Thánh Gioan Tẩy Giả Bị Chém Ðầu

Thánh Gioan Tẩy Giả Bị Chém Ðầu

                                                                          29 Tháng Tám

 

 Lời thề khi say sưa của một vị vua coi thường danh dự, một điệu vũ mê hoặc và một con tim hận thù của hoàng hậu đã đưa đến cái chết của Gioan Tẩy Giả. Vị ngôn sứ vĩ đại nhất đã chịu chung số phận như nhiều ngôn sứ khác trong Cựu Ước: bị tẩy chay và tử đạo. “Tiếng kêu trong sa mạc” không ngần ngại lên án kẻ có tội, và dám nói lên sự thật. Tại sao ngài làm như vậy? Ngài được gì khi hy sinh mạng sống mình?

Nhà cải cách tôn giáo này đã được Thiên Chúa sai đến để chuẩn bị dân chúng đón nhận Ðấng Thiên Sai. Ơn gọi của ngài là một hy sinh cách vị tha. Chỉ có một quyền năng mà ngài công bố là Thần Khí Thiên Chúa. “Tôi làm phép rửa cho các người với nước để giục lòng sám hối, nhưng Ðấng đến sau tôi thì quyền thế hơn tôi. Tôi không đáng xách dép cho Người. Người sẽ làm phép rửa cho các ngươi trong Thánh Thần và lửa” (Mátthêu 3:11). Phúc Âm kể cho chúng ta biết có nhiều người theo Gioan để tìm kiếm hy vọng, có lẽ vì nóng lòng chờ đợi Ðấng Thiên Sai. Gioan không bao giờ tự nhận cho mình cái vinh dự giả dối khi dân chúng tuốn đến với ngài. Ngài biết ơn gọi của mình là sự chuẩn bị. Khi đã đến lúc, ngài dẫn các môn đệ đến với Chúa Giêsu: “Hôm sau, ông Gioan lại có mặt ở đó với hai môn đệ của ông và khi thấy Ðức Giêsu đi ngang qua, ông nói: ‘Ðây là Chiên Thiên Chúa.’ Hai môn đệ nghe nói, liền đi theo Ðức Giêsu” (Gioan 1:35-37)

Chính Gioan Tẩy Giả là người đã chỉ đường đến Ðức Kitô. Ðời sống và cái chết của Gioan là để hy sinh cho Thiên Chúa và loài người. Lối sống đơn giản của ngài thực sự là lối sống tách biệt khỏi vật chất thế gian. Tâm hồn của ngài đặt trọng tâm ở Thiên Chúa và lời mời gọi ngài nghe được từ Thần Khí Thiên Chúa đã đánh động tâm hồn ngài. Tin tưởng ở ơn Chúa, ngài đã can đảm nói những lời kết tội hoặc kêu gọi sám hối, vì sự cứu độ.

Lời Bàn

Mỗi người đều có một ơn gọi mà họ phải lắng nghe. Không ai có thể lập lại sứ vụ của Thánh Gioan, và tất cả chúng ta đều được kêu gọi đến một sứ vụ riêng biệt. Ðó là vai trò làm chứng nhân cho Ðức Giêsu của mỗi một Kitô Hữu. Bất cứ hoàn cảnh nào trong đời sống, chúng ta được mời gọi để trở nên môn đệ của Ðức Kitô. Qua hành động và lời nói, người khác sẽ nhận thấy chúng ta đang sống trong niềm vui khi tin nhận Ðức Giêsu là Chúa chúng ta. Chúng ta không bị gò bó bởi sức mạnh hạn hẹp của chính chúng ta, nhưng chúng ta có thể tìm thấy sức mạnh từ ơn cứu độ bao la của Ðức Kitô.

Lời Trích

Họ đến gặp Gioan và nói: ‘Thưa thầy, người đã ở với thầy bên kia sông Giođan, và được thầy chứng thực, bây giờ ông ấy đang làm phép rửa, và mọi người đều đến với ông ấy.” Gioan trả lời: ‘Không ai có thể nhận được gì mà không do trời ban. Chính anh em làm chứng là tôi đã nói: tôi không phải là Ðấng Thiên Sai, mà chỉ là kẻ được sai đến trước Người. Ai cưới cô dâu, người ấy là chàng rể; người phù rể đứng ở đó thì vui mừng hớn hở vì được nghe tiếng nói của chàng rể. Như vậy niềm vui của tôi đã được trọn vẹn. Người phải nổi bật lên, còn tôi phải lu mờ đi” (Gioan 3:26-30).

Maria Thanh Mai gởi

Thánh Augustine

Thánh Augustine
(354-430)

                                                                                            28 Tháng Tám

 


Là Kitô Hữu lúc 33 tuổi, làm linh mục lúc 36 tuổi, được tấn phong giám mục lúc 41 tuổi: ai ai cũng quen thuộc với tiểu sử tóm lược của Thánh Augustine Hippo, một tội-nhân-trở-thành-thánh-nhân. Nhưng có thực sự biết về cuộc đời thánh nhân thì điều đó mới có giá trị.

Dù khi xa cách Thiên Chúa hay hướng về Thiên Chúa, đời sống của ngài mau chóng đạt đến mức độ mãnh liệt. Nước mắt của mẹ ngài, những lời huấn đức của Thánh Ambrôsiô và, trên hết mọi sự, chính Thiên Chúa nói với ngài qua Kinh Thánh đã thay đổi tính đam mê thế gian của Augustine thành một cuộc đời đầy bác ái.

Từng đắm chìm trong sự cao ngạo về cuộc đời mình trong thời niên thiếu và từng say sưa cặn bã cay đắng của cuộc đời, nên người ta không ngạc nhiên khi thấy Augustine, khi quay trở về, ngài đã phải chống trả với sự tấn công của ma quỷ bằng sự thánh thiện quyết liệt. Thời đại của ngài thực sự sa sút — về chính trị, xã hội và luân lý. Người ta vừa sợ và vừa mến ngài, giống như Thầy Giêsu. Ngài bị chỉ trích không bao giờ cùng: là bản tính khắt khe của loài người.

Cuộc đời ngài, do thiên ý, ngài đã chu toàn nhiệm vụ của một ngôn sứ. Như ngôn sứ Giêrêmia và các vị đại ngôn sứ khác, ngài bị bó buộc nhưng không thể giữ im lặng. “Tôi tự nhủ, tôi sẽ không nhắc đến Người, tôi sẽ không nhân danh Người mà lên tiếng nữa. Nhưng rồi như lửa bừng cháy trong tim, giam hãm thân thể tôi; và tôi cầm hãm không nổi, chịu đựng không thấu” (Giêrêmia 20:9).

Lời Bàn

Trong thời đại chúng ta, Thánh Augustine vẫn còn được xưng tụng và vẫn còn bị kết án. Ngài là vị ngôn sứ của thời đại ngày nay, thúc giục chúng ta phải từ bỏ khuynh hướng thoát ly thực tế và can đảm đối diện với trách nhiệm và phẩm giá của mỗi một người.

Lời Trích

“Thật quá trễ để con yêu mến Ngài, ôi Ðấng Tuyệt Mỹ của ngày xa xưa ấy, nhưng mới lạ hơn bao giờ hết! Thật quá muộn để con yêu mến Ngài! Và đây, Ngài ở bên trong, con ở bên ngoài, và con đi tìm Ngài; con bị méo mó, đắm chìm trong những hình dáng đẹp đẽ mà Ngài đã dựng nên. Ngài ở với con, nhưng con không ở với Ngài. Nhiều thứ đã giữ con xa Ngài – những thứ mà nếu chúng không ở trong Ngài, thì chẳng là gì cả. Ngài kêu lớn và gào thét vào sự ngơ điếc của con. Ngài lấp lánh và chiếu sáng vào sự mù quáng của con. Ngài thở hương thơm và con bị lôi cuốn – và con khao khát Ngài. Con đã nếm thử, và con đói khát. Ngài chạm đến con, và con đã bừng cháy vì sự bình an của Ngài” (Tự Thú của Thánh Augustine).

Maria Thanh Mai gởi

Thánh Augustinô Giám Mục-Tiến sĩ Hội Thánh

Thánh Augustinô Giám Mục-Tiến sĩ Hội Thánh

                                                                                ngày 28/8:

Thánh Augustinô sinh ngày 13 tháng 11 năm 354 tại Thagaste miền Numidia nay là Souk-Akras nước Algeria. Ông Patricô, cha Ngài là một tiểu nông và là nghị viên thành phố. Ông là lương dân và chỉ theo đạo vào lúc cuối đời. Mẹ Ngài là thánh Monica đã nhờ kinh nguyện, lòng nhẫn nại và tình yêu không biết mệt mỏi để cải hoá con.

Augustinô đã theo học những lớp về văn chương tại Thagaste và Madaura, cuối cùng Ngài theo học khoa tu từ tại Carthage. Ngài có một tình nhân và trung tín với nàng cho tới năm 385. Ngài đã có với nàng một người con tên là Adcodatus cũng vào thời này Ngài trở thành người theo phái Manichêô.

Năm 383, Augustinô đến Roma dạy tu từ và năm 384 có được một địa sở tại Milan. Lúc này Ngài đã thấu suốt được thuyết Manichêô và rơi vào tình trạng nghi nan. Tại Milan Ngài có dịp tiếp xúc với vị Giám mục thời danh của giáo phận này là thánh Ambrosiô. Các bài giảng của thánh nhân cho Ngài thấy rằng Ngài có thể tin vào Thánh Kinh như sự giải thích của Giáo hội mà không phải hy sinh sự hiểu biết của mình. Ngài còn đọc sách của những nhà tân học phái Platon như Plotinê và Per phyry, những sách đã chữa cho Ngài khỏi thuyết duy vật của Manichêô và đưa Ngài vào triết học linh thiêng hơn, phù hợp với mạc khải Kitô giáo.

Augustinô xác tín về sự chân thật của Kitô giáo nhưng vẫn chưa đi đến bước quyết định, cho tới tháng 9 năm 386 khi Ngài trải qua một kinh nghiệm bất ngờ nhưng được chuẩn bị từ trước. Ngài đã trình bày kinh nghiệm ấy trong cuốn VIII bộ “tự thuật”. Đây là cuộc trở lại Kitô giáo và sự thay đổi cuộc sống khổ hạnh của Ngài. Bỏ nghề, Ngài lui về Cassiciacum, gần Milan, cùng thánh nữ Monica mẹ Ngài và Adeodatus con Ngài, với một số bạn bè. Tại đây, Ngài bắt đầu viết và xuất bản một số tác phẩm, trau dồi về triết học, những tác phẩm đầu tiên của Ngài.

Ngài được thánh Ambrosiô rửa tội vào Lễ Phục Sinh năm 387 rồi cùng mẹ và các bạn trở về Phi Châu. Thánh nữ Monica qua đời trên đường về tại Ostia. Tại Phi Châu theo lời khuyên của Đức Cha Valêriô địa phận Kippô, Ngài xin làm Linh mục và được thụ phong năm 391. Năm 395, Ngài được tấn phong làm Giám mục phụ tá và chẳng bao lâu sau lên kế vị Đức cha Valêriô làm Giám mục Hippô. 35 năm còn lại, Ngài bận rộn với công việc nặng nhọc của một Giám mục địa phận, đồng thời vẫn dành giờ để trước tác. Ngoài tác phẩm được biết nhiều là bộ “tự thuật” còn nhiều tác phẩm thần học của Ngài (gồm 96 cuốn không kể các bài giảng và thư tín) đã mang lại sức sống mãnh liệt cho Giáo hội thời đó lẫn ngày nay.

Thánh Augustinô sống đời tu viện với hàng giáo sĩ và làm mọi sự để khích lệ việc canh tân các cộng đoàn tu sĩ. Hai bài giảng về đời sống khổ hạnh trong cộng đoàn và một bức thư dài về các nguyên tắc mà Ngài viết cho các cộng đoàn nữ tu do Ngài thành lập mà em Ngài là bề trên tiên khởi, làm thành “luật thánh Augustinô”.

Thánh Possidiô bạn Ngài đã viết một bản tường thuật rất hay về đời Giám mục của thánh Augustinô. Bản tường thuật này cho thấy Ngài là một người rất nhân bản, dễ thương, giàu lòng bác ái, tận tụy phục vụ cộng đoàn, thích sống nghèo khó nhưng lại hiếu khách. Ngài luôn dấn thân vào việc bênh vực Giáo hội chống lại các người theo lạc giáo như những người theo phái Manichêô, Phômatô, Pêlagiô. Cuộc tranh luận với Pêlagiô đã để lại những bút tích của thánh Augustinô về ơn thánh. Với ảnh hưởng lớn lao trong Giáo hội sau này. Dầu nhiệt tâm chống lại lạc thuyết, thánh Augustinô vẫn luôn lịch sự và thân ái khi đối thoại với các người theo lạc giáo.

Thánh Augustinô đã sống để chứng kiến cuộc xâm lược man rợ của người Vandal vào Phi Châu bắt đầu từ năm 429. Ngày 28 tháng 8 năm 430 Ngài từ trần, hưởng thọ 76 tuổi. Ngài không để lại chúc thư vì không có tài sản gì. Nhưng kể từ khi qua đời tới nay, di sản tư tưởng của Ngài được ghi nhận là phong phú nhất sau thánh Phaolô.

Thánh Augustinô sau khi đã nhận ra những thiếu sót và đặc biệt cảm nhận được tình yêu Chúa. Ngài đã tỏ ra rất nhiệt thành, cống hiến trọn vẹn năng lực cho Hội Thánh, cho việc bảo vệ đức tin. Xin thánh nhân cầu bầu cùng Chúa giúp chúng ta luôn kiên cường trong đức tin, trung thành trong tình yêu mến.

Hạnh Các Thánh Tháng 9

 Hạnh Các Thánh Tháng 9

                                                                            Tác giả: Trầm Thiên Thu

                                                                                nguồn: Thanhlinh.net

01/9 – Thánh Giles (qua đời năm 710?)

Mặc dù nhiều điều về cuộc đời thánh Giles vẫn là bí ẩn, nhưng chúng ta có thể nói rằng ngài là một trong các vị thánh nổi danh nhất thời Trung cổ. Có thể ngài sinh vào giữa thế kỷ VII ở Đông Nam Pháp quốc. Đó là nơi ngài đã xây một tu viện nổi tiếng được nhiều khách hành hương dừng chân để tới Compostela ở Tây Ban Nha và Thánh Địa.

Tại Anh quốc, nhiều nhà thờ và bệnh viện cổ được dâng kính thánh Giles. Một trong các giáo phái của thành phố ở Bỉ đã đặt theo tên ngài. Tại Đức, thánh Giles là một trong 14 vị thánh bảo trợ, một số thánh mà người ta cầu nguyện, nhất là xin khỏi bệnh và xin sức mạnh trong giờ chết. Trong 14 vị thánh đó có thánh Christopher, thánh Barbara và thánh Blase. Trong đó, thánh Giles là vị thánh duy nhất không tử đạo. Lòng sùng kính các thánh này rất mạnh ở khắp Đức quốc, Hungary và Thụy Điển. Lòng súng kính như vậy lan rộng rất nhanh. Thánh Giles được nhận là thánh bổn mạng của người nghèo và người khuyết tật.

