Thánh Phanxicô Assisi

Thánh Phanxicô Assisi

Ngày 4/10:

Thánh Phanxicô chào đời vào khoảng cuối năm 1182, tại thành Assisi, ở phía bắc thủ đô Rôma. Cha là ông Phêrô Bênađônê, một thương gia chuyên nghề bán len dạ; mẹ là bà Pica, một phụ nữ hiền đức, hiếm có.

Cậu Phanxicô rất hào hoa, lại được gia đình giàu có nuông chiều, nên cậu mặc sức ăn chơi phung phí. Mộng công danh thôi thúc, Phanxicô theo bá tước Gôthiê đơ Briênnơ đi chinh phục vùng Apulia, gần thành Assisi. Nhưng ý Chúa nhiệm mầu đã khiến Phanxicô đau nặng và bắt buộc phải trở về quê hương.

Lần này, tuy vẫn ăn chơi như trước, nhưng Phanxicô cảm thấy những thú vui xưa kia dần dần mất hết ý nghĩa. Thế rồi Phanxicô đi tìm lý tưởng cao đẹp hơn. Một hôm, lúc đang cầu nguyện trong nguyện đường Đamianô nhỏ bé, Phanxicô nghe tiếng Chúa phán ra từ cây Thánh Giá: “Phanxicô, con hãy đi sửa lại ngôi đền thờ của ta đang đổ nát!” Phanxicô hiểu câu nói này cách nông cạn, nên tình nguyện đi xin từng viên đá đem về sửa lại ba ngôi nguyện đường cạnh Assisi. Phanxicô chưa hiểu rằng, ngôi đền thờ mà Chúa muốn nói chính là Hội Thánh.

Ngày 24.2.1208, đang buổi lễ, Phanxicô nghe được đoạn Phúc Âm: “Các con hãy đi rao giảng Tin Mừng… Các con đừng mang theo tiền bạc, bao gậy…” (Mt 10,10). Phanxicô nhận ra tiếng gọi của Chúa, từ nay quyết tâm triệt để sống khó nghèo và theo Chúa trên con đường Thập Tự (Mt 19,21 ; Lc 9,1-6 ; Mt 16,24). Phanxicô vừa đi rao giảng Tin Mừng vừa khất thực.

Phanxicô yêu những người nghèo, những bệnh nhân mà ngài nhìn thấy Chúa Giêsu ở nơi họ. Ngài chỉ muốn giống Chúa Giêsu cách trọn vẹn trong khó nghèo, trong tình yêu, trong sự giảng dạy và trong đau khổ.

Năm 1220, vì những khó khăn nội bộ của Hội Dòng do một số anh em cấp tiến muốn sửa đổi lý tưởng nghèo khó thuở ban đầu, Phanxicô phải bỏ cuộc truyền giáo cho người Hồi giáo để trở lại nước Ý. Một cuộc tử đạo đặc biệt sắp bắt đầu. Năm 1224, Phanxicô xin rút lui về ẩn mình tại núi Laverna.

Nơi đây, ngài được Chúa in năm dấu thánh của Người trên chân tay và cạnh sườn. Phanxicô đã sống một cuộc tử đạo trong hai năm trời; các vết thương luôn rỉ máu, cộng với nỗi đau khổ do một số anh em sống xa lý tưởng ban đầu gây ra. Trong nỗi cô đơn và đau khổ do bệnh hoạn, ngài chỉ muốn hoàn tất ý định của Thiên Chúa cho đến khi “Bạn Chết” của ngài đến kết thúc cuộc đời vào ngày 3.10.1226.

Đức Giáo Hoàng Grêgôriô IX đã phong ngài lên bậc hiển thánh vào ngày 16.7.1228.

Nhờ lời cầu bầu của thánh Phanxicô. Xin Chúa cho chúng ta biết yêu chuộng hoà bình, hòa bình với mọi người và nhất là với những người đối nghịch với chúng ta.nguồn:

Maria Thanh Mai gởi

Từ một cầu thủ dã cầu trở thành Linh Mục

Từ một cầu thủ trở thành Linh Mục

Thầy dòng Desme (bên trái)

 

Silverado, California: Sau nhiều năm sống trong một thế giới vội vã, luôn luôn ồn ào tiếng nhạc, cuối cùng anh Grant Desme,

một cầu thủ dã cầu đã tìm được an bình trong Chúa.

Vào mùa giáng sinh hai năm trước, anh Desme cùng 7 thanh niên khác đã đến tu viện St Michael , sẵn sàng cho một cuộc sống mới.

Anh Grant Desme đã xin đổi tên và đã được giám mục Eugene Hayes đổi tên là Mathew Desme. Trong vòng hai năm qua , anh Mathew Desme đang là tập sinh của chức vụ linh mục cũng như là một thầy dòng ở tu viện Norbertine.

Hai năm trước, anh Grant Desme là một  cầu thủ xuất sắc của hiệp hội dã cầu thiếu niên The Arizona Fall và đã từng được chọn là cầu thủ xuất sắc nhất trong năm 2009.

Cũng trong năm 2009, anh đã được đội dã cầu Oakland Athelics chọn và ký hợp đồng năm đầu với số lương 430 ngàn Mỹ kim.

Nhưng sau một thời gian suy nghĩ, anh ta đã bỏ tất cả, tiền tài danh vọng, để đi học làm một thầy dòng và một linh mục.

 

