Bài Thơ Viết Trên Tường Nhà Dưỡng Lão
… Con ơi ! Bây giờ mẹ đi chân không vững, Cho dù cuối cùng ngay cả định nói gì
Mẹ cũng quên… Con ơi ! Con quên là mẹ con ta đã tập luyện hàng trăm lần Xin con tha thứ cho mẹ
Xin con cho mẹ chìm trong những hồi ức ấy nhé ! Xin con đáp lời mẹ kể những chuyện vụn vặt trong nhà ! Con ơi ! Giờ mẹ thường quên cài nút áo, xỏ dây giày, Xin con nhẫn nại chút và dịu dàng thêm
Mẹ chỉ cần có con ở bên Mẹ đủ ấm. Con ơi ! Bây giờ mẹ đi chân không vững, nhấc không nổi bước Sưu tầm |
Chân Phước Raymond Lull
Chân Phước Raymond Lull
(1235-1315)
Ngày 26 tháng 6
Hầu hết cuộc đời của Chân Phước Raymond là để giúp đỡ công cuộc truyền giáo và ngài từ trần khi truyền giáo ở Bắc Phi.
Raymond là con của một viên tướng chỉ huy ở Palma, Majorca và được làm việc dưới triều của Vua James I xứ Aragon, với công việc đại quản gia của triều đình. Tuy đã lập gia đình, nhưng Raymond vẫn còn gian díu với các thê thiếp. Một hôm khi đang viết thư cho tình nhân thì Raymond được thị kiến Ðức Kitô, và năm lần tiếp đó. Sau cuộc hành hương đến Compostela và Rocamadour, ngài gia nhập dòng ba Phanxicô, chia tài sản cho vợ con và tận hiến cuộc đời còn lại cho việc hoán cải người Hồi Giáo.
Lui về đời sống ẩn dật, ngài sống như một vị ẩn tu. Trong thời gian chín năm, ngài viết về mọi loại kiến thức mà công trình ấy giúp ngài xứng với danh hiệu “Tiến Sĩ Khai Sáng.” Sau đó, Raymond thực hiện nhiều cuộc hành trình đến Âu Châu để thuyết phục các giáo hoàng, các hoàng đế và thái tử trong việc thiết lập các trường đặc biệt nhằm chuẩn bị cho các nhà thừa sai trong công cuộc truyền giáo.
Sau nhiều lần thất bại, sau cùng vào năm 1311 ngài đã thành công khi Công Ðồng Vienne ra lệnh cho thành lập các phân khoa dạy tiếng Do Thái, Ả Rập và Canđê tại các trường đại học Bologna, Oxford, Balê và Salamanca.
Vào năm 79 tuổi, chính Raymond đến Bắc Phi để truyền giáo. Một đám đông người Hồi Giáo đã thịnh nộ ném đá ngài ở thành phố Bougie nhưng được các thủy thủ người Genoa cứu thoát. Trên con tầu trở về nước, ngài đã từ trần khi gần đến Majorca.
Chân Phước Raymond sáng tác rất nhiều. Ngài viết trên 300 luận án về triết học, âm nhạc, hàng hải, luật pháp, thiên văn, toán học, và thần học (hầu hết bằng tiếng Ả Rập). Ngài cũng sáng tác thi văn thần nghiệm và được coi là người tiên phong của Thánh Têrêsa Avila và Gioan Thánh Giá trong lãnh vực này.
Lời Bàn
Chân Phước Raymond đã tận tụy trong việc loan truyền Phúc Âm. Sự thờ ơ của các nhà lãnh đạo trong Giáo Hội cũng như sự chống đối ở Bắc Phi đã không làm ngài nản chí. Ba trăm năm sau, hoạt động của ngài bắt đầu có ảnh hưởng ở Mỹ Châu. Khi người Tây Ban Nha bắt đầu truyền giáo ở Tân Thế Giới, họ đã theo ý tưởng của ngài và thành lập các trường truyền giáo để chuẩn bị cho công cuộc này.
nguồn: từ Maria Thanh Mai gởi
Mơ ư ớ c b ì n h t h ư ờ n g
Chân dung Gioan Tiền hô
Chân dung Gioan Tiền hô
Gioan cất tiếng hô vang:
Bạt đồi, xẻ núi, lấp sông, uốn đường
Để Ngôi Hai, Chúa thiên cung
Giáng trần cứu độ, yêu thương nhân loài
Thánh Gioan Tiền hô luôn gắn liền với Mùa Vọng như một “định mệnh”. Ông là người “mở đường” cho Chúa đến, là nhân vật quan trọng trong công cuộc Cứu độ của Thiên Chúa, nhưng ông lại rất khiêm nhường, không nhận mình là ngôn sứ hoặc là gì khác, chỉ tự nhận mình là “tiếng người hô trong hoang địa” (Ga 1:23) và “không đáng cởi quai dép cho Chúa Giêsu” (Ga 1:27).
