TÂM SỰ NGƯỜI CÔNG CHÍNH- Lm. Phêrô Phan Văn Lợi

Lm. Phêrô Phan Văn Lợi

 Nếu ai đã từng xem cuốn phim “Đức Giêsu thành Na-da-rét” của đạo diễn Franco Zeffirelli (sản xuất năm 1977) chắc còn nhớ phân cảnh Thánh Giuse nằm mơ thấy Đức Maria bị ném đá chết vì tội ngoại tình.  Nếu không thì cũng đã có lần được xem một vở kịch diễn lại bài Tin Mừng hôm nay, trong đó có cảnh Thánh Giuse khắc khoải, lo âu, dằn vặt, thậm chí xấu hổ, trước sự kiện Đức Maria mang thai mà ông chẳng biết nguyên do.  Đó là những tình tiết lâm ly, bi đát, đầy kịch tính, làm khán thính giả bồi hồi xúc động, nhưng có nằm trong nhãn giới của tác giả Tin Mừng chăng?  Ngoài ra, ý tưởng “tố giác” (ám chỉ Giuse nghi ngờ – mà nghi bậy – Maria ngoại tình, chửa hoang) nằm bên cạnh ý tưởng “công chính” (một danh hiệu vinh quang, hiếm người được Kinh Thánh trao tặng) đã khiến nhiều học giả phải lý luận vòng vo đủ cách, trưng dẫn bản văn đủ kiểu để hòa hợp hai ý tưởng này.  Tất cả những cái đó, theo nhiều nhà chú giải hiện đại, là do cách dịch chưa đúng về một vài từ ngữ trong văn bản.

 Khúc Mắc Tâm Tư 

Mở đầu bản văn bằng câu “Đây là gốc tích Đức Giêsu Ki-tô” và bằng chi tiết “Trước khi hai ông bà về chung sống, Maria đã có thai do quyền năng Chúa Thánh Thần,” Mát-thêu đã muốn chứng minh cho độc giả Do-thái của mình thấy làm sao Đấng Cứu Thế sinh ra thiếu cha trần gian mà vẫn thuộc về dòng dõi Do-thái và con cháu Đa-vít được (trong lúc Lc 1, 26-38 thì chỉ trình bày mầu nhiệm cưu mang đồng trinh cho độc giả lương dân hiểu).  Việc lạ lùng này, chắc hẳn Đức Maria đã tỏ lộ cho người bạn đời yêu quý (bà chị họ Ê-li-sa-bét mà còn được biết nữa là, vì thiên thần đâu có cấm Maria tiết lộ: x. Lc 1,39-45).  Với hai lý do: xin ông thông cảm cho quyết định của bà là vâng phục thánh ý lạ lùng lẫn bất ngờ của Thiên Chúa, và như thế sẽ chấm dứt kiểu chung sống chồng vợ thông thường; hai là chia sẻ niềm vui và vinh dự của bà được chọn làm mẹ Con Đấng Tối Cao.  Ngoài ra, việc Mát-thêu khẳng định đầy đủ sự kiện nhiệm mầu ấy ngay từ đầu bài Tin Mừng (ông chẳng viết đơn giản: “Maria đã có thai”) hàm ý Giuse đã biết rõ công chuyện.  Thế nhưng việc tỏ lộ này đặt ông vào một hoàn cảnh khó xử. 

Theo nhiều nhà chú giải Công giáo hiện đại, khi kết hôn với nhau, hai ông bà Giuse Maria chắc dự tính sẽ có con với nhau một cách bình thường (Cựu Ước luôn cho hôn nhân là tốt đẹp và con cái là hồng ân cao cả, còn không có chồng hoặc có chồng không con là tủi nhục lớn lao, tương tự quan niệm Á đông: “Bất hiếu hữu tam, vô hậu vi đại”), đồng thời cầu mong con họ sẽ được Thiên Chúa chọn làm Đấng Thiên Sai (Mêsia) như bao mộng ước của mọi gia đình và mọi thiếu nữ Do-thái thời đó.  Thế nhưng, đang lúc chưa chung sống như vợ chồng, Maria đã được sứ thần báo tin cho biết Thiên Chúa đã chọn bà làm mẹ Đấng Thiên Sai, nhưng bà sẽ sinh con một cách nhiệm lạ – do quyền năng Chúa Thánh Thần – vì thai nhi đó chính là Con Thiên Chúa!  Đây là điều mà Cựu Ước cũng như hai ông bà không thể ngờ nổi. 

Đứng trước mầu nhiệm cao cả này, Giuse đâm băn khoăn.  Từ nay, Thiên Chúa đã can thiệp vào mối dây liên hệ của đôi bạn, đã sử dụng Maria như phương tiện để thực hiện kế hoạch lớn lao của Người.  Từ nay Maria đã trở thành một vật thánh, thuộc quyền sở hữu của Đấng Tối Cao.  Giuse tự nghĩ mình đâu có quyền động đến nàng nữa.  Và dù không động đến nhưng nếu tiếp tục chung sống trong một nhà, tới lúc con nàng sinh ra, chắc thiên hạ sẽ nói là con của đôi bạn.  Để cho ai nấy lầm tưởng như thế là một sự bất công với Thiên Chúa, vì Hài nhi là con của Người mà.  Công bố chuyện này cho thiên hạ ư?  Ai mà tin nổi và hiểu nổi!  Có dấu chứng nào về một chuyện lạ lùng xưa nay chưa từng gặp như vậy?  Vả lại đây là bí mật giữa Thiên Chúa với Maria mà Người đâu đã tỏ ý định hãy loan truyền nó cho bá tánh.  (Phải 30 năm sau, chính Đức Giêsu mới làm rõ được chuyện này)!  Thế là Giuse dự tính ra đi, ra đi âm thầm, để mặc Thiên Chúa đích thân giải quyết mọi chuyện.  Ông xử sự như bao người công chính trong Cựu Ước là run khiếp trước sự hiện diện của Đức Chúa và không dám đoạt lấy một thành quả bởi tay Người.  Vả lại, hiểu cách tự nhiên tức thời, công chính, công bình – hay just, juste trong tiếng Anh tiếng Pháp – có nghĩa là của ai thì trả cho người ấy, không vi phạm quyền lợi và sở hữu của tha nhân.  Ngoài ra, từ Hy-lạp dùng ở đây là “deigmatisai”, cùng gốc với từ “paradeigmatisai”.  Nhưng trong lúc “paradeigmatisai” có nghĩa là “tố giác, bêu nhục” thì “deigmatisai” lại chỉ có nghĩa là “tiết lộ, bày tỏ”, theo nhiều Giáo phụ (Origène, Eusèbe de Césarée…) và nhiều học giả hiện đại (Lm Paul Joüon, SJ, thành viên Viện Kinh thánh Giáo hoàng, Lm Nil Guillemette, SJ, giáo sư Kinh thánh lỗi lạc…).  Thành ra, chính cách dịch mới: “Giuse là người công chính và không muốn tiết lộ chuyện bà” hoàn toàn hợp lý đồng thời hỗ trợ cho lối giải thích vừa nói trên đây. 

Lối giải thích cho rằng Giuse công chính chiếu luật (vâng lời Lề luật) là không ổn, vì chả có luật nào buộc phải ly dị hôn thê mới bị coi như ngoại tình cả (x. Đnl 22,13-21.23-27 chỉ liên hệ tới hôn nhân hoàn hợp, như Đnl 24,1 làm chứng).  Đàng khác, nếu âm thầm ly dị Maria, thì Giuse lại càng bất tuân Lề luật, vì việc ly dị chỉ được phép và mang giá trị pháp lý nếu có chứng thư ly dị rõ ràng và đưa ra công khai (Đệ Nhị Luật có nói đến việc ly dị tổ chức ở cửa thành).  Thành ra đây là sự công chính tôn giáo, sự công chính đòi hỏi Giuse tôn trọng công trình Thiên Chúa nơi Maria và cấm ông không được đoạt lấy công lao của một hành động từ trời.

 Gỡ Mối Tơ Vò

  “Ông đang toan tính như vậy, thì kìa sứ thần Chúa hiện đến báo mộng cho ông.”  Thiên Chúa cuối cùng đã can thiệp: “Này ông Giuse, con cháu Đa-vít, đừng sợ [Hy ngữ: phobethes] đón Maria vợ ông về.”  Đến đây, các nhà chú giải hiện đại đề nghị cách dịch khác cho từ Hy-lạp gar mà xưa nay vẫn chỉ dịch là “vì” (“Vì người con bà cưu mang…”) và cho từ Hy-lạp mà xưa nay vẫn chỉ dịch là “và” (“và ông phải đặt tên…”).  Từ “gar” còn có nghĩa: “vẫn biết, quả thật, hẳn nhiên, phải rồi”, và thường gặp trong Tân Ước (x. Mt 18,7; 1Cr 9,19; 1Tx 2,20…); từ “dé” cũng còn có nghĩa “nhưng”: “Vẫn biết/hẳn nhiên người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần.  Bà sẽ sinh con trai, nhưng ông phải đặt tên con trẻ.”  Từ “vẫn biết/hẳn nhiên” nói lên một sự thật mà Giuse đã rõ (nên không có chuyện thiên thần mặc khải mầu nhiệm cưu mang đồng trinh cho ông lúc này).  Maria sẽ sinh con, “nhưng” Giuse sẽ đặt tên cho con trẻ.  Đặt tên (quyền của người cha theo pháp luật Do-thái) là thừa nhận kẻ được đặt tên như con của mình.  Rồi con đẻ hay con nuôi đều có giá trị như nhau trước pháp luật Do-thái, nghĩa là con nuôi cũng hoàn toàn thuộc về dòng dõi cha nuôi với mọi quyền lợi và nghĩa vụ y như con đẻ.  Cách giải quyết của Thiên Chúa thật tài tình: lợi dụng một điều khoản trong luật pháp Do-thái (con nuôi # con đẻ, mà chắc Người đã từ lâu xui khiến cho có), Thiên Chúa hoàn tất lời Thánh Kinh: Đấng Thiên Sai sẽ thuộc dòng dõi Đa-vít dù là con của một trinh nữ, với Thiên Chúa là Cha. 