80 bản đồ chứng tỏ Trường Sa-Hoàng Sa không thuộc Trung Quốc

80 bản đồ chứng tỏ Trường Sa-Hoàng Sa không thuộc Trung Quốc

Ông Thắng Trần, Chủ tịch Viện văn hóa & giáo dục Việt Nam (IVCE) tại New York
(Hoa Kỳ). Ảnh chụp ông Thắng với sách toàn đồ 1933 tại tiệm bán đồ cổ, New York
01.10.2012
Một người Việt ở Mỹ sưu tập 80 bản đồ Tây phương và 3 sách toàn đồ Trung Hoa cho thấy Trường Sa-Hoàng Sa không thuộc chủ quyền Trung Quốc.
Ông Thắng Trần, Chủ tịch Viện văn hóa & giáo dục Việt Nam (IVCE) tại New York (Hoa Kỳ) nói về bộ sưu tập của ông:
“80 bản đồ này có niên đại từ 1626 tới 1980 thể hiện rất rõ hai điều. Thứ nhất, miền Nam của Trung Quốc dừng lại ở đảo Hải Nam và không đi xuống xa hơn về phía Nam. Thứ hai, một số bản đồ Tây phương có chỉ đường hàng hải Bắc-Nam Châu Á, tất cả đường này đi ngang Hoàng Sa những năm 1800 và 1900 khi vùng biển và đảo ở Indochina do người Pháp quản lý. Sau hiệp định Geneva năm 1954, Pháp trao trả toàn vẹn lãnh thổ cho Việt Nam thì tất nhiên Hoàng Sa-Trường Sa nằm trong khu vực trao trả lại cho Việt Nam.”
Ông Thắng cho biết các bản đồ này do ông đích thân tới những nơi bán đồ cổ hoặc lên mạng mua về.
​​Ông Thắng Trần nói ông bắt đầu có ý định sưu tầm những chứng cứ lịch sử này kể  từ nghe tin Tiến sĩ Mai Hồng, nguyên Trưởng phòng tư liệu thư viện – Viện Hán Nôm, công bố tấm bản đồ Trung Quốc thực hiện dưới thời nhà Thanh xuất bản năm  1904 ghi rõ cực nam Trung Quốc là đảo Hải Nam, không bao gồm Hoàng Sa-Trường Sa.
Tấm bản đồ của Tiến sĩ Hồng đã được giao lại cho Bảo tàng Lịch sử Quốc gia bảo
quản và trưng bày hồi cuối tháng 7 vừa qua.
Ông Thắng Trần đã quyết định gửi tặng toàn bộ 80 bản đồ ông sưu tập được cho
Viện phát triển Xã Hội Ðà Nẵng.
Tiến Sĩ Trần Ðức Anh Sơn, Viện Phó Viện phát triển Xã Hội Ðà Nẵng, người đang
phụ trách công tác nghiên cứu về Hoàng Sa – Trường Sa, phát biểu:
“Những phát hiện này của anh Trần Thắng rất quý bởi vì đã giúp cho những
người nghiên cứu như chúng tôi có thêm cơ sở khoa học, chứng lý để có thể góp
phần chứng minh chủ quyền của Việt Nam đối với Hoàng Sa-Trường Sa và bác bỏ
những đòi hỏi vô lý của Trung Quốc về chủ quyền đối với hai quần đảo này.”
Toàn bộ hình ảnh về bộ sưu tập này được chủ nhân lưu lại tại trang web của Viện Văn hóa và Giáo dục Việt Nam ở địa chỉ ivce.org.

THIÊN THẦN BẢN MỆNH

THIÊN THẦN BẢN MỆNH

LỄ NHỚ NGÀY 02/10

Tác giả: Lương Văn Liêm

nguồn: Thanhlinh.net

 

Theo niên lịch phụng vụ, ngày 02 tháng 10, Giáo Hội mời gọi con cái mình kính nhớ đến các Thiên Thần Bản Mệnh. Trước là để ta dâng lên Thiên Chúa lời cảm tạ tri ân vì Ngài đã ban tặng cho ta những người bạn tuyệt vời, luôn ở kề bên để chăm sóc, gìn giữ, nhắc nhở và bảo vệ ta trên bước đường lữ thứ, kế đến là nhắc nhở ta luôn biết cám ơn các Thiên Thần Bản Mệnh, tâm sự với các ngài, xin các ngài cầu thay nguyện giúp và nhất là ta xin các ngài hướng dẫn ta sống sao cho đẹp lòng Chúa, gìn giữ ta khỏi những mưu mô, chước độc của satan.

Các Thiên Thần Bản Mệnh là ai? Các Ngài có ảnh hưởng gì đến đời sống tâm linh cũng như thể chất của ta? Các ngài song hành và ở bên ta dưới hình thức nào…? Quả thật, đây là những câu hỏi mà gần như ít người quan tâm, bận tâm và tìm hiểu! Ngay như vị thánh Bổn Mạng là vị thánh mà cha mẹ ta chọn cho ta khi ta được chịu phép Rửa Tội, ấy thế mà
nhiều khi ta chẳng nhớ, chẳng biết và không mấy quan tâm!

Phải chăng hình ảnh và sự hiện diện của các Thiên Thần Bản Mệnh chỉ là hư cấu, thêu dệt cho thêm phong phú trong quá trình giữ đạo và sống đạo của người Kitô hữu? Phải chăng các Thiên Thần Bản Mệnh được Thiên Chúa sinh dựng để ngày đêm túc trực bên Thánh Nhan Chúa, luôn dâng lời ca tiếng hát chúc tụng, ngợi khen Thiên Chúa, và tô điểm cho ngai tòa Thiên Chúa? Xin thưa, không phải thế, giờ ta cùng tìm hiểu về hình ảnh, nhiệm
vụ của các Thiên Thần Bản Mệnh trước thánh nhan Thiên Chúa và nhất là trong  cuộc sống lữ hành của ta. Để rồi trong từng ngày sống, ta cảm nhận ra tình yêu của Thiên Chúa dành cho ta lớn lao biết là dường nào qua sự đồng hành của các Thiên Thần Bản Mệnh. Từ đó, ta luôn hướng về các ngài, xin các ngài giúp đỡ, xin các ngài cầu thay nguyện giúp cho ta.

Sách giáo lý Công Giáo dạy ta: “Các thiên thần là những thụ tạo thiêng liêng, không có thân xác, vô hình và bất tử; đó là những hữu thể có ngôi vị, có lý trí và ý chí. Họ không ngừng chiêm ngắm Thiên Chúa diện đối diện và tôn vinh Thiên Chúa; các ngài phục vụ Thiên Chúa và là những sứ giả của Ngài để thực hiện sứ vụ cứu độ loài người. (x. sách GLCG 350). Thánh Basiliô cả xác tín  rằng “Bên cạnh mỗi tín hữu đều có một thiên thần như đấng bảo trợ và mục tử, hướng dẫn họ đến sự sống”. Trong Kinh Thánh rất nhiều chỗ tường thuật lại việc các Thiên Thần Bản Mệnh thực hiện mệnh lệnh của Thiên Chúa để bảo vệ, nâng đỡ , dẫn dắt con người nhân loại.

