TÌNH VỌNG – Tác giả: Phát Dương- Truyen ngan HAY

Xuyên Sơn

 TÌNH VỌNG

Bữa nay thấy cổ xanh xao quá, chắc đang muốn bệnh…

– ông ngó lom lom người đàn bà đang sắp trái cây chuẩn bị mở bán buổi sáng, cách quán ông ngồi cái ngã tư.

Túy cười, nhìn ông già lóng ngóng bưng ly cà phê đen lên, hớp mấy lần không vô miếng nào.

Vô gì nổi mà vô, bận ngắm “người đẹp có tuổi” bên kia.

Chưa từng thấy ai thương thầm bền bỉ như ông già này.

– Vậy sao tía không dặn “bồ câu” của tía qua “hỏi thăm” người ta luôn? – Túy nói, lôi tờ báo ra tính đọc.

Thiệt ra hai người không có quan hệ máu mủ gì hết.

Túy chạy xe ôm công nghệ, hay ghé đây làm ly cà phê với ổ bánh mì hai trứng cho tỉnh trước khi bật app kiếm khách.

Lần nào tới cũng thấy ông Ba ngồi trước, mặt luôn hất qua bên kia đường, chỗ sạp trái cây.

Tới lúc nghe cô chủ quán nói ổng ngồi vậy mấy năm rồi đó, anh chỉ biết kêu trời.

Thương gì mà im ru ngồi một chỗ ngó mấy năm, trần gian này chắc có mình ông.

Ngồi gần riết quen, từ từ thân, anh kêu ông bằng tía nuôi.

Anh mồ côi cha, trong thâm tâm cũng ngưỡng mộ mối tình câm của ông, tính ra gọi vậy hợp.

– Dặn rồi, dặn rồi! – ông Ba cười khà khà, lại cầm ly cà phê lên ực một ngụm… không khí, mắt chưa thôi dán vô sạp trái cây.

Ông Ba dứt lời đã thấy thằng nhỏ lon ton đi tới sạp trái cây.

Đó, “bồ câu” của ông Ba đó.

Ông mướn nó, bởi vía tốt mạng hợp, ngày nào cũng biểu nó qua mua trái cây ủng hộ người đàn bà cho cả ngày buôn bán đắt khách.

Ông Ba hồi hộp coi thằng nhỏ nói cười với bà chủ sạp, lo không biết nó có nhớ lời ông dặn hỏi thăm hổm rày bà có bị làm sao không.

Lá me trên cao rắc xuống bám đầy trên tóc mà ông không hay, mặc kệ chúng điểm lấm chấm vàng.

Ông bận nín thở quan sát người thương.

Thằng Túy thấy cảnh đó ồ lên trong bụng, nhìn tía nuôi nó lúc này đẹp hết sẩy. In hệt bức tượng đá đen, cẩn vàng lấp lánh bằng mớ lá me, thần thái toát ra nửa hạnh phúc nửa ngóng trông coi buồn đứt ruột.

Ăn hết ổ bánh mì, uống cạn ly cà phê, Túy mắc nói quá.

– Rồi tía định chừng nào nói cho “người ta” hay có người để ý

“người ta” mấy năm ròng? 

Ông Ba như bị câu hỏi đập mạnh vào đầu, cả người rung một cái chao đảo. Lấy lại bình tĩnh, tằng hắng nạt:

– Mày lo coi kiếm khách đi chứ trưa trờ trưa trật kìa, ở đó nhiều chuyện.

Thằng Túy đứng lên trả tiền, bị nạt mà vui, chưa kịp trả luôn phần ông Ba thì đã nghe tiếng ông:

– Phần tao lát tao tự trả, mày mà trả là mai mốt hổng có tía con gì hết nghe.

***

– Sao con, sao con… – ông Ba chồm khỏi ghế, sốt sắng hỏi thằng nhỏ “bồ câu”.

Nó vuốt mồ hôi lấy lại nhịp thở mới trả lời được:

– Con nghe cô bán báo kế bên… nói… bà Chín bữa nay… bệnh… nên hổng có… có bán…

– Bệnh nặng hông con, nặng hông?

Bị sao? Có ai chăm hông? ông Ba hỏi liên hoàn.

Túy phải ra hiệu cho ông Ba chầm chậm lại để thằng nhỏ còn kịp nhớ mấy tin tức nó dò được.

Bà Chín, chủ sạp trái cây ông thương thầm, bị cảm lạnh do hứng mấy trận mưa đầu mùa.

Không sao hết, đau đầu nên nằm nhà cho con gái chăm, mai mốt là khỏe re chứ gì, đó là cô bán xôi đậu trước sạp báo nói vậy.

– Chắc bả tiếc tiền chưa chịu làm lại mái che, để mưa tạt vô hoài.

Thiệt tình, có bao nhiêu đâu… ông Ba buồn so, lặng lẽ đặt người xuống ghế trong tư thế của chiếc lá vàng đáp đất lúc không có gió.

– Thì tía qua làm cho “người ta” đi! thằng Túy bỏ nửa ổ bánh mì đang gặm xuống bàn.

Ông Ba nhìn Túy, mặt mếu như sắp khóc. Đâu phải ông không muốn.

Ông tha thiết được qua đó a-lô người tới làm liền nhưng sợ sau đó ông không còn được ngồi đây mà nhìn lén “người ta” nữa.

Nhìn mặt ông, Túy không dám chọc nữa, cắm cúi ăn cho xong phần bánh mì. Thiệt tình thương kiểu gì cực thân hổng hiểu nổi!

*****

– Cho con hai chục ngàn đó luôn, khỏi thối! ông Ba chơi lớn với thằng nhỏ bán vé số làm nó mừng húm.

Túy thấy bữa nay tía nuôi anh trông tươi quá xá.

Bà Chín đã dọn hàng ra bán lại.

Vui hơn nữa khi “bồ câu” được ông Ba phái qua đưa mấy bịch chè thưng với lý do “má con nấu nhiều quá ăn hổng hết” và bà chịu nhận.

Thương kiểu ông là kiểu thầm lặng không cần đáp lại, hễ làm gì được cho người thương vui là lòng như trổ cả một hàng rào bông tươi thắm.

Ông Ba nhìn hoài nhìn hủy sạp trái cây tuốt đằng xa.

Không, ông không nhìn bằng đôi mắt nheo nheo đã ngả màu đục và đầy nếp nhăn kia mà nhìn bằng trái tim, bằng cả ký ức.

Túy nhớ có lần hỏi cắc cớ ông Ba, sao tía nhìn qua mị mị ngã tư thì thấy tỏ mặt người mà dò vé số phải kê sát mặt mới thấy.

Lúc đó mặt ông Ba đỏ rần, mắng anh là thằng quỷ.

Ông nói cũng không biết tại sao.

Mắt ông già khụ chứ có trẻ trung gì, nhìn xa chút đã mờ mịt.

Chỉ không hiểu sao nhìn sang “bên đó” lại rõ, như được lắp ống nhòm, thấy tận tường từng cái nhíu mày mệt mỏi của bà Chín.

Chắc có lẽ ông nhìn bằng quá khứ, bằng mấy chục năm thương nhớ.

Nỗi nhớ giày vò là nắm hạt rải xuống đất lành mọc lên rừng nhớ,

có chặt bao nhiêu lần cũng chỉ khiến chúng trổ bấy nhiêu lần tược mới.

Một chỗ cắt ra năm, sáu chồi, xanh um.

– Tía đừng nói với con mấy chục năm rồi tía mới gặp lại “người ta” nha?

Túy bóp bóp vai cho ông Ba, khi ông vặn vặn người than nhức mình nhức mẩy.

Ông Ba không nói, chỉ gật đầu.

Giọt nước mắt như con kiến bò khỏi ổ, chầm chậm đổ dọc xuống mặt.

***

Hai chục năm có khi hơn, ông Ba mới gặp lại bà Chín.

Đừng hỏi tại sao ông không chớp thời cơ tới giáp mặt người thương.

Ông thèm lắm, quay quắt như kẻ ly hương biết mình không còn nhiều

thời gian chỉ ray rứt muốn hồi hương. Nhưng làm sao làm sao làm sao đây?

Khi ông Ba không quên được hồi mười năm trước.

Nỗi đau cũ chưa hề liền sẹo. Ông gặp con gái bà Chín.

Cô nhận ra ông, liền sau đó giận dữ. Cô nói chính ông hại chết ba cô, đừng bao giờ tới kiếm má cô.

Ông không phải kẻ giết người.

Nhưng trời ơi ông vẫn là kẻ gián tiếp giết người.

Nếu hồi đó ông không tới, nếu ông không điên dại kéo bà Chín đi với mơ mộng chạy trốn, có lẽ chồng bà đã không chết.

Cặp mắt trân trân của chồng bà Chín còn hằn dấu trong đầu ông.

Giữa cơn mưa nhuộm xám xịt đất trời, cặp mắt bốc cháy như hai cục than gặp củi.

Ánh mắt nóng phừng xuyên qua ông, đang níu tay vợ người ta.

Bà Chín nhìn ông, cái nhìn đau đớn của thân cây bị phạt đứt đôi, rứt tay ông khỏi mình, chầm chậm rẽ mưa đi về phía chồng.

Ông chồng không nói không rằng, quay lưng bước.

Bất kỳ gã đàn ông yêu điên cuồng nào cũng là kẻ điên.

Ông Ba điên vì thương quá. Chồng bà Chín điên vì ghen quá.

Ông Ba xấn tới nhà cầu xin bà Chín bỏ tất cả theo ông, khi chính ông đã không còn màng gì.

Thì chồng bà giữa trận mưa xối chống xuồng vô giữa dòng sông cuộn đục, quyết chối bỏ sự thật hóa ra người mình ôm ngủ mỗi đêm chưa bao giờ yêu mình.

Cuộc hôn nhân ràng buộc chỉ là sự sắp đặt của người già.

Người ta chỉ thấy ông ấy đi chứ không thấy ông trở lại.

Người ta cũng thấy bà Chín khuỵu bên bến, gào khóc.

Người ta không tìm được xác chồng bà, chỉ tìm thấy những mảnh ván xuồng bể nát. Dám ông đã trôi tuốt đâu xuống hạ nguồn.

Có người nói biết đâu trước lúc chết ông ấy thề không nhìn mặt vợ,

nên thôi có kiếm cũng chẳng gặp đâu.

Lúc đó, con bà mới mười lăm tuổi đã phải hứng chịu nỗi đau mất cha, cùng những lời xì xầm người ta áp lên má mình, rằng đó không phải hạng đàn bà đứng đắn.

Làm sao mà nó không hận ông Ba cho được!

Ký ức đó như khối ung thư trong người ông Ba, mỗi năm mỗi di căn.

Bà Chín là thuốc chữa, thứ thuốc chữa xa vời ông vĩnh viễn không có được.

Ông cầm cự căn bệnh kỳ quặc đó bằng cách âm thầm theo dõi bà.

Biết bà vẫn ổn, vẫn sống khỏe, ông cũng an lòng.

Còn đòi hỏi gì nữa đâu.

Khi người ta soi gương nhận ra mình chẳng còn sợi tóc nào xanh trọn vẹn, thứ người ta muốn chỉ đơn giản còn vỏn vẹn chữ thương.

Dẫu vụng trộm thương, dầu hóa thành đứa nhỏ mỗi ngày đi ngang tiệm đồ chơi thèm thuồng nhìn chứ không có tiền mua, thì món đồ chơi còn nằm nguyên đó được ngắm thôi đã là thỏa dạ.

Còn mong gì nữa. Mà mong cũng có được đâu!

***

– Nếu trúng số tía định làm gì?

Túy mót mớ cà phê đắng trong lúc nhìn ông già cẩn trọng dò vé số.

– Tao sẽ gửi tiền cho “người ta” đi mổ tim.

– Làm gì nữa tía? Đi du lịch hả?

Túy nhìn ông tía nuôi, cười cười.

– Tao cho mày tiền sửa nhà với sắm xe mới, coi cái xe mày cũ xì hư lên hư xuống hoài – ông Ba rạng rỡ – chứ mang tiếng tía nuôi mà có làm gì được cho mày đâu!

– Tía hông để tiền dưỡng già hả?

Túy nghe sống mũi mình cay xè.

Anh không ngờ trong những dự định giàu sang của ông già chẳng máu mủ ruột rà lại có tên mình.

– Thôi mày ơi, tao không con cái lo chi nhiều.

ông lắc lắc đầu, bẻ trái chuối trong nải chuối thằng nhóc “bồ câu” mới từ chỗ bà Chín đem về, đưa cho Túy.

– Dễ gì trúng mày ơi! ông Ba thở dài.

***

Sáo nhìn má chìm vào giấc ngủ sâu, yên tâm ra khỏi phòng bệnh.

Má cô đã mổ tim xong, với số tiền một người bạn lâu năm của má gửi tặng.

