ƠN GỌI THỪA SAI – TGM Giu-se Vũ Văn Thiên

TGM Giu-se Vũ Văn Thiên

 Đại hội của Hội đồng Giám mục Việt Nam vừa tổ chức tại Đà Lạt từ ngày 06 đến ngày 10/10/2025 vừa qua.  Trong Thư Chung gửi đến mọi thành phần Dân Chúa, các vị chủ chăn của Giáo hội Công giáo Việt Nam đề nghị một lộ trình ba năm (2026-2028) để thực hiện sứ vụ vô cùng quan trọng là loan báo Tin Mừng, hay là ơn gọi thừa sai.  Theo thông lệ, Chúa nhật hôm nay là ngày cầu nguyện cho công cuộc truyền giáo của Giáo hội.  Khái niệm “truyền giáo” hay “loan báo Tin Mừng” dường như đã quá quen thuộc với chúng ta và nhiều người coi đó là một công thức khô cứng.  Trong khi đó, ơn gọi thừa sai là bản chất của đời sống Giáo hội và của mỗi Ki-tô hữu chúng ta.  Hơn nữa, một não trạng phổ biến nơi nhiều tín hữu, đó là việc truyền giáo là của các giám mục, linh mục và tu sĩ, còn người giáo dân chỉ là người lắng nghe và đón nhận.  Đó là một quan niệm sai lầm do thiếu hiểu biết.  Quan niệm này biến người tín hữu trở nên thụ động và ỷ lại, không nhiệt thành tham gia hoạt động của Giáo hội địa phương, nhất là hoạt động loan báo Tin Mừng.

 Thừa sai là gì?  “Thừa” là tiếp nhận; “Sai” là phái đi.  Ơn gọi thừa sai cũng là ơn gọi truyền giáo.  Khi lãnh nhận Bí tích Thánh Tẩy, Ki-tô hữu được Chúa ban ba chức năng: Ngôn sứ, Tư tế và Vương đế.  Chức năng Ngôn sứ chính là ơn gọi thừa sai, vì “Ngôn” là lời và “sứ” là được sai đi.  Chúa sai chúng ta đi để nói Lời của Người.  Đó cũng là lệnh truyền của Đấng Phục sinh: “Anh em hãy đi làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép Rửa cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần.  Dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em.  Và đây Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,19-20).

 Tại sao lại gọi thừa sai là một “ơn gọi?”  Vì đó là lời mời gọi của Chúa, đồng thời cũng là một vinh dự mà Chúa ban cho người tín hữu.  Khi Chúa gọi và chúng ta thiện chí đáp lời, thì Chúa sẽ ban ơn cần thiết để chúng ta chu toàn sứ mệnh cao cả này.  Chúng ta thường nghĩ đến khía cạnh “bổn phận” nhiều hơn là “vinh dự.”  Loan báo Lời Chúa là một vinh dự lớn lao vì chúng ta làm cho người khác biết Chúa.

 Làm sao có thể sống ơn gọi thừa sai hay có thể truyền giáo?  Một điều kiện căn bản là chúng ta phải biết Chúa thì mới có thể giới thiệu Người cho người khác.  Vì không ai cho người khác cái mình không có.  Một Ki-tô hữu không thể nói về Chúa Giê-su, nếu người đó không biết hoặc chỉ biết lơ mơ về Người.  Vì thế, để trở thành một nhà truyền giáo hay một thừa sai, cần phải học hỏi giáo lý, chuyên cần cầu nguyện để gặp Chúa Giê-su.  Khi cầu nguyện là chúng ta “nói với Chúa,” khi rao giảng là chúng ta “nói về Chúa.”  Hai khía cạnh này có mối tương quan mật thiết với nhau.  Không thể nói về Chúa nếu trước đó không nói với Người.

