Đời là bể khổ, thái độ của chúng ta trước đau khổ – Phùng Văn Phụng

Phùng Văn Phụng

1)Có ai trong chúng ta nói rằng suốt đời không có đau khổ? 

Nhà Phật nói đến Khổ đế (là một trong tứ diệu đế): Sự thật về đau khổ có ba thứ làm chúng ta đau khổ là:Tuổi già, bịnh tật và cái chết. Ngay cả khi không già, không bịnh tật và chưa chết, con người vẫn đau khổ vì khi ta có những ham muốn và thèm khát nhưng ta không đạt được ước nguyện đó. Ngay cả khi thoả mãn những nhu cầu đó rồi sau đó ta vẫn chán nản, không hài lòng nên dẫn đến đau khổ (1) 

Dầu nghèo nàn hay giàu có, dầu sang trọng hay hèn kém đều đã trải nghiệm đau khổ. 

Nếu nghèo không có tiền đi bác sĩ mua thuốc trị bịnh. Khổ vì không có tiền để trả tiền điện, nước, tiền chợ, tiền sinh hoạt tối thiểu cho các nhu cầu căn bản để sống còn, để tồn tại. Khổ vì nợ nần chồng chất không biết bao giờ trả được. 

Người có tiền cũng khổ; hoặc bị mất tiền vì bị lường gạt, bị đánh cắp, hoặc con cái hư hỏng không chịu học hành theo băng nhóm hút sì ke, ma túy, phá làng, phá xóm v.v…

Có người đau khổ vì bị người yêu bất ngờ chia tay.  

Khổ thể xác vì không đủ cơm ăn, áo mặc, cực nhọc cả ngày, đổ mồ hôi để kiếm miếng ăn. 

Khổ vì chẳng may gặp gặp bịnh nan y như ung thư, stroke, heart attack rồi bị tê liệt nằm một chỗ không chữa trị được.   

Hoặc con người bị bịnh đui mù, què quặt do bẩm sinh hay do biến chứng từ các bịnh khác.

 Khổ tinh thần vì mất người thân yêu do tai nạn xe cộ hay tai nạn dưới nước như tắm biển, câu cá bị nước cuốn, hay bị lật thuyền. 

Con người còn bị đau khổ vì mất chức, mất quyền, mất tiền bạc v.v… 

Con người còn chịu đau khổ vì bị mất danh dự do bị vu cáo, vì vô tình hay cố ý bị đặt chuyện, dựng chuyện để nói xấu, hạ uy tín, hạ nhục làm cho chúng ta đau khổ. 

 2)Đau khổ không chừa một ai. Còn sống là còn đau khổ. 

*Cảm nghiệm đau khổ, cay đắng, đau đớn khi tôi mất đi đứa con trai đang sống chung trong nhà chỉ mới 48 tuổi. Cháu đóng góp mọi thứ sinh hoạt trong gia đình. Ra đi vì tai nạn khi hai con còn nhỏ 16 và 11 tuổi. Con trai tôi chịu sống chung mặc dầu đủ điều kiện ra ở riêng. Ở chung nhà để đóng góp mọi chi phí sinh hoạt trong nhà như điện nước, thuế má…

Khi vắng bóng con trai, bầu khí trong nhà vô cùng trống vắng, vẫn còn cảm giác con tôi đi đâu đó, sẽ trở về?

*Sau tháng 04 năm 1975, đang có đời sống tự do thoải mái với vợ và các con. Bị cộng sản lường gạt, kêu gọi “trình diện học tập cải tạo”, đi trình diện, bị tù gần 8 năm trong các trại tù trong rừng núi âm u, sơn lam, chướng khí ở miền Bắc như Lào Cai, Vĩnh Phú… bị bỏ đói triền miên. Ăn bo bo không xay, ăn khoai mì (ngoài bắc gọi là sắn) cứng ngắt, ăn bắp, ăn khoai trừ cơm. Mỗi bữa cơm được phát vài khúc khoai mì đắng nghét, hoặc vài trái bắp cứng ngắt với tô canh rau muống chỉ lỏng bỏng nước và vài cọng rau.

 

Trong tù tất cả anh em đều sụt cân, ốm nhom, ốm nhách như những bộ xương cách trí biết đi. Những năm 1978, 1979 cứ vài ngày anh em tù chúng tôi đã ra đi vì kiệt sức.

Đây là cảm nghiệm đau khổ lâu dài nhất. 

 * Cuộc đời của thánh Gióp cũng là bài học suy ngẫm về cuộc đời mà nhiều người hay than thở “đời là bể khổ”. 

Ông Gíóp là người kính sợ Thiên Chúa. Bảy người con trai và ba người con gái đều chết hết và tài sản của ông cũng bị cướp hết, nhà cửa không còn. 

Bấy giờ ông Gióp trỗi dậy, xé áo mình ra, cạo đầu sấp mình xuống đất, sụp lạy và nói: 

“Thân trần truồng sinh ra từ lòng mẹ, tôi sẽ trở về đó cũng trần truồng. ĐỨC CHÚA đã ban cho, ĐỨC CHÚA lại lấy đi: Xin chúc tụng danh ĐỨC CHÚA (Gióp 1-20,21) 

3)Tại sao Thiên Chúa là Đấng tốt lành và nhân từ vô cùng lại để chúng ta phải chịu đau khổ? 

Lm Paul O’Sullivan đã viết như sau: 

*Nguyên nhân rất đơn giản chỉ vì đau khổ là một hồng ân trọng đại (trang 113) (1)

Khó khăn lớn nhất về đau khổ là chúng ta không biết cách chịu đau khổ.

(trang 115) (2)

Những đau khổ hằng ngày của chúng ta, đau khổ nhỏ nhất cũng như đau khổ lớn nhất, nếu như chịu được cho nên, sẽ đem lại cho chúng ta triều thiên tử đạo.

-Nếu chúng ta không chịu đau khổ cho nên thì chúng ta sẽ bị mất hết các ân sủng và phần thưởng vô giá mà đau khổ lẽ ra đã đem đến cho chúng ta. 

Chúng ta hãy ghi nhớ những điều này về vấn đề đau khổ: 

*Mỗi khi gặp đau khổ, chúng ta được thông phần vào cuộc Khổ Nạn của Chúa Giêsu Kitô, vì thế đau khổ đem lại một công phúc khôn lường.

*Nếu chúng ta biết chấp nhận một cách nhẫn nại vì lòng mến Chúa, đau khổ sẽ mất hết nọc độc và sự cay đắng của nó.

*Nếu chúng ta cầu xin, nhất định Thiên Chúa sẽ ban cho chúng ta dư đủ sức mạnh để chấp nhận đau khổ Người gởi đến cho chúng ta.

*Những đau khổ sẽ cứu chúng ta khỏi những cực hình ghê rợn trong luyện ngục.

*Đau khổ, nếu chịu cho nên, sẽ làm cho chúng ta trở nên những vị thánh.(3) 

(1) (2) (3) Trích Sách “Con đường nên thánh dễ dàng” của Lm Paul O’Sullivan, O.P 

 Phùng Văn Phụng 

(1)               Tứ diệu đế là gì?

(2)               https://hoasenphat.com/kien-thuc-phat-giao/y-nghia-bon-chan-ly-cua-tu-dieu-de.html 

Ngày 25-10-2021


 

Thánh Am-rô-xi-ô, giám mục, tiến sĩ Hội Thánh- Cha Vương

Xin Chúa che chở và ban nhiều ơn lành xuống cho bạn và gia đình hôm nay. Hãy gạt bỏ quá khứ, chào đón mỗi ngày với niềm vui và hy vọng. Sống hồn nhiên vui vẻ với những nụ cười thật to nhé!

Cha Vương

CN: 07/12/2025.  (t5-23)

Hôm nay 07/12, Giáo hội mừng kính Thánh Am-rô-xi-ô, giám mục, tiến sĩ Hội Thánh, mừng bổn mạng đến những ai chọn ngài làm quan thầy.

Thánh Am-rô-xi-ô chào đời ở Trê-vê-rô khoáng năm 340 trong một gia đình người Rô-ma. Thánh nhân theo học ở Rô-ma và bắt đầu sự nghiệp hiển hách ở Xiếc-mi-ô. Năm 374, lúc đang ở Mi-la-nô, thánh nhân bất ngờ được bầu làm giám mục và được tấn phong ngày 7 tháng 12. Người trung thành thi hành bổn phận, nổi bật về lòng bác ái đối với mọi người. Đối với các tín hữu, người vừa là mục tử, vừa là tôn sư. Người đã can đảm bênh vực các quyền của Hội Thánh, người vừa viết lách, vừa hoạt động để bênh vực giáo lý đức tin chân thật, chống lại những người theo phái A-ri-ô. Người qua đời thứ Bảy Tuần Thánh, ngày 4 tháng 4 năm 397. Sau đây là những câu danh ngôn của ngài mời bạn đọc và hình dung ra như ngài đang nói vời bạn điều gì đó…:

❦  Chúng ta tránh né con mắt người đời, nhưng chúng ta lại phạm tội ngay trước mắt Thiên Chúa.

❦  Hỡi những người giàu có, anh em muốn mở rộng tính tham lam của mình đến tận đâu? Anh em định làm những người duy nhất cư ngụ trên trái đất này sao? Vậy tại sao anh em lại xua đuổi những người cùng chia phần thiên nhiên và tự nhận nó là của riêng anh em? Trái đất này được tạo dựng cho mọi người, giàu cũng như nghèo, chung cho tất cả. Tại sao những người giàu có như anh em lại tự nhận nó làm độc quyền của mình?

❦  Nếu bạn có hai cái áo trong tủ, một cái là của bạn còn cái kia là của người nghèo không có áo mặc.

❦  Nhẫn nại chịu đựng là sự trọn lành của đức ái.

❦  Lòng nhân ái thật tốt lành vì làm cho người ta nên hoàn thiện, noi theo Chúa Cha là Đấng hoàn thiện. Không gì làm cho linh hồn người tín hữu nên khả ái cho bằng lòng nhân ái.

❦ Đối với người lành thánh, chết là một mối lợi. Người ngu dại sợ chết như điều dữ dằn kinh hãi nhất, còn người khôn ngoan mong mỏi cái chết như sự nghỉ ngơi sau bao nhiêu lao nhọc và chấm dứt những bệnh tật.

❦  Phúc cho ai dứt bỏ được thói tham lam là cội rễ của các tính mê…. Của cải thừa mứa trên thế gian này có ích gì, chúng không giúp được chúng ta sinh cũng chẳng cản được chúng ta tử? Chúng ta sinh vào thế gian này trần trụi, và chúng ta chết đi mà chẳng mang theo được một xu nào, chúng ta bị chôn táng mà không đem theo được sản nghiệp của mình.

❦  Không ai có thể tự chữa lành cho bản thân bằng cách đả thương người khác.

❦  Chúng ta đã yêu thương họ khi họ còn sống, vậy chúng ta cũng đừng lãng quên họ cho đến ngày chúng ta dẫn đưa họ – bằng lời cầu nguyện của chúng ta – vào đến nhà Chúa.

❦  Đời sống của Đức Maria là bài học cho tất cả mọi người… Bạn hãy đặt trước mắt bạn cuộc đời thánh khiết của Đức Trinh Nữ, Đấng đã phản chiếu, như một tấm gương, vẻ lộng lẫy, sự thánh khiết, và sức mạnh nhân đức.

Câu nào đánh động bạn nhất? Tại sao?

Lạy Thánh Am-rô-xi-ô, cầu cho chúng con. 

From: Do Dzung

************************

Cho Đi Là Lãnh Nhận – Sáng tác: Duy Nhạc Angelo

LỰC ÂN SỦNG – Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

“Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng!”.

“Thiên Chúa tạo tác con người trong vẻ đẹp nguyên sơ; Ađam Eva sống ở một tầm cao vượt xa chúng ta. Nhưng khi khuất phục con rắn, điều kỳ diệu ấy tan biến. Giờ đây, nhân loại như cố ráp lại một chiếc máy bay từ đống đồng nát: vật liệu vẫn còn, nhưng khả năng bay đã mất!” – Dave Breese.

