được nhà nước sử dụng để dập tắt tiếng nói bất đồng.

Vụ kiện giữa Vingroup và ông Lê Trung Khoa

Trong một vụ việc khác, nhà báo Lê Trung Khoa là một trong 68 cá nhân và tổ chức mà tập đoàn Vingroup mới đây đã tuyên bố khởi kiện và báo cơ quan chức năng về các hành vi phỉ báng, vu khống.

Vào ngày 4/11/2025, Tòa dân sự thuộc Tòa khu vực Vùng II, Berlin, đã xét đơn của ông Phạm Nhật Vượng và công ty VinFast Germany GmbH yêu cầu cấm ông Lê Trung Khoa lặp lại nhiều phát ngôn mà họ cho là vu khống. Tòa đưa ra phán quyết mang tính phân định rất rõ giữa phát biểu sự kiện và phát biểu ý kiến theo luật pháp về tự do ngôn luận của Đức.

Có một điểm tòa chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn là cấm ông Khoa lặp lại phát ngôn: “Vingroup/VinFast đưa hối lộ.”

Tòa đánh giá đây là tuyên bố về sự kiện, tức một cáo buộc có thể kiểm chứng, nhưng ông Khoa không đưa ra được chứng cứ. Vì vậy, nếu ông tiếp tục lặp lại, ông sẽ bị phạt 250.000 euro cho mỗi lần, hoặc bị phạt tù từ 6 tháng đến 2 năm. Đây là phần nguyên đơn thắng.

Ngược lại, các cáo buộc còn lại của nguyên đơn – như việc ông Khoa gọi Vingroup là “tập đoàn mafia”, “khủng bố”, hay cáo buộc “đặt bom” trụ sở Thoibao.de – đều bị tòa bác bỏ.

Tòa cho rằng các phát biểu này, dù không có chứng cứ, thuộc phạm vi ý kiến chủ quan của ông Khoa, được pháp luật Đức bảo vệ theo quyền tự do biểu đạt. Vì vậy, không thể áp lệnh cấm khẩn cấp đối với ông Khoa. Đây là phần bị đơn thắng.

Tòa cũng phân định trách nhiệm chi trả án phí dựa trên mức độ thắng – thua: nguyên đơn phải chịu 7/8 án phí và phần lớn chi phí luật sư của cả hai bên. Điều này phản ánh việc đa số yêu cầu của nguyên đơn đã bị bác bỏ.

Phán quyết này là quyết định tạm thời trong thủ tục khẩn cấp. Nguyên đơn tuyên bố sẽ kháng cáo và tiếp tục các vụ kiện khác; còn ông Khoa cho rằng phán quyết chứng minh đa số yêu cầu chống lại ông “không có cơ sở pháp lý” và thể hiện sự bảo vệ quyền tự do ngôn luận trong hệ thống tư pháp Đức.


 

Thánh Elizabeth ở Hung Gia Lợi (1207-1231)- Cha Vương

Ngày Thứ 2 thật tốt lành nhé! Hôm nay 17/11/2025 Giáo Hội mừng kính Thánh Thánh Elizabeth ở Hung Gia Lợi (1207-1231). Bổn mạng của thợ làm bánh, tổ chức từ thiện Công Giáo, và hội dòng ba Phan-xi-cô. Mừng quan thầy, chúc mừng!

Cha Vương

Tuy cuộc đời của Thánh Elizabeth thật ngắn ngủi, nhưng lòng thương yêu ngài dành cho người nghèo và người đau khổ thật lớn lao, đến nỗi ngài được Giáo Hội đặt làm quan thầy của các tổ chức bác ái Công Giáo, và của Dòng Ba Phanxicô. Là con gái của vua Hung Gia Lợi, thay vì chọn một đời sống xa hoa nhàn hạ, Thánh Elizabeth đã đi theo con đường khổ hạnh và hãm mình. Quyết định đó, đã để lại trong tâm khảm của bao người dân Âu Châu niềm cảm mến sâu xa.

      Khi lên 14 tuổi, ngài kết hôn với ông Louis ở Thuringia (một quận chúa của Ðức), là người mà ngài rất yêu mến, và có được ba mặt con. Dưới sự linh hướng của các tu sĩ Phanxicô, ngài sống đời cầu nguyện, hy sinh và phục vụ người nghèo cũng như người đau yếu. Không những thế, ngài còn muốn trở nên một người nghèo thực sự qua cách ăn mặc thật đơn sơ. Mỗi ngày, ngài phân phát thực phẩm cho hàng trăm người nghèo trong vùng, mà lúc nào cũng đầy nghẹt trước cửa nhà.