 Việc giới thiệu Chúa sẽ trở nên vô nghĩa nếu người giới thiệu không sống tương xứng với giáo huấn của Đấng mình rao giảng.  Vì vậy, truyền giáo bằng chính cuộc đời là việc truyền giáo hữu hiệu nhất.  Có tác giả đã so sánh đời sống người tín hữu với cuốn Kinh Thánh sống động, bằng xương bằng thịt, để người khác có thể đọc thấy Lời Chúa xuyên qua cuộc đời chúng ta.  Khi chuyên chăm thực thi Lời Chúa, hình ảnh của Người sẽ trở nên sống động qua chính cuộc đời chúng ta, đến nỗi người khác có thể nhìn thấy Chúa nơi chúng ta.

 Mọi tín hữu đều có ơn gọi thừa sai.  Tùy theo lứa tuổi, khả năng học vấn và bậc sống, mỗi chúng ta đều có thể nói về Chúa trong hoàn cảnh cụ thể của mình.  Đại hội Truyền giáo Á Châu lần thứ nhất tổ chức tại Thái Lan năm 2006.  Trong một bài thuyết trình, linh mục Saturnimo Dias, Trưởng ban điều hành Đại hội đã nói như sau:”Đức Ki-tô sinh ra tại Á Châu và đã chết tại Á Châu… nhưng đối với người dân Á Châu, Chúa vẫn còn là một người xa lạ.  Họ vẫn nhìn Ki-tô giáo như một tôn giáo Tây phương.  Mặc dầu Ki-tô giáo được phát sinh tại Á Châu, nhưng số phận của tôn giáo này tại lục địa Á Châu vẫn chưa được may mắn lắm.  Bởi vậy, cùng với đại hội Truyền giáo Á Châu lần này, chúng ta phải đưa Chúa Giê-su trở về với người dân Á Châu, phải kể cho họ những câu chuyện về Chúa Giê-su tại Á Châu, và làm cho họ nhận biết rằng Chúa Giê-su là người Á Châu.”  Vâng, quả vậy, truyền giáo là kể câu chuyện về Chúa Giê-su, về đời sống, giáo huấn và cái chết của Người vì yêu thương nhân loại.  Điều này ai cũng có thể làm được, nếu ý thức về sứ mạng thừa sai và trau dồi kiến thức để có thể thực hiện được sứ mạng cao cả ấy.

 Ước chi mỗi Ki-tô hữu hiểu ơn gọi thừa sai và sống ơn gọi ấy trong mối tương quan với tha nhân, thể hiện qua lời nói, hành động cũng như chính bản thân mình.

 TGM Giu-se Vũ Văn Thiên

From Langthangchieutim


 

LỊCH SỬ HỎNG HÓC – Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

“Họ đã giết các vị ấy, còn các người thì xây lăng!”.

“Chưa bao giờ có một gương sáng đạo đức nào đáng kể nơi một người không tin; bởi lẽ, lỗ hổng trong tim họ không được lấp đầy bằng chính Chúa!” – Will & Ariel Durant.

Kính thưa Anh Chị em,

Lời Chúa hôm nay nói đến lịch sử một dân tộc không tin, một dân tộc dường như không có một gương sáng đạo đức nào đáng kể. Đó là ‘lịch sử hỏng hóc’ của Israel!

Lịch sử của Israel là một lịch sử từ chối Thiên Chúa, giết các tiên tri; đó là lịch sử của một dân không chung thuỷ, lạm dụng và vô ơn. Và nay, đến lượt con cháu các tiền nhân – những kẻ không tin Chúa Giêsu – đang làm điều tương tự; họ đi trên vết xe đổ của cha ông. Thế nhưng, tình yêu luôn lớn hơn sự bội bạc; Thiên Chúa luôn lớn hơn dân Ngài! Lịch sử của Israel là tấm gương phản chiếu ‘lịch sử hỏng hóc’ cuộc đời mỗi người chúng ta, cũng là một lịch sử bất trung, thất bại. Từ đó, chúng ta được thôi thúc để quay về với Chúa bằng việc sám hối. “Lịch sử là một tấm gương; khi nhìn vào đó, ta thấy cả thất bại lẫn lời mời gọi quay về!” – Madeleine L’Engle.