Thánh Gioan Tiền hô là một thanh niên trẻ nhưng nhìn rất “bụi” trong trang phục áo da thú, hẳn là nhìn ông rất khắc khổ vì ông ăn chay trường: Hàng ngày chỉ ăn châu chấu và mật ong rừng. Có thể coi Thánh Gioan Tiền hô là Mặt Trăng, còn Chúa Giêsu là Mặt Trời, nhưng không hề “đối kháng” theo ý câu “như mặt trời và mặt trăng” khi chúng ta nói về 2 người đối lập. Mặt trăng sáng nhờ mặt trời, “mặt trăng” Gioan Tiền hô sáng nhờ “mặt trời công chính” Giêsu. Chúng ta là những ngôi sao bé nhỏ trong vòm trời yêu thương nên chắc chắn cũng chỉ sáng nhờ Mặt Trời Giêsu.
Thánh Gioan Tiền hô có “nét” độc đáo và khác người, ước muốn của ông cũng chẳng giống ai: Ông muốn Chúa phải LỚN lên, còn ông phải NHỎ lại. Đó là “chất riêng” của ông, không lẫn với ai. Ông quá khiêm nhường. Có lẽ đây là điều rất khó đối với chúng ta, vì chúng ta thường muốn mình nổi trội hơn người khác, ngay cả khi chúng ta làm những việc mà chúng ta gọi là “làm việc tông đồ”, làm việc bác ái hoặc làm từ thiện. Dù không nói ra, nhưng động thái của chúng ta chứng tỏ chúng ta “ngụ ý” rằng “trước khi sáng Danh Chúa phải sáng danh con”.
Có lần LM Vinh sơn Ngô Minh Tân (Gx Bình Lợi, hạt Gia Định) nói trong một thánh lễ chiều (mùa Vọng, 2011): “Chúng tôi vẫn được dạy rằng linh mục luôn phải coi chừng vì có thể chính mình che choán hết Thiên Chúa!”. Con người dễ ảo tưởng và kiêu sa lắm, dễ suy luận chủ quan theo ý mình, vì thế mà lúc nào cũng phải “tỉnh thức” và phải dám “luôn luôn lắng nghe” để có thể “luôn luôn thấu hiểu”. Cương vị nào cũng khả dĩ có cách kiêu ngạo đặc thù. Mặc dù “con người chỉ là cây sậy có lý trí” nhưng “cái TÔI đáng ghét” kia vẫn sẵn sàng trỗi dậy bất kỳ lúc nào!
Người ta nói: “A-xít làm cháy tiền, tiền làm cháy tim phụ nữ, phụ nữ làm cháy tim đàn ông”. Một cách nói “độc đáo” thật. Còn Thánh Phaolô nói: “Cội rễ sinh ra mọi điều ác là lòng ham muốn tiền bạc, vì buông theo lòng ham muốn đó, nhiều người đã lạc xa đức tin và chuốc lấy bao nỗi đớn đau xâu xé” (1 Tm 6:10). Tiền bạc có hệ lụy với quyền lợi, quyền lợi có hệ lụy với con người, vì thế mà tiền bạc có ma lực khiến người ta mê muội và kiêu ngạo. Có lẽ vì vậy mà người Pháp có câu: “Tiền bạc là đầy tớ tốt, nhưng là ông chủ xấu” (L’argent est un servant bon, mais un maitre mal).
Thánh Gioan Tiền hô còn được gọi là Tẩy giả vì ông làm Phép Rửa cho Chúa Giêsu tại sông Giodan. Ông là người có cuộc sống giản dị, thoát ly tiền bạc, không dính líu vật chất. Tài sản của ông chỉ có bộ áo da thú khoác trên mình. Ông sống giữa thế gian nhưng không thuộc về thế gian, không lệ thuộc vật chất. Một con người như vậy nên rất cương trực trong mọi chuyện. Thấy nhà vua ham mê sắc dục, ông đã dám can ngăn nhà vua, quyết bảo vệ luân thường đạo lý. Nhà vua “lú lẫn” trong nhục dục nên sẵn sàng tặng bất cứ thứ gì, dù là nửa nước, cho mỹ nhân. Nhưng người con gái kia không cần gì khác ngoài “cái đầu của Gioan Tẩy giả”. Nhà vua đã lỡ lời nhưng không dám sửa đổi, đành “chiều” theo ác ý của mỹ nhân. Thánh Gioan Tẩy giả là nhân chứng sống và là vị tử đạo đầu tiên của Tân ước.
