CÔ GÁI QUA ĐỜI HỒI NĂM 1990 SẼ ĐƯỢC PHONG CHÂN PHƯỚC VÀO THỨ BẢY TUẦN NÀY

 CÔ GÁI QUA ĐỜI HỒI NĂM 1990 SẼ ĐƯỢC PHONG CHÂN PHƯỚC VÀO THỨ BẢY TUẦN NÀY


Chiara Badano, thành viên của Phong trào Focolare

Một trận quần vợt năm 17 tuổi là biến cố thay đổi toàn bộ cuộc đời của Chiara Badano (1971-1990). Cô bắt đầu chịu đựng những cơn đau khủng khiếp. Và đó là sự phát khởi của một căn bệnh dẫn đến cái chết của cô chỉ ít lâu sau đó.

“Lạy Chúa Giêsu, nếu Chúa muốn sự việc thế này, thì con đây, con cũng muốn!” Cô gái ấy đã lặp đi lặp lại lời này trong suốt thời gian ‘khổ nạn’ của mình. 

Chiara là thành viên của Focolare, một phong trào do Chiara Lubich thành lập hồi năm 1943. Cô sẽ được phong Chân phước vào lúc 16 giờ ngày thứ Bảy tuần này, 25-9, tại Divino Amore, một Đền Thánh ở Rôma. Thánh Lễ sẽ do Đức Hồng y Angelo Amato, Tổng trưởng Thánh Bộ Phong Thánh, thay mặt Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI, chủ sự.

Cùng ngày hôm ấy, lúc 20 giờ 30, hàng ngàn thành viên Focolare sẽ tập trung tại Hội trường Phaolô VI của Vatican để mừng sự kiện lần đầu tiên một thành viên của Phong trào mình được tôn vinh lên bàn thờ. Và sáng Chúa Nhật, lúc 10 giờ 30, Đức Hồng y Tarcisio Bertone, Quốc Vụ Khanh Toà Thánh, sẽ chủ sự một Thánh lễ Tạ ơn tại Vương cung Thánh đường Thánh Phaolô Ngoại Thành.

Chiara: niềm vui của tổ ấm

Sau 11 năm kết hôn, đôi bạn Ruggero và Maria Teresa Badano được thấy giấc mơ của mình thành hiện thực, với sự chào đời của đứa con gái đầu lòng và duy nhất: bé Chiara, sinh ngày 29-10-1971 tại Sassello, Liguria.

“Chiara không chỉ là con gái của chúng tôi, mà trước hết đó là con gái của Thiên Chúa. Với tinh thần này, chúng tôi giáo dục con mình trong sự tôn trọng tự do của con” – người mẹ chia sẻ chứng từ trong một video rất có thể được trình chiếu chính thức trong Lễ phong Chân phước (x. http://www.chiaralucebadano.it/).

Năm 1981, lên 10 tuổi, Chiara biết Phong trào Focolare qua một người bạn là Chicca, người đã mời cô bé tham dự vào nhóm GEN (Thế Hệ Mới) của Phong trào. “Chiara luôn dành cho Chúa Giêsu mối ưu tiên hàng đầu. Cô bé gọi Chúa Giêsu là ‘bạn đời của con’” – theo lời thổ lộ với Zenit của Maria Grazia Magrini, thỉnh nguyện viên trong vụ án phong Chân phước cho Chiara Badano.

Chiara là một cô bé thích múa, hát, chơi quần vợt và trượt băng. Cô thích leo núi, đi biển, và “luôn tìm cách dự Thánh lễ mỗi ngày”, Maria Grazia chia sẻ.

Rồi hôm ấy, khi đang chơi quần vợt, cô bỗng nghe đau nhói khủng khiếp. “Con bé trở về nhà, xanh mét, vất vả bước lên cầu thang”, người mẹ kể. “Sao thế, Chiara?” – mẹ hỏi. “Dạ, con đang chơi, bỗng nhiên đau nhói chỗ bả vai, khiến con làm rơi cả vợt” – cô bé trả lời mẹ.

Cơn đau tiếp tục gia tăng. Và kết quả chụp cắt lớp làm mọi người bủn rủn: Chiara bị chứng sa-côm xương. Người mẹ vẫn còn nhớ rất rõ hình ảnh con gái lúc về đến nhà sau cuộc hoá trị liệu đầu tiên. Con bé cố nín không nói gì. “Tôi nhìn con gái và thấy trên khuôn mặt con mình tất cả cuộc đấu tranh nội tâm mà con bé đang trải qua để nói ‘xin vâng’ với Chúa Giêsu”. Sau 25 phút, Chiara thưa với mẹ: “Mẹ à, giờ đây con có thể nói được rồi”.

Chiara trải qua một cuộc phẫu thuật nhưng chẳng có kết quả gì. Cô gái không còn có thể sử dụng được đôi chân của mình nữa. Tuy nhiên – người thỉnh nguyện vụ phong Chân phước cho biết – cô gái trẻ yêu thể thao này, dù giữa cơn đau đớn, vẫn thốt lên: “Nếu phải chọn lựa hoặc được bước đi trên mặt đất này hoặc được lên thiên đàng, tôi không do dự chọn thiên đàng”.

Đó cũng là thời gian cô đặc biệt thắt chặt tình thân với Chiara Lubich, sáng lập viên của Focolare, người vẫn thường gọi cô là Chiara Badano “Ánh Sáng” .

Những tháng ngày chịu đau đớn ấy đã giúp Chiara sửa soạn cho cuộc gặp gỡ với Chúa Giêsu. “Có lẽ những khoảnh khắc đẹp nhất chính là mùa hè cuối cùng của bạn ấy, giai đoạn mà bạn ấy dường như bất động trên giường” – theo lời chia sẻ của Chicca, bạn thân Chiara.

“Không hề khóc, cũng không hề than vãn, con bé chỉ nhìn ngắm hình ảnh Chúa Giêsu đặt phía trên tủ thôi” – người mẹ kể.

Chicca kể rằng bạn Chiara muốn chuẩn bị đám tang của mình: nào là các bài sẽ được hát trong Thánh lễ, nào là trang phục, quan tài. “Tất cả đối với Chiara là một lễ mừng. Bạn ấy nói với tôi rằng bạn ấy muốn được an táng trong bộ đầm trắng, như một vị hôn thê đến gặp Chúa Giêsu”.

Điều cuối cùng Chiara dặn dò mẹ: “Khi mặc y phục cho con, xin mẹ lặp lại 3 lần câu này: ‘Chiara gặp Chúa Giêsu’, mẹ nhé!”

Và Chiara muốn rằng những đồ đạc hữu dụng của mình sẽ được trao tặng lại cho hai bạn trẻ. Cô qua đời ngày 7-10-1990, sau khi thốt lên với mẹ: “Con hạnh phúc lắm, vì con được về với Ngài”.  

Thiên Phong chuyển ngữ

Nguồn: dịch theo Un’adolescente morta nel 1990 sarà beatificata questo sabato – Chiara Badano, membro del Movimento dei Focolari, bài của Carmen Elena Villa trong Zenit.org, 21.9.2010

Tác giả Thiên Phong (chuyển ngữ)

nguồn: từ Maria Thanh Mai gởi

Thánh Jeanne d’Arc

  Thánh Jeanne d’Arc

    (1412 – 1431)     
   

   Thánh Jeanne d’Arc sinh trong một gia đình nông dân đạo đức người Pháp ở ngôi làng hẻo lánh Domremy, gần tỉnh Lorraine. Cô Jeanne không biết đọc và biết viết. Khi lên 13 hoặc 14 tuổi, cô được các cảm nghiệm siêu nhiên là nghe các tiếng nói mà cô nhận ra là của Tổng Lãnh Thiên Thần Micae, Thánh Catarina ở Siena, và Thánh Margaret.

     Lúc đầu việc thị kiến chỉ có tính cách riêng tư và tổng quát. Sau đó, vào tháng Năm 1428, các tiếng nói ấy bảo cô Jeanne đến với vua nước Pháp và giúp ông ta tái chiếm lại quốc gia. Vào lúc ấy, vua nước Anh đang tìm cách xâm chiếm nước Pháp, và Công Tước ở Burgundy, là đối thủ chính của vua Pháp cũng đứng về phe Anh để nuốt dần nước Pháp.

     Sau khi trải qua các chống đối từ hàng giáo sĩ và các quan trong triều, người thiếu nữ mười bảy tuổi đã được giao cho một đạo quân mà cờ hiệu của cô có hàng chữ “Giêsu-Maria” và dấu hiệu Thiên Chúa Ba Ngôi với hai thiên thần cầm hoa huệ hai bên. Trong bộ giáp trắng và với tinh thần hăng say, cô đã khích động tinh thần yêu nước của dân Pháp và đã giải thoát thành Orleans ngày 8 tháng Năm 1429. Sau đó là một chuỗi chiến thắng mà vua Pháp có thể tiến vào Rheims để đăng quang với sự hiện diện của cô ở bên cạnh.

     Vào tháng Năm 1430, khi cố gắng giải vây Compiegne, cô bị người Burgundi bắt và bán cho Anh, trong khi đó vua Charles và nước Pháp đã bỏ mặc cô trong tay quân địch. Sau nhiều tháng tù đầy, cô bị đưa ra tòa ở Rouen dưới quyền xét xử của Peter Cauchon, Ðức Giám Mục ở Beauvais, mà ông hy vọng rằng người Anh sẽ giúp ông lên chức tổng giám mục ở Rouen. Cô bị gạn hỏi về “các tiếng nói”, về đức tin và tại sao cô lại mặc y phục đàn ông.

     Không ai có thể chối bỏ sứ mạng và sự hy sinh của cô nên tòa tìm cách bôi nhọ tên tuổi của cô với các lời cáo buộc về tội lạc giáo và việc sử dụng ma thuật. Tuy nhiên, các câu trả lời thông minh và chân thật của cô chứng tỏ một đức tin vững mạnh và một tâm hồn thanh khiết đã khiến mọi người sửng sốt.

     Sau cùng, khi cô không chịu rút lại lời khẳng định rằng chính các thánh của Thiên Chúa đã ra lệnh cho cô phải thi hành những gì trong quá khứ, cô đã bị kết án tử hình về tội lạc giáo, tội sử dụng ma thuật và bị thiêu sống ngày 30 tháng Năm 1431, và hài cốt của cô bị quăng xuống sông Seine. Lúc ấy, cô mới mười chín tuổi.

     Vào năm 1456, người mẹ và hai em của cô kháng án xin mở lại hồ sơ, mà Ðức Giáo Hoàng Callistus III đã chấp thuận. Sau cuộc điều tra của giáo hội, cô được tuyên bố là vô tội đối với các lời cáo buộc trước đây. Cô được Ðức Giáo Hoàng Bênêđíc XV phong thánh năm 1920, và được tuyên xưng là quan thầy của nước Pháp năm 1922.

   Lời Bàn

     Cuộc đời Thánh Jeanne d’Arc tiêu biểu cho sự tương phản giữa tinh tuyền và thối nát quyền lực. Không giống như các thánh cổ điển, thánh nữ không dùng sự đạo đức để phục vụ giáo hội, nhưng để giải thoát quốc gia. Thánh nữ tượng trưng cho sự đạo đức chính trị, và sự can đảm của ngài khi đáp ứng “các tiếng mời gọi” là một gương mẫu thúc giục chúng ta lắng nghe tiếng gọi của lương tâm để hy sinh tranh đấu cho các nguyện vọng chính đáng.

