Vẻ vang dân Việt: Chỉ 8 năm sống trên đất Úc một linh mục Việt Nam được cử làm chính xứ một họ đạo lớn của Tổng Giáo Phận Perth

Vẻ vang dân Việt: Chỉ 8 năm sống trên đất Úc một linh mục Việt Nam được cử làm chính xứ một họ đạo lớn của Tổng Giáo Phận Perth
VietCatholic

 Cha Micae Đỗ Huy Nhật Quỳnh

Ngày 6 tháng 8 năm 2016, Đức Tổng Giám Mục Timothy Costelloe SDB của Tổng Giáo phận Perth, miền Tây Australia, đã bổ nhiệm Cha Micae Đỗ Huy Nhật Quỳnh làm chánh xứ Notre Dame, Cloverdale, một trong 10 giáo xứ lớn nhất trong tổng giáo phận Perth. Đức Tổng Giám Mục Timothy Costelloe sẽ chủ sự nghi thức nhận xứ vào lúc 10:00 sáng Chúa Nhật 28 tháng 8 năm 2016.

Cha Đỗ Huy Nhật Quỳnh sinh năm 1975. Ngài đặt chân đến Úc vào năm 2008 theo một chương trình hợp tác giữa Tổng Giáo phận Perth và Giáo phận Kontum, Việt Nam. Sau 2 năm rưỡi thực tập mục vụ tại Giáo xứ Các Thánh, Greenwood, ngài được thụ phong Linh mục ngày 4 tháng 3 năm 2011.

Tuy Anh ngữ không phải là tiếng mẹ đẻ, ngài nổi tiếng là một nhà giảng thuyết hùng biện và được cử là Cha phó Nhà thờ Các Thánh, Greenwood, sau đó là Cha phó Nhà thờ Chánh tòa của Tổng Giáo phận trong thời gian gần 4 năm.

Cha Do Huy NhatQuynh

Giờ đây, ngài được Đức Tổng Giám Mục Timothy Costelloe trao phó cho việc coi sóc giáo xứ Notre Dame, Cloverdale, gồm 2 trường Tiểu học Công Giáo và 6 Viện Dưỡng lão, được Đức Tổng Giám Mục Barry James Hickey hợp nhất từ ba giáo xứ Redcliffe, Belmont và Cloverdale từ năm 2008.

Ban Giám Đốc VietCatholic chúc mừng cha Nhật Quỳnh, cộng tác viên của VietCatholic tại Perth, trong chức vụ mới này và xin Chúa ban muôn ơn lành hồn xác cho cha để cha thi hành xuất sắc sứ vụ được giao

Từ 30,000 sẽ thành 300,000, thành 3 triệu người!

 Từ 30,000 sẽ thành 300,000, thành 3 triệu người!

Ngô Nhân Dụng

Nguoi-viet.com

Vụ Formosa còn là một ung nhọt đau đớn trên thân thể và tâm hồn dân tộc Việt Nam. Nhưng vượt trên Formosa, là mối đe dọa trên môi trường sống của 90 triệu người dân Việt. Đất nước không thể nào bảo vệ được sinh môi khi chính quyền cộng sản còn tồn tại. Vì mối lo của họ chỉ là củng cố quyền hành, tham nhũng, vơ vét, và tranh giành địa vị với nhau (đến cùng thì bắn giết lẫn nhau, như ở Lào Cai). Họ không quan tâm đến môi trường sống của người dân.

Sau khi công ty Formosa đã nhận lỗi và bồi thường, Mạng Lưới Blogger Việt Nam đã kêu gọi đồng bào hãy đứng lên bảo vệ môi trường, đề nghị bà con chúng ta tổ chức “biểu tình rộng khắp, trải dài từ trong nước ra đến hải ngoại” vào ngày cuối tháng 7, 2016; rồi tiếp nối với nhiều cuộc biểu tình khác.

Ngày 4 tháng 8, Giám Đốc Công An tỉnh Nghệ An Nguyễn Hữu Cầu đe dọa: “(Đảng) Việt Tân đã lợi dụng sự việc để kích động bà con nhân dân đi biểu tình tuần hành chống phá. Đề nghị cử tri tỉnh nhà hết sức cảnh giác, không mắc bẫy Việt Tân, không nghe kẻ xấu lôi kéo, xúi giục làm tình hình an ninh trật tự phức tạp. Hiện nay lực lượng công an cả (cấp) bộ và (cấp) tỉnh đã triển khai nhiều giải pháp quyết liệt!”

Nhưng đồng bào ta ở Nghệ An không sợ hãi. Ngày Chủ Nhật, 7 tháng 8, đã có 5 ngàn người biểu tình đòi đóng cửa Formosa và bảo vệ môi trường sống. Ngày Thứ Hai, 15 tháng 8, thêm 30,000 người đã biểu tình tuần hành (có bản tin ước tính 50,000 người). Hàng ngàn giáo dân từ các giáo phận đã đi bộ nhiều cây số cùng tiến về phía nhà thờ chính tòa của giáo phận Vinh tại Xã Đoài.

Facebook Đậu Văn Dương cho thấy hình ảnh những khẩu hiệu, “Yêu cầu Chính Phủ Việt Nam khởi tố Formosa;” “Hủy hoại môi trường là hủy hoại cuộc sống;” “Yêu cầu chính phủ đóng cửa Formosa!” Nhiều biểu ngữ không úp mở, đuổi: “Formosa cút khỏi Việt Nam!” hoặc nói trắng ra sự thật: “Formosa nhận lỗi, chính phủ Việt Nam nhận tiền, còn nhân dân nhận thảm họa!”

Trong thánh lễ sau cuộc biểu tình, Đức Giám Mục Nguyễn Thái Hợp đã cầu nguyện và đưa ra lời kêu gọi đồng bào “… can đảm thực hiện quyền công dân được Hiếp Pháp Việt Nam và các Công Ước Quốc Tế quy định; thể hiện một cách ôn hòa quyền đòi sự minh bạch trong việc điều khiển đất nước, cũng như xử lý các thảm họa môi trường; và buộc những người gây ra thảm họa phải bị xét xử một cách công minh và các nạn nhân được đền bù xứng đáng.”

Những đòi hỏi nêu trên: xét xử công minh; đền bù xứng đáng; và điều khiển đất nước minh bạch công khai, là nguyện vọng của tất cả mọi người dân Việt. Cho tới nay, chính quyền cộng sản hầu chỉ lo đe dọa dân, để bảo vệ quyền lợi. Họ muốn hoàn toàn phủi tay, không truy cứu Formosa và đền bù cho những người dân bị tai họa (một số người được cứu đói với 15kg gạo mỗi tháng, có thể kéo dài trong 6 tháng).

Đảng Cộng Sản đã thỏa hiệp, cho Formosa bồi thường 11 ngàn tỷ đồng, tương đương với 500 triệu đô la, coi như xóa sạch nợ với hàng triệu nạn nhân, trong đó hàng trăm ngàn gia đình đang mất kế sinh nhai. Nhưng ngày 10 tháng 8, báo chí cho biết: Tổng Cục Thuế của chính quyền Cộng Sản đã chấp thuận miễn thuế và trả lại thuế cho công ty Formosa Hà Tĩnh. Số tiền được miễn lên tới hơn 10,450 tỷ đồng! Cuối cùng, công ty Formosa chỉ cần bỏ tiền túi 550 tỷ đồng, khoảng 25 triệu đô la Mỹ! Trong một cuộc đầu tư hàng chục tỷ đô la, công ty gây ra tai họa cá chết, người đói, môi trường tàn hại, mà số tiền bồi thường coi như không đáng đồng nào cả!

Đức Giám Mục Nguyễn Thái Hợp đã nêu lên vấn đề chính: Việc điều khiển đất nước không công khai, không minh bạch. Đảng Cộng Sản nắm trọn quyền. Họ ra lệnh cho một hệ thống tư pháp và một quốc hội chỉ đóng vai đầy tớ của đảng. Họ kiểm soát tất cả các báo, đài, nhà xuất bản, và các mạng tin học. Đại biểu Quốc Hội Đài Loan còn tới tận Vũng Áng gặp và tìm hiểu các nạn nhân. Báo chí Đài Loan và 25 triệu độc giả còn được tự do tiếp nhận nhiều thông tin về thảm họa Formosa hơn 90 triệu người Việt Nam.

Chế độ Cộng Sản được củng cố nhờ đe dọa, đàn áp tàn nhẫn, và bưng bít thông tin. Trong vụ Formosa, ngay cuộc điều tra tìm hiểu nguyên nhân cá chết đã đầy mờ ám.

Nhiều quốc gia như Mỹ, Nhật Bản cùng Liên Hiệp Quốc đã đề nghị giúp chuyên viên và phương tiện để điều tra nguyên do khiến cá chết hàng loạt, Cộng Sản Việt Nam đã từ chối. Họ chỉ mời một số chuyên viên Đức, Mỹ, Israel tham dự với tính cách tư. Nhưng các nhà khoa học ngoại quốc hoàn toàn đóng vai “làm cảnh.” Theo hợp đồng, nhiệm vụ của họ chỉ hạn chế trong việc “đọc và góp ý kiến” với bản báo cáo soạn sẵn, của một số chuyên gia Viện Hàn Lâm Khoa Học trong nước. Tiến Sĩ Friedhelm Schroeder, người Đức, cho biết ông không được phép tự lấy mẫu chất độc để nghiên cứu. Tại sao cấm? Vì cần bưng bít!

Người dân đã biết ngay từ đầu rằng thủ phạm là chính Formosa. Chính quyền Cộng Sản chờ hơn hai tháng mới công bố kết quả cuộc điều tra, để Formosa nhận lỗi. Trong thực tế, chỉ trong vòng mấy tuần nhà nước Cộng Sản đã có kết luận đó rồi nhưng họ giữ bí mật. Một người trong Bộ Môi Trường ở Hà Nội cho chúng tôi biết Formosa bị lật tẩy ngay khi có người đặt câu hỏi lý do khiến hóa đơn trả tiền điện của công ty đã tụt giảm đáng kể trong tháng 3, tháng 4 năm 2016! Tại sao số điện công ty sử dụng đã giảm bất ngờ, nhanh và nhiều như vậy?

Với câu hỏi đó, người ta lần đầu mối, tìm ra câu trả lời: Vì nhà máy lọc chất độc trong nước thải phải đóng cửa, máy hư không chạy, số điện dùng tất nhiên phải giảm! Nhưng câu hỏi tiếp là: Trong khi nhà máy “xử lý nước thải” không chạy thì công ty đổ chất thải vào đâu? Họ đành thú nhận: đổ vào đường ống cống ngầm, cho thoát ra ngoài biển!

Sau đó thì ai cũng biết, cá chết trắng ngập bờ biển Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, vào tới Thừa Thiên!

Chỉ riêng hành động thải nước thải chưa lọc ra biển gần tháng trời cũng đủ lý do truy tố công ty Formosa rồi. Nhưng chính quyền Cộng Sản lặng thinh. Họ còn mặc cả, “cò kè bớt một thêm hai” với tư bản nước ngoài. Nhưng nguyên do chính khiến họ khó ăn khó nói, là một công ty Trung Cộng, tập đoàn công ty Luyện Kim (MCC), nhà thầu của Formosa, là thủ phạm gây ra thảm họa môi trường. Khi công bố kết quả điều tra, Việt Cộng không hề nhắc đến tên tập đoàn MCC! Báo chí dưới quyền đảng cũng không dám đả động tới, dù gọi là “Tập đoàn lạ!” Đến giờ chỉ các công dân mạng được coi một hồ sơ đầy đủ do nhà báo tự do Mai Thái Lĩnh trình bày.

Bài Xã luận trên bán nguyệt san Tự Do Ngôn Luận, số mới nhất, đã kiểm điểm lại vụ này và kết luận: “Như thế thì đủ thấy sự quyết liệt của Việt Cộng thật ra là ‘quyết làm cho liệt’ dân tộc và đất nước” vì sợ Trung Cộng. Tạp chí mạng nhắc lại lời Tổng Bí Thư Nguyễn Văn Linh sau cuộc đầu hàng ở Thành Đô: “Tôi biết rằng dựa vào Trung Quốc thì sẽ mất nước, nhưng mất nước còn hơn mất đảng!”

Đảng Cộng Sản muốn mọi người quên thảm họa Formosa. Nhưng chúng ta không thể để cho nó “chìm xuồng.” Dân Việt Nam không ngu dốt đến nỗi không nhìn thấy, dưới chế độ tham nhũng, độc quyền hiện nay, các thảm họa môi trường khác sẽ còn tiếp diễn, sau Formosa 1 sẽ có Formosa 2, Formosa 3, 4,… Một chuyên gia được mời tới “ngó qua” cuộc điều tra vụ Formosa 1, Giáo Sư Yasuki Maeda, đại học Osaka, Nhật Bản, nói một cách lạc quan: Nếu những chất độc làm hại sinh thái chỉ là chất cyanid và phenol, thì môi trường biển có thể phục hồi trong 30 tới 40 năm. Thời hạn đó có thể dài hơn. Trong thời gian 30, 40 năm đó, hai thế hệ ngư dân sẽ sống ngất ngư. Dân Việt Nam sẽ được nhà nước cho tự do, ăn cá tôm nhiễm độc một cách vô tư!

Dân Việt phải hành động. Hơn 30,000 đồng bào Công Giáo ở Nghệ An đã nêu gương. Đức Giám Mục Phaolô Nguyễn Thái Hợp, giáo phận Vinh, đã khuyên các con chiên ở Nghệ An: “Hơn bao giờ hết, chúng ta… có trách nhiệm với quê hương đất nước và với các thế hệ tương lai; chúng ta nhất quyết bảo vệ môi trường; đồng thời hiệp thông với những người đang là nạn nhân của thảm họa môi trường biển, cũng như nạn nhân của rất nhiều thảm họa khác.”

Lời kêu gọi này phải được chuyển tới tất cả mọi người Việt Nam, trong và ngoài nước. Sẽ có 300,000 người theo chân đồng bào giáo phận Vinh biểu tình liên tục, khắp nước và khắp thế giới, trong năm 2016, sang năm 2017, cho tới khi thành công. Vì “quê hương đất nước và với các thế hệ người Việt tương lai!”

Mạng Lưới Blogger Việt Nam cũng từng kêu gọi: “Hãy kiên trì đấu tranh không ngừng nghỉ!” Những cuộc biểu tình kiên trì, không ngừng nghỉ tuần này sang tháng khác sẽ có ngày dẫn đến cảnh 3 triệu người Việt cùng đi biểu tình đòi quyền được sống trong một đất nước sạch sẽ! Môi trường sạch sẽ, xã hội sạch sẽ, đạo đức sạch sẽ, chính trị sạch sẽ!

Bản dịch hoàn chỉnh, bài “Lê Vũ Anh, con gái ông Lê Duẩn, bị đầu độc?”

Bản dịch hoàn chỉnh, bài “Lê Vũ Anh, con gái ông Lê Duẩn, bị đầu độc?”

Đôi lời: Sau khi đăng bài Lê Vũ Anh, con gái ông Lê Duẩn, bị đầu độc? ngày 16-8-2016, phát hiện gần 1 trang tiếng Nga đã không được dịch, nên trang Ba Sàm đã nhờ người quen kiểm tra lại. Hiện đã có bản dịch mới của dịch giả Cao Kim Ánh, thấy trang 11 bản tiếng Nga bị dịch thiếu trước đây, đã được dịch đầy đủ, cũng như các phần khác trong bài đã được dịch lại. Xin được đăng lại bản dịch mới này để hầu bà con.

____

Hồi ký của Viện sỹ Viện Hàn lâm Khoa học Nga Viktor Maslov

Tác giả: Viktor Maslov

Dịch giả: Cao Kim Ánh, 2015

Sửa chữa: tháng 8-2016

Maslov và vợ, Lê Vũ Anh. Ảnh: tư liệu riêng của Maslov

Cõ lẽ tất cả đã khác đi, nếu như tôi biết được từ đầu Lê Vũ Anh là con gái của ai. Khi sự thật được khám phá thì đã quá muộn. Tôi đã yêu mê muội, và không thể dứt khỏi nàng được nữa.

Chúng tôi gặp nhau ở Khoa Lý MGU, nơi Anh học tập. Trước lúc gặp Anh tôi đã là giáo sư, tiến sĩ khoa học toán – lý và là tác giả của lý thuyết được biết đến ở nước ngoài dưới tên gọi “Maslov-type index theory” (lý thuyết chỉ số kiểu – Maslov). Lý thuyết này được ứng dụng rộng rãi trong toán học trừu tượng, và cả trong cơ học lượng tử, hóa học lượng tử và quang học. Chỗ làm chính của tôi là Viện chế tạo máy điện Moskva – MIEM, nhưng Khoa Lý vẫn là nơi ruột thịt: tôi đã có thời học tập và giảng dạy ở đó.

Bao nhiêu năm đã trôi qua … Cả một đời người. Nhiều sự kiện và ấn tượng bật ra từ ký ức, và nàng công chúa lộng lẫy thoáng hiện ra ở cuối hành lang hôm ấy cho đến lúc này vẫn như đang hiển hiện trước mắt. Một cô gái không quen biết có dáng đi kiều diễm đặc biệt làm tôi sửng sốt và say mê bước theo. Nàng dừng lại một chút ở cửa phòng thí nghiệm và quay lại. Nhìn tôi với ánh mắt đen trong một giây, nàng mỉm cười rồi lẩn vào bên trong. “Một cô gái ngoại quốc” – tôi hiểu ra, và đoán chắc là một cô gái Ấn Độ.