Một thiếu nữ lững thững đi vào thánh đường, ngồi trong góc tối. Một bà nội trợ đi vào, tay xách giỏ rau; bà quỳ gối vài phút, sau đó, bước ra. Cô gái sững sờ! Và ngần ấy đủ cho cô. Bà ấy đã cho cô thấy niềm tin công giáo có cơ sở như thế nào. Cô đứng dậy, hớn hở ra về. Chúa quan phòng đã đổ ân sủng để cứu linh hồn cô, một linh hồn đang hỏng hóc nổi loạn. Chỉ với gương sáng của một bà nội trợ, cô ấy đủ để trở thành một vị thánh của Đức, của châu Âu – một triết gia, một nhà thơ, một văn sĩ – được Gioan Phaolô II tôn phong ngày 11/10/1998. Đó là chị Thérèse Bénédicte Edith Stein dòng kín Carmel.

Qua thư Rôma hôm nay, Phaolô nói đến ‘lịch sử hỏng hóc’ của một nhân loại bất chính, nhưng đó cũng là lịch sử của xót thương, “Mọi người đã phạm tội, bị tước mất vinh quang Thiên Chúa!”; nhưng “Họ được trở nên công chính do ân huệ Thiên Chúa… trong Đức Kitô”. Thánh Vịnh đáp ca thật ý tứ, “Chúa luôn từ ái một niềm, ơn cứu độ nơi Người chan chứa!”.

Anh Chị em,

“Họ đã giết các vị ấy, còn các người thì xây lăng!”. Lịch sử Israel, lịch sử Edith Stein – những lịch sử được xót thương! Một dân tộc nhiều lần chối từ Thiên Chúa, giết các tiên tri, vẫn được Ngài thương xót; một thiếu nữ lạc lối, tâm hồn nổi loạn, từng mảnh hư hỏng trong lòng cô được ân sủng chữa lành và biến đổi. Cũng thế, bên trong mỗi người chúng ta luôn tồn tại một sự hỏng hóc. Vậy mà những thất bại, những sai lầm không kết thúc câu chuyện, nhưng mở ra cơ hội để ân sủng toả sáng. Hãy để Chúa viết nên một câu chuyện cứu độ trong đời mình; Ngài sẽ biến hỏng hóc, vết thương và thất vọng thành nguồn sống, hy vọng và lời tạ ơn. “Lịch sử cho thấy những thất bại của chúng ta, nhưng lòng xót thương Chúa luôn tìm cách cứu chuộc và chữa lành!” – Desmond Tutu.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, chớ gì lịch sử đời con, một lịch sử hỏng hóc, đầy những lỗ hổng được Chúa xót thương lấp đầy; và rồi, con cũng nên thánh. Tại sao không?”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế) 

*************************************

Lời Chúa Thứ Năm Tuần XXVIII Thường Niên, Năm Lẻ

Thế hệ này sẽ bị đòi nợ máu các ngôn sứ, từ máu ông A-ben đến máu ông Da-ca-ri-a.

✠ Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Lu-ca.

47 Khi ấy, Đức Giê-su nói với mấy nhà thông luật rằng: “Khốn cho các người! Các người xây lăng cho các ngôn sứ, nhưng cha ông các người đã giết chết các vị ấy! 48 Như vậy, các người vừa chứng thực vừa tán thành việc làm của cha ông các người, vì họ đã giết các vị ấy, còn các người thì xây lăng.

49 “Vì thế mà Đức Khôn Ngoan của Thiên Chúa đã phán: “Ta sẽ sai Ngôn Sứ và Tông Đồ đến với chúng: chúng sẽ giết người này, lùng bắt người kia. 50 Như vậy, thế hệ này sẽ bị đòi nợ máu tất cả các ngôn sứ đã đổ ra từ tạo thiên lập địa, 51 từ máu ông A-ben đến máu ông Da-ca-ri-a, người đã bị giết giữa bàn thờ và Thánh Điện. Phải, tôi nói cho các người biết: thế hệ này sẽ bị đòi nợ máu.

52 “Khốn cho các người, hỡi những nhà thông luật! Các người đã cất giấu chìa khoá của sự hiểu biết: các người đã không vào, mà những kẻ muốn vào, các người lại ngăn cản.”