    Lời Trích

     Trong một phiên toà, Thánh Jeanne d’Arc tuyên bố, “Về Ðức Kitô và Giáo Hội, tôi chỉ biết đó là một, và chúng ta đừng làm vấn đề thêm phức tạp.”

nguồn: từ Maria Thanh Mai gởi

Thánh Giáo Hoàng Grêgôriô VII

  Thánh Giáo Hoàng Grêgôriô VII

    (1020-1085)

   Thế kỷ thứ 10 và tiền bán thế kỷ 11 là những ngày u tối cho Giáo Hội, một phần là vì giáo triều chỉ là con cờ của một vài gia tộc ở Rôma. Vào năm 1049, mọi sự bắt đầu thay đổi khi Ðức Giáo Hoàng Lêô IX, một nhà cải cách, được bầu làm giáo hoàng. Ngài đem theo một đan sĩ trẻ tuổi tên là Hilderbrand đến Rôma làm cố vấn và đại diện đặc biệt cho ngài trong các sứ vụ quan trọng. Sau này, đan sĩ ấy trở thành Ðức Giáo Hoàng Grêgôriô VII.

    Thời ấy, ba tai họa quấy rối Giáo Hội là nạn buôn thần bán thánh (mua bán các chức vụ cũng như đồ vật thiêng liêng), nạn giáo sĩ kết hôn bất hợp pháp và nạn giáo dân tấn phong giáo sĩ (vua và các nhà quý tộc kiểm soát việc bài sai các viên chức Giáo Hội). Ðức Hildebrand đã trực tiếp chống đối các tệ đoan này qua lời khuyên nhủ đức giáo hoàng tiền nhiệm, cũng như trong thời ngài làm giáo hoàng (1073-1085).

    Các tông thư của Ðức Grêgôriô nhấn mạnh đến vai trò của vị Giám Mục Rôma là Ðại Diện Ðức Kitô, và là điểm hợp nhất hữu hình của Giáo Hội. Ngài nổi tiếng về cuộc tranh luận lâu dài với Thánh Ðế Rôma Henry IV về vấn đề ai là người kiểm soát việc tuyển chọn các giám mục và tu viện trưởng.

     Ðức Grêgôriô hăng hái chống trả mọi tấn công vào sự tự do của Giáo Hội. Vì lý do đó ngài phải đau khổ và sau cùng bị chết trong khi lưu đầy. Ngài nói, “Tôi yêu quý công bằng và ghét bỏ sự bất công; do đó tôi chết trong cảnh lưu đầy.” Ba mươi năm sau, Giáo Hội mới thắng được cuộc chiến đấu chống với nạn giáo dân tấn phong giáo sĩ.

   Lời Bàn

     Cuộc Canh Tân Grêgôriô, một sự kiện quan trọng trong lịch sử Giáo Hội, được mang tên của một người đã cố gắng giải thoát giáo triều và toàn thể Giáo Hội khỏi sự kiểm soát của nhà cầm quyền thế tục. Chống với loại chủ nghĩa dân tộc không lành mạnh ở một số vùng, Ðức Grêgôriô đã tái khẳng định sự hiệp nhất của toàn thể Giáo Hội dựa trên Ðức Kitô và được diễn đạt qua Ðức Giám Mục Rôma, đấng kế vị Thánh Phêrô.

   Lời Trích

     Ðức Grêgôriô như đã nói với thời đại chúng ta mà trong đó nhà cầm quyền dân sự hay tôn giáo trong nước đang có những đòi hỏi ngấm ngầm: “Trong bất cứ quốc gia nào, ngay cả người phụ nữ nghèo hèn nhất cũng được kết hôn một cách hợp pháp theo luật lệ quốc gia và theo sự lựa chọn của họ; nhưng, qua những khát vọng và thói tục xấu xa của người độc ác, Giáo Hội Thánh Thiện, là nàng dâu của Thiên Chúa và là mẹ của tất cả chúng ta, không được phép bám víu lấy người hôn phu ở trái đất này theo như luật lệ của Thiên Chúa và ý muốn của Giáo Hội” (Lời Kêu Gọi Tín Hữu).

 nguồn: từ Maria Thanh Mai gởi

Tài khoản Vô giá

Tài khoản Vô giá

 Có một ngân hàng, mỗi buổi sáng, cung cấp vào tài khoản của bạn 86.400 USD.

Số dư trong tài khoản không được phép chuyển từ ngày này qua ngày khác.

Mỗi buổi chiều, ngân hàng sẽ hủy bỏ hết số dư còn lại mà bạn đã không dùng hết trong ngày.

Bạn sẽ phải làm gì ?
Sử dụng hết số tiền đó, dĩ nhiên !Mỗi người trong chúng ta đều có một ngân hàng như vậy.

Tên ngân hàng là THỜI GIAN.

Mỗi buổi sáng, ngân hàng này cung cấp cho bạn 86.400 giây.
Vào mỗi buổi tối, ngân hàng sẽ xóa bỏ, coi như bạn mất,
thời gian mà bạn không đầu tư được vào các mục đích tốt.
Ngân hàng không cho phép bạn được để lại số dư trong tài khoản.
Cũng không cho phép bạn bội chi.
Mỗi ngày, ngân hàng lại mở một tài khoản mới cho bạn.
Mỗi tối nó lại hủy hết những gì còn lại trong ngày.
Nếu bạn không dùng được hết thời gian mà bạn có trong ngày,
người bị mất chính là bạn.
Không có chuyện quay lại ngày hôm qua.
Không có chuyện tiêu trước cho “ngày mai”
Bạn phải sống bằng những gì bạn có trong tài khoản ngày hôm nay.
Hãy đầu tư vào đấy bằng cách nào đó,
để bạn có thể nhận được nhiều sức khỏe, hạnh phúc, và thành công nhất !
Đồng hồ vẫn đang chạy.
Hãy cố thực hiện thật nhiều trong ngày hôm nay. 

 
 

Để biết được giá trị của MỘT NĂM,
hãy hỏi một học sinh bị ở lại một lớp.

 Để biết được giá trị của MỘT THÁNG,
hãy hỏi một người mẹ sinh con thiếu tháng.

Để biết được giá trị của MỘT TUẦN,
hãy hỏi biên tập viên của một tuần báo.

Để biết được giá trị của MỘT GIỜ,
hãy hỏi những người yêu nhau đang mong chờ được gặp nhau.

Để biết được giá trị của MỘT PHÚT,
hãy hỏi một người bị lỡ chuyến tàu.

Để biết được giá trị của MỘT GIÂY,
hãy hỏi một người vừa thoát khỏi một tai nạn.

 Để biết được giá trị của MỘT PHẦN NGÀN GIÂY,
hãy hỏi người vừa nhận được huy chương bạc trong kỳ thi Olympic.

 Hãy quý trọng từng giây phút mà bạn có !
Và hãy nên quý thời gian hơn nữa

Bởi vì bạn đang chia sẻ thời gian đó với ai đấy thật đặc biệt đối với bạn,
đủ đặc biệt để có thể chia sẻ thời gian của bạn.
Và hãy nhớ rằng thời gian chẳng chờ đợi ai cả.
Ngày hôm qua dã là lịch sử. Ngày mai là một bí ẩn.

Hôm nay là quà tặng. Cũng vì vậy mà nó được gọi là PRESENT !
(có nghĩa là HIỆN TẠI, mà cũng có nghĩa là QUÀ TẶNG).
Bạn bè thật sự là một loại nữ trang quý hiếm.
Họ khiến bạn mĩm cười và khuyến khích bạn thành công.
Họ lắng nghe bạn, họ chia sẻ với bạn những lời khen tặng,
và họ luôn muốn mở trái tim ra với chúng ta.
Hãy gởi những lời này đến với ai mà bạn xem như BẠN MÌNH,
Và nếu những dòng này lại trở về với bạn,
bạn ắt biết rằng bạn đang có một vòng tròn bạn hữu.

 Để có một tình mến Chúa hoàn hảo, cần phải liên lỉ đặt ý chí của mình dưới Thánh Ý của Thiên Chúa (S.Alphonse)

Thánh Germain

      Thánh Germain

    (496 – 576)

     Thánh Germain là một đan viện trưởng với đặc tính thương người nghèo và chia sẻ của cải cho họ đến độ các đan sĩ phải phản đối, nếu không đan viện sẽ không còn gì để sống.

     Ngài sinh ở Autun nước Pháp, theo học tại Avalon và Luzy dưới sự dẫn dắt của người chú là một linh mục. Sau khi làm đan viện trưởng của Ðan Viện Thánh Symphorien gần Autun, năm 555 ngài được Vua Childebert chọn làm giám mục Balê, sau khi Ðức Giám Mục Eusebius từ trần.

     Trong thời gian làm giám mục, ngài vẫn giữ lối sống kham khổ của đan viện và luyện tập các nhân đức. Ngài tham dự các Công Ðồng Balê III và IV (557, 573) cũng như Công Ðồng Tour II (566). Ngài thúc giục nhà vua từ bỏ các thói quen ngoại giáo và cấm tiêu xài phung phí trong các buổi lễ Kitô Giáo.

     Sau khi vua Childebert từ trần, nước Pháp tan hoang vì sự tranh giành và bị chia làm bốn cho bốn thái tử. Ðức Germain đã phải can thiệp, dùng thẩm quyền của Giáo Hội để ra vạ tuyệt thông một thái tử vì sự đồi trụy, và ngài cố gắng ngăn cản cuộc chiến giữa các thái tử khác.

     Trước khi sự thái bình được vãn hồi, Ðức Germain đã từ trần ở Balê ngày 28-5-576. Thi hài của ngài được chôn trong nhà nguyện Thánh Symphorien nhưng sau đó, năm 754, đã được cung kính chôn cất trong thánh đường chính, trước sự hiện diện của Vua Pepin và thái tử Charlemagne. Từ đó trở đi, Thánh Germain thường được gọi là Thánh Germain-des-Prés.

 Ngoài lá thư của Vua Childebert cảm tạ Thánh Germain vì đã cứu ông thoát chết một cách lạ lùng, ngày nay người ta còn giữ một luận án về bản phụng vụ cổ của Pháp mà họ cho rằng Thánh Germain đã sáng tác.

nguồn: từ Maria Thanh Mai gởi

CÓ THƯỢNG ĐẾ!!!

CÓ THƯỢNG ĐẾ!!!

tác giả: Đaminh Phan văn Phước
nguồn: conggiaovietnam.net

Những người vẫn ”khư khư chủ trương không có Thượng Đế” sẽ chẳng bao giờ chứng
minh được rằng ”không có Ngài” cho dù họ dựa vào những phát minh mới về Khoa
Học! Tại sao vậy?