Tôi không dấu diếm là luôn thích phụ nữ đông phương. Một nhà vật lý là bạn tôi đã nói đùa: “Maslov của chúng ta là một tay “thám hiểm phương đông” lớn!” Khá nhiều sinh viên từ các nước châu Á học tập tại MGU, trong số đó có cả các công dân đến từ Việt Nam đang trong lửa đạn. Mọi người đều cảm thông và có cảm tình với các sinh viên này. Tại Khoa Lý cũng có những người Việt, và tôi lập tức kêt bạn với họ, đặc biệt với hai cô gái – Phúc và Tình. Phúc là con gái nhà chính trị nổi tiếng Võ Nguyên Giáp, lúc đó đang là Bộ trưởng Quốc phòng. Tình là con gái Thị trưởng Hà Nội. Cả hai đều giấu cha họ là ai, cũng như các sinh viên khác mà gia đình thuộc hàng ngũ lãnh đạo, do lo ngại các ý đồ chính trị và sự khiêu khích từ phía chính quyền xô viết.

Vấn đề là giữa hai nước có mối quan hệ khá đặc thù, cho dù cả hai phía đều đưa ra cam kết về một tình hữu nghị lâu dài. Liên Xô quan tâm đến việc mở rộng ảnh hưởng ở Châu Á, đặc biệt trong điều kiện các mâu thuẫn gia tăng với Trung Quốc, và do vậy đã tỏ ra hào hiệp giúp đỡ “người anh em” Việt Nam. Còn Việt Nam thì hài lòng kết thân với Ông anh cả, nhưng không chịu hi sinh các lợi ích riêng và trở thành kẻ lệ thuộc. Các nhà lãnh đạo lợi dụng các cơ hội để con cái họ được hưởng nền giáo dục có chất lượng khá cao của Liên Xô, nhưng lại sợ rằng chúng bị tống tiền hoặc bắt cóc để gây áp lực lên bố mẹ, và đòi hỏi chúng phải ngụy trang. Có lẽ đó là nguyên nhân mà các lãnh tụ Việt Nam, theo tôi, đã quá cẩn trọng. KGB không cần phải bám theo con cái họ, nhưng biết rõ ai là ai.

Tôi thích Phúc, giúp cô học toán, mời đến nhà không chỉ một lần – cả một mình lẫn cùng bạn bè – nhưng giữa chúng tôi không hề có dù chỉ là dấu hiệu về một mối tình. Cô gái Việt Nam đáng yêu tránh xa tôi trước mặt mọi người như tránh lửa.

Một lần chúng tôi cùng trở về từ chỗ người đánh máy công trình khoa học của Phúc, tôi là người giới thiệu họ với nhau. Trên con phố nhộn nhịp của Moskva mà cô gái hành xử như một cô du kích trong lòng địch: trông rất hốt hoảng và luôn ngó nghiêng xung quanh. Phúc đặc biệt căng thẳng với giao thông công cộng. Thoáng thấy ô-tô bus hay trolleybus là cô ấy loay hoay định trốn.
– Cô làm sao thế? – Tôi hỏi – Cô sợ cái gì?
– Sợ trong đấy có người Việt Nam!
– Có gì mà sợ vậy?
– Nêu họ thấy em đi với người Nga, họ sẽ không hoan nghênh em đâu.

Tôi bắt đầu lục vấn. Hóa ra người Việt Nam bị cấm giao thiệp với người Âu, “bọn mũi lõ” như họ nói. Từ hàng thế kỷ mối quan hệ đó bị lên án và những người có quan hệ bị xem là phản bội. Cô gái nào đi với “bọn mũi lõ” trên phố sẽ bị nguyền rủa, và đôi khi còn bị ném đá. Những người cộng sản, sau khi nắm quyền ở nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, thật lạ lùng là vẫn giữ cái nếp phong kiến đó. Vi phạm các cấm kỵ trong giao tiếp với người nước ngoài sẽ kéo theo sự lên án của xã hội, bị kiểm điểm trong các cuộc họp đảng và đoàn thể, thậm chí còn bị bỏ tù. Ra nước ngoài công dân Việt Nam cũng phải tuân thủ các chuẩn mực đạo đức trong nước. Theo họ, thậm chí vũ ba-lê cổ điển cũng ngang với chuyện khiêu dâm. Về sau Anh kể chuyện rằng các nhà ngoại giao khi xem ba-lê ở Nhà hát Lớn còn ngồi nhắm mắt để khỏi phải nhìn các vũ điệu “không đứng đắn” của các vũ nữ ăn mặc hở hang.

Các bạn Việt Nam đã giới thiệu tôi với cô gái xinh đẹp đó, nàng hóa ra là đồng hương với họ. Lê Vũ Anh thích toán và muốn học sâu về môn này. Tất nhiên tôi đồng ý giúp nàng. Anh làm tôi sửng sốt ngay lập tức, nàng thực sự là một quý cô trẻ tuổi, không giống với các phụ nữ Việt Nam điển hình khác: khá cao, trắng trẻo, với đôi mắt hoàn toàn không xếch. Và cư xử như một quý cô cành vàng lá ngọc – rất giản dị, nhưng với một sự tôn quý khác thường. Trong nước Anh được xem là một trong các mỹ nữ hàng đầu. Và ở đây nàng luôn được các chàng trai trẻ để ý tới.

Về sau tôi được biết rằng trong huyết quản của Anh ngoài dòng máu Việt còn có cả dòng máu Trung Hoa. Mẹ của nàng, Bảy Vân, một phần tư là người Trung Hoa. Ở Việt Nam người ta không biết điều này, gia đình che dấu “mối liên hệ với Trung Quốc”. Sự thật là khi còn thơ ấu Anh đã có một thời gian sống ở đó. Bạn gái của nàng là con gái Đặng Tiểu Bình – bạn của cha và là nhân vật thứ hai thiên hạ sau Mao. Với Người cầm lái vĩ đại cô bé cũng quen biết. Anh đã cho xem tấm ảnh nàng ngồi quỳ gối bên Mao Trạch Đông.

Thời trẻ Bảy Vân là người xinh đẹp. Lê Duẩn vì bà mà chia tay với người vợ đầu do bố mẹ cưới cho. Ông thuộc về một gia đình có truyền thống gia trưởng mạnh mẽ. Người vợ thứ hai xuất thân từ một gia đình trí thức, nhưng như tôi đã nhắc tới, bà không thể tự hào về một nguồn gốc “trong sạch”. Anh là đứa con đầu tiên. Ngoài nàng ra Lê Duẩn còn có các con gái từ cuộc hôn nhân đầu, và hai người con trai với bà Bảy Vân. Hai trong số các con của ông –Thành, con trai và Muội, con gái – trong thời gian đó cũng sống tại Moskva. Muội lớn tuổi hơn Anh nhiều và có nhiệm vụ trông coi em gái. Chị ấy tốt nghiệp đại học ở Liên Xô và là nhà sinh học. Chị sống cùng chồng và con gái một số năm ở Moskva. Nhưng tôi biết về tất cả những điều này khá muộn về sau …

Vì Anh tôi nhận dạy một chuyên đề không bắt buộc về toán ở Khoa Lý. Ban đầu rất đông người dự, dần dần họ bắt đầu chán và bỏ học, cuối cùng chỉ còn hai chúng tôi. Anh cố gắng, nàng rất có năng lực và cần cù. Hai chúng tôi bị hút vào nhau không cưỡng lại được. Bắt đầu gặp gỡ – tại nhà tôi và tại ngôi nhà ngoại ô (đatra) ở Krasnaya Pakhra. Cùng học, cùng nghe nhạc, nói chuyện với nhau về đủ thứ. Anh giữ phong thái tự do hơn các bạn gái của mình nhiều và không sợ điều gì cả.

Mẹ tôi ngay lập tức thích nàng. Nói chung, bà thích tất cả những thú đam mê của tôi. Bà mẹ đã từ lâu mong mỏi cưới vợ cho người con trai duy nhất.

Tôi có cuộc sống riêng tư khá phóng túng và thậm chí có cả những đứa con ngoài giá thú. Một trong số đó – Sergey Majarov – đã gặp tai nạn, và tôi phải chịu đựng điều đó một cách nặng nề. Serioja di cư sang phương Tây vào đầu những năm 80 cùng cha mẹ. Sống ở Paris, thu nhận học vấn, mở hãng và làm về tin học. Lúc đầu công việc diễn ra không thật tích cực, nhưng khi Liên Xô bắt đầu cải tổ, Sergey hiểu các vấn đề kinh tế của đất nước và tỏ ra là một nhà quản trị tốt. Sau một vài phi vụ lớn thì trở thành triệu phú, sở hữu một bất động sản rất hoành tráng và thậm chí có cả salon về mode riêng. Sống thoải mái, giàu sang, không ở cùng với vợ – con gái nhà văn Anatoli Gladinin, người đã sinh cho Sergey hai đứa con. Nó đối xử dịu dàng với đám con của tôi. Trước khi chết ít lâu Serioja trở thành nhà sản xuất của bộ phim “Limita” của Denis Evstingneev. Sergey bị giết hôm 22 tháng 11 năm 1994 tại căn hộ của mình ở trung tâm Paris: bị bắn bằng súng tự động qua cánh cửa ra vào bọc thép. Cảnh sát Pháp xem đây là vụ có dính đến maphia Nga. Như tôi biết được thì vụ phạm tội này vẫn còn chưa được phanh phui …

Trước khi gặp Anh tôi không có ý hướng tới các mối quan hệ nghiêm túc, dường như còn muốn đợi điều gì. Và tôi đã đợi được – tôi không có được với bất kỳ người phụ nữ nào những tình cảm như có với nàng. Về tuổi, nàng chỉ như con gái tôi – ít hơn tôi đúng hai mươi tuổi – nhưng chúng tôi không cảm thấy khoảng cách tuổi tác ấy. Nàng ít kể về mình: đến từ Nam Việt Nam (Anh đã đăng ký ở sứ quán của quốc gia này để ngụy trang, khi ấy đất nước chưa thống nhất), sống ở nông thôn trong vùng du kích. Vào Đảng cộng sản năm 17 tuổi. Về sau tôi nói đùa: “Tôi có vợ là nữ đảng viên cộng sản từ năm 17 tuổi”. Trên thực tế điều đó thật đáng ngạc nhiên. Ở Việt Nam, được kết nạp vào đảng ở tuổi ấy rất hiếm, chỉ có những người có công trạng đặc biệt.

Không loại trừ trường hợp Anh đã giúp đỡ du kích và lập được chiến công nào đó. Nàng im lặng về việc này. Cũng như im lặng về một số thành viên của gia đình mình. Chỉ có một lần, khi chúng tôi đã sống cùng nhau và nàng đã cởi mở hơn rất nhiều, nàng mới buột miệng: “Ông nội em làm quan”. Tiếng Nga của Anh khá ngộ nghĩnh. Nàng cười: ”Em nói tiếng Nga càng kém, ở Liên Xô người ta càng đối tốt với em!”. Khó khăn nhất với nàng không hiểu tại sao lại là cách gọi tên họ của người Nga. Tôi còn nhớ khi cô ý tá hỏi Anh họ, tên và tên bố của các con gái chúng tôi, nàng đã trả lời một cách rất nghiêm túc là “Tôi còn chưa học được điều này!”. Nhưng tôi lại chạy trước mất rồi …

Khi một mình ở bên tôi, Anh tỏ ra khiêm tốn và rất kiềm chế, nhưng tôi cảm thấy như nàng đang vật lộn với tình cảm của mình. Một lần trong cuộc gặp ở nhà nghỉ ngoại ô, nàng đã suýt để lạc mất lý trí. Tôi không biết cái ôm và nụ hôn sẽ kết thúc ra sao, nếu bỗng nhiên không có tiếng chuông cửa. Người hàng xóm ghé sang, và chúng tôi nói chuyện chừng năm phút ngoài sảnh, không hơn. Khi tôi quay lại, trong phòng không còn ai. Anh đã nhảy qua cửa sổ – sực tỉnh khỏi cơn mê đắm và bỏ chạy.

Tôi hiểu đối với Anh tình yêu với một người Âu là một thử thách như thế nào. Nhưng không nhận thức được kích cỡ của các vấn đề đang đặt ra với nàng, trong đó không chỉ có các truyền thống hàng trăm năm và các chuẩn mực về đạo đức, mà còn có các âm mưu trong nội bộ đảng, và các quan hệ quốc tế rắc rối. Tôi hồi đó không có ngay cả chút nghi ngờ về việc Anh là con gái của Tổng bí thư BCH trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam Lê Duẩn. Không thể biết được điều đó theo tên và họ của nàng. Như về sau biết được, ở Khoa Lý ngoài một vài đồng hương chỉ có một người biết gốc gác gia đình lãnh tụ Việt Nam của Anh – đó là Phó khoa phụ trách công tác với người nước ngoài.

Tình yêu của chúng tôi có thể làm hại cha của Anh và trở thành một con bài mặc cả của các đối thủ. Đứng ngay sau lưng ông là đối thủ cạnh tranh trong nhiều năm – Trường Chinh, tổng bí thư đảng cộng sản trước Lê Duẩn. Lê Duẩn hướng về mô hình phát triển đất nước kiểu xô-viết. Trường Chinh – mô hình Trung Quốc. Anh cho rằng Việt Nam sẽ chết nếu đối thủ của cha nắm được chính quyền. Đối với Liên Xô, đó cũng là điều hết sức không mong muốn. Sau cái chết của Lê Duẩn, Trường Chinh trở thành Tổng bí thư BCH trung ương ĐCS Việt Nam, và đã chẳng xẩy ra điều gì đáng sợ.

Cô gái tội nghiệp không biết làm thế nào. Nàng thậm chí còn bắt đầu hẹn hò với một người Việt học tại khoa Toán – Cơ (tôi sẽ gọi anh ấy là Vân) để quên tôi đi, mà không hiểu rằng những khó khăn cản trở chỉ càng làm cho tình cảm bây giờ mãnh liệt thêm.

Một lần dầu sao chúng tôi cũng được ở gần nhau. Tôi lập tức đề nghị Anh lấy tôi làm chồng.
– Chuyện này không thể được, – nàng trả lời, rất buồn bã – Giữa hai nước có một thỏa thuận không nói ra cấm việc hôn nhân giữa các công dân Việt Nam và Liên Xô.
– Anh sẽ suy nghĩ cách để vượt qua điều này.
– Không, không thể được!
– Tại sao ?!
– Em không yêu ông!

Nhưng qua mắt nàng, thì không phải thế. Tôi quyết định không vội vã đẩy nhanh sự việc, để cho Anh có thì giờ suy nghĩ và lắng nghe tình cảm của mình. Và nàng biến mất. Trước đây vẫn thường xảy ra chuyện như vậy, những khi Anh tự cho phép mình một điều gì đó “riêng”, và rồi ăn năn về việc này. Sau đó mọi việc lại quay lại như trước. Nhưng bây giờ tôi không thể tìm thấy nàng. Sắp đến kỳ nghỉ hè. Sinh viên tản đi mọi nơi. Tôi khó nhọc đợi đến khi bắt đầu năm học mới, nhưng Anh cũng không xuất hiện ở MGU sau ngày mồng một tháng Chín.

Tôi không chịu đựng được nữa và gọi cho Phó khoa phụ trách sinh viên nước ngoài:
– Bà có thể cho tôi biết cô sinh viên Lê Vũ Anh đã học chuyên đề của tôi đi đâu không? Cô ấy đã đạt được thành tích khá như thế.
– Cô ấy đã đi lấy chồng, lấy một người đồng hương, cũng là sinh viên của chúng ta, và đã về nước. Chàng trai tên là Vân. Họ sẽ quay lại vào cuối tháng cùng với cha của Anh. Ông ta có cuộc gặp với Brejnev – bà ta khẽ nói.

Tôi suýt khuỵu xuống khi nghe điều này. Gặp Brejnev vào cuối tháng chín sẽ phải là Lê Duẩn. Các miếng ghép hình được xếp xong một cách bất ngờ, và tôi chợt hiểu ra rất nhiều điều lạ lùng trong các câu chuyện và trong cách cư xử của người yêu. Anh của tôi là con gái của lãnh tụ cộng sản Việt Nam! Nhưng làm sao mà nàng có thể phản bội tình yêu của chúng tôi ?!

Về sau Anh đã giải thích mọi chuyện. Khi chúng tôi đã trở nên gần gũi và tôi đề nghị trao cho nàng “cả cánh tay và trái tim”, nàng đã chịu một cú stress nặng nề và than vãn với bạn mình là Vân. Nàng nói rằng chỉ ràng buộc với tôi về tình bạn: vâng, chuyện đã là như vậy, ngoài ý muốn của nàng và Anh lấy làm tiếc về điều đó. Vân yêu nàng và xin cưới ngay. Nàng bị ràng buộc vào anh ta và đồng ý, bảo rằng sẽ cố yêu anh ấy hơn. (Anh nói đúng như vậy: “Em sẽ cố yêu anh hơn”.)

Cuộc hôn nhân này là một cú đánh vào Lê Duẩn. Vị lãnh tụ có lẽ đã dự tính cho con gái yêu một nơi phù hợp hơn, trong số các “hoàng tử” của các nước láng giềng cũng có những người để ý đến nàng. Vân là một cậu chàng trí thức trẻ, một tài năng toán học, nhưng không môn đăng hộ đối với Anh. Lê Duẩn tha thứ cho cuộc hôn nhân không xứng này của con gái, nhưng dứt khoát không đồng ý mong muốn ở lại Việt Nam của nàng. Anh cần phải tốt nghiệp MGU. Chỉ còn một năm nữa nàng sẽ kết thúc việc học tại Khoa Lý. Vân cũng muốn làm nghiên cứu sinh ở Moskva. Anh buộc phải phục tùng, với hi vọng việc nàng lấy chồng sẽ làm thay đổi mọi sự và ngăn trở việc tiếp tục cuộc tình của chúng tôi.