  • Trình thuật của sách Sáng Thế, sau khi con người đầu  tiên là A-đam và E-va phạm lỗi vì nghe theo lời đường mật của satan. Đức  Chúa đã cắt đặt các thần hộ giá canh giữ đường đến cây trường sinh (x.  St.3, 1-24);
  • Sách Xuất Hành Đức Chúa phán với  ông Mô-sê: “ Này  Ta sai Thiên Sứ đi trước ngươi, để gìn giữ ngươi khi đi đường, và đưa  ngươi vào nơi Ta dọn sẵn. Trước mặt người, ngươi hãy ý tứ và nghe lời  người…” (Xh.23,20-21).
  • Sách các Vua quyển 1 trình thuật việc Thiên Sứ đến an  ủi, tiếp tế lương thực cho ngôn sứ Ê-li-a trên đường ông lên núi  Khô-rếp(x.1V.19,1-8)
  • Sách Tô-bi-a trình thuật việc Chúa Sai thiên sứ  Ra-Pha-en đến để đồng hành, dẫn đường cho Tô-bi-a và việc chữa lành cho  thân phụ của Tô-bi-a là ông Tô-bít (x.Tb.5,1-23;11,1-19).
  • Thánh Vịnh 90 trình thuật lại lời xác tín sự hiện diện  của các Thiên Thần Bản Mệnh thực hiện mệnh lệnh của Thiên Chúa bảo vệ con  cái của Ngài: “ Bạn sẽ không gặp điều ác hại , và tai ương không bén bảng tới  nhà. Bởi chưng Thiên Chúa truyền cho thiên sứ giữ gìn bạn trên khắp nẻo  đường, và thiên sứ sẽ tay đỡ, tay nâng, cho bạn khỏi vấp chân vào đá” (x.Tv.90,1-16).
  • Thánh Phao-lô trong thư gửi cho giáo đoàn Do-thái đã  viết về các Thiên Thần: “Nào tất cả các vị đó không phải là những bậc  thiêng liêng chuyên lo phụng thờ Chúa, được sai đi phục vụ để mưu ích cho những kẻ được thừa hưởng ơn cứu độ sao?”(Dt.1,14).
  • Sách Tin Mừng trình thuật rất nhiều về sự hiện diện của  các Thiên Thần (Sứ thần) của Thiên Chúa: Sứ thần truyền tin cho Đức Maria,  ông Dia-ca-ri-a (x.Lc.1,538); Sứ thần truyền tin cho Thánh Cả Giuse  (xMt.1,18-25;2,13-23); Đạo binh các thiên thần hát vang trong đêm Đức Kitô  giáng sinh(x.Lc.2,1-20); Sứ thần loan báo tin vui Phục Sinh (x.Mt.25,1-8);  Sứ Thần giải thích cho các thánh Tông Đồ về sự kiện Đức Giêsu về Trời
    (x.Cv.1,9-11). Đặc biệt là lời dạy dỗ, nhắc nhở của Đức Giêsu về hình ảnh  và vai trò của các Thiên Thần: “ Anh em hãy coi chừng, chớ khinh một ai  trong những kẻ bé mọn này, quả thật, Thầy nói cho anh em biết: các thiên  thần của họ ở trên trời không ngừng chiêm ngưỡng nhan Cha Thầy, Đấng ngự  trên trời” (Mt.18,10).
  • Giáo Hội xác tín sự hiện diện, nâng đỡ của các Thiên  Thần Bản Mệnh qua lời nguyện nhập lễ kính nhớ các ngài: “ Lạy Chúa! Chúa  sai các Thiên Thần đến gìn giữ chúng con. Xin ban cho chúng con đời này  được các Ngài luôn bênh vực che chở, và đời sau được cùng các Ngài hưởng phúc vinh quang”.

Vâng! Theo ý muốn và tình thương của Thiên Chúa, Ngài đã tác dựng các Thiên Thần, để các ngài trở thành cánh tay nối dài của Thiên Chúa trong việc săn sóc, đồng hành, gìn giữ, nhắc nhở và che chở ta khỏi mưu chước của quyền lực sự dữ, các thiên Thần Bản Mệnh hằng cầu nguyện cho ta trước thánh nhan Chúa, ghi chép tất cả những công việc, tư tưởng, ước
muốn của ta mà dâng lên cho Thiên Chúa.

Mẹ Maria đã mạc khải cho một vị thánh về vai trò của các Thiên Thần bản Mệnh của mỗi người khi họ tham dự thánh lễ. Mẹ phán: “ Khi các con đến tham dự thánh lễ, đến phần vị chủ tế chuẩn bị dâng của lễ. Các con có biết, Thiên Thần Bản Mệnh của các con sẽ thay các con tiến về phía bàn thờ, trên đôi tay của các ngài là những tâm tư, ước nguyện mà các con muốn tiến dâng lên cho Thiên Chúa khi tham dự thánh lễ, cũng có những Thiên Thần tiến lên bàn thánh, nhưng trên tay của các ngài không có chút của lễ nào vì người tham dự thánh lễ không ý thức và đến tham dự thánh lễ một cách máy móc, chia trí, lo ra… Thiên Thần Bản Mệnh của những người tham dự thánh lễ như thế rất buồn và liên lỉ cầu nguyện cho họ” ( trích Mẹ Maria mạc khải thánh lễ).

Có thể nói, rất nhiều người không biết, không hiểu và lãng quên sự hiện diện của các Thiên Thần Bản Mệnh. Các ngài chính là ân sủng, là quà tặng mà Thiên Chúa ban nhưng không cho ta trên bước đường lữ hành. Sự hiện diện của các ngài là dấu chỉ Thiên Chúa luôn ở cùng và ở với ta trong từng ngày sống. Các Thiên Thần luôn hướng dẫn ta trong đời
sống đạo, luôn bênh đỡ ta và gìn giữ ta, nhắc nhở ta mỗi khi ta phạm lỗi bằng tiếng nói của lương tâm. Thế nhưng, nhiều khi ta không nhận ra tiếng nói lương tâm thôi thúc, nhắc nhở ta là tiếng nói của các Thiên Thần Bản Mệnh. Nhiều lần ta thoát khỏi những tai nạn, tai ương trên bước đường, ta không nhận ra chính các Thiên Thần đã bảo vệ, cầu nguyện cho ta, đem lại cho ta sự bình an…!

Nhiệm vụ của Thiên Thần Bản Mệnh là thực hiện mọi công việc mà Thiên Chúa giao phó cho các ngài, dẫu trong đời sống ta thường xuyên vô ơn, lãng quên các ngài, nhưng các ngài không hề bỏ rơi ta hằng ở luôn bên ta, âm thầm bảo vệ, gìn giữ và nhắc nhở ta sống và đi theo đường ngay nẻo chính, giúp ta thực hiện những việc lành phúc đức, hướng dẫn ta
và dắt ta về với Thiên Chúa là Cha luôn yêu thương con cái mình. Ta hãy nghe lời của Thiên Thần nói với ông Tô-bít và Tô-bi-a khi các ông được người dẫn đường nói cho biết sự thật ngài là Ra-pha-en một trong bảy thiên sứ hằng hầu cận và vào chầu trước nhan vinh hiển Chúa, các ông đã hoảng sợ, nhưng sứ thần nói tiếp: “Đừng sợ! Bình an cho các người! Hãy chúc tụng Thiên chúa đến muôn đời! Phần tôi, tôi đã ở với các ngươi không phải do lòng tốt của tôi, mà do do ý muốn của Thiên Chúa….”(x.Tb. 121-22).

Theo dòng lịch sử của Giáo Hội, có rất nhiều câu chuyện kể về những ơn lành và sự đồng hành của các Thiên thần Bản Mệnh. Xin mượn câu chuyện sau để kết thúc đôi dòng suy tư về các Thiên Thần Bản Mệnh

Tại một xứ đạo vùng sâu, vùng xa ở nước Pháp, vào một đêm khi cha sở họ đạo chuẩn bị lên giường nghỉ, bỗng có tiếng gõ cửa và tiếng kêu cứu xin cha sở tới xức dầu cho một bệnh nhân đang trong cơn nguy tử. Trời khuya, muốn tới nhà bệnh nhân, cha sở phải băng qua khu rừng vắng. Với trách nhiệm và bổn phận, cha sở chuẩn bị tư trang để lên đường.
Khi tới đầu khu rừng vắng, với một thân một mình, bỗng trong tâm trí ngài cảm thấy sợ, lúc bấy giờ ngài nhớ tới Thiên Thần Bản Mệnh, ngài cầu nguyện và xin Thiên Thần đi cùng. Ngài đã đến kịp thời ban các phép và cầu nguyện cho bệnh nhân trước khi bệnh nhân trút hơi thở cuối cùng.