02/9 – Chân phước Gioan Phanxicô Burté và các bạn tử đạo (qua đời năm 1792; qua đời năm 1794)

Các linh mục này là nạn nhân của cuộc Cách mạng Pháp. Thời điểm tử đạo mỗi vị khác nhau, nhưng Giáo hội kính nớ chu ng vì họ đều hiến mạng sống vì cùng một mục đích. Hiến pháp Dân sự về Giáo sĩ (The Civil Constitution of the Clergy) năm 1791 buộc các linh mục phải thề hứa từ bỏ đức tin. Họ đều cương quyết giữ đức tin và lần lượt bị xử tử.

Lm Gioan Phanxicô Burté vào Dòng Phanxicô lúc 16 tuổi. Sau khi thụ phong linh mục, ngài dạy thần học cho các tu sĩ trẻ. Sau đó ngài là người giám hộ của Hội đồng Tu sĩ Paris cho đến lúc bị bắt và bị giữ trong Dòng Camêlô (Carmelites).

Lm Appolinaris Posat sinh năm 1739 tại Thụy Sĩ. Ngài vào Dòng Phanxicô và có tiếng là giảng thuyết giỏi, giải tội và dạy học các giáo sĩ. Được sai tới truyền giáo ở Đông phương, ngài đang học tiếng Đông phương ở Pháp quốc thì cuộc Cách mạng Pháp bùng nổ. Không chịu thề bỏ đạo, ngài bị bắt và bị giam giữ tại Dòng Camelô.

Lm Severin Girault là tuyên úy của một nhóm nữ tu ở Paris. Ngài bị tù với một số người khác, và là người bị xử tử đầu tiên.

Ba vị này và 182 vị khác – có cả các giám mục, tu sĩ và linh mục triều – bị giết ngay tại Dòng Camêlô ở Paris vào ngày 2-9-1792. Học được phong thánh năm 1926.

Lm John Baptist Triquerie, sinh năm 1737, là tu sĩ Dòng Phanxicô. Ngài là tuyên úy cho các tu viện của thánh Clara khó nghèo ở 3 thành phố trước khi bị bắt vì không chịu bỏ đức tin. Ngài và 13 linh mục triều khác bị chém ở Laval vào ngày 21-1-1794. Ngài được phong chân phước năm 1955.

 03/9 – Thánh Grêgôriô Cả, Giáo hoàng Tiến sĩ (540?-604)

Coming events cast their shadows before: Grêgôriô là Giám mục Rôma khi chưa đầy 30 tuổi. Sau 5 năm, ngài từ chức, thành lập 6 tu viện ở điền trang Sicilian và vào tu Dòng Biển Đức tại Rôma.

Ngài là một trong 7 phó tế của ĐGH, và phục vụ 6 năm ở Đông phương với tư các sứ thần Tòa thánh tại Constantinople. Ngài được chọn làm Viện phụ, rồi ngài được bầu làm giáo hoàng lúc 50 tuổi.

Ngài thẳng thắn và cương quyết, cách chức các linh mục bất xứng, cấm lấy tiền từ nhiều loại lễ, lấy tiền của Tòa thánh giúp các tù nhân của Lombard, chăm sóc những người Do Thái bị hành hạ, giúp đỡ các nạn nhân bị dịch bệnh và nạn đói. Ngài rất quan tâm việc trở lại của Anh quốc nên đã sai 40 tu sĩ từ Dòng của ngài để đi thương thuyết. Ngài nổi tiếng là nhà cải cách phụng vụ và củng cố tín lý. Ngài còn nổi tiếng về Bình ca (gọi là nhạc Gregorian), loại nhạc đặc trưng của Giáo hội Công giáo. Khi Rôma bị tấn công, chính ngài đã đi chất vấn vua Lombard.

Sách của ngài, cuốn Pastoral Care (Chăm sóc Mục vụ), viết về nhiệm vụ và phẩm chất của giám mục, được đọc nhiều trong những thế kỷ sau khi ngài qua đời. Ngài mô tả các giám mục chủ yếu là những thầy thuốc với trách nhiệm chính là rao giảng và củng cố kỷ cương. Cách giảng của ngài thức tế, không viễn vông. Ngài qua đời khi đang soạn bài giảng Phúc âm. Ngài được gọi là “cả” vì ngài được đặt ngang hàng với thánh Augustinô, Ambrôsiô và Giêrônimô, và trở thành một trong 4 vị thánh tiến sĩ chủ lực của Giáo hội Đông phương.

  

04/9 – Thánh Rose Viterbo (1233-1251)

Ngay từ còn rất trẻ Rose đã say mê cầu nguyện, giúp đỡ người nghèo, và sống đền tội. Bà rất nghiêm khắc với chính mình là phải hào phóng với người nghèo. Lúc 10 tuổi, bà đã vào Dòng Ba Phanxicô và sớm biết nói về tội lỗi và đau khổ của Chúa Giêsu khi ra các đường phố.

Bà sinh tại thành phố Viterbo, hồi đó có cuộc chống đối ĐGH. Khi bà ủng hộ ĐGH và phản đối hoàng đế, bà và gia đình bị trục xuất khỏi thành phố. Khi dân thành phố Viterbo ủng hộ ĐGH, bà mới được phép trở về. Lúc 15 tuổi, bà muốn lập dòng nhưng không thành công, bà lại tiếp tục cầu nguyện và đền tội ngay tại nhà, và cũng là nơi bà qua đời khi mới 28 tuổi. Bà được phong chân phước năm 1269, và được phong thánh năm 1457.

 05/9 – Chân phước Têrêsa Calcutta, Nữ tu (1910-1997)

Mẹ Têrêsa Calcutta là một phụ nữ nhỏ bé về thể lý nhưng đã được cả thế giới nhận biết qua hành động yêu thương của Mẹ đối với những con người nghèo khổ nhất trong các người nghèo.

Ngày 19-10-2003, trong một nghi thức của giáo hội, chân phước GH Gioan Phaolô II đã tuyên bố Mẹ Têrêsa là chân phước trước 300.000 khách hành hương tại quảng trường Thánh Phêrô, trong đó có hàng trăm nữ tu Dòng Truyền giáo Bác ái (Missionaries of Charity) mà chính Mẹ đã thành lập năm 1950 (thuộc dòng giáo phận). Ngày nay dòng còn phát triển thêm các dòng chiêm niệm nam và nữ, có cả dòng cho các linh mục.

Trong bài giảng, CP GH Gioan Phaolô II đã gọi Mẹ têrêsa là “một trong những nhân cách xứng đáng của thời đại chúng ta” và là “hình ảnh của người Samari nhân hậu”. Ngài nói rằng cuộc đời của Mẹ Têrêsa là “bản tuyên ngôn can đảm của Phúc âm”. Mẹ Têrêsa được phong chân phước chỉ sau 6 năm Mẹ qua đời.

Bà sinh tại Albani (nay là Skopje), Macedonia, lúc đó là một phần của đế quốc Ottoman. Tên “cúng cơm” của bà là Agnes Gonxha Bojaxhiu, là con út trong 3 người con. Gia đình có một thời gian sống thoải mái nhờ công việc xây dựng của người cha phát đạt. Nhưng cuộc sống hoàn toàn thay đổi sau khi người cha đột ngột qua đời.

Trong những năm còn đi học, Mẹ Têrêsa tham gia một Hội Tương tế Công giáo và thích đi truyền giáo ở ngoại quốc. Lúc 18 tuổi, bà vào Dòng nữ Loreto ở Dublin. Năm 1928, cô Agnes từ giã mẹ lần cuối và đi tới miền đất mới với cuộc sống mới. Năm sau, cô Agnes được vào nhà tập ở Darjeeling, Ấn Độ. Từ đó bà lấy tên Têrêsa và chuẩn bị cho đời sống phục vụ. Bà được sai tới một trường nữ trung học ở Calcutta để dạy lịch sử và địa lý cho các nữ sinh con nhà giàu. Bà không thể không chú ý tới xung quanh là dân nghèo, khổ sở, cơ cực.

Năm 1946, khi đi xe lửa tới Darjeeling để cấm phòng, nữ tu Têrêsa nghe được điều mà về sau bà giải thích là “ơn gọi trong ơn gọi”. Bà kể: “Sứ điệp rõ ràng. Tôi phải rời tu viện để giúp đỡ người nghèo khi sống giữa họ”. Bà cũng nghe tiếng gọi rời khỏi Dòng nữ Loreto để “theo Chúa Kitô đến những khu nhà ổ chuột  để phục vụ Ngài giữa những người nghèo nhất trong những người nghèo”.

Sau khi được phép rời Dòng Loreto, bà lập một dòng mới và đảm trách công việc mới. Bà học y tá vài tháng rồi trở lại Calcutta, tại đây bà sống trong những khu nhà ổ chuột và mở trường học cho trẻ em. Mặc sari trắng (sari là trang phục phụ nữ thường nhật) và đi dép, bà mau chóng được người ta biết là hàng xóm của họ – nhất là những người nghèo và bệnh tật, bà biết nhu cầu của họ qua những lần thăm viếng họ. Sari là thường phục và cũng là tu phục của dòng.

Công việc mệt nhọc, nhưng bà được nhiều người tình nguyện tới giúp, một số là học sinh cũ của bà, và đó là những người nòng cốt của Dòng Truyền giáo Bác ái. Những người khác giúp đỡ bằng cách cho lương thực, quần áo, đồ dùng, nhà cửa,… Năm 1952, thành phố Calcutta tặng bà một khách sạn nhỏ và cũ, bà dùng làm nhà cho những người hấp hối và nghèo khổ. Khi dòng phát triển nhiều, dòng còn phục vụ các trẻ mồ côi, các trẻ bị bỏ rơi, người nghiện rượu, người già và những người vô gia cư.

Suốt 40 năm bà làm việc không biết mệt mỏi chỉ vì người nghèo. Tình yêu của bà không biên giới. Bà đi khắp thế giới để xin tài trợ và mời người ta đến xem gương mặt của Chúa Giêsu ở những người nghèo nhất trong nhưng người nghèo. Năm 1979, bà được trao giải Nobel Hòa bình. Nhưng Thiên Chúa đã gọi bà từ giã thế gian vào ngày 5-9-1997.

06/9 – Chân phước Claudio Granzotto, Tu sĩ (1900-1947)

Ngài sinh tại Santa Lucia del Piave gần Venice, ngài là con út trong 9 người con và quen làm việc cực nhọc ngoài đồng. Lúc 9 tuổi, ngài mồ côi cha. 6 năm sau ngài vào quân đội Ý và phục vụ hơn 3 năm.

Ngài có khiếu về điêu khắc và được học tại Viện Nghệ Thuật Venice, và đậu hạnh nhất năm 1929. Đặc biệt ngài rất quan tâm nghệ thuật tôn giáo. Khi Claudio vào Dòng Phanxicô năm 1933, linh mục xứ viết: “Nhà dòng không chỉ nhận một nghệ sĩ mà còn nhận một vị thánh”. Cầu nguyện, bác ái với người nghèo và tác phẩm nghệ thuật đều thể hiện cuộc sống của ngài. Ngài bị ung thư não và qua đời vào lễ Mẹ Mông Triệu. Ngài được phong chân phước năm 1994.

 07/9 – Chân phước Frederick Ozanam (1813-1853)

Ngài phục vụ người nghèo ở Paris và thu hút những người khác cùng phục vụ người nghèo khắp thế giới. Qua Hội Thánh Vincent de Paul, công việc của ngài vẫn tiếp tục cho tới ngày nay.

Frederick là con thứ 5 trong 14 người con của ông bà Jean và Marie Ozanam, và cũng chỉ mình ngài còn sống. Khi còn là thiếu niên, ngài bắt đầu nghi ngờ tôn giáo. Đọc sách và cầu nguyện cũng có vẻ không giúp ích cho ngài, nhưng vừa đi dạo vừa thảo luận với Lm Noirot (Đại học Lyons) giúp ngài sáng tỏ nhiều vấn đề.

Ngài thích văn chương, nhưng cha ngài là bác sĩ và muốn ngài làm luật sư. Ngài chiều theo ý cha, và năm 1831 ngài đến Paris để học luật tại ĐH Sorbonne. Khi một số giáo sư mỉa mai các giáo huấn Công giáo trong khi giảng bài, Frederick đã bảo vệ Giáo hội.

Ngài lập một câu lạc bộ gồm người Công giáo, người vô thần và lạc giáo cùng tranh luận các vấn đề của thời đó. Có lần sau khi Frederick nói về vai trò của Kitô giáo trong văn minh, một thành viên câu lạc bộ nói: “Chúng ta hãy thẳng thắn. Anh làm gì ngoài việc nói để chứng tỏ đức tin?”. Do đó ngài quyết định thể hiện qua hành động. Không lâu sau cả nhóm cùng giúp đỡ người nghèo dưới sự bảo trợ của thánh Vincent de Paul. Cảm thấy đức tin Công giáo cần người có tài ăn nói để giải thích các giáo huấn, ngài thuyết phục Đức TGM Paris mời Lm Lacordaire, nhà giảng thuyết tài giỏi nhất Pháp quốc thời đó, đến giảng mùa Chay tại Nhà thờ Đức Bà. Điều này đã trở thành truyền thống tại Paris.

Sau khi có bằng cấp về luật tại ĐH Sorbonne, ngài dạy luật tại ĐH Lyons. Ngài còn có bằng cấp về văn chương. Sau khi kết hôn với Amelie Soulacroix ngày 23-6-1841, ngài trở lại Sorbonne để dạy văn chương. Ngài là một giảng viên uy tín, luôn vì lợi ích của sinh viên. Trong khi đó, Hội Thánh Vincent de Paul phát triển khắp Âu châu. Chỉ tại Paris đã có tới 25 hội.

Năm 1846, ngài cùng vợ và con gái Marie tới Ý để chữa bệnh. Họ trở về quê năm 1847. Cuộc cách mạng năm 1848 khiến nhiều người nghèo không được Hội Thánh Vincent de Paul phục vụ. Số người thất nghiệp lên tới 275.000 người. Chính phủ yêu cầu ngài và các cộng sự giám sát tài trở của chính phủ dành cho người nghèo.

Ngài thành lập báo The New Era (Tân Kỷ Nguyên), chuyên về bảo toàn công lý cho người nghèo và giới lao động. Các bạn Công giáo của ngài thường không vui với những gì ngài viết vì ngài gọi người nghèo là “linh mục của quốc gia”, ngài nói rằng người đói khát và mồ hôi của người nghèo đã làm nên sự hy sinh có thể cứu lòng nhân đạo của một dân tộc.

Năm 1852, sức khỏe yếu kém khiến ngài phải về Ý với vợ và con gái. Ngài qua đời ngày 8-9-1853. Trong bài giảng tại lễ an táng ngài, Lm Lacordaire đã diễn tả: “Ông Frederick Ozanam là một trong những người được đặc ân trực tiếp từ Thiên Chúa. Thiên Chúa đã kết hợp nơi ngài sự dịu dàng tới thiên tài để thắp sáng thế giới”. Vì ngài viết một cuốn sách nổi tiếng có tựa đề “Các Thi sĩ Dòng Phanxicô của Thế kỷ XIII” (Franciscan Poets of the Thirteenth Century) và vì sự xứng đáng của ngài dành cho mỗi người nghèo nên ngài rất gần gũi với cách suy nghĩ của thánh Phanxicô, rất xứng đáng kể ngài vào những người vĩ đại của Dòng Phanxicô. Ngài được phong chân phước năm 1997.