Khi nàng quay lại Moskva tôi thuyết phục nàng đến đatra – cùng với Phúc. Anh không thể từ chối, nhưng cư xử một cách kiềm chế. Tôi cố gắng để khung cảnh được thoải mái. Nói đùa, kể chuyện tiếu lâm, và sau đó đề nghị các cô cùng đi bơi thuyền, cho dù bấy giờ đã là cuối thu, thời tiết không được tốt. Khi chúng tôi đến gần bờ, Phúc quay thuyền một cách vụng về và ngã xuống nước. Tôi lôi cô ấy lên và chạy vội đến ngôi nhà gần nhất mượn quần áo ấm. Chủ nhà đưa cho mấy bộ đồ sưởi để chúng tôi ủ ấm cho Phúc. Tôi bế cô ấy về đatra, xoa cồn, cho uống rượu ngọt. Phúc ấm lên và chìm vào giấc ngủ. Còn tôi và Anh, chúng tôi không còn sức để xem nhau chỉ là bạn thêm nữa. Nàng thú nhận rằng muốn sống cùng tôi, nhưng không tin là điều này có thể được.

– Mấy năm trước chính quyền đã không cho phép con gái một vị bộ trưởng cưới con trai thủ tướng một nước châu Âu. Đôi trẻ đã tự tử. Những chuyện như vậy từng xảy ra nhiều. Anh không tưởng tượng được là có bao nhiêu người đã thiệt thân vì cái truyền thống này đâu!
– Mọi việc của chúng ta sẽ tốt! Chúng ta sẽ cưới nhau! – tôi an ủi Anh.

Tất nhiên chúng tôi không phô trương quan hệ của mình để người ta không xử lý Anh, hoặc tệ hại hơn – bắt nàng về nước. Thông thường các mối tình Xô-Việt được Sứ quán biết một cách nhanh chóng. Các đôi uyên ương bị các đồng bào “gõ cửa” cảnh báo. Chúng tôi giữ kín chuyện được gần một năm. Bằng chứng là không thấy có ai theo dõi “các trẻ” Việt Nam, ít nhất là không thường xuyên có chuyện đó. Về sau Anh có thai và không hiểu sao giấu tôi. Nàng đã sơ xuất, chắc vậy, dẫn đến việc sẩy thai. Tôi đi cùng nàng đến bệnh viện và vô cùng hoảng sợ rằng mọi chuyện sẽ vỡ lở và người ta sẽ bắt Anh đi. Tôi còn lo sợ hơn cho sức khỏe của nàng. Mặc họ đưa nàng đi, miễn là mọi chuyện đối với nàng được tốt đẹp. Lần ấy mọi chuyện trót lọt.

***

Sau khi ra viện người ta chuyển Anh về Pushkino, đến an dưỡng đường đặt trong một nhà thờ. Ở đấy nàng có một địa vị đặc biệt, tất nhiên rồi, người ta xếp nàng ăn tại phòng ăn dành cho những nhân vật danh giá. Các cô phục vụ nâng cao khay của nàng khi đi qua phòng lớn, còn những cư dân đang nghỉ dưỡng cố liếc mắt để xem người ta chăm sóc công chúa Việt Nam thế nào. Anh đau khổ với các quy cách xô-viết này, nhưng buộc phải sống hòa thuận với chúng.

Ở Pushkino Anh cảm thấy buồn chán, nàng bắt đầu đề nghị tôi đến thăm. Tôi từ chối mãi, bảo rằng sợ họ bắt được, nhưng rồi cũng đầu hàng và khuất phục. Tôi đến thăm nàng, mang theo con chó fox, và thu xếp để ở bên cạnh an dưỡng đường. Trong một lần hẹn hò trong rừng chúng tôi đã chạm mặt một nhân viên an ninh. Anh ta ngồi trong bụi cây, và bị con chó của tôi phát hiện.

– Anh theo dõi tất cả hay chỉ chúng tôi?
– Theo dõi tất cả, – anh ta an ủi. – Chỗ này là Gestapo đấy.

Thế là mọi chuyện bại lộ, hoàn toàn ngẫu nhiên. Các cơ quan tìm hiểu xem tôi là ai, và báo cáo với Lê Duẩn rằng con gái ông đang yêu một nhà vật lý xô-viết. Một cuộc họp gia đình được triệu tập để phán xét hành tung của Anh. Nhưng những người ruột thịt e ngại nàng, vì nàng tỏ ra rất dũng cảm và độc lập. Thậm chí phê bình cả cha. Theo tôi thì Anh là người cộng sản lớn, lớn hơn chính Lê Duẩn.

Ban đầu họ quyết định hạn chế việc xử lý trong phạm vi hẹp – các bạn bè của gia đình đang ở Moskva. Họ mời Anh đến Nhà hát Lớn xem vở ba-lê “Anna Karenina”. Điều đó không phải ngẫu nhiên. Họ muốn nhắc nhở Anh nghĩa vụ đối với gia đình, lấy nữ nhân vật của Tolstoi làm “đại sứ thiện nguyện”: “Thấy cuộc đời người đàn bà phụ bạc chồng mình kết thúc thế nào chứ?”. Anh cố nén cười.

Lê Duẩn không thể sử dụng bạo lực và chuyển cô con gái yêu đi nơi khác. Cuối cùng nàng vẫn giữ cuộc hôn nhân và cần phải sống cùng chồng ở Moskva. Mọi chuyện yên ắng dần sau một thời gian, nhưng không được phép mềm yếu, cần phải đăng ký cuộc hôn nhân của chúng tôi càng nhanh càng tốt.

Vân không muốn ly hôn. Có thể câu chuyện không chỉ phụ thuộc vào tình cảm của anh ấy, mà còn vì quyền lợi của người cha, mà sự nghiệp của ông ta sau đám cưới của con trai lên như diều gặp gió. Tôi đề nghi Anh thể hiện sự thông minh và tỏ ra ngoại giao, cố gắng thương lượng với chồng, nhưng nàng không muốn làm chuyện khôn khéo. Kết quả là quan hệ của nàng với Vân trở nên căng thẳng. Nhưng khi Anh lại mang thai, thì mọi chuyện đã đến hạn. Nàng buộc phải hành động để khỏi bị rơi vào tình cảnh nhập nhằng: nếu khi sinh đứa con của chúng tôi nàng vẫn còn là vợ Vân, phía Việt Nam có thể áp đặt quyền của họ đối với cháu.

Nàng hứa với Vân là ở Việt Nam sẽ không ai biết về việc họ ly hôn: “Em sẽ giữ bí mật chuyện này, và chúng ta vẫn sẽ là bạn. Chính anh đã nói rằng anh yêu em. Không lẽ anh muốn em sẽ phải căm thù anh?”. Chàng trai đầu hàng. Anh ấy vẫn yêu Anh như trước. Họ làm thủ tục ly hôn tại Văn phòng ZAGS1 cho người nước ngoài ở Moskva, nhưng như một vụ ly hôn của những người Việt Nam bình thường và không thông báo gì cho Lê Duẩn. Cũng không ai nghĩ đến việc thông báo cho Sứ quán Việt Nam. Vân chịu đựng vụ chia ly rất nặng nề, thậm chí phải vào viện tâm thần.

Phần 2

Chúng tôi giấu việc Anh mang thai để không ai ngăn cản nàng sinh nở và đăng ký cho đứa bé tại Liên Xô. Trường đại học thu xếp cử nàng đi công tác vài tháng đến một trường đại học ở Kiev và giúp đỡ gọi cho chị Muội “từ Kiev” (Anh giữ liên lạc với gia đình thông qua chị), và gửi thư từ cho gia đình với các dấu bưu điện ở Kiev, để đánh lạc hướng mọi người. Suốt thời gian mang thai Anh sống với tôi ở đatra, và lánh mặt khi có ai đó ghé thăm.

Trong thời kỳ trì trệ2 các cuộc hôn nhân của công dân Moskva và vùng Moskva với các công dân nước ngoài chỉ được tiến hành ở hai Văn phòng ZAGS – một ở Moskva, một ở Zagorsk – có lẽ để thuân tiện cho cho việc kiểm soát của KGB. Chúng tôi không có việc gì phải làm với hai cơ quan này. Theo luật pháp hồi ấy khi ở một điểm dân cư nào đó không có Văn phòng ZAGS thì có thể làm đăng ký hôn nhân tại Xô viết đại biểu địa phương. Tôi quyết định lợi dụng việc này và đăng ký kết hôn ở Troitsk. Ở thị trấn Viện hàn lâm này tôi có nhiều bạn bè trong tất cả các viện. Tất nhiên nếu họ biết được ai là cô dâu thì chưa chắc đã dám giúp cho đám cưới của chúng tôi. Đành phải láu cá, đánh lừa, thậm chí làm giả cả giấy phép đồng ý cho kết hôn của Sứ quán Việt Nam. Điều quan trọng nhất là tôi phải có giấy chứng nhận cư trú tin cậy ở Troitsk. Cho dù theo luật về hôn nhân thì điều này không bắt buộc.

Vào những ngày này tôi xây dựng tại đatra một cái gara, rất hoành tráng, như phần nối dài của ngôi nhà. Một trong các bức tường của nó có hình bán nguyệt.

Các cửa sổ phải làm khá hẹp và kéo dài, trông như các lỗ châu mai, tôi còn nẹp thêm các thanh thép. Cửa vào căn phòng này bọc thép. Thành thử trông cứ như một pháo đài. Và nó về sau đã hoàn thành cái chức năng này của mình.

Theo luật Liên Xô, muốn xây gara thì phải là công dân địa phương. Tôi đến gặp trưởng công an Troitsk.
– Tôi muốn đăng ký (hộ khẩu) ở đatra để xây cái gara, có được không?
– Hoàn toàn được, anh đến chỗ mình ở trong Moskva xin chuyển đăng ký về đây, rồi nạp cho phòng hộ chiếu của chúng tôi.

Tôi làm giấy chuyển đăng ký, nhưng phụ trách phòng hộ chiếu yêu cầu phải có giấy phép của chủ tịch Ủy ban hành chính của Troitsk, một người mà tôi có quan hệ rất tốt. Bà này đang sửa soạn đi nghỉ, do vậy bỏ qua nhiều chi tiết trong đơn của tôi. Tôi bèn lập tức đề nghị được phép đăng ký kết hôn ngay sau khi đăng ký (hộ khẩu). “Chúng tôi không thể đợi được. Cô dâu có bầu rồi, tôi có giấy xác nhận khám thai đây”. Bà Chủ tịch bèn ghi: “Cho phép đăng ký hôn nhân ngay sau khi Ủy ban có quyết định đăng ký hộ khẩu”. Và lên đường đi nghỉ.

Với các giấy tờ đó tôi đến gặp vị đại biểu phụ trách đăng ký kết hôn, là “người của mình”, thú thật rằng sẽ cưới một cô gái ngoại quốc, nhưng buộc phải giấu chuyện này, nếu không sẽ bị đuổi khỏi Viện NC mật đang làm. Anh này hứa sẽ thu xếp, giữ bí mật và nói bà thư ký ủy ban, một phụ nữ tốt bụng đẫy đà, xử lý cho. Tôi mừng rỡ, nhưng đã xảy ra một chuyện không lường trước. Trước hôm đăng ký vài ngày, họ chuyển bà thư ký đi, đưa về thay là một cô bé làm ở Quận đoàn komsomolsk Podolsk, một nhân vật cực kỳ tích cực. Tôi hoảng sợ rằng cô ta sẽ làm hỏng cuộc hôn nhân của mình.

Tôi cầu cứu bạn bè: cần vô hiệu hóa một cô gái, làm quen, quyến rũ, và đưa cô ta đi một ngày, để cô ấy phải bàn giao việc lại cho người phó. Tại sao phải làm vậy, tất nhiên tôi không nói. Một nhà khoa học trẻ – đẹp trai và dại gái, nhận lời giúp. Hôm sau chàng gọi điện đến: “Thứ bảy cô ấy sẽ vắng mặt. Đã xin nghỉ. Chỉ có điều phải kiếm cho chúng tôi vé xem buổi hòa nhạc nào thật hấp dẫn”. Chúng tôi kiếm cho họ vé buổi biểu diễn jazz Đức.

Người phó không gây thất vọng, làm đám cưới cho chúng tôi đúng như đã hứa, “không một tiếng ồn, không một hạt bụi”. Nhưng tôi, cho đến giây phút cuối cùng, vẫn sợ nhỡ có điều gì không hay xảy ra. Bulat Okudjava3 đề nghị: “Nếu có gì cản trở, gọi cho mình. Mình sẽ huy động các phóng viên ngoại quốc đến, và gây ầm ĩ đến mức họ không tưởng tượng ra được đâu”. Tôi biết Okudjava từ những năm thơ ấu, các bà mẹ của chúng tôi như hai chị em. Tôi đã sống hồi nhỏ tại gia đình Bulat, cả nửa năm tại căn hộ của anh trên Arbat. Vì sao thì không nhớ rõ.

Đó là năm 1937, một thời kỳ u ám. Nhiều người phải thay đổi chỗ ở, ẩn náu để tránh bị bắt bớ. Người ta vừa bắt đi cha của Bulat – ông Saliko. Mẹ tôi li dị với cha và lấy Boris Phedorovich Porsnev, một nhà sử học và triết học xuất chúng. Cha dượng đóng một vai trò rất lớn trong đời tôi. Tôi rất yêu quý ông. Có một thời gian tôi được mẹ của Bulat – Askhen Stepanova và bà tôi, Maria Bartanova, nuôi dưỡng. Askhen sau này luôn giúp đỡ chúng tôi, bà cũng dự đám cưới của tôi với Anh.

Tiệc mừng được tổ chức ở đatra. Chỉ mời những bạn bè thân nhất và người nhà. Mẹ tôi tặng cô dâu chiếc vòng đính kim cương của mình. Một chiếc vòng rất tinh xảo, “trí thức”, nhưng Anh ngại mang nó. Nàng là một cô gái khiêm tốn. Còn một món quà nữa của mẹ – một chuỗi hạt trai lớn có hình thù không đều đặn – mà Anh thường đeo dấu dưới áo.

Hôn thú được hoàn thành nhanh chóng đến ngạc nhiên, nhưng giấy đăng ký thì là cả một câu chuyện dài. Đầu tiên bà phụ trách hộ chiếu ngần ngại. Bà này thông báo rằng không có quyền cấp đăng ký, đó là quyết định của chủ tịch ủy ban, và chuyển hồ sơ về Moskva, đến Ban Nội vụ vùng. Ở đó họ dồn tôi chạy vòng quanh. Tôi phải đợi rất lâu tại cửa của các văn phòng đủ loại, nhưng tất cả đều vô ích. Cô em họ của Okudjava đã giúp tôi. Người phụ nữ kỳ diệu này, mà tôi chưa hề gặp, học cùng với phó chủ tịch Ban Nội vụ vùng Moskva. Ông ta cuối cùng ký giấy phép cho tôi đăng ký ở ngoại ô Moskva.

Trong thời xô-viết mọi việc được làm theo các mối quen biết. Tôi và Anh được đưa vào một nhà hộ sinh mới mở ở Moskva theo sự giới thiệu của những người quen của tôi, chẳng cần giấy tờ gì hết. Bác sĩ đỡ đẻ, là một nhà phẫu thuật nổi tiếng, không biết nàng là ai. Tôi nói rằng chúng tôi là tình nhân và muốn đánh lừa người chồng ghen tuông, Anh đã phản bội anh ta trong lúc anh này đi công tác dài ngày. Bảy tháng trước anh chồng nghỉ phép về Moskva, sau đó lại ra đi. Vì vậy chúng tôi cần một giấy chứng sinh rằng em bé được sinh ra mới bảy tháng tuổi.

Trên thực tế tờ giấy này là một bảo chứng để tránh những khiếu nại có thể từ phía Việt Nam. Anh làm thủ tục ly hôn sau khi có thai được hai tháng, và nếu muốn có thể công bố Vân là cha đứa bé. Hồi đó còn chưa biết đến các xét nghiệm ADN. Bác sĩ sản làm các thứ giấy tờ một cách vô tư. Ông ta bị Anh quyến rũ. Và tôi rất biết ơn ông ấy, có lẽ vậy.

Anh sinh con gái ngày 31 tháng Mười năm 1977, chúng tôi đặt tên cho bé là Elena để ghi nhớ Liên – bạn gái thân thiết của Anh, là con gái vị bộ trưởng tư pháp, người đã giúp đỡ chúng tôi rất nhiều, nói riêng trong việc quyết định đám cưới “chui”. Chúng tôi làm giấy khai sinh ngay cho cháu ở Troitsk, và chỉ sau đó mới xem là hoàn thành “chương trình minimum”4.

Trước cuộc sinh nở ít lâu Lê Duẩn đến Moskva. Ông không thể gặp Anh ngay. Điều này làm ông giận dữ. Con gái ở đâu? Thường thì các nhân viên Vụ Quốc tế BCH Trung ương (TƯ) ĐCSLX đưa Anh đến vào ngày cha cô đến nơi. Nhưng lần này họ không thể tìm thấy cô – không ở Kiev, nơi cô đến công tác chính thức, không ở Moskva. Người quản lý giải thích là cô ấy ở với Maslov đâu đó. Một tuần sau, khi Anh và con gái ra khỏi nhà hộ sinh, nàng ngay lập tức tự đi gặp Lê Duẩn để kể hết mọi chuyện. Tôi đã cố ngăn cản, nhưng nàng không nghe.