Thời gian trôi qua khoảng 10 năm.Vào một buổi chiều người ta đến báo cho ngài có một một người rất muốn gặp Cha, người đó là một tử tù sắp bị hành quyết. Ngài vội lên đường. Khi đến nơi, người tử tù nói:

  • Thưa Cha! Cha có phải là cha sở họ đạo X? Vị mục tử gật đầu và hỏi:
  • Sao anh biết tôi? Người tử tù kể lại
  • Thưa Cha! Cha có nhớ vào một buổi tối cách đây 10 năm,  tại khu rừng vắng, vào thời điểm đó, con đang là một tên cướp của, giết  người đang bị truy nã. Con dự tính sẽ cướp và giết bất cứ ai con gặp. Và  rồi con thấy cha, nhưng thật là xúi quẩy cho con, vì cha không đi một mình, con thấy người đi cùng với cha rất đẹp và rất cao to, con chợt nghĩ
    đây không phải là đối thủ của mình nên đành dậm chân, lui gót xa rời con mồi mà mình đã và đang chờ đợi. Rồi anh kể tiếp:
  • Thưa Cha! Con là người có đạo, nhưng con đã sống bê tha  và trở thành kẻ cướp của giết người, giờ đây con đáng bị người đời trừng  trị, xin cha cho con biết người thanh niên đi cùng cha là ai, vì con thấy  dung mạo của anh ta rất khác thường, hiền lành nhưng uy nghi làm con sợ.  Sững lại ít giây, vị mục tử liền trả lời:
  • Chàng thanh niên đó là Thiên Thần Bản Mệnh. Người tử tù nghe thế liền khóc và xin vị mục tử cho anh xưng tội và chịu các phép sau cùng.

Lạy Chúa! Xin cho con luôn biết kính trọng, yêu mến và cậy trông vào sự che chở của các Thiên Thần Bản Mệnh là những người bạn mà Chúa đã quan phòng ban tặng cho con trên bước đường về quê trời. Xin giúp con luôn biết lắng nghe những lời nhắc nhở của các ngài qua tiếng nói lương tâm, để nhờ ơn Chúa giúp và sự đồng hành của các Thiên Thần Bản Mệnh mà con luôn sống trong bình an và sống đẹp lòng Chúa bây giờ và mãi mãi.Amen

Sài Gòn, ngày 22/09/2012

Antôn Lương Văn Liêm

Hình ảnh Đức Mẹ khóc ở khắp nơi trên thế giới

Hình ảnh Đức Mẹ khóc ở khắp nơi trên thế giới

Tác giả: Sưu tầm                         nguồn Thanhlinh.net

 

 

“Khiết Tâm Vô Nhiễm Nguyên Tội mà con đang chiêm ngưỡng này đã đổ ra rất nhiều nước mắt. Con hãy tôn vinh và an ủi Trái Tim Tân Khổ của Mẹ bằng việc suy phục Thánh Ý Cha và quảng đại chiến đấu chống lại cái tôi của con”. (trích Thông Điệp Tình Yêu Nhân Hậu của Chúa Giêsu với Hồn Nhỏ).

 

Những hình ảnh Đức Mẹ khóc ở các nơi trên thế giới. Đây là những bản tường trình mà có những hiện tượng được Giáo hội công nhận cũng như chưa được cộng nhận. Thanhlinh.net đăng tải để tham khảo và dành sự phán quyết của Giám mục địa phương.


Đức Mẹ khóc tại New Orlearns 1972

Đức Mẹ khóc tại Equador 1906

Đức Mẹ khóc tại Pittsburght, USA 1973

Đức Mẹ khóc tại Ba Lan 2012

Đức Mẹ khóc tại Úc 2001

Đức Mẹ khóc tại Roma 1994

Đức Mẹ khóc tại Columbia

Đức Mẹ khóc tại Nga 1998

Đức Mẹ khóc tại Massachusettes, USA 1991

Đức Mẹ khóc tại Ontario 2010

Đức Mẹ khóc tại Massachusettes, USA 2004

Đức Mẹ khóc tại Virgina USA 1992

Đức Mẹ khóc tại Medjugorje 2011

Đức Mẹ khóc tại Ecuador 2004

Đức Mẹ khóc tại Romania 2003

Đức Mẹ khóc tại 1953

Đức Mẹ khóc tại New Orlearns 1980

Đức Mẹ khóc tại Bangladesh 2003

Đức Mẹ khóc tại New York USA 1972

Đức Mẹ khóc tại Canada 1984

Đức Mẹ khóc tại Ý 1953

Đức Mẹ khóc tại Tây Ninh Việt Nam
 

Đức Mẹ khóc tại Akita, Japan 1973

Đức Mẹ khóc tại La Salette, Pháp 1846

Đức Mẹ khóc tại Á Căn Đình 2011

Đức Mẹ khóc tại Georgia 2012

Đức Mẹ khóc tại Venezuela, 2003

Đức Mẹ khóc tại Illinois, USA 1994

Đức Mẹ khóc tại Phi Luật Tân 1992

Đức Mẹ khóc tại El Salvador 2008

Đức Mẹ khóc tại New York, USA 1984

Đức Mẹ khóc tại Damacus, Syria 1977

Đức Mẹ khóc tại Venezuela 2007

Đức Mẹ khóc tại Los Angeles, USA 2009

Đức Mẹ khóc tại Rockingham Úc 2002

Đức Mẹ khóc tại Venezuela 2010

Đức Mẹ khóc tại Naju, Đại Hàn 1995

Đức Mẹ khóc tại Paraguay

Đức Mẹ khóc tại Hy Lạp 2003

Đức Mẹ khóc tại Ý 1992

Đức Mẹ khóc tại Ý 1972

Đức Mẹ khóc tại Ohio USA 2011

Đức Mẹ khóc tại Ukraine 2009

Đức Mẹ khóc tại Chí Lợi 2012
 

Đức Mẹ chảy máu tại Baton Rouge, New Orlearns 2012
 

 

MỘT TÂM HỒN LỚN TRONG MỘT THÂN THỂ BÉ MỌN

MỘT TÂM HỒN LỚN TRONG MỘT THÂN THỂ BÉ MỌN

(Lễ kính Thánh nữ Tê-rê-sa Hài Đồng Giê-su – 01/10)

Trong một lớp học tại một Liên huynh đoàn Đa Minh thuộc GP Saigon, tôi đươc mời chia sẻ đề tài “Thánh nữ Tê-rê-sa Hài Đồng Giê-su – Mẫu gương Giới Trẻ”. Thánh nữ Tê-rê-sa Hài Đồng Giê-su tác người nhỏ bé, ốm yếu, nhưng lại có một tâm hồn vĩ đại khôn sánh. Ngài đã kiên quyết hiến thân cho Chúa ngay từ năm 15 tuổi. Chín năm sau, mới được 24 tuổi, Chị Thánh đã an nghỉ trong Chúa do bị bệnh lao phổi. Thật quá xứng đáng nếu lấy Thánh nữ
Tê-rê-sa làm mẫu gương cho giới trẻ học tập và rèn luyện trên hành trình loan báo Tin Mừng, làm chứng nhân cho Đấng Cứu Độ Giê-su Ki-tô.