Thánh Phaolô tâm sự: “Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi” (Gl 2:20). Đó là cách sống mà ai cũng phải mơ ước. Nhưng con người có nhiều thứ giằng co trong mình, đôi khi cảm thấy mình như bất lực với chính mình. Chúa biết rõ mười mươi, vì thế Ngài đã động viên: “Đừng xao xuyến! Hãy tin vào Thiên Chúa” (Ga 14:1), và Ngài còn hứa rõ ràng và quyết liệt: “Thầy ở cùng anh chị em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28:20).
Lạy Đấng Thiên Sai, xin cho chúng con can đảm noi gương sống của Thánh Gioan Tiền hô. Xin Ngôi Hai mau đến cứu chúng con thoát khỏi ngục-tù-tội-lỗi. Chúng con cầu xin nhân Danh Đức Kitô. Amen.
TRẦM THIÊN THU
Hân Hoan Trong Chúa
Hân Hoan Trong Chúa
*~* Tuyết Mai (16) 09-12-03 *~*
Lậy Chúa con reo vang ca ngợi Danh Chúa
Đời con luôn an vui trong tình yêu Chúa
Vì Chúa là nguồn suối muôn Ơn lành
Cho hồn con luôn no thỏa trong Hồng Ân
Lậy Chúa con hân hoan tiến vào nhà Chúa
Cùng nhau Dâng câu ca Cảm Tạ Thiên Chúa
Vì Chúa là hạnh phúc cho muôn người
Cho hồn ai luôn khao khát Ân Tình Cha
ĐK:
Về nhà Cha là vượt mọi sự khổ đau của trần gian
Yêu tha nhân, luôn tha thứ và khoan dung
Đường Tình Yêu của Ngài là Thập Giá mang cuộc đời ta
Luôn vững tin vào Ân Phúc Tình Yêu Cha
Lậy Chúa con luôn tin trông cậy vào Chúa
Dù cho bao gian truân dâu bể dương thế
Hạnh phúc được làm Sáng Danh Chúa Trời
Cho ngày sau ta vui sống trong nhà Cha
Lậy Chúa con vui đem Tin Mừng của Chúa
Truyền lan đi muôn phương cho người trần thế
Để khắp địa cầu biết Danh Chúa Trời
Cho ngày sau trên Thiên Quốc Cha mừng vui
** Xin bấm vào mã số dưới đây để hát theo:
http://www.youtube.com/watch?v=d40r_A2tQUs
(Hân Hoan Trong Chúa)
Y Tá của Chúa,
Tuyết Mai
Chào Đức Nữ Đồng Trinh Maria!
Chào Đức Nữ Đồng Trinh Maria!
(Thơ và nhạc của Tuyết Mai) Dâng Mẹ Maria Ngày Thánh Mẫu
Mẹ Maria ơi!
Trên Kiệu Mẹ thấy những gì?
Hãy tỏ cho chúng con vui!
Hãy cười cho chúng con vui!
Chung quanh Mẹ là những người con hiếu thảo,
Lặn lội phương xa gồng gánh một ước nguyện,
Đến với Mẹ để cùng chung dâng câu ca tiếng hát,
Để cùng chung dâng lời nguyện kinh.
Chung quanh Mẹ là những đàn con khao khát,
Ước mong tìm bình an Chúa Con Mẹ ban,
Qua lời cầu bầu thật thiết tha của Mẹ,
Chúa sẽ nghe lời vì Mẹ thật dấu yêu.
Ai, ai trong chúng con không yêu mến Mẹ!?
Ai, ai trong vũ trụ không nghiêng mình cung nghinh?
Ai, ai trong mọi giống loài không bái lậy Mẹ?
Ai, ai trong hỏa lò không run giùng khi Mẹ hiển dung?
Có phải vì Mẹ là Mẹ Chúa Trời?
Có phải vì Mẹ là Nữ Tử của Thiên Chúa Cha?