Kính thưa Anh Chị em,

Nhận xét của Breese thật tinh tế! Tuy nhiên, với ‘lực ân sủng’ của Thiên Chúa, mọi vật có thể được tái tạo, ‘bay trở lại’ và bay cao vút. Đó là một sự thật hấp dẫn khơi gợi niềm hy vọng nơi chúng ta trong ngày mừng kính Đức Trinh Nữ Maria, Vô Nhiễm Nguyên Tội!

Các bài đọc tường thuật hai cuộc đối thoại: một mất, một được. Eva – mẹ của “cuộc đối thoại mất mát” – Sợ hãi, trần truồng, ẩn núp, ngài không đủ can đảm để đứng trong ánh sáng. Một sự đổ vỡ – Ađam đổ cho Eva, Eva đổ cho con rắn… và kết cục, hậu duệ bị tước “khả năng bay”. Nhưng lạ lùng thay, ngay trong đổ nát đó, Thiên Chúa hé lộ một động lực mới, một “gia tốc âm thầm” của lòng thương xót, “Ta sẽ gây mối thù giữa mi và người đàn bà… dòng giống đó sẽ đánh vào đầu mi!”. Đó là ‘lực ân sủng’ khởi động lịch sử cứu độ – nhẹ như một lời hứa, nhưng mạnh như một vụ phóng mở ra kỷ nguyên mới. “Ân sủng tăng tốc ngay tại những vùng tội lỗi đã làm chúng ta trì trệ!” – Max Lucado.

Maria – mẹ của “cuộc đối thoại được lại”. Trái tim Mẹ tinh khôi, tự do; Mẹ không ẩn núp nhưng mở toang lòng mình. Lời “Xin vâng!” như một cánh cửa bật mở cho ‘lực ân sủng’ bùng lên trọn vẹn. “Ân sủng chỉ có thể đi vào nơi nào trái tim chịu mở ra!” – Karl Rahner. Nhờ lời xin vâng ấy, con người – từng bị trục xuất – được dẫn vào lại nhà Cha nhờ Đấng Mẹ cưu mang. Với Ngài, ‘lực ân sủng’ không chỉ nâng dậy nhân loại ngã quỵ, nhưng nâng bổng và biến đổi nó. Thánh Vịnh đáp ca chúc khen công trình kỳ vĩ ấy, “Hát lên mừng Chúa… vì Người đã thực hiện bao kỳ công!”. Trong Đức Kitô, con người được lại phiên bản nguyên thuỷ, “Trước thánh nhan Người, ta trở nên tinh tuyền thánh thiện” – bài đọc hai – và giờ đây, nó có thể bay lên, bay cao vút.

Anh Chị em,

“Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng!”. Không chỉ Mẹ đầy ân sủng; bạn và tôi cũng đầy ân sủng. Từ ngày chịu phép Rửa, ‘lực ân sủng’ đã được cấy vào linh hồn chúng ta như một lực nâng thầm lặng. Sống trong ân sủng, nghĩa là sạch tội và làm theo thánh ý Chúa, con người có thể bay trở lại, bay cao, bay xa, bay trong tự do của con cái Chúa. Các thánh mọi thời ‘đã bay’ như thế nhờ ‘lực ân sủng’. Ngược lại, một khi nuông chiều xác thịt, liều lĩnh đánh mất ơn thánh, “lực nâng” ấy suy yếu; nên dù vật liệu giống nhau, khả năng bay không còn. Mùa Vọng, mùa tìm lại ‘lực bay’: trở về, hoà giải, thanh tẩy, cho cánh hồn nhẹ lại và bay lên. “Ân sủng là tình yêu nâng ta dậy khi ta không còn đôi cánh!” – Brennan Manning.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, khi con chỉ còn là một đống đồng nát, xin nhúng con vào dòng Hoà Giải để được sạch, được tái tạo và được tiếp lực; hầu con có thể bay trở lại, bay cao vút!”, Amen.

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

*****************************************

LỜI CHÚA LỄ ĐỨC MẸ VÔ NHIỄM NGUYÊN TỘI 08/12

Này đây bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai.

✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Lu-ca.    Lc 1,26-38

26 Khi ấy, bà Ê-li-sa-bét có thai được sáu tháng, thì Thiên Chúa sai sứ thần Gáp-ri-en đến một thành miền Ga-li-lê, gọi là Na-da-rét, 27 gặp một trinh nữ đã thành hôn với một người tên là Giu-se, thuộc dòng dõi vua Đa-vít. Trinh nữ ấy tên là Ma-ri-a.

28 Sứ thần vào nhà trinh nữ và nói : “Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng bà.” 29 Nghe lời ấy, bà rất bối rối, và tự hỏi lời chào như vậy có nghĩa gì.

30 Sứ thần liền nói : “Thưa bà Ma-ri-a, xin đừng sợ, vì bà được đẹp lòng Thiên Chúa. 31 Này đây bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, và đặt tên là Giê-su. 32 Người sẽ nên cao cả, và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao. Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Đa-vít, tổ tiên Người. 33 Người sẽ trị vì nhà Gia-cóp đến muôn đời, và triều đại của Người sẽ vô cùng vô tận.”

34 Bà Ma-ri-a thưa với sứ thần : “Việc ấy sẽ xảy ra thế nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng ?”

35 Sứ thần đáp : “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ toả bóng trên bà ; vì thế, Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa. 36 Kìa bà Ê-li-sa-bét, người họ hàng với bà, tuy già rồi, mà cũng đang cưu mang một người con trai : bà ấy vẫn bị mang tiếng là hiếm hoi, mà nay đã có thai được sáu tháng, 37 vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được.”

38 Bấy giờ bà Ma-ri-a nói với sứ thần : “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Người thực hiện cho tôi như lời sứ thần nói.” Rồi sứ thần từ biệt ra đi.


 

Nguyễn Lân Thắng : Một nhà hoạt động nhân quyền tích cực

Chau Trieu is with Phaolô Hiển Nguyễn 

Sinh năm 1975, là một blogger, nhà hoạt động nhân quyền tích cực, và là người đồng sáng lập No-U FC, một câu lạc bộ bóng đá hoạt động vì cả dân chủ lẫn dân tộc, chẳng hạn như các cuộc biểu tình phản đối yêu sách chủ quyền của Trung Quốc ở Biển Đông.

Ông đưa tin về các vụ tịch thu đất đai, cưỡng chế di dời, và vi phạm nhân quyền, đồng thời đấu tranh cho quyền sử dụng đất, tự do tôn giáo, các vấn đề môi trường và quyền của những người yếu thế. Ông thường xuyên đến các địa điểm xung đột đất đai, ghi chép các hoạt động của cảnh sát và gửi báo cáo.

Ngày 5 tháng 7 năm 2022, ông Thắng bị công an Hà Nội đã bắt giữ và bị khởi tố theo Điều 117 Bộ luật Hình sự 2015 với cáo buộc “làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm nhằm chống Nhà nước”.

Phiên tòa xét xử ông diễn ra vào ngày 12 tháng 4 năm 2023, trong một phiên tòa kín; chỉ có luật sư và vợ ông được phép tham dự.

Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội tuyên án ông 6 năm tù giam và 2 năm quản chế với tội danh “tuyên truyền chống Nhà nước” theo khoản 1, Điều 117.

Phiên xử và bản án đã vấp phải phản ứng mạnh mẽ từ các tổ chức nhân quyền quốc tế về tính minh bạch và công bằng của thủ tục tố tụng.

Nhiều tổ chức nhân quyền quốc tế—bao gồm Tổ chức Theo dõi Nhân quyền, Tổ chức Ân xá Quốc tế, và một ủy ban độc lập của Liên Hợp Quốc (Nhóm Công tác của Liên Hợp Quốc về  Bắt giữ Tùy tiện) đã chỉ trích mạnh mẽ phán quyết này. Họ cho rằng việc giam giữ ông là tùy tiện, vì ông chỉ đơn thuần thực hiện quyền tự do ngôn luận theo luật pháp quốc tế.

Nguyễn Lân Thắng là trường hợp điển hình trong danh sách những nhà hoạt động ôn hòa bị truy tố hình sự vì các hoạt động biểu đạt chính kiến ở Việt Nam./.

Vân Phong


 

Thánh Nicôla giám mục, Turkey (- 343) – Cha Vương

Mừng quan thầy đến những ai mang tên Nick nhé!

Cha Vương

Thư 7: 06/12/2025.  (t6-24)

Hôm nay 06/12 Giáo Hội mừng kính Thánh Nicôla giám mục, Turkey (- 343) Vị thánh bênh vực công lý, bênh vực người nghèo, cho quà con nít: Nicholas sinh tại Patara thuộc tỉnh Lycia, thuộc Tiểu Á (Asia Minor), ngày nay gọi là nước Turkey (Thổ nhĩ kỳ). Sau khi cha mẹ chết, cậu đem hết tiền của cho người nghèo. Ông đi tới tỉnh Myra (ngày nay là Demre) khi giáo sĩ và giáo dân đang chọn giám mục mới. Người dân chọn Ông giữ chức vụ  giám mục thành Myra.

   Vào đầu thế kỷ 4 này, đạo Công giáo đang bị bắt bớ dưới thời hoàng đế Dioletia. Giám mục Nicola cùng nhiều tín hữu bị quan tỉnh bắt giam, bị đánh đập, xiềng xích, vì ngài mạnh dạn giảng về chân lý đức tin  và sự tự do của đạo thánh. Tới khi vua Constantinô lên cầm quyền tha bắt đạo, ngài và giáo dân mới được tha về Myra… Ngài rất tốt lành và tử tế. Mọi hoạt động của đời ngài nhằm tôn vinh Chúa Giêsu Kitô, bênh vực cho công lí và người nghèo khó. Trẻ em khắp nơi quí mến Ngài.

   Nhiều câu truyện nói về ngài khiến người ta khó biết chính xác giám mục Nicola đã giúp giáo dân trong địa phận Myra để tỏ lòng kính mến Chúa và phục vụ Chúa nơi tha nhân thế nào.

   -Người ta kể, có 3 người bị kết án tử hình sai lầm, Ngài đã tìm đến quan kết án, cho ông biết rằng, vì nhận tiền hối lộ mà ông kết án sai, nên 3 người đã được tha về.

   -Truyện khác nói: ngài cứu 3 em bé vô tội đã chết, được sống lại.

   -Nhưng có một truyện nổi tiếng về một gia đình ở Myra, ông bố bị mất hết tiền bạc, không có đủ tiền cho 3 người con gái lập gia đình. Vào thời đó, người thiếu nữ phải có một số tiền hồi môn khi lấy chồng. Ông định tống con vào nhà tội lỗi. Giám mục Nicola nghe chuyện cảm thấy buồn cho cha con ông, ngài tìm cách giúp đỡ. Đêm kia, ngài xách túi vàng ném qua cửa sổ đang mở, nơi ông ta nằm, rồi ngài vội đi ngay, để ông ta không biết ai cho vàng. Ít lâu sau, ngài nghe tin cô lớn nhất đi lấy chồng.

Giám mục Nicola lại đến cho ít vàng nữa, lần này cô thứ hai lấy chồng. Thời gian sau, ngài lại đến ném túi vàng nữa qua cửa sổ rồi đi ngay, nhưng ông chủ nhà nghèo kia đã chờ sẵn, đuổi theo, bắt gặp ngài. Ông ta cám ơn rối rít về nghĩa cử cao đẹp của giám mục. Rồi người con thứ ba cũng được lên xe hoa nhờ món vàng đó.