Anh gặp cha tại nhà khách của chính phủ trên Đồi Lenin. Lê Duẩn bắt đầu thuyết phục con gái trở về nhà để làm thủ tục ly dị với Vân, điều mà nàng đã yêu cầu trước kia. Nhưng nàng nói đã chia tay anh từ lâu và đã đi lấy chồng. Lê Duẩn đỏ mặt lên vì giận dữ và bắt đầu la hét, rằng cái dòng máu Trung Hoa tệ hại mà mẹ nàng truyền cho có lỗi trong mọi chuyện. Anh vô cùng phẫn nộ về chuyện này, nàng không chịu đựng được sự phân biệt chủng tộc. Nhưng nàng không ngăn cha lại, chỉ quay ra và bỏ đi.

Khi đã ở ngoài phố nàng đi đến bến xe công cộng, phía sau một chiếc “Vonga” đen chạy theo, cách một khoảng không xa. Anh bước gấp. Lái xe ngay lập tức nhấn ga. Nàng bỏ chạy – và “Vonga” tăng tốc. Không biết câu chuyện sẽ ra sao nếu Anh không kịp nhảy lên chiếc trolleybus vừa đi tới. Nàng về đến nhà nước mắt đầm đìa. Nàng kể đã hoảng sợ ra sao khi thấy chiếc xe bắt đầu đuổi theo mình:
– Em nghĩ họ sẽ bắt mình bây giờ!
– Em đã nói là cha em không làm việc này mà.
– Nhưng hôm nay em hiểu ra rằng ông đặt quyền lợi chung cao hơn quyền lợi riêng. Nghĩa là số phận em đã định.

Tôi an ủi nàng, còn nàng bật khóc và khẳng định: “Em sẽ chết! Sẽ chết!”

Hôm sau Anh gọi điện cho chị Muội. Chị ấy kể rằng cha rất đau khổ vì chuyện này, nên đã nổi đóa. Ông suốt đêm không ngủ được và muốn làm lành. Anh trả lời: “Tốt nhất hãy chúc mừng chúng em. Chúng em vừa sinh con gái”. Chị không tin, cho rằng Anh bịa ra chuyện này để cha thừa nhận cuộc hôn nhân của nàng. Hai chị em thỏa thuận sẽ gặp nhau tại nhà tôi và cùng đến gặp cha. Khi nhìn thấy Lena, Muội bật khóc và bảo Anh ở nhà. Tự chị ấy sẽ đi và kể mọi chuyện. Người cha đã bị chấn động khi biết tin về đứa cháu.

Lê Duẩn trong một thời gian dài không thể yên được với việc con gái ông đã không nghe lời, vi phạm luật lệ và lấy chồng nước ngoài. Ông gọi cho Suslov5, là người ông quen biết gần gũi, đề nghị giải thích giùm xem cái gì đã gắn bó Anh với tôi – sự say mê giây lát hay tình yêu thực sự. KGB sau đó đã xếp đặt một “chuyên gia tình yêu” theo dõi chúng tôi. Anh này bí mật đi vòng quanh đatra nơi chúng tôi đang sống, quan sát, nghe ngóng và buộc phải đưa ra kết luận: đó là tình yêu.

Người cha không tha thứ cho con gái. Người ta kể cho tôi rằng ở nhà Lê Duẩn đã cấm nói đến Anh, ngay cả đến tên cũng không được nhắc đến. Nhưng các món quà thời trẻ con của nàng vẫn nằm trên bàn viết của ông. Khi một món đồ nào bị mất, Lê Duẩn liền gây sự. Nghĩa là ông vẫn chưa hết yêu con gái …

Anh thay đổi rất nhiều sau khi sinh Lena. Trước đấy nàng là một người dũng cảm, độc lập, còn bây giờ lúc nào cũng run rẩy vì sợ hãi. Lúc nào cũng chờ đợi có người tấn công, bắt cóc, sợ những chiếc xe màu đen và những người đồng bào của mình. Nàng nói tốt nhất không gặp họ, họ sẽ lôi đến cuộc họp và kiểm điểm. Những người ruột thịt dè bỉu nàng, gọi nàng là đồ phản bội. Họ thường xuyên gọi điện và gửi đến những bức thư đầy giận dữ. Anh bị đè bẹp, cho rằng nàng sẽ bị trừng phạt vì tội lỗi đáng sợ mình gây ra.

Trước đây Anh không thích ngồi lắm trong căn phòng có các lỗ châu mai, còn bây giờ nàng suốt ngày ngồi lì trong đó với Lena, mỗi khi tôi có việc phải trở về Moskva. Nàng cầm theo mình khẩu súng săn của tôi. Anh nói căn phòng này là nơi an toàn nhất ở đatra. Nó không bị bắn từ hướng ngoài phố, nhưng nổ súng từ bên trong rất thuận tiện. Xem ra nàng đang nhớ lại tuổi trẻ du kích của mình.

Một lần nàng làm tôi sợ gần chết. Nàng đi trốn, cùng với Lena. Tôi trở về đatra, ở đó không thấy một ai. Tôi chút nữa thì lên cơn đau tim, nghĩ họ đã bắt hai mẹ con đi rồi. Nàng đi ra và phá lên cười.

Không biết từ đâu có cuộc nói chuyện với một anh lính trong đội xây dựng. Anh ta muốn bán cho tôi một khẩu súng lục dùng bắn các chốt vào bê-tông. Tôi hỏi, với khoảng cách nào. Anh lính tỏ ra quan tâm: “Ông muốn bắn từ xa à? Tôi có thể bán súng tự động, cả đạn nữa”. Tất nhiên tôi từ chối. Khi tôi vừa cười vừa kể lại cho Anh nghe, nàng bất ngờ nhận xét:
– Thì sao, lý ra phải mua.
– Em điên à? Có thể vào tù đấy.
– Nhưng em sẽ yên tâm hơn. Anh không hiểu chứ, cha có thể làm tất cả. Hôn nhân của chúng ta đã phá hủy uy tín của ông ấy trong đảng và các đối thủ của Lê Duẩn có lợi. Nếu ông ấy phải rời chức vụ, đất nước sẽ chết.
– Ông ấy yêu em và sẽ không phá hạnh phúc của em.
– Yêu, và em cũng rất yêu cha. Nhưng lợi ích quốc gia quan trọng hơn. Em luôn biết mình đi đâu. Khi chưa có Lena, em không sợ, còn bây giờ em thấy sợ lắm. Một mình anh không xoay sở nổi với con.

Chẳng bao lâu cô bé bị ốm, cần phải đi viện. Trước khi vào viện với con, Anh chuyển cho tôi bản tuyên bố chính thức: “Nếu người ta đem tôi đi, một mình hay cùng con gái, và đưa về Sứ quán Việt Nam, xin biết rằng đó là một hành động bạo lực, chống lại ý chí của tôi, cho dù những người thân hay sứ quán có nói gì. Tôi muốn sống với chồng tôi là Victor Maslov ở Liên Xô và muốn rằng ông sẽ là người nuôi dạy con gái chúng tôi và truyền dạy cho cháu văn hóa Nga”. Tôi đã cất tờ giấy vào nơi an toàn.

Phần lớn thời gian chúng tôi sống với nhau ở đatra và gần như không rời nhau. Tôi dạy ít hơn, cố gắng làm việc tại nhà. Hàng đêm, đôi lúc nhìn vợ ngủ tôi nghĩ: “Trời ơi, làm sao tôi được hạnh phúc thế này? Tôi đâu có xứng”. Tôi dường như cảm thấy thời gian dành cho chúng tôi thật ít …

Lúc đầu tôi sợ rằng Anh sẽ buồn nhớ gia đình và quê hương. Một lần bạn tôi, viện sỹ hàn lâm Mishenko hỏi nàng về điều đó. “Tôi buồn chỉ khi nhà có khách” – Anh trả lời với sự thẳng thắn vốn có của nàng. Nàng không thích hội hè ầm ĩ, các cuộc rượu phè phỡn. Tôi nhận thấy Anh khó chịu với sự vui sướng của những đám say rượu, cho dù nàng không thể hiện sự không hài lòng của mình, và dần dần bỏ rượu. Còn nàng nhìn chung không uống rượu.

Sống với Anh tôi đã thay đổi, trẻ ra có lẽ đến mười lăm tuổi. Chưa bao giờ tôi làm việc hiệu quả đến như vậy. Chúng tôi hầu như không đi đâu (nhân viên Vụ Quốc tế của BCH TƯ ĐCS LX không khuyên chúng tôi xuất hiện ở những chỗ công cộng), nhưng chúng tôi không cảm thấy mình bị xa cách. Các bạn và chị gái vẫn đến thăm Anh. Nàng cũng vào Moskva, đến trường đại học, kết thúc NCS một cách khôn khéo. Anh có năng lực làm việc hơn tôi nhiều, và có lẽ sẽ làm khoa học nếu mọi việc đã không diễn ra khác đi. Nàng đã kịp bảo vệ luận án và trở thành PTS khoa học toán – lý.

Tôi còn nhớ có một lần đi nghe Vưsotsky6 biểu diễn tại trường MIEM. Chúng tôi ngồi khá xa ở hàng sau, nhưng sau khi biểu diễn nghệ sỹ lập tức đến gặp Anh. Anh ấy đã chú ý đến nàng khi đang hát, và luôn ngoái nhìn nàng. Anh ngạc nhiên, nghĩ rằng nghệ sỹ nhầm nàng với ai đó. Còn Vưsotsky thì sôi nổi khen ngợi, đề nghị tiếp tục gặp gỡ với nàng, nói chung cư xử cứ như không có tôi ngồi cạnh. Tôi cố gắng kéo anh ngồi xuống. Khi anh hỏi Anh có hiểu hết anh hát gì không, tôi đã trả lời thay:
– Này, có chồng cô ấy đây kia mà. Tôi có thể giải thích. Nói chung chúng ta gần như là hàng xóm với nhau ở đatra mà. Anh ghé chơi nhé, chúng tôi rất vui được đón.
– Tôi ở ngoài đó không thường xuyên – Vưsotsky chợt buồn – đấy là Maria thích đatra, tôi thì không thích lắm. Với lại không có thì giờ.

Cuộc gặp gỡ của chúng tôi với Vưsotsky xảy ra trước khi anh ấy mất không lâu. Anh ấy trông mệt mỏi và không được khỏe. Nhưng cố tỏ ra trẻ trung trước người đẹp Việt Nam. Nàng không hiểu lý do sự chú ý của anh. Khi rời buổi biểu diễn, nàng hỏi:
– Anh ấy muốn gì thế?
– Anh ấy thích em – tôi trả lời. – Nhìn thấy người đẹp và xù lông xù cánh!

Tôi tự hào vì Vưsotski để ý đến Anh. Tôi thấy thật dễ chịu khi thấy những ánh nhìn thán phục hướng về phía nàng. Nàng không thích lôi kéo sự chú ý, nhưng có thể làm việc đó một cách rất hiệu quả. Nàng biết ăn mặc, tiếp khách. Đôi lúc tôi cảm thấy tiếc rằng đã không thể cho nàng những điều nàng xứng đáng được hưởng. Trước khi đến Liên Xô Anh đã sống một cuộc sống hoàn toàn khác, nàng thường đi cùng cha ra nước ngoài, ở đó họ được đón tiếp ở cấp cao nhất.

Và ngay ở Việt Nam, chỗ Lê Duẩn cũng có nơi ở rộng lớn với bao nhiêu người phục vụ. Nhưng Anh không than phiền và, theo tôi, không đau khổ vì thiếu đi những tiện nghi quen thuộc, nàng tự thu dọn, tự nấu ăn. Tôi vẫn dùng một cái máy giặt ZVM do nhà máy mang tên Vladimir Ilich sản xuất. Nó ồn khủng khiếp và thường xuyên chảy nước, có đến cả chục lần chúng tôi làm ướt nhà hàng xóm tại căn hộ Moskva. Khi có đứa con gái thứ hai Anh phải xoay xở vất vả hơn, chúng tôi đã thuê một người giúp việc nhà và bảo mẫu.

Ba mươi tuổi, mẹ của hai đứa trẻ, Anh trông như gái mười tám. Một lần tôi chịu đựng một cơn ghen vô cớ. Chúng tôi đứng xếp hàng trong cửa hiệu. Trước mặt chúng tôi là một chàng trai trẻ khá cao. Một trang nam tử. Liếc nhìn anh ta, tôi cảm thấy nhói trong tim: Anh bây giờ sẽ nhìn anh ta, so sánh với tôi, và rút ra kết luận … Nhưng nàng không mảy may để ý đến chàng đẹp trai. Lúc ra ngoài phố, tôi hỏi:
– Em có thấy anh chàng đẹp trai đứng trước chúng mình không? Đúng là một Alain Delon.
– Thế ư? – Anh ngạc nhiên. – Em không để ý.

Muội nói với nàng:
– Sao em lại lấy Maslov? Ông ấy già rồi! Xem kìa, xung quanh bao nhiêu là đàn ông trẻ trung thú vị!
– Với em chẳng có ai khác tồn tại cả. – Anh trả lời.

Tatiana, con gái thứ hai của chúng tôi, sinh vào năm 1979. Sau lần này quan hệ của Anh với cha mẹ tốt lên. Có vẻ họ đã hiểu rằng mọi việc đối với con gái họ rất nghiêm túc, và ngừng các cuộc tấn công. Thậm chí họ còn xin Anh tha thứ, tất cả, trừ người cha. Mẹ nàng, bà Bảy Vân, đến Moskva và vẫn đến thăm chúng tôi – cả ở đatra, cả ở căn hộ Moskva trên phố Dmitri Ulianov.

Nhờ mối tình của chúng tôi đã xảy ra những thay đổi quan trọng không chỉ trong cuộc sống của gia đình Lê Duẩn, mà còn trong cả nước. Ở Việt Nam đã thông qua luật cho phép kết hôn với người nước ngoài. Một bạn gái, người đã yêu một chàng trai Đông Đức, ngay lập tức gọi điện cho Anh: “Mày thật đúng là anh hùng! Hàng nghìn người sẽ cầu nguyện cho mày! Lạy trời cho mày được hạnh phúc!”

***

Sau khi hòa giải với gia đình Anh quyết định giới thiệu với cha cháu gái lớn. Khi Lê Duẩn đến Moskva lần sau đó, nàng đem theo Lena đến gặp ông. Ông ngay lập tức yêu mến cháu. Ông đề nghị để Anh và cháu ở lại cùng ông cho đến khi ông về nước. Lúc đầu cháu bé còn lạ, nhưng dần dần quyến luyến với ông ngoại. Ông chủ ý dấu tất cả chuối trong nhà để tự mình đãi Lena – mong chiếm được cảm tình của đứa cháu.

Lê Duẩn luôn yêu cầu đưa Lena đến gặp ông mỗi lần đến Moskva. Còn gặp tôi thì dứt khoát không muốn. Còn nhớ tôi đưa Anh và con gái đến thăm mẹ vợ ở cái đatra cũ của Khrusov ở Rublebka và phải đợi trong xe, trong khi các cháu đang ở bên ông. Lê Duẩn đưa Lena và Anh đi xem xiếc rồi đưa họ đi theo dự lễ khai mạc Olympic Moskva. Con bé lên cơn đỏng đảnh đúng lúc long trọng nhất, kêu to: “Mẹ ơi, con muốn đi đái!”

Lần khác, trong lúc ăn trưa ngồi cạnh Lê Duẩn, đúng lúc đang nói chuyện về bắt đầu chiến tranh chống chế độ Khmer đỏ ở Campuchia, Lena bỗng nhiên hỏi: “Ông ơi, thế ông không làm gãy răng mình chứ?”

Không biết có sự liên tưởng nào xuất hiện trong đầu con bé, để đúng lúc nói chuyện gay cấn nhất lại hỏi như vậy? Ở nhà chúng tôi cũng trao đổi về cuộc chiến tranh với chế độ Polpot – Ieng Sari. Có thể Lena nhớ lại câu mà tôi đã nói khi nào đó? Anh có ý nghĩ khá tốt về Ieng Sary, nhân vật thứ hai của chế độ ở Campuchia. Có thể trong cuộc nói chuyện ở buổi tiếp khách Việt Nam đó đã vang lên cái tên này, và gợi lại sự liên tưởng nơi con bé? Người phiên dịch hiểu câu hỏi theo nghĩa bóng, lờ đi, nhưng cố gắng truyền đạt tối đa ý nghĩa của câu hỏi. Lê Duẩn không hề bối rối. Ông cắn chặt hàm răng chắc khỏe của mình và nhe ra với Lena. Tình huống được giải tỏa.

Anh cũng rất trực tính và tiết lộ các “bí mật” xô-viết cho cha một cách đơn giản. Hơn nữa, ông ấy cũng biết cách để hỏi. Một hôm người cha nói rằng theo lời Brejnev đất nước vừa thu hoạch một vụ bông kỷ lục. “Vậy mà vải trải giường nhà con thủng hết rồi”, Anh nhận xét. Ngay ngày hôm sau cán bộ phân ban Việt Nam trong Ban quốc tế của BCH TƯ ĐCSLX dẫn Anh đến gian hàng số 200 nổi tiếng của GUM, nơi chỉ bán cho các khách hàng chọn lọc. Thế là chúng tôi có đồ trải giường mới.