– Bởi vì ”Khoa Học” (1) không phải do con người làm ra. Ví dụ: Sức đẩy của nước (định luật Archimède) không do ông ấy sáng chế vì nó đã có từ thuở ”tạo thiên, lập địa”! Càng khám
phá phần nào đó ”Khoa Học của Tạo Hóa” (The Science of The Creator) qua vũ
trụ, con người, bị ”giới giạn bởi thời gian và không gian”, vẫn thấy mình quá
nhỏ bé và còn ”dốt” trước ”Tri Thức của Kiến Trúc Sư Tuyệt Đối” làm ra
”thiên cơ” (then máy của Trời) mà mình không tài nào hiểu thấu được hết.
Ban đầu, đào đất, tôi tạo được một cái lỗ nhỏ. Càng đào đất ngày nầy qua ngày nọ, tôi không còn thấy cái lỗ, mà quanh mình lại là một ”cái hố” rất rộng. Trong Lĩnh vực Khoa Học, cũng
thế! Với ”viễn vọng kính” hiện đại, tối tân, sự hiểu biết của con người về vũ
trụ chỉ là một phần ”tri thức” quá nhỏ đến nỗi nhiều nhà nghiên cứu Khoa Học
phải khẳng định rằng ”vũ trụ bao la, không cùng” là điều chứng minh có ”Đấng
Lạ Lùng” chế ra thiên cơ. Xin đơn cử trường hợp như sau:

Ngoài mặt trời, ngôi sao ”gần chúng ta nhất” được gọi là ”Proxima” nằm trong ”chòm Alpha Nhân Mã” (Alpha du Centaure), cách chúng ta chừng 41 ngàn tỷ cây số!!! Các
nhà thiên văn phải ”tính gọn” khoảng cách ấy bằng ”năm ánh sáng” (l’année
lumière)! Mà vận tốc của ánh sáng trong mỗi giây là 300 ngàn cây số! Vậy, trong
một năm, ánh sáng đi được là 9,5 ngàn tỷ cây số. Muốn ”bay” nhanh
bằng ánh sáng
để lên tới sao Proxima, tôi phải mất 4 năm và 3 tháng!!!

Quả Đất là hành tinh trong thái dương hệ (solar system) gồm có: Mercure, Venus, Terre, Mars, Jupiter, Saturne, Uranus (được khám phá năm 1781), Neptune (năm 1846) et Pluton (năm 1930). Thái dương hệ lại nằm trong ”Giải Ngân Hà” (Voie Lactée / Milky Way /
Galaxy) có chừng 200 tỷ (200.000.000.000) ngôi sao! Các nhà thiên văn chỉ mới khám phá được chừng 100 tỷ Ngân Hà trong một phần nhỏ của vũ trụ bao la! Cho nên có ”chiêm tinh gia” nọ phát biểu và đặt câu hỏi như sau: ”Mới khám phá ngần ấy về vũ trụ bằng viễn vọng kính tương đối, mà tôi đã chóng mặt. Vậy, nên thư giãn tí xíu bằng cách tính kích thước ngắm được, thật kinh hoàng của Vũ Trụ, theo tỷ lệ khiêm tốn của
loài người! Phải chăng số ngân hà trong Vũ Trụ nhiều hơn cát trên Địa
Cầu?

Big Bang (Sự Bùng Nổ Lớn: Gigantesque Explosion) không phải là chân lý (2), mà chỉ là giả thuyết thuần túy siêu hình (une pure hypothèse métaphysique) bắt nguồn từ Cựu Ước nói về việc Sáng Thế từ hư vô (La création ex nihilo: Creation out of nothing) do Quyền
Năng của Thiên Chúa. Chẳng chứng minh được rằng ”không có Thượng Đế”, còn dè
dặt vì lý do này, lý do kia, một số nhà nghiên cứu Khoa Học bèn phát biểu: ”Do
không thể thấy Vũ Trụ ra sao trước Big Bang, chúng ta cũng chẳng biết được điều
gì trong giai đoạn ấy. Nhưng một số lý thuyết cho rằng có thể Vũ Trụ của chúng
ta ‘chào đời giữa lòng Vũ Trụ khác’ đã có trước (préexistant).”

Như vậy, xét cho cùng, khái niệm ”Vũ Trụ đã có trước” không phải là thiên cơ hữu hình, mà là ”Đấng Vô Hình, Toàn Năng, Tuyệt Đối, Toàn Tri, Toàn Hảo…” Ngài có trước thời gian và
không gian, tức Đấng Tự Hữu (The Self-Existing) chính là Thượng Đế. Cựu Ước đã
nói ngắn gọn về việc Ngài khởi sự tạo dựng vũ trụ như sau:
Ban đầu, Thiên Chúa sáng tạo trời và đất. Ðất còn trống không, mông quạnh, bóng
tối bao trùm vực thẳm, và Thần Khí Thiên Chúa là là trên mặt nước. Và Thiên
Chúa phán: “Hãy có ánh sáng.” Và có ánh sáng. Và Thiên Chúa thấy rằng
ánh sáng tốt đẹp và Thiên Chúa phân tách ánh sáng ra khỏi bóng tối. Và Thiên
Chúa gọi ánh sáng là ngày, bóng tối là đêm. Đã có buổi chiều và buổi sáng: ngày
thứ nhất.”
(Sáng
Thế Ký 1,1-5)

Gottfried Wilhelm Leibniz, nhà Toán Học, Triết Gia Đức phát biểu: ”Thượng Đế tính toán, sử dụng ý tưởng của Ngài, cho nên thế giới đã được tạo thành. Trước hết mọi sự, Thượng Đế là Vị tính toán vĩ đại, Nhà luận lý vĩnh hằng.” (Dieu calcule, il exerce sa pensée, et le monde est créé. Dieu est avant tout le grand Calculateur et l’éternel Logicien.)

Ông ta còn nói: ”Không  gì chẳng  gì mà không  lý do.” (Rien
n’a rien sans raison.) Câu ấy phải được hiểu như thế này: Mọi sự đều có nguyên
nhân. Nhưng Thiên Chúa không phải là ”sự, cái gì” vì Ngài là Nguyên Nhân của
mọi sự, mọi loài, tức Đầu Hết, là Alpha bởi vì, trước chữ Alpha của mẫu tự
Hy-lạp, không có chữ nào cả!

Tên đao phủ” Saulô đi lùng người tôn thờ Chúa Giêsu, đã được Ngài cho mù mắt để sáng lại, trở thành ‘‘Thánh Phaolô” đã cảnh cáo hạng người tưởng mình là trí thức, nhưng vẫn mê muội như sau: ”Vì những gì thiên hạ có thể biết về Thiên Chúa thì đã được
mạc khải cho họ. Từ thuở tạo thành vũ trụ, những việc tốt lành của Ngài mà mắt
người đời không thấy được, tức là Quyền Năng vĩnh cữu và Thần Tính của Ngài. Do
đó, họ vô phương chạy tội. Vì đã biết Thiên Chúa, nhưng họ không tôn vinh Ngài
là Thiên Chúa và cảm tạ Ngài. Trái lại, họ suy luận lầm lạc và tâm trí
ngu si của họ trở thành tối tăm
. Họ tự khoe là khôn ngoan, nhưng đã trở nên
điên rồ.”
(Roma 1,19-22)

Thật vậy, nhìn cái ”máy vũ trụ” quá lạ lùng, vượt sức tưởng tượng của mình là thọ tạo hữu hạn, ai còn ngoan cố, còn tự cao và còn không tin có Thượng Đế thì người ấy cũng nên làm kẻ ”điên rồ” bằng cách lý luận rằng chiếc đồng hồ đeo tay chẳng có người nào làm ra!!!
***

1. Chữ ”science” là cách biến âm của từ Latinh ”scientia” vốn là danh từ của động từ ”scire”
(savoir; know)! Theo Cựu Ước bằng tiếng Pháp, chữ ”science” trong thành ngữ
”l’arbre de la science du bien et du mal” là ”cây biết điều lành và sự dữ”. Như vậy, chữ ”science” đồng nghĩa với ”connaissance; knowledge”. Cây ấy ở Vườn Eden là biểu tượng nhắc Adam-Eva nhớ Lời của Thượng
Đế là Đấng Toàn Tri. ”Cây” gậy của Mosê đập đá để lấy nước nuôi Dân Chúa khỏi
chết khát trong sa mạc. ”Cây” Vườn Eden đã biến loài người trở thành nô lệ
của Satan! Nhưng ”Cây” Thập Giá giúp loài người đè đầu NÓ!!!

2. Bài khác sẽ nói về Big Bang.

Đức Quốc, 27 và 28.5.2012,
Lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống, ban Ơn cho Kitô hữu mạnh dạn tuyên xưng Đức Tin.

Đaminh Phan văn Phước

 

Thánh Maria Anna “de Paredes”

Thánh Maria Anna “de Paredes”

(1618 — 1645)

Thánh Maria Anna, còn gọi là “Bông Huệ Quitô,” có cuộc đời rất giống Thánh Rôsa ở Lima.
Ngài cũng hãm mình, sống cô độc, được xuất thần và ơn nói tiên tri.

Sinh ở Quito, Ecuador, ngay từ khi còn nhỏ, Maria Anna rất sùng kính Ðức Mẹ và đã muốn đi tu. Lúc mười tuổi ngài thề sống khó nghèo, khiết tịnh và vâng phục. Lúc đầu ngài
muốn trở thành một nữ tu dòng Ða Minh, nhưng sau đó ngài gia nhập dòng Ba
Phanxicô, trở nên một ẩn tu sống khắc khổ trong nhà người chị, dưới sự linh
hướng của cha giải tội dòng Tên.

Cũng như Thánh Rôsa, Maria Anna thường tự cho mình là “Maria Anna của Chúa Giêsu”, ngài chăm sóc người nghèo và dạy dỗ các trẻ em người thổ dân ngay tại nhà của mình.
Về lối sống khắc khổ, ngài ăn rất ít và ngủ có ba giờ mỗi đêm. Ngài được ơn
tiên tri, biết được tâm hồn người khác, chữa lành người bệnh tật qua dấu Thánh
Giá hoặc rảy nước phép, và đã có lần làm cho người chết sống lại.

Sau trận động đất năm 1645 ở Quito, một trận dịch lan tràn và Maria Anna đã dâng hiến cuộc đời mình để hy sinh cho thành phố, và thật vậy, ngài đã từ trần ngay sau khi trận dịch
bắt đầu giảm bớt.

Ngài được phong thánh năm 1950.

Lời Bàn

Thánh Phanxicô Assisi đã chiến thắng chính mình khi ngài ôm hôn một người cùi. Nếu sự từ bỏ mình không dẫn đến đức bác ái, thì việc ăn năn đền tội đã mất lý do chính đáng. Sự
hy sinh hãm mình của Thánh Maria Anna đã giúp ngài nhậy cảm hơn với nhu cầu của
tha nhân, và can đảm hơn khi phục vụ người nghèo.