  Giám mục Nicola đã qua đời vào ngày 6 tháng 12 năm 343. Xác ngài được chôn trong nhà thờ lớn xây trên mộ Ngài tại Myra. Rất nhiều khách hành hương đã tới viếng mộ để cầu khấn vị thánh của tình bác ái. Nhiều bàn thờ, thánh đường trên thế giới mang tên thánh Nicola.   Chỉ riêng nước Anh đã có chừng 400 nhà thờ mang tên Nicola. Thánh Nicola là bổn mạng các thủy thủ và tù nhân.

   Từ thế kỷ thứ 5, giáo hội phương Đông đã tôn kính vị thánh làm nhiều phép lạ này. Năm 987, vua Vladimir đã cổ động lòng sùng kính thánh Nicola cho dân Nga (Russia). Cùng với thánh Anrê, Ngài cũng là bổn mạng nước Nga. 

Năm 1087, thủy thủ người Ý đã đem xương thánh ngài về thành Bari. Hàng năm tổ chức mừng Ngài. Thành Bari từ đó trở nên nổi tiếng, và là nơi hành hương cho cả  u châu. Năm 1100, các Xơ người Pháp phát bánh quà cho trẻ em nghèo vào lễ kính thánh Nicola (6-12), dần dần lan ra nhiều nơi trong  u châu. Thế kỷ 13, trẻ em Công giáo  u châu thích đóng vai “giám mục Nicola” và xin quà phát cho trẻ nghèo. Ngay cả thời nay, vào chiều áp lễ kính ngài, tại nước Hoà lan, Đức, Thuỵ sĩ, trẻ em đặt chiếc giầy ở một chỗ để lãnh quà, mong thánh Nicola bí mật đem quà đến cho.

    Tại nước Mỹ và Anh, thánh Nicola được biết dưới danh hiệu Santa Claus. Người Công giáo Việt nam do ảnh hưởng tiếng Pháp, gọi là ông già Noel. (Nguồn: Dân Chúa)

Noi gương Thánh Nicholas đầy lòng bác ái từ nhân, mời Bạn hôm nay hãy làm một việc đúng theo tinh thần của Ngài nhé. 

From: Do Dzung

************************

TÂM TÌNH YÊU MẾN – Tuyệt Phẩm Thánh Ca Để Đời – Dành Cho Đời Sống Dâng Hiến

CHUYỆN CỦA TÔI-Lm. Minh Anh, Tgp. Huế 

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế 

“Có tiếng người hô trong hoang địa: Hãy dọn sẵn con đường cho Chúa!”.

“Chúa Kitô có thể được sinh ra hàng ngàn lần ở Bêlem – nhưng tất cả đều vô nghĩa cho đến khi Ngài được sinh ra trong tôi! Đó là câu chuyện của tôi!” – Angelus Silesius.

Kính thưa Anh Chị em,

Các địa danh Tin Mừng hôm nay có thể xa xôi, nhưng sứ điệp của Gioan lại rất gần, vì đó cũng là ‘chuyện của tôi’. Lịch sử cứu độ cũng là lịch sử lòng tôi; và “tiếng hô trong hoang địa” ngày nào vẫn vang vọng ngay trong hoang địa lòng tôi.

Luca muốn nói rằng, Thiên Chúa không hành động mơ hồ: Ngài bước vào một thời điểm, một nơi chốn cụ thể của nhân loại, nhưng cũng bước vào thời điểm và không gian rất cụ thể của đời tôi. Ngài đến không để đứng ngoài cuộc sống tôi, nhưng để đi vào, chạm đến, chữa lành và đổi hướng; để tôi có thể kể ‘chuyện của tôi’ trong ánh sáng của Ngài. “Thiên Chúa viết nên lịch sử của Ngài trong những khoảnh khắc bình thường mà ta hay bỏ qua!” – Frederick Buechner.

Gioan xuất hiện như người mở đường cho Đấng Cứu Thế, và lời ông – “Hãy dọn sẵn con đường cho Chúa” – còn dành cho tôi. Sám hối không chỉ là chỉnh đốn vài hành vi, nhưng là canh tân tận căn tương quan của tôi với Chúa, với người khác và với chính mình. “Để sống là phải thay đổi, và để nên trọn hảo là phải thay đổi nhiều lần!” – Henry Newman. “Thung lũng” cần lấp có thể là những hụt hẫng, tự ti, tội lỗi; “núi đồi” cần bạt là sự cứng cỏi, cố chấp, phòng vệ; “cong vẹo” cần sửa là những uẩn khúc, lươn lẹo, tính toán khiến tôi né tránh sự thật về mình. Chúng không ở ngoài, chúng chính là đời tôi. Nhận ra chúng, gọi tên chúng là ‘chuyện của tôi’ cần kể cho Chúa trong mùa Vọng này.

Và một khi tôi để “chuyện của tôi trở thành chuyện của Chúa”, tôi nhận ra lời Isaia không còn xa vời. Đấng từ “gốc Giêsê” đến làm cho nơi khô cằn nở hoa – bài đọc một – cũng chính là Đấng muốn làm cho hoang địa lòng tôi đâm chồi. Ngài dạy tôi “đón nhận người khác như Chúa đã đón nhận tôi” – bài đọc hai – và sự biến đổi nơi tôi trở thành mảnh đất đầu tiên cho Triều Đại Ngài bén rễ. Và khi đó, lời Thánh Vịnh đáp ca “Triều đại Người đua nở hoa công lý và thái bình thịnh trị” không chỉ là lời ca phụng vụ, nhưng là một thực tại đang âm thầm lớn lên trong tôi.

Anh Chị em,

“Hãy dọn sẵn con đường cho Chúa!”. Nghĩa là mở cửa cho Ngài đi vào “lịch sử thầm kín” đời mình; để ánh sáng Ngài phơi mở những vùng tối mà tôi thường tránh né; để việc sám hối trở thành hành vi ‘trao quyền’ cho Chúa tái lập trật tự tâm hồn – uốn thẳng điều cong, hâm nóng điều nguội, đánh thức điều đã chết. “Hoán cải là một sự sẵn lòng liên lỉ để thấy nhiều hơn và nhiều hơn nữa ánh sáng của Chúa!” – Henri Nouwen. Một khi tôi dám để Ngài làm điều đó với lòng thống hối, đơn sơ, khiêm tốn, tôi bắt đầu sống như người thuộc về Triều Đại mới; và bình an của Chúa vây kín đời tôi; công lý, sự thật và tình yêu của Ngài lặng lẽ lớn lên trong tôi.

Chúng ta có thể cầu nguyện:

“Lạy Chúa, cho con hiểu rằng, Giáng Sinh này chỉ thật sự ý nghĩa khi Chúa được sinh ra trong con – bắt đầu ngay hôm nay!”, Amen.

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế 

 ****************************

 LỜI CHÚA CHÚA NHẬT II MÙA VỌNG

Anh em hãy sám hối vì Nước Trời đã đến gần.

✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Mát-thêu.    Mt 3,1-12

1 Khi ấy, ông Gio-an Tẩy Giả đến rao giảng trong hoang địa miền Giu-đê rằng : 2 “Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần.” 3 Ông chính là người đã được ngôn sứ I-sai-a nói tới : Có tiếng người hô trong hoang địa : Hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi.

4 Ông Gio-an mặc áo lông lạc đà, thắt lưng bằng dây da, lấy châu chấu và mật ong rừng làm thức ăn. 5 Bấy giờ, người ta từ Giê-ru-sa-lem và khắp miền Giu-đê, cùng khắp vùng ven sông Gio-đan, kéo đến với ông. 6 Họ thú tội, và ông làm phép rửa cho họ trong sông Gio-đan. 7 Thấy nhiều người thuộc phái Pha-ri-sêu và phái Xa-đốc đến chịu phép rửa, ông nói với họ rằng : “Nòi rắn độc kia, ai đã chỉ cho các anh cách trốn cơn thịnh nộ của Thiên Chúa sắp giáng xuống vậy ? 8 Các anh hãy sinh hoa quả để chứng tỏ lòng sám hối. 9 Đừng tưởng có thể bảo mình rằng : ‘Chúng ta đã có tổ phụ Áp-ra-ham.’ Vì, tôi nói cho các anh hay, Thiên Chúa có thể làm cho những hòn đá này trở nên con cháu ông Áp-ra-ham. 10 Cái rìu đã đặt sát gốc cây : bất cứ cây nào không sinh quả tốt đều bị chặt đi và quăng vào lửa. 11 Phần tôi, tôi làm phép rửa cho các anh bằng nước để giục lòng các anh sám hối. Còn Đấng đến sau tôi thì quyền thế hơn tôi, tôi không đáng xách dép cho Người. Người sẽ làm phép rửa cho các anh bằng Thánh Thần và bằng lửa. 12 Tay Người cầm nia, Người sẽ rê sạch lúa trong sân : thóc mẩy thì thu vào kho lẫm, còn thóc lép thì bỏ vào lửa không hề tắt mà đốt đi.”


 

 

Hậu quả của một cơn giận – Tác giả: Phùng Văn Phụng

Tác giả: Phùng Văn Phụng

Tức giận là gì?

Theo Medicinenet, tức giận hay giận dữ (anger có nguồn gốc từ ngôn ngữ cổ Bắc Âu) là một phản ứng cảm xúc liên quan đến việc tâm lý con người khi đang bị đe dọa.

Tức giận cũng là do đặt cái tôi của mình quá lớn, do kiêu ngạo (tội tổ tông Adam và Eve muốn bằng trời hay con người muốn làm tháp Babel để lên tận trời cao). Do tự cao, tự đại coi khinh người khác học thức kém, nghèo hơn, nhân cách thua mình v.v…cho nên khi mình bị xúc phạm hay không vừa ý người nào hay bất cứ chuyện gì, thì nổi “khùng” lên mắng chửi, to tiếng, nặng lời, hăm dọa, đánh đập, bắn giết…

Khi giận quá, con người mất khôn, không còn kiểm soát được chính mình nữa và có những hành động ghê gớm, điên rồ, không thể tưởng tượng được như…

Chuyện 1:

Cãi nhau, chồng lao xe hơi chở vợ con xuống sông Hoài, 3 người chết

January 25, 2019

Cãi vã nhau, người chồng tức giận lái xe hơi đang chở vợ và hai con lao thẳng xuống sông Hoài ở thành phố Hội An, khiến 3 người chết. Trong xe hơi lúc này có bốn người gồm hai vợ chồng và hai đứa con. Hai vợ chồng cùng con trai tử vong, riêng bé gái (14 tuổi) biết bơi nên khi xe lao xuống sông đã nhanh chóng thoát ra ngoài, bơi vào bờ kêu cứu.

Hiện trường trục vớt chiếc xe hơi và thi thể các nạn nhân. (Hình: Tuổi Trẻ)

Chuyện 2:

Cãi nhau vì chiếc điếu cày, em đâm chết anh trong ngày cúng cha

13/09/2019

TTO – Người anh muốn mang điếu cày lên chùa trong lễ cúng bố 49 ngày để mọi người cùng hút, người em không đồng ý, hai anh em xảy ra xô xát. Hậu quả là người anh bị em trai đâm chết.

Hiện trường nơi xảy ra vụ việc – Ảnh: KHÁNH LINH

Chiều 13-9 (2019), lãnh đạo Công an tỉnh Thái Bình xác nhận thông tin trên, đồng thời cho biết Cơ quan CSĐT công an tỉnh đang cùng các đơn vị nghiệp vụ, Công an huyện Kiến Xương khẩn trương điều tra làm rõ nguyên nhân.

Theo thông tin ban đầu, vào sáng 13-9, gia đình người thân ông Nghiêm Văn Th. (trú ngụ địa chỉ trên, đã mất) tổ chức làm lễ cúng tuần 49 ngày cho ông Th.

Trong lúc chuẩn bị lên chùa làm lễ, giữa hai anh em ruột Nghiêm Văn Thắng (29 tuổi) và Nghiêm Văn Thành (20 tuổi) xảy ra xích mích dẫn đến xô xát.

Trong lúc nóng giận, anh Thắng đánh Thành gãy răng cửa. Bị đánh đau, Thành vớ con dao trong bếp truy đuổi anh trai.