53 Khi Đức Giê-su ra khỏi đó, các kinh sư và các người Pha-ri-sêu bắt đầu căm giận Người ra mặt, và vặn hỏi Người về nhiều chuyện, 54 gài bẫy để xem có bắt được Người nói điều gì sai chăng.


 

Thiên đàng là gì?

Thiên đàng là gì?

Những ai chết trong ân sủng và ân nghĩa của Thiên Chúa và đã hoàn toàn được thanh tẩy sẽ sống muôn đời với Chúa Kitô. Họ sẽ mãi mãi giống như Thiên Chúa, vì họ thấy Ngài “đúng như Ngài là” (1Ga 3,2), “mặt giáp mặt”. (câu 1023 trang 322, Sách Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo).

“Mắt chưa từng xem thấy, tai chưa từng nghe thấy, lòng trí con người chưa từng nghĩ tới, đó là tất cả những gì Thiên Chúa đã dành sẵn cho những ai yêu mến Ngài (1Cr 2,9) (câu 1027, trang 323, Sách đd)

Xin chỉ ghi lại nguyên văn trong sách Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo và với đức tin, con người tin có linh hồn, tin có Thiên Chúa toàn năng, và Thiên đàng là niềm hy vọng cuối cùng của con người chúng ta sau khi chết.


 

MẤT NIỀM VUI – Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

“Các người chất trên vai kẻ khác những gánh nặng không thể gánh nổi!”.

Thoạt đầu, Chúa Trời định 30 năm là thời gian lý tưởng cho một số loài. Tuy nhiên, lừa, khuyển và khỉ nghĩ rằng, nhiều quá! Chúng xin giảm còn 18, 12 và 10. Loài người tham lam, xin thêm 40 năm thừa đó, nên sống đến 70. 30 “năm đầu” là của riêng nó; 18 “năm lừa”, nó phải gánh vô vàn nặng nhọc; 12 “năm khuyển”, nó làm ít nhưng lo nhiều; sau cùng, 10 “năm khỉ”, nó phát triển kỳ lạ, làm nhiều điều khiến trẻ em cười!

Kính thưa Anh Chị em,

Nếu Grimms cống hiến một câu chuyện thú vị về những gánh nặng tuổi tác, thì Chúa Giêsu trong Tin Mừng hôm nay cho thấy một gánh nặng khác – gánh lề luật – một gánh không gánh nổi mà giới thông luật đã chất lên dân Chúa, khiến tôn giáo ‘mất niềm vui’.

Thời Chúa Giêsu, luật sĩ là các chuyên gia giải thích lề luật rút ra từ Thánh Kinh. Chúa Giêsu cáo buộc họ về việc tuỳ tiện cắt nghĩa luật Chúa và ý muốn của Ngài. Với những thêm thắt, cắt xén của họ, lề luật thay vì giải thoát, lại trói buộc; thay vì yêu thương, lại lên án; thay vì cứu sống, lại giết chết. Đó là lúc đức tin làm cho tôn giáo ‘mất niềm vui’, khi con người dùng danh nghĩa đạo đức để chất gánh nặng lên vai người khác. “Càng đặt ra nhiều luật lệ để thay thế cho tình yêu, ta càng xa rời Thiên Chúa!” – A. W. Tozer.

Vậy mà “Thiên Chúa sẽ thưởng phạt mỗi người tuỳ theo việc họ làm” – bài đọc một; “Lạy Chúa, Ngài theo tội phúc mà thưởng phạt mỗi người!” – Thánh Vịnh đáp ca. Vì thế, chính Chúa sẽ xét xử những người cầm cân nẩy mực nặng hơn. “Công lý của Thiên Chúa không chậm trễ; Ngài chỉ đang kiên nhẫn!” – Peter Kreeft.

Chúa Giêsu – như một chàng rể – đến loan báo một Tin Mừng ban niềm vui, sự tươi mới và sức sống của Thánh Thần. Ngài loan báo triều đại Thiên Chúa, một triều đại xót thương, tìm kiếm, chữa lành, băng bó và ăn mừng. Ngài đến, công bố năm hồng ân: người nghèo được loan Tin Vui, kẻ bị giam cầm biết họ được tha. Vì thế, nếu niềm tin Kitô trở thành gánh nặng bởi lề luật, thì cách nào đó, nó đã đánh ‘mất niềm vui’, và đánh mất cả bản chất của Phúc Âm. “Kitô giáo không phải là một đám tang, nhưng là điệu vũ của sự phục sinh!” – Karl Barth.