      Sau sáu năm thành hôn, ngài thật đau khổ khi nghe tin chồng tử trận trong cuộc Thập Tự Chinh. Buồn hơn nữa, gia đình nhà chồng lại coi ngài là người hoang phí tiền bạc của hoàng gia, nên đã đối xử với ngài thật thậm tệ, và sau cùng họ đã tống ngài ra khỏi hoàng cung. Nhưng sau cuộc thập tự chinh, những người thân thuộc bên chồng trở về đã phục hồi quyền lợi cho ngài, vì con trai của ngài là người thừa kế chính thức.

      Vào năm 1229, ngài gia nhập dòng Ba Phanxicô, và dùng quãng đời còn lại để chăm sóc người nghèo trong một bệnh viện, mà ngài đã thiết lập để vinh danh Thánh Phanxicô. Sức khỏe của ngài ngày càng sa sút, và sau cùng ngài đã trút hơi thở cuối cùng vào ngày sinh nhật thứ 24, năm 1231. Vì sự nổi tiếng về nhân đức của ngài, nên chỉ bốn năm sau ngài đã được phong Thánh.

 LỜI BÀN: Thánh Elizabeth hiểu rất rõ bài học của Ðức Kitô, khi Người rửa chân cho các môn đệ trong bữa Tiệc Ly: người Kitô phải là người phục vụ những nhu cầu cần thiết của tha nhân, dù người phục vụ có địa vị cao trọng. Là một người trong hoàng tộc, Thánh Elizabeth đã có thể sai khiến người dân, nhưng ngài đã phục vụ họ với một tâm hồn thật đại lượng, đến nỗi trong cuộc đời ngắn ngủi ấy ngài đã được sự quý mến của rất nhiều người. Thánh Elizabeth còn là gương mẫu cho chúng ta về sự tuân phục vị linh hướng. Thăng tiến đời sống tâm linh là một tiến trình thật khó khăn. Chúng ta rất dễ tương nhượng, nếu không có ai khích lệ hay chia sẻ những kinh nghiệm để giúp chúng ta tránh được các cạm bẫy.

 LỜI TRÍCH: “Trong thời đại ngày nay, chúng ta có trách nhiệm đặc biệt là trở nên người thân cận đối với mọi người, và tích cực giúp đỡ họ khi chúng ta gặp trên đường đời, dù đó là người già cả bị hắt hủi, người lao công ngoại quốc bị khinh miệt, người tị nạn, trẻ sơ sinh của một mối tình vụng trộm mà bất đắc dĩ em phải chịu đau khổ, hay một người đói ăn; những người ấy đã làm lương tâm chúng ta phải bối rối khi nhớ lời Ðức Kitô: ‘Khi anh em giúp đỡ một người bé mọn này là giúp đỡ chính Thầy’ (Mt. 15:40)” (Giáo Hội Trong Thế Giới Ngày Nay, 27).

 (Nguồn: Người Tín Hữu)

Noi gương thánh nhân mời bạn hãy là một việc thiện hôm nay nhé.

Xin Thánh Elizabeth cầu bầu cho chúng con.

From: Do Dzung

************************

Xin Cho Con Được Thấy – Nguyễn Hồng Ân

ĐÓI GIÊSU – Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

“Vì Người sắp đi qua đó!”.

“Của cải có thể khiến một người nghèo trở nên giàu; nhưng một trái tim đói khiến một người giàu trở nên nghèo!” – Benjamin Franklin.

Kính thưa Anh Chị em,

Câu nói của Franklin được chứng thực qua Tin Mừng hôm nay. Giàu sang không làm Giakêu hạnh phúc; quyền lực không khiến ông được tôn trọng. Trong sâu thẳm, ông mang một ‘cơn đói không tên’, không gì lấp đầy – ‘đói Giêsu!’.