Lẽ ra cô không nhận nhưng không làm khác được. Má lên cơn đau tim,

cần mổ gấp. Sáo đã thử gọi cho ba, ba chỉ giúp được một phần.

May có người bạn giấu mặt của má.

Chính Sáo cũng không ngờ ba còn sống.

Lúc biết tin, cô mừng lắm.

Dù sắp muộn nhưng chưa bao giờ cô thôi nhớ về ký ức ngày gia đình còn đủ ba người.

Cô tưởng ba sẽ trở về, nối lại dở dang ngày trước.

Nhưng không thể nữa rồi.

Ba đã có gia đình khác.

Từ từ, cô cũng thông cảm cho ba.

Thời gian dạy con người lớn lên, bằng cách chấp nhận những điều mà trước đây người ta nghĩ là không thể nào chấp nhận.

Không có lựa chọn khác ngoài chuyện đó, bởi điều đã xảy ra thì đã xảy ra, điều có thể thay đổi nằm ở hiện tại và tương lai mà.

Thời gian cũng làm Sáo nhận ra mình chẳng còn hận một người đến mức thề hủy hoại tất cả.

Cô biết rõ người gửi tiền cho má là ai, chỉ là chưa dám đối diện sự thật đó.

Cô chọn cách tiếp cận từng chút hai từ “tha thứ”.

Chẳng có mối thù nào lớn bằng tình yêu cô dành cho má. Nhìn má nằm trên băng ca chạy đua với thời gian,  cô da diết muốn làm má vui dẫu có mài mình ra để đổi.

Thì dẫu niềm vui của má là người đó, cô cũng bằng lòng.

Không phải Sáo không hay ông ta luôn dõi theo má.

Cả cô và má đều biết thằng nhóc mỗi ngày qua mở hàng sạp trái cây của má là do ông ta mướn.

Nhìn má tủm tỉm cười mỗi lần thằng nhỏ đem qua món gì đó; nhìn má trông ngóng khi chưa thấy nó tới; nhìn má buồn rầu lúc bệnh không ra bán được, cô làm như không biết những sắp đặt cố tình.

Từng ngày một, cỏ lên xanh vườn lòng hoang cũ.

Ngẫm nghĩ thật lâu, Sáo bấm số gọi cho thằng nhóc. Nhờ nó nhắn ông Ba tới thăm má cô.

***

– Con trả chiếc xe cho tía!

Túy bước tới nắm tay ông Ba giữ lại,  khi ông dợm bước đi.

– Cho rồi trả gì mà trả!

ông Ba vùng vằng.

– Nhưng tía nói xạo con! Tía đâu có trúng số!

Túy gào lên.

– Tía bán nhà rồi tía ở đâu?

Túy khóc, ôm chầm lấy ông Ba khi thấy ông định bỏ chạy.

Túy làm sao nghĩ nổi tiền ông Ba cho anh mua xe mới, tiền mổ tim cho bà Chín, là tiền ông bán nhà.

Một thân một mình, chỗ ở cũng không còn, thiệt tình anh không ngờ nổi trò liều mạng này của ông.

Anh tới kiếm ông, thừa biết có chết ông cũng không chịu nhận lại chiếc xe.

Thì anh sẽ ép ông về nhà anh ở, chứ đâu để tía nuôi chịu khổ được.

Đúng lúc đó, thằng “bồ câu” hồng hộc lao tới. Nó vồ lấy ông Ba, thì thầm gì đó.

Mặt ông như đóa bông héo gặp nước, bừng lên tươi.

Ông vỗ lưng Túy đau điếng, nhảy phốc lên xe réo như con nít sắp nhận quà:

– Lẹ, lẹ! Chở tao đi thăm bà Chín!

Túy cười, xốc ông ngồi lại cho ngay ngắn mà nghe mằn mặn trên môi.

Tác giả: Phát Dương

Nguồn fb Trung Kien Doan


 

TẠI SAO THẾ HỆ TRẺ VN SINH RA LÀ ĐỂ ĐI LÀM CU LI CHO NGOẠI BANG?

Nguyễn Doãn Đôn

Vì Nhà nước VN do Đảng CS độc tài kết hợp với bất tài lãnh đạo, nên không tạo ra được công ăn việc làm cho họ. 

Cả nước hiện nay biến thành thị trường tiêu thụ lượng hàng rất lớn từ Trung Quốc đưa sang qua nhiều con đường. Nó đã làm cho các hãng xưởng của VN không cạnh tranh nổi, nên phải đóng cửa, dẫn đến tình trạng công nhân bị thất nghiệp.

Lẽ ra hàng Tầu vào phải đánh thuế thật cao, còn hàng nội địa thì phải được ưu tiên, để kích thích cho doanh nghiệp VN mạnh lên,  từ đó mà họ có đủ khả năng cạnh tranh với hàng Tầu mới phải. Nhưng phía VN đã không làm. Thành thử nhiều ngành công nghiệp chủ là người  VN bị thương trường Tầu quật không tồn tại được. Họ phải bán hãng xưởng với giá rẻ rúng lại cho Tầu.

Sau đó một số công nhân VN sẵn sàng ở lại làm tiếp cho Hãng Tầu mua lại này, với đồng lương rẻ mạt. Nghĩa là họ làm nô lệ ngay trên chính Đất nước mình. Số còn lại tìm cách bung ra nước ngoài để hy vọng kiếm được nhiều tiền hơn và cũng là để biết đó biết đây; đồng thời tò mò xem Tư bản giãy chết thế nào mà chúng giàu có thế.

Cũng sinh ra  ở Châu Á với nhau, nhưng những nước văn minh có Chính phủ dân chủ  lãnh đạo, thì  nền kinh tế của họ phát triển tốt. Ví dụ như Nhật, Đài Loan, Nam Hàn thì  họ thừa việc làm. Nên họ mới nhận chúng ta sang làm cu li cho họ.

Còn lý do nữa là vì Chính phủ VN không biết xử dụng người tài, có trình độ chuyên môn. Họ để đa phần là người kém cỏi cho lên làm lãnh đạo, thành thử sai đường lạc lối. Kinh tế thị trường lại gắn cái đuôi “định hướng XHCN” vào, để Đảng có cớ  lãnh đạo và can thiệp toàn diện, nên không thể thành công được. Mà cũng không ai người ta công nhận. Thành thử các chính sách ưu tiên, ưu đãi về thuế  và chất lượng hàng hóa cũng như luật pháp không được bình đằng như các nước khác.

Nguyễn Doãn Đôn


 

ĐỜI ĐÁ, ĐỜI CÁT – Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

“Chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy, Đấng ngự trên trời, mới được vào Nước Trời!”.

“Julius Caesar chinh phục 800 thành phố, nhuộm cẩm bào bằng máu của một triệu kẻ thù; thế mà ngay sau chiến thắng vĩ đại nhất, Caesar bị đâm chết bởi những người bạn chí thiết! Thành công tạm thời thường đội vương miện cho kẻ vô thần. Khi những thành tựu rực rỡ nhất không đặt nền trên Thiên Chúa, chúng chỉ kéo dài ‘lâu’ bọt nước!” – Anon.

Kính thưa Anh Chị em,

Cũng thế, một đức tin không đặt nền trên Chúa Kitô, nó chỉ bền như bọt nước. Lời Chúa hôm nay xác quyết, ai xây đời mình – ‘đời đá’ – trên Ngài, “Người ấy mới được vào Nước Trời!”.

Thế nhưng, đặt nền móng không bao giờ là một công việc hào nhoáng. Chẳng có gì đẹp đẽ ở một hố sâu nơi công trường bùn lầy! Đời sống đức tin cũng vậy, muốn đào móng sâu, phải khiêm tốn, ngay lành, kiên định cầu nguyện, bền bỉ tìm kiếm bác ái và miệt mài tự hiến. Đào móng là đi xuống, đối diện nết xấu, lột bỏ những tội lỗi tệ hại nhất, chấp nhận để Chúa “đục” vào những chỗ ngoài ý thích. Không có bước quyết liệt này, bạn và tôi chỉ xây những ‘đời cát’, tưởng vững mà không bền. “Khiêm tốn là nền móng của toàn bộ toà nhà đời sống thiêng liêng!” – Têrêxa Avila.

Một toà nhà có vẻ an toàn khi trời quang mây tạnh, chỉ khi cơn dông ập xuống mới phơi ra độ chắc của móng. Đời sống thiêng liêng cũng thế. Khi an bình bao phủ, đức tin dễ “nở hoa”; nhưng khi cám dỗ, thất bại, tổn thương hay một khủng hoảng lớn bất ngờ xảy ra, chúng ta mới nhận ra độ cứng thật sự của nó. “Thử thách cho ta thấy mình là ai; chúng xới tung mảnh đất tâm hồn và phơi ra chất liệu thật!” – Charles Spurgeon. Vậy làm sao đứng vững? Câu trả lời được tìm thấy trong bài đọc một, “Chúng ta có thành trì vững chắc: Chúa đã đặt tường trong luỹ ngoài để chở che”. Tường luỹ ấy chính là Chúa Kitô, Đá Tảng ngàn năm bền vững. “Chính nhờ Đức Kitô, với Đức Kitô và trong Đức Kitô”, toà nhà đức tin – và cả lời nói của chúng ta – mới có thể đứng vững.

Anh Chị em,

“Chúng ta có thành trì vững chắc!”. Thành trì ấy là Chúa Kitô. Chỉ khi lời của chúng ta bắt nguồn từ Ngài, nó mới có lửa và ban sự sống, mới chịu nổi thử thách, mới trở thành “lời đá”. “Một lời Kitô giáo mà gốc rễ không bắt nguồn từ Chúa Kitô là một lời Kitô giáo lừa dối; chúng chỉ gây hại!” – G.K. Chesterton. Mùa Vọng, mùa “khởi sự lại từ Chúa Kitô” – trở về với Đá Tảng – đặt móng trên Ngài, lời Ngài, để Lời và Thánh Thần hướng dẫn tất cả mọi hành vi sám hối, trỗi dậy, đi tới và yêu thương. Chỉ như thế, đời sống của bạn và tôi không còn là ‘đời cát’ vốn chỉ một cơn gió nhẹ cũng có thể sụp. “Khi lời Kitô giáo thiếu Chúa Kitô, chúng bắt đầu đi vào con đường điên rồ, dẫn đến phù phiếm, tự tôn, kiêu hãnh và tham nhũng quyền lực. Chúa sẽ hạ bệ những người này!” – Phanxicô.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, đừng để con đội vương miện của kẻ vô thần vốn chỉ thoáng qua như bọt nước. Cho con biết xây đời mình – một ‘đời đá’ – trên chính Chúa, và nó sẽ luôn đầy lửa!”. Amen.

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

 ****************************************************

Lời Chúa Thứ Năm Tuần I Mùa Vọng

Ai thi hành ý muốn của Cha Thầy, mới được vào Nước Trời.

✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Mát-thêu.    Mt 7,21.24-27

21 Khi ấy, Đức Giê-su nói với các môn đệ rằng : “Không phải bất cứ ai thưa với Thầy : ‘Lạy Chúa ! lạy Chúa !’ là sẽ được vào Nước Trời cả đâu ! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi.

24 “Vậy ai nghe những lời Thầy nói đây mà đem ra thực hành, thì ví được như người khôn xây nhà trên đá. 25 Dù mưa sa, nước cuốn, hay bão táp ập vào, nhà ấy cũng không sụp đổ, vì đã xây trên nền đá. 26 Còn ai nghe những lời Thầy nói đây, mà chẳng đem ra thực hành, thì ví được như người ngu dại xây nhà trên cát. 27 Gặp mưa sa, nước cuốn hay bão táp ập vào, nhà ấy sẽ sụp đổ, sụp đổ tan tành”.


 

THÁNH PHANXICÔ XAVIÊ – Lm. Phao lô Phạm Quốc Túy

 Lm. Phao lô Phạm Quốc Túy

 Phanxicô ra đời tại lâu đài Xaviê thuộc vương quốc Navarre ngày 7 tháng 4 năm 1506.  Cha ngài là cố vấn của nhà vua miền Navarre và là thẩm phán.  Anh em ngài theo binh nghiệp.  Riêng Phanxicô ham thích học hành.  Năm 19 tuổi, ngài theo học tại Đại học Paris, trường lớn nhất thế giới.  Khi còn ở học viện thánh Barbe, ngài được phúc trọ cùng phòng với Phêrô Favre, người sau này sẽ nhập dòng Tên và được phong chân phước.  Bốn năm sau, ngài lại có được người bạn học giả là Inhaxiô thành Loyoa.