Còn một lý do thực tế: cần phải tạm thời che giấu mầu nhiệm Ngôi Hai nhập thể (khó chấp nhận khi chưa có ngôn hành khẳng định của chính Đức Giêsu) bằng cách để thiên hạ lầm tưởng Giuse là cha đẻ của Người.  Sự hiện diện của Thánh Giuse trong ngôi nhà Na-da-rét còn cần thiết để bảo vệ thanh danh Đức Trinh Nữ cũng như để chăm sóc nuôi dưỡng Ấu Chúa và Mẹ Người.

 Đến đây, ta có thể hiểu rõ thêm nữa về sự công chính của Thánh Giuse: đó là sự thức tỉnh nội tâm đối với Thiên Chúa, một sự thức tỉnh vốn giúp người có khả năng đón nhận và hiểu rõ sứ điệp, dẫn người tức khắc tới chỗ vâng phục.  Dẫu cho đến nay người đã bối rối trước các chọn lựa khác nhau của mình, giờ đây người biết đâu là đường lối hành động đúng đắn.  Là một người công chính, người vâng theo các mệnh lệnh Thiên Chúa truyền dạy. 

Hiểu Ra Mầu Nhiệm

 Tất cả sự việc này đã xảy ra, là để ứng nghiệm lời xưa kia Chúa đã phán qua miệng ngôn sứ: ‘Này đây, Trinh Nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Em-ma-nu-en, nghĩa là Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta’.  Khi tỉnh giấc, ông Giuse làm như sứ thần Chúa dạy, và đón vợ về nhà.”  Vậy là bên cạnh Đức Maria, bà Ê-li-sa-bét, Thánh Giuse nay cũng hiểu: vừa là con Thiên Chúa, vừa là con loài người, Đức Giêsu đúng là Em-ma-nu-en thật (x. Is 7,14).  Ngay cả cho dù không thực sự mang cái tên độc đáo này, Người vẫn là Em-ma-nu-en, như toàn bộ Tin Mừng sẽ cố gắng minh chứng, là Thiên-Chúa-ở-cùng-nhân-loại trong chính bản thân Người.  Hai bản tính trong một ngôi vị này khiến Người có thể đền tội xứng đáng, đầy đủ cho chúng ta và nhất là có thể thần hóa chúng ta, làm chúng ta nên con Thiên Chúa, thông phần bản tính Người: “Con Thiên Chúa đã làm người để biến chúng ta thành Thiên Chúa” (thánh Athanasiô), “Thiên Chúa đã làm người, để biến chúng ta thành thần linh” (thánh Irênê).  (Tương tự chúng ta vì là vật chất và tinh thần nên có thể tinh thần hóa vật chất vậy).

 Lm. Phêrô Phan Văn Lợi

 From: Langthangchieutim 


 

Cuộc Cách Mạng về Phim Đạo được công chiếu ở Việt Nam năm 2025

  • Cuộc đời của Chúa Giê Su được công chiếu ở các rạp chiếu bóng lớn ở Việt Nam ngay trong thời XHCN.
  • “Vua của các Vua” diễn tả trung thực Kinh Thánh bằng ngôn ngữ hoạt hình 3D.
  • Phim được quảng bá ở những nơi trang trọng nhất
  • Phim được lồng tiếng Việt với các diễn viên thượng thặng: Hứa Vĩ Văn và Thành Lộc.
  • Dù phim  bị cấm cho trẻ em dưới 13 tuổi xem, nhưng lại có  con số khán giả đông đảo  trong mùa giáng sinh 2025.

Câu chuyện sử dụng một thủ pháp kể chuyện độc đáo :
Charles Dickens cố gắng kể lại câu chuyện Giáng Sinh nhưng cuối cùng lại thuật lại cuộc đời của Chúa Giê-su cho con trai mình là Walter. Thông qua trí tưởng tượng phong phú, Walter và chú mèo của cậu cùng tham gia vào hành trình của Chúa Giê-su—chứng kiến ​​sự giáng sinh, các phép lạ và cuộc Khổ nạn. Bộ phim nhấn mạnh đức tin, sự cứu chuộc và tình yêu thương , khiến nó trở nên dễ tiếp cận với gia đình và trẻ em.

ĐỒNG TRINH SINH HẠ – Ronald Rolheiser, OMI

Ronald Rolheiser, OMI

 Truyền thống Kitô luôn luôn nhấn mạnh đến việc Chúa Giêsu được sinh ra do một trinh nữ.  Đấng Thiên sai chỉ được sinh ra từ dạ người đồng trinh.  Đương nhiên lý do chính cho sự nhấn mạnh này là để nêu bật Chúa Giêsu không có người cha thế gian và việc Ngài được sinh ra là do Thần Khí.

 Nhưng cũng có một nghĩa thứ hai, ít được nói đến trong Thánh Kinh.  Thường thường trong nghĩa này, ý tưởng cho rằng Chúa Giêsu sinh từ một trinh nữ vì dục tính là cái gì không tinh khiết, quá phàm tục so với một sự việc thiêng liêng như vậy.  Thiêng liêng phải được tách bạch ra khỏi cái gì phàm tục. 

Không những Chúa Giêsu được sinh ra từ một trinh nữ, vì Người không có cha trần thế, mà Người còn được sinh ra từ trinh nữ vì sự sinh ra này đòi hỏi phải tinh tuyền, mà theo định nghĩa, tinh tuyền là loại trừ dục tính.  Khái niệm của chúng ta về đồng trinh sinh hạ đã chịu sự thấm nhuần của lòng mộ đạo, mà với tất cả lý do có thể có, không thể nào chấp nhận dục tính đi với thiêng liêng.

 Có cái gì sai ở đây?  Vượt ra ngoài sự chê bai cái tốt đẹp do Chúa ban của dục tính, ở đây thiếu một trong những khía cạnh chủ yếu của sự mặc khải trong việc đồng trinh sinh hạ.  Có một thách đố mang tính luân lý trong việc đồng trinh sinh hạ, một điều gì đó mời gọi bắt chước hơn là thờ phượng. 

Truyền thống Kitô nhấn mạnh đến đồng trinh sinh hạ (cũng như nhấn mạnh đến hầm mộ chưa từng chôn ai, nấm mộ trinh khiết đi đôi với tử cung còn trinh) không phải vì truyền thống cho rằng dục tính là không tinh khiết và quá thế tục nên không thể sinh ra một cái gì thiêng liêng. 

Ngược lại, ngoài khía cạnh nhấn mạnh Chúa Giêsu không có cha trần thế, truyền thống Kitô muốn nhấn mạnh đến quả tim và tâm hồn cần có một khoảng không gian linh thiêng để một cái gì đó có tính cách linh thiêng có thể được sinh ra.  Vấn đề ở đây không phải là chuyện độc thân thay vì dục tính, nhưng là kiên nhẫn thay vì hấp tấp, tôn trọng thay vì không tôn trọng, chấp nhận sống trong căng thẳng thay vì đầu hàng và bù đắp cho một ước muốn không được đáp ứng.  Quả tim tinh khiết sẽ để cho tình yêu đi theo tiếng gọi của nó chứ không lèo lái nó.  Quả tim tinh khiết để cho quà tặng là quà tặng chứ không cưỡng bức nó, dù theo cách tinh vi đến đâu đi nữa.  Quả tim tinh khiết chấp nhận đau khổ của khiết tịnh thay vì ngủ với cô dâu trước ngày cưới.  Rốt cuộc, đó là điều tạo nên khoảng không gian tinh tuyền, là khoảng không gian trong đó Chúa có thể sinh ra.

 Cách đây ba mươi năm, trong ý hướng muốn diễn tả điều này, tôi viết một bài thơ có đầu đề là Đồng trinh sinh hạ.  Bây giờ tôi mắc cỡ bởi vì lý tưởng của tuổi thanh xuân trong bài thơ này, nhưng, trong những ngày đẹp đẽ của tôi, tôi lại nhận lấy lời khuyên từ những dòng thơ của chàng trai trẻ năm nào:

 Đồng trinh sinh hạ

Nghịch lý đời đời, đặc biệt cho cả hai Đấng Cha và Con
Những vị đã kết hợp đặc biệt minh triết con người từ điều kỳ diệu.
Một trinh nữ sinh hạ
Không phải ra một chủng tử vô sinh
Mà là một Đấng Cứu Thế.

Đồng trinh thì liên quan gì tới việc hạ sinh?  Không gì cả!
Khi minh triết phí phạm lời lẽ để đi mông lung
tìm một sự thật sẽ không giải thoát chúng ta.

Đồng trinh và không ăn nằm: quả tim chưa trọn đủ và thân xác,
Vật lộn với một vị Chúa không có thịt da
Người không để xác thịt gặp xác thịt
cảm thấy đớn đau, vẫn mong chờ sự trọn đủ
Để tránh hiếm muộn, một tội lỗi thật sự không thể tha thứ chống lại tinh thần của sự sống
Nhưng hiếm muộn đã mang thai lòng khao khát cái tinh thần đã ngủ với Thiên Chúa trong đêm
đã mang thai tinh thần cứu thế – những ai đã kiên nhẫn đợi chờ và thà một mình khóc thầm
hơn là làm hư món quà
vì thiếu kiên nhẫn.

Chỉ dạ của các trinh nữ mới cưu mang được Đấng Cứu Thế
vì chỉ các trinh nữ mới sống một mình trong chờ đợi
chờ đợi một chàng hôn phu
khuya khoắt, đã sau mười một giờ đêm, không còn hy vọng gì.
Không nản lòng, dạ người trinh nữ vẫn chờ đợi
Khước từ tất cả những người tình giả dối và tất cả nôn nóng
cái đòi hỏi xác thịt trên xác thịt và
một Xứ sở thần tiên theo điều kiện của con người

Đấng Cứu Thế chỉ được sinh hạ
từ trong dạ người trinh nữ
từ trong kiên nhẫn của người trinh nữ
cái làm cho
Thiên Chúa là Thiên Chúa
tình yêu là quà tặng.

 Ronald Rolheiser, OMI
14, tháng mười hai, 1981


 

‘Tiền trong dân còn rất nhiều’ và niềm tin trong dân đã cạn-Đặng Đình Mạnh

Ba’o Nguoi-Viet

December 13, 2025

*Chuyện Vỉa Hè
*Đặng Đình Mạnh

Trong nhiều năm qua, các nhà lãnh đạo cao cấp CSVN liên tục nhắc đi nhắc lại một cụm từ, mà thoạt nghe, tưởng như rất “kinh tế học” nhưng thực chất lại rất “chính trị học”: “Tiền trong dân còn rất nhiều”.