Lời Trích

“Khi được thúc
giục bởi tình yêu Thiên Chúa và đồng loại, thánh nữ đã tự hành hạ thân xác mình
để đền bù tội lỗi cho tha nhân. Quên đi thế giới chung quanh và ngài đắm chìm
trong sự ngây ngất, như được nếm trước hạnh phúc vĩnh cửu. Do đó, được biến đổi
và phong phú bởi ơn Chúa, với tất cả khả năng, ngài thật hăng say lo lắng đến
sự cứu độ không những cho chính mình mà còn cho người khác. Thánh nữ độ lượng
giúp vơi bớt sự bất hạnh của người nghèo và xoa dịu sự đau khổ của người đau
yếu. Khi các thiên tai như động đất và bệnh dịch làm kinh hãi người dân thành
phố, thánh nữ đã phấn đấu qua sự cầu nguyện, sự đền tội và sau cùng, ngài đã
dâng hiến cuộc đời để nài xin lòng thương xót của Chúa Cha mà thánh nữ không
thể hoàn thành được bằng nỗ lực con người” (Ðức Giáo Hoàng Piô XII).

nguồn: Từ Maria Thanh Mai gởi

Đức cha Phêrô Nguyễn Khảm: “Ân sủng rẻ tiền và ân sủng đắt giá”

Đức cha Phêrô Nguyễn Khảm: “Ân sủng rẻ tiền và ân sủng đắt giá”

27/05/12                                      nguồn: nuvuongcongly.net

Đức cha Phêrô Nguyễn Khảm: “Ân sủng rẻ tiền và ân sủng đắt giá”

Một vị giám mục cao tuổi nhận được thiệp mời dự lễ Trao tác vụ linh mục. Ngài hỏi tôi: gọi là trao tác vụ linh mục có đúng không, hay phải gọi là truyền chức linh mục? Ngài có lý, vì cách nói trao tác vụ linh mục hay tác vụ phó tế có thể gây hiểu nhầm rằng linh mục hay phó tế chỉ là một nhiệm vụ, một công việc, dù là công việc thánh. Đang khi đó, chức linh mục, chức phó tế không chỉ là một nhiệm vụ mà là điều gì đó sâu xa hơn nhiều. Trước hết và trên hết, đó là một ân sủng, “hồng ân Thánh Thần, cho phép thực thi một quyền thánh chức, quyền này chỉ có thể phát xuất từ chính Đức Kitô, qua Hội Thánh của Người” (GLHTCG số 1537). Chỉ trên nền tảng đó mới có thể nói đến tác vụ linh mục hay phó tế. Hiện hữu đi trước hành động. Chức linh mục thừa tác đi trước và làm nền cho thừa tác vụ linh mục. Dù khi già yếu bệnh tật hoặc trong hoàn cảnh không thể thi hành nhiệm vụ, linh mục vẫn là linh mục. Và chức linh mục hay phó tế ấy trước hết là một ân sủng: “Không ai tự gán cho mình vinh dự là thượng tế nhưng phải được Thiên Chúa kêu gọi, như ông Aharon đã được gọi” (Dt 5,4).

Vì là ân sủng được trao ban cho nên người lãnh nhận không có lý do gì để tự kiêu tự đắc cả, mà đúng hơn, phải biết đón nhận với lòng biết ơn và khiêm tốn. Sự khiêm tốn ấy vừa phát sinh từ ý thức về sự cao cả của hồng ân mình lãnh nhận, vừa phát xuất từ ý thức về sự mỏng dòn yếu đuối của bản thân.

Cách cụ thể, trong nghi thức phong chức hôm nay, vị giám mục chủ phong trao sách Phúc Âm cho từng tân chức với lời căn dặn: “Con hãy nhận lấy Phúc Âm Đức Kitô mà con đã trở thành người rao giảng, và con phải biết là hãy tin điều con đọc, dạy điều con tin và thi hành điều con dạy”. Vậy có ai trong anh em dám tự hào rằng, bằng sức riêng của mình, tôi sẽ sống cách hoàn hảo Lời mà tôi rao giảng? Bằng sức riêng của mình, tôi sẽ làm cho mọi người tin vào Chúa Kitô là Đường, Sự Thật và Sự Sống?

Cũng trong nghi thức hôm nay, các tân chức thề hứa vâng phục Đấng bản quyền và sống độc thân trọn đời. Có ai trong anh em dám tự hào rằng, bằng sức riêng của mình, tôi sẽ trung thành trọn đời và trọn vẹn lời thề hứa đó, nghĩa là từ trong tâm hồn chứ không chỉ là tránh những vi phạm bên ngoài?

Tự đặt cho mình những câu hỏi như thế để khám phá sự mỏng dòn và yếu đuối của mình, nhờ đó sống khiêm tốn hơn. Chính sự khiêm tốn ấy thúc đẩy chúng ta cậy trông vào Chúa, và cầu nguyện là sự diễn tả niềm cậy trông ấy. Tôi nhớ lại hình ảnh Đức hồng y John Henry Newman. Là một linh mục Anh giáo và nhà tư tưởng nổi tiếng ở Oxford lúc ấy, nhưng khi nghiên cứu, ngài khám phá ra chỉ có Hội Thánh công giáo mới là Hội Thánh đích thực của Chúa Kitô. Thế nhưng quả là sự giằng co xâu xé khi phải giã từ Anh giáo cùng với biết bao đau khổ gây ra cho những người thân yêu, tin tưởng nơi ngài. Với tâm trạng ấy, trên chuyến tầu giữa biển cả mênh mông và sương mù giăng kín, ngài đã viết nên lời cầu nguyện nổi tiếng Lead, kindly Light: “Ánh sáng dịu êm, xin dẫn con. Dẫn con đi tới giữa đêm mịt mùng… Dẫn con vững bước trên đường Con không cầu thấy chân trời xa xôi. Dẫn con, dẫn con từng bước, Từng bước một thôi”.

Hãy mang lấy những tâm tình cầu nguyện ấy, lời cầu nguyện của những tâm hồn khiêm tốn và đầy ắp niềm trông cậy. Đồng thời, khi nói đến ân sủng, đừng nghĩ rằng ân sủng miễn trừ mọi nỗ lực và cố gắng của con người. Bởi lẽ, nói theo ngôn ngữ của Dietrich Bonhoeffer, ân sủng mà chúng ta lãnh nhận là ân sủng đắt giá chứ không phải thứ ân sủng rẻ tiền. Là một mục sư Tin Lành Lutheran, Bonhoeffer bị Đức quốc xã bắt giam và bị treo cổ. Chính trong những ngày bị nhốt trong tù, ông đã viết ra những dòng này:

“Ân sủng rẻ tiền là lời rao giảng ơn tha thứ mà không đòi hỏi hoán cải, chịu Phép Rửa mà không cần sống theo giáo huấn của Giáo Hội, rước lễ mà không cần xưng tội, nhận ơn xá giải mà không cần thống hối. Ân sủng rẻ tiền là thứ ân sủng không đòi hỏi phải sống đời sống người môn đệ, thứ ân sủng không có thập giá, thứ ân sủng không có Đức Giêsu Kitô, Đấng hằng sống và nhập thể làm người. Còn ân sủng đắt giá là kho tàng chôn giấu trong ruộng sâu, và vì kho tàng đó mà một người vui mừng bán đi tất cả những gì mình có để mua cho bằng được. Đó là viên ngọc vô giá mà người lái buôn sẵn sàng bán đi tất cả của cải để mua lấy. Đó là lề luật vương giả của Chúa Kitô có thể khiến cho một người dám móc mắt mà quăng đi nếu nó gây trở ngại. Đó là lời mời gọi của Chúa Kitô khiến cho các môn đệ bỏ cả thuyền và lưới mà đi theo Người. Ân sủng đắt giá là Tin Mừng phải được tìm đi tìm lại, là ơn ban ta phải khấn xin, là cánh cửa ta phải gõ vào… Ân sủng đó đắt giá vì Thiên Chúa đã phải trả giá bằng chính sự sống của Con Một Ngài, và cái khiến Thiên Chúa phải trả giá đắt dứt khoát không thể nào là rẻ tiền đối với chúng ta”.

Vâng, ân sủng mà hôm nay chúng ta lãnh nhận là ân sủng đắt giá. Và vì đắt giá nên chúng ta phải trả bằng cả con người và cuộc đời mình, một cuộc đời dám sống cho Chúa và phần rỗi các linh hồn. Xin anh chị em cầu nguyện cho các tân chức và cho tất cả chúng tôi, các giám mục và linh mục có mặt ở đây, sống được như thế.

Ngày 26-05-2012 Lễ phong chức phó tế cho các đại chủng sinh Sài Gòn

 +Gm. Phêrô Nguyễn Văn Khảm

CHỨNG NHÂN CHO CHÚA

CHỨNG NHÂN CHO CHÚA

 Tác giả: Thiên Phúc                 nguồn: thanhlinh.net

 CHỨNG NHÂN CHO CHÚA (Ga 20,19-23)

 CHÚA NHẬT LỄ HIỆN XUỐNG, NĂM B

  Ngày 12 tháng 10-1999, một cậu bé nặng 3,55 kg đã chào đời lúc 00:03 tại Sarajevo, Bosnia. Cậu đã được Tổng Thư ký Liên Hiệp Quốc Kofi Anna chào đón như là biểu tượng của người dân thứ 6 tỷ của Thế giới (C 6 B: Day of 6 billionth person). Sự chọn lựa này chỉ là ngẫu nhiên, do ông Tổng Thư ký đang công tác ở Bosnia.

  Chỉ trong ngày 12-10, ước tính có khoảng 370.000 trẻ em trên thế giới chào đời, phân nửa trong số đó là trẻ em Châu Á. Các chuyên gia dân số thế giới chào đón ngày này với sự … lo lắng, vì hầu hết số trẻ ấy sẽ sống trong nghèo đói và thất học… Chỉ trong thế kỷ 20, dân số thế giới đã tăng gấp ba và nếu tính trong vòng 12 năm, dân số thế giới tăng độ một tỷ người. LHQ ước đoán dân số thế giới sẽ là 8,9 tỷ vào năm 2050. Nhà sinh thái học David Pimentel của Đại học Cornell cảnh báo: “Đến năm 2100, sẽ có 12 tỷ con người khốn khổ chịu đựng cuộc sống khó khăn trên trái đất”.

 Nhưng không phải ai cũng đồng tình với nỗi lo về “ngày ảm đạm, u tối”, khi dân số thế giới đạt đến con số 6 tỷ. Nhà kinh tế học Stephen Moore lại cho rằng: “Dân số thế giới đạt 6 tỷ là món quà tặng cho sự khéo léo và khả năng sáng tạo của con người”. 

                                                 ***   

  Mỗi lễ hiện xuống là một ngày khai sinh mới của Giáo Hội. Chúa Thánh Thần chính là linh hồn của Giáo Hội. Người hằng huy động, hướng dẫn, hiệp nhất dể xây dựng Giáo Hội. Giáo hội đã có một lịch sử dài suốt 20 thế kỷ. Cần một luồng gió mạnh thổi đến, lùa vào, đổi mới mọi sự.

  Công đồng Vatican II, chính là ngày “Lễ Hiện Xuống mới” của Giáo hội. Nếu ngày xưa thánh Phero đã mở tung cửa đón nhận Thánh Thần Thiên Chúa, thì ngày nay đức Thánh Cha Gioan 23 cũng đã khai mở Công đồng như một ngày “lễ Hiện Xuống mới”, đem lại cho Giáo Hội một luồng sinh khí mới, một bộ mặt mới. Để rồi từ đó, muôn dân nước được nghe Lời Chúa bằng tiếng mẹ đẻ trong Thánh lễ và trong các Bí tích, được hát Thánh ca bằng ngôn ngữ dân tộc mình. Với 4 Hiến Chế, 9 Sắc Lệnh và 3 Tuyên Ngôn, giáo hội đã mở rộng ra với thế giới, để bắt kịp đà tiến triển của thời đại văn minh.