Chức vụ trưởng quan thuế đem lại cho ông nhiều thứ, nhưng lại lấy đi những gì cần thiết nhất: ánh mắt chấp nhận, lời gọi yêu thương, sự nâng đỡ của một người hiểu tận lòng mình. Nghe Chúa Giêsu sắp đi qua, cơn đói ấy trỗi dậy mãnh liệt. Ông chạy lên trước, leo lên một cây sung, “vì Người sắp đi qua đó!”. Không chỉ leo lên một cành cây; ông leo lên nỗi trống rỗng của mình. Khi trái tim đã ‘đói Giêsu’, nó sẽ làm những điều không giống ai để chạm Ngài; mọi trái tim thiếu thốn đều tìm một ‘nơi cao’ để không nghẹt thở. “Nghèo khó khủng khiếp nhất là cô đơn và cảm giác không được yêu thương!” – Mẹ Têrêxa.

Và rồi khoảnh khắc ấy đến. Chúa Giêsu dừng lại. Một trái tim đói gặp một Trái Tim biết mọi cơn đói của nhân loại. Ánh mắt Ngài không chỉ nhìn Giakêu; nó như muốn nói, “Ta biết con đang đói một Ai đó đến mức nào!”. Rồi Ngài gọi, “Giakêu, xuống mau đi, vì hôm nay, tôi phải ở lại nhà ông!”. Điều kỳ diệu xảy ra! “Khi ai đó thật sự lắng nghe bạn, điều ấy giống như một phép lạ!” – Carl Rogers. Giakêu lập tức tụt xuống – như một cuộc thoát xác. Khi một trái tim chạm vào tình yêu thật, nó không còn tính toán: Giakêu cho đi một nửa tài sản, đền bù gấp bốn cho ai đã thiệt hại. Sự quảng đại – đúng hơn, hoán cải – bất ngờ chỉ có thể diễn ra khi một người đã được Ai đó chạm đến tận sâu thẳm linh hồn mình.

Hình ảnh Giakêu phản chiếu hình ảnh cụ già Êlêazarô, người có một cơn đói tương tự – đói sự thánh khiết, đói trung tín – bài đọc một. Cụ không thoả hiệp chỉ để giữ mạng sống; nhưng chọn sống chân thật trước mặt Chúa, cả khi trả giá đắt. Ai biết mình đói, và sống thật với cơn đói ấy, sẽ tìm được tự do. Thật ý nghĩa, “Có Chúa nâng đỡ tôi!” – Thánh Vịnh đáp ca – Chúa luôn nâng đỡ những ai nhận mình yếu đuối, thiếu thốn. “Sức mạnh thật sự đến từ việc ôm lấy chính sự yếu đuối của mình!” – Paulo Coelho.

Anh Chị em,

Hôm nay, Chúa Giêsu đi ngang qua linh hồn chúng ta, Ngài cảm nhận điều gì? Ngài có tìm thấy trong bạn và tôi một trái tim biết mình nghèo, cần Ngài – nói cách khác, một trái tim ‘đói Giêsu?’. Mỗi ngày, Chúa vẫn “đi qua đó”: qua Lời, qua Thánh Thể, qua những con người. Nếu chúng ta dám ‘leo lên’ khỏi những bận rộn, vỏ bọc, hay cái tôi cồng kềnh – như Giakêu – có lẽ bạn và tôi cũng sẽ nghe những gì Ngài nói, “Hôm nay, Ta phải ở lại nhà con!”. Và khi ấy, không chỉ trái tim chúng ta được no thoả, nhưng chính Ngài – Đấng từng nói “Ta khát” – cũng được no thoả. “Sự hiện diện thật sự nuôi dưỡng cả người trao và người nhận!” – Parker Palmer.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, đừng để con đói một điều chi ngoài Chúa. Hãy đến với con và con cũng tạo nên một sự khác biệt – hoán cải!”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế)

***********************************************

 Lời Chúa Thứ Ba Tuần XXXIII Thường Niên, Năm Lẻ

Con Người đến để tìm và cứu những gì đã mất.

✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Lu-ca.    Lc 19,1-10

1 Khi ấy, Đức Giê-su vào Giê-ri-khô, đi ngang qua thành phố ấy. 2 Ở đó có một người tên là Da-kêu ; ông đứng đầu những người thu thuế, và là người giàu có. 3 Ông ta tìm cách để xem cho biết Đức Giê-su là ai, nhưng không được, vì dân chúng thì đông, mà ông ta lại lùn. 4 Ông liền chạy tới phía trước, leo lên một cây sung để xem Đức Giê-su, vì Người sắp đi qua đó. 5 Khi Đức Giê-su tới chỗ ấy, thì Người nhìn lên và nói với ông : “Này ông Da-kêu, xuống mau đi, vì hôm nay tôi phải ở lại nhà ông !” 6 Ông vội vàng tụt xuống, và mừng rỡ đón rước Người. 7 Thấy vậy, mọi người xầm xì với nhau : “Nhà người tội lỗi mà ông ấy cũng vào trọ !” 8 Ông Da-kêu đứng đó thưa với Chúa rằng : “Thưa Ngài, tôi xin lấy phân nửa tài sản của tôi mà cho người nghèo ; và nếu tôi đã chiếm đoạt của ai cái gì, tôi xin đền gấp bốn.” 9 Đức Giê-su mới nói về ông ta rằng : “Hôm nay, ơn cứu độ đã đến cho nhà này, bởi người này cũng là con cháu tổ phụ Áp-ra-ham. 10 Vì Con Người đến để tìm và cứu những gì đã mất.”


 

Đạo chích bậc thầy – Đoàn Xuân Thu

Đoàn Xuân Thu

Phần I

Trong lịch sử Trung Hoa cổ đại, có một nhân vật nổi tiếng tên là Từ Trích (徐跖), người nước Tống, sống vào thời Xuân Thu – cùng thời với Khổng Tử. Từ Trích vốn là anh ruột của Tử Lộ, một môn đệ trung thành trong hàng Thập triết của Khổng phu tử. Nhưng nếu người em theo học đạo thánh hiền, thì người anh lại rẽ sang con đường khác: Con đường của kẻ trộm, nhưng là kẻ trộm có tài và có chí. Dân gian gọi ông là Đạo Chích (盜跖) – nghĩa đen là “kẻ cướp Từ Trích,” nhưng về sau thành danh xưng chung cho bọn trộm cắp bậc thầy.

Theo Trang Tử, Đạo Chích từng thống lĩnh tới chín ngàn thuộc hạ, hành nghề giữa thời loạn, chuyên cướp của nhà giàu và chia cho kẻ nghèo. Hắn có đạo lý riêng, thậm chí còn dạy người “nghề trộm,” biết chọn thời, biết phân vai, biết ẩn thân, và đặc biệt là phải có lòng trung thành giữa bọn trộm với nhau.

Trang Tử từng chép một cuộc đối thoại giả tưởng giữa Lão Tử và Đạo Chích, trong đó tên cướp biện luận rằng: “Người trị nước thì cướp của dân bằng phép tắc, ta cướp bằng tay – ai cao hơn ai?”

Lời ấy, dẫu ngông cuồng, vẫn phản chiếu một triết lý nghịch: trong xã hội đảo điên, thiện ác có khi chỉ cách nhau một lớp vỏ danh nghĩa.

Từ đó, hai chữ “đạo chích” dần mang nghĩa rộng hơn. Người ta không còn chỉ dùng để chửi mắng, mà còn hàm ý “tay trộm chuyên nghiệp, hành động tinh vi, có đầu óc tổ chức.” Một thứ “nghề” trong bóng tối, đòi hỏi sự kiên nhẫn, trí nhớ, và đôi khi cả… óc thẩm mỹ.

Và trong thế giới hiện đại, vẫn có những kẻ mang linh hồn của Đạo Chích xưa, nhưng khoác lên lớp áo của thời đại, Jack “Murph the Surf” Murphy, một huyền thoại có thật của nước Mỹ thế kỷ XX.

Phần II

Jack Roland Murphy sinh năm 1938 tại California – miền đất của ánh nắng, bãi biển và những kẻ mộng mơ. Ông là tay lướt sóng điệu nghệ, từng giành giải vô địch, có phong độ của một ngôi sao màn bạc. Nhưng đằng sau mái tóc vàng và nụ cười rạng rỡ là một tâm hồn phiêu lưu không yên – và cũng chính cái máu phiêu lưu ấy đã đẩy ông vào con đường của “nghệ thuật ăn trộm.”

Đêm 29 Tháng Mười, 1964, Murphy cùng hai đồng phạm lẻn vào Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên Hoa Kỳ ở New York. Một đêm hoàn hảo cho tội ác: Hệ thống báo động không hoạt động, cửa sổ mở hé hai inch để thông gió, tủ trưng bày đá quý cũng hỏng còi. Chỉ trong vài phút, họ lấy đi 24 viên ngọc quý, trong đó có viên “Star of India” – sapphire xanh nặng hơn 560 carat, lớn nhất thế giới.