Khi còn sinh tiền, Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí thư đảng CSVN nói “Các đồng chí nói “Tiền trong dân còn nhiều” như thế là không đúng, thậm chí, rất lệch lạc. Dân không mang tiền ra làm ăn là vì họ không yên tâm, không có môi trường thuận lợi chứ đâu phải vì họ không muốn phát triển? Chính cán bộ yếu kém, quản lý chồng chéo, thủ tục nhiêu khê, hết kiểm tra lại thanh tra… mới làm dân sợ rủi ro, đành để tiền nằm một chỗ…”.

Các nhân viên (bên trái) một ngân hàng thương mại tại Hà Nội tiếp khách hàng trong dịch vụ thường lệ từ ký thác, chuyển khoản, đến tín dụng. (Hình: Nhạc Nguyễn/AFP/Getty Images)

Sau khi kế nhiệm chức vụ Tổng Bí thư, Tô Lâm cũng đã lập lại câu nói này với lời chê trách nhân dân “…vì nhân dân không biết kinh doanh, không biết sản xuất, không mở được doanh nghiệp, thì tỉnh làm sao có thuế được, thu được thuế ở đâu được”.

Cho thấy, tuy cùng một câu nói “Tiền trong dân còn rất nhiều”, nhưng ít ra, Nguyễn Phú Trọng còn nói được về nguyên nhân “dân sợ rủi ro”, nên chưa huy động được nguồn tiền trong dân, khác với Tô Lâm chỉ nói về lợi ích của tiền sinh ra tiền một cách đầy thực dụng.

Nhưng nói cách nào đi nữa, hàm ý phía sau câu nói ấy không phải để suy tư về niềm tin xã hội, mà là để ám chỉ một điều khác, rằng dòng tiền đang nằm im trong túi dân, chúng chưa được huy động cho mục tiêu phát triển, và vì thế, chế độ muốn “khai thông”.

Nhưng vấn đề của người dân lại không nằm ở đồng tiền, lại càng không phải ở chỗ khơi thông, mà nằm ở niềm tin. Điều mà chế độ đã sớm “phung phí” đến cạn kiệt từ lâu! Thú vị là chính Nguyễn Phú Trọng, người cứ hay bị công chúng đùa với hỗn danh “Trọng lú” lại công khai thừa nhận nguyên nhân cốt lõi của tình trạng này. Dĩ nhiên, với ông Trọng, đây không phải lời “tự diễn biến”, chúng là lời tự thú chính trị.

Nó cho thấy ông ấy hiểu khá rõ bản chất vấn đề, rằng dân không thiếu tiền, mà là dân sợ hãi, dân thiếu niềm tin. Khiến cho nguồn lực tài chính khổng lồ trong dân phải ngủ yên, chúng chưa được khai thác hiệu quả. Đó là sự lãng phí nguồn lực khi không tạo ra được giá trị gia tăng trong bối cảnh thiếu vốn đầu tư vào sản xuất, kinh doanh, y tế, giáo dục… làm chậm sự phát triển chung.

Thế nhưng, thay vì chữa bệnh từ gốc, người kế nhiệm Tổng Bí thư, Tô Lâm, lại nhìn vấn đề theo hướng ngược lại, rằng “Tiền trong dân rất nhiều… nhân dân không biết kinh doanh, không biết sản xuất…”. Cách tư duy này đánh dấu một sự trượt dài nhận thức, thay vì tự kiểm điểm cấu trúc quyền lực lại quay sang đổ lỗi cho người dân! Đó là vấn đề của chế độ CSVN lúc này.

Nước Anh thế kỷ XVII và giải pháp dân chủ hóa tài chính

Lịch sử thế giới cũng từng có dịp ghi nhận về giải pháp huy động nguồn lực tài chính trong dân rất hiệu quả, đó là Anh quốc vào thế kỷ thứ XVII.

Năm 1689, ngay trong cuộc Chiến tranh Chín Năm (Nine Years’ War) nổ ra giữa Anh và Pháp. Tình thế tài chính của Anh lúc đó vô cùng kiệt quệ, nhà vua không có uy tín để đi vay tiền, ngân khố trơ khốc. Chiến tranh đã gây tiêu hao các nguồn lực của nước Anh một cách khủng khiếp.

Giải pháp mà họ chọn không phải là tịch thu tài sản nhân dân bằng các chiến dịch “Đánh tư sản mại bản”, “Tư sản công thương nghiệp”, quốc hữu hóa, cũng không phải vận động nhân dân đóng góp, mà là một bước đột phá bằng tạo dựng lòng tin thể chế.

Đó là việc thành lập Ngân hàng Anh (Bank of England) vào năm 1694. Đây là ý tưởng của một nhà quý tộc Scotland, ông tên William Paterson, được giao thành lập ngân hàng tư nhân Anh quốc. Theo đó, ông có quyền thành lập Ngân hàng Anh với những đặc quyền ngân hàng của chính phủ bao gồm phát hành giấy bạc.

Sắc lệnh hoàng gia hợp thức các quyền này ngày 27 Tháng Bảy 1694. Thị trường tài chính lúc đó rất nghèo nàn nên khoản vay bị tính lãi suất tới 8% một năm cộng thêm phí quản lý của khoản vay là £4.000 mỗi năm.

Bản chất của ngân hàng này là một công trình của niềm tin. Khi ấy, người dân góp vốn, nhưng đổi lại họ có: Quyền sở hữu rõ ràng, được bảo đảm pháp lý và một thể chế buộc phải tôn trọng cam kết của mình. Kết quả hết sức ngoạn mục, chỉ trong chưa đầy hai tuần, nước Anh huy động được 1,2 triệu bảng Anh, một số tiền khổng lồ ở thế kỷ XVII.

Câu chuyện không nằm ở chỗ người Anh ít hay nhiều tiền hơn người Việt hôm nay, mà điều quan trọng nhất là họ đã đồng ý góp rất nhiều tiền vào ngân hàng khi có lòng tin rằng tài sản của họ được bảo vệ bởi luật pháp.

Bài học từ Anh quốc và sự bất khả thi trong thể chế độc đảng Việt Nam

Chúng ta sẽ tự hỏi, liệu chăng mô hình huy động tài chính thành công tại Anh quốc có thể áp dụng tại Việt Nam hay không? Câu chuyện của Anh quốc là một lý thuyết rất đẹp. Nhưng hoàn cảnh thực tế tại Việt Nam hiện nay lại đối lập hoàn toàn với những tiền đề căn bản của mô hình này.

Để huy động được tiền trong dân theo cách văn minh như Anh, cần tối thiểu 5 điều kiện nền tảng: Chính quyền có tính chính danh, nếu ở Anh Quốc là sự truyền ngôi chính đáng thì ở Việt Nam cần thông qua bầu cử tự do; Một nền tư pháp độc lập tuyệt đối để có thể ban phát công bằng, công lý mà không bị tác động bởi chính trị, đảng phái; Quyền tài sản được Hiến pháp bảo đảm thực chất; Minh bạch hóa ngân khố và chi tiêu công; Không có nỗi sợ bị tước đoạt tài sản tùy tiện.

Nhưng Việt Nam hiện nay có gì?

Chính quyền không chính danh, do độc tài đảng trị; Tư pháp bị đặt dưới sự “lãnh đạo toàn diện của đảng Cộng Sản”, tác động bởi những cơ chế như Ban An ninh Nội chính và tình trạng hối lộ, tham nhũng; Quyền tài sản không được bảo đảm, như nhà đất bị giải tỏa bất công mà không được bồi thường đầy đủ; Tình trạng công an trị và tham nhũng có hệ thống; Doanh nhân vi phạm pháp luật để có thể tồn tại và trở thành con tin của công an.

Trong môi trường ấy, khuyên người dân mang tiền ra kinh doanh, sản xuất, làm dịch vụ chẳng khác nào bảo người ta bước ra khỏi nhà mà không khóa cửa, không có công an bảo vệ, không có tòa án độc lập, rồi trách họ sao “không dám ra đường!?

Tiền nằm trong dân là phản ứng phòng vệ

Một thực tế cần được thẳng thắn, rằng người dân Việt Nam gửi tiền tiết kiệm vì không phải không biết làm ăn, mà họ gửi tiền tiếp kiệm vì đó là phương thức phòng vệ cuối cùng trước một hệ thống bất định, bất lương và đầy rủi ro.

Họ hiểu rất rõ xã hội, nơi chế độ CSVN tạo ra môi trường, mà: Làm ăn lớn ⇒ dễ bị thanh tra. Mở rộng doanh nghiệp ⇒ dễ “va chạm” lợi ích. Thành công quá ⇒ có thể trở thành mục tiêu chính trị. Trong xã hội như vậy, lựa chọn an toàn nhất không phải là “khởi nghiệp”, mà là trú ẩn tài sản. Đó không phải tâm lý tự ti, đó là phản ứng sinh tồn.

Bài học cốt lõi từ Anh quốc — Niềm tin

Nhiều người nhầm tưởng rằng bài học huy động tài chính trong dân từ giải pháp của nước Anh là “hãy tạo lập một ngân hàng mới”. Điều này sai một cách cơ bản. Vì lẽ, bài học thật sự là: Hãy lập một thể chế mang lại cho dân niềm tin mới.

Người dân tại Việt Nam tới nay vẫn quen dùng tiền mặt trong mọi giao dịch trong khi trị giá đồng bạc CSVN thì rất thấp nên số tiền bỏ vào hay rút ra đều chồng đống như những cục gạch. (Hình: Hoàng Đình Nam/AFP/Getty Images)

Thể chế đó chỉ có thể là: Một chính quyền dân chủ được hình thành từ bầu cử tự do. Một nền tư pháp hoàn toàn độc lập . Một hệ thống quyền lực chính trị có thể kiềm chế, giám sát được. Quyền tài sản, quyền tự do được bảo đảm bởi luật pháp … thì “Tiền trong dân còn nhiều” sẽ được huy động vào nền kinh tế một cách tự nhiên mà không cần đến lời kêu gọi.