 Qua làn hơi thở của Chúa, qua sức mạnh của Chúa Thánh Thần, hôm nay chúng ta cũng trở nên chứng nhân của Chúa cho đến tận cùng trái đất: “Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con” (Ga 20,21). Thế giới hôm nay đã bước sang thế kỷ 21, với 6 tỷ người chen chúc trong đó, nhưng chỉ có trên 1 tỷ người Công giáo. Đó là trách nhiệm của mỗi người chúng ta, là nỗi trăn trở và day dứt khôn nguôi của người tín hữu: những chứng nhân của Nước Trời.

  Chúng ta là chứng nhân cho Chúa, khi chúng ta ngồi lại với nhau, giải quyết tranh chấp, xây dựng hòa bình.

  Chúng ta là chứng nhân cho Chúa, khi chúng ta chăm lo cho người nghèo, quan tâm đến trẻ thơ và người già yếu.

 Chúng ta là chứng nhân cho Chúa, khi chúng ta đem niềm vui đến cho những người bất hạnh, mang lại nụ cười cho những kẻ khổ đau.

 Thiên Chúa rất cần những chứng nhân như thế, để đổi mới bộ mặt trái đất, làm tươi mát khuôn mặt địa cầu.

 Thiên Chúa rất cần những chứng nhân đi xây dựng một thế giới, nơi đó con người yêu thương nhau hơn.

 Thiên Chúa rất cần những chứng nhân đi thánh hóa trần gian bằng đời sống tin tưởng, tràn đầy niềm vui. 

                                                   ***  

 Lạy Chúa Thánh Thần, xin cho chúng con gặp được Người trong những nụ cười trao cho nhau, trong những hy sinh vô vị lợi, và trong nỗi thao thức xây dựng một thế giới huynh đệ hơn. Amen.

(Thiên Phúc, trong “Như Thầy đã yêu”)

 “Be who God meant you to be, and you will set the world on fire.”

St. Catherine of Sienna.

ĐÓN NHẬN CHÚA THÁNH THẦN ĐỂ RAO TRUYỀN CHÚA KITÔ

ĐÓN NHẬN CHÚA THÁNH THẦN ĐỂ RAO TRUYỀN CHÚA KITÔ

  + Hồng-y L. J. Suenens

Người dịch  Nguyễn đăng Trúc        nguồn: conggiaovietnam.net

 “ Thiên Chúa không có lời nói nào khác, tay chân nào      

 khác ngoài lời nói, tay chân của bạn

 để mang Phúc-âm đến cho thế gian”.

Frank Duff

 

 1- Mỗi một Kitô-hữu đều được mời gọi để trở thành nhân chứng của Phúc-âm    

Chúa gọi mỗi Kitô-hữu tham gia vào công cuộc truyền bá Phúc-âm mới qua chính phép rửa tội mà họ đã nhận lãnh, chứ không phải là một ơn gọi nào khác thêm vào. Công-đồng đã nhắc kỹ điều ấy.

Không một Kitô-hữu nào được miễn trừ bổn phận làm chứng về đức tin của mình. Những hình thức truyền giáo thay đổi tùy hoàn cảnh sống cụ thể, nhưng bổn phận truyền giáo là bổn phận nền tảng của từng người không trừ ai.

Phải thành thực thú nhận rằng đa số Kitô-hữu ngay cả những người thường xuyên hành đạo, vẫn chưa hiểu là mọi Kitô-hữu phải rao truyền Chúa Kitô, mọi người đã được tiếp nhận Tin-mừng đều có sứ mệnh rao truyền Tin Mừng ấy lại cho kẻ khác.

Giáo-hội còn chưa thực thi đầy đủ “bản chất truyền giáo” của mình; bây giờ là lúc cần phải giải tỏa những lý do giả tạo cố dồn Kitô hữu vào tình trạng ù lì, ngậm miệng làm thinh hay dững dưng.

Chúng ta phải can đảm tố giác cám dỗ của thái độ câm nín âm hiểm nầy, và đuổi ngay con quỉ câm và những lý do giả tạo ra khỏi cuộc sống chúng ta.

 1-  Hai bổn phận cơ bản 

Thường người ta nại lý do là cuộc sống hằng ngày chiếm hết thì giờ và sức lực nên không thể chu toàn bổn phận làm tông đồ. Lối khước từ đó gợi nhớ lại câu truyện trong Phúc-âm, khi những người được mời đến dự tiệc cưới đã thoái thác nại lý do quá bận rộn về những công việc khẩn thiết phải ưu tiên: Tôi đã mua một đám đất và tôi phải đi xem; tôi đã mua năm cặp bò và tôi phải đi thử; tôi mới cưới vợ nên bận rộn quá.

Bổn phận làm tông đồ gắn liền với bổn phận Kitô hữu, chúng ta không nhất thiết là phải tham gia phong trào sinh hoạt nào đó. Có nhiều phương thức làm tông đồ khác nhau, nhưng không thể nại đến sự kiện nầy để xóa bỏ bổn phận hàng đầu của chúng ta, tức là bổn phận làm người đã chịu phép rửa. Có bổn phận làm người và còn bổn phận làm Kitô hữu, ta cần biết phối hợp. Chúng ta đã không biết chu toàn đồng thời các bổn phận khác nhau trong cuộc sống hằng ngày của chúng ta sao?: bổn phận gia đình, nghề nghiệp, công dân. Đối với Kitô-hữu biết ý thức về phép rửa của mình, bổn phận căn bản gắn liền với thân phận họ là yêu mến và phục vụ Chúa với cả sức lực mình và yêu thương kẻ khác như chính mình. Bổn phận nầy rất cao cả, đòi hỏi những chọn lựa khó khăn và nhiều hy sinh: nếu tôi chấp nhận dành một số thì giờ phục vụ không công cho người bên cạnh tôi cách nầy hay cách khác, hẳn nhiên công tác ấy đòi hỏi tôi phải trả một giá nào đó. Phục vụ không công có nghĩa là từ khước nhận tiền hoặc hy sinh một lối sống thoải mái… 

2-  Hai hình thức nghèo đói 

Nếu có hai bổn phận căn bản, tự nhiên và siêu nhiên, thì cũng có hai hình thức nghèo đói để cứu giúp. Có tình trạng nghèo đói trong cuộc sống vật chất con người dưới nhiều dạng ngặt nghèo cần được cứu tế (đói rách, thiên tai, dịch bệnh…).  Hình thức nghèo đói nầy dễ làm ta xúc động vì dễ thấy, dễ nhận ra hơn là hình thức thứ hai. 

Nghèo đói làm cho con người khốn đốn một cách thâm cay, mặc dù có tràn đầy của cải vật chất, đó là cảnh cùng khổ về mặt siêu nhiên, tinh thần, đặc biệt là tình cảnh bơ vơ hoặc chán nản nơi những người trẻ; họ đi tìm một trong những ảo tưởng để sống vất vưởng qua nghiện ngập hoặc thác loạn tính dục. Khi chúng ta nói đến những chứng nhân của Chúa Kitô, hẳn chúng ta nghĩ ngay đến cánh đồng bao la trước mắt chờ đón chúng ta. 

3-  Hai hình thức làm chứng 

Cuối cùng cần phân biệt hai loại làm chứng: làm chứng khách quan và làm chứng qua con người cụ thể của mình, hai lối nầy cần bổ túc nhau.

 Việc làm chứng của các người dạy giáo lý, các giáo sư về tôn giáo, các nhà giảng thuyết, là làm chứng khách quan : ở đây mục tiêu ưu tiên nhắm đến là dạy và đào tạo tôn giáo; nhưng nếu “người hướng dẫn” vừa là người làm chứng thì dễ thuyết phục người ta hơn.

Không phải ai cũng được gọi để chu toàn sứ mệnh rao truyền Phúc-âm theo hình thức nầy, nhưng mọi người đều được gọi để trở thành chứng nhân qua cuộc sống cụ thể của mình, như thánh Phêrô dạy rằng phải làm cho kẻ khác thấy được “niềm hy vọng nằm nơi con người mình”. Làm chứng do chính cuộc sống mình có thể giúp mọi người biết Phúc-âm một cách thiết thực và sống động, “mọi nơi và mọi lúc”, trong những hoàn cảnh bình dị hoặc phi thường.

Khung cảnh xã hội chung quanh như cám dỗ Kitô-hữu đừng nên quấy rầy, mà phải theo nếp sống trần tục của thời đại, phải tỏ ra nhún nhường và tôn trọng bất cứ dư luận nào, chạy theo quan điểm chung, chứ đừng nêu lên một tiêu chuẩn chân lý khách quan nào! Nhất là đừng bao giờ nói đến “tội lỗi”, vì nói đến “tội lỗi” làm chói tai thiên hạ vô cùng! Trong một khung cảnh như thế, làm sao diễn đạt và tuyên xưng đức tin mình?  Người ta còn nêu lên nhiều lý chứng đặc biệt khác nữa để huyết phục Kitô-hữu nên giữ thái độ im lặng! 

4-  Thế giới không sẵn sàng để nghe Phúc-âm! 

Người ta xin chúng ta đừng nói, đừng tuyên xưng Phúc-âm trong thế giới ngày nay vì người ta cho rằng thế giới chúng ta không sẵn sàng để nghe sứ điệp ấy.

Với lối luận chứng đó, trước hết phải trả lời rằng sứ điệp Phúc-âm là một sứ điệp mà thực ra không bao giờ có ai tự nhận là sẵn sàng để nghe cả; sứ điệp ấy phát sinh ơn cứu độ của Con một Thiên Chúa và đưa ta lên hàng thần thánh, một sứ điệp như vậy vượt lên trên tất cả những gì mắt đã thấy và tai đã nghe, vượt lên trên tất cả những gì có thể làm cho những mơ ước táo bạo nhất của chúng ta trở thành vô nghĩa.

Hơn nữa, Lời Phúc-âm khó nghe, sự kiện đó không phải là hiện tượng riêng của thời đại chúng ta. Nhưng người đương thời của Chúa Giêsu có sẵn sàng nghe Ngài không? Hãy nhìn thập giá Chúa để hiểu việc nầy. Và nếu muốn biết phản ứng của quần chúng khi Phaolô loan báo việc Chúa Phục-sinh, ở sân vận động Nhã Điển, thì chỉ cần đọc trong sách Tông-đồ Công-vụ: “Vừa nghe nói đến người chết sống lại, kẻ thì nhạo cười, kẻ thì nói: “Để khi khác chúng tôi sẽ nghe ông nói vấn đề ấy” (Cv. 17, 32). 

5-  Tôi cảm thấy không đủ sức nói! 

Kitô-hữu lại thấy tự nơi lòng mình cơn cám dỗ trái ngược lại, cho rằng việc rao giảng Phúc âm chỉ dành cho các thánh, các nhà thông thái đầy bằng cấp mà thôi!