Anh Thắng bỏ chạy, nhưng đến khu vực ngã tư gần chợ Bặt (thuộc địa phận xóm 6, xã Quang Bình) thì bị Thành đuổi kịp. Thành đã dùng dao đâm nhiều nhát khiến anh Thắng gục ngay tại chỗ.

Người dân sau đó đưa nạn nhân đi cấp cứu nhưng anh Thắng đã tử vong. Đến gần 15 giờ cùng ngày, thi thể nạn nhân được đưa về gia đình để lo hậu sự.

Nghi phạm Thành đã bị cơ quan công an bắt giữ ngay sau đó.

Chuyện 3:

Bị rầy la chuyện ăn nhậu, con trai cứa cổ mẹ già 72 tuổi

13/11/2019

Tho Em về nhà gặp mẹ ruột là bà Phạm Thị Thiểu (72 tuổi). Bà Thiểu la mắng Tho Em không lo làm ăn, phụ giúp gia đình mà tối ngày lo ăn nhậu.

Giữa hai mẹ con xảy ra cự cãi, Tho Em bỏ đi ra ngoài đường. Đi được một đoạn, Tho Em bực tức nên quay lại nhà, đi thẳng vào bếp cầm lấy con dao rồi cứa cổ mẹ ruột khiến bà Thiểu tử vong tại chỗ.

Sự Chế Ngự Cơn Giận Dữ Của Bạn

Cơn giận dữ hay sự thù hận, khi đã gây ra, có thể có những kết quả tai hại khôn lường.

Theo Tờ Thông-báo, trong một năm, 80 phần trăm những nạn nhân bị giết trong một tiểu bang, thường bị giết bởi những thành viên trong gia đình hay những người bạn thân thiết. Hầu hết những sự tấn công tai họa này là kết quả của những cuộc cãi nhau hằng ngày, trong nhiều hoàn cảnh khác nhau.

Hay là, như Bác sĩ Cecil Osborne giải thích trong cuốn sách của ông, cơn giận bị đè nén dần dần hiện ra trong “dạng của vài căn bệnh thần kinh: những ung nhọt, bệnh suyễn, chứng viêm khớp, chứng viêm ruột kết, chứng viêm da, những sự phiền não về tim hay bất cứ một tỷ lệ của cái khác.”

Làm sao giải quyết được cơn giận.

Cần sáu bước như sau:

1-Thật thà thú nhận sự giận dữ của mình.

2- Chấp nhận có sự giận dữ

3- Quyết định giải quyết nó

4- Diễn đạt cảm giác giận dữ của bạn nột cách sáng tạo trong tình yêu thương

5- Kiểm soát nó nếu bạn đang cảm thấy sợ hay đe dọa

6- Khi bạn đã chia xẻ cơn giận của bạn rồi tiếp theo là hãy tha thứ…

Kết: Tóm lại, sự giận dữ tạo ra những hậu quả không lường trước được mà báo chí hằng ngày vẫn thường xuyên nêu lên những trường hợp giết chóc nhau vô lý cũng vì không đè nén được sự giận dữ.

Sức người không làm được nhưng nhờ ơn Chúa, cầu nguyện với Chúa thì ta có thể làm được.

Đức Đạt Lai Lạt Ma nói:

“Hạnh phúc không phải là một vấn đề của số phận. Đó là vấn đề lựa chọn.”

Ông nói:

Hãy thận trọng với suy nghĩ của bạn bởi vì suy nghĩ sẽ trở thành lời nói.

Hãy thận trọng với lời nói của bạn bởi vì lời nói sẽ trở thành hành vi.

Hãy thận trọng với hành vi của bạn bởi vì hành vi sẽ trở thành thói quen

Hãy thận trọng với thói quen của bạn bởi vì thói quen sẽ tạo thành tính cách.

Hãy thận trọng với tính cách của bạn bởi vì nó sẽ tạo thành vận mệnh

và vận mệnh của bạn sẽ chính là cuộc sống của bạn.

Đức Đạt Đai Lạt Ma, trong bài:

(Đối thoại giữa Đạt Lai Lạt Ma và Leonardo Boff)

Suy nghĩ về bài dưới đây để tâm tư, tình cảm của chúng ta lắng đọng lại, không còn hơn thua, tranh chấp, nhất là tranh chấp giữa vợ chồng, cha con, mẹ con, anh em bà con lẫn nhau.

MỘT NGÀY, MỘT NĂM VÀ MỘT ĐỜI NGƯỜI

Một ngày rất ngắn, ngắn đến mức chưa nắm được cái sáng sớm thì đã tới hoàng hôn.

Một năm thật ngắn, ngắn đến mức chưa kịp thưởng thức sắc màu đầu xuân thì đã tới sương thu.

Một cuộc đời rất ngắn, ngắn tới mức chưa kịp hưởng thụ những năm tháng đẹp thì người đã già rồi.

Luôn luôn đến quá nhanh mà hiểu ra thì quá muộn, cho nên chúng ta phải học cách trân trọng, trân trọng tình thân, tình bạn, tình đồng nghiệp, tình yêu, tình vợ chồng, tình phụ mẫu, tình đồng loại …

Vì một khi đã lướt qua, thì khó có thể gặp lại.

Sau 20 tuổi, thì đất khách và quê nhà giống nhau vì đi đến đâu cũng có thể thích ứng.

Sau 30 tuổi, thì ban ngày và ban đêm giống nhau vì mấy ngày mất ngủ cũng không sao.

Sau 40 tuổi, thì trình độ học vấn cao thấp giống nhau, học vấn thấp có khi kiếm tiền nhiều hơn.

Sau 50 tuổi, thì đẹp và xấu giống nhau vì lúc này có đẹp đến mấy cũng xuất hiện nếp nhăn và tàn nhang.

Sau 60 tuổi, thì làm quan lớn và quan bé giống nhau vì nghỉ hưu rồi cấp bậc giống nhau.

Sau 70 tuổi, thì nhà to và nhà nhỏ giống nhau vì xương khớp thoái hóa không thể đi được hết những không gian muốn đi.

Sau 80 tuổi, thì tiền nhiều và tiền ít giống nhau vì có tiêu cũng chẳng tiêu được bao nhiêu tiền.

Sau 90 tuổi, thì nam và nữ giống nhau vì không thể làm nổi chuyện ấy nữa.

Sau 100 tuổi, thì nằm và đứng giống nhau vì đứng dậy cũng chẳng biết làm gì.

Cuộc đời của bạn và tôi là như vậy, không khác nhau nhiều…

Nhìn ra, hiểu được, cuộc đời là như thế…

Trân trọng những thứ đã có và đang có…

(Sưu tầm trên net)

Vậy mà tại sao con người còn thù hằn, giận dai, giận suốt đời, đến nỗi trước khi chết còn dặn thân nhân: “cấm không cho đương sự đến thăm tôi, tôi sẽ làm cho nứt hòm đó”.

Sao không khiêm nhường, cảm thông, yêu thương và tha thứ cho nhau vì trong Kinh lạy Cha có dạy: “xin Cha tha nợ cho chúng con cũng như chúng con tha kẻ có nợ chúng con” để lòng thanh thản, tràn ngập yêu thương, để đón nhận tình yêu thương của Cha trên trời, sau khi lìa khỏi cõi đời tạm bợ này.

Phải vậy không?

Phùng Văn Phụng

11/2019

 Gió chướng đã đổi chiều – Tác Giả: Nguyễn Văn Lục

Nguyễn Văn Lục

Ba’o Dan Chim Viet

06/12/2025

 Reviendrez-vous un jour, ô frères exilés(Một ngày nào đó, các anh sẽ trở về, ôi những đứa con lưu lạc)

  Cách đây đúng 50 năm-đúng nửa thế kỷ- trên chiến hạm chỉ huy Blue Ridge thuộc hạm đội thứ 7 đang đậu ngoài khơi bờ biển Việt Nam VN vào lúc miền Nam đang hấp hối.

Trên phòng chỉ huy của viên đô đốc Hạm đội thứ bảy, người ta thấy tề tựu đông đủ các ký giả nhà báo Mỹ đã từng có mặt trên các chiến trường VN như Stanley Karnov, tác giả cuốn Viêt Nam, a history. Frank Sneppp với các cuốn: Decent Interval và An Insinder Account of Saigon. David Halberstam với The best and the Brightest.. và Neil Sheehan, John Kenneth Galbraith..vv.

Tất cả bọn ký giả này, trừ Stanley Karnov và trum mật vụ Frank Snepp  đều là bọn ký giả thuộc thành phần phản chiến, luôn tìm cách bêu xấu và phát biểu tiêu cực về miền Nam. Bọn họ gián tiếp là nguyên cớ đưa đến sự suy sụp miền Nam vào ngày 30 tháng tư, 1975, toa rập với tên H. Kissinger.

Tôi gọi sau này là: Người Mỹ thua Mỹ ngay tại Mỹ.

Đặc biệt, phụ tá Trùm mật vụ Frank Snepp đã từ Đài Loan đến đây được vài giờ để đón tiếp một nhân vật quan trọng: Đại sứ Martin. Ông đại sứ là người Mỹ cuối cùng rời VN mà trên tay chỉ ẵm theo một gói: Đó là lá cờ Mỹ. Ngay khi vừa đặt chân lên bong tàu vào lúc 2 giờ 47, giờ Sài Gòn, ông nhận được một điện tín của H.Kissinger với nội dung như sau:

« Với lời khen ngợi nồng nhiệt vì ông đã chu toàn toàn trách nhiệm. Nước Mỹ đến như thế nào thì lúc ra đi cũng như thế!!!”

Nhìn từ trên bong tàu, các ký giả ngoại quốc đã thấy hàng ngàn những chiếc thuyền nhấp nhô như lá tre trôi trên biển. Đó là những thuyền đủ loại, đủ cỡ của những người Việt Nam đầu tiên bỏ chạy Cộng Sản. Họ là ai, số phận họ sẽ ra sao sau này?

Chẳng ai trong số những ký giả trên và ngay cả những người ngồi trên những chiếc thuyền đó có thể tiên đoán đuợc điều gì. Chỉ biết bỏ chạy đã. Chữ bỏ của chạy lấy người diễn tả đúng trong hoàn cảnh như thế này. Số phận họ ra sao không ai dám nghĩ tới, ngay cả đối với kẻ lạc quan nhất.

Và đã có hơn 100.000 ngàn người trong số 250.000 ngàn người như thế đã được vớt đi định cư.từ các chiến hạm của hạm đội 7. Cuộc ra đi thật bi tráng và tuyệt vọng đến tức tưởi. Số phận họ có khác gì những con thuyền lênh đênh trên biển cả như những lá tre?

Vâng những lá tre trên một đại dương mà lẽ sống chết đang chờ đợi họ.

Bằng mọi giá họ đã ra đi mà nếu nay ngồi nghĩ lại, nhiều người không mường tượng nổi, họ đã có thể làm một điều như vậy.

Nhưng cái “sô” vớt người trên biển trong tuần lễ cuối cùng của tháng tư và đầu tháng năm của người Mỹ cũng nói lên được cái gì:

 Người Mỹ có thể làm được tất cả mọi việc một cách quy mô, hoành tráng, ngay cả việc trốn chạy.

Đó là những thuyền nhân Việt Nam đầu tiên chạy trốn làn gió chướng từ trong đất liền đã thổi giạt họ ra biển..

Nhìn cảnh tượng đó, Stanley Karnov quay sang David Haberstam vừa cười vừa nói: Công việc đang xảy ra trước mắt chúng ta đây, ngày hôm nay như những chứng nhân lịch sử vào những giờ phút cuối cùng của miền Nam chắc hẳn có công của ông đấy.

Haberstam trả lời:

Tôi chỉ là một ký giá làm việc cho quyền lợi nước Mỹ trên mảnh đất nghèo nàn và khốn khổ này. Mỗi người Mỹ đến đây mang theo mình một trách nhiệm, một sứ mệnh.