 

08/9 – Sinh nhật Đức Mẹ

Giáo hội mừng sinh nhật Đức Mẹ ít nhất từ thế kỷ VI. Được chọn vào tháng 9 vì Giáo hội Đông phương bắt đầu Năm Giáo hội từ tháng 9. Ngày 8-9 giúp xác định lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm vào ngày 8-12 (9 tháng trước).

Kinh thánh không nói tới sinh nhật Đức Mẹ. Tuy nhiên, ngụy kinh Protoevangelium của Giacôbê khỏa lấp khoảng trống này. Tác phẩm này không có giá trị lịch sử, nhưng phản ánh sự phát triển của lòng sùng mộ của Kitô giáo. Theo cách mô tả này, bà Anna và Gioakim son sẻ và cầu xin có con. Họ nhận được lời hứa là sẽ có con làm lợi cho kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa. Câu chuyện như vậy (cũng như các truyện khác trong Kinh thánh) nhấn mạnh sự hiện diện đặc biệt của Thiên Chúa trong cuộc đời Đức Mẹ ngay từ đầu.

Thánh Augustinô liên kết sinh nhật Đức Mẹ với việc cứu độ của Chúa Giêsu: “Mẹ là đóa hoa trong cánh đồng mà từ đó nở đóa huệ quý giá trong thung lũng. Nhờ mẹ sinh ra, bản chất thừa kế từ cha mẹ đầu tiên được biến đổi”. Lời nguyện nhập lễ nói về việc sinh ra Con của Mẹ là bình minh của công cuộc cứu độ và xin gia tăng hòa bình.

  

09/9 – Thánh Phêrô Claver, Linh mục (1581-1654)

Ngài là người Tây Ban Nha, vào Dòng Tên năm 1610 và truyền giáo ở thuộc địa của Tân Thế Giới. Ngài đi Cartagena (nay là Colombia) và thụ phong linh mục năm 1615.

Thời đó, việc buôn bán nô lệ đã xảy ra ở người Mỹ gần 100 năm, Cartagena là trung tâm của nạn này. 10.000 nô lệ bị đưa vào cảng mỗi năm sau khi vượt Đại tây dương từ Tây Phi trong điều kiện khắc nghiệt và dã man, ước tính có tới 1/3 số nô lệ bị chết trong khi vận chuyển. Dù nạn buôn bán nô lệ đã bị ĐGH Phaolô III lên án, và sau đó bị ĐGH Piô IX gọi là “cực kỳ côn đồ” (supreme villainy), tệ nạn này vẫn phát triển.

Tiền bối của thánh Peter Claver là Lm Alfonso de Sandoval đã dấn thân phục vụ người nô lệ suốt 40 năm trước khi thánh Claver đến tiếp tục công việc, và ngài tự nhận mình là nô lệ của người da đen mãi mãi.

Ngay khi tàu chở nô lệ cặp bến, ngài lẻn vào để giúp đỡ những người bị xử tệ. Sau khi các nô lệ phải sắp hàng như thú vật, ngài len vào giữa họ để giúp đỡ bằng thuốc men, đồ ăn, thức uống, chanh và thuốc hút. Suốt 40 năm làm như vậy, ngài đã rửa tội cho khoảng 300.000 nô lệ.

Ngoài ra, ngài còn rao giảng ở các công viên, giao sứ vụ cho các thủy thủ và thương gia để giúp các nô lệ. Sau 4 năm bị bệnh, ngài qua đời ngày 8-9-1654. Chính quyền địa phương cảm kích, ra lệnh tổ chức táng lễ trang trọng và an táng ngài ở nơi công cộng.

Ngài được phong thánh năm 1888, và ĐGH Lêô XIII tuyên bố ngài là thánh bổn mạng của các nhà truyền giáo làm việc giữa những người da đen.

 

10/9 –  Thánh Thomas Villanova, Giám mục (1488-1555)

Ngài sinh tại Castile, Tây Ban Nha, học ĐH Alcala và là giáo sư triết học nổi tiếng tại đây.

Ngài vào Dòng Augustinô ở Salamanca, được thụ phong linh mục dù kém trí nhớ, rồi lại được bầu làm bề trên và giám tỉnh. Ngài được hoàng đế chọn làm giám mục giáo phận Granada, nhưng ngài từ chối. Khi tòa giám mục trống ngôi, ngài đành phải chấp nhận. Tiền bạc ngài được hưởng theo luật thì ngài trao hết cho bệnh viện, vì ngài giải thích: “Thiên Chúa sẽ được phục vụ tốt hơn bằng tiền cho những người nghèo ở bệnh viện”.

Ngài vẫn dùng áo dòng từ khi vào nhà tập và tự may vá quần áo. Mỗi ngày có hàng trăm người nghèo đến với ngài và được ngài cho ăn uống và tiền bạc. Những người giàu noi gương ngài sống yêu thương và bác ái hơn.

Bị phê bình vì ngài không khắt khe khi sửa lỗi người khác, ngài nói: “Hãy bảo người đó (người chê trách) hỏi xem thánh Augustinô và thánh Gioan Chrysostom có nguyền rủa và phạt vạ người có lỗi hay không”.

Khi hấp hối, ngài bảo đem hất tiền bạc của ngài cho người nghèo, còn đồ dùng của ngài đem cho thầy hiệu trưởng của ngài. Ngài trút hơi thở cuối cùng sau khi dự thánh lễ và rước lễ, khi đó ngài nói: “Lạy Chúa, con phó thác linh hồn con trong tay Chúa”. Ngài được mệnh danh là “người làm việc bác ái” và là “cha của người nghèo”. Ngài được phong thánh năm 1658.

 

11/9 –  Thánh Cyprianô, Giám mục (qua đời năm 258)

Cyprianô là người quan trọng trong việc phát triển và thực hành tư tưởng Kitô giáo, nhất là tại Bắc Phi.

Ngài học cao hiểu rộng, có tài hùng biện, gia nhập Kitô giáo khi đã trưởng thành. Ngài phân phát của cải cho người nghèo, làm mọi người ngạc nhiên bằng cách khấn sống khiết tịnh trước khi lãnh nhận bí tích Thánh Tẩy. Trong vòng 2 năm, ngài được thụ phong linh mục và được chọn làm giám mục giáo phận Carthage (gần Tunis ngày nay), dù ngài không muốn.

Ngài than phiền rằng sự bình an của Giáo hội đã làm suy yếu tinh thần của nhiều Kitô hữu và đã khiến cho các tân tòng không có niềm tin thực sự. Khi cuộc bách hại bắt đầu, nhiều Kitô hữu dễ dàng bỏ Giáo hội. Điều đó tạo ra những cuộc tranh luận lớn hồi thế kỷ III, giúp Giáo hội hiểu về bí tích Hòa giải. Novatus, một linh mục phản đối việc bầu chọn giám mục Cyprianô, đã nổi dậy khi vắng mặt ĐGM Cyprianô (ngài ẩn mặt để điều hành Giáo hội – khiến người ta phê bình ngài) và nhận lại những người bội giáo mà không bắt đền tội theo giáo luật. Cuối cùng ngài bị kết án. Ngài giải quyết dung hòa, những người đã hy sinh cho các thần tượng chỉ được rước lễ khi hấp hối, nhưng những người chỉ có giấy chứng nhận cho biết đã hy sinh thì có thể được chấp nhận sau khi đền tội.

Trong đại dịch ở Carthage, ngài thúc giục các Kitô hữu giúp đỡ người khác, kể cả kẻ thù và những người bách hại. Là bạn của ĐGH Corneliô, thánh Cyprianô phản đối ĐGH kế vị là Stêphanô. Ngài và các giám mục Phi châu không nhận tính hiệu quả của Phép Rửa những người theo tà thuyết và ly giáo. Đây không là quan điểm chung của Giáo hội, nhưng thánh Cyprianô không bị ĐGH Stêphanô đe dọa dứt phép thông công.

Ngài bị hoàng đế bắt đi đày và rồi bị gọi về để xét xử. Ngài vừa tử tế vừa can đảm, nhiệt thành và kiên định. Ngài vui vẻ mà nghiêm nghị đến nỗi người ta không biết nên yêu mến hay kính trọng ngài hơn. Ngài hăng hái khi tranh luận về bí tích Thánh Tẩy. Thánh Augustinô nhận xét rằng ĐGM Cyprianô dàn xép cơn giận bằng sự tử đạo vinh quang của ngài.

  

12/9 –  Thánh Danh Đức Mẹ

Lễ này là counterpart với lễ kính Thánh Danh Chúa Giêsu (3 tháng 1); cả hai lễ have the possibility of uniting people easily divided on other matters.

Lễ này bắt đầu ở Tây Ban Nha năm 1513, và năm 1671 lan ra khắp Tây Ban Nha và Vương quốc Naples. Năm 1683, vua Ba Lan là John Sobieski đem quân tới ngoại ô thành phố Vienna để ngăn chặn quân Hồi giáo trung thành với Mohammed IV ở Constantinople.

Sau khi Sobieski tin vào Đức Mẹ, ông và các binh sĩ đã chiến thắng quân Hồi giáo. ĐGH Innocent XI mở rộng lễ này tới toàn thể Giáo hội.

  

13/9 –  Thánh Gioan Chrysostom, Giám mục Tiến sĩ (qua đời năm 407)

Thánh Gioan Chrysostom còn được gọi là Gioan Kim khẩu hoặc Kim ngôn – nghĩa là “có tài ăn nói”, theo ý nghĩa từ Chrysostom. Ngài được đưa đến Constantinople sau 12 năm thi hành sứ vụ linh mục tại Syria, ngài thấy mình là nạn nhân đối với thủ đoạn của đế quốc khi chọn ngài làm giám mục của một thành phố lớn nhất đế quốc. Ngài sống khổ hạnh, giản dị nhưng có phẩm cách, và bị đau bao tử từ khi là tu sĩ, ngài bắt đầu sứ vụ giám mục dưới sự bảo vệ của chính trị đế quốc.

Cơ thể ngài yếu, nhưng miệng lưỡi ngài mạnh. Những bài giảng, những bài chú giải Kinh thánh của ngài không bao giờ thiếu điểm nổi bật. Đôi khi điểm nhấn đó “chạm” vào những người quyền cao chức trọng. Có những lúc ngài giảng tới 2 giờ. Cách sống của ngài không được các cận thần hoàng đế ưa thích. Ngài phàn nàn với ban ngoại giao triều đình đã ưu tiên ngài trước mặt các quan chức cao cấp.

Ngài phản đối các giám mục bất xứng ở Tiểu Á là những người tham lam, lạm dụng giáo quyền. Hai nhân vật quan trọng làm mất uy tín ngài là TGM Theophilus, TGP Alexandria, và nữ hoàng Eudoxia. TGM Theophilus kết án thánh Gioan Chrysostom là ấp ủ tà thuyết, đồng thời chọc giận các giám mục được nữ hoàng Eudoxia đỡ đầu. Nữ hoàng bực tức vì các bài giảng của ngài tương phản với Phúc âm và triều đình. Dù muốn hay không, các bài giảng của ngài nói tới Jezebel và Herodias bất kính đã cấu kết với nữ hoàng. Chính nữ hoàng đã bắt ngài đi đày, và ngài qua đời năm 407 khi đang bị lưu đày.

 

14/9 –  Suy tôn Thánh giá

Đầu thế kỷ IV, thánh Helena, mẫu hậu của hoàng đế La Mã Constantine, đi Giêrusalem nơi Chúa Giêsu đã sinh sống. Bà phá tan Đền Aphrodite, theo truyền thuyết đền này được xây dựng ngay trên mộ Chúa Giêsu, và con trai bà xây Đền Mộ Thánh (Holy Sepulcher) trên ngôi mộ đó. Trong khi khai quật, các công nhân phát hiện 3 cây thập tự. Người ta cho rằng trong số đó có một cây thập tự đã treo Chúa Giêsu vì một phụ nữ hấp hối đã được sống nhờ chạm vào cây thập tự đó.

Vào ngày Thứ Sáu Tuần Thánh ở Giêrusalem, Thập giá này được đưa ra đặt trên bàn cùng với bảng ghi của Philatô.

Ngày nay, Giáo hội  Đông phương, Công giáo và Chính thống giáo đều cử hành lễ Suy tôn Thánh giá vào tháng 9. Lễ này thêm vào lịch Tây phương từ thế kỷ VII sau khi hoàng đế Heraclius lấy lại Thánh giá từ người Ba Tư, họ đã lấy đi từ năm 614. Theo chuyện kể, hoàng đế muốn đưa Thánh giá trở lại Giêrusalem, nhưng không thể chuyển đi được, đến khi hoàng đế cởi bỏ long bào và đi chân không mới có thể di chuyển Thánh giá.

 

15/9 –  Đức Mẹ Sầu bi (Đức Mẹ bảy sự)

Kinh thánh nói đến những nỗi sầu khổ của Đức Mẹ trong  Lc 2:35 và Ga 19:26-27. Đoạn Kinh thánh theo thánh Luca là lời tiên tri của ông Simeon về một lưỡi gươm đâm thấu lòng Mẹ Maria, còn đoạn Kinh thánh theo thánh Gioan liên quan lời Chúa Giêsu nói với Đức Mẹ và với người môn đệ được Chúa yêu.

Nhiều tác giả của Giáo hội thời sơ khai hiểu lưỡi gươm là những nỗi sầu khổ của Đức Mẹ, nhất là khi Đức Mẹ chứng kiến Chúa Giêsu chết trên Thập giá. Như vậy, cả 2 đoạn Kinh thánh đều chuyển tải lời tiên báo và sự hoàn tất.

Thánh Ambrôsiô coi Đức Mẹ là nỗi sầu khổ nhưng là người mạnh mẽ khi đứng bên Thánh giá. Đức Mẹ đứng bên Thánh giá mà không hề sợ sệt, trong khi những người khác chạy trốn. Đức Mẹ nhìn những vết thương của Con với lòng yêu thương, nhưng Đức Mẹ thấy trong các vết thương đó có Ơn Cứu Độ dành cho thế giới. Khi Chúa Giêsu bị treo trên Thánh giá, Đức Mẹ không sợ bị sát hại mà dám hiến mình cho những kẻ hành hạ mình. Đức Mẹ là một phụ nữ quá đỗi quả cảm!

 

16/9 –  Thánh Corneliô, Giáo hoàng Tử đạo, và Cyprianô, Giám mục Tử đạo (qua đời năm 253)

Trống ngôi giáo hoàng 14 tháng sau khi thánh Fabianô tử đạo vì Giáo hội bị bách hại dữ dội. Trong thời gian đó, Giáo hội được một số linh mục điều hành. Thánh Cyprianô, bạn của thánh Corneliô, viết rằng Corneliô được bầu làm giáo hoàng “bởi phán quyết của Thiên Chúa và của Đức Kitô, bởi chứng thực của đa số giáo sĩ, bởi mọi người, với sự đồng thuận của các linh mục cao niên và các giáo dân tốt lành.