Nhưng trong một thể chế độc tài, đảng trị, nơi công an mạnh hơn tòa án, nơi hiến pháp có hiệu lực thấp hơn nghị quyết, nơi luật pháp yếu hơn chỉ thị, nơi tài sản có thể bị “thu hồi” chỉ bằng một quyết định hành chính bất kỳ, nơi tham nhũng tràn lan, thì vĩnh viễn, “Tiền trong dân còn nhiều” đến mức nào đi nữa, sẽ vẫn mãi mãi nằm trong hầu bao của họ.

Nước Anh đã trở thành đế quốc, nơi được xưng danh “Mặt trời không bao giờ lặn”, không phải vì họ giàu hơn dân tộc khác, mà vì họ tạo được một thể chế để dân dám tin.

Còn Việt Nam hôm nay, nơi được hứa hẹn “Kỷ nguyên vươn mình”, không phải vì giàu, vì mạnh, mà vì chế độ nơi ấy rất hào phóng hứa hẹn điều mà họ và dân của họ đều quá hiểu nhau, rằng chẳng có cơ sở gì để kỷ nguyên hão huyền ấy trở thành sự thật.

Vì lẽ, “Tiền trong dân còn rất nhiều” nhưng niềm tin trong dân đã cạn.

Hoa Thịnh Đốn, ngày 9 Tháng Mười Hai 2025

Đặng Đình Mạnh.


 

2 ĐỨA TRẺ CHỊU CHẾT CHỨ QUYẾT KHÔNG NHỔ NƯỚC BỌT LÊN KINH THÁNH

Cộng Đoàn CGVN Birmingham

Câu chuyện này diễn ra vào thời Thế chiến thứ II, ngay trước lúc Đức quốc xã tiến hành cuộc thảm sát hàng loạt người Do Thái tại các trại tập trung của phát xít…

Khi đó, một sĩ quan Đức quốc xã bước ra, cầm cuốn Kinh Thánh ném xuống đất. Hắn đảo mắt nhìn nỗi hoảng sợ đang hiện rõ trên khuôn mặt của những nạn nhân người Do Thái và nói:

“Ai trong số các người muốn sống sót thì hãy nhổ nước bọt lên cuốn Kinh Thánh này rồi đứng vào hàng người được phép sống sót ở phía bên phải. Nếu muốn đứng vào chỗ người sẽ bị xử chết ở hàng bên trái thì không cần khạc nhổ lên cuốn sách này!”.

Một người đàn ông Do Thái đầu tiên bị tên lính Đức quốc xã gọi tên, người này đến chỗ cuốn Kinh Thánh rồi dang hai tay ra ôm cuốn sách vào ngực và tha thiết cầu nguyện: “Lạy Chúa, xin tha thứ cho con, con là kẻ có tội”. Sau khi cầu nguyện, anh nhẹ nhàng đặt cuốn Kinh Thánh lại chỗ cũ, nhổ nước bọt lên, và đứng vào hàng người được sống ở bên phải theo đúng chỉ định của tên sĩ quan Đức quốc xã.

Tiếp theo – dù là phụ nữ hay nam giới, họ đều lặp lại hành động giống hệt như vậy, không có sai khác gì. Họ ôm Kinh Thánh trước ngực, sùng kính cầu nguyện rồi nhổ nước bọt lên cuốn sách và đứng vào hàng người được sống. Đám binh lính và sĩ quan Đức quốc xã đứng chứng kiến cảnh tượng này mà cảm thấy thích thú.

Lúc này, một bé gái 8 tuổi người Do Thái, tên Esther, đã đi xuyên qua đám đông tới thẳng vị trí trước mặt đám lính Đức quốc xã, cô bé cầm cuốn Kinh Thánh đầy nước bọt rồi lấy tóc lau sạch và dùng hai tay nâng cuốn sách lên trước trán cầu nguyện: “Lạy chúa, xin tha thứ cho họ, xin hãy nhận lấy linh hồn của con”. Sau đó, cô bé bước sang bên trái theo chỉ định của lính Đức quốc xã và đứng một mình trong hàng người chết.

Những người Do Thái tiếp theo lại tiếp tục khạc nhổ lên cuốn Kinh Thánh mà Esther vừa lau sạch, rồi tiếp tục đứng về hàng người sống.

Tiếp đó, một cậu bé 10 tuổi tên là David bước ra. Cậu học theo hành động của Esther, lấy mặt lau sạch nước bọt trên cuốn sách rồi thành kính cầu nguyện. Sau đó, cậu tiến đến bên Esther theo chỉ định của lính Đức quốc xã, David nắm chặt tay Esther và thì thầm: “Dưới Chúa, bạn không đơn độc”.

Giờ hành quyết đã đến, đám lính Đức quốc xã nói cười ầm ỹ và bắn điên cuồng vào hàng người Do Thái ‘chọn sống’ đang đứng ở phía hàng bên phải. Những người này tỏ ra tuyệt vọng ngã xuống đất với vẻ mặt méo mó. Sau đó, một tên lính Đức bước đến chỗ Esther và David, hắn giơ tay lên trán tỏ ý thành kính. Và rồi… tiếng súng vang lên, Esther cùng David nắm chặt tay nhau mỉm cười ngã xuống vũng máu.

Đây đúng là câu chuyện làm rung động tâm hồn người đọc. Khi đối mặt với thế lực xấu xa tà ác, nếu đã không thể sống thì dù có thỏa hiệp cũng không tránh khỏi cái chết. Người ta có thể không lựa chọn được giữa sống và chết nhưng lại có thể chọn được cách chết như thế nào. Người chọn thỏa hiệp thì chết một cách hèn nhát; còn người giữ vững đức tin, không chịu khuất nhục thì sẽ chết giống như một anh hùng. Và lẽ dĩ nhiên, nếu có trở về Thiên Đàng, họ sẽ chắp tay và mỉm cười trước Chúa.

San San biên dịch | Theo Vision Times

Hình minh hoạ

Cảnh trong phim ‘Schindler’s List’

Nữ diễn viên đóng vai “Cô bé mặc áo khoác đỏ” trong phim ‘Schindler’s List’ hiện đã 32 tuổi và đang giúp đỡ những người Ukraine vào Ba Lan tị nạn


 

NGAY LÀNH – Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

 Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

“Ông đang toan tính như vậy, thì kìa sứ thần Chúa hiện đến báo mộng cho ông”.

“Khủng hoảng bạn gặp – có thể gọi là ‘tai ương’ – thường mang lại những cơ hội lớn hơn. Chúng thúc đẩy trưởng thành tâm linh, chứng tỏ sự chính trực, và chuẩn bị bạn cho một sứ vụ đáng kinh ngạc… với điều kiện, bạn phải ngay lành!” – Kin Hubbard.

Kính thưa Anh Chị em,

Nhận định trên ứng nghiệm tuyệt đẹp nơi thánh Giuse. Tin Mừng hôm nay hé lộ một tiểu tiết ít ai chú ý, nhưng rất đáng suy nghĩ: thiên thần chỉ hiện ra với Giuse ‘sau khi’ ông đã quyết định làm một điều tốt. Dường như Thiên Chúa chỉ mặc khải sâu hơn kế hoạch của Ngài cho ai – trước khủng hoảng – biết phản ứng cách ‘ngay lành!’.

Đối diện với việc Maria có thai – một bất thường nơi người phụ nữ vốn được biết là không thể chê trách – Giuse không vội phản ứng. Ông nghĩ suy, cầu nguyện và phân định. Về pháp lý, Giuse có quyền công khai “chuyện tình buồn” của mình; nhưng ông đã không làm vậy. Trái lại, Giuse chọn rút lui lặng lẽ, như để giao phó cho Chúa phần còn lại. Đặc biệt, Giuse dường như ‘ưu tiên’ cho Maria trong mối ngờ vực này. Nghĩ điều tốt cho người khác – nhất là khi có lý do để nghi ngờ – luôn là một nhân đức hiếm hoi; nó được gọi là ‘ngay lành’. “Tình yêu chọn tin điều tốt nhất ở người khác!” – Marvin J. Ashton.

Bao xung đột bùng nổ, bao tình bạn vỡ tan, chỉ vì người ta dễ kết luận, “Không phải do tôi!”. Giuse không đi con đường ấy. Và chính trong sự ‘ngay lành’ đó, Thiên Chúa lên tiếng, “Này ông Giuse, con cháu Đavít, đừng ngại đón Maria vợ ông về, vì người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần; bà sẽ sinh con trai, và ông phải đặt tên cho con trẻ là Giêsu!”. “Ở giữa khó khăn là cơ hội!” – Albert Einstein. Từ một khủng hoảng tưởng chừng bế tắc, Thiên Chúa mở ra cho Giuse một mầu nhiệm vĩ đại – Đấng Cứu Thế sẽ được trao vào tay ông. Người Con ấy là “Chồi non chính trực” – bài đọc một; và “Triều đại Người đua nở hoa công lý và thái bình thịnh trị đến muôn đời” – Thánh Vịnh đáp ca.

Giuse đã tin, vâng theo – dù tất cả chỉ đến qua một giấc điệp. Đó không phải là một giấc điệp mơ hồ; nhưng là giấc điệp được đỡ nâng bởi một đức tin quảng đại và một con tim ‘ngay lành’ đủ chín. Nhờ thế, Giuse ôm lấy Hài Nhi và trung thành với sứ vụ đến cùng. “Nếu phán xét người khác, bạn không còn thời gian để yêu thương họ!” – Mẹ Têrêxa.

Anh Chị em,

“Bạn phải ngay lành!”. Với chọn lựa ấy, tai ương của Giuse đã trở thành cơ hội lớn hơn. Mùa Vọng, mùa con tim được đào tạo và chữa lành, hầu chúng ta biết sống chính trực, tín thác trọn vẹn vào Chúa; nhờ đó, có thể đi qua khủng hoảng mà không đánh mất điều lành. “Mỗi nghịch cảnh, mỗi thất bại, mỗi nỗi đau đều mang trong nó mầm mống một lợi ích ngang bằng hoặc lớn hơn!” – Napoleon Hill. Và kìa, như với Giuse, Thiên Chúa cũng đang âm thầm chuẩn bị cho bạn và tôi một sứ vụ đáng kinh ngạc!