Anh không muốn lợi dụng sự ưu đãi, nhưng dù sao vẫn mua đồ ở gian hàng cấm này của GUM, và tôi thường nhận được các đơn hàng mà nàng đặt. Nàng không nhận của cha dù một xu nhỏ, ngay cả khi học ở MGU. Chính quyền chúng ta đề nghị cấp cho nàng một căn hộ rộng rãi ngay trung tâm Moskva, nhưng nàng từ chối. Chỉ nhận một căn hộ ba phòng bình thường trong một tòa nhà lắp ghép ở Beliaevo. Để phòng khi nhỡ có việc chúng tôi đột ngột phải chia tay, thì vẫn có chỗ ở và làm việc.

Nhưng chúng tôi sống hòa thuận cùng nhau. Trong suốt thời gian chung sống chỉ cãi nhau vài lần, đấy là Anh cho rằng thế. Lần đầu tiên là khi Anh giận dữ vì tôi chở trên xe hai cô gái, cho dù trong xóm chúng tôi ở việc cho đi nhờ vẫn hay xảy ra. Nhưng Anh lại tức giận.

Lần thứ hai thì xảy ra một chuyện nói chung là ngớ ngẩn. Buổi chiều tôi nghe “đài địch”. Anh ngồi cùng tôi, nhưng nàng không hiểu tiếng Anh, do vậy nhanh chóng đứng dậy và đi vào phòng trẻ con. Tôi nghĩ lũ trẻ đã đi ngủ, và khép cửa thật chặt để khỏi đánh thức chúng. Sau đó tôi cũng thiếp đi. Anh ra khỏi phòng trẻ, kéo cửa, nhưng không mở được. Nàng cho rằng tôi không muốn gặp nàng, lấy làm khó chịu và sáng hôm sau bỏ đi đến nhà chị Muội. Đến chiều Anh trở về, và chúng tôi làm lành. Nàng không thể sống trong tình trạng xung đột với tôi.

Mẹ nàng, bà Bảy Vân, cố gắng làm cho con gái chống lại tôi, có lần nói ra sự không hài lòng với việc chúng tôi sống tằn tiện. Anh giải thích cho mẹ: “Bao nhiêu tiền anh ấy gần như dành cho đatra. Luôn cứ phải mua hay sửa cái gì đó. Con không thể từ chối anh ấy trong chuyện này. Những người đàn ông khác họ uống rượu hết tiền, còn anh ấy thì xây dựng”.

Anh dành lấy việc chăm sóc cho mẹ tôi, khi bà bị đột quỵ, và nàng rất biết cách chăm sóc. Có lẽ nàng đã từng làm y tá trong thời gian chiến tranh. Mùa thu năm 1980 Anh lại mang thai, tôi vốn mong có một gia đình lớn. Vào tháng năm năm 1981 mẹ tôi khá hơn, người ta cho bà ra viện. Chúng tôi chuyển ra đatra. Tôi thuê một cô y tá, cô ấy ngủ bên cạnh người ốm và giúp bà đi lại và nói năng. Trẻ con thì có bảo mẫu, được đưa từ Việt Nam sang theo yêu cầu của Anh, để lũ trẻ có thể nói chuyện với chị bằng tiếng mẹ đẻ. Lê Duẩn chuyển cho nàng một món quà – một con đồi mồi. Anh rất hoảng hốt khi nhìn thấy món quà cha tặng:
– Đồi mồi này người ta tặng cả đôi. Đây là biểu tượng của tình yêu và cuộc sống gia đình hạnh phúc. Một con đồi mồi – đây là điềm xấu. Làm sao mà cha lại không nghĩ đến điều ấy.
– Ông ấy không cần nghĩ đến những thứ ngu ngốc ấy. Cha em là người cộng sản.
– Vâng nhưng ông tôn trọng truyền thống và biết rằng đây là dấu hiệu của cái chết. Đã xảy ra chuyện gì rồi …

Kết quả siêu âm cho biết lần này chúng tôi sẽ có con trai. Anh cảm thấy người không khỏe, tôi đặt trước chỗ cho nàng ở nhà hộ sinh “Kremlin” của Cục 4 trên phố Vesnina. Anh đã sinh Tania ở đó và nói chung thấy hài lòng chỗ này. Hồi ấy Anh có phòng bệnh riêng, có TV và điện thoại, nàng có thể bình tĩnh viết báo khoa học. Bác sĩ hồi ấy đã sửng sốt: “Một phụ nữ tuyệt làm sao! Nằm nhà hộ sinh còn làm khoa học!”

Nhưng nàng không muốn nằm tại bệnh viện này, sợ hãi điều gì đó. Một lần nàng nói sẽ chết khi sinh nở:
– Ở Việt Nam sắp có bầu cử. Để bầu cha em, họ sẽ làm tất cả.
– “Họ” là ai?
– Là những người luôn can thiệp vào tình yêu của chúng ta.

Tôi không tin vào linh cảm, cho rằng đó là những lo lắng của các phụ nữ mang thai.

Đêm mùng sáu sang ngày mùng bảy tháng sáu Anh bắt đầu đau. Để an tâm tôi gọi liền hai xe cấp cứu, từ Troitsk và từ Moskva – phòng khi bỗng nhiên có việc gì trục trặc. Xe từ Troitsk lao đến trước, nhưng nó chỉ chở được Anh đến Podolsk. Tôi đề nghị họ chở nàng vào Moskva, đến nhà hộ sinh số 25, gần nhà chúng tôi trên phố Dmitri Ulianov. Khi đến nơi mới rõ ra một nửa tòa nhà đang phải sửa chữa.

Người trực nhận giấy tờ của Anh, nhìn thấy nàng đăng ký ở Cục 4, liền gọi ngay xe cấp cứu từ đó. Vậy là người ta vẫn chở Anh đến phố Vesnina. Ở đấy, các bác sĩ lập tức khám và nói, tất cả đều ổn, quá trình sinh nở bình thường. Tôi chuẩn bị ngồi chờ ở phòng tiếp nhận thì sực nhớ mẹ tôi hầu như đang ở ngoài đatra có một mình. Cô y tá chúng tôi đã cho nghỉ hè, còn chị bảo mẫu người Việt không nói được tiếng Nga. Tôi liền lao về đó. Tại đatra mọi việc đều bình thường, nhưng mẹ nói rằng xe cấp cứu từ Moskva không tới. Thật lạ lùng.

Vào 7 giờ sáng Anh sinh bé trai. Người ta gọi điện cho tôi từ nhà hộ sinh thông báo điều đó, tôi hỏi tình trạng của người mẹ ra sao, đầu dây bên kia im lặng. Sau một khoảng im lặng dài, họ đề nghị tôi tới và nói chuyện với bác sĩ. Ở Moskva tôi được biết rằng Anh bị chảy máu rất nhiều, chưa cầm được. “Chúng tôi làm tất cả những gì có thể – Bác sĩ nói – Sắp tới họ sẽ chuyển máu tới. Ông tốt nhất nên quay về nhà. Đợi ở đây là vô nghĩa”.

Tôi chạy đến các bác sĩ quen để hỏi ý kiến. Họ không vui, nói rằng trong những trường hợp như vậy phải lập tức cắt bỏ tử cung. Nhưng các bác sĩ Kremlin có lẽ sợ lãnh về mình trách nhiệm đó, bệnh nhân không phải nhân vật bình thường.

Tôi quay trở về nhà hộ sinh. Lúc ấy người ta đã phẫu thuật cho Anh. Bác sĩ phẫu thuật chính của Cục 4 được mời đến xử lý cho nàng. Khi ông vừa ra khỏi phòng mổ, tôi lao đến:
– Cô ấy sẽ không chết?
– Cơ thể trẻ trung. Chúng ta hi vọng vào điều tốt nhất …

Vài tiếng sau đó Anh qua đời. Người ta cho phép tôi vào phòng bệnh. Anh nằm trên giường, phủ tấm ra – trông nàng xinh đẹp làm sao, như đang ngủ. Một cục gì chẹn lấy cuống họng tôi, tôi quỳ xuống hôn tay người tôi yêu dấu. Tấm ra phủ di chuyển, hé lộ thân thể vợ tôi, phủ đầy các vết xanh – đỏ. Tôi kêu lên vì sợ hãi. Mọi người chạy đến bên, đỡ lấy tôi và đưa ra hành lang …

Lần cuối cùng tôi nhìn thấy Anh là ở chỗ hỏa táng – mười ngày sau đó. Quyết định hỏa táng không phải do tôi đưa ra. Nói chung không ai hỏi ý kiến tôi muốn an táng vợ mình ra sao. Tại sao phải đợi lâu thế vẫn mãi là câu hỏi. Có thể Lê Duẩn đã bí mật đến Moskva. Tôi không gặp ông, còn bà mẹ thì bay sang ngay. Tro cốt của Anh được đưa về Việt Nam, bình tro được giữ ở nhà bà Bảy Vân, trong một căn phòng riêng.

Sau cái chết của Anh các cháu được bà cụ mẹ của Bulat, bà Askhen Stepanova yêu quý, đã rất già yếu chăm sóc. Bà cụ ở lại cùng chúng tôi ba tuần. Còn tôi trong thời gian đầu rơi vào một trạng thái quên lãng, mù mờ sao đó. Trí nhớ của tôi từ chối tin vào những gì vừa xẩy ra. Một lần tôi tỉnh dậy giữa đêm trong hoảng hốt. Trái tim bóp nghẹt trong lồng ngực. Trong mơ tôi thấy lóe lên một luồng sáng: người ta đã đầu độc Anh. Tôi chia sẻ phỏng đoán với các bác sĩ. Họ không loại trừ khả năng ấy, nhưng cho rằng các vết xanh-đỏ trên da có thể xuất hiện trong trường hợp chảy máu nghiêm trọng. Sau đó nhiều năm, khi nằm điều trị tim tại một bệnh viện tim mạch tôi quan sát thấy người ta đã tiêm geparin cho các bênh nhân để làm loãng máu, và trên người họ cũng xuất hiện những vết đúng như thế. Đã xuất hiện thêm một phương án khả tín theo quan điểm của tôi: việc chảy máu là do tác động cố ý, bằng cách tiêm thứ thuốc đó. Không phải tự nhiên Anh đã linh cảm thấy tai họa. Và máu đã chảy cạn …

Trong đám tang bà mẹ đau khổ đến mất trí. Bà ấy nói rằng cha của Anh đã giết con và muốn giúp đỡ tôi – đưa bọn trẻ về Việt Nam. “Không đời nào!” – tôi trả lời. Tôi biếu bà chuỗi hạt đã từng giữ hơi ấm cơ thể của Anh. Bà ấy nhận nó, để sau này sẽ trao cho vợ của cháu trai, khi nó lớn lên và cưới vợ.

Tôi che dấu cái chết của Anh không nói cho những người thân biết. Mẹ tôi rất đau ốm, còn các cháu gái thì quá bé. Mẹ tôi có lẽ cảm thấy điều gì đó, bà bị đột quỵ lần hai, và lần này thì điều trị không khá lên được. Tôi nói với Lena là Anh ở trong bệnh viện, và sau đó – rằng mẹ đã đi có việc, nhưng con bé cũng hiểu hết. Một lần nó kéo tôi ra bên và thì thầm hỏi tôi: “Bố ơi, người ta chôn mẹ rồi phải không?”. Lena luôn than thở về nỗi buồn vắng mẹ, nó khóc: “Bố, hãy đi Việt Nam, mua mẹ cho con!”

Bảy Vân quyết định ở lại Moskva ít lâu. Bà ấy yêu cầu dẫn Tania đến thăm, nói rằng sẽ đưa trả con bé và cô bảo mẫu về nhà vào hôm sau. Nhưng đã không cho về. Hai ngày liền tôi gọi cho mẹ vợ, nhưng người ta không gọi bà ấy nghe điện, viện cớ có công việc quốc gia quan trọng nào đó. Ban đầu tôi không cảm thấy lo lắng đặc biệt, nhưng sau đó hiểu ra rằng bà đang cố thực hiện ý định của mình – lấy lũ trẻ khỏi tay tôi. Tôi tìm được địa chỉ của bà với không ít khó khăn, đem theo một đồng nghiệp biết tiếng Pháp để hỗ trợ và làm phiên dịch, lên đường đòi lại con gái. Bảy Vân không muốn trả lại Tania, ngay cả khi tôi nói rằng mẹ tôi sắp mất và bà cụ muốn vĩnh biệt cháu gái. Tôi buộc phải hứa rằng bà cháu sẽ gặp lại nhau trong lúc chuẩn bị cho tang lễ.

Mẹ tôi mất ngay ngày hôm sau. Mẹ vợ chạy đến ngay: “Các cháu sẽ ở với tôi!”. Tôi phải giải thích rằng các cháu còn đang ốm. Tania thực sự đang bị sốt. Bảy Vân đề nghị thu xếp chữa cho cháu tại căn hộ của mình, nhưng tôi không đồng ý.

Tôi biết rằng bà ta sẽ lại xuất hiện ở đatra vào ngày cử hành tang lễ, lúc tôi không ở nhà, do vậy đã gửi Lena đến chỗ người quen, còn Tania tôi khóa cùng với người cháu của tôi trong căn phòng có các lỗ châu mai, và dặn không được mở cửa cho bất cứ ai, đặc biệt cho bà ngoại nó. Bà bảo mẫu được dặn phải nói là cả hai cháu đang ở nhà các bạn của tôi. Ngay khi tôi vừa rời đến chỗ hỏa táng, Bảy Vân đã xuất hiện ở đatra. Không tìm thấy lũ trẻ, bà ta ra về trong sự tức giận khủng khiếp.

Với đứa con trai, tôi đặt tên nó là Anton, tình hình phức tạp hơn nhiều. Ở nhà hộ sinh họ không trao cháu cho tôi. Họ thông báo rằng do tình trạng sức khỏe của cháu bé, cháu cần ở lại bệnh viện để các bác sĩ chăm sóc. Tôi chỉ làm được giấy chứng sinh cho cháu, và lập tức tiến hành các biện pháp. Tại bệnh viện của BCH TƯ, nơi cháu được chuyển đến từ nhà hộ sinh, cháu đã nhập viện với tên là Anton Maslov: các bạn của tôi đã giám sát tại lối vào bệnh viện để cháu được đăng ký đúng như đã định. Đây là một thắng lợi, không lớn nhưng dầu sao cũng là thắng lợi. Bây giờ đưa con trai tôi ra khỏi biên giới sẽ khó khăn hơn nhiều.

Họ cho phép tôi vào bệnh viện, đi dạo cùng con trai, nhưng bên cạnh luôn có người của BCH TƯ. Một thời gian tôi đã muốn lấy cắp Anton và dấu cháu trong gia đình chị bạn người Triều Tiên, giả như đó là con của chị. Còn tôi sẽ đưa về nhà một cháu bé có bề ngoài đông phương khác trong trường hợp Lê Duẩn quyết định đưa cháu trai ra mà không có sự đồng ý của tôi. Nghĩ ra đủ phương án, nhưng không thực hiện được. Và lạy Chúa – tôi sợ trò phiêu lưu này sẽ làm tôi nguy đến tính mạng.

Cán bộ từ BCH TƯ, người đảm nhận liên lạc giữa tôi và gia đình Anh, đề xuất một giải pháp thỏa hiệp – tôi giữ các cháu gái cho mình, còn trao đứa cháu trai cho ông nó: “Cứ để nó sống ở Việt Nam vài năm, khi cháu lớn lên, họ sẽ trả cháu về. Ông lúc nào cũng có thể đến thăm người thân của vợ và gặp Anton”. Cuộc bầu cử mà Anh lo sợ đang sắp diễn ra. Xem ra nhóm thân Trung Quốc loan tin rằng không nên tin tưởng vào Lê Duẩn. Ông ấy không thể theo đường lối độc lập nếu cháu trai ông ấy đang bị Kremli giữ làm con tin. Trong cơn sóng gió trước bầu cử người của ta có thể bắt đi tất cả các đứa con của tôi, chỉ để giúp Lê Duẩn còn giữ được quyền lực. Tôi hứa sẽ suy nghĩ, cố kéo dài thời gian. Nhưng áp lực ngày một gia tăng. Họ đe dọa tôi bằng những điều bất tiện trong công tác. Người cán bộ nói anh ta đã biết “phương án Triều Tiên” – tức phương án bắt cóc con trai tôi với sự giúp đỡ của chị bạn người Triều Tiên. Tình thế trở nên nghiêm trọng. Bà ngoại Bảy Vân một lần đã nói thẳng: “Không muốn tốt – cũng chẳng cần”.

Chống đối tiếp tục đã thành vô nghĩa, và tôi quyết định phải có sự đảm bảo – soạn một tuyên bố chính thức về việc cho phép đưa con đi trong hai năm. Ở sân bay tôi đã khôn khéo lấy hộ chiếu của Anton từ nhân viên an ninh cửa khẩu, chụp ảnh tất cả các trang và đút trả lại. Bạn của tôi chụp ảnh ghi lại cuộc ra đi của thằng bé. Vào đúng ngày hôm ấy Lê Duẩn đến Moskva. Ông đã gặp Brejnev. Vì cuộc hội kiến này (có vẻ rất quan trọng) nên mới có sự vội vã như vậy.