Vấn đề lớn nhất trong 2 năm làm giáo hoàng của Corneliô là phải xứ lý về bí tích Hòa giải và tập trung vào việc tái thu nhận các Kitô hữu đã bội giáo trong thời gian bị bách hại. Thánh Cyprianô, giám mục của Phi châu, kêu gọi giáo hoàng xác nhận vị thế của mình mà những người trở lại chỉ được hòa giải bằng quyết định của giám mục (ngược lại cách khoan dung của Novatus).

Tuy nhiên, tại Rôma, thánh Corneliô có cách nhìn khác. Sau khi ngài được chọn làm giáo hoàng, một linh mục tên là Novatian (một trong những người cai điều hành Giáo hội lúc đó) đã tự phong cho mình làm giám mục của Rôma – đây là ngụy giáo hoàng đầu tiên. Ngụy giáo hoàng này phủ nhận Giáo hội có quyền hòa giải không chỉ với những người bội giáo đã trở lại, mà cả những người phạm tội giết người, tà dâm, thông dâm hoặc vợ nọ con kia! Thánh Corneliô đã nâng đỡ Giáo hội (nhất là Cyprianô của Phi châu) trong việc kết án tà thuyết Novatian, dù tà thuyết này hiện hữu suốt vài thế kỷ. Thánh Corneliô triệu tập một công nghị tại Rôma năm 251 và cho phép những người bội giáo đã trở lại được gia nhập Giáo hội qua bí tích Hòa giải.

Tình bạn giữa thánh Corneliô và thánh Cyprianô bị căng thẳng một thời gian khi một trong số đối thủ của thánh Cyprianô kết án ngài. Nhưng mọi chuyện được giãi bày. Một tài liệu của thánh Corneliô cho thấy mức quy mô tổ chức trong Giáo hội La Mã hồi giữa thế kỷ III: 46 linh mục, 7 phó tế, 7 phụ phó tế. Số Kitô hữu ước tính khoảng 50.000 người. Thánh Corneliô qua đời vì cực khổ trong thời gian bị đi đày ở nơi mà nay là Civitavecchia (gần Rôma).

  

17/9 –  Thánh Robert Bellarmine, Giám mục Tiến sĩ (1542-1621)

Ngài thụ phong linh mục năm 1570, nghiên cứu lịch sử Giáo hội và các Giáo phụ ở trong tình trạng thờ ơ. Là một học giả có triển vọng từ hồi còn trẻ ở Tuscany, ngài chuyên tâm vào 2 vấn đề, kể cả Kinh thánh, để hệ thống hóa giáo lý chống lại sự tấn công của các nhà cải cách Tin Lành. Ngài là tu sĩ Dòng Tên đầu tiên trở thành giáo sư ở Louvain.

Tác phẩm nổi tiếng nhất của ngài là 3 cuốn Bàn luận về các cuộc tranh cãi Đức tin Kitô giáo (Disputations on the Controversies of the Christian faith). Ngài phát triển lý thuyết về quyền gián tiếp của giáo hoàng trong các việc tạm thời; mặc dù ngài bảo vệ ĐGH khỏi triết gia Barclay người Scotland, ngài cũng chịu đựng cơn giận của ĐGH Sixtô V.

Ngài được ĐGH Clementô VIII tấn phong hồng y. Khi bận việc ở Tòa thánh, ngài vẫn giữ thói quen sống khổ hạnh. Ngài chi tiêu ít, chỉ ăn những đồ ăn dành cho người nghèo. Ngài là thần học gia của ĐGH Clementô VIII, soạn bộ giáo lý ảnh hưởng nhiều tới Giáo hội.

Cuộc tranh luận lớn về cuộc đời ngài xảy ra năm 1616 khi ngài phải khiển trách bạn mình là Galilê, dù ngài khâm phục. Ngài khiển trách nhân danh Giáo hội về thuyết nhật tâm (heliocentric theory, lấy mặt trời làm tâm điểm) của Copernicus là ngược với Kinh thánh. Đó là một ví dụ cho thấy các thánh không phải không sai lầm.

Ngài qua đời ngày 17-9-1621. Tiến trình phong thánh cho ngài bắt đầu từ năm 1627, nhưng trì hoãn vì lý do chính trị, xuất phát từ những gì ngài viết, cho tới năm 1930. Năm 1931, ĐGH Piô XI tôn phong ngài là Tiến sĩ Giáo hội.

  

18/9 – Thánh Giuse Cupertino, Linh mục (1603-1663)

Ngài nôi tiếng về xuất thần khi cầu nguyện. Hồi nhỏ, ngài rất thích cầu nguyện.

Sau một thời gian làm việc với các tu sĩ Dòng Phanxicô, ngài xin vào dòng và được học làm linh mục. Dù học hành khó khăn đối với ngài, nhưng ngài vẫn hiểu biết nhờ cầu nguyện. Ngài thụ phong linh mục năm 1628.

Xuất thần của ngài trong lúc cầu nguyện tđôi khi là cây Thánh giá; một số người đến cũng nhìn thấy. Ngài sống khiêm nhường, kiên nhẫn và vâng lời, đôi khi ngài cũng bị cám dỗ và cảm thấy bị Chúa bỏ rơi. Ngài thường ăn chay và đeo xiềng xích để đền tội.

Khi điều tra phong thánh cho ngài, có 70 lần xuất thần được ghi nhận. Ngài được phong thánh năm 1767.

19/9 –  Thánh Gianuariô, Giám mục Tử đạo (qua đời năm 305?)

 

Không biết gì về cuộc đời thánh Gianuariô. Chỉ biết ngài tử đạo năm 305 trong cuộc bách hại đạo của hoàng đế Diocletianus (*). Truyền thuyết kể rằng sau khi thánh Gianuariô bị ném vào hầm gấu ở đấu trường Pozzuoli, ngài bị chém đầu, và máu ngài được đưa về Naples.

——————————

(*)Hoàng đế La mã Gaius Aurelius Valerius Diocletianus (284-305), muốn phục hồi tôn giáo cũ của Rôma nên dẫn đến việc bách hại đạo từ năm 303.

 

19/9 –  Thánh Gioan Henry Newman, Hồng y (1801-1890)

Ngài là một trong những người trí thức Công giáo của thế kỷ XIX. Ngài sinh tại London. Việc tìm kiếm tâm linh của ngài bắt đầu từ tuổi thanh xuân, sau đó ngài học thần học tại ĐH Oxford. Rồi ngài trở thành mục sư Anh giáo (Anglican pastor), bạn của Oriel College, và là trưởng Phong trào Oxford nghiên cứu nguồn gốc đức tin Công giáo ở Anh quốc. Năm 1842, khi viết “Essay on the Development of Christian Doctrine” (Tiểu luận về việc Phát triển Giáo lý Kitô giáo), ngài “vỡ lẽ” và quyết định gia nhập Công giáo. Ngài được nhận vào Công giáo năm 1845 và thụ phong linh mục tại Rôma ngày 1-6-1847.

Sau đó, được ĐGH Piô IX khuyến khích, ngài thành lập Nguyện đường Thánh Philip Neri ở Anh quốc. Năm 1852, ngài được bổ nhiệm làm uyên úy ĐH Công giáo Dublin ở Ireland, và ngài giữ chức vụ này tới năm 1854. ĐGH Leo XIII tấn phong ngài làm hồng y năm 1879. Ngài qua đời năm 1890 tại Nguyện đường ở Edgbaston. Án phong chân phước cho ngài bắt đầu từ năm 1958. Sự can thiệp kỳ lạ của ngài là chữa lành bệnh đau cột sống cho Jack Sullivan, và ngài được ĐGH Bênêđictô XVI tôn phong chân phước cho ngài vào tháng 7-2009 và được tôn phong hiển thánh ngày 19-9-2010.

 

20/9 –  Anrê Kim Taegon, Linh mục, và Phaolô Chong Hasang cùng các bạn Tử đạo (1821-1846)

Anrê Kim Taegon la linh mục người Hàn quốc đầu tiên, cha mẹ ngài là tân tòng. Cha ngài là Ignatius Kim, tử đạo trong thời bắt đạo năm 1839 và được phong chân phước năm 1925. Sau khi được rửa tội lúc 15 tuổi, ngài vượt đường xa 1.300 dặm tới một chủng viện ở Macao, Trung quốc. Sau 6 năm học tập, ngài trở lại quê hương qua đường Manchuria. Cùng năm đó ngài vượt Hoàng giang tới Thượng Hải và được thụ phong linh mục. Trở lại quê hương, ngài được sai đi truyền giáo. Ngài bị bắt, bị hành hạ, và cuối cùng bị chém đầu ở sông Han, gần Seoul.

Paul Chong Hasang là chủng sinh, 45 tuổi.

Kitô giáo đến Hàn quốc trong cuộc viễn chinh của quân Nhật năm 1592, khi một số người Hàn quốc được rửa tội, có thể do các binh sĩ Nhật theo Kitô giáo. Truyền bá Phúc âm rất khó vì Hàn quốc không chịu ký kết với thế giới bên ngoài, trừ việc hàng năm tới Bắc Kinh để nộp thuế. Khoảng năm 1777, văn chương Kitô giáo có được nhờ các tu sĩ Dòng Tên ở Trung quốc đã giúp người Hàn quốc tiếp cận với Công giáo. 12 năm sau, khi một linh mục Trung quốc lén vào được, ngài thấy có 4.000 người Công giáo, chưa bao giờ thấy linh mục nào. 7 năm sau có 10.000 người Công giáo. Tôn giáo được tự do năm 1883.

Khi chân phước GH Gioan Phaolô II thăm Hàn quốc năm 1984, ngài đã phong thánh cho Anrê Kim Taegon, Phaolô Chong Hasang, cùng với 98 người Hàn quốc và 3 nhà truyền giáo người Pháp đã tử đạo trong thời gian từ 1839 tới 1867. Trong số đó có những giám mục và linh mục, nhưng đa số là giáo dân: 47 nam và 45 nữ.

Trong các vị tử đạo năm 1839 có Columba Kim, một cô gái 26 tuổi chưa kết hôn. Chị bị tù, bị chọc vào người bằng những thanh sắt nóng và đóng dấu bằng than hồng. Columba và người chị em là Agnes bị lột trần và bị nhốt trong xà lim 2 ngày trong với các phạm nhân người khác, nhưng không bị làm nhục. Sau khi Columba than phiền về sự nhục nhã, không phụ nữ nào khác bị lột trần nữa. Hai chị em bị chém đầu. Một cậu bé 13 tuổi là Peter Ryou đã lấy phần da thịt nát của mình ném vào những người xét xử. Cậu bé chết bằng vì bị bóp cổ chết. Protase Chong, một nhà quý tộc 41 tuổi, đã bỏ đạo sau khi bị hành hạ và được thả. Sau đó ông trở lại, tuyên xưng đức tin và bị hành hạ tới chết.

  

21/9 –  Thánh Matthêu, Tông đồ Thánh sử

Thánh Matthêu là người Do Thái, làm việc cho quân đội La Mã với nhiệm vụ thu thuế từ những người Do Thái. Dù người Do Thái không cho phép lấy thuế quá nặng, nhưng mối quan tâm của họ là hầu bao riêng. Họ không để ý những nông dân thu thuế đã lấy gì cho họ. Do đó dân thu thuế bị người Do Thái ghét như những kẻ phản bội. Người Pharisêu (Biệt phái) bị gán vào phường tội lỗi. Nên họ thấy “sốc” khi Chúa Giêsu gọi một người như thế làm môn đệ.

Chính nhân viên thu thuế Matthêu đã mời Chúa Giêsu đến dự tiệc tại nhà mình. Phúc âm cho chúng ta thấy rằng nhiều người thu thuế cũng đến dự tiệc. Người Pharisêu cũng cảm thấy “sốc”: “Sao Thầy các anh lại ăn uống với bọn thu thuế, và quân tội lỗi như vậy?”. Chúa Giêsu trả lời: “Người khoẻ mạnh không cần thầy thuốc, người đau ốm mới cần. Hãy về học cho biết ý nghĩa của câu này: “Ta muốn lòng nhân chứ đâu cần lễ tế. Vì tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi” (Mt 9:12-13). Chúa Giêsu không có ý coi thường nghi lễ và việc thờ phượng mà Ngài muốn nhấn mạnh việc yêu thương người khác là điều quan trọng hơn.

 

22/9 –  Thánh Lawrence Ruiz và các bạn Tử đạo (1600?-1637)

Lawrence (Lorenzo) sinh tại Manila, cha là người Trung quốc và mẹ là người Philippine. Ngài học tiếng Trung quốc và tiếng Tagalog từ cha mẹ, học tiếng Tây Ban Nha từ các tu sĩ Dòng Đa Minh, giúp lễ và lo việc phòng thánh cho các lm Dòng Đa Minh. Ngài viết chữ đẹp, chép các tài liệu theo nghệ thuật thư pháp, và thành viên của Hội Mân Côi. Ngài kết hôn, có 2 con trai và 1 con gái.

Cuộc đời ngìa rẽ sang bước ngoặt khi ngài bị kết tội sát nhân. KKhông biết gì thêm về ngài ngoài câu nói của 2 tu sĩ Đa Minh: “Ngài bị chính quyền tìm bắt vì tội sát nhân”.

Lúc đó, 3 linh mục Dòng Đa Minh là Antonio Gonzalez, Guillermo Courtet và Miguel de Aozaraza sắp đi Nhật mặc dù ở Nhật đang bị bách hại dữ dội. Họ lên đường cùng LM Vicente Shiwozuka de la Cruz, người Nhật, và Lazaro, một giáo dân bị phong cùi. Thánh Lawrence đang ẩn náu và được phép đi với họ. Nhưng khi tàu đã nhổ neo thì ngài mới biết họ đi Nhật.

Tàu cặp bến Okinawa. Thánh Lawrence tời Formosa, ngài nói: “Tôi quyết định ở với các cha, vì nếu không thì người Tây Ban Nha sẽ treo cổ tôi ở đó”. Tại Nhật, họ sớm bị phát hiện, bị bắt và bị đưa tới Nagasaki. Đây là nơi đẫm máu khi bom nguyên tử đã tạo nên thảm họa trước đó. Khoảng 50.000 Công giáo đã từng sống ở đó đã bị bách hại hoặc tản mác.

Họ chịu đủ loại nhục hình: Sau khi bị đổ nước đầy bụng, họ bị bắt nằm xuống, rồi người ta lấy tấm ván dài đặt lên bụng, bọn lính cùng nhau đứng lên tấm ván để đạp cho nước phụt ra từ miệng, mũi và tai các tử tù. LM Antonio qua đời sau vài ngày. Linh mục người Nhật và Lazaro bị đâm các ngón tay bằng tre nhọn, nhưng ai cũng can đảm chịu đựng. Khi mọi người đều chết, thấy 3 linh mục Đa Minh vẫn sống nên bị họ chém đầu.

Chân phước GH Gioan Phaolô II phong thánh cho 6 vị này và 10 vị khác là người Á châu và Âu châu, cả nam và nữ, những người đã rao giảng đức tin ở Philippines, Formosa và Nhật. Lawrence Ruiz là vị tử đạo đầu tiên của Philippines được phong thánh.