Có phải vì Mẹ là Mẹ của Giáo Hội?
Có phải vì Mẹ là Nữ Hoàng Của Muôn Loài?
Ôi, chúng con bao thế kỷ luôn Tri Ân Mẹ!
Nhờ Mẹ mà Chúa Cha phải dằn cơn thịnh nộ,
Nhờ Mẹ mà chúng con luôn được an ủi đỡ nâng,
Nhờ Mẹ mà con cái Mẹ không hư mất?
Mẹ ơi! Còn lời nào có thể ca tụng Mẹ cho đủ?
Còn lời nào khẩn thiết cho bằng,
Là chúng con luôn cần đến Mẹ,
Như đàn gà con luôn được Mẹ ủ ấp,
Trong đôi cánh yêu thương trìu mến của Mẹ.
Mẹ ơi! Mẹ có thấy những đóa hoa muôn mầu sắc thắm?
Là những mùi hương riêng biệt của tấm lòng chúng con,
Là những gì chúng con gặt hái,
Là một chút quà mọn chúng con dâng.
Như đứa con thảo luôn hướng về Mẹ,
Như đứa con mong được Mẹ chở che,
Như đứa con hoang luôn thích rời xa Chúa và Mẹ,
Như đứa con nhọc nhằn trôi nổi lắm mồ hôi.
Như đứa con lao đảo vì cuộc đời,
Rày đây mai đó chẳng lúc nào được yên,
Vì cuộc đời ngày ngày là nỗi thống khổ,
Của mất mát của chua cay của đắng đót.
Dù cuộc đời là lo toan là trách nhiệm,
Dù cuộc đời là vất vả với cơm bánh,
Dù cuộc đời là sóng xô đưa đẩy,
Dù cuộc đòi là trắc trở của bể dâu.
Nhưng có Mẹ chúng con tin vào cuộc đời,
Luôn có Mẹ sát cánh,
Lùa chúng con về đôi cánh của Mẹ,
Để được bình an bên Mẹ suốt một đời.
Chúng con vui mừng khôn tả,
Vì không gì vui sướng cho bằng,
Nhìn ngắm Mẹ trên kiệu đầy hoa muôn sắc,
Mẹ đẹp tuyệt trần nên cả vũ trụ,
Muôn loài hạnh phúc được chiêm ngắm,
Vẻ đẹp dịu hiền toát ra mọi nhân đức của Mẹ.
Không một ai trên đời có thể,
Sánh ví cho bằng Mẹ Maria,
Mẹ của toàn nhân loại trên địa cầu,
Có được vẻ đẹp do Thiên Chúa Cha,
Tác tạo dựng nên Mẹ từ muôn thuở muôn đời.
Quả tuyệt diệu thay!
Hạnh phúc cho nhân loại chúng con lắm thay!
Mẹ Maria ơi!
Trong ngày Thánh Mẫu Mẹ sẽ chờ đợi những gì?
Có thể cho chúng con hay!?
** Xin bấm vào mã số dưới đây để hát theo:
http://www.youtube.com/watch?v=dYhH7HMzaJU
(Chào Đức Nữ Đồng Trinh Maria)
Y Tá Của Chúa,
Tuyết Mai
98,87%
98,87%
trích: Ephata 515
Lm. VĨNH SANG, DCCT
Ngày thứ ba 19.6.2012, Bộ Giáo Dục – Đào Tạo đã công bố tỷ lệ tốt nghiệp Trung Học Phổ Thông của cả nước là 98,87%, một con số gây ngỡ ngàng cho tất cả mọi người, những người còn lương tri. Ngỡ ngàng rồi chua xót !
Báo Tuổi Trẻ số ra ngày thứ tư ngay sau đó đã đăng trên trang nhất một tấm hình đầy tính mỉa mai, một tấm hình được lắp ghép bởi ba hình ảnh: cảnh quay cóp nhau ở Đồi Ngô, tỉnh Bắc Giang, biểu đồ tỷ lệ tốt nghiệp những năm gần đây và cảnh thí sinh đi xem kết quả thi tốt nghiệp. Biểu đồ tỷ lệ tốt nghiệp cho thấy, năm 2006: 92%, năm 2007 66,72% ( năm này ông bộ trưởng tuyên bố hai không trong giáo dục: không gian lận, không thành tích ), năm 2008: 75,96%, năm 2009: 83,80%, năm 2010: 92,57%, năm 2011: 95,72%, năm 2012: 98,87%. Con số 98,87% ngay bên cạnh hình ảnh quay cóp !