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, đừng để con vuột mất những ‘cơ hội lớn hơn’, cho con luôn ngay lành trong thử thách, để ôm lấy sứ vụ không tưởng Chúa đang âm thầm chuẩn bị!”, Amen.

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

********************************

Lời Chúa Ngày 18/12, Thứ Năm Tuần III Mùa Vọng

Đức Giê-su sinh làm con bà Ma-ri-a. Bà đã thành hôn với ông Giu-se, con cháu vua Đa-vít.

✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Mát-thêu.    Mt 1,18-24

18 Sau đây là gốc tích Đức Giê-su Ki-tô : bà Ma-ri-a, mẹ Người, đã thành hôn với ông Giu-se. Nhưng trước khi hai ông bà về chung sống, bà đã có thai do quyền năng Chúa Thánh Thần. 19 Ông Giu-se, chồng bà, là người công chính và không muốn tố giác bà, nên mới định tâm bỏ bà cách kín đáo. 20 Ông đang toan tính như vậy, thì kìa sứ thần Chúa hiện đến báo mộng cho ông rằng : “Này ông Giu-se, con cháu Đa-vít, đừng ngại đón bà Ma-ri-a vợ ông về, vì người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần. 21 Bà sẽ sinh con trai và ông phải đặt tên cho con trẻ là Giê-su, vì chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ.” 22 Tất cả sự việc này xảy ra là để ứng nghiệm lời Chúa phán xưa qua miệng ngôn sứ : 23 Này đây, Trinh Nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Em-ma-nu-en, nghĩa là “Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta”. 24 Khi tỉnh giấc, ông Giu-se làm như sứ thần Chúa dạy, và đón vợ về nhà.


 

NGHÈO CHO MÌNH CON MẮT KHÁC VỀ TIỀN-Lm. Anmai, CSsR

Người Giồng Trôm

Có lẽ chẳng ai muốn sinh ra trong nghèo khó, nhưng chính cái nghèo lại là một người thầy khắc nghiệt và chân thật nhất, dạy cho ta những bài học mà không trường lớp nào có thể giảng giải tường tận được, đặc biệt là bài học về đồng tiền. Khi ta lớn lên giữa những thiếu thốn, khi đôi mắt trẻ thơ sớm phải chứng kiến cảnh cha mẹ cúi người cả ngày trên cánh đồng cháy nắng hay bên gánh hàng rong trĩu nặng chỉ để đổi lấy một bữa cơm chiều, tự nhiên ta sẽ hiểu rằng tiền không bao giờ là chuyện nói chơi. Tiền bạc, đối với người nghèo, chưa bao giờ là những con số vô tri nằm trên giấy hay trong tài khoản ngân hàng, mà nó là hiện thân của mồ hôi, của nước mắt, của sức khỏe mòn mỏi và đôi khi là cả sự hy sinh lòng tự trọng. Cái nghèo cho mình một con mắt khác về tiền, một cái nhìn không nhuốm màu toan tính tham lam nhưng lại trĩu nặng nỗi trân trọng và xót xa.

Tôi nhớ những ngày tháng cũ, khi cái nghèo còn đeo bám gia đình như một chiếc bóng dài lê thê không dứt. Trong ký ức ấy, hình ảnh ám ảnh nhất không phải là ngôi nhà dột nát hay mâm cơm đạm bạc, mà là tấm lưng của cha và đôi bàn tay của mẹ. Cha tôi, người đàn ông vạm vỡ nhưng lầm lũi, dường như cả cuộc đời chỉ biết cúi mặt xuống đất. Ông cúi xuống để cày xới, cúi xuống để gieo hạt, và cúi xuống để gặt hái những hy vọng mong manh từ đất đai cằn cỗi. Có những ngày nắng như đổ lửa, hơi nóng bốc lên từ mặt ruộng làm mờ cả mắt người, cha vẫn ở đó, lưng áo ướt đẫm, khuôn mặt sạm đen vì nắng gió. Mẹ tôi, người phụ nữ tần tảo, cũng dành cả đời để chắt chiu từng đồng xu lẻ. Tôi từng thấy mẹ ngồi đếm lại những tờ tiền lẻ nhàu nhĩ, vuốt thẳng chúng ra, xếp ngay ngắn rồi lại thở dài cất vào trong chiếc túi vải sờn rách. Cái thở dài ấy nặng nề hơn bất cứ lời than vãn nào. Nhìn cha mẹ cúi người cả ngày chỉ để đủ một bữa, đứa trẻ trong tôi bỗng chốc già đi trước tuổi. Tôi hiểu rằng, để có được tờ tiền đưa cho tôi đóng học phí, hay mua một chiếc áo mới, cha mẹ đã phải bán đi từng chút sức lực của chính mình. Tiền lúc ấy không còn là phương tiện trao đổi, nó là máu thịt.

Khi người ta chưa từng nếm trải cái nghèo, người ta dễ dàng nhìn đồng tiền bằng con mắt hời hợt. Người ta có thể vung tay quá trán cho những cuộc vui, có thể lãng phí thức ăn, có thể mua sắm những thứ vô bổ chỉ để thỏa mãn cơn thèm muốn nhất thời. Nhưng với những ai đã từng thấy cha mẹ phải “bán mặt cho đất, bán lưng cho trời”, đồng tiền mang một sức nặng ngàn cân. Cầm đồng tiền trên tay, tôi không dám tiêu xài hoang phí, bởi tôi nhìn thấy trong đó là những giọt mồ hôi mặn chát của cha rơi xuống luống cày, là đôi bàn tay nứt nẻ rớm máu của mẹ vào những ngày đông giá rét. Sự chi tiêu dè sẻn không phải vì bần tiện hay keo kiệt, mà là vì xót. Xót cho công sức của người thân, xót cho những nhọc nhằn mà cha mẹ phải gánh chịu. Cái nghèo dạy cho ta biết sợ. Sợ cái cảm giác bất lực khi túng thiếu, sợ ánh mắt lo âu của mẹ khi hũ gạo đã vơi, sợ tiếng thở dài của cha trong đêm khuya thanh vắng. Nỗi sợ ấy biến thành ý thức trách nhiệm. Ta không dám lười biếng, không dám buông thả, bởi ta biết cái giá của sự lười biếng chính là sự đói khổ của những người ta yêu thương.

Con mắt nhìn về tiền của người nghèo cũng không nhuốm màu kiêu hãnh hay ngạo mạn. Nếu người giàu có thể dùng tiền để khẳng định vị thế, để mua lấy sự nể trọng, thì người nghèo dùng tiền chỉ để duy trì sự sống và bảo vệ phẩm giá tối thiểu của con người. Tôi đã thấy cha tôi, một người đàn ông đầy lòng tự trọng, phải cúi đầu vay mượn người khác khi trong nhà có người ốm đau. Cái cúi đầu ấy đau đớn hơn ngàn vết roi quất vào da thịt. Tiền lúc ấy trở thành một vị quan tòa phán xét, tước đi sự ngẩng cao đầu của một con người lương thiện. Từ đó, tôi học được rằng, kiếm tiền không phải để khoe khoang, mà là để không bao giờ phải rơi vào cảnh ngộ phải đánh đổi danh dự lấy sự tồn tại. Đồng tiền chân chính phải là đồng tiền sạch, được làm ra từ chính sức lao động lương thiện, dù ít ỏi nhưng đáng quý. Người nghèo hiểu rõ hơn ai hết rằng, đồng tiền bất chính có thể đến nhanh, nhưng nó sẽ cuốn trôi đi bình an và hạnh phúc. Chỉ có đồng tiền thấm đẫm mồ hôi mới mang lại giấc ngủ ngon, dù là trên chiếc chiếu manh rách nát.

Cái nghèo còn cho ta thấy một khía cạnh khác của tiền: đó là sự sẻ chia. Nghịch lý thay, đôi khi chính những người nghèo nhất lại là những người hào phóng nhất. Bởi họ hiểu cái cảm giác của sự thiếu thốn, họ thấm thía nỗi đau của cái đói, cái rét. Khi nhìn thấy cha mẹ tuy vất vả nhưng vẫn sẵn sàng san sẻ bát cơm cho người hàng xóm cơ nhỡ, hay cho đi mớ rau, con cá dù nhà mình cũng chẳng dư dả gì, tôi nhận ra giá trị của đồng tiền không nằm ở con số in trên đó, mà nằm ở cách ta sử dụng nó. Tiền có thể mua được thức ăn, nhưng không mua được bữa cơm gia đình ấm cúng; tiền có thể mua được thuốc men, nhưng không mua được sự quan tâm chăm sóc. Người nghèo, dù thiếu tiền, nhưng không bao giờ để mình nghèo tình thương. Chính trong sự khốn khó, tình người lại tỏa sáng rực rỡ nhất, như bông hoa sen vươn lên từ bùn lầy, ngát hương thơm ngát. Bài học ấy theo tôi suốt cả cuộc đời, nhắc nhở tôi rằng dù sau này có khá giả đến đâu, cũng đừng bao giờ để đồng tiền làm mờ mắt, làm chai sạn trái tim, làm ta quên đi cái gốc rễ yêu thương của con người.

Nhìn sâu hơn vào khía cạnh tâm linh, cái nghèo và cái nhìn về tiền bạc còn là một hành trình đức tin đầy thử thách nhưng cũng đầy ân sủng. Chúa Giêsu đã không chọn sinh ra trong nhung lụa, Người chọn máng cỏ hang lừa, chọn cuộc đời của một người thợ mộc lam lũ. Phải chăng, Người muốn thánh hóa sự nghèo khó và lao động? Khi nhìn cha mẹ cúi người làm việc, tôi thấp thoáng thấy hình ảnh của Đấng Tạo Hóa đang tiếp tục công trình sáng tạo qua đôi tay con người. Lao động không phải là hình phạt, mà là sự cộng tác với Thiên Chúa. Tiền bạc kiếm được từ lao động chân chính, vì thế, cũng mang một giá trị thiêng liêng. Nó là phương tiện để ta nuôi sống bản thân, phục vụ gia đình và bác ái với tha nhân. Cái nghèo dạy ta biết trông cậy vào Chúa. Khi túi tiền rỗng tuếch, khi mọi cánh cửa dường như đóng lại, ta mới học được cách quỳ gối cầu nguyện với một lòng tin thác tuyệt đối. Ta nhận ra rằng, tiền bạc là vật ngoại thân, nay còn mai mất, chỉ có tình yêu của Thiên Chúa và tình nghĩa giữa người với người mới là vĩnh cửu. Sự “nghèo khó trong tâm hồn” mà Tin Mừng nhắc tới, có lẽ cũng bắt đầu từ việc ta biết trân trọng những gì mình đang có, biết ơn từng tấm bánh, từng manh áo, và không để lòng tham lam tiền bạc chiếm ngự tâm hồn.