 

23/9 –  Thánh Padre Piô, Linh mục (1887-1968)

Ngày 16-6-2001, chân phước GH Gioan Phaolô II đã phong thánh cho LM Padre Piô, linh mục Dòng Phanxicô, người xứ Pietrelcina. Đây là lễ phong thánh thứ 45 trong triều đại giáo hoàng của ĐGH Gioan Phaolô II. Hơn 300.000 người quy tụ đầy Quảng trường Thánh Phêrô và những con đường gần đó. Ngài nói: “Đây là sự tổng hợp cụ thể nhất về giáo huấn của linh mục Padre Piô”. Ngài nhấn mạnh việc làm chứng của linh mục Padre Piô là chịu đau khổ.

Năm 1962, khi còn là tổng giám mục ở Ba Lan, ĐGH Gioan Phaolô II đã viết thư cho linh mục Padre Piô để xin cầu nguyện cho một phụ nữ Ba Lan bị ung thư họng. Trong vòng 2 tuần, phụ nữ này đã hết bệnh.

Ngài sinh ngày 25-5-1887, tên “cúng cơm” của ngài là Francesco Forgione, sống trong một gia đình nông dân ở Nam Ý. Cha ngài Grazio làm việc ở Jamaica, New York 2 lần (1898-1903 và 1910-1917) để kiếm tiền nuôi gia đình.

Lúc 15 tuổi, ngài vào Dòng Phanxicô và lấy tên dòng là Padre Piô. Ngài thụ phong linh mục ngày 10-8-1910, lúc 22 tuổi. Sau khi được phát hiện bị bệnh lao phổi, ngài đã thổ huyết. Năm 1917, ngài chuyển tới nhà dòng ở San Giovanni Rotondo, cách Bari 75 dặm.

Ngày 20-9-1918, sau khi rước lễ và cầu nguyện trước Thánh Giá, ngài được thị kiến Chúa Giêsu. Sau khi hết thị kiến, ngài được ghi 5 dấu trên 2 tay, 2 chân và cạnh sườn (thường gọi là Cha Piô 5 dấu). Năm 1956, ngài thành lập Nhà Khuây khỏa Đau khổ (House for the Relief of Suffering), bệnh viện này phục vụ 60.000 bệnh nhân mỗi năm.

Từ đó, cuộc sống ngài trở nên phức tạp hơn. Các bác sĩ, giáo quyền và những người tò mò đến để chứng kiến “hai năm rõ mười” về Cha Padre Piô. Năm 1924 và năm 1931, chuyện 5 dấu của ngài được chất vấn. Ngài không được phép làm lễ công khai hoặc giải tội. Ngài không than viền gì về chuyện này, nhưng không lâu sau ngài hết bị cấm. Tuy nhiên, ngài không viết lá thư nào từ sau năm 1924. Tài liệu viết khác duy nhất của ngài là một cuốn sách mỏng viết về cơn hấp hối của Chúa Giêsu, nhưng được viết trước năm 1924.

Ngài hiếm khi ra khỏi nhà dòng từ khi ngài được in 5 dấu, Nhưng nhiều người vẫn tìm đến. Mỗi buổi sáng từ 5 giờ, nhà thờ chật người dự lễ, rồi ngài giải tội cho tới trưa. Ngài nghỉ lúc nửa buổi sáng để chúc lành cho các bệnh nhân và những người đến gặp ngài. Trưa nào ngài cũng vẫn giải tội. Trung bình mỗi ngày ngài giải tội 10 giờ, người đến xưng tội phải lấy số trước.

Ngài thấy Chúa Giêsu trong các bệnh nhân và người đau khổ. Theo ngài thúc giục, một bệnh viện được xây ở gần Mount Gargano. Năm 1940 một ủy ban được thành lập để thu tiền. Năm 1946 bệnh viện hư hỏng, rồi được xây lại với tên “Nhà Xoa Dịu Đau Khổ” (House for the Alleviation of Suffering) với 350 giường.

Cũng như tổ phụ dòng là thánh Phanxicô, LM Padre Piô đôi khi cũng bị người ta xé áo làm kỷ niệm. Một trong những đau khổ của ngài là những người vô ý tứ đã truyền miệng những lời tiên tri cho là của ngài. Thật ra ngài không bao giờ nói tiên tri về các sự kiện thế giới và không hề có ý kiến về các vấn đề mà ngài cảm thấy thuộc giáo quyền. Ngài qua đời ngày 23-9-1968, lúc 81 tuổi, và được phong chân phước năm 1999.

 

24/9 –  Thánh Pacifico San Severino, Linh mục (1653-1721)

Ngài sinh trong một gia đình khá giả ở San Severino, thuộc Ancona ở Trung Ý. Ngài vào Dòng Phanxicô và thụ phong linh mục. Ngài dạy triết học 2 năm rồi đi giảng đạo. Ngài sống khổ hạnh, ăn chay trường, chỉ ăn chút bánh mì, súp hoặc uống nước. “Áo lông” ngài mặc làm bằng những sợi sắt. Ngài nổi bật về đức khó nghèo và vâng lời.

Lúc 35 tuổi, ngài bị bệnh khiến ngài bị điếc, mù và đi khập khiễng. Ngài dâng mọi đau khổ của mình để cầu cho các tội nhân biết sám hối. Ngài chữa lành nhiều bệnh nhân đến với ngài. Ngài được bầu làm bề trên nhà dòng ở San Severino. Ngài được phong thánh năm 1839.

  

25/9 –  Thánh Elzear (1286-1323) và Chân phước Delphina (1283-1358)

Ông Elzear sinh trưởng trong một gia đình quý tộc ở Nam Pháp. Sau khi ông kết hôn với bà Delphina, bà cho ông biết rằng bà đã khấn giữ đồng trinh trọn đời, và ngay đêm tân hôn ông cũng khấn hứa như vậy. Ông Elzear là Bá tước vùng Ariano, đã từng tư vấn cho Công tước Charles vùng Calabria ở Nam Ý. Bằng công lý, ông Elzear đã cai trị lãnh địa của mình ở vương quốc Naples và ở Nam Pháp.

Ông Elzear và bà Delphina cùng vào Dòng Ba Phanxicô và dấn thân làm việc từ thiện. Mỗi ngày có 12 người nghèo cùng ăn với họ. Bức tượng thánh Elzear cho thấy ngài đã chữa nhiều bệnh nhân phong.

Họ cùng điều hành một trại phong. Mọi người tham dự thánh lễ hàng ngày, xưng tội hàng tuần và sẵn sàng tha thức mọi xúc phạm lẫn nhau. Sau khi ông Elzear qua đời, bà Delphina tiếp tục công việc từ thiện hơn 35 năm. Đặc biệt bà quan tâm nâng mức độ luân lý ở triều đình của vua Sicily.

Thánh Elzear và chân phước Delphina được an táng tại Apt, Pháp quốc. Ông được phong phong thánh năm 1694, còn bà được phong chân phước năm 1936.

 

26/9 –  Các thánh Cosmas và Đamianô, Tử đạo (qua đời năm 303?)

Không ai biết gì nhiều về cuộc đời các ngài ngoài việc các ngài tử đạo tại Syria trong thời bách hại của Diocletianô (*).

Lòng sùng kính hai vị thánh này lan rộng nhanh chóng cả ở Đông phương và Tây phương. Một đền thờ được xây dựng dâng kính các ngài ở Constantinople. Tên các ngài được ghi trong Kinh nguyện Thánh Thể, có thể từ thế kỷ VI.

Tương truyền các ngài là anh em song sinh ở Ả Rập, đều là bác sĩ giỏi. Các ngài được sùng kính ở Đông phương với danh xưng la “những người không tiền” (moneyless ones), vì các ngài không lấy tiền ai khi chữa bệnh cho người ta. Những người nổi bật như vậy không thể không bị “lưu ý”, thế nên các ngài đã bị bắt và bị chém đầu.

——————————-

(*) Hoàng đế La Mã (284–305), thoái vị năm 305, đã ra chiếu chỉ bắt đạo trong những năm 303–304.

  

27/9 –  Thánh Vinh Sơn Phaolô, Linh mục (1580?-1660)

Việc giải tội cho một người hấp hối đã giúp ngài thấy nhu cầu tâm linh cấp bách của dân quê nước Pháp. Đây có vẻ là khoảnh khắc quan trọng trong cuộc đời của một người xuất thân từ một nông trại nhỏ ở Gascony, Pháp quốc, và trở thành linh mục.

Chính nữ bá tước Gondi đã thuyết phục chồng tài trợ một nhóm các nhà truyền giáo nhiệt thành có thể hoạt động giữa những người nghèo, các thuộc hạ, tá điền và dân quê nói chung. Thánh Vinh Sơn mới đầu khiêm nhường không nhận chức lãnh đạo, nhưng sau một thời gian hoạt động ở Paris giữa những nô lệ bị tù, ngài trở thành người lãnh đạo của nhóm người mà nay là Dòng Truyền giáo (Congregation of the Mission), còn gọi là Dòng Vinh Sơn (Vincentians). Các linh mục này – với 4 lời khấn: Khó nghèo, Khiết tịnh, Vâng lời và Kiên định – hoàn toàn dấn thân phục vụ mọi người ở các nơi xa xôi hẻo lánh.

Sau đó ngài lập Hội Bác Ái (Confraternities of Charity) để xoa dịu nỗi đau tinh thần và thể lý của người nghèo và người bệnh. Với sự giúp đỡ của thánh nữ Louise de Marillac, có thêm Dòng Nữ tử Bác ái (Daughters of Charity), có các phòng bệnh nhân, nhà nguyện là nhà thờ giáo xứ, hành lang là đường phố. Ngài quy tụ các phụ nữ giàu có ở Paris để gây quỹ cho việc truyền giáo, mở các bệnh viện, gây quỹ cho các nạn nhân chiến tranh và chuộc hơn 1.200 nô lệ người Bắc Phi. Ngài nhiệt thành trong việc hướng dẫn tĩnh tâm cho các giáo sĩ nguội lạnh, lạm dụng và khinh suất. Ngài là người tiên phong trong việc đào tạo giáo sĩ và thành lập chủng viện.

Đáng nói là ngài là người rất nóng tính (very irascible person), bạn bè ngài cũng phải công nhận điều đó. Ngài nói rằng nếu không có ơn Chúa thì ngài gay gắt, lạnh lùng, thô lỗ và bực bội. Nhưng ngài đã thuần hóa thành dịu dàng và trìu mến, rất nhạy cảm với nhu cầu của người khác. ĐGH Leo XIII tôn ngài làm bổn mạng các hội từ thiện. Nổi bật trong số đó là Hội Vinh Sơn Phaolô (Society of St. Vincent de Paul), được chân phước Frederic Ozanam thành lập năm 1833.

 

28/9 – Thánh Venceslaô, Tử đạo (907?-929)

Thánh Venceslaô (Wenceslaus) ủng hộ các giá trị Kitô giáo ngay giữa các âm mưu chính trị tiêu biểu của Bohemia hồi thế kỷ X.

Ngài sinh gần Prague, con của công tước vùng Bohemia. Người mẹ của ngài là bà Ludmilla đã nuôi dạy ngài và tìm cách nâng ngài lên làm người lãnh đạo vùng Bohemia thay cho bà. Bà Ludmilla ủng hộ các phe chống Kitô giáo nhưng cuối cùng bị giết chết, nhưng lực lượng đấu tranh của Kitô giáo đã chiến thắng, và ngài có thể lãnh đạo chính phủ.

Cách cai trị của ngài nổi bật bằng các nỗ lực đoàn kết với Bohemia, ủng hộ Giáo hội và thương thuyết hòa bình với Đức quốc. Chính sách của ngài khiến ngài gặp rắc rối với sự đối lập chống Kitô giáo. Em trai ngài là Boleslav đã tham gia âm mưu, và tháng 9 năm 929, Boleslav đã mời ngài tời Alt Bunglou mừng lễ thánh Cosmas và Đamianô. Trên đường đi dự lễ, ngài bị Boleslav tấn công, và ngài bị giết chết dưới tay những kẻ ủng hộ Boleslav.

Dù vậy, ngài vẫn được coi là tử đạo vì đức tin, mộ ngài là nơi được nhiều người hành hương kính viếng. Ngài được tôn vinh là thánh bổn mạng của nhân dân Bohemia và Tiệp Khắc (nay là Cộng hòa Séc và Slovakia).

29/9 – Các tổng lãnh thiên thần Michael, Gabriel and Raphael

Các thiên thần là các sứ giả của Thiên Chúa, thường xuất hiện trong Kinh thánh, nhưng chỉ có các tổng lãnh thiên thần Michael, Gabriel và Raphael được nêu danh.

Tổng lãnh thiên thần (TLTT) Michael hiện ra trong thị kiến của Daniel với dạng “hoàng tử” bảo vệ Israel khỏi quân thù; trong sách Khải huyền, ngài hướng dẫn quân đội của Chúa chiến thắng ma quỷ. Lòng sùng kính TLTT Michael có từ lâu đời nhất, xuất hiện ở Đông phương từ thế kỷ IV. Giáo hội Tây phương bắt đầu mừng lễ kính các TLTT từ thế kỷ V.

TLTT Gabriel cũng hiện ra trong thị kiến của Daniel, thông báo vai trò của TLTT Michael trong kế hoạch của Thiên Chúa. Lần ngìa hiện ra được biết nhiều nhất là gặp một thiếu nữ Do Thái tên là Maria, người mang thai Đấng Thiên Sai.

Hoạt động của TLTT Raphael được thấy trong Cựu ước về ông Tobit. Ngài hiện ra để hướng dẫn con trai của ông Tobit là Tobia qua một loạt mạo hiểm dẫn tới kết cuộc hạnh phúc gấp ba: Đám cưới của Tobia với Sarah, chữa ông Tobit khỏi mù và lấy lại tài sản gia đình.

Lễ nhớ TLTT Gabriel (24-3) và TLTT Raphael (24-10) được thêm vào lịch La Mã năm 1921. Lịch năm 1970 kết hợp các lễ này thành lễ kính chung các TLTT hôm nay.

30/9 – Thánh Giêrônimô, Linh mục Tiến sĩ (345-420)

Thánh Giêrônimô có tính rất xấu là viết gay gắt, nhưng ngài rất yêu mến Chúa.

Ngài còn hơn một học giả Kinh thánh, dịch hầu hết các sách Cựu ước từ tiếng Hê-brơ (cổ ngữ Do Thái). Ngài còn viết những bài phê bình được cảm hứng từ Kinh thánh mà chúng ta có ngày nay. Ngài tư vấn cho tu sĩ, giám mục và giáo hoàng. Thánh Augustinô nói về ngài: “Những gì thánh Giêrônimô không biết, không quan trọng”.

Thánh Giêrônimô rất quan trọng đối với bản dịch Kinh thánh Vulgata (bản phổ thông). Đó không là bản dịch chính thức, nhưng được Giáo hội chấp nhận. Công đồng Trentô mời gọi bản dịch mới và chỉnh sửa từ bản Vulgata, và tuyên bố là bản chính thức của Giáo hội.

Để làm được như vậy, thánh Giêrônimô đã chuẩn bị kỹ lưỡng. Ngài giỏi tiếng Latin, tiếng Hy Lạp, tiếng Hê-brơ và tiếng Chaldaic. Ngài bắt đầu học từ sinh quán của ngài ở Stridon thuộc Dalmatia (trước là Yugoslavia). Sau đó ngài học ở Rôma, trung tâm học tập thời đó, và rồi tới Trier, Đức quốc, nơi có nhiều chứng cớ. Mỗi nơi ngài ở vài năm, luôn cố tìm thầy giỏi nhất.