Người học trò mẫn cán đã trở thành giáo sư.  Ngài dạy triết học.  Thành công làm cho ngài thành con người tham vọng.  Inhaxiô nói với ngài về một hội dòng mà thánh nhân muốn thành lập.  Nhưng Phanxicô mơ tới danh vọng, ngài chế nhạo cũng như khinh bỉ nếu sống nghèo tự nguyện của bạn mình.  Inhaxiô vui vẻ đón nhận những lời châm biếm, nhưng lặp lại rằng :

 “Lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn nào ích lợi gì.”

 Cuối cùng, Phanxicô đã bị ảnh hưởng.  Inhaxiô còn đưa ra những lời cao đẹp hơn:

 “Một tâm hồn cao cả như anh, không hề chỉ gò bó với cái vinh dự thế trần được.  Vinh quang trên trời mới đúng với cao vọng của anh.  Thật vô lý, khi ưa chuộng một thứ mây khói chóng tàn hơn là những của cải tồn tại đời đời.”

 Phanxicô bắt đầu thấy được cái hư không của những sự cao trọng của thế nhân và hướng vọng tới của cải vĩnh cửu.  Chiến thắng rồi, ngài chống lại tính kiêu căng bằng mọi loại sám hối.  Ngài quyết định theo sát Phúc âm, vâng theo cách cư xử của người bạn thánh thiện và xin được khiêm tốn hãm mình.  Ngài chỉ còn chú tâm cứu rỗi các linh hồn.

 Ngày lễ Mông triệu năm 1533, trong một nhà nguyện tại Monmartre, trên mộ bia thánh Dénis, Phanxicô, Inhaxiô và 5 bạn khác đã hiến mình cho Chúa.  Họ khấn từ bỏ mọi của cải, hành hương thánh địa, làm việc để cải hóa lương dân và hoàn toàn đặt mình dưới sự điều động của Đức Thánh Cha để phục vụ Hội Thánh.  Phanxicô còn học thần học hai năm nữa, rồi cùng sáu bạn đi Italia.

  Đi đường, họ chỉ mang theo cuốn Kinh Thánh và sách nguyện trong bị, cổ đeo tràng hạt.  Tuyết lạnh hay khắc khổ cũng không làm họ sợ hãi.  Trái lại, Phanxicô lại còn cảm thấy quá êm ái nhẹ nhàng, nên một ngày kia đã cột giây thừng vào chân, khiến dây đó ăn vào thịt và ngay việc được khỏi bệnh đó cũng đã là một phép lạ.

 Đoàn quân bé nhỏ đó tới Venatia chống lại quân Thổ.  Thế là họ phải bỏ cuôc hành hương đi thánh địa. Đức Thánh Cha đã chúc lành cho nhóm bạn cũng như dự định của họ.  Phanxicô và Inhaxiô thụ phong linh mục ngày 16 tháng 6 năm 1537.  Phanxicô đã chuẩn bị thánh lễ mở tay bằng cuộc sám hối kéo dài 40 ngày trong một túp lều tranh bỏ hoang và sống bằng của ăn xin.

 Trong khi chờ đợi bắt đầu thực hiện công việc vĩ đại của mình, ngài rao giảng và săn sóc cho người nghèo trong các nhà thương.  Ngài còn phải chiến thắng chính mình nữa, chẳng hạn khi băng bó các vết thương lở loét.  Ngài luôn đi ăn xin thực phẩm.

 Khi Phanxicô được 35 tuổi, vua nước Bồ Bào Nha xin Đức Thánh cha gửi các thừa sai sang Ấn độ. Phanxicô rất vui mừng khi được chỉ định.

 Ngài bộc lộ cho một người bạn:

“Anh có nhớ rằng, khi ở nhà thương tại Rôma, một đêm kia, anh đã nghe tôi la:

 “Còn nữa, lạy Chúa, còn nữa” không?  Tôi đã thấy rằng: phải chịu khổ nạn cho vinh danh Chúa Giêsu Kitô.  Trước mặt tôi là những hoang đảo, những miền đất báo cho tôi biết trước cơn đói, cơn khát và cả đến cái chết dưới hàng ngàn hình thức.  Tôi ao ước được chịu khổ hình hơn nữa.”

 Chỉ còn 24 giờ để chuẩn bị lên đường.  Nhưng thế đã quá đủ để xếp đặt hành trang.  Với vài bộ đồ cũ.  Một thánh giá, một cuốn sách nguyện và một cuốn sách thiêng liêng.  Ngài đáp tàu.  Cuộc hành trình cực khổ vì say sóng.  Đau bệnh, ngài vẫn săn sóc các bệnh nhân.  Những thủy thủ hư hỏng dường như là đoàn chiên đầu tiên ngài phải đưa về cho Chúa.  Ngài rao giảng cho họ bằng chính việc chia sẻ cuộc sống với họ.

 Sau bảy tháng hành trình, người ta dừng lại bến Mozambique.  Khí trời ngột ngạt.  Một cơn bệnh dịch đang hoành hành nơi đây.  Phanxicô lại săn sóc các bệnh nhân và muốn sống đời cực khổ nhất.  Ngài lặp lại:

 “Tôi khấn sống nghèo khó, tôi muốn sống và chết giữa người nghèo.”

 Sau một năm hành trình, Phanxicô cặp bến Goa, thủ đô miền Ấn Độ thuộc Bồ Đào Nha vào tháng 5 năm 1542.  Ngài phát khóc vì vui mừng.  Nhưng việc cấp thiết, nhất là phải làm cho những người chinh phục Bồ Đào Nha giữ đạo đã.  Những tật xấu và tính hung hăng của họ làm ô danh Kitô giáo.  Còn dân Ấn thì thờ ngẫu tượng.  Vị tông đồ làm thầy thuốc, thẩm phán, giáo viên.  Ngài học tiếng một cách khó khăn, thời gian của ngài dành cho các nhà thương, nhà tù, người nghèo và việc dạy giáo lý.  Rảo qua đường phố, ngài rung chuông tập họp trẻ em và dân nô lệ lại, với sự nhẫn nại vô bờ, ngài ghi khắc tình yêu Chúa vào lòng họ.  Các trẻ em tham dự lại trở thành các nhà truyền giáo cho cha mẹ và thầy dạy của chúng.  Chúng mang thánh giá của “ông cha” cho các bệnh nhân.  Chúng trở nên hung hăng với các ngẫu tượng.  Bây giờ, các cánh đồng lúa vang lên được bài thánh ca.  Dần dần, đời sống Kitô giáo đã vững vàng trong lòng các gia đình.

 hanxicô nghe nói tới một bộ lạc thờ lạy ngẫu thần ở mũi Comorin, sống bằng nghề mò ngọc trai.  Muốn loan báo Tin Mừng cho họ, thánh nhân học ngôn ngữ mới, vượt mọi khó khăn để phổ biến đức ái và chân lý.  Rồi ngài lại qua các làng khác.  Cứ như thế ngài đi khắp Ấn độ.  Trong 15 tháng trời, ngài đã rửa tội cho một số đông đảo người Kitô hữu, khiến “xuôi tay vì mệt mỏi.”  Người nói : “Mọi ngày tôi đều thấy tái diễn những phép lạ thời Giáo hội sơ khai.”

 Ngài ngủ ít, đêm thức khuya để cầu nguyện.  Sống khắc khổ để đền tội cho các tội nhân.  Ngài chăm chú đào tạo các tâm hồn thanh thiếu niên địa phương để sai đi làm tông đồ truyền giáo cho các người đồng hương của họ.

 Ở tỉnh Travancore, trong vòng một tháng, thánh nhân đã rửa tội cho 10.000 người.  Người Brames muốn hạ sát ngài, nhưng ngài đã giữ được mạng sống một cách lạ lùng dưới cơn mưa tên.  Ở vương quốc Travance, khi nhóm người man-di muốn tràn ngập, Phanxicô cầm thánh giá trong tay với một số ít tín hữu đã làm cho họ phải tháo lui.  Ngài mang Tin Mừng tới Ceylanca, Malacca.  Các đảo Molluques vang danh vì sự hung tợn của họ, nhất là đảo của dân More ở phía Bắc…

 Ngài nhắm tới đảo này, ngài muốn bị dân cư giết chết như một vị thừa sai 13 năm trứơc đây sao?

 Người ta ngăn không cho tàu bè chở ngài đi.  Phanxicô đáp lại:

 “Thì tôi bơi tới vậy.”

  • Nhưng ngài sẽ bị đầu độc thì sao?

Ngài nói: “Niềm tin tưởng ở Thiên Chúa là thuốc kháng độc.  Rồi ngài thêm : “Ôi, nếu như hy vọng tìm được gỗ quí hay vàng bạc, các Kitô hữu đổ xô tới ngay.  Nhưng lại chỉ có các linh hồn cần được cứu rỗi.  Tôi sẽ chịu khổ gấp ngàn lần để cứu lấy một linh hồn thôi.”

 Phanxicô đã viết thư xin vua Bồ Đào Nha và thánh Inhaxiô gởi các linh mục tới săn sóc cho các cộng đoàn Kitô hữu ngài để lại.  Sự khó khăn và chậm chạp về thư tín làm cho đời ngài thêm nhiều phiền phức.  Ngài phải mất gần 4 năm để gửi thư từ Moluques về Rôma.  Dầu giữa các khó khăn mệt nhọc, thánh nhân không để mất tính hiền hậu và khiêm tốn.

 Năm 1549, một người Nhật được ngài rửa tội ở Malacca đã thu hút ngài tới hòn đảo vô danh, chưa có người Kitô hữu nào.  Lời cầu nguyện và đời sống hãm mình củng cố lòng can đảm của ngài.  Không để mình bị chán nản do ngôn ngữ khó học hay bởi nội chiến.  Ngài đã có thể tạo lập được một cộng đoàn Kitô hữu nhỏ như ngài mơ ước.  Các phép lạ củng cố lời giảng dạy của ngài, nhưng dân chúng bị đánh động nhiều hơn bởi đức tin và lòng can đảm của người ngoại quốc này đã từ xa đến để loan báo cho họ chân lý duy nhất.

 Được hai năm, nhà truyền giáo lại ra đi, để lại tại miền đất xa này những cộng đồng Kitô hữu đứng khá vững trong nhiều thế kỷ, dù không có linh mục cai quản.

 Phanxicô trở lại Ấn độ.  Ngài đã rảo qua gần 100.000 cây số trong 10 năm.  Bấy giờ, việc chinh phục Trung hoa ám ảnh tâm hồn ngài.  Ngài đáp tàu, nhưng không bao giờ tới được quốc gia rộng lớn này.  Vào cuối tháng 11 năm 1552, trên đảo Hoàng Châu, ngài bị lên cơn sốt rét.  Giữa cơn đau, ngài đã lập lại:

 Lạy Chúa Giêsu, con vua Đavid, xin thương xót con, xin thương đến các tội con.

 Ngài dứt tiếng và không nhận ra được các bạn hữu nữa.  Khi hồi tỉnh, Ngài lại kêu cầu Chúa Ba Ngôi, Chúa Giêsu và nài xin Đức Mẹ:  “Lạy Đức Trinh Nữ, Mẹ Thiên Chúa, xin hãy nhớ đến con.”

 Một người Trung Hoa thấy ngài hấp hối thì đặt vào tay ngài một cây nến.  Phanxicô qua đời ngày 03 tháng 12 năm 1552.  Ít tuần sau, người ta tìm thấy xác ngài vẫn nguyên vẹn và chở về Goa.  Dân chúng tại đây nhiệt tình tôn kính ngài, vì đã coi ngài như một vị thánh.

 Năm 1619, Đức Phaolô V đã phong chân phước cho ngài vào ngày 12 tháng 3 năm 1622, Đức Grêgôriô XV đã phong thánh cho ngài cùng với thánh Inhaxiô.  Nay Ngài được đặt làm bổn mạng các xứ truyền giáo.

Lm. Phao lô Phạm Quốc Túy

Trích: Theo vết Chân Người

From Langthangchieutim


 

PHAOLÔ Á CHÂU – Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

KÍNH THÁNH PHANXICÔ XAVIÊ, Linh mục, 03/12,

PHAOLÔ Á CHÂU – Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

“Hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo!”.

Ngày 15/8/1534, trên đồi Montmartre nhìn xuống Paris, Phanxicô Xaviê quỳ bên Ignatiô và năm bạn trẻ khác; họ khấn trọn đời. Đó là ngày sinh của Dòng Tên! Từ khoảnh khắc lặng lẽ ấy, một hành trình đằng đẵng khởi đi; từ đó, Phanxicô Xaviê – hạt mầm của một ‘Phaolô Á châu’ mai ngày – được gieo.

Kính thưa Anh Chị em,

Mừng kính thánh Phanxicô Xaviê, chúng ta ngỡ ngàng trước một con người đầy lửa, một ‘Phaolô Á châu’ “đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo!”.