Để hiểu một cách tường tận về Thánh nữ, xin lược qua ít dòng tiểu sử: Là út trong một gia đình có 9 người con (7 gái + 2 trai), Tê-rê-sa chào đời ngày 02/01/1893 tại Boóc-đô (Bordeaux – Pháp). Chị có trí thông minh đặc biệt, nhưng tính tình cứng cỏi, bướng bỉnh nhất nhà. Lên 4 tuổi, mồ côi mẹ. 8 tuổi vào học trường các bà Dòng Thánh Biển Đức. 9 tuổi, mắc chứng nhức đầu (chứng bệnh mà Đông y gọi là “thiên đầu thống”). 10 tuổi bệnh nặng hơn và trở nên nguy kịch vào năm 11 tuổi. Sau đó, thật lạ lùng, Tê-rê-sa kêu van Đức Mẹ thì được khỏi bệnh. 15 tuổi, xin được Đức Thánh Cha Lê-ô XIII chuẩn tuổi để vào Dòng Ca-mê-lô. Vì trong Dòng có vài người trùng tên, nên chị đã lấy tên mình là Tê-rê-sa Hài Đồng Giê-su (Thérèse de l’Enfant Jésus). Việc đặt tên hiệu này – theo thiển ý – là đã có sự tác động lớn từ Thiên Chúa – cụ thể là Đức Giê-su Ki-tô – vào cuộc đời chị và đó cũng chính là bước ngoặt lớn: Kể từ đây chị đã đính ước với Đức Ki-tô và Người đã chính thức là vị Hôn phu kể từ ngày chị được mặc áo Dòng (10/01/1889 – 16 tuổi).

Thứ Sáu Tuần Thánh năm 1896 (23 tuổi), chị bị xuất huyết lần đầu do bị lao phổi và vào khoảng hơn 19 giờ ngày 30/9/1897 (24 tuổi), sau khi đã nói với Chúa: “Con không hối hận vì đã hiến thân cho Tình Yêu Chúa”, và nói với Mẹ Bề trên Dòng: “Thưa Mẹ, xin Mẹ chuẩn bị cho con chết lành”, chị ôm chặt Thánh Giá, miệng thều thào: “Ôi ! Lạy Chúa! Con yêu mến Chúa”, rồi trút hơi thở cuối cùng. Chị được ĐGH Pi-ô XI tuyên phong Chân phước ngày 29/4/1924, và chính thức tuyên Thánh (là Đấng Bảo Trợ, là Bổn mạng các xứ Truyền giáo) ngày 14/12/1927. Ngày Chúa nhật Truyền giáo 19/10/1997, ĐTC Gio-an Phao-lô II
đã công bố Thánh nữ Tê-rê-sa là Tiến sĩ Hội Thánh. Điều đó cho thấy Thánh nữ đúng là một vị Thánh có một tâm hồn vĩ đại trong một thân thể bé mọn với tuổi đời còn rất trẻ.

Đọc tiểu sử của Thánh nữ, ta thấy chị không phải vất vả đi khắp nơi rao giảng Tin Mừng cho dân chúng, đương đầu với lạc giáo, như thánh Đa Minh; không sống khắc khổ, ăn chay đánh tội như thánh Phan-xi-cô Khó Khăn; không phải bỏ quê hương đi đến những vùng xa
xôi truyền giáo như thánh Phan-xi-cô Xa-vi-ê; không để lại nhiều tác phẩm có giá trị triết lý và thần học như thánh Tô-ma A-qui-nô; không làm nhiều phép lạ giúp đỡ những người nghèo khổ bất hạnh như thánh Mác-tin Po-rê; không chịu cực hình để làm chứng cho Chúa như các thánh Tử vì đạo Việt Nam… Vậy mà tại sao Tê-rê-sa lại được Hội Thánh tôn vinh như một đại thánh của thế kỷ XX và XXI?

Câu trả lời thật hiển nhiên: Chính là nhờ Chị Thánh có một phương cách sống rất đặc biệt phục vụ cho một mục đích tối hảo: Chị đi tu rất sớm không vì mong được sống trong Dòng tu “vui vẻ”, mà vì “Tôi có một  mục đích duy nhất là chết vì Tình Yêu”, “Con không hối hận vì đã hiến Tình Yêu cho Chúa” (xc “L’Histoire de l’Âme” – Truyện Một Tâm Hồn – Thérèse). Rõ ràng điều kiện tiên quyết để được theo chân Thầy Chí Thánh là phải cần có
“MỘT TRÁI TIM chứa một bầu máu nóng (nhiệt tâm, nhiệt huyết)”.

Tiếp theo là phải có MỤC ĐÍCH (hoặc gọi là “Tham vọng”, là “hoài bão” cũng được) rõ ràng để theo đuổi.  Đích thị Thánh nữ Tê-rê-sa đã có một “tham vọng” rất lớn và rất táo bạo ngay từ hồi nhỏ: “đi tu để trở thành một phó tế, linh mục, tông đồ, nhà truyền giáo và… sẽ tử vì đạo để trở thành một vị … THÁNH LỚN”! (xc. “L’Histoire de l’Âme”). Chính Chị Thánh đã đề tặng nữ tu Marthe de Jésus một tấm hình: “Hãy xin Chúa Giê-su cho tôi trở thành
vị thánh lớn, tôi sẽ xin ơn đó cho bạn tập sự yêu quý của tôi”. Ngông nghênh và tự phụ quá chăng? Không đâu! Đó chỉ là phản ánh một tham vọng – một hoài bão lý tưởng của tuổi trẻ rất chính đáng, mà ở đây, xin nói thẳng: Đó chính là một ƯỚC MƠ THÁNH THIỆN rất đáng trân trọng. Tuổi trẻ mà! Những ước mơ “dời non lấp biển” cũng đã từng làm cho tôi, cho bạn thăng hoa cuộc sống nội tâm. Đẹp biết chừng nào những giấc mơ của tuổi trẻ! Riêng với Tê-rê-sa, Chị Thánh còn đi xa hơn, vượt cao hơn nữa kia! Chị đã nói trước khi khấn trọn: “Con vào Dòng để cứu vớt các linh hồn và cầu nguyện cho các linh mục” (ibid). Tuy nhiên, về sau này, chị Thánh đã khiêm nhường nhận ra mình chỉ là “một hạt cát bé nhỏ vô danh”, “có linh hồn nào nhỏ bé và bất toàn hơn con?” (ibid).