Anh Chị em,

“Các người chất trên vai kẻ khác những gánh nặng không thể gánh nổi!”. Khi Kitô giáo biến thành gánh nặng, nó đã đánh mất Chúa Kitô. Ngài không đến để chất thêm gánh nặng, nhưng để gỡ bỏ xiềng xích sợ hãi và tội lỗi. Tình yêu của Ngài không áp đặt, chỉ mời gọi; không đè nặng, chỉ nâng lên. Những ai “chất gánh không gánh nổi” lên vai người khác, kỳ thực, cũng đang tự trói buộc mình vào những gánh nặng vô hình của kiêu ngạo và định kiến. “Chủ nghĩa duy luật là nghệ thuật biến Tin Mừng thành gánh nặng!” – John Stott. Tin Mừng là hơi thở tự do của Thánh Thần; ai đón nhận Thần Khí thì bước đi nhẹ nhàng, dù đường thập giá có gập ghềnh, lòng vẫn an vui.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, cứu con khỏi thói nhân danh luật lệ mà quên mất thương xót. Đừng để con lạm dụng uy tín, quyền lực để chất thêm những gánh vốn sẽ tỳ đè người khác!”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế) 

******************************************************

Lời Chúa Thứ Tư Tuần XXVIII Thường Niên, Năm Lẻ

Khốn cho các người, hỡi các người Pha-ri-sêu ! Khốn cho cả các người nữa, hỡi các nhà thông luật.

✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Lu-ca.    Lc 11,42-46

42 Khi ấy, Đức Giê-su nói : “Khốn cho các người, hỡi các người Pha-ri-sêu ! Các người nộp thuế thập phân về bạc hà, vân hương, và đủ thứ rau cỏ, mà xao lãng lẽ công bình và lòng yêu mến Thiên Chúa. Các điều này phải làm, mà các điều kia cũng không được bỏ. 43 Khốn cho các người, hỡi các người Pha-ri-sêu ! Các người thích ngồi ghế đầu trong hội đường, thích được người ta chào hỏi ở nơi công cộng. 44 Khốn cho các người ! Các người như mồ mả không có gì làm dấu, người ta giẫm lên mà không hay.”

45 Một người trong số các nhà thông luật lên tiếng nói : “Thưa Thầy, Thầy nói như vậy là nhục mạ cả chúng tôi nữa !” 46 Đức Giê-su nói : “Khốn cho cả các người nữa, hỡi các nhà thông luật ! Các người chất trên vai kẻ khác những gánh nặng không thể gánh nổi, còn chính các người, thì dù một ngón tay cũng không động vào.”


 

CÁC TÔNG ĐỒ ĐÃ SỐNG VÀ CHẾT NHƯ THẾ NÀO SAU KHI CHÚA VỀ TRỜI?- Trần Mỹ Duyệt

Legio Mariae Senatus Viet Nam

Trần Mỹ Duyệt

Trong những ngày đầu của biến cố Tin Mừng, Chúa Giêsu đã đích thân tuyển chọn 12 người để cộng tác với Ngài. Thánh Luca ghi lại: “Trong những ngày ấy, Chúa Giêsu lên núi cầu nguyện, và suốt đêm, Người cầu nguyện cùng Thiên Chúa. Sáng ngày, Người gọi các môn đệ và chọn mười hai vị mà Người gọi là Tông đồ: Ðó là Simon, mà Người đặt tên là Phêrô, và em ông là Anrê, Giacôbê và Gioan, Philipphê và Bartôlômêô, Matthêu và Tôma, Giacôbê con ông Alphê và Simon cũng gọi là Nhiệt Thành, Giuđa con ông Giacôbê và Giuđa Iscariot là kẻ phản bội” (Lk 6:12-16). Vậy “các tông đồ đã sống và chết như thế nào sau khi Chúa về trời?”