Sáu năm sau ngày khấn, vị linh mục trẻ xuống tàu đi Ấn Độ, một chuyến đi không bao giờ trở về. Hơn một năm lênh đênh trên tàu buôn, giữa những cơn bão, sốt và đói khát, Phanxicô vẫn đứng vững như thân gỗ dẻo dai và vẫn bừng cháy. Trước khi nói với dân ngoại, Phanxicô đã phải nói với những đồng hương, những thương nhân buôn bán nô lệ. Một tay cầm roi, họ quất trên những ‘con vật người’; tay kia lần chuỗi Mân Côi. Nghịch lý ấy đốt cháy trái tim vị linh mục trẻ. Bằng lòng tin và lòng bác ái, Phanxicô phải thắp lại ánh sáng trong lòng những thương nhân này, trước khi đưa nó đến những vùng xa xôi.

Đặt chân lên Goa, Phanxicô bắt đầu rao giảng, và ‘lửa’ lan xa – Malaysia, quần đảo Spice, những miền heo hút của Ấn Độ, rồi Sri Lanka – đâu đâu cũng ghi dấu bước chân và mồ hôi của vị thừa sai trẻ. Năm 1548, Phanxicô đến Nhật Bản, trở thành nhà truyền giáo đầu tiên mang Tin Mừng đến vùng đất mặt trời mọc. Hạt giống được gieo lớn lên thành một Giáo Hội mạnh mẽ, để dù trải qua nhiều thế kỷ bách hại khốc liệt, Giáo Hội Nhật Bản vẫn kiên trì sinh hoa trái, với những cộng đoàn âm thầm và vô số vị tử đạo.

Năm 1552, Phanxicô nhận lời mời đi Trung Hoa, một lục địa bao la còn lạ lẫm với Tin Mừng. Nhưng tại đảo Shangchuan – cửa ngõ – Phanxicô kiệt sức và qua đời ở tuổi bốn mươi sáu; tuổi mà nhiều người chỉ mới bắt đầu sự nghiệp, Phanxicô đã kết thúc một cuộc đời cháy đến tận cùng. Thi thể ngài được đưa về Goa; cánh tay phải – tay đã rửa tội cho bao linh hồn – được tôn kính tại Rôma. Trong vòng mười năm, người ta ước tính Phanxicô đã đi hàng chục ngàn cây số trên bộ và trên biển, đưa hàng chục ngàn người đến với Chúa. Nhưng những con số ấy không phải là di sản thật sự, di sản thật là một trái tim đã để Chúa Kitô chiếm ngự, bừng lên thành ánh sáng cho muôn dân; thổi nguồn cảm hứng cho bao hồn tông đồ.

Anh Chị em,

Nhìn lại Phanxicô – ‘Phaolô Á châu’ – mẫu gương mạnh mẽ cho thời đại hôm nay, chúng ta tự hỏi, ánh sáng của bạn và tôi thì sao? Trong mười năm tới – hay chỉ trong một thời gian rất ngắn còn lại – liệu có thể thắp lên một ngọn lửa nào đó khởi đi từ chính gia đình, cộng đoàn, môi trường của mình để sưởi ấm, để gieo một ánh lửa nào đó của Chúa Kitô? Một ánh lửa cũng đủ, nếu trung thành. Vì ánh sáng không cần lớn; nó chỉ cần được thắp lên! “Hãy lắc những chiếc chuông vẫn còn rung – mặc cho dâng vật của bạn không hoàn hảo!” – Leonard Cohen.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, Chúa muốn con làm gì hôm nay và trong những năm ‘có thể rất vắn’ còn lại của đời con?”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế)

**************************************************************

Lời Chúa KÍNH THÁNH PHANXICÔ XAVIÊ, Linh mục, 03/12, Thứ Tư Tuần I Mùa Vọng

Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng.

✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Mác-cô.    Mc 16,15-20

15 Khi ấy, Đức Giê-su hiện ra với Nhóm Mười Một và nói với các ông rằng : “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo. 16 Ai tin và chịu phép rửa, sẽ được cứu độ ; còn ai không tin, thì sẽ bị kết án. 17 Đây là những dấu lạ sẽ đi theo những ai có lòng tin : nhân danh Thầy, họ sẽ trừ được quỷ, sẽ nói được những tiếng mới lạ. 18 Họ sẽ cầm được rắn, và dù có uống nhằm thuốc độc, thì cũng chẳng sao. Và nếu họ đặt tay trên những người bệnh, thì những người này sẽ được mạnh khoẻ.”

19 Nói xong, Chúa Giê-su được đưa lên trời và ngự bên hữu Thiên Chúa. 20 Còn các Tông Đồ thì ra đi rao giảng khắp nơi, có Chúa cùng hoạt động với các ông, và dùng những dấu lạ kèm theo mà xác nhận lời các ông rao giảng.


 

 MỘT CHUYỆN TÌNH NHƯ CỔ TÍCH-tác giả Lệ Hoa Wilson

Xuyên Sơn

 MỘT CHUYỆN TÌNH NHƯ CỔ TÍCH

Em sanh năm 1974 tại Cam Ranh dưới cái tên trữ tình và có một chút hơi cung đình là Chiêu Nguyễn Phương Lan.

Nhưng cái tên đẹp đẽ kia không cải tạo được số mạng nghiệt ngã của em.

Hai tháng sau mẹ em cảm thấy có gì là lạ nơi mắt em. Bà đem em đi khám bác sĩ và kết quả đã làm cho tim bà tan nát. Mắt em bị một chứng bịnh lạ lùng và đang từ từ mất đi hoàn toàn thị giác.

Đau khổ hơn nữa là đám virus ác nghiệt từ tròng mắt tấn công lên não. Để bảo tồn mạng sống cho em, bác sĩ phải mổ lấy ra một con mắt và hai năm sau con mắt thứ hai.

Hai lỗ mắt trống hoắc và mí mắt sụp xuống che lại bầu trời có thiên địa huy hoàng, có bông hoa rực rỡ, có sông dài xanh ngát, có núi xám trời cao. Tất cả chỉ còn là bóng tối…

Một người mù hỏi thánh Anthony:

“Còn có điều gì khổ hơn là bị mù không?”

Thánh Anthony trả lời:

“Có đấy! Ấy là khi con người ta bị mất phương hướng!”.

May mắn thay, em không mất phương hướng.

Tụi nhỏ nhảy dây, em cũng nhảy dây dù vấp té không biết bao lần.

Tụi nhỏ hát, em cũng hát.

Tụi nhỏ vỗ tay cười giỡn, em cũng vỗ tay cười giỡn.

Tụi nhỏ học đờn tranh, em cũng học đờn tranh.

Và vì không bận nhìn ngang ngó dọc, em tập trung tất cả thời gian vào thực hành nên em đờn hay hơn tất cả bạn bè, em học giỏi hơn tất cả bạn bè.

Năm em lên 7 tuổi, mẹ dẫn em xin vào học trường Nguyễn Đình Chiểu ở đường Nguyễn Chí Thanh nhưng bị từ chối vì cha em là ngụy!

Mẹ em đã lạy lục đầu trên xóm dưới, năn nỉ cùng trời cuối đất và sau cùng em được nhận vào học ăn ở nội trú một tuần năm ngày, tự giặt quần áo, tự tắm rửa v.v.

khi lớn lên một chút thì em học thêm nghề bó chổi, đan chiếu.

Ba năm cuối của trung học em được nhận vào trường phổ thông cơ sở quận Bình Thạnh.

Khi chấm dứt trung học, em thi vào trường Văn Hóa Nghệ Thuật chuyên ngành âm nhạc.

Ba năm sau em thi vào trường Cao Đẳng Sư Phạm và năm 1998 em ra trường với danh dự thủ khoa ban Anh Văn, môn phụ Nhật Văn chỉ với một cái máy thu băng cũ kỷ để thâu lời giảng dạy và một cái máy đọc chữ Braill để làm bài tập.

Khi ra trường, em tuy hiểu Anh văn nhưng không nói được.

Để tập nói, hai mẹ con dẫn nhau ra hồ Con Rùa hoặc bến Bạch Đằng, mẹ em đưa tay ra khều những người ngoại quốc.

Có người xoay lại và vội vàng xua tay đuổi bà mẹ đi vì tưởng là bà xin tiền. Sau cùng bà phải nắm tay em để sát cạnh bà, khi người ngoại quốc xoay lại, em vội vàng trình bày ngọng nghịu là “tôi là người khiếm thị, tôi học Anh văn nhưng không nói được, tôi muốn nói chuyện với ông, bà để thực tập. Tôi không phải là người ăn xin”.

Em lần lượt dạy nhạc ở câu lạc bộ lao động quận 1, nhân viên của thư viện sách nói quận 3, và cuối cùng dạy cấp 1 cho hội Người Khiếm Thị thành phố.

Năm 1999 một phái đoàn Nhật tới Việt Nam tìm kiếm những người có khả năng nói được tiếng Nhật để đưa qua Nhật học ngành châm cứu và massage. Sau khi thành công sẽ để họ trở về VN dạy lại các người khiếm thị khác để những người nầy có được một nghề nuôi thân.

Em là người được chọn và sau một khóa học ba tháng tiếng Nhật, em thi đậu và được theo học trường Đông Du tại thành phố để hoàn chỉnh khả năng Nhật-Anh, Anh-Nhật.

Năm 2000 em xuất ngoại du học Nhật.

Sau bốn năm tận tụy học hỏi môn châm cứu và massage trị bệnh của người Nhật, một lần nữa em ra trường với danh dự thủ khoa!

Trở về VN, từ năm 2004 tới 2009, em dạy cho thanh thiếu niên khiếm thị tại Sài Gòn một nghề mưu sinh. Trong thời gian du học, người Nhật nhân đạo đã bỏ tiền ra cho em đi bác sĩ gắn cho em đôi mắt nhân tạo để gương mặt em trông được như bình thường và thêm phần xinh xắn.

George Kasperitis sanh năm 1964 tại Pennsylvania, Mỹ. Có dòng máu Đông Âu, anh cao lớn, khỏe mạnh, đẹp trai, chơi đàn piano, guitar, trống và là hình ảnh trong mơ của các nữ sinh trung học.

Ra trường Pennsbury High School năm 1983, anh chọn học cao đẳng về Natural Medicine, chuyên ngành massage và phòng bệnh theo cách tự nhiên.

Tuy được cấp bằng tốt nghiệp, anh lại không theo nghề mà trở về trang trại của ông nội để giúp ông trồng trọt và chăn nuôi vì ông nội đã già và cần có người thân giúp một tay.

Ai nói người Mỹ không có tình cảm gia đình và không biết hiếu thảo?

Sau khi ông nội mất năm 1988, anh mở cơ sở chuyên trị cho các lực sĩ thể thao bằng trị liệu đá nóng và đặc biệt là bằng trị liệu khúc tre nóng.

Anh giải thích là độ nửa tiếng trước khi khách đến, anh bỏ vào một nồi lớn 4 ống tre, mỗi ống có độ 3 đến 4 mắt tre. Anh thêm vào mấy thứ lá thơm và dầu quế và dầu hạnh nhân. Anh đã chà xát cho các mắt tre bớt nhọn nhưng vẫn còn chỗ lồi lõm.

Anh lăn ống tre nóng tẩm các khoáng chất tiết ra từ lá và dầu lên lưng, cổ, khuỷu tay chân làm trị liệu để kích thích làm các huyệt đạo nở ra làm huyết mạch lưu thông, để cơ thể sẽ tiếp nhận nhiều linh khí trong trời đất hơn và làm cho con người ta được khỏe mạnh hơn.

Chắc là lăn ống tre nhiều quá mỏi tay nên sau vài năm nổi máu giang hồ anh gia nhập Peace Corp

– Đội Hoà Bình – đi Ghana, là quốc gia ở Phi châu. Nơi đây các thiện nguyện viên xây cất bồn nước, lắp đặt các hệ thống lọc nước cho người dân địa phương được dùng nước sạch.

Trong những buổi tối nhàn rỗi giữa núi rừng hiu quạnh, anh lên mạng và tìm kiếm người nói chuyện trên mục Pen Pal.

Nơi đó anh đọc thấy hàng chữ: “thiếu nữ Việt Nam, 30 tuổi, độc thân, thích âm nhạc, hiện đang học ngành massage và bấm huyệt trị bệnh tại Nhật”.

-Ôi em ơi, hợp quá, anh cũng thích âm nhạc, anh cũng thích nghề massage trị liệu. À mà em chơi nhạc cụ gì? Anh thì đàn piano, guitar và đánh trống.

-Em đàn tranh anh à.

-Đàn tranh là đàn gì vậy em?

-Là một loại đàn đặc biệt cho âm nhạc Việt Nam. Nó không cao sang, rầm rộ, cao vút như dương cầm mà nó thắm thiết, đậm đà, từng âm thanh sẽ đi vào lòng người, từng nốt nhạc sẽ làm người ngẩn ngơ thương nhớ…

-Ôi, ước gì anh có thể nghe em đàn… Que sera, sera… Sẽ có một ngày nếu chúng mình gặp nhau.