Sau đó ngài tới Palestine. Ngài là nhà thần bí (mystic), sống ở sa mạc Chalcis 5 năm để cầu nguyện, đền tội và học nghiên cứu. Cuối cùng ngài tới Belem, nơi sinh sống của Chúa Giêsu. Ngày 30-9-420, ngài qua đời tại Belem. Hiện nay hài cốt ngài được đặt tại Nhà thờ Đức Bà Cả (Basilica of St. Mary Major) ở Rôma. Ngài là bổn mạng các dịch giả.

Thomas Aquinas TRẦM THIÊN THU

(Chuyển ngữ từ BeliefNet.com, Saints.sqpn.com, AmericanCatholic.org, Catholic.org, CatholicCulture.org)

Cảm nhận về cuộc đời và con người Thánh Augustinô

Cảm nhận về cuộc đời và con người Thánh Augustinô

                                                                                                Tâm Thương

 

WGPSG — Mỗi lần lắng nghe tiểu sử cuộc đời của nhiều vị thánh, chúng ta thường có những suy nghĩ gì? Phải chăng chúng ta cảm nhận các ngài dường như là những người không có khuyết điểm gì cả? Và dường như chúng ta cảm thấy đời sống của các ngài thật cao và thật xa với đời sống của chúng ta?

Bạn thân mến, một tác giả đạo đức Công giáo nào đó đã cảm thấu như sau: “Không có một thánh nhân nào mà không có quá khứ. Và không có một tội nhân nào lại không có tương lai.” Nếu đọc lại tiểu sử cuộc đời và con người của thánh Augustinô, chắc hẳn chúng ta sẽ cảm nhận được phần nào câu nói trên. Cuộc đời của thánh nhân được cắm vào ba cột mốc quan trọng: một con người tội lỗi, một tội nhân biết sám hối, và một thánh nhân hết lòng yêu mến Chúa và Giáo Hội. Vậy, mỗi Kitô hữu chúng ta đã cảm nhận được gì ở ba khoảnh khoắc quan trọng này nơi của cuộc đời thánh Augustinô?

Một con người đắm chìm trong tội lỗi

Trước tiên, thánh Augustinô là một con người tội lỗi. Có người đã ví von rằng: nếu trên trần gian này có bao nhiêu thứ tội lỗi thì Augustinô đã phạm hình như gần hết. Vậy, Augustinô đã phạm những tội lỗi nào? Thiết nghĩ, không cần phải kể hết ra đây. Nhưng tội mà Augustinô thường phạm nhiều nhất, nặng nhất đó là chạy theo nhục dục của xác thịt. Bởi vậy, trong quyển Tự Thú thánh Augustinô đã viết thế này: “Nhưng khốn thay, đang lúc tình dục sôi nổi, con buông theo sự hăng say của làn sóng bên trong, mà bỏ Chúa và lỗi phạm các giới răn của Chúa…” Ngoài ra, Augustinô đã nhiều lần chạy theo bè rối chống lại đạo Chúa. Mất đức tin. Điều đáng nói nhất là tội dâm dục của Augustinô: “Vào năm 16 tuổi, xác thịt của con, khi con chịu quyền cai trị và hoàn toàn vâng phục cơn sốt tình dục, mà sự sỉ nhục của loài người dung túng, còn luật Chúa thì nghiêm cấm.” Thật vậy, Augustinô đã ngụp lặn và đắm chìm trong những đam mê của xác thịt.

Bạn thân mến, đã là con người ai mà chẳng có tội. Ai cũng có quá khứ vấp ngã và sai lầm. Vì thế, thánh Augustinô cũng không ngoại lệ. Điều này cho thấy cuộc đời và con người của thánh Augusitnô thật gần gũi với chúng ta biết bao. Chúng ta cũng yếu đuối như Augustinô. Chúng ta cũng nhiều lần khô khan, nguội lạnh và kém đức tin như Augustinô. Chúng ta cũng là một con người đắm chìm trong tội lỗi như Augustinô. Chìm đắm trong đam mê xác thịt. Chìm đắm trong tiền bạc và quyền lực tiếng tăm v.v… Tuy nhiên, Augustinô đã thức tỉnh và sám hối trở về với Chúa.

Một tội nhân biết quay đầu sám hối

Tiếp đến, điều đáng ca ngợi nơi Augustinô bởi vì ông là một tội nhân biết quay đầu sám hối. Augustinô nhận ra mình đã yêu Chúa quá muộn màng: “Lạy Chúa, con yêu mến Chúa quá trễ: Chúa ở bên trong tâm hồn, còn con, con sống hời hợt bên ngoài và chỉ chú tâm tìm kiếm Chúa ở đó. Chúa hiện diện ở trong con nhưng con không sống ở trong Chúa. Nhiều tạo vật đã kềm hãm khiến con sống xa Chúa. Chúa đã tỏa ánh sáng chiếu soi và đã phá tan màn đêm tối dày đặc nơi con.” Vâng, Augustinô đã sám hối nhờ ơn Chúa và tình yêu thương tha thứ của Chúa. Chúa đã dùng Giám mục Ambrosiô để thức tỉnh lương tâm Augustinô. Chúa đã dùng những lời dạy của thánh Phaolô để Augustinô nhận ra tội lỗi tày trời của mình: “Ðừng sống theo dục tình và lạc thú dâm ô, nhưng hãy mặc lấy Ðức Giêsu Kitô”.

Vậy, có lần nào bạn và tôi biết sám hối như thánh Augustinô chưa? Con người ai cũng có vấp ngã. Điều quan trọng là sau những lần vấp ngã chúng ta có quyết tâm đứng dậy bắt đầu lại hay không mà thôi. Chúa không bao giờ đặt dấu chấm hết cho bất kỳ một tội nhân nào. Lòng thương xót của Chúa luôn rộng lòng tha thứ cho những ai biết sám hối quay đầu trở về. Dù vậy, thật không dễ cho chúng ta tí nào. Nhưng Augusitinô đã làm được điều đó.

Một thánh nhân hết lòng yêu mến Chúa và phục vụ Giáo hội bằng cả tình yêu

Cuối cùng, từ một tội nhân Augustinô đã trở thành một thánh nhân hết lòng yêu mến Chúa và phục vụ Giáo hội. Sau những tháng ngày đắm mình trong nhục dục xác thịt, Augustinô cảm thấy tâm hồn mình trống rỗng: “Lạy Chúa, Chúa đã dựng nên con và linh hồn con còn khắc khoải cho đến khi nào được yên nghỉ trong Chúa mà thôi.” Kể từ giây phút ấy, Augustinô xác tín Chúa là tất cả đời mình. Từ xác tín sâu xa ấy, thánh Augustinô đã phục vụ Giáo hội. Phục vụ bằng suy tư sắc bén của trí tuệ. Phục vụ bằng tài giảng thuyết sâu sắc đánh động lòng người. Và phục vụ bằng cả tình yêu. Bởi vậy, thánh nhân nói: “Hãy yêu đi rồi muốn làm gì thì làm.”

Bạn thân mến, một tác giả đã cảm nhận câu nói trên như sau: “Câu nói trên của Thánh Augustinô tự nhiên thoáng vang lên trong trí khiến tôi phải trầm mình và suy nghĩ, đúng là thánh nhân luôn có những cái hơn người như thế!” Dù vậy, phải chăng chúng ta cũng cảm nhận thánh nhân cũng mang thân phận con người mỏng giòn và yếu đuối như chúng ta. Thánh nhân thật gần gũi với chúng ta. Từ một con người trở thành một tội nhân. Từ một tội nhân trở thành một thánh nhân. Quả thật, chỉ có Chúa mới có thể làm thay đổi cuộc đời 360 độ như thế. Mừng lễ thánh Augustinô là dịp để mỗi Kitô hữu chúng ta lắng đọng tâm hồn để suy nghĩ và cầu nguyện về bản thân, về cuộc đời và về Thiên Chúa.

nguồn:  Maria Thanh Mai gởi

Thánh nữ Monica, bao la tình mẹ

Thánh nữ Monica, bao la tình mẹ

                                                                                        Tâm Thương

 

WGPSG — Ngày 27.08 hằng năm, Giáo hội hân hoan mừng lễ nhớ thánh nữ Mônica. Cả cuộc đời của thánh nhân là những chuỗi ngày hết mình phụng sự Chúa và hết lòng hy sinh vì chồng con. Bởi thế, thánh nữ Mônica được Giáo hội chọn làm bổn mạng của các bà mẹ Công giáo. Thánh nữ Mônica, một người phụ nữ bao la tình mẹ. Sự bao la ấy được ẩn sâu nơi những giọt nước mắt đau khổ của thánh nhân. Sự bao la ấy được thể hiện bằng những nghĩa cử vất vả hy sinh vì tương lai cho con mình.

Bạn thân mến, mừng lễ thánh nữ Mônica, cũng là dịp để chúng ta cùng nhau suy nghĩ và cảm nghiệm về tình thương bao la của mẹ. Nhạc sĩ Y Vân đã cảm nhận về lòng mẹ bằng những lời ca sâu lắng: “Lòng mẹ bao la như biển thái bình dạt dào. Tình mẹ chan chứa như đồng lúa chiều rì rào. Lời mẹ êm ái như dòng suối hiền ngọt ngào” (Bài hát Lòng Mẹ). Còn mỗi người chúng ta thì sao? Chúng ta cảm nghiệm về tình mẹ như thế nào và bằng cách nào? Phải chăng đó là những ký ức cảm động và đời thường về tình thương của mẹ đã dành cho chúng ta?

Những giọt nước mắt của mẹ vì yêu con

Trước hết, tình mẹ bao la được thể hiện nơi những giọt nước mắt của mẹ. Người ta thường bảo: những giọt nước mắt của người phụ nữ là vũ khí lợi hại nhất để chinh phục lòng người. Một tác giả đã viết như thế này: “Có những giọt nước mắt đem lại hạnh phúc cho người khác. Có những giọt lệ làm lay chuyển tâm hồn người khác. Giọt nước mắt của người mẹ luôn có tác dụng rất lớn đối với con cái.” Thật vậy, thánh nữ Mônica đã cầu nguyện và đã khóc ròng rã suốt mười tám năm trời: “Giọt nước mắt của thánh nữ Mônica đã biến đổi cả cuộc đời của Augustinô, người con trai đầu lòng thông minh nhưng ngang tàng, trụy lạc.” Vâng, đó là những giọt nước mắt xuất phát từ sâu thẳm trái tim của một người mẹ. Giọt nước mắt của tình yêu. Giọt nước mắt như là cách giải tỏa những đau đớn lên đến tột độ trong tâm hồn và trái tim của mẹ.

Vì thế, Marie Antoinette đã cảm nhận thật thấm thía: “Không ai có thể hiểu những đau khổ của tôi, hay nỗi kinh hoàng dâng lên trong lồng ngực, nếu người đó không hiểu trái tim của một người mẹ.” Mẹ tôi cũng đã nhiều lần khóc. Mẹ khóc vì nhớ đến tôi đang đi học xa nhà. Mẹ khóc vì lâu quá tôi không điện thoại về thăm. Mẹ khóc vì sợ tôi té xe. Mẹ khóc mỗi lần tôi sai lầm vấp ngã trên đường đời. Và mẹ đã khóc vì lo lắng cho tương lai của tôi sau này. Có lẽ, mẹ là người dễ khóc và là người khóc nhiều nhất trên trần gian này. Bởi vậy, không phải vô tình mà Bernard Shaw đã cảm thấu: “Vũ trụ có nhiều kì quan, nhưng kì quan tuyệt phẩm nhất là trái tim người mẹ.” Hay Florian cũng đã từng trải nghiệm: “Nơi ẩn náu yên ổn nhất là lòng mẹ.” Phải chăng những giọt nước mắt của mẹ đã trở thành một đại dương bao la vô bờ bến của tình thương trong cuộc đời này?

Những vất vả hy sinh vì con

Hơn thế nữa, sự bao la của tình mẹ còn được cụ thể bằng những vất vả hy sinh vì tương lại con cái. Vì vậy, Napoleon I đã cảm nghiệm: “Tương lai của con là công trình của mẹ.” Thật vậy, bất kỳ tình yêu nào cũng đòi hỏi hy sinh. Không có hy sinh thì tình yêu trở nên vô nghĩa. Mẹ là người hy sinh cho con cái nhiều nhất. Hy sinh chín tháng mang nặng đẻ đau. Hy sinh nuôi dưỡng, chăm sóc cho con cái khôn lớn nên người. Mẹ hy sinh cả cuộc đời vì mạng sống, vì hạnh phúc và tương lai của con. Thánh nữ Mônica đã là một người mẹ như thế. Hay mới đây ở Hà Nội có một người mẹ lao vào đường ray để cứu đứa con của mình. Người mẹ ấy đã chết. Đứa con hấp hối. Thật cao cả tuyệt vọng và cảm động.

Bạn thân mến, tình mẹ thật bao la. Thật không bút mực nào diễn tả hết được. Vì thế, Balzac cảm nhận: “Chỉ trong sự nuôi dưỡng, người phụ nữ mới nhận ra bổn phận làm mẹ của mình một cách rõ ràng và hiện hữu; nó là niềm vui trong mọi khoảnh khắc.” Chị tôi đã chia sẻ kinh nghiệm làm mẹ của mình thế này: “Có làm mẹ mới biết thương con như thế nào. Làm mẹ đâu thể nào bỏ con của mình được. Dù có vất vả cỡ nào cũng phải sống chết vì con.”

Cuối cùng, Lamartine đã cảm nghiệm như sau: “Hạnh phúc thay cho người nào được Thượng Đế ban tặng cho một người mẹ hiền.” Vậy, bạn và tôi đã đáp lại tình thương của mẹ như thế nào? Xin mượn lời của một bạn trẻ cảm nhận về mẹ để khép lại bài viết này: “Đêm nay con ngủ giấc tròn. Mẹ là ngọn gió của con suốt đời. Mẹ ơi, mẹ hy sinh cho con nhiều đến thế mà chưa bao giờ mẹ đòi con trả công. Mẹ là người mẹ tuyệt vời nhất, cao cả nhất, vĩ đại nhất. Đi suốt đời này có ai bằng mẹ đâu. Có ai sẵn sàng che chở cho con bất cứ lúc nào. Ôi mẹ yêu của con! Giá như con đủ can đảm để nói lên ba tiếng ‘Con yêu mẹ!’ thôi cũng được.”

Maria Thanh Mai gởi

Phim Thánh Augustinô

Phim Thánh Augustinô

 

 

 

 

Phim về Thánh Augustinô sẽ chính thức công chiếu trên màn ảnh rộng tại Arlington (Texas) vào tuần tới. Phim của Ignatius Press, hy vọng sẽ chiếu trên khắp Hoa Kỳ.

 

Bộ phim “Restless Heart: The Confessions of Augustine” (Trái tim không ngủ yên: Tự thuật của Thánh Augustinô) được giới thiệu ngày 29-8-2012 tại Catholic Marketing Network Trade Show, tổ chức ở Arlington (Texas). Nhiều vị lãnh đạo tôn giáo và các nhà bán lẻ đã có dịp xem phim này lần đầu tiên.