  Chẳng hạn sứ mệnh của E. Lansdale và tôi- mặc dầu khác nhau- Nhưng tất cả, chúng ta đều làm vì nước Mỹ!!

 – Chắc là ông hãnh diện lắm.

– Đương nhiên, vì thế mà tôi có mặt ở đây trong giời phút này. Thôi, mời ông nhìn xem cảnh tượng dưới kia xem.

Ông cứ tưởng tượng, trong số 100 ngàn người dưới kia, ít ra cũng đến phân nửa ở tuổi vị thành niên, Cái hình ảnh ngưới lếch thếch, lang thang với từng đoàn người người nối đuôi nhau chạy trốn

Nếu tôi là họa sĩ, tôi chỉ vẽ lên cái cảnh này đũ diễn tả cái hiện trạng người Việt bỏ chạy. Và nếu cần nói một điều gì về lúc đó, về tâm trạng những người bỏ chạy thì có thể tóm tắt trong một câu: Tất cả đều hoang mang và không có một chút hy vọng gì về tương lai cả

Bài hát vui Que sera sera của Doris Day trở thành câu hỏi cho mỗi người Việt bỏ nước ra đi.

Những điều nhận xét của ký giả Haberstam sau này chỉ đúng có một nữa phần đầu của câu chuyện.

Trong lúc đó, một sĩ quan đang trình với viên đô đốc chỉ huy chiến hạm 7 là có một vị tướng lãnh trẻ VN(NCK) vừa đáp trực thăng của ông xuống bong tàu muốn được gặp.

Vị đô đốc ra lệnh một cách tắt gỏng là: Ông nói với ông ta là tức khắc cởi bộ quân phục cũng như lon của ông ra và không được tuyên bố gì..

Đây là nước nước Mỹ trên biển chứ không phải là VNCH nữa.

 Nhiều người sau này cho biết là viên tướng VN sau đó đã nhục nhã khóc, quỳ xuống, ngữa mặt lên trời và hét to lên:

« Ta thề với trời đất là ta sẽ trở về.”

Sau này được biết là ông đã giữ đúng lời thề, ông đã về..

Nhưng vấn đề là về để làm gì và về như thế nào? Đó là chuyện khác.

Và cứ như thế, không phải chỉ có đêm 29 tháng tư, mà tiếp câu chuyện đêm nay còn được tiếp diễn dài dài.

Các con số thuyền nhân trốn khỏi Việt Nam càng gia tăng theo nhịp độ của những chính sách của Hà Nội như “đi vùng kinh tế mới”. “học tập cải tạo”, “đánh tư sản, mại bản”, và cuối cùng “đi bán chính thức” nhằm vào giới Hoa Kiều. Cứ mỗi một đợt chính sách lại thêm số người trốn ra đi khỏi nước.

Tổng cộng đã có gần hai triệu người trốn đi như thế.

Đấy là còn chưa kể những nguời để lại xác trên biển cả. Con số này chẳng ai biết là bao nhiêu? Và cũng chẳng ai có thì giờ tìm hiểu làm gì. Người chết thì đã chết. Phải vậy không? Tiếc nuối rồi cũng nguây ngoa, người Việt đến được các xứ tự do mọi người đều quyết tâm cất cật lực để lo sinh kế, miếng ăn trước đã.

Tất cả những chính sách vừa kể trên là nhằm đánh vào những thành phần phản động, ngụy quân, ngụy quyền, tay sai Mỹ Ngụy. Nước nhà đã độc lập, nay bỏ nước ra đi thì không phản động thì còn là cái gì?

Nhưng chính thức thì có thể quả quyết rằng, nhà nước không cưỡng bức một ai phải bỏ xứ ra đi, và cũng không giữ một ai muốn ra ra nước ngoài sinh sống.

Và cuối cùng để giữ thể diện, vừa loại bỏ được những thành phần ” rác rưởi” muốn vứt, vừa kiếm được tiền hoặc để trao đổi trong thương thuyết, nhà nước Cộng Sản đã đồng ý với Liên Hiệp Quốc theo một chương trình “ra đi trong vòng trật tự”(orderly Departure Program).

Thảm cảnh thuyền nhân trên biển vì thế đã giảm mức độ đi nhiều.

Tất cả câu chuyện, những thảm cảnh trên biển cả nay đảo ngược trở thành cái mà Michel Tauriac trong Hồ sơ đen của Cộng sản (Le dossier noir du Communisme)(1) tóm tắt đầy đủ ý nghĩa tóm gọn trong một câu:

Những con bò sữa thuyền nhân”.

Gió đã đổi chiều, gió chướng đã thổi họ ra biển, nay ngọn gió nào đã đưa họ về?
(1) Cuốn sách Le livre noir du Communisme, Hắc thư về chủ nghĩa cộng sản, do nhà Robert Laffont xuất bản, Paris, năm 1997, 846 trang do Stephane Courtois cầm đầu với 11 tác giả.

Hình ảnh thật biểu tượng và gợi hình. Thật vậy, tất cả những con bò sữa thuyền nhân đã ra đi với hai bàn tay trắng để lại tiền bạc, nhà cửa ruộng vườn. Họ đã vắt được bao nhiêu sữa ở những con bò đó:

Vắt lúc ra đi và nhất là vắt lúc trở về.

 Nói chi đâu xa, tôi có căn nhà kiểu biệt thự ở số 224B Nguyễn Hùynh Đức, quận Phú Nhuận. Căn nhà đó lúc mua là 5 triệu 300 ngàn trước 75. Tính theo trị giá vàng thời đó là khoảng 80 chục cây. Ra đi hợp pháp, có giấy tờ hẳn hoi, đi bằng cửa chính ra Tân Sơn Nhứt.
Kể cũng lạ, tên đường phố ở Sài Gòn thường đổi cả, chỉ có phi trường Tân Sơn Nhứt là vẫn để nguyên, phải chăng bởi vì tên đó chẳng gợi nhớ lên một ấn tượng gì? Lúc ra đi, cái được coi như giấy thông hành là mảnh giấy mà nội dung như sau: Căn nhà 224B Nguyễn Huỳnh Đức do nhà nước quản lý. Quản lý là giữ giùm? hay giữ luôn?

Việc ra đi theo diện người Hoa, bán chính thức hay việc quản lý nhà cửa đất đai, tài sản nằm trong tay Bộ nội vụ. Công việc bộ này là đảm trách và tổ chức nhằm “nhổ sạch lông” những bọn người lưu vong này.

Kẻ dỗi hơi ngồi tính nhẩm chuyện nhổ sạch lông này đem lại cho nhà nước ít nhất là 25 tấn vàng. Tôi không tin vào con số, đúng sai khó đoán vì không biết tính toán. Nhưng ấn tượng trong đầu tôi là nhiều lắm, nhiều lắm lắm. Nhưng 25 tấn vàng vẫn là chuyện nhỏ.

Vẫn là chuyện vắt đi. Vắt lại mới là quan trọng.

Trách chi những nhà báo Mỹ ở trên. Chính người Việt đã quên cái thảm cảnh liều chết ra đi với bất cứ giá nào,

 Nay họ đã quay trở về mà không thấy tủi hổ và khongo biết ngượng.

Và để gọi những thuyền nhân thì có nhiều tên gọi tùy theo thời kỳ: lúc đầu là bọn bán nuớc, bọn tay sai. Cho mãi đến 1990 cũng còn có người gọi Việt kiều là những tên Việt gian. Nói chung họ coi đó là thành phần rác rưởi của chế độ cũ, muốn thải loại, muốn tống đi cho rảnh mặt. Và gọi một cách vô tội vạ nhất là người nước ngoài. Nghĩa là có sự phân biệt đối xử giữa người trong nước và ngoài nước.

Sau này chữ được dùng hơn cả là Việt Kiều.

Rồi cứ như thế sau thời kỳ mở cửa mà số lượng người Việt về nước cũng như kiều hối đã bắt buộc mọi người phải thay đổi lại thế nhìn, thế bắn. Không ai có thể từ chối được những món quà, không phải 10 đô la trong ngày lễ Noel mà là 3 tỉ đô la. 3 tỉ đô la! Không phải chỉ 3 tỉ đô mà nay nhiều lần hơn 10 tỉ-15 tỉ, chiếm tỉ trọng một phần ba ngân sách nhà nước.

Nhờ đó tình nghĩa hàn gắn những vết sứt sẹo, những lời nói mà bình thường chỉ được coi như kẻ thù.

Gió đã đổi chiều nên ngôn ngữ cũng đã đổi theo. Những chiếc thảm đỏ đã trải dài từ phi trường Tân Sơn Nhứt đến Nội bài chạy thẳng vào Bắc bộ Phủ.

Thật là trớ trêu đến nực cười ra đi trốn chui, trốn nhủi, lúc trở về thảm đỏ dưới chân..

Những thành phần rác rưởi ta vừa nói ở trên, những con bò sữa đã vắt cạn chẳng bao lâu sau trở thành rác quý mà người ta có thể chế biến thành những sản phẩm, những vật liệu để xây dựng một nước Việt Nam hùng mạnh. Đã chẳng ai ngờ điều đó đã xảy ra. Rác rưởi cứ thể đổi hình đổi dạng mà tính ra tiền bằng những sản phẩm mới.

Những anh thuyền chài có thể ra đi vỏn vẹn chiếc quần đùi nay chễm trệ ngồi Mercedes. Những mệnh phụ nói tiếng Mỹ oe oé mà nếu không có cuộc đổi đời này cùng lắm chỉ bán cá chợ Trần Quốc Toản.

Kể gì đến những hiện tượng nhỏ nhoi đó.

Đã có rất nhiều thay đổi tràn đầy hy vọng như thế đối với giới người Việt di tản, nhất là nơi người trẻ. Họ không còn là cô nữ sinh cười e lệ, hỏi không dám mở lời mà nay là những chuyên viên hàng đầu của xã hội Mỹ. Có những người trong bọn họ đã làm ra số vốn bạc tỷ. Có người trong bọn họ cùng với bạn đầu tư nửa tỷ đô la tại nơi mà trước đây được coi là thánh địa của cuộc kháng chiến chống Mỹ..Củ Chi với những địa đạo, nơi tự hào về cuộc chiến thần thánh trong tương lai trở thành biểu tượng “thung lũng của ngành tin học.”

Đã chẳng ai từ hai phía, người trong nước cũng như người nước ngoài nhìn thấy được điều đó ngay từ đầu.

Chuyện kể ra như một giấc mơ hay như câu chuyện thần thoại.

Và cái kim chỉ đường cho người Việt tương lai là hãy nhìn vào giới trẻ đang lên. Họ chiếm đa phần. Tương lai thuộc về họ, đời sống thuộc về họ, cộng đồng VN là họ.

Không phải do một thiểu số những người lớn tuổi như tôi. Những người bỏ nước ra đi đã chỉ nhớ cái phần đầu câu chuyện mà quên phần cuối.

Những người không biết kể chuyện và những câu chuyện kể càng ngày càng nhạt phèo như nước ốc.Thời của họ đã hết. Ngay cả Thời của Thánh thần hay Thiên đường mù cũng bị bỏ quên lãng.

Những người còn bám víu vào quá khứ có thể được coi là những người không thức thời. Nhưng nếu không bám víu vào đó thì họ còn gì là họ?

Họ chỉ còn là những loài củi mục trong đám cây rừng đang xanh lá. Củi mục thì làm gì? Đốt làm củi cũng không xong.

Nhưng chắc hẳn nhiều người không

nghĩ như thế. Bỏ vấn đề chính tri, lịch sử xã hội qua

một bên thì vẫn còn lại vấn đề nhân cách, vấn đề đạo lý con người. Củi mục thì cũng vẫn là củi.

Người ta nói, nhìn cây thì thấy rừng, nhưng nhìn củi mục thì thấy gì? Thà là như anh thuyền chài, thà là như chị bán cá nói tiếng Mỹ oe éo.

Thà là như thế.