Con số tỷ lệ 98,87% tốt nghiệp sau một kỳ thi quốc gia đã là một tiếng chuông thông báo về sự phá sản tan tành về giáo dục, con số này là chữ ký cuối cùng trong hồ sơ bệnh án của một thân thể thoi thóp rồi mất sức sống, là giấy chứng tử của nhân viên hộ tịch kết luận về một sự sống không còn.
Trong một cơ chế xã hội, giáo dục đào tạo là yếu tố quan trọng nhất, nó quyết định tương lai của một dân tộc, là sự sống còn của dân tộc đó. Người Nhật trên đống đổ nát sau thế chiến thứ hai, họ đã xây dựng trở thành một quốc gia hùng mạnh bắt đầu từ sự chú trọng vào giáo dục. Ở các quốc gia tiên tiến khác trên thế giới, người ta thành công trên nhiều phương diện chính vì đã sở hữu một nền giáo dục hoàn chỉnh. Con người là chính, con người làm ra của cải, phát triển kiến thức và xây dựng xã hội, vì thế nếu không chú ý đến con người, không giáo dục con người cho xứng đáng thì con người không thể cất đầu đi lên được.
Báo Tuổi trẻ số ra ngày thứ bảy 23.6.2012, loan tin nơi trang 13, bài “Thêm trẻ sơ sinh tử vong khi sinh mổ”. Bài báo cho biết: “Đây là ca tử vong trẻ sơ sinh thứ 20 tại khoa sản Bệnh Viện Đa Khoa Quảng Ngãi kể từ đầu năm đến nay”. Chắc chắn đây là sản phẩm của những con người mang bằng tốt nghiệp phổ thông tỷ lệ cỡ 98,87% ! Đây chỉ là một trong vô vàn những sản phẩm khác mang nhãn hiệu 98,87%.
Trong một loạt các bài báo tham gia nhận định về con số này, người ta đọc thấy những câu chuyện của một số trường thông báo với thí sinh rằng hãy đi mà “xem kết quả ở bảng không tốt nghiệp” ! Hoặc táo tợn hơn có trường thông báo “không cần xem vì tỷ lệ tốt nghiệp 100%” ! Ngay Bộ Giáo Dục – Đào Tạo dám công bố tỷ lệ này thì cũng đã là một hành vi táo tợn và không còn… liêm sỉ ! Chúng ta sẽ không lấy làm lạ vì con số 98,87% khi có những “người thầy” như vậy. “Chuyện bây giờ mới kể” nhưng đã triền miên diễn ra từ rất nhiều năm.
Năm 1999, hai mươi bốn năm sau cuộc biến động 1975, tôi có dịp đi nước ngoài, ngày đầu tiên khi được đón về nhà, anh em bạn bè thăm viếng chào hỏi, khi trời buông màn tối, tôi giật mình nhắc chủ nhà dẫn tôi ra đăng ký tạm trú, mọi người lăn ra cười vì trên đất nước họ sinh sống làm gì có chuyện phải đăng ký tạm trú tạm vắng ! Một khi anh được chấp nhận vào quốc gia họ, anh có quyền đi đến bất cứ nơi nào người ta không cấm mà không phải trình báo với ai cả.
Tôi sống trong miền Nam suốt hai mươi hai năm không hề có việc đăng ký tạm trú tạm vắng, thế mà chỉ hai mươi bốn năm sau cái năm 75 ấy, nỗi sợ hãi phải đi đăng ký tạm trú tạm vắng ăn sâu vào máu huyết đến nỗi trở thành một thứ phản xạ tự nhiên. Tương tự như vậy, tôi muốn nói, những con người xuất thân từ “98,87%” nêu trên, không ít thì nhiều, dù hoàn toàn không hề muốn đi nữa, đều bị ảnh hưởng nặng nề bởi “con số” quái dị này.
Chúng ta còn phải chấp nhận thực tế bi đát khác, ấy là một số những người trẻ đi ra từ “con số 98,87%” đã, đang và sẽ là ứng sinh cho các Đại Chủng Viện và các Dòng Tu, chắc chắn trong một ngày không xa họ sẽ trở nên các “nhà lãnh đạo tinh thần”.