 

Bộ phim này có tên gốc là “Thánh Augustinô” (St. Augustine), của đạo diễn nổi tiếng Christian Duguay người Canada, với các nhà đồng sản xuất của Ý, Đức và Ba Lan. Chương trình truyền hình gồm 2 phần đã được chiếu tại Ý năm 2009.

 

Thánh Augustinô là một trong các tiến sĩ đầu tiên của Giáo hội. Chuyện đời ngài rất lý thú, những bài viết của ngài vẫn được tôn trọng cho tới ngày nay.

 

Phim này trích nhiều từ cuốn “Tự Thuật” của thánh nhân. Khác với nhiều phim về các thánh khác, phim này không ngại kể về thời kỳ của cuộc đời thánh nhân sống tội lỗi và xung khắc với người mẹ là Thánh Monica.

 

Thánh Augustinô sinh ở Bắc Phi, sống theo chủ nghĩa khoái lạc (hedonistic lifestyle) và bỏ ngoài tai những lời khuyên của người mẹ thánh thiện, sau gần 30 năm mới trở lại và được rửa tội tại Milan Ý), lúc 33 tuổi. Cuốn “Tự Thuật” (Confessions) và “Thành phố của Thiên Chúa” (City of God) là 2 cuốn sách kinh điển quan trọng của Giáo hội. Thánh Augustinô được ĐGH Boniface VIII tôn vinh là Tiến sĩ Giáo hội năm 1295.

 

Phim này giúp khán giả hiểu thêm nhiều về các mối quan hệ và nền văn hóa đã tạo nên một Augustinô tài năng và hoài bão, tội lỗi và chiến đấu, đặc biệt là thánh thiện sau khi trở lại. Phim này cũng đã được ĐGH Bênêđictô XVI khen ngợi: “Hy vọng rằng nhiều người xem phim này cũng sẽ tìm được Chân lý và Tình yêu”.

 

ĐGH Bênêđictô XVI nói rằng khi còn là linh mục trẻ hồi năm 1953, ngài cũng đã viết luận án tiến sĩ về giáo huấn của Thánh Augustinô, và tông thư đầu tiên của ngài trên cương vị giáo hoàng là tông thư Deus Caritas Est (Thiên Chúa là Tình yêu) cũng có nhiều tư tưởng của Thánh Augustinô.

 

Phim này sẽ được chiếu tại Trung tâm Bác ái Công giáo Colorado và Giáo phận Colorado để gây quỹ. Phim này cũng sẽ được chiếu tại Rochester, N.Y., và Cincinnati’s Parkland Theater ngày 28-8, ngày 1-9 và ngày 2-9, đồng thời được chiếu tại Washington ngày 29-8 và Nhà thờ Thánh Đa-minh ở San Antonio (Texas) ngày 1-9. Để biết thêm thông tin, có thể truy cập RestlessHeartFilm.com.

 

Giáo hội đang chuẩn bị khai mạc Năm Đức Tin, thiết nghĩ bộ phim này hữu ích trong việc giúp củng cố đức tin của chúng ta.

 

TRẦM THIÊN THU

Maria Thanh Mai gởi

SỨC MẠNH CỦA SỰ CẦU NGUYỆN

SỨC MẠNH CỦA SỰ CẦU NGUYỆN

 

Cầu nguyện là một quá trình truyền thông cho phép ta được thưa chuyện và nghe được tiếng nói của Thiên Chúa- một đấng mà chúng ta tin tưởng một cách tuyệt đối rằng Ngài luôn quan tâm và yêu thương ta hết mực. Nhờ cầu nguyện, thánh Monica trở thành một mẫu mực của người chuyển đại họa thành đại phước. Thánh đã sử dụng một phương thức bình thường: kiên trì cầu nguyện vào lòng cậy trông vào Thiên Chúa đến những mức tới hạn, mà số đông chúng ta không thể tưởng tượng hết. Và sự nhẫn nhục của vị Thánh được chọn làm bổn mạng của các bà mẹ Công giáo này làm chúng ta phải kính phục.

Những gợi ý về cầu nguyện

Cầu nguyện ở mức đơn giản chỉ là một cuộc độc thoại của chúng ta với Thiên Chúa.  Cầu nguyện ở mức cao hơn là một cuộc đối thoại, như một cuộc trao đổi thân mật giữa 02 đối tượng trong mạng truyền thông không dây, mà trái tim đóng vai trò như các thiết bị thu phát.  Chúng ta cần mở rộng trái tim và các giác quan để phát ra và đón nhận tiếng đáp trả của Thiên Chúa trực tiếp hay gián tiếp qua người khác. Thánh Gioan Vianney đã nói “khi cầu nguyện tâm linh, hãy nhắm mắt, ngậm miệng và mở rộng trái tim”. Mẫu nhỏ trong câu chuyện sau cho chúng ta biết sự phản ứng của Thiên Chúa một cách gián tiếp sau khi thánh Monica đã cầu nguyện liên lỉ, thông qua một giám mục:

Thấy người con đầu quá khó để từ bỏ cuộc sống tội lỗi, thánh Monica nhờ sự can thiệp của một giám mục. Song vị giám mục đã thất bại và chỉ biết khuyên Monica tiếp tục cầu nguyện cho con trai. Ông bảo “Không thể nào một người con được bao bọc bởi quá nhiều nước mắt của người mẹ lại có thể bị hư mất”. Nhờ vậy, Monica càng kiên tâm cầu nguyện cho con trai-sau này trở thành vị thánh nổi tiếng Augustino. 

Khi nói chuyện với Thiên Chúa. Mỗi lời cầu có cấu trúc tổng thể gồm 02 vế. Vế đầu là ngợi ca, cảm tạ các hồng ân mà chúng ta đón nhận. Vế sau là trình bày các nhu cầu vô hình lẫn hữu hình tốt đẹp khác của bản thân. Hai kinh phổ biến nhất của đạo Công giáo, Lạy Cha, Kính mừng là điển hình cho lời cầu nguyện hoàn hảo. Lời cầu không nhất thiết phải dài, nhưng rất cần chân thành, sâu lắng, tin tưởng và xuất phát từ con tim. Trong Matthêu 6, 7 Chúa bảo rằng “Khi cầu nguyện, anh em đừng lải nhải như dân ngoại; họ nghĩ rằng, cứ nói nhiều là được nhận lời. Đừng bắt chước họ, vì Cha anh em đã biết rõ anh em cần gì, trước khi anh em cầu xin”.

Sau khi cầu nguyện chúng ta đừng nghĩ rằng mình sẽ nhận lời. Thiên Chúa sử dùng thất bại như là một thử thách, Ngài không chấp nhận sự bỏ cuộc. Thánh sử Luca 18, 1 có viết về Chúa Giêsu kể cho các môn đệ dụ ngôn người quan tòa bất chính và bà góa quấy rầy, để dạy các ông cầu nguyện luôn, không được nản chí.

Cũng giống như các cuộc giao tiếp khác, chúng ta có thể không biết cách để làm hợp ý người đối thoại. Mẹ Teresa Calcuta dạy rằng, chúng ta cần tìm nơi tĩnh lặng và cũng để cả tâm hồn tĩnh lặng- không ghen tuông, giận hờn, đố kị với những người xung quanh. Thánh Phaolô trong (1, Tm 2, 8) nói thêm “Vậy tôi muốn rằng, người đàn ông hãy cầu nguyện bất cứ nơi đâu, tay giơ lên trời, tâm hồn thánh thiện, không giận hờn không xung khắc”. Nhờ trạng thái yên lặng, chúng ta có thể chạm đến những phần thuộc phần tâm linh-phần hồn. Trong giây phút này, chúng ta đang chờ đón cuộc gặp gở thiêng liêng mà Thiên Chúa là đối tượng duy nhất với niềm hạnh phúc và mến yêu tối đa.

Sự quan trọng của cầu nguyện

Mỗi chúng ta, trong sinh hoạt hàng ngày về đời sống tâm linh bao gồm các hoạt động: đọc kinh, cầu nguyện, suy niệm, tham dự thánh lễ và làm các việc lành khác. Trong đó cầu nguyện và suy niệm là 02 công cụ quan trọng để làm đức tin tăng trưởng, nó chính là phần rễ cho đời sống tâm linh-cái quyết định sức sống của một cây trồng. Nhờ rễ, cây đươc hấp thụ nước và các chất dinh dưỡng vô cơ. Trong lễ đại hội Quốc tế giới trẻ 2011 tại Madrid, Đức Giáo hoàng  Benedict XV nói “Nếu các bạn đâm rễ sâu trong lòng tin, các bạn sẽ gặp được suối nguồn của niềm vui, cả khi có phải sống giữa các trái ý và khó khăn.

Đức tin không đối nghịch với các lý tưởng cao đẹp nhất của các bạn, trái lại nó nâng cao và hoàn thiện chúng”.

Cố Hồng y Phanxicô Nguyễn Văn Thuận nhấn mạnh: “Hoạt động không cầu nguyện là vô ích trước mặt Chúa. Cầu nguyện phải là ưu tiên hàng đầu: thứ nhất cầu nguyện, thứ hai hy sinh, thứ ba mới đến hoạt động”. Cầu nguyện và suy niệm giúp chúng ta gia tăng sức mạnh và vững chãi trong những hy sinh và họat động khác, cũng như rễ cây càng phát triển thì nhận càng nhiều dưỡng chất, nguồn nước và làm cây trở nên chắc chắn nhờ bám chặt vào đất.

Thánh Monica thật có phước khi sử dụng phương thuốc cầu nguyện để hóan cải và canh tân cho chồng, con vì ngài đã tin rằng “Anh em cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ cửa thì sẽ mở ra cho. Vì hễ ai xin thì nhận được, ai tìm thì sẽ thấy, ai gõ cửa thì sẽ mở ra cho” (Mt 7, 7). Hơn nữa trong suốt cuộc đời đau khổ, đầy nước mắt, chính Thánh hưởng được phúc thứ 03 trong 08 mối phúc: “Phúc cho ai sầu khổ, vì họ sẽ được Thiên Chúa ủi an” (Mt 5, 5).

Còn chúng ta trước khi cầu nguyện, nên nhớ lấy câu “Thầy nói với các con: tất cả những gì các con cầu xin, các con cứ tin là mình đã được rồi , thì sẽ được như ý” (Mc 11, 24).

 Maria Thanh Mai gởi

Thánh Monica

 Thánh Monica
(322?-387)

                                                                                               27 Tháng Tám

 

Hoàn cảnh cuộc đời Thánh Monica đã có thể biến ngài thành một người vợ hay mè nheo, một nàng dâu nhiều cay đắng và một người mẹ tuyệt vọng, tuy nhiên ngài đã không chịu thua bất cứ cám dỗ nào. Mặc dù ngài là một Kitô Hữu, cha mẹ ngài đã gả cho một người ngoại giáo, ông Patricius, là người sống trong cùng tỉnh Tagaste ở Bắc Phi Châu. Patricius là người tốt nhưng ông vô cùng nóng nẩy và phóng túng. Ngoài ra Thánh Monica còn phải chịu đựng bà mẹ chồng hay gắt gỏng. Ông Patricius thường rầy la vợ vì bà hay thương người. Nhưng sự cầu nguyện và gương mẫu đời sống của Thánh Monica sau cùng đã chinh phục được người chồng cũng như mẹ chồng, ngài đã đưa họ trở về với đức tin Kitô Giáo. Ông Patricius chết năm 371, sau khi rửa tội được một năm để lại người vợ goá và ba con nhỏ.

Người con cả, Augustine Hippo, nổi tiếng nhất (sau này là thánh). Vào lúc cha chết, Augustine mới 17 tuổi và là sinh viên trường hùng biện ở Carthage. Thánh Monica thật đau buồn khi thấy con mình đi theo tà thuyết Manikê và sống cuộc đời phóng đãng. Có những lúc Thánh Monica không cho con được ăn ngủ ở trong nhà. Và rồi một đêm kia, ngài được thị kiến và được đảm bảo là Augustine sẽ trở về với đức tin. Từ đó trở đi ngài sống gần với con hơn để ăn chay và cầu nguyện cho con. Quả vậy, ngài ở gần đến nỗi Augustine cũng phải bực mình.

Khi 29 tuổi, Augustine quyết định đi Rôma để dạy về hùng biện. Một tối kia, Augustine nói với mẹ là anh ra bến tầu để từ giã bạn bè. Nhưng, anh lại lên tầu đi Rôma. Thánh Monica thật đau lòng khi biết mình bị lừa, nhưng ngài nhất định đi theo. Vừa đến Rôma thì ngài lại biết là Augustine đã đi Milan. Mặc dù việc di chuyển khó khăn, Thánh Monica vẫn nhất định bám sát.

Ở đây, Augustine bị ảnh hưởng bởi một giám mục, Ðức Ambrôsiô, là vị linh hướng sau này của Thánh Monica. Augustine chấp nhận mọi lời khuyên của đức giám mục và tập được đức khiêm tốn đến độ ngài có thể từ bỏ được nhiều tật xấu. Thánh Monica trở thành người lãnh đạo của nhóm phụ nữ đạo đức ở Milan cũng như khi ở Tagaste.

Ngài tiếp tục cầu nguyện cho Augustine trong những năm anh theo học với đức giám mục. Vào Phục Sinh năm 387, Ðức Ambrôsiô rửa tội cho Augustine và một vài người bạn của anh. Không lâu sau đó, cả nhóm đi Phi Châu. Lúc ấy, Thánh Monica biết cuộc đời ngài sắp chấm dứt, ngài nói với Augustine, “Con ơi, không có gì trên trần gian này làm mẹ vui lòng cả. Mẹ không biết có gì còn phải thi hành và tại sao mẹ lại ở đây, vì mọi hy vọng của mẹ ở trần gian này đều đã được hoàn tất.” Sau đó không lâu ngài bị bệnh và chịu đau đớn trong chín ngày trước khi từ trần.

Tất cả những gì chúng ta biết về Thánh Monica là trong tác phẩm Tự Thú của Thánh Augustine.

Lời Bàn

Trong xã hội ngày nay, mọi thứ đều sẵn sàng, từ mì ăn liền, cà phê uống liền, đến việc tiêu xài liền (instant-credit) khiến chúng ta không còn kiên nhẫn. Tương tự như thế, chúng ta cũng muốn lời cầu xin của chúng ta được đáp trả ngay lập tức. Thánh Monica là gương mẫu của sự kiên nhẫn. Những năm trường cầu nguyện, cộng với đức tính kiên cường và kỷ luật, sau cùng đã đưa đến sự trở lại của người chồng nóng nẩy, người mẹ chồng ưa gắt gỏng và người con thông minh nhưng bướng bỉnh, là Augustine.

Lời Trích

Khi Thánh Monica từ Bắc Phi Châu sang Milan, ngài nghĩ ra những thói quen đạo đức mới cho ngài và cho những người thời ấy, tỉ như ăn chay ngày thứ Bảy, là điều không phổ thông ở Milan. Ngài hỏi Thánh Ambrôsiô là nên giữ những thói quen nào. Câu trả lời nổi tiếng của Thánh Ambrôsiô là: “Khi cha ở đây, cha không giữ chay ngày thứ Bảy, nhưng khi ở Rôma thì cha sẽ giữ chay; hãy làm theo những phong tục và huấn thị của Giáo Hội như đã được ban bố đặc biệt cho địa phương mà con đang sống.”