Phải nhớ rằng cuộc ra đi bất hạnh đã trở thành đại hạnh cho chính mình, cho con cháu mình, cho cái nơi mình đi tới và cả cái nơi mà từ đó mình đã ra đi.

Hãy nhìn vào những con số để nhận ra câu chuyện thần thoại về người Việt di tản.

Năm 1987, có 8 ngàn người về thăm quê hương, đến năm 1993 thì con số tăng lên 160 ngàn người, đến năm 2002 là 380 ngàn người. Con số tự nó nói lên điều gì rồi và người ta bắt đầu vỡ lẽ ra. Bên cạnh đó, kiều hối đem lại một sốn tiền tươi là 2 tỷ 6 đôla trong năm 2003. Hãy làm một so sánh cho rõ. Năm 2003, Việt Nam xuất khẩu được 20 tỉ đôla, trừ vốn liếng cho sản xuất, lời ròng của 20 tỷ vị tất đã được 5 tỷ?

Có một điều, nhiều người vô tình quên là năm nay có 2 triệu lượt khách đến Việt Nam. Cứ giả dụ, mỗi người khách tiêu 2000 đô la đầu người. Số tiền thu được sẽ là bao nhiêu? Trong số 300.000 người Việt về thăm quê hương, cứ cho là vừa tiêu sài, vừa cho bà con họ hàng, ở từ hai tuần đến một tháng, mỗi người đổ đồng chi tiêu 4000 đô la cho một chuyến về thăm quê hương, cán cân ngân sách cũng như nền kinh tế Việt Nam đã được kích cầu lên không nhỏ.

Tiềm năng thật lớn. Tương lai cũng đầy hứa hẹn.

Đó là nền kinh tế sống nhờ trên những kỹ nghệ không khói.

10 năm nữa, dự đoán số khách du lịch là 10 triệu người-năm như Thái Lan hiện nay, với các đường bay thẳng Sài Gòn-Mỹ, Sài Gòn-Âu Châu. Chuyện đã xảy ra và chắc sẽ xảy ra.

Lúc đó tiền đổ vào qua du lịch không phải là nhỏ nên hiện nay trên hầu hết 60 tỉnh thành của VN đều có khu du lịch đủ kiểu.

Điều đáng nói hơn nữa là nay có một số Việt Kiều về nước kinh doanh đầu tư với 74 dự án được chấp nhận với số vốn 540 triệu đô la. Những Việt kiều như Nguyễn chánh Khê với phát minh chế tạo thành công than Nano áp dụng vào việc sản xuất mực không phải là hiếm.

Năm vừa qua, dự án khu khách sạn Vinpearl Resort- Spa, 5 sao, tại đảo Hòn Tre, Nhatrang đã khánh thành vào cuối năm với số tiền đầu tư là 500 tỉ đồng.Phần lớn các số tiền đầu tư này tập trung vào lĩnh vực công nghiệp, tin học, lắp ráp, du lịch.

Cũng vì thế, nhà nước đã chẳng tiếc lời gọi Việt Kiều là những người con của đất nước. Những lời lẽ trân trọng mật ngọt đã hẳn là không thiếu. Gió chướng đã không còn nữa.

Gió đã đổi chiều, ngôn ngữ đổi chiều, giọng lưỡi đổi giọng. Không còn có chữ nghĩa làm đau lòng nhau nữa.

Trên tất cả các sách báo, trên các trang nhà, không còn có thể tìm thấy bất cứ thứ chữ nào nói xa nói gần đến chế độ miền Nam trước đây nữa.

Những chữ như bọn ngụy quân, ngụy quyền và bọn tay sai đã không tìm thấy trong tự điển của bộ chính trị nữa.

Ngược lại không thiếu những chữ mật ngọt như “Tổ quốc Việt Nam, quê hương thân thiết luôn giang rộng vòng tay chào đón những người con xa xứ.”

Nhà nước bảo hộ quyền lợi chính đáng của người Việt nam định cư ở nước ngoài giữ gìn quan hệ gắn bó với quê hương, góp phần xây dựng quê hương, đất nước”.

Luật quốc tịch điều hai thì viết rõ ràng thế này:” Người Việt Nam ở nước ngoài là công dân Việt Nam “Người Việt nam ở nước ngoài là bộ phần không tách rời của cộng đồng dân tộc Việt Nam.”

Nhà nước lại còn trích dẫn câu nói của ông Hồ mà không ai tự hỏi xem ông nói lúc nào và bao giờ: “Tổ quốc và chính phủ cũng luôn luôn nhớ thương đồng bào, như bố mẹ thương nhớ những người con đi vắng. Đất nước hòa bình..” bác nói với kiều bào ở Thái lan về nước năm 1960.

Hình như người ta đã quên cái cảnh bồng bế xô đẩy nhau lên máy bay và bằng bất cứ giá nào phải đi bằng được. 29 năm sau, câu chuyện kể về thuyền nhân chỉ còn là dĩ vãng mà cả bên này bên kia đều đã quên hoặc cố tình quên.

Thật ra không hẳn là như vậy. Nhà nước chính quyền hoan hỉ nhận những đồng tiền Đôla từ mọi nơi gửi về cũng như người Việt mang tiền về nước.

Mang tiền về thì được chứ đừng mang chữ về. Chữ hiểu theo nghĩa rất rộng là sách báo, tư tưởng, âm nhạc, nghệ thuật.

Từ khi có nhà nước Cộng Sản đến nay..Chữ vẫn là độc quyền tuyệt đối nằm trong tay đảng.Nó nằm trong một hệ thống khép kín: Chủ nghĩa hay ý thức hệ – bạo lực khủng bố – và một chính quyền toàn trị. (ideology, terror and totalitarian government).

Chẳng lạ gì, trước khi về VN, người ta thường khuyên có một điều duy nhất: anh muốn làm gì thì làm:

chẳng hạn anh có thể cờ bạc, chơi bời đủ kiểu, tắm đủ kiểu, phòng trà đủ kiểu, âm nhạc đủ kiểu, cà phê đủ kiểu, gái đủ kiểu, sex đủ kiểu, ngủ trưa đủ kiểu, ngủ tối đủ kiểu, ăn đủ kiểu, vừa ăn vừa chơi đủ kiểu, đĩ điếm đủ kiểu, hối lộ đủ kiểu, lưu manh lường gạt đủ kiểu, gian trá đủ kiểu, buôn bán mánh mung đủ kiểu, làm giầu đủ kiểu, đầu cơ đủ kiểu, công an đủ kiểu, phường khóm đủ kiểu, công ty đủ kiểu, cơ quan đủ kiểu, chính quyền địa phương đủ kiểu, chính quyền trung ương đủ kiểu, luật pháp đủ kiểu, thằng ăn cắp xử thằng ăn cướp đủ kiểu và cuối cùng xã hội lọan đủ kiểu.

Ta có quyền đủ kiểu hết, miễn là đừng đụng đến chính trị.

Vì trên hết, vẫn có một nhà nước toàn trị ở trên tất cả những đủ kiểu đó. Trước khi lên máy bay về nước, còn dặn với theo: nhớ nhé đừng đụng đến chính trị.

Phải nhìn nhận rằng, sự suy đồi đạo đức xã hội ở VN đã đi quá xa đến mức nó xuống cấp, vượt xa những nước tư bản Phương Tây. Đến nỗi phải kêu lên một câu: Có nước nào như nước ấy không?

Phát triển kinh tế không đồng nhịp với cải tiến xã hội và đạo đức. Về Xã hội, chỉ nhìn giao thông đường phố Sài Gòn, Hà Nội là đủ hiểu. Về đạo đức, chỉ nhìn thực trạng học đường ở VN là đủ hiểu.

Mặc dầu vậy, ngày nay, có nhiều bà con Việt Kiều tính về ở hẳn VN. Có người trong đám này về Việt Nam dưỡng già với xe hơi SUV.

Có những ông già lấy tiền xã hội của Mỹ về tậu nhà, tậu cửa, líu lưỡi khen ngọng và hãnh diện nói: mấy chục năm không sáng tác được, nay về ở VN nhờ đó mới hoàn thành được tác phẩm. Có ông Nhà văn ” tiến bộ” nay trở thành thứ ” Chim hót trong lồng”.

Tất cả đều thuộc loại người không biết ngượng.

 Trong vòng 10 năm nữa, khi xa lộ đông tây hoàn thành, khi 6 tuyến xe điện ngầm xây dựng xong, khi đường hầm Hải Vân nối liền Nam Bắc nay đã hoàn tất, thành phố Sài Gòn sẽ thay mặt đổi tên chẳng còn ai nhận ra nó nữa.

Nay ở Sài Gòn, đã có những khu nhà “Làng Việt Kiều “. Người ta dự trù có 4 khu như thế, với những biệt thự sang trọng, đủ tiện nghi như ở Mỹ, Canada.Người ta thấy những Việt Kiều lái những chiếc xe SUV, hay ngồi nhâm nhi ly rượu cocktail bên bờ sông Sài Gòn. Những căn nhà có những bãi cỏ xanh, mái nhà mầu cam kiểu California, những hồ bơi với những cây dừa với những hàng chữ tiếng Anh Welcome.

Đây là, chẳng phải ai khác, mà là những nguời di tản, những rác rưởi 37 năm trước chạy trốn Cộng Sản, hoặc đã bị đi tù, đi cải tạo. Gió chướng đẩy họ ra đi, nay gió nào đẩy họ về?

 Chẳng hạn, anh chàng Võ Q, kèm theo cái tên Larry, nay đã 65 tuổi, trước đây là một sĩ quan không quân, quân đội VNCH. Anh ta ta đã rời bỏ vùng Southern Califronia cách đây 2 năm cùng với vợ, còn có tên cúng cơm là Lynda để về ở đây. Anh ta khoe căn nhà với vẻ hãnh diện không cần giấu giếm với đồ dùng toàn bằng Inox, phòng tắm lớn có vòi tắm hơi, thiết trí theo kiểu Jacuzzi của Ý. Sàn nhà mầu hồng bóng lộn. Anh còn chỉ cho thấy và nói thêm: Không phải cẩm thạch đâu nhé, đá hoa cương thứ thiệt đấy.

 Thiệt là quá rẻ, còn rẻ hơn ở Hoa Kỳ rất nhiều. “Thiệt là Việt Kiều”.

Một anh khác tên Hoàng Tiến, chả bù cho lúc ra đi lếch thếch, lang thang, nay anh trở thành chủ nhà thầu đang có những kế hoạch xây cất nhà cho Việt Kiều với những dự án ” thành phố xanh” (Green city).

Cái điều oái ăm đến quái gở là khi ở Mỹ, người ta tìm cách đặt tên Little Saigon, Phở Bắc, bánh mì Tân Định, bánh cuốn Đakao, Restaurant Hoài Hương để nhớ về;nay ở Việt Nam thì người ta lại muốn đặt tên cho những khu thương xá là ” tiểu Cali “, ” tiểu Fairfax ” để nhớ đến.

Và cứ như thế, sẽ có một số người Việt gốc Mỹ sống riêng biệt trong những tiểu quốc của họ bên cạnh những người Việt bản xứ.

 Khi ở Mỹ thì họ nhớ Việt Nam, khi ở Việt Nam họ lại tiếc lối sống Mỹ. Họ trở thành người ngoại quốc trước mắt những người đồng loại của họ.

  Họ tưởng về quê thật, nhưng lại mang tâm trạng một thứ chủ nhân, cách biệt với dân bản xứ.Và điều rõ rệt là Hoàng Tiến đã bực tức về một căn nhà hàng xóm đã vứt những bao rác ra đường ngay cổng nhà anh ta, đã mở nhạc Karaoké tùy tiện ầm ĩ cả lên. Anh bực tức nói:

– Như thế không phải lối sống Mỹ, không biết tôn trọng luật pháp.

Như thế là thiếu văn minh. Khi ở Mỹ thì anh muốn bảo tồn văn hoá Việt, không muốn trở thành Melting pot hay Sálát Mỹ. Anh bắt con đi học tiếng Việt. Về VN, đụng mở mồm là anh xổ tiếng Mỹ cho oai. Quả là về sống ở Việt Nam thì lại là câu chuyện khác.