Sống trong một xã hội mà đồng tiền dường như đang chi phối mọi thang bậc giá trị, việc giữ cho mình một “con mắt khác” về tiền là điều không dễ dàng. Cám dỗ của vật chất luôn rình rập, mời gọi ta đánh đổi lương tâm để lấy sự giàu sang chóng vánh. Nhưng mỗi khi lòng tôi dao động, hình ảnh cha mẹ ngày xưa lại hiện về rõ mồn một. Tôi thấy lại giọt mồ hôi rơi trên trán cha, thấy lại vết chai sần trên tay mẹ, thấy lại mâm cơm đạm bạc mà chan chứa tiếng cười. Những hình ảnh ấy như một chiếc neo giữ con thuyền đời tôi không bị trôi dạt vào dòng xoáy của thực dụng và vô cảm. Tôi hiểu rằng, sự giàu có đích thực không được đo bằng số dư tài khoản, mà bằng sự bình an trong tâm hồn, bằng khả năng yêu thương và sẻ chia. Một người có thể nghèo tiền bạc, nhưng nếu họ biết sống ngẩng cao đầu, biết lao động chân chính và biết yêu thương, họ vẫn là những người giàu có nhất thế gian.

Đồng tiền, tự bản thân nó không xấu cũng không tốt, nó chỉ là tấm gương phản chiếu tâm tính của người sở hữu nó. Với người tham lam, tiền là ông chủ hà khắc sai khiến họ làm điều ác. Với người biết trân trọng giá trị lao động, tiền là người đầy tớ đắc lực giúp họ xây dựng cuộc sống và lan tỏa yêu thương. Cái nghèo đã cho tôi một đặc ân, đó là khả năng nhìn thấu bản chất của đồng tiền qua lăng kính của sự hy sinh. Tôi biết ơn những ngày tháng gian khó ấy, biết ơn sự hy sinh thầm lặng của cha mẹ. Chính nhờ những ngày “cúi người” của cha mẹ, mà tôi hôm nay mới có thể “đứng thẳng” làm người. Và bài học lớn nhất mà tôi mang theo trong hành trang cuộc đời mình, không phải là cách làm sao để kiếm thật nhiều tiền, mà là làm sao để sử dụng đồng tiền cho xứng đáng với những giọt mồ hôi nước mắt đã đổ xuống. Để mỗi khi cầm đồng tiền trên tay, tôi không chỉ thấy giá trị vật chất của nó, mà còn thấy cả một trời yêu thương, một đời hy sinh, và một lời nhắc nhở thiêng liêng về phẩm giá con người.

Cuộc sống hiện đại hối hả, con người lao vào cuộc đua kiếm tiền như những con thiêu thân. Đôi khi ta quên mất lý do thực sự ta cần tiền là gì. Ta làm việc bán sống bán chết để mua những ngôi nhà to hơn nhưng lại ít về nhà hơn; ta mua những chiếc giường đắt tiền hơn nhưng lại có ít giấc ngủ ngon hơn; ta mua những gói bảo hiểm cao cấp hơn nhưng lại ít quan tâm đến sức khỏe thực sự của cha mẹ già đang mòn mỏi ở quê nhà. Cái nghèo ngày xưa, dù khắc nghiệt, nhưng lại giữ cho gia đình một sự gắn kết bền chặt mà tiền bạc không thể mua được. Bữa cơm rau mắm ngày xưa tuy đạm bạc nhưng luôn đông đủ các thành viên, tiếng cười nói rộn ràng. Còn bây giờ, mâm cao cỗ đầy nhưng đôi khi lại thiếu vắng bóng người, hoặc nếu có đủ thì ai nấy cũng cắm cúi vào chiếc điện thoại, toan tính những chuyện làm ăn xa xôi. Phải chăng chúng ta đã “giàu” lên về vật chất nhưng lại đang “nghèo” đi về tình cảm? Phải chăng ta đã để đồng tiền làm chủ thay vì làm phương tiện? Nhớ về cái nghèo, về cha mẹ cúi người lam lũ, là cách để ta giật mình tỉnh thức, để sắp xếp lại thang giá trị của đời mình, để biết đâu là điểm dừng, đâu là hạnh phúc đích thực.

Mỗi lần dâng Thánh Lễ, khi nâng chén rượu và tấm bánh lên, tôi thường thầm thì cầu nguyện cho những người lao động nghèo khó, cho những bậc cha mẹ đang ngày đêm vất vả mưu sinh. Tôi xin Chúa thánh hóa những giọt mồ hôi của họ, biến những hy sinh thầm lặng ấy thành nguồn ân sủng nuôi dưỡng tâm hồn con cái họ. Và tôi cũng cầu xin cho chính mình, và cho tất cả chúng ta, những người có may mắn thoát khỏi cảnh nghèo, không bao giờ được phép quên đi quá khứ. Đừng bao giờ nhìn người nghèo bằng ánh mắt khinh miệt, bởi đằng sau manh áo rách ấy có thể là một tâm hồn vĩ đại hơn ta tưởng. Đừng bao giờ phung phí thức ăn, bởi đó là tội lỗi đối với những người đang đói khổ. Và quan trọng nhất, đừng bao giờ coi tiền bạc là mục đích tối thượng của cuộc đời. Hãy nhớ rằng, khi ta lìa bỏ thế gian này, ta không mang theo được một đồng xu nào cả, thứ duy nhất ta mang theo được là tình yêu ta đã trao đi và những việc lành ta đã làm.

Cái nghèo cho ta con mắt khác về tiền – một con mắt biết rưng rưng, biết trân trọng và biết yêu thương. Đó là một món quà vô giá mà có lẽ chỉ những ai đã từng đi qua giông bão của sự thiếu thốn mới có thể thấu hiểu trọn vẹn. Xin cho chúng ta luôn giữ được cái nhìn trong sáng ấy, để giữa dòng đời vạn biến, ta vẫn giữ được trái tim ấm nóng của một con người, biết sống xứng đáng với những hy sinh của tiền nhân, và biết dùng những gì mình có để làm đẹp cho đời, làm sáng danh Chúa. Bởi suy cho cùng, tiền chỉ là phương tiện để ta đi qua cuộc đời này, còn đích đến cuối cùng vẫn là Tình Yêu và Sự Sống đời đời. Nhìn cha mẹ cúi người, tôi học được cách ngẩng đầu sống đúng nghĩa, và tôi hiểu: Tiền không bao giờ là chuyện nói chơi, vì nó chứa đựng cả cuộc đời của những người tôi yêu thương nhất.

Lm. Anmai, CSsR


 

 Khi gả về nhà anh, chị mười sáu, anh lên năm tuổi – Truyen ngan QUA’ HAY

Những Câu Chuyện Thú Vị – Kim Thoa

 Khi gả về nhà anh, chị mười sáu, anh lên năm tuổi. Anh là con độc đinh, cha mẹ quý hơn vàng, chỉ tiếc anh quá nhiều bệnh tật.

Ông nội ở ngoài buôn bán nhỏ, gom được tí tiền. Bà nội tin Phật, một lòng thành kính, một lần bà nội xin được một quẻ xăm giữa miếu ngụt khói hương, nói phải cưới một cô vợ hơn tuổi cho thằng cháu đích tôn thì nó mới qua được vận hạn.

Bà nội đương nhiên tin vào lời Phật dạy chúng sinh nơi khói hương vòng quanh chuông chùa ngân nga, bởi thế ông bà nội bàn tính, đưa lễ hậu, kháo tin quanh vùng tìm mối nhân duyên cho anh.

Nhà chị năm miệng ăn, trông vào mấy sào ruộng bạc màu, chỉ đủ miếng cháo, mùa đông, cha chị vì muốn kiếm thêm ít đồng ra đồng vào, theo người ta lên núi đập đá, tiền chưa kiếm được, nhưng bị đá vỡ dập lưng, tiêu hết cả gia sản, bán sạch cả ruộng nương, bệnh không khỏi.

Hằng ngày cha chị chỉ có thể nằm trên giường, muốn chết mà chẳng chết cho. Hai đứa em trai còn chưa đủ tuổi lớn. Nỗi khổ sở của gia đình, nỗi ai oán của mẹ, làm những năm thời con gái của chị mang một gánh nặng tâm tư.

Vì thế bà mối đến, réo rắt: “Gả cô nhà đi, tiền thì để dưỡng bệnh cho cha, còn đỡ đần được tiền tiêu trong nhà”.

Mẹ chị lắc đầu, nào có ai muốn đẩy đứa con gái thơ dại của mình vào lò lửa? Nhưng chị xin: “Mẹ, cho con đi nhé, chỗ tiền ấy có lẽ chữa khỏi cho cha!”.

Tiếng kèn đón dâu thổi váng đầu ngõ trước ngôi nhà nhỏ của chị. Bố chị nằm trên giường tự đấm ngực mình; Con gái phải đem đổi tuổi thanh xuân, chấp nhận lấy một người chả xứng với mình chỉ vì cứu tôi và cứu gia đình này thôi ư!

Mẹ chị chảy nước mắt, tự tay mình cài lên tóc con gái cây trâm gài. Chị mặc áo đỏ đi giày thêu cúi lạy cha mình , tự buông tấm khăn đỏ che đầu mình, nước mắt lúc đó mới chảy ra, trộn phấn má hồng.

Từ đó, số phận cuộc đời chị và hôn nhân giao cả về tay một đứa con nít vô tri.

Bà mẹ chồng trẻ tuổi không phải là người khắt khe khó tính, bố chồng ở xa cũng chẳng cần chị tam khấu cửu bái, lạy chào dạ vâng. Anh vâng lời mẹ gọi chị là chị gái.