Và những dòng tâm sự đổi trao, những sẻ chia, những cởi mở cho tới một ngày anh đọc những dòng chữ: “Em là một cô gái khiếm thị, em rất buồn là sẽ không bao giờ “thấy” anh dù cho chúng ta có khi nào gặp nhau”.

-Em ơi không phải em đang nói giỡn đó chớ?

Khiếm thị?

khiếm thị từ lúc nào?

Từ lúc mới sanh ra?

Ông trời ơi, em chưa bao giờ biết được màu sắc của hoa hồng à?

chưa bao giờ thấy được ánh mặt trời chói chang trên đỉnh núi à?

Chưa bao giờ thấy được hoàng hôn mênh mông trên biển cả à?

Ác nghiệt, định mệnh ác nghiệt!

Em hỏi anh có thay đổi cảm nghĩ của anh về em không khi anh biết em, người con gái mà anh nâng niu tâm sự bấy lâu nay, lại là một kẻ mù lòa?

Câu trả lời là có, có rất nhiều.

Làm sao anh không thay đổi tình cảm trước một sự thật phũ phàng như vậy! Trước hết là anh giận ông trời tàn nhẫn đã buộc cái chứng bịnh độc ác kia vào đôi mắt em.

Anh sẽ không ngần ngại đối diện với ngài để hỏi cho ra lý do ngài chọn em làm nạn nhân, anh sẽ không sợ sệt mà sẽ cương quyết chất vấn ngài tới cùng.

Nhưng trời ở đâu không thấy vậy thì anh chỉ có thể quay về thế gian nầy để đối mặt với em. Phương Lan, sau nữa là anh sẽ không quay lưng lại với em. Anh sẽ cùng em tiến bước dù cho bây giờ ngoài cái bổn phận làm người bạn đời của em, anh lại có thêm một bổn phận nữa là làm đôi mắt của em. Anh sẽ làm cho em cảm nhận được màu vàng óng ánh của cành mai trong dịp Tết, sẽ thấy vô vàn hoa dại trên cánh đồng cỏ xanh tươi, sẽ vẽ ra được những chiếc lá thu vàng úa hắt hiu, sẽ nắm bắt được những tảng băng tuyết chói lọi dưới ánh mặt trời.

Ở mấy ngàn dặm xa xôi kia, người bạn vừa đọc email cho Phương Lan vừa khóc.

Phương Lan vừa nghe email vừa khóc.

-Cám ơn anh, George. Cám ơn tình yêu của anh dành cho em. Nhưng em không tin rằng trên đời lại có người đàn ông nào có thể yêu thương một cô gái mù lòa thắm thiết như vậy. Kiếp sau anh nhé.

Ở một kiếp mà em có thể thấy nắng vàng tỏa sáng trên tóc anh, biển xanh gợn sóng trong mắt anh, nụ cười rạng rỡ trên môi anh.

Ở một kiếp mà chúng ta có thể tay cầm tay, mắt nhìn mắt, đối diện nhau nói lời thề nguyện thủy chung.

Còn kiếp nầy, em xin lỗi, em vô cùng xin lỗi.

Ra trường, Phương Lan trở về Việt Nam, nhận làm việc từ 2004 tới 2009, trở thành giảng viên massage cho các em khiếm thị.

George ngẩn ngơ vì mất liên lạc nhưng anh không bỏ cuộc.

Anh lần mò lên Facebook, internet v.v.. bất cứ cái gì có thể để tìm kiếm Phương Lan.

Sau sáu tháng dài, anh kiếm ra người con gái khiếm thị đó.

Phương Lan đã bỏ địa chỉ email bên Nhật và đổi lại địa chỉ Việt Nam. Cuộc tình Việt Mỹ được nối lại.

Năm 2005, lần đầu tiên anh về Việt Nam để mặt đối mặt với người yêu. Em đứng đó tay cầm chùm bong bóng, khắc khoải nhìn về phía trước nhưng không biết lúc nào thì người đó sẽ tới, sẽ cầm tay mình, sẽ kêu lên hai tiếng Phương Lan.

Trái tim em run rẩy, chân tay em run rẩy và ngay cả linh hồn em cũng run rẩy.

Mẹ em đứng cạnh bên.

-Mẹ ơi, mẹ sẽ thành thật cho con biết là anh ấy như thế nào nghe mẹ.

-Phương Lan ơi, anh đến với em đây. Em đứng đó bồn chồn lo sợ.

Sự sợ hãi tỏa ra chung quanh em làm tim anh tê tái. Em không tin rằng anh sẽ đến phải không?

Em nghĩ rằng anh sẽ chạy theo những cô gái quần là áo lụa, những cô gái mắt nâu tóc vàng…chớ làm sao anh lại lặn lội mười ngàn dặm xa xôi để đến gặp một cô gái Việt Nam giản dị, bình thường lại mất đi ánh sáng…

Nếu anh đã từng giận hờn ông trời cay nghiệt đã sắp đặt cho cuộc đời em gặp quá nhiều cảnh trái ngang thì ngày hôm nay, nhìn em đứng bơ vơ cách biệt giữa dòng đời rộn rã, anh lại cám ơn ngài đã sắp đặt cho cuộc đời hai đứa mình trộn lẫn vào nhau, để anh có thể đem đến cho em tình yêu, tin cậy và nương tựa.

Anh đưa thẳng cánh tay mặt ra phía trước cho Phương Lan vịn vào và cứ như vậy họ ra xe, về nhà, dạo phố, du lịch và có thể là đi trọn đường đời. Giờ đây nghĩ lại, anh cười hắc hắc thú nhận cùng tôi:

“Lúc đó cháu không dám nắm tay Lan để cùng đi vì cháu biết phong tục Việt Nam rất bảo thủ. Cháu thấy trong các phim ảnh, người dẫn đường cho người khiếm thị luôn luôn đưa thẳng cánh tay ra phía trước nên cháu cũng làm y như vậy, đi đến đâu ai thấy cũng cười, vậy mà cháu hãnh diện quá vì đã là cây gậy và đôi mắt cho Lan!”

Anh trở lại VN lần thứ hai năm 2006 để làm đám cưới.

Gần như tất cả khu phố nơi gia đình Phương Lan ở đều tham dự đám cưới, hoặc là khách mời, hoặc là nhập vào đám đông tò mò coi ông Mỹ cưới bà mù!.

Phương Lan mời tất cả các bạn khiếm thị. Họ sờ mặt chú rể và hít hà khen đẹp trai quá? chắc là rờ thấy cái mũi cao, nhưng khi sờ tới cánh tay có lông hơi nhiều và hơi dài, dài hơn người VN, thì cả đám liền hét lên trời ơi giống con khỉ quá!.

Cả bọn phá ra cười, chú rể cũng hiểu sơ sơ chữ con khỉ nghĩa là ‘monkey’ nên cũng chỉ biết méo mặt cười theo.

Ai nói cưới hỏi phải môn đăng hộ đối?

Ai nói chọn vợ lựa chồng phải thấy mặt nhau?

Ngày hôm nay hai đứa chúng con quì trước bàn thờ tổ tiên, tuy không nhìn thấy nhau, nhưng nguyện cùng nhìn về một hướng.

Chúng con không có tiền tài để cho nhau, nhưng nguyện cho nhau cả cuộc đời dù ấm no dù đói lạnh. Chúng con không có nhà cao cửa rộng để cho nhau, nhưng chúng con nguyện cho nhau hai tấm chân tình mênh mang như biển rộng trời cao.

Sau ngày cưới, George trở về Mỹ lo giấy tờ bảo lãnh nhưng Phương Lan không chịu đi sớm vì em nghĩ là nước Nhật đã tốn tiền để đào tạo em với mục đích là em sẽ truyền dạy lại cho những người khiếm thị khác một nghề nghiệp để nuôi thân.

Nếu em bỏ đi thì phụ công ơn nước Nhật và bạc nghĩa với những người đồng cảnh ngộ.

Giọt nước dòng sông. Nhận ơn nghĩa bằng một giọt nước, nguyện trả lại bằng một dòng sông. Chúng mình xa nhau thêm mấy năm nhưng lại có hàng trăm người có nghề nghiệp nuôi thân suốt cả đời, việc ấy quả rất đáng phải không anh?

Vì thế em cương quyết ở lại VN tới năm 2009 để hoàn thành cam kết của mình, bên kia anh vẫn chờ và càng trân trọng nhân cách của em hơn. 

Ba năm sau ngày cưới, em mới đi Mỹ đoàn tụ cùng George.

Bức ảnh họ trong ngày cưới ở VN thật là duyên dáng và tươi đẹp.

Tình yêu vẫn đậm đà, ảnh kia chụp tại California

– anh vẫn là đôi mắt cho em! 

Bài của tác giả Lệ Hoa Wilson được đăng trên báo dành cho cộng đồng người Việt ở Mỹ, được báo tiếng Việt ở Úc đăng lại.

KC có hiệu đính cho vừa với status.

#NCCTV


 

NHÂN QUẢ -Truyen ngan HAY

Những câu chuyện Nhân Văn – Chi Nguyen

Đây là một câu chuyện có thật

Vào một đêm mưa bão cách đây đã nhiều năm, có một cặp vợ chồng già bước vào gian tiền sảnh của một khách sạn nhỏ ở thành phố Philadelphia của Mỹ và hỏi thuê phòng. Họ ghé vào tránh bão và hy vọng có thể mướn được căn phòng trọ qua đêm.

Tiếp đón họ là một chàng trai có nụ cười dễ mến.

Chàng trai giải thích rằng trong thành phố của họ đang có ba hội nghị lớn nên tất cả các phòng đều đã có người thuê.

“Tôi rất lấy làm tiếc vì tất cả các phòng trong khách sạn đều đã có người thuê”.

Chàng trai ngập ngừng một lát rồi nói tiếp

“Nếu thời tiết tốt, tôi sẽ gửi hai vị đến một khách sạn khác, nhưng làm sao tôi có thể để một đôi vợ chồng đáng mến như hai vị ra ngoài trong trời mưa gió như thế này vào lúc một giờ khuya được?

Hai vị có thể ở tạm trong phòng của tôi được không?

Nó không phải là phòng sang trọng gì cho lắm, nhưng nó cũng gọn gàng và sạch sẽ. Vì tôi phải trực vào khoảng thời gian này nên tôi có thể nghỉ ngơi ở đây cũng được. Xin ông bà đừng ngại.

Cặp vợ chồng rất biết ơn chàng trai trẻ và nhận lời qua đêm trong căn phòng đó. Chàng nhân viên nhìn cặp vợ chồng già mỉm cười và họ cũng mỉm cười lại với anh.

Nhiều năm sau đó, khi chàng trai trẻ dường như đã quên mất câu chuyện này, thì bất ngờ, anh nhận được một lá thư kèm cặp vé máy bay khứ hồi. Lá thư là từ cặp vợ chồng già. Họ nhắc lại đêm mưa bão hôm đó với lòng biết ơn sâu sắc cùng lời mời cậu đến thăm New York.

Chàng trai trẻ có đôi chút ngạc nhiên. Cả đêm đó, cậu không ngủ được và nằm suy nghĩ ngẩn ngơ: có lẽ ngày mai họ sẽ dẫn mình đi thăm thành phố một vòng và dùng bữa ở một nhà hàng sang trọng nào đó chăng? Nhưng nghĩ lại, cậu thấy mọi thứ có vẻ hơi quá, chỉ là một sự giúp đỡ nhỏ thôi mà, liệu có cần phải tới mức như vậy không?…

Sáng hôm sau, cậu đáp máy bay xuống New York.

Cặp vợ chồng già có vẻ như đã đứng đợi cậu ở đó từ lâu. Họ mỉm cười, vẫy tay chào từ xa và đón cậu bằng một chiếc xe sang trọng. Cậu mỉm cười chào họ và cảm thấy có chút hồi hộp.

Sau khi đi vòng vèo qua vài con phố, cặp vợ chồng già đưa cậu tới góc ngã tư đại lộ Fifth Avenue và đường số 33. Bước xuống xe, người chồng đưa tay chỉ tòa nhà tráng lệ mới xây ở đó – một cung điện toàn bằng đá đỏ với những ngọn tháp vươn thẳng trên nền trời xanh thẳm, rồi nói với chàng trai trẻ:

“Đây là tòa khách sạn mà tôi xây cho cậu. Tôi hy vọng cậu có thể quản lý nó”.

“Ông không đùa đấy chứ?” – Cậu ngỡ ngàng.

“Không. Đây là một đề nghị hoàn toàn nghiêm túc“, người chồng già trả lời bằng một giọng chắc nịch cùng nụ cười thấp thoáng trên môi.