DẠY ẨN SĨ ÐỌC KINH

DẠY ẨN SĨ ÐỌC KINH

 Inline image 1

Truyện cổ nước Nga thuật lại câu chuyện của một học giả thông thái và một vị ẩn sĩ khiêm tốn như sau:

Một học giả nọ đi dạo theo bờ hồ, bỗng nghe có tiếng cầu kinh của một ẩn sĩ vang lại từ một hòn đảo giữa hồ.  Ông lắng tai nghe một lúc rồi tiếp tục đi.  Nhưng một lát sau ông cảm thấy khó chịu.  Bởi vì lời kinh của vị ẩn sĩ hoàn toàn sai lạc.  Từ nội dung cho đến cách phát âm, tất cả đều sai.

Học giả liền thuê một chiếc ghe và chèo sang hòn đảo, cốt chỉ để nhắc nhở cho vị ẩn sĩ thấy được những sai lầm của ông trong lúc cầu kinh.  Học giả nói với vị ẩn sĩ:

–          Này ông bạn, tôi nghĩ là ông bạn sẽ không chấp nhất khi tôi làm việc này cho ông bạn.

Nói xong, ông đọc một thôi những lời cầu kinh, không sai một chữ, một phẩy, và dĩ nhiên với cách phát âm điêu luyện của một nhà học giả.

Trước khi trở lại ghe, học giả còn giải thích thêm:

–          Tôi chèo ghe đến đây cốt để giúp bạn đọc kinh cho đúng cách mà thôi.

Vị ẩn sĩ cám ơn nhà học giả rối rít.  Nhưng khi học giả vừa chèo ghe ra đến giữa hồ, ông bỗng nghe có tiếng động trên mặt nước.  Quay nhìn lại, ông thấy vị ẩn sĩ đang đi trên mặt nước tiến về phía ông.  Và đứng trên mặt nước, vị ẩn sĩ nói với nhà học giả:

–          Xin ngài vui lòng chỉ dạy cho tôi một lần nữa.  Vừa mới nghe xong lời kinh tôi đã quên cả rồi.

*******************************

Thiên Chúa là Cha vô cùng yêu thương của mọi người.  Ngài biết ta cần gì trước khi ta kêu xin.  Ðiều làm cho Ngài ưa thích chưa hẳn là những lời hay ý đẹp của con người, hay những câu kinh đọc đúng cung đúng cách.

Ðiều mà Thiên Chúa hài lòng hơn cả chính là một tâm hồn đơn sơ, khiêm tốn, một tâm tình cậy trông và phó thác trọn vẹn cho tình thương của Ngài. 

Vị ẩn sĩ trong câu chuyện trên đây hẳn đã hiểu được bí quyết ấy.  Lời cầu kinh của ông không phải là để phô diễn những kiến thức uyên bác, mà chính là tâm tình tin tưởng phó thác của ông.  Ðó là sức mạnh có thể khiến ông di chuyển trên mặt nước.

*******************************

Lạy Chúa Giêsu Kitô xin dạy con biết cách cầu nguyện, xin dạy con biết cách nói chuyện với Chúa trong đời sống thường nhật.  Con có thể không thuộc câu kinh, bản nhạc, không kiến thức về giáo lý, về Thiên Chúa Ba Ngôi nhưng con vẫn có thể thân thưa với Chúa từ đáy tâm hồn con bằng ngôn ngữ hạn hẹp của chính mình, bằng những lời nói đơn sơ chân thành từ tấm lòng và bằng tấm lòng tin tưởng tuyệt đối nơi Người Cha Yêu Dấu.  Nhưng làm sao con có thể cầu nguyện khi con không dành thì giờ cho Chúa mỗi ngày?  Xin giúp con biết thu xếp một khoảng riêng cho Giêsu giữa những tháng ngày bận rộn tối tăm mặt mũi. 

R. Veritas

 Chị Nguyễn Kim Bằng gởi

Thánh Simon PHAN ĐẮC HÒA, Y sĩ

Thánh Simon PHAN ĐẮC HÒA, Y sĩ

(1774 – 1840)

Lễ kính: ngày 12 tháng 12

                                                                                     Lm. Đào Trung Hiệu, OP

 

Gương mẫu người tân tòng

Phan Đắc Hòa sinh trong một gia đình ngoại giáo tại làng Mai Vĩnh, xã Mông thôn, tỉnh Thừa Thiên năm 1774. Thuở bé, cậu tên là Thu. Cha mất sớm, mẹ đưa chị em Hòa đến tá túc và làm công ở làng Lưỡng Kim, sau đó đến giúp một gia đình Công Giáo ở làng Nhu Lý, tỉnh Quảng Trị.

Sống với người Công Giáo, nhìn thấy những gương sáng và được nghe nói về những điều cao đẹp của đạo mới này, cậu Hòa đem lòng cảm mến và xin phép mẹ cho mình theo học lớp giáo lý và gia nhập đạo. Khi ấy cậu mới chỉ là một thiếu niên 12 tuổi, cậu đã chọn thánh Simon làm bổn mạng. Yêu mến Chúa Kitô, cậu bé không dừng ở đó, mà còn muốn theo sát, phục vụ Chúa Kitô trong đời tu trì. Cậu đã vào chủng viện một thời gian, nhưng qua các cha bề trên, Simon Hòa nhận ra ý Chúa muốn cậu sống và làm chứng tá về Ngài ngay giữa lòng đời.

Tuy không đạt được ước mơ, Simon Hòa vẫn thường xuyên liên lạc với chủng viện và các cha Bề trên. Sau khi lập gia đình và trở thành cha của 12 người con, Simon Hòa cố gắng chu toàn trách nhiệm nuôi dưỡng và giáo dục con cái, xứng đáng là ngày gương sáng tiêu biểu cho mọi gia đình trong làng. Sống đời giáo dân, ông Hòa hành nghề y sĩ: “Lương y như từ mẫu”. Nhiều người được ông chữa lành bệnh, nên dân chúng đồn đãi với nhau đến với ông rất đông. Nhờ đó ông có nhiều cơ hội giúp đỡ người nghèo khó. Nếu dư dả chút ít, ông liền đem đóng góp vào công việc từ thiện, xây cất thánh đường.

Với đời sống đạo đức, ông lang y Hòa được đề cử làm Trùm họ. Trước mặt mọi người, ông đã thực thi chức năng một cách tốt đẹp: Ai ăn ở bất xứng, biếng trễ, ông tìm cách sửa chữa, hoặc răn đe dỗ dành, hoặc giải thích khuyên can. Ai cờ bạc rượu chè, ông nghiêm khắc sửa dạy. Thế nhưng ai cũng yêu mến chứ không oán ghét gì ông, bởi họ biết ông làm thế vì thương yêu họ và vì trách nhiệm, chứ không phải vì tư lợi. Ngoài ra, ông Simon Hòa còn sẵn sàng bênh vực, giúp đỡ người già nua tuổi tác, yếu đuối, các cô nhi quả phụ. Ông thấy thấm thía ý nghĩa của phúc thật tám mối, nhận ra hình ảnh Chúa Kitô nơi người khác, nhất là người nghèo khó. Có lần ông đích thân cúi xuống vực một người nằm kiệt sức bên đường, vác lên vai, đưa đến trạm canh, rồi cho người đem cơm nước để nuôi kẻ bất hạnh.

Dư thừa can đảm

Khi vua Minh mạng ra chiếu chỉ cấm đạo, Ông Trùm lang Hòa có dịp bày tỏ lòng can đảm của mình: ông sẵn sàng cho các linh mục ngoại quốc ẩn náu trong nhà, mặc dù biết rằng việc chứa chấp này đe dọa đến tính mạng của mình, cũng như của gia đình. Đức cha Cuénot Thể cũng trọ một thời gian tại nhà ông. Ông nhiệt thành lo liệu sắp xếp cho các linh mục có nơi trú ẩn. Nếu nhà mình không ổn, ông gởi các nhà ở nơi tương đối bình an hơn. Tối ngày 13.4.1840, khi đang trên thuyền Đức cha De la Motte Y đến làng Hòa Ninh, thuyền ông bị các quan phát hiện đuổi theo. Quân lính bắt ông và Đức cha Y đưa về huyện Dương Xuân, rồi giải về Qủang Trị giam hai tháng, và cuối cùng điệu về Huế.

Suốt thời gian bị giam, lương y Hòa không những đã giúp đỡ anh em bạn tù bằng việc bốc thuốc chữa bệnh, ông còn khuyến khích họ trung thành với Chúa đến cùng. Cũng chịu khổ hình như mọi tù nhân, có khi còn hơn nữa, nhưng ông Simon vẫn kiên vững niềm tin. Các lần đòn đánh với vô số vết thương không làm ông nản chí, trái lại, ông còn lấy làm vui thỏa vì được hiệp thông với Đức Kitô chịu đóng đinh.

Khổ hình và vinh phúc

Ông Simon Hòa bị tra khảo đến 20 lần, có lẽ vì các quan tưởng dùng bạo lực, ông sẽ phải cung khai tung tích các vị thừa sai, nhưng “dã tràng xe cát biển đông”. Họ đã không đạt được ý nguyện, lại còn phải nghe ông thuyết giảng về chân lý đạo. Thế là họ trả đũa bằng đánh đập, bằng kìm kẹp và tra tấn dã man, cho tới khi người thày thuốc từ bi gục ngã không thể gượng dậy nổi. Nhưng niềm tin của lương y sĩ Hòa không thể ngã gục. Ông can đảm chịu mọi hình khổ đớn đau. Hơn nữa, ông quyết tâm hiến dâng mạng sống mình để làm chứng về đạo, dù phải hy sinh những điều thân thương qúi báu nhất đời. Khi các con đến thăm, ông khuyên nhủ: “Cha yêu thương các con và hắng chăm sóc các con. Nhưng cha phải yêu Chúa nhiều hơn, các con hãy vui lòng vâng ý Chúa, đừng buồn làm chi. Các con ở với mẹ, thương yêu nhau, và chăm sóc việc nhà. Từ đây cha không thể lo cho các con được nữa. Chúa muốn cha chịu khổ, cha xin vâng trọn”.

Quả thật nỗi lòng y sĩ Simon Hòa lúc đó: “Yêu kính Chúa, nặng tình nhà, Trăm cay nghìn đắng, vẫn cam một lòng”.

Năm 1840, vua Minh Mạng châu phê án xử trảm quyết, bêu đầu ba ngày. Khi điệu ông Hòa đi xử, các quan còn cố bắt ông quá khóa, dụ dỗ ông bỏ đạo, hay ít là cầm lấy ảnh quẳng đi để ông được tha, nhưng ông vẫn một lòng kiên quyết tuyên xưng niềm tin của mình.

Vị lương y làng Nhu Lý đã vượt qua thử thách cuối cùng. Ông đã toàn thắng trong niềm tín thác vào Thiên Chúa ngày 10.12.1840 tại Cổng Chém, gần chợ An Hòa.

Đức Giáo Hoàng Lêo XIII đã suy tôn y sĩ Simon Phan Đắc Hòa lên bậc Chân Phước ngày 27.5.1900. Ngày 19.06.1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên bậc Hiển thánh.

Lm. Đào Trung Hiệu, OP

Chị Nguyễn Kim Bằng gởi

Cuộc sống kì diệu của cô gái 2 đầu…

     Cuộc sống kì diệu của cô gái 2 đầu…  

Hai con người, hai cái đầu nhưng “sử dụng” chung một cơ thể, Abigail và Brittany Hensel vẫn khỏe mạnh suốt 22 năm qua và có cuộc sống thực sự năng động.

Đây chính là trường hợp người có 2 đầu nổi tiếng nhất thế giới. Sinh ra với cùng một cơ thể nhưng họ có 2 tâm hồn khác nhau.

Abigail Loraine Hensel và Brittany Lee Hensel sinh ngày 7/3/1990

Abigail Loraine Hensel và Brittany Lee Hensel sinh ngày 7/3/1990 tại tiểu bang Minnesota (Mỹ). Đầu của Abigail nằm bên phải còn Brittany nằm ở bên trái. Hai chị em có 2 xương sống và nối với nhau ở khung chậu, họ có 2 gan, 2 trái tim, 3 quả thận, 2 dạ dày, 4 phổi, và 2 cánh tay (một cánh tay phát triển không hoàn toàn ở giữa cơ thể đã bị cắt bỏ khi họ còn nhỏ). Khi sinh ra, các bác sĩ chẩn đoán họ không thể sống nổi qua đêm nhưng hai cô gái đáng yêu này đã sống khỏe mạnh và vui tươi suốt 22 năm qua. Một chương trình truyền hình thực tế về Abigail và Brittany Hensel học tại đại học Bethel, cuộc sống và công việc hàng ngày, những chuyến du lịch châu Âu cùng bạn bè của họ, sẽ được phát sóng vào những ngày gần đây.

Tuy gần như cùng chung một cơ thể nhưng giống như nhiều cặp song sinh khác Abigail và Brittany có tính cách và sở thích rất khác nhau.

Abigail thì nóng tính, bướng bỉnh và thích nước cam cho bữa sáng, trong khi đó Brittany lại là người hay pha trò trong gia đình và chỉ dùng sữa cho bữa ăn đầu ngày. Khác nhau khá nhiều trong tính cách, nhưng Abigail và Brittany lại phối hợp khá ăn ý trong cuộc sống hằng ngày. Họ khiến mọi người kinh ngạc trong việc phối hợp hoàn hảo khi chơi piano, Abigail có nhiệm vụ điều khiển tay bên phải và Brittany chơi bằng tay trái. Hai cô gái cũng rất thích và thường xuyên chơi các môn thể thao như bowling, bóng chuyền, đi xe đạp và bơi lội.

Vào sinh nhật lần thứ 16, Abigail và Brittany đã ngoạn mục vượt qua cuộc thi lấy bằng lái xe. Abigail phụ trách chân ga, chân phanh, chân côn và cần số, còn Brittany thì lo về đèn xi nhan và đèn chiếu sáng, họ cùng nhau điều khiển vô lăng Hai cô gái đáng yêu tiết lộ: “Chúng tôi là hai người khác nhau vì vậy luôn phải thường xuyên trao đổi, bàn luận để có sự thống nhất”. Không những thế, hai cô gái này còn rất biết chăm sóc nhau khi ốm đau. Brittany rất dễ bị cảm lạnh và đã hai lần bị viêm phổi. Mỗi lần như vậy Abigail đều cùng Brittany vượt qua.

                                       Dưới đây là chùm ảnh về cuộc sống kỳ lạ của hai chị em gái này:

      Mô hình cấu tạo cơ thể của hai chị em chung đầu

Mẹ âu yếm hai con gái

   Cùng nhau nhận bằng tốt nghiệp cử nhân

Cùng nhau lái ô tô

  Và cùng đi xe máy

Cùng đi học, sải bước tự tin

   Phơi nắng, hưởng thụ cuộc sống

     Giúp tạo kiểu tóc để chuẩn bị đi chơi

(Theo NLĐ)