Chẳng bao lâu tôi lăn ra ốm. Ban đầu là viêm phổi, sau đó phát hiện có một khối u. Nghi ngờ đến khả năng xấu nhất, nhưng rồi mọi việc cũng qua – khối u hóa ra lành tính. Tôi nằm viện khá lâu, Muội có đến thăm tôi. Chị chắc có nói chuyện với bác sĩ, biết về các chẩn đoán của tôi và kể cho những người thân biết. Những người này lập tức chạy vạy – nhờ cậy những người bạn xô viết nhờ nhận lại các cháu gái từ người cha “đang sắp chết”.

Nghĩ lại thấy thật đáng sợ, không biết chuyện gì sẽ xảy ra nếu nếu tôi không xuất viện đúng một ngày trước khi các thanh tra về công việc với vị thành niên đến nhà tôi. Một bà trong sắc phục đại úy cảnh sát đến nhà với yêu cầu chính thức từ Ủy ban vùng – xem xét khả năng xác nhận đưa Elena và Tatiana Maslovye vào cơ sở nuôi dạy trẻ. Tôi không thể nói với bà ta toàn bộ sự thật, nhưng cho bà ta hiểu rằng trong câu chuyện này mọi việc không đơn giản, khuyên bà ta đừng vội vã.

***

Sau hai năm người ta vẫn không đưa Anton trở lại. Tối đấu tranh thêm hai năm nữa để họ cuối cùng đưa cháu trở lại Moskva. Tôi yêu cầu việc này với tất cả người thân của Anh. Cuối cùng Thành, em trai nàng bay sang Moskva. Chúng tôi gặp nhau và đã tìm được tiếng nói chung. Thành nói chuyện với Lê Duẩn, và ông ta quyết định đưa cháu trai về với cha nó và các chị. Nhưng con trai tôi trở về đã không phải với tên là Anton Maslov, mà là công dân Việt Nam Nguyễn An Hoàn và hộ chiếu VIệt Nam. Lê Duẩn không có ý định trao cháu cho tôi. Ngược lại – ông hy vọng sẽ mang luôn cả các cháu gái về.

Con trai không nói được tiếng Nga, nó lạ tôi và không rời bà bảo mẫu người Việt đã nuôi cháu từ trứng nước. Ở Việt Nam Anton thực sự là hoàng tử: nó được ở cả một tầng nhà.

Tôi hi vọng sẽ thu xếp được với con trai, nhưng người bà Việt Nam bay sang, sau khi quyết định đi nghỉ tại Krưm tuyên bố rằng ở Moskva không tốt cho thằng bé. Sau kỳ nghỉ bà ta sẽ đưa cháu trở lại Việt Nam, còn tạm thời cần đưa cháu vào một nhà trẻ tốt trong suốt mùa hè. Bà ta sẽ cho phép tôi và các cháu gái tới đó. Trong cuộc nói chuyện của chúng tôi có mặt một cán bộ khá cao cấp của Ban quốc tế BCH TƯ, làm nhiệm vụ phiên dịch. Ông đã thấy tôi giận dữ như thế nào, và khuyên tôi đừng nổi cáu, cố gắng đạt được thỏa thuận với người bà quyền lực. Bắt cóc Anton thật vô nghĩa: cháu là công dân Việt Nam và họ sẽ ngay lập tức đưa cháu đi khỏi nhà tôi.

Nhưng tôi không có ý định đầu hàng. Bây giờ đã là thời khác, lãnh đạo đất nước Liên Xô không còn là Brejnev, mà là Gorbachev. Hơn nữa sau những năm tháng ấy tôi đã kịp trở thành Viện sỹ hàn lâm và được trao Giải thưởng Lenin. Tôi viết đơn yêu cầu trả lại con trai và đi khắp các cửa, còn thiếu đâu nữa: Bộ Nội vụ, Bộ Ngoại giao, BCH TƯ ĐCS LX. Khắp nơi người ta thông cảm với tôi, nhưng giúp đỡ thì đều từ chối. Họ nói rằng việc đó ngoài khả năng của mình. Một lần tôi chia sẻ với một chị bạn tốt – thư ký của Chủ tịch Viện Hàn lâm khoa học. Chị ấy khuyên tôi nên cầu cứu Anatolia Gromưco – con trai Chủ tịch Xô viết tối cao Liên Xô Andrei Andreievich Gromưco, một người thân cận với Gorbachev, và chị ấy sẽ giúp thu xếp cuộc gặp này.

Gromưco-con là giám đốc Viện Phi châu thuộc Viện HL KH LX. Tôi kể cho anh nghe về câu chuyện của tôi và Anh, đưa cho anh xem các bức ảnh chụp cùng vợ con. Anatolia Andreevich tỏ ra cảm động. Anh nói: “Anh hãy viết đơn gửi cho chính Gorbachev. Tôi hứa rằng ông ấy sẽ nhận được và sẽ đọc. Nhớ kèm theo cả những bức ảnh, đặc biệt bức chụp cùng bọn trẻ này. Nó mạnh hơn bất kỳ bức thư nào”. Tôi làm theo những gì anh chỉ dẫn, và cùng với các bức ảnh tôi còn để cả bản tuyên bố của Anh viết năm 1978. Vài hôm sau không chờ đươc, tôi gọi điện cho Gromưco. Anh nói: “Họ đã biết quan điểm của anh”. Tất cả chỉ có thế. Tôi không biết sẽ phải nghĩ gì và hành động ra sao.

Để bà ngoại yên tâm, tôi thu xếp gửi Anton vào nhà trẻ của Cục bốn, khá xa đatra của tôi. Tôi thỏa thuận với bà giám đốc rằng bà không được giao đứa bé cho ai, trừ tôi. Những người bảo vệ hứa sẽ gọi điện nếu thấy xuất hiện những “kẻ đột nhập” vào khu vực nhà trẻ. Tôi dúi cho họ 4 chai vodka Smirnov, hồi đó chỉ bán theo giấy của nhà thờ, và họ nóng lòng chờ sự xuất hiện của “kẻ đột nhập Việt Nam”. Chẳng bao lâu sau kẻ đột nhập xuất hiện thật. Bảy Vân nhận được sự từ chối thẳng thừng và buộc phải rút lui. Nhưng giám đốc nhà trẻ nài nỉ tôi phải đưa Anton đi: “Tôi sẽ không chịu đựng được cuộc tấn công sau đâu. Anh không tưởng tượng được là chúng tôi đã căng thẳng đến thế nào”.

Tôi nói chuyên với bạn bè, và họ tìm được cho chúng tôi một ngôi nhà ở Belorussia – ở tít tận xó rừng sâu Belovejskaia Pusia. Trong vòng bán kính 5 km quanh đó không một bóng người. Chúng tôi ở đó chừng vài tháng – Lena, Tania, Anton, bà bảo mẫu của chúng, và tôi. Pusia quả thật là một chốn thiên đường. Bọn trẻ đến giờ còn nhớ khu rừng nguyên thủy, những bãi cỏ đầy nấm và quả rừng, có thể sờ tay vào lũ thú rừng và chim chóc. Lũ hươu kéo đến tận nhà, làm bà bảo mẫu sợ chết khiếp. Đàn bò rừng nhởn nhơ đi lại đằng xa. Anton trở thành một đứa trẻ khác hẳn ở Belorussia, chơi với các chị và bắt đầu nói một ít tiếng Nga.

Tôi không nhận được tin tức gì từ Moskva, nhưng hi vọng vào những điều tốt. Tôi nghĩ rằng Gorbachev không muốn có một Sakharov – viện sĩ – nhà bất đồng chính kiến thứ hai. Để giành lại các con, tôi sẵn sàng làm tất cả, kể cả một scandal quốc tế. Mấy tháng trôi qua tôi biết được từ một người bạn Việt Nam, gần gũi với gia đình của Anh, rằng Lê Duẩn đã từ bỏ ý định bắt cháu về. Ông nói: “Nếu cha chúng nó yêu chúng như vậy, thì cứ để chúng sống với anh ta”. Có vẻ hai nước đã đi đến một nhận thức chung về chuyện này, Gorbachev và Lê Duẩn đã thỏa thuận để gia đình chúng tôi được yên. Sự đau khổ của tôi kết thúc. Mấy năm sau Lê Duẩn từ trần.

***

Vào cuối những năm 80 – 90 tôi có dịp đi khắp thế giới. Với tư cách là giáo sư mời tôi đã giảng bài ở Mỹ, Anh, Pháp. Đất nước tôi hồi đó ở trong giai đoạn không dễ dàng gì. Khoa học thoi thóp, các nhà bác học được trả lương bằng xu, mà trong tay tôi – ba đứa trẻ. Cần phải kiếm tiền bằng cách nào đó. Nhưng tôi chưa bao giờ nghĩ sẽ ở lại sống ở nước ngoài. Bọn trẻ luôn đi cùng với tôi, cũng như người vợ sau Irina. Chúng tôi cưới nhau năm 1991. Tôi quen Ira đã lâu, từ khi Anh còn sống. Cô ấy cùng tuổi với Anh. Ira là nhà ngôn ngữ, phó tiến sỹ khoa học. Sau khi Anh mất, giống như nhiều bạn bè và người thân của tôi, cô ấy đã giúp tôi trông nom bọn trẻ. Đối với tôi mối quan hệ của cô với chúng cũng quan trọng không kém tình cảm giữa chúng tôi. Ira là một phụ nữ đáng kinh ngạc. Sau khi cưới, cô ấy quyết định không sinh thêm một đứa con nữa, đứa con chung của chúng tôi, để không phải làm dì ghẻ, mà hoàn toàn thay Anh làm mẹ của Lena, Tania và Anton.

Các con tôi hiện sống ở nước ngoài, dù khi còn trẻ không dự định việc này và chúng đều vào học tại MGU mà không phải một trường đại học tây phương nào đó. Nhưng về sau những dòng người có vẻ ngoài châu Á tràn vào Moskva. Và bắt đầu nảy sinh các vấn đề. Thí dụ đã xảy ra một chuyện không dễ chịu với Tania ở đatra. Một nhân viên cảnh sát, đến vì một chuyện hoàn toàn khác, tình cờ nhìn thấy cháu và cho rằng đấy là một người di cư bất hợp pháp từ Trung Á, và suýt nữa tôi bị cáo buộc vào tội “che dấu”.

Những tình huống như vậy khá nhiều, và không hề dễ chịu. Chúng tôi họp gia đình và quyết định rằng sẽ tốt hơn nếu đưa lũ trẻ sang châu Âu, ở đó đã quen với việc có nhiều sắc tộc. Kết quả là Tania và Anton sang sống ở Anh, còn chị cả Lena – ở Hà Lan. Cháu lấy chồng là người Hà Lan xuất thân từ một gia đình quý tộc tỉnh lẻ lâu đời. Chồng cháu là một người làm phân tích nghiệp vụ và có thời gian là khách hàng của một hãng máy tính của Anh, nơi Lena làm việc. Mối tình bắt đầu ở nước Anh.

Sau khi cưới đôi trẻ chuyển sang sống ở Hà Lan, trong một thị trấn nhỏ cách Amsterdam chừng một giờ đi xe. Lena là kiến trúc sư phần mềm, đã đạt được đỉnh cao trong nghề. Cháu là một chuyên gia độc nhất, được đánh gía cao ở hãng, được tạo cho các điều kiện làm việc thuận lợi nhất. Lena có một con nhỏ – cháu sinh con gái Anna năm ngoái. Còn Tania năm nay sinh được cậu con trai Oskar. Tania tốt nghiệp MGU ở Moskva chuyên ngành “ngôn ngữ”, khi sang Anh thì chuyển nghề và, giống như Lena, làm về lập trình. Sống với chồng là người Anh ở thị trấn ngoại ô Bristol. Tania từ bé đã yêu súc vật và đem theo cùng mình đến Anh hai con chó và một con mèo. Anton tốt nghiệp MVK tại Khoa Toán học tính toán và Điều khiển học. Cháu cũng làm việc liên quan đến máy tính và ở không xa chị gái. Cậu chàng chưa cưới vợ, và tôi sợ sẽ còn lâu. Có vẻ cháu giống tính tôi.

Tất nhiên tôi sẽ vui mừng nếu có các con ở bên, chứ không phải cách xa hàng ngàn cây số. Nhưng cuộc sống là như vậy. Tôi vẫn trò chuyên với các con hàng tuần, qua Skype. Mùa hè nào chúng cũng trở về Nga và về ở Selinger, nơi chúng tôi có một căn nhà ngoại ô. Tôi và Ira sống phần lớn thời gian ở đatra. Ở đấy nghỉ ngơi và làm việc đều tốt. Tôi tiếp tục làm khoa học, điều đem lại cho tôi niềm vui lớn, tôi còn có nhiều công trình dở dang. Tôi vẫn là nhân viên toàn thời gian của MIEM.

Học viện đã được củng cố đáng kể, trở thành một phần của Trường đại học – nghiên cứu, “Trường kinh tế cao cấp”. Điều này hoàn toàn trùng hợp với các kế hoạch khoa học của tôi và cổ vũ trong tôi niềm say mê sáng tạo. Ngoài ra tôi còn là cộng tác viên khoa học của Viện các vấn đề cơ học – RAN và chủ nhiệm bộ môn thống kê lượng tử và lý thuyết trường tại Khoa Lý của trường MGU ruột thịt. Năm 2013 tôi nhận giải thưởng nhà nước lần thứ 3 do những đóng góp vào việc xây dựng cơ sở toán học cho ngành nhiệt động học hiện đại.

Khi làm việc, tôi cảm thấy ánh nhìn của Anh lên mình. Trong phòng làm việc đã nhiều năm vẫn treo bức ảnh chân dung lớn của nàng. Tôi cảm thấy Anh hài lòng về cuộc sống của các con chúng tôi. Tuy rằng cái nhìn của nàng có nghiêm nghị, nhưng theo tôi, nhân hậu. Tôi thường mơ thấy nàng, trẻ trung và hạnh phúc.

Đôi khi tôi có cảm tưởng rằng Anh không chết, nàng chỉ đang đi đâu đó. Có thời gian tôi đã nghĩ đến việc làm gì đó để vinh danh vợ: đến “với nàng” tại Việt Nam. Vào cuối những năm 90 tôi được mời dạy ở Hong Kong. Khoảng cách từ đó đến TP Hồ Chí Minh, nơi bà Bảy Vân sống, không quá xa. Nhưng sau khi suy nghĩ, tôi đã từ chối. Đối với bọn trẻ, việc di chuyển đến Hong Kong có thể tạo nên stress lớn, cần phải thích nghi với khí hậu, nước uống, đồ ăn hoàn toàn khác biệt. Tôi sợ chúng sẽ bị ốm.

Về sau, khi đã trưởng thành, Lena, Tania và Anton đã hai lần về Việt Nam để gặp những người ruột thịt. Chúng được đón tiếp như các vương tôn công tử. Ở đất nước này người ta vẫn còn lưu giữ ký ức thiêng liêng về Lê Duẩn, giống như trong thời xã hội chủ nghĩa ở nước ta nhớ về Lenin. Trong mỗi thành phố đều có các con phố hay quảng trường mang tên ông. Và các cháu của lãnh tụ được đối xử một cách vinh dự. Bảy Vân, bà vợ góa của ông vẫn còn sống. Bà nay đã gần chín mươi tuổi.

Anh giao phó các con của chúng tôi cho tôi. Nàng mong muốn các cháu sống ở Liên Xô và được giáo dục theo các truyền thống văn hóa Nga. Không có Ira tôi không thể thực hiện được sự ủy thác của nàng. Cái chính là bọn trẻ không lúc nào cảm thấy chúng là trẻ mồ côi. Và nếu không có Ira chúng không thể thấm nhuần văn hóa và tâm hồn của chúng ta. Do vậy chúng vẫn là những người Nga, cho dù sống ở đâu.

Ghi chú:

  1. ZAGS – Cơ quan phụ trách các công việc liên quan đến hôn nhân, nhân khẩu, v.v.
  2. Thuật ngữ hay dùng ở Liên Xô để chỉ thời kỳ lãnh đạo của Brejnev, nhất là những năm cuối, trước “cải tổ”.
  3. Nhạc sĩ, nhà thơ, ca sĩ người Gruzia, rất nổi tiếng như một tác giả mở đầu cho phong cách sáng tác những ca khúc tự sự có giọng điệu tác giả riêng. Với cây ghi-ta ông có điều gì đó làm liên tưởng đến Trịnh Công Sơn. Các ca khúc tôi rất thích: Tình ca Arbat, Bài ca Gruzia, Nguyện cầu …
  4. Chương trình bắt buộc đối với các NCS ở Liên Xô, phải thi xong “minimum” mới được nhận làm luận án.
  5. Ủy viên BCT, Trưởng Ban TC TW Đảng CSLX thời Brejnev.
  6. Ca sĩ nổi tiếng với các bài hát cấp tiến, thần tượng của giới trẻ xô-viết những năm 70

____

Mời xem lại: Hậu duệ nhà Lê Duẩn hay “Mối tình ngang trái Việt-Nga” (Phương Đoàn/ BS).