Thánh Kinh ghi lại, sau khi Chúa Giêsu chịu chết, sống lại và về trời, đặc biệt, sau ngày Chúa Thánh Thần hiện xuống thì đời sống của các Tông Đồ đã thay đổi hoàn toàn. Các ông không còn rụt rè, nhút nhát, sợ sệt, nhưng đã mạnh dạn, can đảm ra đi để làm chứng nhân cho Tin Mừng. Sách Tông Đồ Công Vụ kể rằng sau khi Chúa Giêsu về trời, các Tông Đồ trở lại Giêrusalem và cầu nguyện 10 ngày như Ngài đã căn dặn (Acts 1: 4), để nhận lãnh Thánh Thần. Và lịch sử của Giáo Hội đã khai mở sau biến cố lễ Ngũ Tuần (Acts 2:1- 4).

Nhưng ngoài những gì được ghi trong các Phúc Âm, trong Tông Đồ Công Vụ, trong các Thánh Thư, đặc biệt là những thư của Thánh Phaolô, chúng ta biết rất ít về số phận các ông, mặc dù chúng ta vẫn tin rằng các ông đã đi rất xa để rao giảng Tin Mừng cho muôn dân (Mk 16:15), và đã sống và đã chết như những chứng nhân cho Tin Mừng mà các ông rao giảng. Sau đây là tóm lược lịch sử truyền giáo và những cái chết của các ông, theo thứ tự danh sách các Tông Đồ đã được Phúc Âm Thánh Luca ghi lại. Thêm vào danh sách đó là Phaolô (Tông Đồ Dân Ngoại) do Chúa Giêsu chọn trên đường đi Damas, và Matthias thay thế Giuđa Iscariot.

1.Simon/Phêrô – Quê ở Bethsaida gần biển Galilee.

Xuất thân ông là một ngư phủ chuyên nghiệp. Cha của ông cũng là ngư phủ chuyên nghiệp tên là Jona. Ông có người em là Andrê cũng là Tông Đồ trong nhóm 12 được Chúa Giêsu tuyển chọn. Căn nhà ông ở tại Capernaum vào thế kỷ thứ 5 người ta đã xây một thánh đường bao trên đó.

Sau 3 năm theo Thầy, và sau khi Chúa về trời, ông khởi đầu sứ vụ bằng bài giảng ngay trong ngày lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống (Acts 2). Một bài giảng gây tiếng vang, và đã thu hút 3000 người xin chịu phép Rửa cùng ngày. Ông chuyên chú vào người Do Thái, khác với Phaolô nhắm tới dân ngoại. Sau nhiều lần bị giam giữ tại Giêrusalem ông đã tới Rôma với Máccô thư ký của ông. Máccô đã biên Phúc Âm thứ nhất theo lời giảng của ông. Phần cá nhân, ông cũng viết 2 thư xuất hiện trong Tân Ước.

Ông được Chúa Giêsu đổi tên là Cephas (Phêrô) do lòng nhiệt thành của ông. Phêrô cũng là tên mà Chúa Giêsu nhắm tới việc xây dựng Giáo Hội của Ngài trên ông. “Con là Cephas nghĩa là đá, trên đá này Thày sẽ xây Giáo Hội Thầy” (Mt 16:18). Irenaeus (c.180A.D) dựa theo truyền thống cho rằng Phêrô và Phaolô đã xây dựng Giáo Hội ở Rôma. Ông là vị Giáo Hoàng tiên khởi của Hội Thánh Công Giáo.

Phêrô, theo Phaolô ghi lại trong thư gửi giáo đoàn Galatians, thì cũng đã một lần viếng thăm Antioch (Gal 2:11) và có thể ở Corinth (1 Cor 1:12). Cũng trong Tông Đồ Công Vụ, ông đã giảng đạo cho Cornelius ở Caesarea. Người đầu tiên được ông hướng dẫn mà không phải Do Thái (Acts 10).