 

Ta còn thấy nơi chị Thánh một ĐỨC HY SINH vĩ đại: * Từ chối hưởng thụ vật chất có được do sự nuông chiều của gia đình dành cho người con út (“giầu út hưởng, khó út chịu” – Tục ngữ VN). – * Sẵn sàng khép mình trong luật lệ khắt khe của một Dòng tu khổ hạnh (hãm mình, ép xác, khiêm nhường, chịu khó, vâng phục, khó nghèo, khiết tịnh…). – * Ngoài những công việc được giao coi bộ không thích hợp lắm với một cơ thể gầy yếu, bệnh hoạn như chị, nhưng chị vẫn vui vẻ làm (quét nhà, rửa chén, lau bụi, giặt rũ…), Chị còn vui
vẻ vác thánh giá (chịu đựng cực hình từ bệnh tật: thiên đầu thống, lao phổi…).Để duy trì và phát triển được điều này, chính là nhờ Chị có một niềm cậy trông vững vàng, sắt đá vào sự phù trợ đắc lực của Đức Mẹ. Và vì thế, nên :

Chị Thánh luôn một lòng vì Chúa, vì tha nhân. Có thể khẳng định Thánh nữ Tê-rê-sa đã sống và thể hiện sinh động nhất một Tình Yêu tuyệt vời mà Đức Giê-su Ki-tô đã thể hiện và hằng mong mỏi loài người làm theo: “MẾN CHÚA + YÊU NGƯỜI và sẵn sàng chết cho người mình yêu”. Chị Thánh nói: “Với con thì Thiên Chúa ban cho con Tình Yêu lân tuất vô cùng của Chúa…, mọi sự trọn hảo đều toả ánh Tình Yêu, ngay cả đức công bằng đối với con cũng là Tình Yêu nữa. Thật vui mừng biết bao khi nghĩ đến Thiên Chúa là Đấng nhân lành vô cùng, có Tình Yêu lân tuất vô cùng” (ibid).

Về Đức Ki-tô, Thánh nữ luôn gọi Người là “Đấng phu quân yêu mến” và “Trái tim Chúa Giê-su mong muốn được yêu mến hết sức”. Còn đối với tha nhân? Từ thời gian đầu mới vào Dòng, Chị Thánh đã phải chịu đựng một sức ép khá nặng nề (Mẹ Bề trên Maria Gonzaga trước đó đã bị kết án là độc đoán và đôi khi tính khí thay đổi thất thường, còn các nữ tu bạn cùng Dòng của Chị Thánh – đa phần là lớn tuổi – thì lạnh lùng và hay chế nhạo người khác). Vậy mà về sau, Chị Thánh đã cảm hoá được tất cả, từ Mẹ Bề trên đến mọi thành viên trong Dòng đều rất yêu thương quý mến Chị. Chưa hết, Chị còn dành rất nhiều thời giờ “để
cứu vớt các linh hồn và cầu nguyện cho các linh mục”, rồi làm thơ, viết thư, hồi ký, kịch giải trí, lời nguyện, viết sách (cụ thể như cuốn “Truyện Một Tâm Hồn – L’Histoire de l’Âme” đã đẫn trên)…, với mục đích để: + Mở ra cho mọi người thấy MỘT TÂM HỒN mến Chúa yêu người đến quên cả bản thân;  + Ghi lại những cảm xúc, những kinh nghiệm từng trải trên đường “vác thập giá mình mà theo Đức Ki-tô”;  + Và trên tất cả là “để ca tụng, tôn vinh Thiên Chúa”.

Tất cả những đức tính nêu trên được bộc lộ ra nơi một con người rất hồn nhiên dung dị một con người đơn sơ đến lạ lùng! Vì thế, Thánh nữ đã gặt hái được trong vinh quang một kết quả trên cả ước mơ của mình: * Được Thiên Chúa cho làm nhiều phép lạ (mà Hội Thánh đã công nhận khi phong Chân Phước và tuyên phong Hiển Thánh cho ngài, và cho mãi
đến về sau này nữa, ngài vẫn tiếp tục làm nhiều phép lạ); * Được Hội Thánh tuyên là vị Thánh lớn, là Đấng Bảo Trợ các xứ Truyền Giáo – một vị Thánh chỉ truyền giáo bằng cầu nguyện trong phạm vi 4 bức tường của Tu viện, mà hiệu quả lại vô cùng rực rỡ!

Mẫu gương tuyệt hảo của giới trẻ chúng ta là như vậy đó. Còn chúng ta thì sao, thưa các bạn trẻ thân mến? Dù sao đi nữa thì cũng xin các bạn cùng hiệp ý cầu nguỵên bằng “Kinh cầu nguyện cùng Thánh nữ Tê-rê-sa Hài Đồng Giê-su” (xc. Trang Kinh Nguyện <Thanhlinh.net>):

“Lạy Thánh nữ Tê-rê-sa Hài Đồng Giê-su, người sống rất vắn vỏi trên cõi trần gian, song người đã được đầu đủ nhân đức; lòng tinh khiết, khiêm nhường, tận tâm mến Chúa và yêu người.  Mà nhất là người đã phú trót mình cho Chúa, tin cậy nơi Chúa như con nhỏ tin nơi mẹ nó vậy.

Người đã truyền cho thế gian một con đường rất đơn sơ, để chóng đưa linh hồn đến đỉnh trọn lành, đó là sự khiêm nhượng thật lòng và coi mình như trẻ bé trước mặt Chúa, cùng trông cậy  nơi lòng lân mẫn vô cùng của Chúa. Xin Thánh Tê-rê-sa cầu bầu cho chúng con được dõi theo gương người, là bước vào “tiểu lộ”, là đường người đã trải qua mà đến cùng Chúa.

 

Lạy Thánh nữ Tê-rê-sa Hài Đồng Giê-su, xưa đã hứa cho mưa hoa hồng xuống trên thế gian này, vậy xin người cầu cùng Chúa Trời, xin cho hoa hồng thiêng liêng đổ xuống trên chúng con, làm cho chúng con được yêu mến Chúa như ngườii, và cho khắp nơi được an ninh, hòa hảo; cùng cho Nước Chúa được hiển trị một ngày một lan rộng hơn. Xin vì lời Thánh nữ khẩn nguyện cho người ngọai giáo được trở lại thờ phụng Chúa, hầu sau này được chung phước cùng Thánh nữ trên Thiên đàng. Amen.”