Về đất nước Việt nam ngày hôm nay

From facebook Congtrung Nguyen

Nếu nhân danh cộng sản thì không biết tham lam chứ đừng nói chi là cứ vô tư tham nhũng tràn lan bất chấp mọi hậu quả nghiêm trọng xảy ra giáng xuống sự sống của nhân dân.. Đó chỉ là ảo tưởng viễn vông khi bản năng của con người là vô tận, chỉ mong sao có tam quyền phân lập, tự do báo chí, kiểm soát quyền lực để ngăn chặn, giảm bớt và trừng trị đích đáng bọn tham nhũng xấu xa nhưng khoác áo mỹ từ đẹp đẽ “Do dân và vì dân “, chúng là những kẻ hậu sanh mà do ăn mày được cái dĩ vãng “cộng sản” nào đó để chụp giựt lên nắm quyền lực mà thôi! Phải chăng chúng đã câu kết thành những ” lợi ích nhóm “, ” tập đoàn quyền lợi ” cố ôm chặt lấy vũ khí chuyên chính vô sản của cộng sản để bảo vệ lợi ích và quyền bính của chúng? Tiền, tình, tham vọng, dục vọng, mưu mô, tị hiềm, quyền lực và bạo lực, sự ngông cuồng của bản năng, sự hiếu thắng của lý trí dục vọng với lải nhải những nguỵ biện của những luân lý cùn mòn, sáo rỗng,giả dối dẫn đến kinh tế tàn mạt, văn hoá chạm đáy,tình người vô cảm, nhân dân đói khổ, bơ vơ ngay trên chính quê cha đất tổ phải rong ruổi, tha phương cầu thực thành những gánh hàng rong..   Anh Duy Lâm ( Lâm Trần) có viết trên trang facebook của mình:”..phải nhìn tận gốc hàng rong từ đâu ra, từ đâu họ phải sống dường như ở đáy sông, nơi mà một anh dân phòng, một chú công an phường cũng có thể quát nạt, đánh đập, thu gom họ như những cái bàn cái ghế, ném họ xuống đường, lên xe tải như những đồ đạc chứ không phải người?
Họ là nông dân anh hùng cả đấy. Họ là chủ nhân của những miếng ruộng, mảnh rẫy, đã bị các tư sản đỏ phối hợp với chính quyền, công an (lại công an) đánh đập, giật khỏi tay họ phương tiện sống cuối cùng, đẩy họ ra lề đường.
Ăn mày là ai, ăn mày là ta
Đói cơm rách áo hoá ra ăn mày.
Không thể sinh sống được ở nông thôn, họ kéo về phố…
Về phố thị, lưng vốn không có, chắc chắn rằng họ sẽ không mua được chung cư Ecopark, cố gắng lắm thì thuê được cái nhà trọ tồi tàn chen chúc, hoặc công viên, gầm cầu…
Về phố thị, nghề nghiệp không có, chắc chắn họ chỉ khuân vác, vé số, kiếm được cái xe ba bánh như ở chợ Bình Tiên vừa rồi là cố gắng lắm.
Họ như cây cỏ, như rau sam, chen lấn sát vỉa hè, vệ đường. Họ không có ngày mai. Ngày mai của họ chất kín hôm nay với ba món hàng mà chắc chắn anh DLV bác sĩ kia sẽ chun mũi, vì anh xài hàng hiệu.
Họ sẽ mệt mỏi sau một ngày lăn lộn dưới nắng, dưới bụi, chạy công an, dân phòng, chạy hàng…thú vui cuối ngày của họ là cút rượu men hoá chất, cẳng gà thối. Nó khác với thú vui của bar, của restaurant, của hotel, resort…
Họ trở thành thứ dở hơi, thành lực cản cho sự phát triển, thành đối tượng thu gom mỗi lần chỉnh trang đô thị. Là con bù nhìn cho những anh thượng sĩ Hà luyện ngón võ độc, để nhập viện 115 với chẩn đoán xuất huyết não, mà không có BHYT, không có tiền, đối mặt với những thứ đó chỉ còn cỗ ván từ thiện. Tôi chê anh Hà không ra tay mạnh thêm tí, có thể anh hàng rong kia gãy cổ chết tại chỗ, có khi vợ con anh ấy đỡ phải còm cõi trong những ngày nằm viện vô vọng.
Các bạn chê hàng rong. Nhưng tôi cho rằng đó là vùng đệm cho xã hội Việt Nam khỏi sụp đổ đấy. Như hàng cây vẹt, cây bần (cái tên cây cũng khốn nạn như hàng rong), cây mắm kia là hàng rào chắn sóng, là nơi ôm ấp từng mảnh đất liền, đội ngũ hàng rong giữ cho những xung đột xã hội Việt hiện nay khỏi bùng nổ, vì đói, vì tay chân chẳng biết làm gì. Vì vậy, ngày nào hàng rong còn tồn tại mà chưa có giải pháp tốt hơn, chính quyền cần cảm ơn Thượng Đế đã tạo ra nghề hàng rong.
Vì sao? Vì họ là những người đã mất hết, mất đến cả lối đứng thẳng người. Mà như ai đó đã nói, đem cái không có gì mà đổi được một chút gì thì kiểu nào cũng đổi.
Đằng sau chúng nó đuổi, đằng trước chúng chặn đường, đẩy người dân ra tận vỉa hè để kiếm sống, nếu chính quyền còn biết lo cho dân, cần phải có một phương án tiếp cận kinh tế xã hội khác, không thể để tình trạng “cừu ăn thịt người” như thời chủ nghĩa tư bản hoang dã hoành hành ở Anh. Hoặc nếu không lo được thì cũng phải lo cho họ được một số phòng hơi ngạt, một ít cây thập tự dọc đường cho họ có chỗ treo cổ miễn phí.
” Một chính quyền không phải của dân, không phải do dân mà không còn biết vì dân để giúp họ chết miễn phí thì chính quyền đó mãi mãi là ngụy quyền “.

Thủ Tướng Úc: Việt Nam hành xử vô lý

Thủ Tướng Úc: Việt Nam hành xử vô lý

RFA
2016-08-19 000_EA746.jpg

Thủ tướng Australia, Malcolm Turnbull

 AFP photo

Quyết định của chính phủ Việt Nam liên quan đến hoạt động kỷ niệm trận đánh Long Tân khiến phía Australia thất vọng.

Thủ tướng Australia, Malcolm Turnbull, hôm nay lên tiếng bày tỏ sự thất vọng của bản thân khi mà hằng trăm cựu chiến binh Úc không được tham dự lễ kỷ niệm trận đánh vừa nêu.

Hãng thông tấn AFP cho biết bản thân ông Malcolm Turnbull phải mất cả tiếng đồng hồ điện đàm với người tương nhiệm Việt Nam, Nguyễn Xuân Phúc, để phía Việt Nam bãi bỏ lệnh cấm đưa ra lúc đầu. Tuy nhiên cuối cùng chỉ có 700 cựu binh Úc được cho phép đến khu vực tưởng niệm.

Thủ tướng Australia nói rằng ông tôn trọng quyền của chính phủ Việt Nam quyết định cho phép tổ chức những hoạt động nào tại đất nước của họ; thế nhưng việc thay đổi chỉ một ngày trước khi hoạt động tưởng niệm diễn ra là không hợp lý.

Trận đánh Long Tân là trận đánh giữa lực lượng quân đội Úc và chiến binh Cộng sản hồi ngày 18 tháng 8 năm 1966. Phía Úc chỉ có 108 binh sĩ chống lại cuộc tấn công của chừng 2 ngàn cán binh Việt cộng.

Có 18 binh lính Úc thiệt mạng và 24 người khác bị thương; trong khi đó ít nhất 250 cán binh cộng sản bị giết trong trận đánh Long Tân.

Phía Australia cho biết kế hoạch chuẩn bị cho những sinh hoạt tưởng niệm trận đánh Long Tân diễn ra suốt 18 tháng. Quyết định hủy lễ tưởng niệm vào phút chót mà Việt Nam đưa ra bị bộ trưởng phụ trách cựu chiến binh của Australia, Dan Tehan, gọi từ nguyên văn theo tiếng Anh là ‘cú lên gối’.

GIẢI MÃ BẤT NGỜ YÊN BÁI

Quế Tâm posted 2 updates.
Image may contain: 3 people , people smiling

Tao Vo Van

 GIẢI MÃ BẤT NGỜ YÊN BÁI

Tiếng súng dữ dằn vô tiền khoáng hậu bất ngờ sáng 18-8-2016 ở Tỉnh ủy Yên Bái làm cả nước kinh hoàng.
Lần đầu tiên, sếp ngành cấp tỉnh chơi hàng nóng “xử” gọn các “đồng chí” cỡ Bí thư tỉnh ủy, Chủ tịch HĐND kiêm Trưởng Ban Tổ chức tỉnh ủy, rồi tự sát. Vụ ra tay đoạt mạng nội bộ giới chức đảng còn kinh hoàng hơn phim mafia Ý, thậm chí cả vụ ám sát Tổng thống Kennedy.

Gác sang một bên chuyện tình cảm, thái độ cộng đồng mạng với vụ 3 quan chức mất mạng vì thủ tiêu dằn mặt; miễn bàn chuyện lọt đồng phạm hay không?

Xâu chuỗi những tình tiết trước đây và mới đây ở Yên Bái, có thể hiểu logic vụ việc động trời này:

1. Yên Bái là tỉnh nghèo, nhưng tài nguyên rừng rất giàu, không ít giới chức địa phương giàu nứt đố đổ vách (dãy phố nguy nga nhà quan ở Yên Bái. Bí thư Cường vừa tậu biệt thự 80 tỷ ở Hà Nội. Minh kiểm lâm chu cấp cho con du học xong Thụy Sĩ và sắp du học tiếp Anh quốc. Đưa tang Minh, xế hộp xịn nhiều như cây rừng Yên Bái) nhờ ăn của rừng mà không rưng rưng mắt. Phóng sự “Rút ruột rừng bảo tồn” gần đây của Báo Lao động và VTV từng phanh phui tệ nạn này. Lâm tặc móc nối giới chức kiểm lâm và chóp bu tỉnh, đốn gỗ quý đường kính 2-3m, bỏ lại cả những khúc cây đường kính hơn 1m… Đó là nguyên nhân để cuộc tranh đua chức quyền ở Yên Bái trở nên gay gắt, quyết liệt, mang tính sống mái.

2. Minh kiểm lâm chuyên môn nhì nhằng, không phải kiểm lâm nòi, nhờ bố vợ là Bí thư tỉnh ủy trước đây, mà chuyển từ công nhân đường sắt, sang Đài Phát thanh Truyền hình tỉnh, rồi nhanh chóng lên sếp kiểm lâm. Thời bố vợ Minh làm Bí thư tỉnh ủy, o ép cấp dưới là bà Trà. Nay bà Trà ngoi lên Chủ tịch UBND tỉnh, thậm chí còn là ủy viên trung ương đảng duy nhất của tỉnh, trong ê kíp cánh hẩu cùng đương kim Bí thư Cường và Chủ tịch HĐND kiêm Trưởng Ban Tổ chức tỉnh ủy Tuấn, nắm cơ hội nghìn năm có một ra ân báo oán (hút chết, chiều 18-8, họp báo vụ thanh toán, bà Trà chưa hết run). Họ muốn “dọn” Minh, nhân chủ trương sáp nhập Chi cục kiểm lâm với Chi cục Phát triển lâm nghiệp, dành ghế béo bở cho kẻ “biết điều” khác.

3. Minh được giới chức tỉnh và láng giềng đánh giá hiền lành, nhưng cục tính. Dễ hiểu vì sao, mất ghế béo bở trong lúc được coi là “hoàn thành tốt nhiệm vụ”, Minh không chấp nhận nhịn êm, chọn đường chơi sát ván.

4. Đơn giản: “đồng chí không bằng đồng tiền”. Quyền đẻ ra tiền. Cả 3 đều quan chức có hạng trong guồng máy nô dịch, áp bức bóc lột, tha hóa thối nát hắc ám, dễ hiểu vì sao dân chúng không những không thương xót, lại có phần hân hoan.

MỘT CÂU HỎI DÀNH CHO NHỮNG NGƯỜI NGOÀI PHONG TRÀO DÂN CHỦ

From facebook Pham Doan Trang
MỘT CÂU HỎI DÀNH CHO NHỮNG NGƯỜI NGOÀI PHONG TRÀO DÂN CHỦ

Lâu nay, vẫn thường có một thể loại bài viết với tựa đề chung là “một câu hỏi dành cho phong trào dân chủ”, “câu hỏi lớn dành cho các nhà đấu tranh dân chủ”, “giải pháp nào cho công cuộc dân chủ hóa”… Tóm lại, đã từng có nhiều câu hỏi đặt ra cho những người hoạt động dân chủ, ví dụ: Làm thế nào để thu phục nhân tâm, thu hút quần chúng? Đã thực sự có kết quả và lan tỏa chưa? Đã có ảnh hưởng tới ai/cái gì chưa? v.v.

Các câu hỏi này thường chỉ được đặt ra cho các nhà dân chủ mà thôi, không đặt ra cho ai khác. Cứ như thể những người đấu tranh dân chủ ở Việt Nam đang là những chính khách chuyên nghiệp ở một xứ sở dân chủ, có thể đi lại, viết lách, vận động, thuyết phục và kêu gọi quần chúng công khai, thoải mái vậy.

Nay chỉ xin có một câu hỏi, duy nhất một câu thôi, dành cho những người ở ngoài phong trào dân chủ, tức là những người chưa có hoạt động nào để tạo ra hoặc thúc đẩy một sự thay đổi tích cực nào của môi trường chính trị trong nước.

Bây giờ, giả sử có hai xã hội:

– (1) Một xã hội giống hệt như Việt Nam từ năm 1986 trở về trước, tức là: Nhà nước thích làm gì thì làm, muốn ra luật gì thì ra, muốn bắt ai thì bắt, muốn tịch thu tài sản của ai thì tịch thu, muốn xử tử ai thì xử tử. Chẳng ai biết nguyên nhân, tình trạng và hậu quả các việc nhà nước làm, coi như “phải ai nấy chịu”, ai không may mà có việc dính tới “cửa quan” thì cứ tự xác định là chết thôi. Ngày đó, số lượng tử tù oan (như Hồ Duy Hải, Nguyễn Văn Chưởng, Lê Văn Mạnh…) chật kín nhà tù, nhưng không có chuyện thân nhân vật vã kêu oan và cộng đồng ồn ào đòi xem xét lại tiến trình điều tra và bản án như thế này, ai chết thì chết. Và, tuyệt nhiên không có một cái đám gọi là “các nhà dân chủ” như bây giờ. Bạn cứ việc im lặng mà sinh ra, lớn lên, đóng thuế nuôi cái nhà nước mà bạn chẳng biết nó đang và sắp làm gì, và cố đừng để dính dáng với nó, nếu không, phần thiệt sẽ luôn thuộc về bạn; chẳng phải đầu cũng phải tai.

– (2) Một xã hội như bây giờ, tức là: Vẫn tồn tại cái nhà nước đó, và bạn vẫn phải đóng thuế cho nó. Nhưng lại có thêm một đám gọi là “bọn dân chủ”. Bọn này rất ồn ào, to mồm, và cứng đầu cứng cổ. Gần như bạ cái gì nhà nước làm, chúng cũng phê phán, chỉ trích, và gọi đấy là “phản biện”. Chính sách gì của nhà nước, chúng cũng vặn vẹo, rồi la ó phản đối, ném đá, đến nỗi đã có nhiều người mô tả bọn chúng là cái lũ chỉ biết “auto chửi”: Chúng chửi từ vụ “vòng ngực dưới 72cm không được đi xe máy”, tới “người đi xe máy phải cầm theo giấy tờ chính chủ”, đến “CMTND phải có tên cha mẹ”, tới chuyện xử oan những Hải, Chưởng, Mạnh, tới chuyện “thay thế” cây cổ thụ tán lá xum xuê bằng cây mỡ thanh thanh, rồi chuyện nhận 500 triệu USD và tiếp tục tạo điều kiện cho Formosa làm ăn ở Việt Nam, v.v. đủ thứ. Cậy có Internet và mạng xã hội nên chúng nó bắt đầu liên kết lại, chúng nó hùa nhau “tát nước theo mưa”, chửi hội đồng Đảng và Nhà nước. Chúng nó chẳng còn coi Đảng và Bác ra cái quái gì. Đời tư của chúng thì be bét, toàn một lũ dâm đãng, trai gái lăng nhăng. Đã thế, nghe đâu chúng còn nhận tiền nước ngoài để sống phè phỡn nữa.

Chú ý là, trong cả xã hội (1) và (2), quan chức của cái nhà nước kia đều hủ bại, dâm ô như nhau, ăn tiền trong nước và nước ngoài như nhau, nhưng bạn không được chửi. Ở xã hội (1), nếu bạn chửi thì bạn chết; còn ở xã hội (2), bạn có thể nghe “bọn dân chủ” chửi thay, có gì bọn nó chết.

Ở xã hội (2), bạn vẫn phải đóng thuế nuôi nhà nước, nhưng không phải đóng một xu thuế nào cho “bọn dân chủ”. Chưa bao giờ bạn phải đóng thuế cho “các nhà dân chủ” cả.

GIỮA HAI XÃ HỘI ĐÓ, BẠN CHỌN SỐNG Ở XÃ HỘI NÀO, (1) hay (2)?

From facebook Pham Doan Trang

IS đánh bom vào đám cưới người Kurd

IS đánh bom vào đám cưới người Kurd

REUTERS

Nhiều phụ nữ than khóc ở bên ngoài một nhà xác ở Gaziantep hôm Chủ Nhật 21/8

Tổ chức Nhà nước Hồi giáo IS có lẽ đã tiến hành vụ đánh bom tự sát nhắm vào một đám cưới ở Thổ Nhĩ Kỳ, Tổng thống Recep Tayyip Erdogan nói.

Tổng số người chết trong vụ tấn công diễn ra tại thành phố phía Nam Gaziantep đã lên đến con số 50, các quan chức chính phủ địa phương cho biết, và gần 100 người bị thương.