Ông bị hoàng đế Rôma là Nero đã ra lệnh giết năm 66 AD, sau 33 năm Chúa về trời. Ông bị đóng đinh ngược và được an táng dưới hầm vương cung thánh đường Thánh Phêrô hiện nay ở Rôma, nơi ông đã lãnh phúc tử đạo.

  1. Andrê – Ngư phủ từ Galilee, em của Phêrô.

Nguyên thủy ông là môn đệ của Gioan Tẩy Giả (Mk 1:16-18). Sau khi cùng anh là Phêrô bỏ nghề chài lưới theo Chúa Giêsu, ông thuộc số những tông đồ đầu tiên của Ngài.

Ông giảng đạo cho người Scythians và Thracians. Bị đóng đinh và an táng tại Patrae (Hy Lạp). Theo Hippolytus, Andrê giảng đạo tại Georgia/Bulgaria ngày nay, phần đất nối liền với Hắc Hải gần Thổ Nhĩ Kỳ. Ông bị đóng đinh tại Achaia. Cũng có tài liệu cho rằng ông bị treo trên một cây Olive tại Patrae, thành Achaia, Hy Lạp. Eusebius trong lịch sử của Giáo Hội đã dùng tài liệu của Origen xác định rằng Andrê giảng đạo tại Scythia. Trong Chronicle of Nestor thêm rằng, ông giảng đạo dọc theo Hắc Hải (Black Sea) và sông Dnieper tới mãi tận Kiev, và từ đó di chuyển đến Novgorod. Do đó, ông trở thành Bổn Mạng của nước Ukraine, Romania và Nga. Ông lập tòa ở Byzantium (Constantinople và Istanbul) năm 38 AD, mà sau này biến thành tòa thượng phụ Constantinople, và đã đặt Stachys là Giám Mục. Cả ông và thánh Stachys đều được coi là quan thầy của Tòa Thượng Phụ Constantinople.

Ở những tài liệu khác, cái chết của ông được miêu tả là bị đóng đinh ở Patras (Patrae) thuộc Achaea. Công Vụ của Andrê (Acts of Andrew) như Gregory of Tours lại cho rằng ông bị trói vào một loại thập giá gọi là thập giá Latin có hình chữ X. Nhưng theo Dorman Newman nhà sử học thuộc thế kỷ 15, là thì khi ở Patras thuộc đông Hy Lạp năm 69 AD, vị Tổng Đốc Rôma là Aegeates ở đây đã tranh luận với ông về tôn giáo. Aegeates đã cố gắng thuyết phục Andrê từ bỏ Kitô giáo để tránh bị tra tấn và xử hình. Cuối cùng ông bị đánh đòn và sau đó bị đóng đinh. Ông đã sống thoi thóp trên thập giá 2 ngày, và không ngừng rao giảng Tin Mừng cho những người qua lại. Tại Hy Lạp gần Ethiopia vẫn còn dấu tích ngôi mộ của ông.

Ngoài ra, Scots cũng cho rằng Andrê đã đến giảng đạo tại Picts (vì vậy họ dùng cây thập giá của Thánh Andrê trên quốc kỳ của họ).

  1. Giacôbê – Con của Zebedee người làng Bethsaida.

Ông và em là Gioan là anh em họ với Chúa Giêsu. Để phân biệt với Giacôbê con ông Alphaeus, ông được gọi là Giacôbê Cả. Tên của ông không rời xa tên em ông là Gioan trong Mk 1:19-20; Mt 4:21, và Lk 5:1-11. Ông là Tông Đồ đầu tiên tử đạo năm 44 AD.

Là ngư phủ sinh sống quanh Bethsaida, Capernaum và Giêrusalem. Ông cùng em đã bỏ chài lưới đi theo Chúa Giêsu khi Ngài gọi hai ông, lúc cả hai đang vá lưới dưới thuyền với cha mình. Ông và em ông được Chúa Giêsu đặt cho biệt danh là con sấm sét.

Rao giảng tại Giuđêa và bị quận vương Herod Agrippa chém đầu và được an táng ở Giuđêa (Acts 12:2). Hippolytus xác nhận cái chết của Ông. Eusebius đã diễn tả chi tiết hơn: Đầu tiên là Stêphanô bị ném đá, rồi tiếp đến là Giacôbê bị chém đầu.