Trước hết có thật là việc rao truyền Phúc-âm chỉ là đặc ân của các thánh hay không? Sự thánh thiện của người làm chứng hẳn nhiên là một ơn riêng ban cho Giáo-hội; ta có thể nêu lên nhiều tên tuổi mà mọi người đều đồng ý là thánh, hoặc đáng được nể vì, yêu mến và có sức thuyết phục.  Danh sách ấy qua lịch sử Giáo-hội rất dài. Lâu lâu chúng ta có dịp mừng việc tôn phong các thánh mới, đúng là cảnh vui mừng trên trời cũng như dưới đất. Nhưng sự kiện đó không miễn cho bất cứ Kitô hữu bình thường nào bổn phận “minh chứng niềm hy vọng nơi mình”, như lời thánh Phêrô đã đòi hỏi Kitô-hữu thời Giáo-hội sơ khai, những Kitô-hữu ấy cũng là những người bình thường như chúng ta.

Để thực hiện công cuộc của Chúa (-đừng lẫn lộn với ý nghĩ là làm cho Chúa -) trước hết chúng ta trao thiện chí của ta cho Ngài. Chúa dùng mỗi người chúng ta, và ơn của Ngài sẽ dư tràn cho chúng ta. Khi kết hợp với Ngài, thì chúng ta sẽ vượt lên trên sức lực của mình. Thần học còn nói đến những ân sủng Chúa ban nhưng không để làm lợi cho Cộng-đồng, mà không nhất thiết thánh hoá những người hành xử. Những ơn đoàn sủng của thời nguyên sơ và những ơn đoàn sủng hôm nay chứng thực sự tự do hoàn toàn của Chúa, và cấm không ai được nêu lên đặc quyền ấy cho riêng mình.

Còn về sự hiểu biết sâu xa, chúng ta cám ơn Chúa đã cho chúng ta nhiều vị thần học gia đáp trả ơn gọi của họ làm “người tín hữu truy tìm sự khôn ngoan nơi đức tin”. Công-đồng Vatiacanô II mang ơn họ rất nhiều; họ đã chuẩn bị Công-đồng, đã làm phong phú cho Công-đồng, nên khó lòng phủ nhận tầm quan trọng và vai trò của họ. Nhưng chúng ta cũng phải biết rằng Chúa không gắn chặt bổn phận làm tông đồ với mấy bằng cấp đại học. Việc Chúa chọn “mười hai người” xứ Galilêa chắc chắn cho thấy rằng thông minh tuyệt trần không phải là tiêu chuẩn để xây dựng Nước Chúa.

  2- Chúa kêu gọi mỗi người rao truyên Phúc-âm 

Phúc-âm cho chúng ta thấy phương cách Chúa Giêsu kêu gọi các môn đệ đầu tiên như thế nào: Chúa nói: “hãy theo Thầy”, và họ bỏ lại cha họ, thuyền họ, bàn thu thuế của họ.

Một lời mời hơn là một mệnh lệnh: “nếu người muốn lên trọn lành…hãy bán hết của cải để theo thầy”.

Chúa Giêsu kêu mời người ta theo Ngài, tiếp bước theo chân Ngài, và không hề hứa là đường đi sẽ dễ dàng, nhưng chỉ nói là Ngài sẽ ở với họ không bao giờ xa.

Chúa gọi chúng ta, mỗi người chúng ta, mỗi người mỗi cách, nhưng phương cách nào đi nữa cũng rất triệt để. Trước khi chấp nhận dấn thân vào tình yêu thương Chúa, chúng ta thử xem lời gọi của Ngài đã được Phúc-âm diễn tả thế nào. 

 Lời mời gọi của Chúa, theo lối nhìn của Chúa 

Việc Chúa mời gọi ta sống cuộc sống Kitô giáo toàn diện là một lối tỏ bày tình yêu thương đặc biệt, một lối chọn lựa riêng của Chúa. Ngài đã gọi mười hai vị, rồi ngày kia, vị thứ mười ba là thánh Phaolô. Lúc đầu, Ngài không gọi cả đám đông. Đến sau Ngày Hiện Xuống, chúng ta chứng kiến một trăm hai mươi vị trong ngày khai sinh Giáo-hội. Đấy là điểm khởi phát, là men để làm dẫy bột, nhưng trước hết phải làm men.  Yêu thương đặc biệt, tuyển chọn riêng, ở đây còn có nghĩa là gửi đi truyền bá Phúc-âm. “Thầy đã chọn các con…để các con lên đường và mang lại hoa trái”. Được chọn để lên đường, được chọn để toả lan ánh sáng. Sự chọn lựa ấy tự nó là một “lệnh xuất quân”.

“Hãy đến và rồi hãy ra đi”. Đây là một cử chỉ mời gọi của người tình, nhưng đồng thời, để quay về với dân chúng.

Tình yêu đặc biệt, yêu riêng nhưng là yêu trong tự do. Ngay khi thánh sử chỉ ghi lại câu Chúa Giêsu nói ”hãy theo Thầy”, mà không nói thêm có trao đổi gì trước đó, thì kỳ thực đã có môt cuộc đối thoại bên trong, dù rất ngắn, một lời mời tùy thuộc vào sự tự do trả lời của người nghe, một lời đề nghị tôn trọng hoàn toàn người đối diện.  Chúa Giêsu không hề tuyển chọn theo lối ép buộc, như tuyển lính ngày xưa. Nhưng, “Ngài biết điều gì xảy ra trong con người”, và đáp ứng những ước vọng thầm kín, không nói ra, hoặc có thể không nhận ra của chính người Ngài kêu gọi.

 Tình yêu ấy là tình yêu dâng hiến, dấy lên một lời kêu mời, muốn nối kết một giao ước. Và ở đây ta còn thấy Chúa xúc động nữa. Thường thì Chúa thức suốt đêm cầu nguyện trước khi chọn lựa như thế. Đến đây chúng ta đi vào khung trời thần thánh. Thi sĩ có lần nói: “có nhiều điều thần thánh người ta chỉ nghe được một lần thôi”.  Trường hợp từ chối, như người thanh niên giàu có trong Phúc-âm “đã bỏ đi vì anh ấy có nhiều của cải”, Chúa Giêsu không cố ép và để cho đi.

 Người ấy sau nầy có tìm đến Chúa không? Hoàn toàn bí mật.

Nhưng, đoạn Phúc-âm nhắc nhở chúng ta rằng lúc Chúa gọi thì đừng mặc cả, quay lưng hoặc kiểm lại sổ sách ngân hàng, bàn hỏi bạn bè “khôn ngoan”, bảo hiểm sức khoẻ và nhân mạng…Chúa Giêsu gọi mình theo Ngài, là gọi đi vào con đường phiêu lưu của tình yêu. Con đường đi ấy qua nhiều nẻo gập ghềnh và đôi khi phải sống nhiều đêm ở vườn Cây-dầu, như để làm quen với giây phút của Chúa trong đêm khổ nạn.

 Đó là những gì bao hàm nơi ơn gọi theo cái nhìn của Chúa.

 1- Chương trình sống của Kitô-hữu bình thường trong cuộc sống hằng ngày  

Cần thấm nhập cuộc sống của Chúa (ad intra) để cho Chúa gửi mình lên đường (ad extra). Hai nhịp thở đó kết dệt nên đời sống Phúc-âm, cần thiết phải bổ túc cho nhau. 

Ad intra 

Trên bình diện cuộc sống cá nhân, Kitô-hữu phải tài bồi và củng cố cuộc sống siêu nhiên của mình bằng bí tích Thánh-thể và bí tích chữa lành tâm hồn đó là bí tích Hòa-giải. Phải nuôi sống cuộc sống siêu nhiên linh hoạt, bằng việc đọc sách thiêng liêng vào một buổi nhất định, và ưu tiên là sách Kinh-thánh, đặc biệt nên đọc và suy gẫm các bản văn mục vụ trong ngày, là của ăn được Mẹ chúng ta là Hội-thánh dọn sẵn. Một cách cụ thể ta nên có một cuốn sách lễ trong tuần, ngoài cuốn sách lễ các ngày chủ nhật trong năm.  Đức Gioan-Phaolô II không ngừng nhấn mạnh đến tầm quan trọng của Thánh-thể, là trung tâm điểm của cuộc sống Kitô-hữu. Trong một bài diễn văn gửi cho những người hướng dẫn Phong trào Canh tân đoàn sủng, ngài nói:

“Theo ý niệm mà Công-đồng Vaticanô II đã ghi sâu nơi cuộc sống chúng ta : Thánh-thể đúng là nguồn suối và đỉnh cao của mọi công cuộc rao truyền Phúc-âm…Kitô hữu, đã mặc lấy ơn ích của Phép rửa tội và Thêm-sức, khi rước Thánh thể, sẽ sát nhập toàn cuộc sống mình với thân thể Chúa Kitô”. 

Để cho việc cử hành Thánh-thể có thể thức tỉnh và nuôi dưỡng cuộc sống đức tin chúng ta, Giáo-hội đưa vào mỗi thánh lễ đoạn văn Thánh kinh, được chọn lựa theo diển tiến của năm phụng vụ, để chúng ta lắng nghe được lời Chúa. 

Trong tinh thần của đức tin, khi chúng ta mở các trang sách lễ là chúng ta đến điểm hẹn gặp Thánh Thần; những bản văn được Giáo-hội chọn sẵn cho chúng ta là ưu tiên, nếu chúng ta thực sự muốn thở đồng nhịp thở của Giáo-hội, ngày ngày thấm nhập “chính những tình cảm trước đây của Chúa Giêsu”. Tôi cần tiếp nhận các trang ấy như tiếp nhận bức thư của một người bạn chia sẻ các ưu tư, các mối lo âu sợ hãi, các niềm mong ước với tôi, muốn đồng hành với tôi, chỉ đường cho tôi.

Tôi muốn dùng kinh nghiêm của tiên tri Isaia để nói lên rằng: “lời Chúa thức tỉnh tôi mỗi sáng; mỗi sáng lời Chúa đánh thức tôi dậy để tôi lằng nghe như một người học trò ngoan ngoãn học hỏi…” (Is. 50, 4).

Nếu như tôi không có cách nào để đi dự lễ được thì tôi cũng cầm lấy sách lễ để đọc và hiệp thông với Giáo-hội, nói chuyện với Chúa và thấm nhập sứ điệp của Ngài vào cuộc sống trong ngày của tôi.

Mỗi ngày, chúng ta cần để lời Chúa xây dựng, uốn nắn đời mình, như đất sét trong tay người thợ gốm.

Để hiểu được tầm mức cao cả của Thánh lễ và Thánh-thể, chỉ cần suy nghĩ kỹ về các lời chúng ta hát trong kinh Vinh-danh Thiên Chúa trên các tầng trời

“ Chúng con thờ lạy Chúa, chúng con tôn vinh Chúa, chúng con cảm tạ Chúa vì vinh quang cao cả Chúa. Chúa xóa tội trần gian, xin nhận lời chúng con cầu khẩn”. 

Thánh thể là bí tích thờ phương, tạ ơn, chữa lành và tha thứ. Nhờ Chúa Kitô, Chúa chúng ta, chúng ta đến với Chúa Cha, hướng về Tòa Chúa.  Và chính nhờ Ngài, với Ngài và trong Ngài mà Chúa đáp trả lời cầu khẩn của chúng ta; không bao giờ lời kinh ấy không được nhận lời. Nếu chúng ta tìm lại được ý nghĩa của Thánh lễ, các cộng đoàn Kitô-hữu sẽ hồi sinh; Thánh lễ chủ nhật là lễ Phục sinh hằng tuần, đúng là trắc nghiệm về sự trung tín của chúng ta đối với Thầy: “Anh em hãy làm việc nầy mà nhớ đến Thầy” cho đến khi Ngài lại đến trong vinh quang.