Nghi can đánh bom tự sát nhắm vào khách mời trong một đám cưới người Kurd khi họ đang khiêu vũ trên đường phố.

Quả bom phát nổ trong một thị trấn nổi tiếng đông sinh viên và có cộng đồng người Kurd lớn.

Thành phố Gaziantep, gần biên giới Syria, nổi tiếng vì có nhiều nhóm quân của IS trú ngụ.

Phóng viên Seref Isler của BBC tại Gaziantep cho biết thành phố 1,5 triệu dân đang ở trên bờ vực vì nhiều sự kiện xảy ra tại Syria, nơi tổ chức IS chiến đấu chống các lực lượng người Kursh Syria.

Nghi can đánh bom tự sát được cho là có liên hệ với tổ chức IS. Tên này đã giết hai cảnh sát ở Gaziantep vào tháng 5/2016.

EPA

Nhiều người tụ tập trước ngôi nhà xảy ra vụ đánh bom hôm 20/8 ở Thổ Nhĩ KỳEPA

Thân nhân của các nạn nhân chết vì vụ đánh bom than khóc ở Gaziantep

Tổ chức IS được cho là có căn cứ ở Gaziantep.

Thổ Nhĩ Kỳ đã chịu hàng loạt vụ đánh bom do cả IS lẫn dân quân người Kurd gây ra trong vài năm qua. Vụ tấn công gần nhất do IS gây ra hồi tháng 6/2015 tại sân bay Istanbul đã làm 40 người thiệt mạng.

Các chiến binh thánh chiến mất khu vực chiếm đóng ở miền bắc Syria, bao gồm cả thành trì vững chãi trước đó ở Manbij. Binh lính nổi dậy Syria đã chuẩn bị tiến sâu hơn vào tỉnh Jarablus do IS chiếm đóng.

Nếu IS gây ra vụ đánh bom, sẽ có suy đoán cho rằng đây là vụ tấn công trả đũa, với mục đích cho thấy sức mạnh của một nhóm quân đang chống trả.

Trong một thông cáo được truyền thông địa phương Thổ Nhĩ Kỳ đăng, Tổng thống Erdogan tranh luận rằng “không có gì khác biệt” giữa IS, dân quân người Kurd thuộc nhóm PKK và những người theo giáo sĩ Fethullah Gulen ở Mỹ, mà ông cho rằng đã lãnh đạo cuộc đảo chính tháng 7 vừa qua.

“Đất nước ta và dân tộc ta một lần nữa chỉ có một thông điệp cho những kẻ tấn công – các người sẽ không thành công!” ông nói.

Ông Trump tranh cử chỉ để tạo tối đa sự chú ý

Ông Trump tranh cử chỉ để tạo tối đa sự chú ý

Nguoi-viet.com

 Một tiệm tóc ở Anh gây chú ý khách hàng bằng cách treo hình kiễu tóc của ông Donald Trump. (Hình: Getty Images/Jim Dyson)

Một tiệm tóc ở Anh gây chú ý khách hàng bằng cách treo hình kiễu tóc của ông Donald Trump. (Hình: Getty Images/Jim Dyson)

AMAGANSETT, New York (NV) – Người ta ra tranh cử tổng thống với nhiều lý do, nhưng với ứng cử viên đảng Cộng Hòa Donald Trump thì có lẽ ông là người đầu tiên xem chiến dịch vận động là cách tốt nhất để gây sự chú ý cho bản thân.

Theo báo NY Times, có vẻ như ông Trump không có say mê nào khác, dĩ nhiên là không cả ước vọng được nắm quyền lực.

Ông Trump không mang một chủ trương hư ảo như ông Ted Cruz, không là một người cơ hội như ông Marco Rubio, một nhà tạo phong trào như Bernie Sanders, một người thừa kế chính trị như Jeb Bush hay một người tiểu tiết về chánh trị như bà Hillary Clinton.

Đối với tất cả họ, sự gây chú ý chỉ là phó sản của một cuộc vận động, không phải là một động cơ, nhưng đối với ông Trump, gây sự chú ý mới chính là trọng tâm.

Đó có lẽ là bài học của cuộc vận động “lung lay” của ông hồi đầu tuần này, một sự chuyển tiếp từ chính trị sang việc gây được sự chú ý, và có thể cả sự chuyển tiếp từ chiến thắng bầu cử sang chiến thắng từ việc bị đánh bại, điều mà ông thường làm trong suốt sự nghiệp.

Ông Trump, trùm ngành địa ốc, chuyên kinh doanh bất động sản, sau khi vắt cho cặn kiệt nguồn lợi thì để mặc cho chết dần, rồi như một phép lạ, biến sự thua lỗ thành cái có lợi cho mình.

Một cao ốc tàn tạ hay một đảng Cộng Hòa tan tác, đối với ông Trump có thể đều như nhau.

Gây sự chú ý luôn là nền tảng của mô thức hoạt động của ông Trump. Căn bản là ông kinh doanh bằng tên mình, nào là thịt bò Trump steak, nước uống Trump water, trường đại học Trump University, cao ốc Trump Tower.

Ông Trump khám phá ra rằng, trong một xã hội sùng bái sự tiếng tăm như xã hội Hoa Kỳ, nơi quá nhiều người tranh đua để được chú ý, chạy đua vào ghế tổng thống được chú ý nhiều đến bao nhiêu.

Việc ông Trump sa thải ông Corey Lewandowski, chủ tịch ban vận động đầu tiên, rồi thay bằng ông Paul Manafort, đều được xem là một quyết định chính trị.

Ông Manafort là một chiến lược gia kỳ cựu, một người chuyên nghiệp, người có thể giúp đưa ông Trump đi vào dòng chính của cuộc tranh cử.

Đó là chuyện chính trị.

Tuy nhiên điều mà ông Manafort có thể không nhìn thấy là ông Trump không bao giờ là một nhà vận động chính trị, hoạt động theo qui tắc chính trị truyền thống hay mang mục tiêu chiến thắng trong cuộc bầu cử.

Quả thật ông Trump đâu có khờ.

Ông dư biết ông sẽ bị chế nhạo khi xúc phạm đến vợ chồng ông Khan, người có con trai bị tử trận, hay chần chừ trong việc ủng hộ ông Paul D Ryan, chủ tịch Hạ Viện, hoặc nói rằng cách chận bà Clinton tốt nhất là bắn bỏ bà ấy.

Tất cả những phát biểu như vậy đều làm cho ông được chú ý thêm.

Không riêng gì ông Trump, ông Mike Huckabee lợi dụng sự chú ý ông có được trong cuộc tranh cử thất bại để lấy được một hợp đồng với Fox News Channel.

Sarah Palin dùng sự gây chú ý của bà để đạt được một “reality show” và thu được vô số tiền từ chi phí diễn thuyết.

Ông Ben Carson dùng tiếng tăm tạo được lúc tranh cử sơ bộ để bán sách.

Những người thua cuộc trong các thùng phiếu, nói đúng ra tất cả đều là những người chiến thắng.

Làm show truyền hình ư, bán sách và diễn thuyết ư, tất cả đều là chuyện nhỏ đối với ông Trump.

Theo cô Ivanka Trump, ái nữ của ông, châm ngôn của ông Trump là “Nếu quí vị có suy nghĩ thì hãy động não đến những gì thật to lớn.”

Và đó là nơi mà việc tạo được sự chú ý gặp gỡ sự chiến thắng. (TP)

“Niềm tin” của Nguyễn Phú Trọng – từ Formosa đến 8 viên đạn đồng Yên Bái

“Niềm tin” của Nguyễn Phú Trọng – từ Formosa đến 8 viên đạn đồng Yên Bái

Dân Làm Báo

Vũ Đông Hà

21-8-2016

H1Vào ngày 14/8 trong đại hội vận động các đảng viên già cùng sát cánh với đương kim tổng bí thư để truy cùng diệt tận đám ruồi muỗi thuộc phe 3X, Nguyễn Phú Trọng đã tuyên bố “Niềm tin trong dân được củng cố và tăng lên”. Khoan nói tới niềm tin của hơn 90 triệu người dân bị đảng đem điều 4 hiến pháp ra hiếp, chỉ cần nói đến niềm tin của các đồng chí trong đảng với nhau – Niềm tin đó đã được thể hiện bằng 8 viên đạn K59 nhắm thẳng vào quân thù mà bắn vào ngày 18/8/2016 tại sào huyệt đảng hội Yên Bái.

8 viên đạn. 3 viên bắn vào bí thư tỉnh ủy. 3 viên bắn vào chủ tịch hội đồng nhân kiêm trưởng ban tổ chức tỉnh ủy. 1 viên bắn vào gáy chi cục trưởng chi cục kiểm lâm. Và 1 viên không biết bắn vào đâu đã khẳng định niềm tin của các cán bộ đảng viên cộng sản đối với nhau.

Đây không phải là “niềm tin” mới nhất. Đã có niềm tin kiểu “một đồng chí X”, “niềm tin Phạm Quý Ngọ”, “niềm tin Nguyễn Bá Thanh” và chuỗi dài những “niềm tin đồng chí” khởi đi từ triều đại Hồ Chí Minh sang đến triều đại Nguyễn Phú Trọng dẫn đến cái chết của nhiều cán bộ cao cấp cộng sản. Tất cả “niềm tin” ấy được sinh sôi nảy nở trong cái văn hóa “phê và tự phê” cùng với truyền thống “thanh trừng nội bộ” được học hỏi chu đáo từ Lê Nin, Stalin, Mao Trạch Đông, Đặng Tiểu Bình sang đến Tập Cận Bình ngày nay.

Trở lại với niềm tin của nhân dân đối với đảng mà Nguyễn Phú Trọng tự sướng trong Hội nghị gặp mặt cán bộ cấp cao nghỉ công tác, nghỉ hưu khu vực phía Nam (1)

Để có được cái cảm giác tự sướng và truyền cảm giác đến cho hàng ngũ cán bộ già nua, lão thành cắt mạng, Nguyễn Phú Trọng đã huênh hoang rằng: Thực tế công tác tổ chức – cán bộ, đối ngoại, xử lý việc gây ô nhiễm môi trường biển một số tỉnh miền Trung thời gian qua cho thấy cách làm đúng, chủ trương đúng.”

Những cách, chủ trương đó là gì?

Đó là:

– Tổng bí thư ngay lập tức thân chinh đến Formosa để “cùng là đồng chí, cùng là anh em” với thủ phạm tàn sát môi trường;

– Các quan chức kéo nhau xuống biển để mị dân biển vẫn sạch, vẫn an toàn;

– Bầy đoàn kéo nhau ăn hải sản xa vùng bị nhiễm độc và chụp hình, phỏng vấn đăng báo để lừa người dân;

– Tuyên bố nguyên nhân cá chết là do tảo nở hoa, thủy triều đỏ;

– Sau khi Formosa chính thức nhận lỗi nhưng không nhận tội thì lờ đi tất cả những hành vi, tuyên bố láo khoét trước đó;

– Nhận ngay 500 triệu bồi thường mà không cần biết những hệ quả, thiệt hại lâu dài ở mức độ nào. Trong khi đó thì đã bồi hoàn lại cho Formosa từ 722 triệu đô đến 1 tỉ 136 triệu đô (2);

– Không truy tố hình sự và vẫn để Formosa tiếp tục hoạt động, tiếp tục lén lút xả rác thải tại nhiều nơi khác nhau cho đến khi người dân phát hiện;

– Đưa Võ Kim Cự và việc cấp phép 70 năm cho Formosa nhằm đánh lạc hướng vấn đề Formosa đã gây ra thảm họa môi trường sang chuyện Formosa được hoạt động bao lâu;

– Tiếp tục che giấu mọi thông tin, dữ kiện về thảm họa môi trường trước những yêu cầu của người dân đòi nhà nước phải minh bạch thông tin;

– Từng bước, từng ngày, giảm lượng thông tin về thảm họa môi trường, về việc bồi thường cho nạn nhân và tiến đến cho “sự cố” Formosa chìm xuồng.

Đối chiếu tuyên bố khoét của Nguyễn Phú Trọng với những gì mà chế độ đã làm, người ta có thể thấy cái gọi là “niềm tin của nhân dân dành cho đảng” chỉ đến từ căn bệnh thủ dâm cố hữu của Nguyễn Phú Trọng, giống như tất cả lãnh đạo đảng cộng sản khác, và “niềm tin” này đã được bảo kê bằng một thứ mà không có nó thì đảng chỉ có đường tự sát: “Điều 4 hiến pháp”.

Niềm tin của dân đối với đảng chẳng hề có để mà củng cố.

Ngay cả niềm tin của những kẻ gọi nhau là đồng chí cũng không bao giờ hiện hữu.

Đảng cộng sản không bao giờ tồn tại bởi niềm tin của nhân dân, sống còn bởi niềm tin của các “đồng chí” với nhau. Nó chỉ có thể tiếp tục cầm quyền sau khi đã cướp chính quyền là nhờ vào những chiến dịch khủng bố như “cải cách ruộng đất”, những cuộc “phê và tự phê” lôi nhau ra tố, và những âm mưu thanh trừng lẫn nhau không bao giờ ngưng nghĩ trong suốt hơn nửa thế kỷ qua.

TẤM LÒNG NHÂN ÁI ĐÁNG KHÂM PHỤC

TẤM LÒNG NHÂN ÁI ĐÁNG KHÂM PHỤC
Người tử tế thì không vì danh lợi của mình mà làm hại bạn bè, cho dù bạn đó chỉ là 1 con vật!

HINH 1

 

 

 
HINH 2

Cô  Adelinde Cornelissen, người Hòa Lan gốc Đức, là 1 vận động viên môn cưỡi ngựa nghệ thuật rất nổi tiếng. Cô đã đoạt nhiều giải cao quý bao gồm Huy chương vàng quốc tế trong bộ môn này. Trong suốt những lần thi đấu đó, chú ngựa thân yêu Parzival của cô đã biểu diễn rất xuất sắc, chú luôn cố gắng vượt bực và đã giúp cô giành được thắng lợi.

Để chuẩn bị cho kỳ Thế Vận Hội năm nay tại Rio, cô Adelinde và chú ngựa Parzival đã khổ luyện suốt 4 năm. Ngày nào họ cũng giành ra 7-8 tiếng để tập luyện, và cô là người được dư luận tin tưởng là sẽ đoạt được huy chương vàng.

Thế nhưng ngay trước ngày thi đấu, cô Adelinde phát giác ra chú ngựa của cô bị bệnh lạ: 1 bên đầu bị sưng, mắt bị sưng và bị số . Các thú y đi theo đoàn vội chẩn bệnh, thử máu, chụp quang tuyến cho ngựa, thì phát giác chú ngựa Parzival bị nhện độc cắn, chất độc lan vào máu làm cho sưng và sốt.

Sức của 1 chú ngựa đua bình thường rất khỏe, 1 vết cắn như vậy chỉ cần uống thuốc trụ sinh, chữa trị vài ngày là hết. Nhưng ngặt cái hôm sau là ngày thi đấu, nếu chất độc chưa được trị hết, trong lúc thi đấu chạy nhảy quá nhiều có thể khiến cho chất độc dồn vào tim gây ra đột quỵ bất ngờ.

Cô Adelinde xin Ban Tổ Chức Thế Vận Hội thay đổi lịch thi, cho người khác thi trước và cô thi sau 2 ngày, nhưng không được chấp thuận.

Suốt đêm cô Adelinde trằn trọc đắn đo suy nghĩ không biết có nên thi không. Rút ra thì quá uổng công tập luyện suốt 4 năm và mất đi cơ hội giành huy chương vàng. Nhưng nếu thi đấu rủi chú ngựa bị độc công tâm thì sẽ không cứu được.

Sáng ra, các thú y khám lại lần nữa và cho biết chất độc đã giảm đáng kể, cô có thể thi đấu. Cô Adelinde dẫn ngựa ra sân mà trong lòng lo lắng, không yên. Thi đấu qua vòng đầu, cô Adelinde được số điểm rất cao, nhưng cô để ý thấy chú ngựa Parzival có vẻ mệt mỏi, mặc dù nó vẫn cố gắng hết sức và tuyệt đối tuân theo các mệnh lệnh của cô.

Bắt đầu vòng thi thứ 2 cô thấy chú ngựa thở có vẻ nặng nhọc hơn. Ngay lập tức, cô dừng ngựa, xuống xin lỗi Ban Giám Khảo, xin lỗi các cổ động viên, và vừa khóc vừa giải thích tại sao cô quyết định rút khỏi cuộc thi.

Cô nói nếu cô tiếp tục, thì Parzival sẽ phải cố gắng quá sức và mặc dù cô có thể thắng huy chương vàng nhưng chú ngựa có thể phải hy sinh. Cô không đành lòng làm như thế! Cô nói chú ngựa Parzival là bạn tốt của cô đã nhiều năm, đã giúp cô đạt đến đỉnh cao, nên cô không thể vì danh lợi của mình mà hy sinh bạn của mình, cho dù có phải hy sinh huy chương vàng, cho dù đó chỉ là 1 con súc vật.

Cô Adelinde và chú ngựa Parzival đã rời trường đua trong tiếng vỗ tay vang dội của cổ động viên và của cả Ban Giám Khảo. Nhiều người nói “Cô ấy tuy rút ra khỏi cuộc thi, nhưng đối với tôi cô ấy đã giành được huy chương còn quý giá hơn huy chương vàng, đó là huy chương của lòng nhân ái, của tình bạn giữa người và 1 chú ngựa” .

Còn bạn thì sao? Bạn có vì danh lợi của bản thân mà hy sinh, bán đứng hay làm hại bạn bè của mình không?