Trong tương lai, Hoàng Tiến sẽ còn phải bực tức nhiều về những điều trái tai gai mắt: chẳng hạn một anh cán bộ phường cứ xồng xộc vào nhà chẳng điện thoại trước.

Riêng Nguyễn Anh, năm nay mới 35 tuổi về Việt Nam làm việc cho một công ty nước ngoài. Ra đi từ nhỏ, kể như không biết gì về Việt Nam, anh cũng không có ý ở hẳn VN.Nhưng anh cũng có một vài nỗi khổ vặt khác.

Nguyễn Anh sửng sờ khi làm một việc gì giúp người khác không nhận được một tiếng thanh kiu, thanh kiếc gì hết. Anh cũng khó chịu khi mọi người chen lấn không xếp hàng khi trả tiền.Nhất là các cô thiếu nữ trông khả ái, dịu hiền, nhưng cũng huých tay chân như ai.

Gần như mạnh ai nấy làm, mạnh ai nấy sống chen lấn chụp giựt. Nguyễn Anh có hơi buồn về con người Việt Nam vốn có tâm hồn, vốn thương người mà một tai nạn xe cộ xảy ra đến chết người mà mọi người dửng dưng. Quả thực, tuy là người Việt Nam, nhưng anh lại không hiểu gì về người mình.

Lại nói đến giải trí, Nguyễn Anh không hiểu được là người Việt Nam “Xem thể thao” chứ không chơi thể thao.

Mấy triệu người thức đêm, bỏ công ăn việc làm, bỏ học để dán mắt vào đài truyền hình theo dõi một trận đá banh. Thật là vô lý vì hại sức khỏe. Chỉ có 22 cầu thủ thực sự chơi thể thao, còn cả nước chỉ ngồi xem thể thao, chưa kể còn cá độ.Hình như cái gì ở Việt Nam cũng có thể trở thành cờ bạc. Lại một điều nữa, Nguyễn Anh không hiểu được.

Nguyễn Anh thì chỉ thích đi đánh golf. Nhưng muốn chơi ngon, Nguyễn Anh phải lấy vé máy bay ra Phan Thiết chơi, vì ở đó có sân chơi nổi tiếng là đẹp. Ít ra thì điều đó cũng làm Nguyễn Anh vui lòng.

Nhưng có người thấy như thế thì lấy làm kỳ cục. Họ chép miệng, tội tình gì mà phải cất công như thể để chơi Golf. Chơi đâu chả được. Phí tiền nữa. Nguyễn Anh không đáp lại, vì anh có cái lý của anh. Đúng là anh thấy người Việt mê đá banh một cách kỳ cục. Nhưng ngược lại, họ cũng thấy anh không giống ai.

Còn về thanh niên, thiếu nữ thì chửi thề không biết ngượng mồm, nhất là thanh niên, thiếu nữ gốc Bắc. Mở mồm ra là địt. Sáng ra, chỉ hỏi giá cả món hàng đã bị một người con gái xinh đẹp phạng cho một câu.

 Nói gì thì nói, nghĩ gì thì nghĩ. Thời gian sẽ xoá nhoà tất cả vết tích cũ: thời gian cứ trôi qua, nhiệt tình chống Cộng giảm xuống và tình hoài hương lại trỗi dậy.

Những vị lãnh đạo trong nước thì nghĩ rằng: Nhân dân muốn quên hết mọi thứ.Những người này hiện ở đây vì đất này là tổ quốc của họ. Chúng ta không có quyền trách mắng họ. Chúng ta tiếp đón họ. Chúng ta không muốn để Việt kiều gây chiến tranh lần nữa.

Tự nhiên bật ra một câu hỏi: Nhưng nhân dân là ai mới được cơ chứ?
Nhưng tôi cho rằng lịch sự trớ chêu có những bài học không bao giờ chúng ta học hết được.

Chiếc soái hạm Blue Ridge 37 năm trước trong vai trò chở binh lính Mỹ và người tỵ nạn VN ra khỏi miền Nam thì hiện nay đang đậu ở bãi Tân Sa, Hải Phòng!

Đố ai biết được ngày hôm nay vai trò của Blue Ridge đên VN với mục đích gì?

© Nguyễn Văn Lục


 

NHÂN TAI chứ không phải thiên tai

 

Tôi xin nói rõ ; theo tôi , năm nay không phải là lũ lụt . 

Năm nay không phải lụt . Cũng không chỉ là lũ, theo nghĩa ta quen gọi .

Không cần giàu tưởng tượng lắm đâu , để mà thử nghĩ : Chảy hết núi rồi , thì đến gì nữa ?

Cứ đà này , rồi sẽ đến một ngày , cái nơi thân yêu và thiêng liêng mà ta vẫn gọi là Đất nước , là Tổ quốc , cái mặt đất trên đó là làng mạc , đồng ruộng , thành phố , con người nữa… tất cả , tất cả ta vẫn đinh ninh là trường cửu , là vĩnh hằng đây , có chảy trôi tuột luôn hết ra Biển Đông không ?

Song tôi có cảm giác dường như năm nay , đến giờ này , thì không còn có thể nói đến “ tương tự “ được nữa . Năm nay đã có cái gì đó mới , khác , cái khác đó lại là cơ bản , rất cơ bản . Tất nhiên ở đời không có gì đùng một cái bỗng xảy ra , cái điều tôi thấy và muốn nói là mới , khác , mà lại là mới , khác một cách cơ bản năm nay , tất nhiên đã từng có dấu hiệu những lần trước rồi , nhưng là lẻ tẻ , thỉnh thoảng , trong một điều kiện cực đoan bất chợt nào đó . Nó tích tụ dần , cho đến năm nay , thì trở thành hiện tượng tai họa cơ bản . Hơn thế nữa , rất có thể từ nay cái cơ bản này sẽ trở thành bình thường , hằng năm , ngày càng nặng hơn , dữ hơn . Thành “ quy luật ” nếu ta muốn nói cho có vẻ chữ nghĩa , khoa học một chút .

Giáo sư Nguyên Ngọc Lung , chuyên gia số một về rừng , vừa có bài viết nói rõ : khi còn rừng tự nhiên thì mưa xuống chỉ có 5% nước chảy trên mặt đất , 95% sẽ ngấm xuống thành nước ngầm , cho nên ta đào giếng ở đâu cũng có nước . Khi mất rừng tự nhiên thì ngược lại , chỉ 5% ngấm xuống thành nước ngầm , hơn 90% sẽ chảy tràn trên mặt đất .

Nghĩa là còn rừng tự nhiên thì chỉ có lụt . Lụt hiền , lành , và thân thuộc như bạn chung tình mỗi năm một lần trở lại . Tôi ở Hội An , tôi biết , 3 năm qua không có lụt , người ta nhớ và chờ . Lụt rửa sạch ruộng đồng và mang về phù sa .

Lũ là khi đã mất rừng tự nhiên , chỉ còn lơ thơ mấy cây bụi lẹt đẹt , với cỏ , với cao su , keo , cà phê… tràn lan , là các loại cây không có bộ rễ giữ nước , ( mà các báo cáo với thống kê cứ gọi vống lên một cách gian dối là “ độ che phủ ”), 95% nước mưa chảy thành thác trên mặt đất quét hết mọi thứ , làng mạc và con người .

Nhưng năm nay khác : Năm nay không chỉ có nước xối xả thành lũ . Năm nay đã diễn ra một điều hoàn toàn khác , mới , và rất cơ bản : NĂM NAY ĐÃ ĐẾN LƯỢT ĐẤT CHẢY .

Tôi chưa có con số thống kê , nhưng số người chết vì đuối nước lũ năm nay , thấp hơn rất nhiều số người chết vì bị đất chảy chôn vùi . Cần hết sức chú ý đến hiện tượng mới này .

Ta gọi là lở núi . Thôi thì nói thẳng đi : Từng quả núi , từng ngọn núi lớn nổ tung rồi chảy ra thành nước , thành thác , vùi lấp xóm làng , ruộng đồng , con người , nuốt gọn từng gia đình , từng cộng đồng người , tất cả , tất cả…

Con người sống trên đất , ấy là ơn nghĩa vĩ đại của Tạo hoá . Trên khắp thế giới con người đều gọi đất là Mẹ hay là Cha . Fatherland , Mère Patrie , người Việt thì gọi Tổ quốc của mình là Đất nước .

Mối quan hệ sinh tử của sự sống là Đất và Nước , được kết chặt vào nhau bằng Rừng . Năm mươi năm nay , với lòng tham vô độ , bất chấp mọi lời kêu cứu thất thanh , ta đã chặt đứt cái khâu sinh tử : RỪNG . Phá sạch sành sanh rừng rồi . Không còn rừng , rừng tự nhiên , thì NÚI CHẢY RA như nước . Năm nay không phải chủ yếu là lũ nước , mà là lũ đất . Đó là thay đổi cơ bản năm nay , và theo tôi , từ nay .

Ai dám bảo là không ?

Nguyên Ngọc .

Các ông phá nát rừng rồi ngăn nước làm thủy điện ,đảo lộn sinh thái ,khi mưa lớn sợ vỡ đập nên xả nước làm ngập .

Đây là NHÂN TAI chứ không phải thiên tai


 

 ” THẾ MỚI ĐÁNG MẶT ĐÀN ÔNG “- Truyen ngan HAY

Xuyên Sơn

 ” THẾ MỚI ĐÁNG MẶT ĐÀN ÔNG “

Bình sinh, cho đến bây giờ đã sang bên kia dốc cuộc đời, tôi vẫn thường tự cho mình là kẻ không đến nỗi phải xấu hổ với danh phận của một thằng đàn ông, một thương gia.

Ấy vậy mà cuộc đời phiêu bạt để bỗng có một ngày đẹp trời, trên một phiên chợ vùng cao, tôi bị choáng váng vì tự thấy xấu hổ với mình khi ngồi nghe trộm câu chuyện của hai người đàn ông xa lạ.

Bên một chiếc bàn gỗ mốc thếch, tôi ngồi uống rượu với một người bạn. Anh này thạo nhiều thứ tiếng dân tộc vì đã một thời chuyên đi thu mua nấm rừng, thảo quả trong các bản làng xuất sang Trung Quốc.

Bàn bên cạnh có hai người đàn ông mặc quần áo chàm vừa nốc từng bát rượu đầy vừa chằm chằm nhìn vào mặt nhau.

Ngồi né ra xa một chút là một người phụ nữ váy áo thêu xanh đỏ, khắp người đeo không biết bao nhiêu vòng bạc lủng lẳng.

Suốt đến gần nửa tiếng đồng hồ chỉ thấy có một anh chàng nói, khi thì giận dữ khi thì nghẹn ngào, có lúc lại đắm chìm trong ưu tư như bị men rượu nhấn chìm.

Can rượu to trên bàn đã vơi quá nửa, bỗng hai người đàn ông ôm chầm lấy nhau, nức lên rưng rức.

Cái bàn ọp ẹp chao ngiêng làm hai bát rượu đổ tóe ra sàn.

Lẳng lặng nhìn hai gã đàn ông quá say, người đàn bà cúi xuống nhặt những chiếc bát đặt lên bàn rồi lẳng lặng mở nút cái can nhựa cao đến hai gang tay, nghiêng can rót rượu đầy tràn hai miệng bát. Xong xuôi lại trở về chỗ, lẳng lặng nhìn bâng quơ ra rặng núi mây giăng ngang trước mặt.

Thấy cảnh lạ lùng, tôi thì thầm hỏi anh bạn xem chuyện gì đang xảy ra. Thì ra hai gã đàn ông này chính là “tình địch” của nhau, theo cái cách định nghĩa ngu ngốc của người dưới xuôi ta.

Một anh là chồng, còn một anh là người yêu cũ của người đàn bà đang ngồi đây.