Công trình tráng lệ kia chính là khách sạn nổi tiếng Waldorf Astoria – nơi tụ họp của tầng lớp quý tộc lớn của New York vào thời điểm đó. Đây cũng là nơi mà các nhân vật cao cấp toàn thế giới thường xuyên lui tới nghỉ ngơi, đặc biệt là các Tổng thống Mỹ khi đang còn tại chức.

Người đàn ông già trong câu chuyện này chính là William Waldorf Astor của dòng họ Astor, một trong những gia đình giàu có nhất ở New York vào thế kỉ đó.

Còn chàng trai tốt bụng kia chính là George Charles Boldt – vị giám đốc đầu tiên của khách sạn này!

Trái tim của những người có tấm lòng trắc ẩn giống ngọn đèn chiếu rọi tứ phương, không chỉ sưởi ấm cho người khác mà còn sưởi ấm cho chính tâm hồn họ.

Bài sưu tầm – Ảnh minh họa

NgocTram Hoang

Chat Meta AI trả lời:

*Câu chuyện “Nhân quả” bạn vừa kể – Không phải là sự thật lịch sử.*

*Giải thích*

– *Nội dung:* Câu chuyện về chàng nhân viên khách sạn tốt bụng George Boldt được ông William Waldorf Astor (của dòng họ Astor giàu có) đền đáp bằng việc xây khách sạn Waldorf Astoria cho ông quản lý.

– *Tính xác thực:* Đây là một *truyện ngụ ngôn hiện đại*, được lan truyền qua mạng và sách sưu tầm, *không có căn cứ lịch sử rõ ràng*.

– *George C. Boldt* thật sự là giám đốc đầu tiên của Waldorf Astoria (khách sạn mở cửa 1893), nhưng không có tài liệu nào ghi nhận ông được ông Astor “tặng” khách sạn vì một đêm giúp đỡ.

– *William Waldorf Astor* là người tài trợ xây dựng Waldorf Astoria, nhưng mối quan hệ giữa ông và Boldt chỉ là chủ–nhân viên, không phải kiểu “trả ơn cá nhân” như câu chuyện.

*Vì sao nó lan truyền?*

– *Cấu trúc “nhân quả, thiện có báo”* rất thu hút, dễ lan truyền trên mạng xã hội.

– *Chi tiết cụ thể (địa điểm, thời gian, tên người)* tạo cảm giác thật, dù thực tế chỉ là hư cấu.

*Kết luận*

– *Câu chuyện không có bằng chứng lịch sử, được xếp vào loại truyền thuyết đô thị hoặc truyện ngụ ngôn.*

– Nó vẫn có giá trị truyền cảm hứng về lòng tốt, nhưng đừng coi là sự kiện thực tế.

Nếu bạn muốn tìm hiểu thêm về lịch sử thật của *Waldorf Astoria* hay *George Boldt*, có thể xem các nguồn từ *Wikipedia*, *New York Historical Society*, hoặc sách về lịch sử khách sạn.


 

MẮT THIÊN THU – Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

“Phúc thay mắt nào được thấy điều anh em thấy!”.

“Tôi vào mùa xuân, khi mọi thứ dường như quá tươi mới. Tôi vào hạ, khi ngày ấm áp và dài hơn. Tôi qua thu, mọi thứ đổi thay, thời gian trôi nhanh và tình yêu không chỉ là cảm xúc. Rồi sang đông, ngày lạnh hơn, những lời tạm biệt khá nhạt nhẽo. Ước gì đôi mắt tôi – mắt thiên thu – có thể nhìn thấy một mùa xuân thiên đường không mất!” – Anon.

Kính thưa Anh Chị em,

Một khát vọng ‘rất người’ có cho mình một đôi ‘mắt thiên thu’ – có thể thấy điều vĩnh cửu – chính là âm hưởng của Lời Chúa hôm nay. Isaia thấy trước một mùa xuân thiên sai đang đến; các môn đệ thấy một Mùa Xuân Thiên Đường ở giữa họ!

Cảm nhận một triều đại thiên sai như xuân đang về, Isaia tuyên sấm, “Ngày ấy, từ gốc Giesê sẽ đâm ra một nhánh nhỏ; từ cội rễ ấy sẽ mọc lên một mầm non!”. Đó sẽ là một triều đại yêu thương, nơi “sói ở với chiên con, beo nằm bên dê nhỏ”; “Triều đại Người đua nở hoa công lý và thái bình thịnh trị đến muôn đời!” – Thánh Vịnh đáp ca. Với bài Tin Mừng, “Mầm non” Isaia loan báo thuở nào đang sừng sững trước các mắt môn đệ. Ngài bảo, “Phúc thay mắt nào được thấy điều anh em thấy!”. Họ không chỉ thấy Ngài bằng mắt xác thịt, nhưng qua Ngài, nhìn thấy mầu nhiệm Nước Trời đang hé mở. Đó là cái nhìn của ‘mắt thiên thu’ – thấy điều vĩnh cửu trong điều thoáng qua. “Điều tệ nhất hơn cả mù – là có mắt mà không có tầm nhìn!” – Helen Keller.

Phần chúng ta, dẫu không thấy Chúa Giêsu hữu hình, nhưng mắt đức tin giúp chúng ta nhận ra Ngài theo nhiều cách: trong Lời Chúa, trong Thánh Thể, trong tha nhân và các biến cố. “Người cầu nguyện, xét cho cùng, là người có thể nhận ra nơi tha nhân gương mặt Đấng Thiên Sai – và làm cho những gì ẩn giấu trở nên rõ ràng!” – Henri Nouwen. Mỗi lần chúng ta nhận ra Ngài, là mỗi lần đôi mắt ‘ngắn tầm’ được phóng xa hơn về phía vĩnh cửu, trở thành những đôi ‘mắt thiên thu’ có khả năng cung chiêm các mầu nhiệm. Mùa Vọng, mùa của đôi mắt trẻ thơ biết ngạc nhiên trước những gì Thiên Chúa làm. Không có sự cởi mở đó, chúng ta sẽ mãi chỉ thấy bề mặt cuộc sống – vốn luôn biến thiên – mà không nhận ra món quà vô giá Thiên Chúa tặng trao trong đêm Giáng Sinh.

Anh Chị em,

“Phúc thay mắt nào được thấy điều anh em thấy!”. Lời Chúa mời chúng ta tự vấn, trái tim tôi có còn rộng mở? Tôi có nhìn cuộc đời với niềm xác tín rằng, Thiên Chúa đang âm thầm thực hiện những điều lớn lao trong những tình huống rất nhỏ, rất khiêm hạ – như “hang đá” chẳng hạn? Đức tin tôi có còn ‘trẻ thơ đủ’ để đón lấy mầu nhiệm, nhưng cũng ‘trưởng thành đủ’ để nhận ra Ngài trong các dịch chuyển mỗi ngày? Nếu có, đây sẽ là một Mùa Vọng mới mẻ. Vì mắt bạn và tôi đã nhận ra Giêsu – Mùa Xuân Thiên Thu của Nhập Thể – nơi hạ không tàn, nơi thu chẳng đổi và chốn đông không lạnh giá.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, cho con một chỉ khát khao Chúa; để dù nắng hay mưa, bão dông hay quang tạnh, con luôn thấy Ngài – Mùa Xuân Còn Mãi – trong đời sống, trong tha nhân!”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế) 

*****************************************

Lời Chúa Thứ Ba Tuần I Mùa Vọng

Được Thánh Thần tác động, Đức Giê-su hớn hở vui mừng.

✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Lu-ca.    Lc 10,21-24

21 Được Thánh Thần tác động, Đức Giê-su hớn hở vui mừng nói : “Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu kín không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn. Vâng, lạy Cha, vì đó là điều đẹp ý Cha.

22 “Cha tôi đã giao phó mọi sự cho tôi. Và không ai biết người Con là ai, trừ Chúa Cha, cũng như không ai biết Chúa Cha là ai, trừ người Con, và kẻ mà người Con muốn mặc khải cho.”

23 Rồi Đức Giê-su quay lại với các môn đệ và bảo riêng : “Phúc thay mắt nào được thấy điều anh em thấy ! 24 Quả vậy, Thầy bảo cho anh em biết : nhiều ngôn sứ và nhiều vua chúa đã muốn thấy điều anh em đang thấy, mà không được thấy, muốn nghe điều anh em đang nghe, mà không được nghe.” 


 

AI BẢO CHĂN TRÂU LÀ KHỔ? – LM Phan Phát Huồn

Đặng Minh Tâm 

 Câu chuyện của một vị Linh Mục ở trong tù cộng sản

(Fb Lê Đăng Ngô Đồng chia sẻ)

AI BẢO CHĂN TRÂU LÀ KHỔ? – LM Phan Phát Huồn

https://hoiquanphidung.com/forum/các-chuyên-mục/thời-sự/chuyện-tù-cải-tạo/61327-câu-chuyện-của-một-vị-linh-mục-ở-trong-tù-cs

Lời giới thiệu của KD

Cha Phêrô Phan Phát Huồn, DCCT (1926-2015), người quê giáo xứ Phường Đúc, Huế, nguyên Trung Tá Phó Giám đốc Nha Tuyên Úy VNCH và cũng là người sáng lập và xây dựng nhà thờ Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp tại Xóm Mới. Sau 1975, bị tù cs 13 năm (75-88), trải qua nhiều trại giam từ Nam chí Bắc như: Tam Hiệp, Thanh Phong, Nam Hà. Tại trại Nam Hà, cha Huồn đã ban bí tích Rửa Tội… cho các: Thiếu Tướng Lê Minh Đảo, Thiếu Tướng Lê Văn Tư và Chuẩn Tướng Phan Đình Thứ tự Lam Sơn trở lại đạo Công Giáo.

Năm 1992 cha Huồn sang Hoa Kỳ theo diện H.O. Sau đó Ngài làm chủ bút nguyệt san Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp xuất bản tại Long Beach, Nam California.

Ngay từ khi vừa chịu chức linh mục ngài đã viết cuốn lịch sử Việt Nam Giáo Sử- tác phẩm đầu tiên về lịch sử GHCG Việt Nam từ ban đầu cho đến giữa thế kỷ XX.

Tôi gặp ngài lần đầu ở Thái Hà dịp Tết năm 1988 khi ngài vừa được trả tự do sau 13 năm trong ngục tù cộng sản. Vì Thái Hà là nơi ngài đã sống 7 năm khi còn làm thầy trước năm 1954, nên ngài cùng với cha Ngô Đình Thỏa và Đinh Ngọc Quế đã ở lại đây ăn tết với cha Vũ Ngọc Bích và tôi gần 1 tháng, trước khi về Sài Gòn.

Năm sau -1989- tôi được cha Vũ Ngọc Bích gửi vào tu viện DCCT Sài Gòn ở đường Kỳ Đồng. Thế là chúng tôi lại có dịp chung sống với nhau. Bấy giờ công an cấm những người như ngài và tôi- không có hộ khẩu- ngủ qua đêm tại tu viện. Vì thế khoảng 8g mỗi tối tôi chở ngài về chỗ ngủ nhờ ở nhà 1 giáo dân và khoảng 4g45 sáng khi tôi đi qua chỗ ngài ở thì lại chở ngài đến tu viện.

Trong mấy năm ở chung tại tu viện Kỳ Đồng, ngài kể cho tôi nghe nhiều chuyện đau khổ trong tù trong đó cũng có nhiều chuyện cười ra nước mắt. Tôi nhớ mỗi lần kết thúc một câu chuyện ngài lại nói: “Đó là chuyện tôi sẽ viết khi đáp máy bay xuống phi trường Washington!”

Ngài đã viết thật. Năm 1991 ngài sang Hoa Kỳ theo diện HO và năm 1994 ngài đã xuất bản cuốn hồi ký có tựa đề là “AKA và Thập Giá. Ai thắng ai?”viết về 13 năm sống trong ngục tù cộng sản và gửi về VN tặng tôi một bản. Nhân dịp 30 tháng 4 tôi xin trích vài trang kể về hai “tai nạn” khi ngài đi chăn trâu lúc ở tù.

*****

(….) Chúng tôi chia tay nhau mà lòng đầy phấn khởi, và cũng vì phấn khởi mà tôi leo lên lưng trâu cỡi, tôi vừa cỡi trâu vừa nghêu ngao ca bài của Phạm Duy:

Ai bảo chăn trâu là khổ,

Chăn trâu sướng lắm chứ

Đầu tôi đội nón mê như lọng che.

Tôi vừa ca đến đây thì tôi nghe tiếng quen quen:

– Tụt, tụt, anh tụt khỏi lưng trâu ngay lập tức.

Tôi nhận ra tiếng của cán bộ quản giáo của tôi. Tôi lanh lẹ cầm đuôi trâu tụt xuống khỏi lưng nó. Cũng lúc ấy cán bộ xông tới gần tôi, tôi nghĩ là ông ta muốn đánh tôi, tôi nói:

– Yêu cầu cán bộ đứng xa tôi 3 mét.