JM. Lam Thy ĐVD.

nguồn: Maria Thanh Mai gởi

 

Thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu

Thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu
Ngày 1/10:
Thánh Têrêxa chào đời ngày 2.1.1873 tại Alençon nước Pháp. Song thân là cụ Louis Martin (+ 1894) và bà Maria Guérin (+ 1877) có tất cả 9 người con, nhưng chỉ sống có 5 ; cả 5 cô con gái đều bước vào tu viện. Khi Têrêxa chưa tròn 4 tuổi, bà mẹ Guérin qua đời để lại một tang buồn cho gia đình, nhất là Têrêxa. Bà phải chịu ung thư suốt 12 năm đến lúc kiệt sức phải qua đời. Từ ngày đó ông Louis bỏ Alençon lui về Lisieux với cả gia đình.
Vào tháng 4.1888 Têrêxa vào đan viện Cát Minh ở Lisieux lúc được 15 tuổi. Lúc ấy chị có cảm nghiệm phong phú về đời sống đạo đức. Chính chị xem đêm Giáng Sinh 1886 như là một sự kiện quyết định trong đời sống của chị. Chị cảm nhận hồng ân của một cuộc chuyển đổi hoàn toàn; từ đấy, chị hiểu ơn gọi của cuộc đời mình là yêu Chúa Kitô và yêu con người.
Cuộc đời trong dòng Cát Minh của chị, mặt ngoài rất đơn sơ, nhưng con đường nội tâm càng ngày càng lên cao. Chị hiểu rõ tình yêu của chị đối với Chúa Kitô phải được thực hiện trong việc theo Chúa trên con đường khổ nạn. Thánh Kinh đối với chị ngày càng nên sách đọc duy nhất, nhưng kèm theo đó là thử thách nội tâm và đau khổ phần xác lại diễn ra hằng ngày.
Trong đêm thứ sáu Tuần Thánh năm 1896, chị bị ho ra máu lần đầu tiên. Mười tám tháng cuối cùng là một cuộc tử đạo triền miên. Chị qua đời ngày 30.9.1897, hưởng dương 24 tuổi, với tiếng thì thào : “Lạy Chúa, con yêu Chúa !”
Chúng ta biết được con đường nội tâm của thánh nữ nhờ vào quyển “Lịch sử một tâm hồn” và “Các lời nói” do bà chị ruột cũng là bề trên sưu tập. Têrêxa đi vào cái trọn vẹn, cái vĩ đại: chị muốn yêu mến Chúa Giêsu hơn bất cứ ai trên thế giới ; chị muốn dâng mình cho tình yêu nhân từ của Chúa như của lễ toàn thiêu ; chị muốn yêu tất cả mọi người, như Chúa Giêsu đã yêu. Chống lại kiêu ngạo, chị luôn nhận thức mình hoàn toàn bất lực và nếu có làm được gì, đó là do sức mạnh tình yêu của Chúa ban cho.
Đức Thánh Cha Piô XI nâng Têrêxa lên hàng hiển thánh và đặt làm thánh quan Thầy cho các xứ truyền giáo.

Nguyện xin thánh nữ cầu thay nguyện giúp để chúng ta được đi vào con đường nhỏ; con đường tình yêu: yêu Chúa và yêu mọi người.

nguồn: Maria Thanh Mai gởi

HS Nghỉ Để Trường Làm Đám Cưới

HS Nghỉ Để Trường Làm Đám Cưới

(10/01/2012)

trích Vietbao.com

HANOI — Chuyện hết sức lạ ở quê nhà: học sinh tại 2  trường học — một ở Hà Nội,  một ở Vĩnh Phúc — phải nghỉ học để nhường khuôn viên trường cho các đám cưới.

Báo Lao Động kể về ngôi trường ở Hà Nội, và báo Pháp Luật & Xã Hôi kể về ngôi trường ở tỉnh Vĩnh Phúc.

Báo Lao Động gọi đó là “Dở khóc dở cười lớp học thành nơi tổ chức đám cưới,”
trích như sau:

“Sáng 24.9, Lao Động nhận được điện thoại của một số phụ huynh có con học tại
điểm Trường Tiểu học Võ Thị Sáu (nằm trong ngõ 18 Hàm Long, Hoàn Kiếm), bức xúc
phản ánh: Con em họ đang phải học ngoài sân trường vì phòng học đã được trường
cho thuê làm đám cưới.

Có mặt tại điểm trường này, chúng tôi khá bất ngờ khi thấy phản ánh là có thật.
Hai phòng học của lớp 2E và 2G nằm trong ngõ 18 phố Hàm Long đã được trưng
dụng, trong đó phòng của lớp 2G đã được trang trí thành phòng tổ chức tiệc
cưới, có cổng hoa bên ngoài cửa lớp, ở vị trí bảng đen là phông cưới đỏ chót. Các
bàn học được phủ khăn trắng, ở trên bày bánh kẹo, hoa quả và có lác đác người
nhà của chú rể ngồi ở đó. Phòng của lớp 2E thì khóa chặt…”

Trong khi đó, báo PL&XH viết bản tin tựa đề “Bắt học sinh nghỉ học để lấy
khuôn viên trường làm nơi tổ chức đám cưới,” trích như sau:

“Nhiều người dân ở xã Tân Tiến, huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc đã gọi điện
cho PV phản ánh về việc cán bộ địa chính xã được hiệu trưởng nhà trường cho
mượn trường và lớp học để tổ chức đám cưới. Nghe có vẻ khó tin nhưng quả thật
người dân phản ánh không sai. Toàn bộ mấy trăm học sinh phải nghỉ học chỉ vì lí
do một ông “quan” xã mượn trường tổ chức đám cưới cho con.

Chúng tôi đến trường THCS Tân Tiến vào buổi chiều 26-9, cũng là lúc mà gia chủ
đang hân hoan đón khách vào dự tiệc cưới tại cổng trường THCS Tân Tiến. Trong
khuôn viên trường, một đám cưới hoành tráng đang diễn ra, loa đài bật lên inh
ỏi, khách khứa cười nói rôm rả. Hỏi ra mới hay  đó là đám cưới con trai ông  Lê Mạnh Hùng – Cán bộ địa chính xã Tân Tiến được ông Vũ Việt Thắng – Hiệu trưởng trường THCS Tân Tiến bắt học sinh phải nghỉ học để mượn khuôn viên trường. Nhiều phụ huynh dù là khách mời nhưng vẫn bức xúc vì con họ phải đi học bù vào thứ Bảy, Chủ nhật chỉ vì việc riêng của một cán bộ xã…”

Quả nhiên, đó là chuyện bí hiểm của thiên đường xã hội chủ nghĩa….