Chúa có cách làm của Chúa để dẫn dắt Dân của Người, chẳng nên dại dột muốn làm thay Chúa, chúng ta cần phải tin vào Chúa Thánh Thần và tin vào khả năng thay đổi của con người. Nhưng Chúa lại ban cho chúng ta khối óc, đôi bàn tay và con tim để làm dụng cụ của Chúa, trách nhiệm của chúng ta là phải làm những gì đây, trên những sản phẩm từ “con số 98,87%” này ?
Đặt câu hỏi về “sản phẩm 98,87%” nhưng cũng là đặt câu hỏi cho những người “làm thầy” của sản phẩm đó trong Giáo Hội.
Lm. VĨNH SANG, DCCT, 24.6.2012,
Lễ sinh nhật bậc làm thầy, Gioan Baotixita
Cô ơi cô, nhà cô có nến không ạ?
|
Thánh Gioan Tẩy Giả
Thánh Gioan Tẩy Giả
24 Tháng Sáu
Sinh Nhật Thánh Gioan Tẩy Giả
Đức Giêsu gọi Gioan là người cao trọng nhất trong tất cả mọi người và là người đến trước Ngài: “Ta nói với các ngươi, trong những người sinh ra bởi phụ nữ, không ai cao trọng hơn Gioan…” Nhưng có lẽ Thánh Gioan sẽ hoàn toàn đồng ý với điều Ðức Giêsu nói thêm sau đó: “Tuy nhiên, người nhỏ nhất trong nước Thiên Chúa còn cao trọng hơn ông ta” (Luca 7:28).
Có một thời gian Thánh Gioan sống trong sa mạc, là vị ẩn tu. Ngài loan báo nước trời đã gần đến, và mời gọi mọi người hoán cải đời sống.
Mục đích của ngài là chuẩn bị con đường cho Ðức Giêsu. Ngài nói, phép rửa của ngài là để ăn năn sám hối. Nhưng Ðấng sắp đến sẽ rửa với Thần Khí và lửa. Gioan không xứng đáng để xách dép cho Người. Thái độ của Thánh Gioan đối với Ðức Giêsu là: “Ngài phải nổi bật lên; tôi phải lu mờ đi” (Gioan 3:30).
Trong khi thanh tẩy những kẻ tội lỗi, Thánh Gioan đã khiêm tốn nhận ra Ðấng Thiên Sai và nói: “Tôi cần được thanh tẩy bởi Ngài” (Mt 3:14b). Nhưng Ðức Giêsu nhất định, “Hãy tiếp tục thi hành, vì như vậy chúng ta mới giữ trọn đức công chính” (Mt 3:15b). Ðức Giêsu, một con người đích thực và khiêm tốn cũng là Thiên Chúa hằng hữu, đã sẵn sàng thi hành bổn phận của bất cứ người Do Thái tốt lành nào. Thánh Gioan như vậy đã công khai đi vào tập thể của những người đang chờ đợi Ðấng Thiên Sai. Nhưng khi tự trở nên một phần tử của cộng đồng ấy, quả thực ngài thuộc về Ðấng Cứu Tinh.
Sự cao trọng của Thánh Gioan, một địa vị then chốt trong lịch sử cứu chuộc, được nhận thấy qua tường thuật của Thánh Luca về sự sinh hạ và các biến cố sau đó của Thánh Gioan — cả hai yếu tố này đều xảy ra song song với cuộc đời của Ðức Giêsu. Thánh Gioan thu hút được rất nhiều người đến bờ sông Giođan, và một số người đã coi ngài như Ðấng Thiên Sai. Nhưng ngài luôn luôn chỉ đến Ðức Giêsu, ngay cả một số môn đệ của ngài cũng được sai đến để trở thành các môn đệ đầu tiên của Ðức Giêsu.
Có lẽ Thánh Gioan không nghĩ là Nước Trời được hoàn tất một cách tuyệt hảo trong sứ vụ rao giảng của Ðức Giêsu. Vì bất cứ lý do gì, (trong khi ở tù) ngài đã sai các môn đệ đến hỏi Ðức Giêsu xem có phải Người là Ðấng Thiên Sai hay không. Câu trả lời của Ðức Giêsu cho thấy Ðấng Thiên Sai mang hình ảnh Người Tôi Tớ Ðau Khổ trong sách tiên tri Isaia. Chính Thánh Gioan cũng đã chia sẻ trong sự đau khổ của Ðấng Cứu Tinh, ngài đã chết vì sự trả thù của Herodias.