Nhìn kỹ ra thì cô vẫn còn khá trẻ , xinh xắn nhưng vẻ tiều tụy và cam chịu làm cho ta nghĩ rằng đấy đã là một thiếu phụ nhan sắc đang phai tàn.

Chiều tối ngày hôm qua họ đã xuống đến chợ. Như nhiều đôi khác, hai vợ chồng này buộc ngựa vào một góc bên quán, ăn một bữa no nê rồi chia tay nhau.

Sáng hôm nay họ lại tìm về quán cũ theo lệ thường để rồi sẽ lại ăn một bữa trước khi túc tắc dắt ngựa đi về. Thế nhưng lần này, cô vợ không về quán một mình mà dẫn theo anh người yêu cũ. Thế là ba người ngồi cùng nhau. Hai người đàn ông và một người đàn bà.

Anh bạn tôi ngồi xây mặt ra cửa nhưng căng tai về phía bàn bên để nghe và cố hạ giọng dịch cho tôi nghe từng câu nhát gừng đứt quãng của người đàn ông đang vừa nói vừa uống một cách đầy bức xúc.

Anh bạn tôi còn phải tóm tắt cả câu chuyện đã xảy ra trước khi tôi hỏi, thế nhưng vẫn theo kịp được khúc sau vì anh kia cứ nói một câu lại uống một hớp, rồi lại gật gật cái đầu như đang cố vắt ra các ý nghĩ lộn xộn nằm đâu đó bên trong óc mình.

Tôi vừa nín thở để nghe và cố sắp xếp các lời dịch của anh bạn.

Cuối cùng thì tôi hiểu được đại khái câu chuyện giữa hai người đàn ông, một người chỉ nói, vừa nói vừa nghẹn ngào, một người cúi gằm mặt xuống vừa nghe vừa cắn chặt hàm răng.

Bỏ qua những câu vòng vo mà tôi không nhớ mà cũng không hiểu hết ý thì tóm tắt lại là như sau:

– Thằng Xín Thau kia, mày uống hết cái bát ấy đi rồi nghe tao nói.

Suốt đêm qua tao đau tức cái tim, đau quặn cái ruột. Tao đi theo vợ mày về đây tìm mày.

-…

– Cái ngày bố mày theo ông thầy cúng đưa mày đến đón vợ mày về, tao buồn muốn chết. Tao đã bắn hết cả một túi thuốc, nhồi hết đạn chì thì nhồi sỏi sạn vào mà bắn. Đáy nòng vỡ ra, sẹo trên má tao vẫn còn đây này.

-…

– Sau khi cưới, vợ mày nó bảo rằng tao đừng buồn, mày thương vợ lắm. Tao tin nó quá, thế là tao vui rồi

– ….

– Phiên chợ trước tao được tin nhắn là phiên này vợ chồng nhà mày sẽ đi. Tao đắp vội mấy khúc bờ ruộng cho xong, tao bỏ cái đám cưới trong bản để ra đây gặp vợ mày.

– …

– Mày phải biết, khi đi ra chợ tao vui quá, bỏ không bắn hai con chim to trên cành, bỏ không bắn một con nhím to trong bụi. Tao chỉ nghĩ đến cái lúc được gặp vợ mày. Thật đấy. Tao vẫn còn thương con vợ mày lắm mà.

– …

– Đến lúc tao tìm được con vợ mày, tao vui đến chảy cả nước mắt.

Tao lại hát lại cái bài mà ngày xưa lần đầu tao hát vào bên tai con vợ mày, cái đêm đầu tiên tao gặp được nó.

– …

– Thế mà, dắt nhau đi rồi, đèn tao chiếu vào tận mặt mà tao không còn nhận ra nó là cô con gái đẹp nhất bản ngày xưa. Giàng ơi. Ngày xưa cái mặt ấy tròn như trăng rằm, hai cái vú nó tròn to như hai quả dưa chín, cái tay nó đẹp như mình con trăn trên cây, tiếng nó cười hay như chim hót làm nắng cũng cười theo, cái váy nó thơm như hoa rừng làm bướm cũng bay theo.

– …

– Giàng ơi. Đêm qua tao chỉ thấy mặt nó cong méo như trăng hạ tuần, ngực nó nhăn như hai quả bí héo.

Nó không cười, nó chỉ muốn khóc. Tao đau cái tim tao quá. Giàng ơi.

– …

– Mày nói đi. Là thằng đàn ông, mắt mày có nhìn thấy vợ mày nó khổ hay không? Là thằng đàn ông, mày có thấy vợ mày nó buồn hay không?

– …

– Mày là thằng tốt số nhất đời.

Mày sinh vào lúc nào mà mày lấy được vợ mày? Mày thật là có cái tội to. Hôm nay tao định đánh mày, tao thương con vợ mày quá.

– …

– Lần này tao mang hai bao ngô giống. Tao không bán nữa. Mày mang về đi mà trồng. Phiên chợ sau tao gửi phân bón vào cho.

– …

– Đến kỳ ngô ra bắp tao bảo mày cách đặt bẫy. Tao có bài thuốc,  bẫy sập là lợn rừng ngấm thuốc không chạy được đâu. Tao sẽ cho mày. Nếu nhím sập bẫy, mày bắt nguyên cả con mang ra chợ.

Có người mua ngay. Ba cái dạ dày nhím sống là đổi được một con lợn giống to.

– …

– Mày không được lười. Mày đói thì tao kệ xác cha con mày, nhưng vợ mày thiếu thóc thiếu ngô là tao đánh mày đấy.

– …

– Thằng Xín Thau kia, mày có phải là thằng đàn ông hay không?

Nhìn hai gã đàn ông gục đầu vào nhau rưng rức khóc trên hai bát rượu đã cạn khô, tôi thấy thật là khó tả. Nhìn sang người đàn bà lẳng lặng ngồi bên, tôi không đọc được những ý nghĩ gì đang ẩn hiện trong đầu cô ta.

Phải chăng là vừa hạnh phúc vừa tủi thân, phải chăng là vừa ái ngại vừa thương xót cho cả hai gã đàn ông của cô.

Rất lâu về sau, một lần tôi đem câu chuyện này kể cho vợ tôi nghe.

Vợ tôi thở dài, cầm cái điều khiển tắt phụt màn hình vô tuyến đang lải nhải rất vô duyên về hạnh phúc gia đình rồi bâng quơ

” Đàn ông phải như thế mới đáng mặt thằng đàn ông chứ ! “

Nguyễn ( St )

Và , có một cô bé thiểu số có Nick ngồ ngộ trên FB

” Dân tộc thì sao, kệ tao ” nên mới có thơ:

” Dân tộc thì sao , kệ tao”

Chúng tao vẫn kệ có sao đâu mà

Dưng mà cái miệng như hoa

Mắt như đốm lửa, mượt mà tóc đen

Áo hoa ban váy hoa sim

Nước da trắng bóc, khó tìm nơi tao

Kệ tao, dân tộc thì sao.

Mày tao mà vẫn ngọt ngào, sướng thay.

Nhìn càng đắm ngắm càng ngây

Say lời hát lượn hay say rượu cần …

Nguyễn – dân tộc Kinh

(Sưu tầm)

Nguồn fb Xuan Cuong


 

Chúa Cha mặc khải cho những người bé mọn – Cha Vương

Một ngày tươi vui ấm áp trong Chúa và Mẹ nhé. 

Cha Vương

Thư 6: 5/12/2025.  (t3-23)

TIN MỪNG: Ngay giờ ấy, được Thánh Thần tác động, Đức Giê-su hớn hở vui mừng và nói: “Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu kín không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn. Vâng, lạy Cha, vì đó là điều đẹp ý Cha.” (Lc 10:21)

SUY NIỆM: Bạn thân mến, cuộc hoán cải thật sự không khác gì hơn là hành động của Thiên Chúa bên trong tâm hồn bạn chứ không phải nỗ lực của bản thân mình. Hãy hình dung rằng Chúa là cái áo phao giúp bạn nổi trên mặt nước. Dù tài bơi lội của bạn có cao siêu đến đâu, rồi đến một giây phút nào bạn sẽ bị đuối sức và bị cuốn đi bởi sức mạnh của nước. Để đảm bảo cho sự sống còn bạn phải cộng tác với Chúa, bạn phải bám vào áo phao! Thánh Phaolô khuyên nhủ rằng hãy mặc lấy tinh thần của Đức Kitô; thì mới có được tinh thần của Đức Kitô. Những ký ức bị tổn thương trong quá khứ, những nghiện ngập đang huỷ hoại thân xác và linh hồn, những mối quan hệ không lành mạnh… chúng đang đè nặng và khéo bạn xuống tận đáy sâu của biển cả. Bạn cần phải đưa nó đến cho Thiên Chúa và để cái ách nhẹ nhàng êm dịu của Chúa chạm vào tâm hồn bạn và đổi lấy sự hoán cải và chữa lành tận căn. Nói cái khác đi là bạn phải trở thành kẻ đơn sơ: đơn sơ với Chúa, đơn sơ với lương tâm và đơn sơ với mọi người. Như Chúa dạy hôm nay đơn sơ là điều kiện để được gần bên Chúa và được Chúa ban ơn. 

LẮNG NGHE: Lòng kính sợ ĐỨC CHÚA làm cho Người hứng thú, Người sẽ không xét xử theo dáng vẻ bên ngoài, cũng không phán quyết theo lời kẻ khác nói, nhưng xét xử công minh cho người thấp cổ bé miệng, và phán quyết vô tư bênh kẻ nghèo trong xứ sở. (Is 11:3-4a)

CẦU NGUYỆN: Lạy Chúa, xin thanh lọc và tẩy sạch tâm hồn của con, bạn cho con ơn hoán cải để con trở nên đơn sơ bé mọn trước mặt Chúa.

THỰC HÀNH: Nhìn lại những tổn thương trong quá khứ và xin Chúa tẩy sạch trong bí tích hoà giải.

From: Do Dzung

Trẻ Thơ Đơn Sơ – Bé Mỹ Kiều – (St: Sr Têresa) 

BÀI GIÁO KHOA CŨ

Xuyên Sơn

Bài học cũ, đơn giản nhưng dạy trẻ con biết hoài niệm, biết nghĩ về những gì đã có.

Đọc lại một trang giấy nhỏ, đã cũ, đã bị phế bỏ, mà nghĩ rằng người viết chẳng có chức phận hay quyền hành gì, nhưng họ hành động như một người Việt buộc phải cẩn trọng trách nhiệm với trăm năm sau.

Chỉ tự tâm niệm mà cẩn trọng.

Không cần phải có một tôn giáo hay lý tưởng vĩ đại nào, chỉ cần một tấm lòng học làm người, biết thương nhớ mẹ cha, đã là một công dân tử tế trên nước Việt.

“Con không cần phải khấn, vì hồn mẹ lúc nào cũng phảng phất bên con”.

Thật ra, câu văn chỉ là một lời an ủi. Nhưng cảm động đến có thể rơi bước mắt. Lời dạy còn âm thầm nhắc rằng khi hành động bất kỳ điều gì, đều có một lương tâm truyền đời dõi theo và nhắc nhở.

Nếu không có mẹ cha và người đi trước, thế hệ hôm nay dễ dàng trở thành hành động, suy nghĩ vô loài.

Chân thành với giáo dục không khó, nhưng cố gắng tạo dáng vẻ cho giống như giáo dục thì rất khó.

Nhiều năm cải cách, gắng gượng thay đổi sách giáo khoa cho thấy một tương lai dân tộc rất mơ hồ: một hệ thống vật vã, gượng gạo tạo ra cái mới – rất giả tạo – bởi mang quá nhiều mặc cảm với cái cũ đã hoàn chỉnh từ một thể chế khác.

Sẽ chẳng ngạc nhiên, khi hôm nay, mọi thứ giả dối đang lên ngôi:

Giả trí thức, giả văn bằng, giả học vị… và cuối cùng là giả làm một người yêu nước.

Nhạc sĩ Tuấn Khanh