 

Thánh Têrêsa Hài Đồng

Thánh  Têrêsa Hài Đồng

Trầm Hương              Thơ                      10/1/2012                     Vietcatholic.net
Hồn thơ trong trắng dịu hiền
Vẫn thường mơ tưởng làm tiên trên trời
Bay lơ lửng khắp mọi nơi
Đem mầu nhiệm lạ tuyệt vời cứu nhân.
Ai trồng cây Đức tuyệt trần
Gieo vào trong đấy lòng nhân tình người
Vẽ vào hồn nhỏ xinh tươi
Vươn lên mạnh mẽ rạng ngời cao sang
Gia đình lá ngọc cành vàng
Hồn thơ được dạy mọi đàng thương yêu
Tim non lửa mến thật nhiều
Yêu người kính Chúa mọi điều hy sinh
Chúa là tuyệt đỉnh đời mình
ThươngYêu nở đóa hoa xinh cho đời
Lòng mến tỏa khắp mọi nơi
Sáng lên lan tỏa cùng trời quang minh
Ước ao được hiến dâng mình
Làm người tình nhỏ xinh xinh Chúa Trời
Truyền giáo đến khắp mọi nơi
Lửa tim hồng thắm vào đời nhân sinh
Mười lăm tuổi rất trong trinh
Xin Giáo Hoàng chuẩn đăng trình vào tu
Dòng Kín sống rất khiêm nhu
Yêu người mến Chúa chăm chu vẹn toàn
Mọi việc chăm chỉ siêng ngoan
Liên lỉ nguyện ngắm để loan Tin Mừng
Tim yêu lửa cháy bừng bừng
Xin cho Linh Mục chẳng ngừng tiến thăng
Gieo hương Bác Ái Công Bằng
Để cho thế giới thấy rằng đạo ngay
Cuộc đời thơm ngát hương bay
Hôm nay Giáo Hội mừng ngày kính tôn
Tâm hồn tỏa ngát hương khôn
Hoa thơm tinh khiết trường tồn khắp nơi
Tê-rê-sa đã về trời
Hoa hồng sẽ rải mưa rơi khắp cùng
Cha Mẹ Ngài cũng về chung
Một gia đình Thánh khiêm cung trên trời
Danh thơm thánh thiện đời đời
Trên Thiên Cung tỏa sáng ngời dương gian.
01.10. ngày kính thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu.

Cha Mẹ của thánh Têrêsa đều đã được phong Á Thánh.
Thời trẻ cả hai người đều ước ao đời sống tu trì nhưng bất thành,và
ước ao được dâng tất cả các con lên Chúa và Ngài đã nhận lời.
Tất cả những người con của hai người đều đi tu.

Thánh Venceslao Tử đạo

Thánh Venceslao Tử đạo

Ngày 28/ 9:

Thánh Venceslao cai trị Bôhêmia vào thời mà miền này mới chỉ có một phần theo Kitô giáo. Cha Ngài, ông Vratilar, là người khôn ngoan dũng cảm lương thiện, một Kitô hữu nhân đức nhưng bà Drahomira mẹ Ngài lại ngả theo lương dân. Em Ngài là Boleslao. Ludmila, bà nội của hai con trẻ, thấy rõ sự nguy hiểm cho cháu nên đã lo giáo dục Venceslao. Còn thánh
Venceslao, con người có nhiều đức tính đáng phục đã đáp ứng hoàn toàn sự lo lắng của bà nội. Từ đó Ngài đã có lòng mộ mến các nhân đức, siêng năng tìm hiểu lẽ đạo để sống thành một Kitô hữu chân chính.

Chẳng may ông Vratilar từ trần trong một trận chiến. Bà Drahomira lên nắm quyền nhiếp chính. Bà độc ác và gian xảo, bà đã sát hại các Kitô hữu, triệt hạ các nhà thờ, cấm hành đạo công khai và dạy giáo lý cho trẻ em. Các Kitô hữu có chức phận bị cách chức, nhường chỗ cho lương dân.

Đau lòng vì sự dữ lan tràn, bà Ludmila thuyết phục Venceslao lên nắm quyền. Nhưng để tránh cuộc tranh chấp tương tàn,  người ta chia đôi lãnh thổ, một phần trao cho Boleslaô. Lên cai trị với sự tán đồng của dân chúng, thánh Venceslaô chỉ mong cho thần dân được hạnh phúc. Ngài cai trị bằng lòng nhân từ hơn là bằng sức mạnh. Ngài lo trợ giúp mọi cô nhi quả phụ, mọi người nghèo khổ. Thỉnh thoảng trong đêm tối, Ngài vác củi đến cho
người bất hạnh, Ngài phóng thích các tù nhân và tìm đến an ủi họ. Nếu phải kết án, chính Ngài đã khóc thương. Ngài luôn kính phục các Linh mục, tự trồng nho ép rượu và giúp lễ. Đêm đêm, Ngài đi chân không đến viếng các nhà thờ. Trong một cuộc hành hương như vậy, người hầu cận cho biết chân mình đã tê cóng không thể đi thêm được nữa. Thánh nhân dặn, hãy đạp lên vết chân Ngài. Anh ta đã vâng theo và cảm thấy ấm áp toàn thân.

Drahomira tức giận vì sự êm ấm trong miền Bôhêmia theo Kitô giáo. Bà quyết sát hại Ludmila, người đàn bà nhân đức làm cố vấn cho Venceslao. Hai kẻ sát nhân đã hành sự ngay dưới chân bàn thờ. Sau đó đến lượt thánh Venceslao, người mẹ ác đức đã xúi Radislas nổi loạn. Ông này tập trung một đạo quân hùng hậu đến gây chiến. Khi hai bên giáp trận, thánh Venceslao đã đơn phương độc mã lâm trận chiến như một David giáp mặt Goliath.
Thế nhưng Radislas đã xin đầu hàng. Ông ta thấy thiên thần trợ chiến cho Venceslao.

Một lần phải đến tham dự một cuộc họp ở Worm theo lệnh của Hoàng đế Othon I, thánh Venceslao đã tới trễ. Ngài muốn dự hai thánh lễ. Hoàng đế bực tức vì sự chậm trễ này, quyết định sẽ không đứng dậy khi thánh nhân đến. Nhưng rồi khi Ngài tới nơi, ông bỗng đứng lên và mời ngồi bên cạnh mình. Ông cũng đã thấy hai thiên thần hộ vệ và bao phủ Ngài bằng một thánh giá vàng.

Boleslaô, theo lời khuyên của mẹ, quyết hạ sát thánh nhân, hắn lấy tình nghĩa để che lấp ý đồ đen tối của mình. Được mời tới để mừng lễ hai thánh Cosma và Đamianô, thánh Venceslao không một chút nghi ngại gì. Buổi lễ thật linh đình. Đêm sau thánh Venceslao đến nhà thờ cầu nguyện như thói quen. Boleslaô tàng hình theo sau và đã hạ sát thánh nhân ngày 28 tháng 9 năm 935. Trước cửa đền thờ, miệng khẩn cầu ơn tha thứ cho em
mình. Thánh nhân từ trần trên vũng máu đào. Sau cái chết, thánh Venceslao được
dân chúng tôn kính như một vị tử đạo và trở thành đấng thánh bảo trợ cho xứ Bôhêmia, nay là Czecheslavia.

Mừng lễ thánh Venceslao, xin Chúa qua lời chuyển cầu của thánh nhân ban cho mỗi chúng ta lòng can đảm dám sống cho sự thật và tình yêu.

nguồn: Maria Thanh Mai gởi