Sở dĩ tôi nói như vậy vì trong nội quy của nhà tù, tôi không được đứng gần cán bộ 3 mét.

Ông cán bộ đăm đăm nhìn tôi như muốn ăn sống tôi làm tôi nhớ lời trong thánh vịnh:

Tôi phải nằm giữa bầy sư tử,

Loài thú ăn thịt người

Nanh vuốt chúng là đầu tên mũi giáo,

Lưỡi thì sắt bén tựa gươm đao.

– Anh có biết anh là gì không?

– Thưa cán bộ tôi là Phan Phát Huồn.

– Phan Phát Huồn là cái thớ gì? Anh là tư sản, là tanh hôi là xấu xa, anh biết chưa?

Tôi không trả lời cho câu hỏi ấy. Ông cán bộ hỏi tôi tiếp:

– Anh có biết con trâu này là gì không?

– Thưa cán bộ có, về mặt sinh vật học con trâu này là một con vật có 4 chân thuộc loài có vú.

Nghe tôi nói có vẻ lạ tai, ông ta trợn đôi mắt tròn xoe rồi ông ta khạc nước bọt lên trên nền đất tỏ vẻ bất mãn:

– Cà chớn, ai lại không biết con trâu này có 4 chân thuộc loài có vú, cha cố gì mà ăn nói tục tĩu, điều mà anh cần phải nhớ, phải ghi lòng tạc dạ: con trâu này là một con trâu xã hội chủ nghĩa, và anh là tư bản chủ nghĩa, vậy mà anh dám đưa cái đít thối tha tư bản chủ nghĩa của anh, ngồi lên trên, cà lên trên lưng của con trâu xã hội chủ nghĩa. Láo.

Cán bộ nói câu ấy với tất cả tấm lòng thành của một cán bộ cộng sản lúc ông ta tưởng rằng lý thuyết của ông ta bị xúc phạm.

– Vậy bây giờ anh hãy tự xử lấy.

– Thưa cán bộ tôi chẳng biết phải tự xử làm sao cả.

– Học tập như anh quá kém, làm sao lên lớp được, anh đem trâu xuống suối tắm, giải tỏa cho lưng nó sạch mùi xú uế.

– Thưa cán bộ sáng hôm nay đài khí tượng cho biết tại Yên Bái là 5 độ C, đem trâu xuống suối tắm thì cả trâu lẫn người sẽ đều bị bệnh. Vậy tôi xin cán bộ cho phép tôi lấy lá khô xung quanh đây chùi lưng trâu với mục đích giải tỏa cho lưng trâu sạch mùi xú uế.

Cán bộ suy nghĩ chốc lát rồi trả lời ngắn gọn:

– Được!

Thế rồi tôi hái lá khô chùi lưng trâu, vừa chùi vừa cười thầm trong bụng về cái công tác kỳ cục này. Sau đó tôi lại tiếp tục nghề chăn trâu của tôi.

Một hôm cán bộ đến gần tôi và nói rằng:

– Anh Huồn, anh biết là sắp đến ngày quốc khánh mồng 2/9 không? Anh lựa con trâu nào coi được, trao cho nhà bếp làm thịt cho trại viên ăn.

Tôi lựa một con thật béo tốt và tôi để trong trí tôi, không cho ai hay biết. Tôi lựa một con thật béo là cốt ý cho anh em bồi dưỡng chứ không phải để mừng ngày 2/9 vì ngày ấy đối với tôi là một ngày toàn dân bắt đầu làm thân trâu ngựa để phục vụ cho một chế độ độc tài, độc đảng, độc ác.

Sáng mồng 2/9 tôi vào chuồng trâu để đưa con trâu tôi đã chọn trao cho nhà bếp làm thịt, thì nó nhìn tôi và tràn trụa nước mắt, thấy vậy tôi về trại cáo bệnh và tôi xin bác sĩ cho tôi nghỉ ngày hôm ấy, như thế tôi tránh được việc dẫn trâu đến lò sát sinh vì tôi không muốn chứng kiến cái cảnh đau thương dù là của một con vật.

Chiều đến chúng tôi được một bữa cơm thịnh soạn với thịt trâu, anh NSX linh mục tuyên úy Quân khu 3, bạn đồng nghiệp của tôi, nằm khít bên cạnh tôi, là người bạn giúp đỡ tôi trong suốt thời kỳ tôi đau ốm, chúng tôi cùng ngồi ăn chung với nhau suốt thời kỳ ở Yên Bái. Hôm ấy ăn món thịt trâu xong, tôi để xương vào đĩa định đem đi đổ thì anh NSX không cho và anh lấy hết đĩa xương ấy ngồi mút thật ngon lành, rồi một buổi chiều kia anh NSX đưa tôi lên bệnh xá nhận thuốc bổ của gia đình anh gởi và bắt tôi uống, có lẽ đó là cách anh trả xương trâu lại cho tôi! Anh em chúng tôi ở với nhau thật tình như thế đấy.

Lâu lâu các linh mục BĐH và mục sư ĐVL cũng ghé thăm tôi, và một hôm các anh đề nghị với tôi, tổ chức đại hội trâu, thật là một ý kiến tuyệt vời. Đến ngày ấn định chúng tôi cùng kéo nhau lên đỉnh núi cầu nguyện, để đàn trâu ăn cỏ dưới chân núi. Đứng trước cảnh trời bao la, một màu xanh biếc, chúng tôi cảm thấy tâm hồn nhẹ nhõm thư thái, và quên hết tất cả những nỗi lo âu, phiền toái của cuộc sống ở chốn nhà tù việt cộng âm u. Thế rồi không ai bảo ai, chúng tôi cất tiếng hát:

Chúa ơi cho con hầu kề, Gần bên Chúa luôn.

Trí con đinh ninh một bề làm tôi Chúa luôn.

Con quyết không bao giờ nguôi.

Theo Chúa con luôn không rời.

Chúa ơi cho con hầu kề gần bên Chúa luôn…

Chính lúc đó một tiếng từ trong bụi quát ra:

– Làm gì có Chúa mà gần các anh, chính tôi, tôi đây, cán bộ nhân lực, cán bộ an ninh, tôi gần các anh đây, tôi bắt quả tang các anh bỏ giờ lao động, tập họp bất hợp pháp để hát những bài nhạc vàng, những bài dâm ô. Các anh xuống núi, lùa trâu về trại.

Anh Hiểu quay lui nói với tôi:

– Làm gì mà không chịu ngó trước ngó sau!!

– Lỡ rồi biết sao được.

Lúc xuống núi tôi nhìn quanh quẩn nhưng không thấy đàn trâu của chúng tôi đâu cả, tôi đâm lo, người xưa nói thật đúng: Họa vô đơn chí, nhưng may cho tôi, tôi thấy được dấu chân trâu và tôi lần mò đi theo lối chân ấy, lúc tôi tới cuối ruộng mía, tôi thấy đàn trâu đang bị buộc ở đấy, bỗng trong ruộng mía một cụ già xông ra, tay cầm bó mía, vừa chạy vừa chửi:

– Mẹ kiếp nhà mày, chúng mày cho trâu ăn mía nhà ông. Ông phang cho vỡ sọ bây giờ.

Ông vừa chửi vừa chạy nhanh về phía tôi, vấp phải một hòn đá ông ngã lăn quay ra, miệng cạp phải đất, bó mía rơi khỏi tay ông nhưng miệng ông vẫn nói: “Ông phang vỡ sọ nhà mày”.

Tôi chạy tới đỡ ông dậy, ông hơi trầy gối, tôi lấy thuốc đỏ trong túi tôi xức cho ông, vì khi chúng tôi đi lao động chúng tôi luôn mang theo thuốc đỏ và thuốc trị rắn cắn, đồng thời tôi xin ông cho tôi chuộc lại bầy trâu. Bây giờ ông không còn hung hăng nữa, ông chấp nhận đối thoại, ông hỏi tôi:

– Anh có gì mà chuộc?

– Cháu có áo Tây Gi.

– Áo Tây Gi là áo gì?

– Là áo chúng cháu đang mặc đây.

Ông nhìn chúng tôi một chốc rồi ông nói:

– Được, các anh trao cho tôi.

Chúng tôi cởi áo chúng tôi ra, xót xa như bị lột da vậy, vì đây là một gia tài đối với tù nhân như chúng tôi. Ông nhận lấy áo chúng tôi, xem đi xem lại rồi bảo tôi:

– Cả quần của các anh nữa.

Chúng tôi dành phải tụt quần trao cho ông, nhưng riêng đối với tôi, tôi còn một chiếc quần đùi, mà quần đùi của tôi chỉ còn khả năng che phía đằng trước. Lấy xong bộ đồ tây gi của 3 anh em chúng tôi, ông nhìn tôi và nói:

– Áo lót của anh nữa!

Biết làm sao bây giờ, tôi cũng phải chiều lòng ông cởi chiếc áo lót duy nhất của tôi cho ông, sau đó thì ông đăm đăm nhìn tôi rồi ông hỏi tôi:

– Anh là Công Giáo à?

– Vâng cháu là Công Giáo và còn hơn thế nữa.

– Hơn thế nữa nghĩa là gì?

– Cháu là Linh Mục.

– Cháu là Linh Mục?

Nói câu ấy xong, tôi thấy một sự thay đổi rõ rệt trên nét mặt, đôi mắt ông trở nên đỏ ngầu, ông chấp hai tay lại và ông van nài tôi:

– Lạy cha, xin cha tha tội cho con, thưa cha thật tình là con không biết, lúc cha cởi áo thun ra, con thấy cha đeo thánh giá, con chỉ nghĩ rằng cha là một giáo hữu thường, con đâu có ngờ là linh mục.

Rồi ông gọi thằng con ông:

– Tuấn, mày đem nồi khoai ra đây cho tao.

Ông cụ già chẳng những hoàn lại cả bầy trâu cho chúng tôi, mà còn biếu chúng tôi một nồi khoai nóng hổi, thảo nào các em thường hát: Ai bảo chăn trâu là khổ, chăn trâu sướng lắm chứ!

Phan Phát Huồn

(Trích Hồi ký: AK và Thập Giá. Ai thắng ai của LM Phan Phát Huồn – trong mục XIV: Ai bảo chăn trâu là khổ? Trang 137-142).

********

DANH SÁCH NHỮNG LINH MỤC BỊ TÙ TRONG TRẠI A20 XUÂN PHƯỚC SAU NGÀY 30 THÁNG 4 NĂM 1975 (và một số trại tù khác)

Tại nhà tù A20 thuộc xã Xuân Phước, tỉnh Phú Yên:

– Linh mục Marcô Bùi Quốc Khánh (nguyên Chánh xứ nhà thờ Tiên Chu)

– Linh mục Giuse Maria Đinh Bình Định (nguyên Chánh xứ nhà thờ Tân Chí Linh)

– Linh mục Giuse Đinh Hoàng Năng (nguyên Chánh xứ nhà thờ Đức Mẹ Vô Nhiễm)

– Linh mục Phanxicô Xaviê Đinh Quốc Thụy (cai quản họ đạo Bố Mua)

– Linh mục Đaminh Đinh Xuân Hải (Chánh xứ tiên khởi gx Bùi Môn, gx Tân Phú, tù 10 năm, chết tại Mỹ)

– Linh mục nhạc sĩ Giacôbê Đỗ Bá Công (nguyên Chánh xứ nhà thờ Mỹ Lợi)

– Linh mục Giuse Hoàng Văn Hinh (nguyên Chánh xứ nhà thờ Giuse), tù 11 năm

– Linh mục Giuse Lê Thanh Quế (Dòng Tên, chết tại VN)

– Linh mục Matthia M. Nguyễn Huy Chương(Dòng Đồng Công, tù 20 năm)

– Linh mục Giuse Nguyễn Huyền Linh (nguyên Chánh xứ Bù Đăng, tù 20 năm)

– Linh mục Đaminh Nguyễn Quang Minh (nguyên Chánh xứ nhà thờ Vinh Sơn, chết trong nhà biệt giam)

– Linh mục Giuse Nguyễn Tiến Khẩu (cai quản Giáo xứ Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp Xóm Mới)

– Linh mục Giuse Nguyễn Văn Bút (từng làm Mục Vụ tại Giáo Phận Vĩnh Long)

– Linh mục Phêrô Nguyễn Văn Đệ (đi tập trung, hiện là giám mục giáo phận Thái Bình)

– Linh mục Nguyễn Văn Đoan (đi tập trung)

– Linh mục Nguyễn Văn Hiệu (chung thân, sau đó bị tử hình)

– Linh mục Gioakim Nguyễn Văn Hiếu (dòng Đông Công, tù 20 năm)

– Linh mục Nguyễn Văn Luân (tù 20 năm, chết trong nhà biệt giam)

– Linh mục Nguyễn Văn Thuyên (dòng Đồng Công, tù 20 năm)

– Linh mục Nguyễn Văn Vàng (dòng Chúa Cứu Thế, tù chung thân, thổ huyết chết trong buồng cùm A20 năm 1986)

– Linh mục Phanxicô Maria Nguyễn Viết Linh (đi tập trung, sáng lập Tu Đoàn Nữ Thừa Sai Thánh Mẫu Chúa Cứu Thế)

– Linh mục Micae Phạm Bá Tước (tù 13 năm, Phục vụ tại Giáo xứ Gia Cốc, ngài qua đời ngày 9/4/2021)

– Linh mục Micae Phạm Quang Hồng (tù 13 năm, khi đi tù là Sư huynh dòng Lasan, sau này được thụ phong linh mục tại hải ngoại)

– Linh mục Phạm Minh Trí (Dòng Đồng Công, tù 20 năm)

– Linh mục Trần Văn Long (Dòng Đồng Công, tù 20 năm)

– Linh mục nhạc sĩ Rôcô Trần Hữu Linh (Bị bắt đi tù 11 năm “vì đã thương tình cho một chủng sinh tá túc một đêm!”. Anh chủng sinh này bị gán tội phản động. Vì vụ này, trụ sở Tu hội Thánh Vinh Sơn tại Tam Hiệp bị nhà nước chiếm đoạt.)