Sau khi tiêu xài hoang phí ở Miami, cả nhóm bị bắt. Murphy đồng ý giao nộp phần lớn tang vật để đổi lấy bản án nhẹ, chỉ ba năm tù. Viên “Star of India” được tìm thấy trong một tủ khóa ở bến xe buýt, còn viên “Eagle Diamond” thì biến mất vĩnh viễn – có lẽ bị cắt nhỏ và bán lẻ trên thị trường chợ đen.

Ra tù, Murphy thử làm người lương thiện nhưng thất bại. Năm 1972, ông bị kết án vì tội giết người trong một vụ tranh chấp băng nhóm ở Florida. Suốt 17 năm tù đày, ông dần thay đổi, học Kinh Thánh, trở thành mục sư Cơ đốc, đi khắp các nhà giam Mỹ rao giảng về sự hối cải. Câu chuyện của Jack Murphy – từ tay trộm ngọc lừng danh đến người rao giảng lòng nhân – khiến thiên hạ nhớ đến Đạo Chích của hai nghìn năm trước: cùng phạm tội, nhưng không mất nhân tính; cùng sống ngoài vòng pháp luật, nhưng vẫn biết sám hối.

Phần III – Từ New York đến Paris

Sáu mươi năm sau vụ Star of India, lịch sử lặp lại ở bên kia Đại Tây Dương. Paris – kinh đô ánh sáng – bàng hoàng chứng kiến một vụ trộm mà báo chí gọi là “phi vụ thế kỷ” trộm vương miện tại bảo tàng Louvre.

Sáng 19 Tháng Mười, 2025, bốn người bịt mặt dùng thang nâng cơ khí tiếp cận tầng thượng của Galerie d’Apollon, nơi trưng bày các báu vật hoàng gia Pháp. Họ cưa cửa sổ, vô hiệu hóa cảm biến, đập kính, gom tám món trang sức quý giá rồi biến mất chỉ trong bốn phút. Số hiện vật bị lấy đi gồm: Vương miện, vòng cổ, hoa tai và trâm ngọc lục bảo của các hoàng hậu Marie-Amélie, Marie-Louise và Eugénie de Montijo. Tổng giá trị ước tính 88 triệu euro, song theo giới chuyên môn, “vô giá” mới là con số đúng.

Hai nghi phạm bị bắt tại sân bay Charles de Gaulle và vùng Seine-Saint-Denis, nhưng phần lớn báu vật chưa được thu hồi. Giới chức lo rằng những viên ngọc lục bảo, sapphire và kim cương có thể đã bị tháo rời, làm tan biến manh mối – y hệt như viên Eagle Diamond năm xưa.

Câu hỏi lớn đặt ra, giữa thế kỷ XXI, trong một bảo tàng đầy camera và cảm biến, vì sao một vụ trộm như vậy vẫn xảy ra? Phải chăng, công nghệ dù tinh vi đến mấy vẫn không thể ngăn được trí tuệ và táo bạo của con người?

Nhà triết học Pháp có lần nói: “Tội phạm cũng là một phần của văn minh.” Quả thật, mỗi vụ trộm lớn đều phản chiếu mặt tối của thời đại: khi nghệ thuật bảo tồn gặp nghệ thuật tước đoạt, và khi lòng tham được tô điểm bằng kỹ năng. Từ Đạo Chích thời Xuân Thu, đến Murphy ở New York, rồi những kẻ trộm ở Paris – ba thế giới, một bản chất: kẻ thông minh dùng trí tuệ sai, và xã hội luôn trả giá cho việc ấy.

Trong hành lang sáng trắng của Louvre hôm nay, người ta vẫn để trống chỗ từng đặt chiếc vương miện. Khoảng trống ấy, hơn cả một mất mát vật chất, là lời nhắc về tính mong manh của văn minh.

Bởi chừng nào còn người ham vàng ngọc, còn kẻ dám thử thách công lý, thì bóng dáng của Đạo Chích – kẻ trộm bậc thầy từ nghìn năm trước – vẫn còn lang thang đâu đó giữa chúng ta, trong hình hài những con người tưởng như vô hại.