 Thánh thể cũng là của ăn và thức uống.  Nhưng đặc điểm kỳ bí, mầu nhiệm ở đây là trong hiệp lễ, không phải chúng ta biến của ăn làm đồ nuôi dưỡng cuộc sống mình, nhưng chính của ăn biến đổi chúng ta để chúng ta thành sự sống trong Ngài.

Cuối cùng, Thánh-thể không chỉ là hiệp lễ, sự hiện diện thật sự luôn ở ngay trong Thánh-thể : chúng ta có thể tôn kính Thánh-thể ấy, thờ lạy âm hầm dưới chân của Thầy, trước Nhà tạm.

Trong những ngày tháng dành riêng cho cuộc sống siêu nhiên, chúng ta cần lưu ý đến tầm quan trọng của những kỳ tĩnh tâm; cuộc tĩnh tâm kiểu mẫu luôn vẫn là Phòng-Cao ở Giêrusalem khi các môn đệ, cùng với Mẹ Maria, đã cầu nguyện và đã sống “Bí-tích Thánh-tẩy trong Thánh Thần”; cuộc tĩnh tâm ấy đã chuyển đổi con người họ.  Những cuộc tĩnh tâm như thế thường có thể giúp nhiều Kitô-hữu bấy lâu ơ hờ, thụ động trong việc hành đạo, chấp nhận dấn thân cụ thể. Nên tham dự và cổ động người tham dự; các cuộc tĩnh tâm nầy thực sự là việc làm hết sức hữu ích. 

Ad extra 

Trên bình diện làm công tác tông đồ, Kitôhữu phải là “nhân chứng của Chuá Kitô, bằng lời nói và việc làm, mọi nơi và mọi lúc”. Đừng đợi mọi yếu tố phải có sẵn, xét về khía cạnh con người. Châm ngôn thường được người ta nêu lên : “trước hết phải nhân bản hóa, sau đó rồi Phúc-âm hóa” đã thường làm cho hứng khởi truyền giáo khựng lại, và làm tổn thương cả nỗ lực nhân bản hóa chân thực, mà đỉnh cao lại chính là Đức Kitô.  Đừng sợ phải làm chứng về đức tin mình. Đức Gioan-Phaolô II đã nhắc lại bổn phận ấy trong một sứ điệp:

“Nhân danh Chúa Kitô tôi xin anh chị em phải làm người loan truyền Phúc-âm…Là thành phần làm nên Giáo-hội, mỗi người phải hoàn thành phần trách nhiệm của mình…mỗi người hãy làm cho người gần mình, trong gia đình, trường học, trong giới văn hoá, nơi làm việc hiểu rằng Chúa Kitô là Đường, là Sự-thật, là Sự-sống” (22.10.1985).

Để nâng đỡ nhau làm tông đồ, Kitô-hữu cần sự trợ giúp của anh chị em đồng đạo. Nếu không gia nhập một nhóm tông đồ nào, thì cố tìm một sinh hoạt tông đồ thích hợp với ước vọng của mình.

Nếu không tìm thấy, thì nên cổ động trong môi trường sinh hoạt giáo xứ những nhóm nhỏ sống Phúc-âm, chia sẻ cuộc sống Kitô giáo trong hai chiều kích cá nhân cũng như làm công tác tông đồ. 

2- Ứng dụng trước mắt 

Một khi nhận ra được chiều sâu và sự ưu tiên nơi “thân phận Kitô-hữu của mình”, các hệ quả thực tiễn sẽ phong phú vô cùng. Trong trường hợp tôi chẳng hạn, tôi tức khắc bị chất vấn và phải trả lời: “Trước hết tôi là một giám mục Kitô-hữu hay là một Kitô-hữu làm giám mục?” . Hỏi như thế buộc tôi phải xét mình, và mỗi lần bị chất vấn là mỗi lần tôi phải giật mình. Hoặc trong dân chúng: Quí vị trước hết là một ông chủ Kitô-hữu hay một Kitô-hữu làm ông chủ? Trước hết là một nhà giáo Kitô-hữu hoặc một Kitô-hữu làm nghề dạy học? Trước hết làm một bà mẹ Kitô-hữu hay một nữ Kitô-hữu làm mẹ gia đình?…”. Và câu hỏi ấy được giải thích thêm: Hai cái, cái nào là gốc, là cốt lõi, và cái nào là tĩnh từ, phụ thuộc trong cuộc sống của bạn?

Một thí dụ khác: trong cuộc sống lứa đôi Kitô-giáo, cái gì được đề cao, lưu ý hơn để thực sự phát huy cuộc sống Kitô-hữu của vợ chồng: trước hế họ là vợ chồng, được kêu mời để sống bổ sung cho nhau? Hoặc trước hết họ cảm nhận nhau sâu xa hơn nữa như là anh em trong Chúa Giêsu-Kitô, được gọi để sống Phúc-âm trong cuộc sống hằng ngày, yêu nhau trong tình yêu thương của Chúa, quên mình, tha thứ cho nhau, trung tín với nhau thể hiện chính giáo ước của Chúa Kitô và Giáo-hội Ngài?

Thêm một thí dụ nữa trên bình diện mục vụ: chúng ta thường áp dụng đường lối hoạt động quen thuộc đó là: thấy, xét rồi hành động. Luật ấy có ý nghĩa chính xác trên bình diện xã hội học; nhưng theo nhãn quan Kitô giáo, còn phải bổ túc như sau:

– thấy, vâng đúng vậy, nhưng với con mắt Chúa Kitô

suy xét, đúng rồi, nhưng với ánh sáng toàn diện của Phúc-âm

– hành động, vâng, nhưng trong đường hướng và sức mạnh của đức tin. Mọi điều ấy không thể tùy nghi.

 3- Một vài thái độ căn bản của một Kitô-hữu chân thật 

Để nối kết giữa thần học và mục vụ, tôi muốn trích dẫn một vài đoạn trong một bài báo của Đức Hồng-y Danneels.

  Chúng ta còn can đảm loan truyền Chúa Kitô hay không? 

Về đề tài nầy tôi muốn thử kiểm thảo để truy tìm lại thực chất nền tảng của đức tin chúng ta.  Thông điệp Redemptoris Missio đã đề cập đến vấn đề nền tảng của công tác rao truyền Phúc âm. Tôi nghĩ rằng những vấn đề đã nêu lên trong thông điệp nầy có giá trị cho công cuộc truyền bá Tin-mừng ở xứ chúng ta, cũng như ở các nơi xa xôi khác.

Các vấn đề đặt ra là: Còn cần phải truyền giáo, rao giảng Tin-mừng nữa không? Không thể thay thế truyền giáo bằng đối thoại giữa các tôn giáo hay sao? Phát huy con người qua nỗ lực phát triển chưa đủ sao? Không phải là cần tôn trọng niềm tin kẻ khác, tự do lương tâm của người ta hay sao? Và tất cả các tôn giáo không phải là có giá trị như nhau hay sao?

Chúng ta không phủ nhận những nội dung nầy, vì những căn rễ của chúng rất tốt lành: như tự do lương tâm, dân chủ hóa, tôn trọng đời tư, tôn trọng các tôn giáo khác, và ý nghĩa của đối thoại. Vaticanô II đã nhấn mạnh đến các giá trị nầy. Các quan niệm ấy không phát xuất từ những kẻ xấu bụng, nhưng bởi một tâm hồn ngay thực và tốt lành. Tuy vậy chúng vẫn nêu lên cho chúng ta nhiều vấn nạn.

  Chỉ có một Đấng Cứu độ 

Chối bỏ Chúa Kitô là Đấng Cứu độ duy nhất của mọi người là buộc chúng ta phải xóa đi ba phần tư Tân-ước. Vì Phêrô và mười hai tông đồ, Phaolô và Gioan, đã mạnh mẽ nêu lên tính cách duy nhất nơi Chúa Kitô Đấng Cứu độ.

  Xác tín sâu xa của những môn đệ đầu tiên của Chúa Giêsu là xác tín về Ngài là Đấng Cứu độ duy nhất. Đó là một đìểm nền tảng quyết định tất cả.

Nếu Chúa Kitô không phải duy nhất, thì đức tin trở thành tùy nghi. Không thể nào bảo chứng cho công cuộc truyền giáo: người ta dựa vào uy quyền nào để nói về Đấng Kitô cho các dân tộc khi Đức Kitô chỉ là một trong các vị cứu độ khác?  Không chấp nhận Chúa Kitô là duy nhất, thì mọi công cuộc truyền giáo chỉ là cao vọng mơ hồ.

 Người ta không còn cách nào khác để được cứu độ sao? Nhiều người đương thời với chúng ta còn sống Phúc-âm hơn là người Kitô hữu. Có những “hạt mầm Ngôi Lời” (semina Verbi) ở ngoài vòng vi của Giáo-hội hữu hình chúng ta, ở ngoài sợi giây liên lạc hữu hình với Chúa Kitô.  Nhưng chúng ta phải xác quyết là mọi dấu vết cứu độ đều liên kết với Chúa Kitô duy nhất. Vì giai đoạn chuyển từ mối liên kết mặc nhiên đến mối liên kết minh nhiên, nhờ việc rao giảng, tùy thuộc vào ý Chúa: Anh em hãy ra đi, hãy rao giảng cho tất cả các dân tộc và rửa tội cho họ.

Thánh Phanxicô Assisi đến sống với người Hồi giáo và vị giáo trưởng của họ. Ngài vừa loan báo Chúa Giêsu vừa tôn trọng vị thủ trưởng và các tín đồ hồi giáo đến nỗi sau sáu thế kỷ người ta còn nhớ đến ngài. Tôi nghĩ đây là một thái độ chúng ta phải noi theo.

 Không được phân tách Nước-Trời với Chúa Kitô 

Điểm căn bản thứ hai: mối liên kết giữa con người Chúa Giêsu và Nước Thiên Chúa. Nước Thiên Chúa ấy gồm những giá trị như: bao dung, liên đới, bác ái, hòa bình, chia sẻ, dấn thân xây dựng trật tự thế giới công bằng….Các giá trị ấy do Chúa Giêsu cổ súy và gắn liền với Con Người của Ngài.

Người ta có khuynh hướng tách rời các giá trị Nước Chúa khỏi Con Người Giêsu. Chúng ta phải thú thực là nhiều hội đoàn và phong trào chúng ta đã đi đến mức đó. Cũng không phải vậy để có dịp lên án hay phạt vạ họ. Chúng ta nhận thấy nhiều người hát ca tôn vinh những giá trị nước Chúa và cổ súy các giá trị nầy. Được như vậy là quý hóa; tôi không hề cầm đá ném vào họ.  Nhưng xin hỏi họ có chắc là các giá trị nầy, một khi bị tách ra khỏi Đức Kitô, liệu còn tồn tại lâu dài không?

Nhiều hội đoàn của chúng ta cảm ứng tinh thần Kitô giáo đang nỗ lực cổ súy các giá trị Kitô giáo, tôi ủng hộ các cố gắng ấy, đó là một thiện ích cho nhân loại và văn minh; nhưng cũng phải lưu ý là khi các giá trị nầy bị tách ra khỏi toàn bộ cuộc sống cụ thể của Kitô-hữu, thì thường sẽ teo tóp dần. Nên việc cổ võ các giá trị ấy cần được nuôi dưỡng bằng cuộc sống chiêm niệm, đức tin, bí tích và phụng vụ.