Lời Bàn
Thánh Gioan thách đố mọi Kitô Hữu chúng ta hãy có lối sống xứng hợp của những người theo Ðức Kitô — hoàn toàn lệ thuộc vào Thiên Chúa Cha, qua Ðức Kitô. Ngoại trừ Mẹ Thiên Chúa, không ai có chức năng cao cả hơn trong việc khai mở ơn cứu độ. Tuy nhiên, Ðức Giêsu nói, người bé mọn nhất Nước Trời còn cao trọng hơn Thánh Gioan, vì chính ơn sủng tinh tuyền nhất mà Thiên Chúa Cha đã ban cho. Sự khắc khổ cũng như sự nổi tiếng của Thánh Gioan, khi ngài can đảm tố giác những điều xấu xa — tất cả là bởi ngài tận hiến triệt để và hoàn toàn cuộc đời ngài cho thánh ý Thiên Chúa.
Lời Trích
“Và điều này không chỉ đúng có một lần từ lâu trong quá khứ. Nó luôn luôn đúng, vì điều ngài kêu gọi là sự sám hối và đó luôn luôn là con đường dẫn vào Nước Trời. Ngài không phải là một nhân vật mà chúng ta có thể quên đi vì Ðức Giêsu, sự sáng thật, đã xuất hiện. Thánh Gioan luôn luôn xứng hợp vì ngài kêu gọi sự chuẩn bị mà tất cả mọi người cần phải thi hành. Do đó, hàng năm có bốn tuần lễ trong lịch trình Giáo Hội để chúng ta lắng nghe tiếng gọi của Thánh Gioan Tẩy Giả. Ðó là các tuần Mùa Vọng” (Giáo Lý Công Giáo).
nguồn: từ Maria Thanh Mai gởi
Khối Ðá Cẩm Thạch
Khối Ðá Cẩm Thạch
trích Lẽ sống
Một lần kia các phụ nữ giàu có sinh sống tại thành phố Firenze, miền bắc nước Italia nảy ra sáng kiến góp một khối đá cẩm thạch lớn và thuê một nhà điêu khắc tạc thành bức tượng nào tùy ý, mà ông nghĩ là dân chúng sẽ ưa thích để làm quà cho thành phố.
Nhưng có lẽ đây không phải là một nhà điêu khắc tượng có biệt tài hay vì khối đá bị sẻ không đúng theo quy luật điêu khắc, nên sau khi nghiên cứu một thời gian, ông ta không biết dùng khối đá để tạc tượng gì nên đành bỏ cuộc với lời quả quyết: “Ðây là một khối đá vô dụng”.
Kể từ ngày ấy, khối đá cẩm thạch quý giá bị bỏ ngoài trời mặc cho mưa sa tuyết phủ. Một nhà điêu khắc khác cũng được mời đến xem khối đá, nhưng sau khi nhìn ngắm và có người thử phác họa vài nét nháp trên giấy, tất cả đều bỏ đi với cùng một ý kiến của nhà khắc tượng đầu tiên.
Cho đến một ngày kia, Michelangelo, nhà điêu khắc và kiến trúc thời danh có dịp ghé thăm thành phố nhà. Không rõ có ai lưu ý ông về khối đá hay ông tình cờ khám phá ra, nhưng ông cảm thấy muốn tạc một bức tượng được tạc từ khối đá mà ai cũng cho là vô dụng.
Ông đo mọi kích thước. Ông bỏ hàng ngày để nhìn ngắm khối đá để tìm hứng. Bỗng chốc ông thấy thật rõ ràng một bức tượng mà ông xác tín là dân chúng thành Firenze sẽ rất mến mộ. Ông nhìn thấy hình chàng thanh niên David vai mang cái ná bắn đá, tay cầm những hòn sỏi, trong tư thế sẵn sàng ra chiến đấu với tên khổng lồ Goliát.
Những nhà khắc tượng khác đồng ý cho rằng: đây là một khối đá vô dụng.
Nhưng dưới cặp mắt của Michelangelo khối đá ấy đã mang hình ảnh chàng thanh niên David, vị anh hùng dân tộc Do Thái và lập tức ông lấy dụng cụ bắt tay vào việc, mặc cho những người tạc tượng khác lắc đầu mỉm cười ngụ ý nói rằng: đây là thật công dã tràng.