Đoàn Xuân Thu

From: Tu-Phung

Kết quả giảo nghiệm: Bà gốc Việt ở San Francisco giết chồng con rồi tự tử

Ba’o Nguoi-Viet

November 16, 2025

SAN FRANCISCO, California (NV) – Các kết quả giảo nghiệm được công bố hôm Thứ Tư  xác nhận nguyên nhân qua đời của bốn thành viên trong một gia đình tại San Francisco, những người được tìm thấy chết hôm 8 Tháng Mười trong căn nhà thuộc khu phố Monterey Boulevard, một khu dân cư sang của thành phố, theo đài KRON 4 loan tin hôm 12 Tháng Mười Một.

Theo Văn Phòng Giảo Nghiệm San Francisco, nội vụ được xác định là một vụ tự sát – giết người (murder-suicide). Ba nạn nhân, gồm hai bé gái và người cha, bị bắn chết. Người mẹ được xác định chết vì tự sát.

Xe cảnh sát San Francisco đậu trước toà thành phố. (Hình: Justin Sullivan/Getty Images)

Thi thể được phát hiện khi một anh/em trai của ông Thomas Russell Ocheltree (người cha), 57 tuổi, đến nhà để kiểm tra vì không liên lạc được qua điện thoại. Khi bước vào căn nhà số 930 Monterey Boulevard, người anh/em phát hiện cả gia đình đã chết.

Các nạn nhân và thương tích bao gồm: Mackenzie Lou Ann Ocheltree, 9 tuổi, bị bắn một phát trong phòng ngủ. Alexandra Grace Ocheltree, 12 tuổi, bị bắn hai phát trong một phòng ngủ khác. Thomas Ocheltree, 57 tuổi, bị bắn hai phát vào ngực và một phát vào cổ.

Các trường hợp tử vong của ba cha con đều được xác định là giết người.

Người mẹ, Paula Trương, 53 tuổi, được tìm thấy đã chết trong nhà xe, cách vị trí thi thể các thành viên khác. Báo cáo giảo nghiệm kết luận bà tự sát.

Trong lời chia sẻ với KRON4, một người thân cho biết: “Anh tôi và hai đứa cháu gái đáng quý đã là nạn nhân của một tội ác kinh hoàng. Gia đình chúng tôi hoàn toàn suy sụp.”

Kết quả xét nghiệm độc chất cho thấy bà Trương dương tính với trazodone, thuốc điều trị trầm cảm nặng. Trong năm nay, bà từng gửi hơn 100 tin nhắn cho một phóng viên của San Francisco Standard, bày tỏ nỗi lo về sự an toàn của con gái tại trường tiểu học.  

Phóng viên cho biết đã đến gặp gia đình tại nhà, và sau sự tình bi thảm này, viết rằng: “Bà Paula Trương ban đầu hiện ra như một người mẹ rất nhiệt tình, đôi lúc lo lắng quá mức. Nhưng nhìn lại, có thể thấy vài dấu hiệu tâm thần bất ổn sâu hơn.”

Áp lực tài chính

Bà Paula Trương từng sở hữu hai cửa hàng tiện lợi, trong đó có Starr Spirits gần khu dân cư Westwood Park. Nguồn tin cho biết vợ chồng bà cũng sở hữu một xưởng sửa xe sang tại West Oakland, tên Zentrum, cùng chuỗi quán cà phê Việt Nam mang tên Orbit Coffee Company.

Bà Paula từ Việt Nam qua Mỹ định cư rồi lập gia đình với ông Ocheltree năm 2006, theo báo Chronicle. Trước khi dọn tới khu Westwood Park ở San Francisco và sinh hai đứa con, vợ chồng bà Paula dường như có căn nhà trên đường 24th ở Mission. Họ sống ở tầng trên và cho thuê tầng dưới làm nhà hàng.

Mấy năm gần đây, tất cả tiệm cà phê chuyên bán cà phê đá Việt Nam trong hệ thống Orbit Coffee của bà Paula phải đóng cửa. Và cửa hàng tạp hóa gần nhà bà trên đường Monterey, mà vợ chồng bà mua năm 2020 rồi sửa lại thành tiệm rượu đắt tiền, cũng làm ăn thua lỗ và đóng cửa năm 2023.

Người làm nghề khai thuế từng làm việc cho bà Paula 15 năm, tới khi bà bị cáo buộc ngưng trả tiền cho ông, nói với báo San Francisco Standard rằng bà là “thương gia tận tụy và thành công.”

Nhưng nợ nần tiếp tục tăng lên. Tới năm 2019, bà vay tổng cộng hơn $2.7 triệu, gồm $500,000 của cá nhân.