Hằng ngày, chị ngoài việc giúp mẹ chồng chăm ruộng rau và làm xong việc nhà, thì cắt thuốc cho chồng, sắc thuốc, may áo cho chồng, giặt giũ, cho chồng chơi, cho chồng ngủ, có lúc, anh ho suốt đêm, sốt cao, chị thức cả đêm chườm khăn hạ sốt, cho anh uống nước, uống thuốc.

Trong tim chị, chị coi anh như một đứa em trai.

Hàng xóm láng giềng gặp chị, chị thường cúi đầu lặng lẽ, không nói, vội vã đi qua. Không biết là ứng với quẻ xăm của Phật, hay nhờ chính sức mình mà anh vượt qua được bệnh tật, dưới sự chăm chút của chị, anh lần lượt chiến thắng mọi cơn bệnh tật lớn nhỏ: Ho gà, viêm màng não, lở loét v.v…

Dần dà, những tình cảm anh dành cho chị vượt quá tình cảm dành cho mẹ mình. Giữa những kẽ hở lúc bận rộn, hoặc khi anh đã ngủ say, chị thường khóc nước mắt nóng rồi thờ thẫn tự hỏi mình: “Đây là hôn nhân của mình ư, đây là chồng của mình ư?”.

Đến tuổi đi học, chị may cho anh một chiếc túi xách, dắt tay anh đến lớp. Những đứa trẻ trong và ngoài thôn thường vây lấy chị hát to: “Cô con dâu, cô con dâu, làm cái gì? Tắt đèn, thổi nến, lên giường…”

Chị không biết trong lòng mình là nỗi đau hay nỗi buồn, cúi gằm xuống, mặt đỏ lên rồi trắng bệch, trắng rồi đỏ. Một buổi tối, anh nằm trong chăn nói:

“Chị ơi, em yêu chị!”.

Chị lại là vợ. Vợ lại là chị. Chị nhìn gương mặt ngây thơ non nớt của anh, im lặng. Lần đầu tiên chị cười đau khổ.

Cha anh ở ngoài buôn bán nhiễm phải thói cờ bạc, chỉ vài ngày mà thua sạch bách bao gia sản tích cóp khổ sở lâu nay.

Sau khi bố mẹ chồng chửi bới cãi vã ầm trời, bố chồng chị dứt áo bỏ nhà ra đi, từ đó không ai gặp lại ông nữa, nghe người ta nói khi đó ông bị lính bắt đi làm phu. Lúc đó trên người mẹ chồng chị còn vài thứ trang sức, cầm đi đổi lấy vài đồng tiền.

Mẹ chồng và chị bàn nhau mua lấy ba mẫu đất. Không thể mượn người làm nữa rồi, mẹ chồng con dâu xoay ra xắn ống quần lên lội ruộng, ngày còn ở nhà chị từ nhỏ đã giúp cha mẹ làm ruộng, khổ sở gì chị cũng đã nếm trải qua. Chỉ khổ cho bà mẹ chồng chị xưa nay chưa từng phải trồng lúa bao giờ.

Một nhà vốn giàu có bỗng chốc hóa bần cùng, đàn ông bỏ đi không tăm tích, bà mẹ chồng vừa đau vừa hận, lại thêm việc làm ruộng nặng nhọc, làm bà kiệt quệ, ốm rồi không dậy nổi. Trước lúc lâm chung, bà kéo tay chị, gần như van vỉ nói:

“Nó hãy còn nhỏ dại, xin cô chăm sóc nó, nếu cô muốn ra đi, xin hãy đợi lúc nó trưởng thành”.

Chị nắm chặt tay anh. Từ đó, số mệnh của anh lại bị chị dắt đi.

Chị là người phụ nữ trọng tình nghĩa, chưa từng hứa gì, nhưng chị vẫn cùng anh như cũ. Từ đó về sau, ngay cả chính chị cũng không nhận ra mình rốt cuộc là vợ, là chị hay là mẹ của anh?

Chị quần quật không ngày không đêm, làm việc để anh tiếp tục đi học. Cuộc sống của họ trôi qua khổ nhọc nhưng bình lặng giữa tình chị em sâu nặng, tình yêu bao la như tình mẫu tử bền chặt.

Khi anh tốt nghiệp trung học thi đỗ vào một trường Đại học Sư phạm, chị thay anh thu xếp hành lý, lại một lần nữa đưa anh tới trường.

Chị nhìn cậu con trai trẻ măng vừa qua tuổi dậy thì, do chính tay mình nuôi lớn từ nhỏ đến giờ, chị chỉ dặn anh hãy cố mà học hành, ngoài ra chị không nói thêm điều gì nữa.

Nhưng anh vẫn nói: “Chị, chờ tôi quay về nhé!”.

Tim chị đập nhẹ một nhịp, nhưng mặt vẫn bình thường, có điều khóe miệng ẩn một nụ cười hân hoan rất nhẹ mà người khác khó nhìn thấy. Khóe cười ấy không phải vì câu nói của anh, mà vì những gì chị bỏ ra, đã được đáp đền lần đầu.

Chị vẫn làm ruộng như trước, nhịn ăn nhịn mặc dành tiền gửi đi.

Hai năm đầu, nghỉ hè và nghỉ Tết anh đều về quê giúp chị làm việc. Nhưng năm thứ ba đại học, anh viết thư về nói: Chị đừng gửi tiền nữa. Và kỳ nghỉ tôi cũng không về nữa đâu. Tôi muốn ra ngoài kiếm việc làm thêm, đỡ gánh nặng cho chị.

Lúc đó chị đã 29 tuổi.

Ở quê, người như chị đã là mẹ của mấy đứa con. Người trong làng đều bảo, chị nuôi anh lớn khôn, lại còn cho anh thoát li đi học, thế coi như là đã quá tốt với anh rồi, chị già hơn anh mười một tuổi, thôi đừng chờ chồng nữa.

Bây giờ anh đã đi xa, ở ngoài thế giới bao nhiêu xanh đỏ tím vàng, biết chồng mình có về nữa hay là không về nữa!

Chị cũng không biết trong lòng mình là đang thủ tiết, giữ đạo phu thê: dù sao thì mười mấy năm trước chị cũng là một cô dâu gả cưới đàng hoàng về nhà anh; hay là mình đang vì câu nói trước ngày anh lên đường đi xa: “Chị, chờ tôi quay về nhé!”; hay là chị đang lo âu như người mẹ không yên tâm về đứa con nhỏ của mình đang ở xa; chị cứ chờ.

Chị cứ giữ sự yên tĩnh và ít lời như mấy chục năm nay đã từng.

Cuối cùng cũng đã đến lúc anh tốt nghiệp. Anh quay về. Anh đã là một người đàn ông trưởng thành có phong cách và khí chất, dáng dấp một người đàn ông nho nhã hiểu biết.

Còn chị, dãi nắng dầm sương, gương mặt nhọc nhằn lao khổ đã sớm bay hết những nét đẹp thời trẻ, là một người đàn bà nhà quê đích thực.

Trong lòng chị chỉ còn coi anh là một đứa em trai thân yêu. Chị không dám ngờ anh đã nói với chị: “Chị, tôi đã trưởng thành, giờ chúng ta có thể thành thân!”.

Chị nhìn anh, như đang nằm mơ, chị sợ mình đang nghe nhầm. Anh cũng là một người đàn ông trọng tình trọng nghĩa như chị?

Chị cười, tự đáy lòng dâng lên miệng cười rạng rỡ, cũng để rơi xuống những giọt nước mắt đẹp đẽ nhất đời người.

Anh ở lại thị trấn dạy học, chị ở nhà làm ruộng. Họ có với nhau một con trai một con gái.

Sau này, anh đến khu mỏ dầu dạy học, lên chức hiệu trưởng một trường Trung học nhờ vào bằng cấp và kinh nghiệm dạy học của mình. Vì hộ khẩu, con cái vẫn để ở nhà cho chị nuôi nấng. Sau khi nhập được hộ khẩu, anh về quê đưa vợ con lên trường.

Các giáo viên trong trường đến giúp hiệu trưởng dọn nhà. Có một giáo viên bộc tuệch chạy ra nói:

“Hiệu trưởng, sao anh đón mẹ và em trai lên ở mà không đón cả chị nhà và các cháu luôn?”.

Một sự im lặng bao trùm, mọi người đều ngoái đầu nhìn chị. Lúc ấy, mặt chị sượng trân trân, không biết nên nói gì, chị cười méo mó, nhìn anh biết lỗi. Anh ngoái đầu nhìn chị, nói với tất cả mọi người với giọng chắc nịch:

“Chị các chú đây. Có cô ấy mới có tôi ngày hôm nay, thậm chí cả tính mạng tôi”.

Chị nghe anh nói, mắt chị dâng lên toàn là nước mắt.

Bây giờ chị đã bảy mươi hai, vì làm việc nặng nhọc quá nhiều, sức khoẻ kém, bệnh phong thấp làm chị đi tập tễnh. Anh sáu mươi mốt, đã về hưu từ lâu.

Hai năm nay họ dọn về khu nhà này ở, nếu hôm nào trời không mưa gió, hoặc ngày quá lạnh, đều có thể gặp bóng dáng họ ở khu sân chơi, bồn hoa; chị nắm gậy chống, anh đỡ một bên, đi chậm chạp từng bước một về phía trước, như đang dìu một đứa trẻ tập đi, chăm sóc như thế, ân cần như thế.

Những người biết chuyện của họ đều nhìn theo, cảm động bởi mối tình sâu nặng và bền chặt của anh và chị, mang nghĩa đủ tình đầy đi dọc một kiếp người. Anh nói:

“Cô ấy mang cho tôi sinh mệnh, cho mẹ tôi sự ấm áp, cho tôi một mái nhà, bây giờ, tôi dành nửa cuối đời tôi chăm sóc cô ấy”.

Anh dắt tay chị, như ngày đó chị dắt tay đứa bé năm tuổi, họ cùng mỉm cười, đẹp như nét mây chiều êm ái nơi chân trời mùa hạ.

Lê Xích Hải chuyển

(Tác giả :không rõ)


 

Thẩm phán Frank Caprio vừa qua đời ngày 20/08/2025.