Nhưng Michelangelo vẫn miệt mài làm việc, gác ngoài tai những tiếng thị phi. Rồi cuối cùng, mỗi nhát búa, mỗi cái đục đẽo làm nổi hẳn một bức tượng chàng David hiên ngang, oanh liệt, mà trải qua bao thế kỷ vẫn làm say mê hàng vạn du khách, trố mắt đứng nhìn một kỳ công tuyệt tác của nghệ thuật điêu khắc.
Không ai trong chúng ta là khối đá vô dụng khi được chọn để tạc thành những bức tượng tín hữu Kitô sống động dưới những nhát búa, nét đục của Chúa Giêsu.
Lời Chúa và sự hiện diện của Ngài muốn tạo chúng ta thành những Kitô hữu xứng với danh gọi, nghĩa là giống Chúa Giêsu.
nguồn: từ Maria Thanh Mai gởi
Thánh Giuse Cafasso
Thánh Giuse Cafasso
(1811-1860)
23 Tháng Sáu
Thánh Giuse Cafasso là một trong những linh mục thánh thiện có chân trong tổ chức Dòng Ba Phanxicô. Cha mẹ ngài là nông dân ở vùng Piedmont, nước Ý.
Ngay khi còn là một thanh niên, Giuse Cafasso đã yêu quý Thánh Lễ và nổi tiếng về sự khiêm tốn cũng như hăng say cầu nguyện. Sau khi thụ phong linh mục năm 1833, ngài được bổ nhiệm về một chủng viện ở Turin. Ở đây ngài hoạt động đặc biệt chống với ảnh hưởng của lạc thuyết Jansen và sự can thiệp của nhà nước vào hoạt động của Giáo Hội. Cha Giuse dùng phương cách của Thánh Francis “de Sales” và Thánh Anphong Liguori để điều hòa sự khắc khổ quá đáng mà thời ấy rất phổ thông trong các chủng viện.
Cha Giuse đề nghị các linh mục tham dự vào Dòng Ba Phanxicô. Ngài thúc đẩy việc sùng kính Thánh Thể và khuyến khích rước lễ hàng ngày. Ngoài nhiệm vụ dạy học, Cha Giuse còn là một người giảng thuyết có tài, là cha giải tội nhân từ và là bậc thầy tổ chức tĩnh tâm. Nổi tiếng về hoạt động của ngài với các tử tù, Cha Giuse đã giúp nhiều tù nhân chết lành trong ơn nghĩa của Chúa.
Cha Gioan Bosco là một trong những học trò của Cha Giuse. Chính ngài khuyến khích Cha Gioan Bosco thành lập dòng Salesian để hoạt động cho giới trẻ ở Turin.
Cha Giuse từ trần ngày 23 tháng Sáu ở Turin và được phong thánh năm 1947.
Lời Bàn
Việc sùng kính Thánh Thể đã đem lại nhiệt huyết cho các hoạt động của Thánh Giuse Cafasso. Trong lịch sử Giáo Hội, sự sùng kính Thánh Thể là đặc tính của nhiều người Công Giáo gương mẫu, trong số đó có Thánh Phanxicô Assisi, Ðức Giám Mục Fulton Sheen, Ðức Hồng Y Joseph Bernardin và Mẹ Têrêsa Calcutta.
nguồn: từ Maria Thanh Mai gởi
GIỌT NƯỚC CÁM ƠN
Hai chữ “cám ơn” làm cho bác Chu động lòng. Ông nhìn em gái mặc cái áo giặt trắng tinh, một cái cặp sách cũ không thể cũ hơn được nữa, cầm lòng không được, bèn thở dài nói: “Lên xe.” Em sung sướng lên xe.Xe đến khúc quanh, bé gái đột nhiên hắng giọng, nói: “Bác tài, cháu chỉ có ba đồng bạc mà thôi, cho nên, đến nửa trạm thì cháu xuống.” Bác tài nhìn trong kính chiếu hậu thấy em mặt đỏ gấc, không nói gì. (Đây là xe taxi ở thành phố, giá mỗi đoạn đường có thể là năm đồng.)
– “Bác tài, cám ơn bác, có lẽ đây là lần cuối cùng cháu ngồi xe của bác, thật làm phiền bác quá. Cháu thi đậu trường trung học Tân Tập Nhất, có lẽ nửa năm mới về nhà một lần,” em nói như thế.
Đến ngày cuối tuần, đi ngang qua trường trung học số bốn mươi, ông luôn dừng xe lại, tưởng như con gái vẫn có thể từ cổng trường chạy ra, lên xe, và lớn tiếng nói: “Ba, cám ơn ba.”