Tới cuối năm 2024, căn nhà của họ mua từ 11 năm trước ở số 930 đường Montery bị xiết nợ và được bán cho một công ty tài chính vào Tháng Mười Một, 2024, với giá $2.05 triệu.

Theo Chronicle, căn nhà bị xiết nợ sau khi vợ chồng bà Paula vay khoản tiền thứ nhì $2.24 triệu vào Tháng Ba, 2022, nhưng không thể trả.

Tháng Tư năm đó, bà Paula bị tòa ra lệnh trả nợ thẻ tín dụng cho ngân hàng Discover Bank hơn $18,000.

Người phát giác gia đình bà Paula thiệt mạng hôm Thứ Tư là em trai ông Ocheltree, ông Robert Ocheltree, cư dân Danville. Ông khai với cảnh sát ông không nghe thấy anh của ông suốt sáu ngày nên tới nhà hỏi thăm.

Theo Chronicle, ông kể với cảnh sát bà Paula ra mở cửa, bước ra ngoài nhưng không mời ông vào, và cho ông hay anh của ông vừa đi chơi golf về và bị mất điện thoại.

Người em cũng khai với cảnh sát, hôm sau, ông nhận được tin nhắn đáng lo ngại của bà Paula, gọi ông tới giúp chồng bà. “Ổng bị sao đó, tôi với hai con bé rất sợ,” bà Paula nhắn tin, theo ông Robert.

Sau khi liên lạc với gia đình bà Paula một lần nữa nhưng không được, ông Robert Ocheltree trở lại và phá cửa xông vào nhà, thấy người anh và hai đứa cháu gái của ông chết trên giường, còn bà Paula treo cổ trong garage. 

Hàng xóm cho hay thùng rác nhà bà Paula được kéo ra để ở lề đường như không được kéo vào như thường lệ vào Thứ Hai, theo Standard.

Những mốc thời gian đó cho thấy có lẽ ông Ocheltree và hai đứa con gái chết nhiều ngày trước khi bà Paula tự tử. (MPL) [kn]


 

Có kiên trì, anh em mới giữ được mạng sống mình. (Lc 21:19) – Cha Vương

Chúc bình an đến bạn và gia đình. Đã hơn một nửa tháng 11, tháng cầu nguyện cho các linh hồn, đừng quên cầu nguyện cho các linh hồn trong luyện ngục nhé.

Cha Vương

CN: 16/11/2025

TIN MỪNG: Có kiên trì, anh em mới giữ được mạng sống mình. (Lc 21:19)

SUY NIỆM: Ai trong chúng ta chẳng một lần nghe nói về sự chết? Có điều là người ta thường không thích nghĩ về cái chết.  Nhiều người cho rằng không nói, không bàn về cái chết, thì nó sẽ không xảy ra. Thực ra sự chết có thể đến với bất cứ ai và vào bất cứ lúc nào. Có những người sống như thể không bao giờ chết họ muốn làm gì thì làm bất kể những hậu quả của nó. Lại còn có những người chết như chưa hề được sống, họ sống như cái xác không hồn vậy. Thường thì ai cũng chỉ chết một lần. Nhưng có những người lại thực sự chết hai lần: chết về thể xác và chết về phần hồn.  “Anh em đừng sợ những kẻ giết thân xác mà không giết được linh hồn. Đúng hơn, anh em hãy sợ Đấng có thể tiêu diệt cả hồn lẫn xác trong hỏa ngục.” (Mt 10:28) 

Dù bạn đang sống trong hoàn cảnh nào đi nữa hãy nhớ lời Chúa dạy: “Có kiên trì, anh em mới giữ được mạng sống mình.” Đời sống kiên trì là luôn thể hiện lòng tin cậy vào sức mạnh và  tình yêu vô biên của Chúa. Mời bạn hãy bám chặt vào tay Chúa để được sống muôn đời với Chúa!

CẦU NGUYỆN: Lạy Cha từ nhân, xin đổ vào tim con tình yêu và sức mạnh của Chúa để dù sống hay chết con đều thuộc về Chúa.

THỰC HÀNH: Thay đổi cách sống qua việc làm lành tránh dữ để khỏi bị chết hai lần.

From Do Dzung

****************************

Sự Sống Thay Đổi Mà Không Mất Đi – Mai Thiên Vân