 Đừng tách rời một bên là Thiên Chúa, bên kia là Đức Kitô

Thứ ba: đừng chủ trương một ý niệm mơ hồ về Thiên Chúa tách khỏi Đức Kitô. Mặc khải Kitô giáo không hướng đến một loại thờ trời nào đó một cách mơ hồ. Nó diễn tiến cụ thể từ Giavê, Thiên Chúa của Cựu-ước và Chúa chúng ta, nhờ bởi Chúa Kitô đã chết và đã sống lại mà đi đến một sự nhận biết đầy đủ về Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Việc nhận biết Chúa Ba Ngôi liên kết chặt chẽ với mặc khải của Chúa Kitô.

Mục đích của rao truyền Phúc-âm không phải là đưa người ta trở thành những người tin vào Chúa nào đó, nhưng là những người tin vào một Chúa, Cha, Con và Thánh Thần. Đấng duy nhất có thể dẫn đưa chúng ta vào đức tin nầy trong Chúa Ba Ngôi là Con Thiên Chúa làm người. Ngài là Đấng duy nhất đã thấy Chúa Cha, là Đấng duy nhất có thể ban Thánh Thần cho chúng ta. Những yếu tố khác trong việc làm của chúng ta không phải là sai trái, đáng lên án, nhưng phải đặt vào vị thế thích đáng của chúng.

Nhưng dựa vào cao vọng nào mà chúng ta nói mình nói được chân lý? Đó là câu nói làm tắt nghẽn hứng khởi truyền giáo: “Quí vị là ai mà dám cao ngạo nói mình có chân lý?” Câu nói nầy người ta thường lặp đi lặp lại với chúng ta. Nếu chúng ta không nhận sứ mạng của Chúa Kitô, nếu không phải chính Ngài đã đặt để lời Ngài trong miệng chúng ta, mọi lời nói về Phúc-âm của chúng ta chỉ là cao vọng hão huyền. Nhưng ai chỉ nói điều mình đã nhận trong đức tin không thể bị kết án là cao vọng được.

Chúa Giêsu đã từng gặp những khó khăn như thế; cũng như các tông đồ tiếp theo Ngài, khi họ chỉ muốn vâng lời Thiên Chúa hơn là nghe theo con người. Nếu chúng ta không vâng lời Chúa là Đấng sai gửi chúng ta, thì rõ ràng là chúng ta không có quyền lên tiếng. Những lời chống đối như thế buộc chúng ta quay nhìn về Chúa Kitô.  Chúng vẩn lợi ích cho chúng ta, đừng ngại gì. Can đảm lên!

 Tác giả:  Gs. Nguyễn ĐăngTrúc

THẦN TÌNH YÊU

THẦN TÌNH YÊU

tác giả:  M. Hoàng Thị Thùy Trang.


 Ngôi Ba Thiên Chúa, thuật ngữ xem thường rất gần gũi trên môi miệng người tín hữu nhưng dường như hơi xa lạ trong não trạng mỗi người. Người ta dễ gần với Thiên Chúa Cha, Đức Giêsu và không mấy thường xuyên cầu nguyện cùng Chúa Thánh Linh. Như một thói quen đạo đức tốt, mở đầu những giờ cầu nguyện, các việc làm… người tín hữu luôn cầu xin Chúa Thánh Linh soi lòng mở trí, chúc phúc cho mọi công việc của họ, nhưng lại rất dễ mau quên Ngài.

 Quả thật, ngôi vị Thánh Linh là Ngôi Ba Thiên Chúa, là Thánh Thần tình yêu, là mối dây thông hiệp, bác ái, là sức mạnh, là sự khôn ngoan của Thiên Chúa. Ở đâu có tình yêu, hiệp nhất, ở đó có sự hiện diện của Ngôi Ba.

 Nói đến từng ngôi vị Thiên Chúa, là nói đến sự mầu nhiệm không thể lý giải được, chỉ còn lấy đức tin mà bù lại. Ngôi Ba Thánh Linh được sinh ra từ tình yêu của Thiên Chúa Cha và Chúa Con. Đức Giêsu là Con Một yêu dấu của Thiên Chúa Cha. Chúa Cha tạo dựng, Chúa Con cứu chuộc, Chúa Thánh Thần thánh hóa. Đó là sự thật về Thiên Chúa. Ba ngôi vị nhưng là một Thiên Chúa. Mỗi ngôi vị có một sứ mệnh riêng biệt tạo dựng, cứu chuộc và thánh hóa nhưng đều mang tình yêu, ơn cứu độ và sự sống vĩnh cửu cho nhân loại.

 Chúa Thánh Thần là Thiên Chúa hay bị lãng quên. Người ta ít nhớ đến Ngài vì sự hiện diện vô hình của Ngài? Nhưng nhân loại quên một điều cố yếu rằng, từ khi chưa có đất trời, từ khi có sự hiện hữu của Thiên Chúa, là Ngài đã hiện diện, vì Ngài cũng chính là Thiên Chúa. Thiên Chúa của sự thinh lặng, Thiên Chúa của sức mạnh và quyền năng.

 Chúa Thánh Thần ban đủ bảy ơn xuống trên tất cả những người tin, hầu giúp họ vượt thắng mọi cám dỗ và sự dữ mà trung thành với Thiên Chúa. Ai sống no đầy ơn nghĩa với Chúa Thánh Thần, người ấy thủ đắc được ân sủng thần linh. Thế giới được sinh ra từ Thần Khí, khi Thiên Chúa tạo dựng vũ trụ, nặn con người bằng bùn đất, Ngài đã thổi sinh khí Ngài để trao ban sự sống. Và sự sống vĩnh cửu đời sau cũng vậy, chỉ có ở những ai lãnh nhận được sức mạnh linh thiêng của Ngài.

 Trong những ngày phục sinh sống lại, Đức Giêsu đã hiện ra với các tông đồ, thổi hơi vào các ông để trao ban Thánh Thần: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai thì người ấy được tha, anh em cầm giữ ai thì người ấy bị cầm giữ” (Ga 20, 23). Thần khí ngày phục sinh các tông đồ lãnh nhận từ Đức Giêsu, cũng chính là Thánh Thần chúng ta lãnh nhận trong ngày đầu tạo dựng và là Thánh Thần khi ta chịu phép rửa. Thánh Thần là dấu chỉ chúng ta thuộc về Thiên Chúa.

 Về trời, Thiên Chúa Cha và Đức Giêsu đã trao ban Thánh Thần cho nhân loại. Sức mạnh và quyền năng của Thánh Thần từ nay hiện hữu trên hoàn vũ. Thời đại của Thánh Thần đã đến. Thánh Thần sẽ thánh hóa, kiện toàn sứ mạng cứu chuộc của Đức Giêsu trên trần gian.

 Người ta nói nhiều đến chiến tranh và hận thù. Thế giới luôn tìm mọi cách để phá vỡ chiến tranh, kêu gọi hòa bình. Nhưng bao nhiêu thiên niên kỉ qua rồi, nhà nhà vẫn chiến tranh, người người vẫn chiến tranh, nước nước vẫn chiến tranh. Nếu như không có Thần Khí trong mình, nếu như không có Thánh Thần ngự trị, tất cả mọi lời kêu gọi, mọi hoài bão cũng trở nên vô hiệu. Chỉ khi nào, chỉ những ai có Thánh Thần, lúc ấy, người ấy, mới đích thực là khí cụ chứng nhân của Thiên Chúa.

 Lạy Chúa, sự sống của con là của Thần Khí và thuộc về Thần Khí. Thế giới này đang được điều khiển dưới sức mạnh của Thần Khí. Đấng là Tình yêu, là mối dây liên kết, là sự thông hiệp và là hơi thở, sự sống của Ba Ngôi vĩnh cửu. Nguyện xin Chúa Thánh Linh luôn ở trong con, hoạt động nơi con, cho con sự khôn ngoan và tình yêu của Chúa, hầu con có đủ sức mạnh, loan truyền tin vui cứu độ bằng chính đời mình. Có Thánh Thần Chúa bên con, là có tất cả. Cho dù thế lực sự ác đang tràn ngập thế gian, bóng tối tội lỗi có che kín bầu trời, thì con vẫn luôn có sức mạnh bất diệt của Thánh Linh Chúa, kiên cường vượt qua mọi gian nan, thử thách. Vì con luôn có Thần Tình Yêu ở bên mình…

 M. Hoàng Thị Thùy Trang.

nguồn: Maria Thanh Mai gởi

Thánh Mađalêna Sôphi Barat

 Thánh Mađalêna Sôphi Barat

    (1779 — 1865) 

 25 Tháng Năm

        Sinh ở Burgundy, nước Pháp, trong một gia đình trồng nho, Thánh Mađalêna được sự hướng dẫn chu đáo và rất kỷ luật của người anh ruột, tên Louis, sau này là linh mục. Trong thời kỳ Cách Mạng, anh Louis bị cầm tù và sau đó cùng với cô em gái trốn lên Balê, là nơi thánh nữ được học hỏi về tôn giáo.

     Mađalêna ao ước phục vụ Thiên Chúa qua tính cách của một trợ sĩ dòng Camêlô. Nhưng đó không phải là ý Chúa. Một nhóm linh mục người Pháp thuộc tu hội Thánh Tâm muốn thành lập một tu hội nữ để giáo dục các cô gái, và Cha Varin, người trưởng nhóm nghe biết về Mađalêna, do đó vào năm 1800, cha đã chấp nhận Mađalêna cùng với ba người khác như các nữ tu và giao cho họ công việc thiết lập một tu hội giáo dục. Nhà trường đầu tiên của Tu Hội Thánh Tâm Chúa Giêsu được thành lập ở Amiens năm 1801.

     Sau một năm hoạt động, Mađalêna được chọn làm bề trên dù lúc ấy mới 23 tuổi — trẻ hơn các nữ tu khác, và sơ đã điều hành tu hội trong vòng 63 năm kế tiếp.

     Tu hội phát triển trên toàn nước Pháp, hấp thu các nữ tu thuộc tu hội Thăm Viếng ở Grenoble (trong số đó có Chân Phước Philippine Duchesne, là người đưa tu hội sang Hoa Kỳ năm 1818), và Tu Hội Thánh Tâm Chúa Giêsu đã được Ðức Giáo Hoàng Lêô XII chính thức công nhận vào năm 1826.

     Năm 1830 đệ tử viện của Tu Hội ở Poitiers bị lực lượng cách mạng đóng cửa, và Sơ Mađalêna đã thành lập một đệ tử viện khác ở Tân Tây Lan.

     Cho đến khi ngài từ trần, ngày 21 tháng Năm 1865 ở Balê, tu hội đã thành lập được 105 trường trong 12 quốc gia.

     Ngài được phong thánh năm 1925.
  

  Lời Trích

     Thánh Mađalêna Barat thường nói với các nữ tu trong tu hội, “Sự cần cù làm việc, là kẻ thù của linh hồn bất toàn, đem lại kết quả dồi dào cho những ai yêu mến Thiên Chúa.”

nguồn: Maria Thanh Mai gởi