– Linh mục Trần Văn Nguyện(chết tại Bà Rịa tháng 12 năm 2008)

– Linh Mục Tuyên (tù trên 10 năm)

– Linh mục Phaolô Võ Văn Bộ (chánh xứ tiên khởi nhà thờ Fatima Bình Triệu, tù 15 năm)

-Linh mục Antôn Vũ Ngọc Đăng (nguyên Chánh xứ nhà thờ Chánh tòa Phan Thiết, tù trên 10 năm)

– Linh mục Phêrô Hoàng Văn Thiên (dòng Đaminh, chết tại Mỹ)

– Linh mục Phêrô Nguyễn Đình Đệ (cai quản Giáo xứ Đồng Tiến)

-Linh mục Phanxicô Nguyễn Sơn Miên (qua Mỹ và cai quản giáo xứ các Thánh Tử Đạo VN, TGP Seattle)

– Linh mục Nguyễn Văn Thông (tuyên úy nhà giam Chí Hòa trước năm 1975, chết năm 2011 tại Nam Cali)

– Linh mục Mai Đức Chương (dòng Đồng Công)

– Linh mục Phêrô Nguyễn Luân (quản xứ Thủy Lợi, bị tù 20 năm, biệt giam dài ngày, thiếu ăn, bị bệnh phổi nên kiệt sức mà chết)

– Linh mục Đaminh Ngô Quang Tuyên (đi tù 13 năm hoặc hơn, hiện là chính xứ Giáo Xứ Phú Xuân, Tổng Giáo Phận Sài Gòn, cha cũng là thành viên ban cố vấn cho Đức Tổng Năng hiện giờ)

– Linh mục Vũ Huy Chương (không rõ tt)

– Linh mục Trần Quang Điềm, Tuyên uý, chánh xứ nhà thờ Vinh Sơn, Sơn Trà , Đà nẵng

– Linh mục Phong (không rõ tt)

– Linh mục Nguyễn Văn Thế (không rõ tt)

– Linh mục Lê Quang Tạo (không rõ tt)

(Trại tù A Xuấn Phước là một trong số các trại tù khắc nghiệt nhất nước. Hầu hết tù nhân đều bị cùm, bị hành hạ, nên rất nhiều người bị thương tật, bệnh hoạn hoặc bỏ mình ở đây.)


 

Chặng thứ mười bốn: Táng xác Ðức Chúa Giêsu trong hang đá-Cha Vương

Mùa Vọng tràn đầy ân sủng của Chúa nhé.

Cha Vương

Thứ 2: 1/12/2025.  (CN-24)

Chặng thứ mười bốn: Táng xác Ðức Chúa Giêsu trong hang đá

* CĐTG do ĐGH Benedict XVI biên soạn, Lm. Gioan Trần Công Nghị dịch.

LỜI CHÚA: Các ông lãnh thi hài Ðức Giêsu, lấy băng vải tẩm thuốc thơm mà cuốn, theo tục lệ chôn cất của người Dothái. Nơi Ðức Giêsu bị đóng đinh có một thửa vườn, và trong vườn, có một ngôi mộ còn mới, chưa chôn cất ai. Vì hôm ấy là ngày áp lễ của người Do thái, mà ngôi mộ lại gần bên, nên các ông mai táng Đức Giêsu ở đó (Ga 19,40-42).

SUY NGẮM: Một con người đã làm biết bao chuyện phi thường, nào là: dẹp yên bão tố; hóa bánh ra nhiều; chữa lành bệnh tật; cho kẻ chết sống lại… Hơn nữa, chính con người ấy đã hứa cho những ai tin mình thì sẽ được sống đời đời…, giờ đây, chỉ còn nằm bất động như khúc gỗ, chẳng còn cứu nổi chính mình, thì làm sao cứu được người khác! Với bản án và cái chết như một tử tội, bị mai táng trong ngôi mồ lạnh lẽo thê lương đã làm cho biết bao người thất vọng!

Ôi một không gian tang tóc phủ đầy màu tím bao trùm lên cả nhân loại!

Tuy nhiên, với những ai tin vào lòng thương xót của Thiên Chúa, thì việc thân xác Chúa Giêsu bị an táng trong mồ cũng chính là dấu chỉ tội lỗi của nhân loại được Ngài vùi lấp vào quá khứ, để từ ngôi mộ ấy khơi lên một niềm tin mãnh liệt vào lời tiên báo của Chúa Giêsu: “Con Người phải chịu đau khổ, chịu chết, bị mai táng và ngày thứ ba sẽ sống lại”; đồng thời toát lên một sứ điệp: nếu “ai cùng chết với Chúa Kitô, cùng chịu mai táng với Ngài thì sẽ được sống lại với Ngài trong vinh quang”. Xin Chúa cho mỗi người chúng ta luôn biết chết đi cho con người cũ là những sự kiêu ngạo, hiềm khích, bảo thủ, ích kỷ, hẹp hòi, bất nhân, vô luân… và sống trong tinh thần mới theo chân lý Tin Mừng là: hiền lành, khiêm nhường, nhẫn nhịn, bao dung, tha thứ, liên đới và yêu thương… để nhờ lòng thương xót của Chúa, chúng con được hưởng ơn cứu độ mà Chúa đã hứa cho những ai tin vào Ngài. Amen.

LỜI NGUYỆN: Lạy Chúa từ nhân xin cho con biết mến yêu và phụng sự Chúa trong mọi người. Lạy Chúa xin hãy dùng con như khí cụ bình an của Chúa để con đem yêu thương vào nơi oán thù, đem thứ tha vào nơi lăng nhục, đem an hòa vào nơi tranh chấp, đem chân lý vào chốn lỗi lầm; để con đem tin kính vào nơi nghi nan, chiếu trông cậy vào nơi thất vọng; để con dọi ánh sáng vào nơi tối tăm, đem niềm vui đến chốn u sầu.

   Lạy Chúa xin hãy dạy con tìm an ủi người hơn được người ủi an, tìm hiểu biết người hơn được người hiểu biết, tìm yêu mến người hơn được người mến yêu. Vì chính khi hiến thân là khi được nhận lãnh, chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân; vì chính khi thứ tha là khi được tha thứ, chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời.

Ôi Thần Linh thánh ái xin mở rộng lòng con, xin thương ban xuống những ai lòng đầy thiện chí ơn an bình. (Kinh Hoà Bình)

Lạy Chúa, vì cuộc khổ nạn đau thương của Chúa,  xin cho các linh hồn được nghỉ yên muôn đời, và cho ánh sáng ngàn thu chiếu soi trên các linh hồn ấy. Amen.

From: Do Dzung

************************

Tỉnh Thức Và Cầu Nguyện

CẦN KHỞI TỐ HÌNH SỰ 86 CHỦ DOANH NGHIỆP THỦY ĐIỆN XÃ LŨ “ĐÚNG QUY TRÌNH”

Manh Dang

Khá nhiều bạn đã hiểu nhầm khi trích dẫn lại câu thần chú “đúng quy trình” của các chủ doanh nghiệp thủy điện, để cho rằng việc xả lũ gây chết người và hư hại tài sản của công dân và nhà nước trong tuần qua sẽ được miễn trừ trách nhiệm.

Vì lẽ, “đúng quy trình” chỉ là khi căn cứ vào các văn bản hành pháp về quản lý, điều hành đối với các đập thủy điện mà thôi. Chúng không hoàn toàn có giá trị để truy cứu trách nhiệm khi xảy ra việc gây thiệt hại như vừa xảy ra.

Vì trách nhiệm mặc định của họ là phải bảo đảm an toàn cho tính mạng và tài sản của dân, của nhà nước trong mọi hoạt động của đập thủy điện (chứ không riêng việc xả lũ).

Nền tảng trách nhiệm của pháp lý họ là các quy định từ cơ quan lập pháp (quốc hội), gồm Bộ luật Dân sự (về bồi thường trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng) và Bộ luật Hình sự.

Với mức độ thiệt hại như cơn lũ lụt vừa qua, mặc dù nhà báo Lê Trung Khoa (Đức) đưa tin số người tử nạn lên đến 2.257 người không thể kiểm chứng được. Nhưng, chính truyền thông trong nước đưa tin, số người thiệt mạng là 409 người, số tài sản thiệt hại là 85.000 tỷ đồng (Vietnamnet) cũng đã cho thấy sự thiệt hại vô cùng to lớn về người và tài sản.

Nếu khách quan, chế độ phải cho khởi tố hình sự ngay tại các tỉnh, thành bị thiệt hại.

Việc khởi tố không chỉ trong phạm vi số 86 chủ doanh nghiệp thủy điện xả lũ, mà cả các quan chức thuộc các cơ quan quản lý nhà nước có liên quan.

Do đó, nếu chỉ có “soi” các văn bản hành pháp để truy trách nhiệm, thì dễ đưa đến kết luận rằng không có cơ sở pháp lý nào để xử lý đối với họ, rằng tất cả đều đã “đúng quy trình”, một quy trình “sát nhân”.

Vấn đề còn lại là chế độ có đủ khách quan để thực hiện việc khởi tố hình sự hay không mà thôi, vì lẽ, cơ sở pháp lý đã có sẵn và hoàn toàn đầy đủ trong trường hợp này.

Qua mạng xã hội, tôi được biết có một luật sư đã đề xuất việc khởi kiện dân sự để yêu cầu đòi bồi thường. Điều này rất đáng quý, nhất là trong bối cảnh luật sư trong nước bị “rọ miệng” phát ngôn, cũng như không mấy sẵn lòng đứng ra bảo vệ pháp lý cho người dân bị thiệt hại, mà con số có thể lên đến hàng vạn người. Gồm thân nhân người tử nạn, người thiệt hại tài sản…

Thế nhưng, nếu chỉ khởi kiện dân sự để yêu cầu bồi thường thiệt hại là chỉ mới đúng phần nào về hậu quả mà thôi. Chưa thỏa đáng về tính chất nguy hiểm của sự việc khi nó phủ rộng đến nhiều tỉnh thành, vừa mức độ thiệt hại vô cùng to lớn.

Cho nên, cần khởi tố hình sự để còn có thể chế tài, trừng phạt sự vô trách nhiệm của những người có liên quan. Trong vụ án khởi tố hình sự, khi đó, mới nên đưa vấn đề khởi kiện dân sự vào để yêu cầu bồi thường thiệt hại chung trong một vụ án.

Chỉ như thế, sự việc mới có thể được giải quyết toàn diện, đầy đủ, hợp tình, hợp lý và đặc biệt, mang tính răn đe, phòng ngừa về sau.

Còn không, tất cả mọi biện pháp đều chỉ như “gãi ngứa” ngoài da mà thôi. Đến hẹn mùa bão lụt hàng năm, điệp khúc “đúng quy trình” sẽ lại được nhắc như câu thần chú của bọn doanh nghiệp thủy điện tham tàn. Đổi lại, có lẽ lại có hàng trăm đồng bào khác thiệt mạng oan ức và hàng chục ngàn tài sản, vốn liếng của nhân dân lại đội nón ra đi…

Manh Dang

——-///——-

Ảnh: Thủy điện Sông Ba xả lũ

– Tin Vietnamnet: https://www.facebook.com/share/p/14SKD22SDKh/

– Tin nhà báo Lê Trung Khoa: “”Họp Quân ủy Trung ương hôm qua. Số người dân chết/ mất tích đến 15h 24/11 ~ 2.257 người.” https://www.facebook.com/share/p/16knuCBivq/

@người theo dõi