 Nghệ Lâm Hồng

“Trái tim dưới áo quan tòa” vừa qua đời

– by Vũ Thế Thành

Ảnh: quan tòa F. Caprio trong phiên xử người cựu chiến binh.

Sáng nay đọc báo Mỹ mới biết tin, thẩm phán Frank Caprio vừa qua đời hôm qua, ngày 20/08/2025.

Hồi SG bị lockdown vì đại dịch, tôi thường xem show truyền hình “Caught in Providence” của Caprio, chiếu lại qua Youtube cho đỡ buồn.

Frank Caprio là chánh án tòa án thành phố Providence (Mỹ). Các show truyền hình về diễn biến những phiên tòa mà ông chủ tọa, thường là vụ án nhỏ như vi phạm luật giao thông. Phiên tòa vừa trang nghiêm, vừa vui vẻ, chẳng có gì là căng thẳng giữa thẩm phán, bị cáo và những người tham dự, nhưng đầy chất nhân bản trong đó.

Tôi nhớ mang máng có show thế này: Một bà mẹ vi phạm luật giao thông, xuất hiện ở tòa cùng với đứa con gái nhỏ. Quan tòa Caprio đọc nội dung vi phạm, bị cáo vui vẻ nhận tội. Quan tòa gọi đứa bé lên đứng cạnh ông, rồi hỏi. Mẹ có bị lỗi không? Có – Mẹ bị phạt bằng này tiền, có đúng không? Đúng – Giảm một phần tiền phạt cho mẹ nhé? Đứa bé cười toét miệng. Quan tòa lại hỏi, cháu sẽ dùng tiền giảm phạt đó làm gì? Nói mẹ mua kẹo mời mọi người trong tòa ăn. Cả tòa cười rộ lên vì câu trả lời của đứa trẻ.

Nhưng ấn tượng nhất với tôi  là phiên tòa xử một ông cụ 96 tuổi, bị phạt do chạy quá tốc độ gần khu vực trường học. Ông buồn rầu nhận lỗi. Tòa hỏi, vì sao? Tôi chở đứa con trai (60 hay 70 tuổi?)  đi cấp cứu. Đây là lần đầu tiên tôi vi phạm luật giao thông – Quan tòa quay sang hỏi về nhân thân của ông cụ, với những câu hỏi ngắn – Tôi là cựu chiến binh tham dự thế chiến II, được nhiều huân chương… Xuất ngũ làm công nhân cho đến khi về hưu, và chăm sóc đứa con tật nguyền. Vợ ông mất lâu rồi, không ai phụ giúp ông cả. Không khí trong tòa lặng đi khi ông cụ chậm rãi trả lời từng câu hỏi của thẩm phán, về cuộc đời cụ.

Quan tòa phán, mọi người trong tòa này đều mắc nợ cụ., rồi tuyên miễn phạt cho ông cụ. Thẩm phán Frank Caprio sau đó đã phát biểu một câu nói để đời “ Tôi không đeo huy hiệu dưới áo choàng thẩm phán. Tôi mang theo trái tim.”

Nghĩ lại mấy vụ gần đây trong nước, thầy hiệu trưởng tham nhũng 10 triệu ở Cà Mau, hay vụ án mấy con gà lôi.. Ngao ngán!

Cầm cân nảy mực, nếu luật pháp chỉ là công bằng không thôi thì chưa đủ, mà còn phải công minh. Nền tư pháp trong nước dường như nhân danh “công minh” để lạm dụng công bằng. Quan tòa đã đeo dao găm dưới áo choàng thẩm phán.

Cách đây hơn một năm, tôi có đọc bài báo phỏng vấn quan tòa Caprio, lúc này ông đã nghỉ hưu, và ngưng show “Caught in Providence” lâu rồi. Trông ông gầy hẳn vì đang chống chọi với bệnh ung thư tuyến tụy, nhưng nụ cười vẫn hiền hậu, toát ra vẻ nhân ái.

Sáng nay đọc NY Post mới biết tin Frank Caprio, vị quan tòa đã dấu trái tim dưới lớp áo choàng thẩm phán, vừa mãn phần hôm qua (20/08/25), ở tuổi 88. Judge Frank Caprio, R.I.P

Vũ Thế Thành


 

Thân bất lao tù , chí bất cao

Chau Trieu is with Phaolô Hiển Nguyễn 

Cùng cầu bình an cho các TNLT/VN đang bị đày đọa trong chốn lao tù CS, trong đó có  TNLT cô Phạm Đoan Trang, được Tổ chức Phóng viên Không Biên giới RSF kêu gọi trả tự do trong chiến dịch ưu tiên năm 2025.

***

“ Đời không cát bụi , đời không sạch

Thân bất lao tù , chí bất cao “ .

Tù không có gì phải sợ , chỉ sợ trong cuộc dạo chơi cõi nhân gian này không làm được gì cống hiến cho nhân thế.

Không ai muốn sống trong tù ( dù chỉ một ngày ) nhưng nếu cần cho một đất nước hồi sinh và thịnh vượng thì tù cả đời cũng không đáng sợ.

(PVT)

 Niềm vui Giáng Sinh là niềm vui cứu độ – Cha Vương

 Nào ta hãy chúc tụng và tạ ơn Chúa vì tình yêu bao la của Ngài đã dành cho chúng ta.

Cha Vương

Thứ 3, T3MV: 16/12/2025.  (n17-24)

TIN MỪNG: Đây là gia phả Đức Giê-su Ki-tô, con cháu vua Đa-vít, con cháu tổ phụ Áp-ra-ham:… từ ông Áp-ra-ham đến vua Đa-vít, là mười bốn đời; từ vua Đa-vít đến thời lưu đày ở Ba-by-lon, là mười bốn đời; và từ thời lưu đày ở Ba-by-lon đến Đức Ki-tô, cũng là mười bốn đời.  (Mt 1:1,17)

SUY NIỆM: “Nước có Sử, nhà có Phả.”, “Chim có tổ, người có tông.” Là hai câu bạn thường thấy trong những quyển sách nói về gia phả của gia đình. Vào những ngày cuối của Mùa Vọng bạn được nghe đến gia phả của Đức Giê-su Ki-tô. Con người ta sinh ra ai cũng có nguồn cội. Chúa được sinh ra và cũng có cội nguồn vậy. Trong Tân Ước, Đức Giê-su được coi là một Đavít mới. Vậy Đavít mới có liên hệ gì đến Đavít cũ. Phúc Âm thánh Matthêu tuy trình bày một cách đơn giả nhưng cũng giúp bạn hiểu được mối liên quan của Đấng Cứu Độ và sự cần thiết của ơn cứu độ đối với con người. Mátthêu muốn bạn lưu ý đến con số 14 trong cách trình bày gia phả của Đức Giêsu: “Từ Abraham đến Đavít có 14 đời; từ Đavít đến thời lưu đày Babylon có 14 đời; từ thời lưu đày Babylon đến Đức Giêsu có 14 đời” (1:17). Tại sao lại là con số 14? Cách giải thích đơn giản và dễ hiểu nhất là bạn hãy đặt mình vào não trạng người Do Thái thời bấy giờ – bởi họ là những độc giả trực tiếp tác phẩm của Matthêu. Theo quan niệm của họ, con số 14 là con số ám chỉ Đavít. Thật vậy theo mẫu tự tiếng Hipri thì Đavít gồm ba chữ: Đ W Đ (Đawiđ). Đ tương đương với số 4, W số 6 và Đ số 4. Cộng chung lại, ta có số 14. Như thế, có thể nói, khi trình bày gia phả Đức Giêsu trong tương quan với con số 14, ngay từ đầu, Matthêu đã muốn so sánh và gắn liền Đức Giêsu với Đavít. Đức Giêsu là Đavít mới xuất hiện trong lịch sử dân Người. Đối với người Do Thái, Đavít là nhân vật nổi bật trong lịch sử của họ, không những trên bình diện chính trị xã hội, mà còn trên bình diện tôn giáo nữa. Đó là một khuôn mặt rất tiêu biểu của Israel trong Cựu Ước. Vậy, khi trình bày Đức Giêsu là Đavít mới, Matthêu cũng nhắm trình bày Người là khuôn mặt tiêu biểu, là trung tâm của Dân Chúa trong Tân Ước. Ý tưởng này, được Matthêu nhắc lại nhiều lần trong tác phẩm của ngài. Thí dụ: Mt 9:27 có viết: “Đang khi Đức Giê-su ra khỏi nơi đó, thì có hai người mù đi theo kêu lên rằng: “Lạy Con Vua Đa-vít, xin thương xót chúng tôi!”; và Mt 21:9: “Dân chúng, người đi trước, kẻ theo sau, reo hò vang dậy: Hoan hô Con vua Đa-vít! Chúc tụng Đấng ngự đến nhân danh Đức Chúa! Hoan hô trên các tầng trời.” (Nguồn: WHĐ) 

   Niềm vui Giáng Sinh là niềm vui cứu độ. Ơn cứu độ trước hết và trên hết là công trình của Thiên Chúa, Đấng tự đi vào trong lịch sử nhân loại, thông qua mạc khải trong cựu ước và cuối cùng với lòng từ bi vô biên của Thiên Chúa ơn cứu độ ấy được mạc khải trọn vẹn nơi chính Đức Giêsu Kitô. Ơn cứu độ là một ân ban như không của Thiên Chúa dành cho con người. Ngài không đòi hỏi nơi con người một điều kiện nào hết mà Ngài chỉ cần con người đáp lại lời mời gọi của Ngài mà thôi. Trong sự cứu độ này Thiên Chúa đã đích thân đến cắm lều cư ngụ giữa con người, Ngài tìm kiếm, hiện diện và trao ban chính Ngài cho bạn. Bạn có sẵn sàng chưa?

LẮNG NGHE: Hãy khiêm tốn đón nhận Lời đã được gieo vào lòng anh em; Lời ấy có sức cứu độ linh hồn anh em. (Gc 1:21bc)

CẦU NGUYỆN: Lạy Chúa, xin hãy đến và ở lại với con luôn mãi.

THỰC HÀNH: Dọn đường cho ngay thẳng để đón Chúa Cứu Độ nhé. 

From : Do Dzung

***********************

Niềm Vui Ơn Cứu Độ – Vũ Phong Vũ