Lý do ông bị chết vì Herod Agrippa, quận vương mới của Judea muốn chứng tỏ mình trung thành với người Rôma bằng cách bắt bớ những thủ lãnh các tôn giáo. Sau khi Giacôbê bị bắt và bị dẫn đi hành hình, người tố cáo ẩn danh ông đã xúc động do lòng can đảm của ông, nên không những đã xin theo đạo, mà còn xin được chết chung cùng với Giacôbê. Đề nghị đã được chấp thuận và cả hai đã bị chém đầu.

  1. Gioan – Con ông Zebedee, em của Giacôbê.

Ông và anh mình được Chúa Giêsu đặt cho biệt danh “Boanerges”, có nghĩa là con Sấm Sét, khi hai ông xin Chúa cho lửa bởi trời xuống thiêu hủy dân làng Samaritan vì đã không đón tiếp Ngài (Lk 9:51-54), và tham vọng do mẹ của hai ông muốn sắp xếp chỗ ngồi bên phải, bên trái Chúa cho hai ông (Mk 10:35-37). Nhưng ông cũng là người được Chúa Giêsu yêu cho dựa đầu vào ngực trong bữa tiệc ly, và trối Đức Mẹ lại trước khi Ngài tắt thở trên thập giá: “Này là mẹ con” (Jn 19:24-27).

Theo Hippolytus, trong cuộc bách hại của Domitian và giữa năm 90, ông bị lưu đày qua đảo Patmos. Bị lưu đày tại đảo Patmos, nhưng ông qua đời ở tuổi già tại Ephesus khoảng 100 AD. Ông viết Phúc Âm và viết 3 lá thơ. Cũng trong thời gian ở đảo Patmos, ông đã viết sách Khải Huyền là cuốn sau cùng chấm dứt bộ Tân Ước.

Ông là đầu của giáo hội tại Ephesus, và được diễm phúc phụng dưỡng Đức Maria, Mẹ của Chúa Giêsu. Theo truyền thống Latin, trước đó ông được cho là đã thoát khỏi vạc dầu sôi sau khi bị vứt vào đó tại Rôma.

  1. Philip – Quê làng Bethsaida.

Là một trong số những môn đệ đầu tiên của Chúa Giêsu. Sau này truyền giáo ở Phrygia, Thổ Nhĩ Kỳ (Turkey). Ông bị đánh đòn, bỏ vào ngục và bị ném đá năm 80 AD tại Hierapolis, Thổ Nhĩ Kỳ.

Philip là người thứ sáu trong số 12 Tông Đồ được Chúa Giêsu tuyển chọn (Jn 1:43). Liền sau khi trở thành môn đệ Chúa, ông đã đi giới thiệu Chúa Giêsu cho Nathanael (Bartholomew). Khi khi thấy Nathanael ngần ngại, nghi ngờ, ông đã bảo bạn mình: “Hãy tới mà xem” (Jn 1:46). Ông đã được Phúc Âm nhắc đến ở biến cố Chúa làm phép lạ bánh hóa nhiều, khi Ngài muốn thử xem ông phải làm gì (Jn 6:5-6). Phúc Âm cũng nói đến việc những người Hy Lạp Do Thái trong dịp lễ Vượt Qua (Passover) tại Giêrusalem nhờ ông giới thiệu họ với Chúa Giêsu (Jn 12:20-22). Nhưng xúc động nhất là câu hỏi của ông trong Bữa Tiệc Ly, khi đó ông xin Chúa Giêsu cho được thấy Chúa Cha (Jn 14:8-11).

Tông Đồ Công Vụ ghi, sau khi Chúa về trời ông đã tới Samaria rao giảng Tin Mừng và thực hiện những phép lạ (Acts 8:4-6). Ông đã cải đạo được cho Simon phù thủy (Acts 8:9-13). Trong khi nhận được lời truyền từ thiên thần, ông đã đi gặp một người Ethiopia tại Gaza, vị hoạn quan quyền thế dưới quyền hoàng hậu Candace, và đã rửa tội cho ông này (Acts 8:26-39). Sau cùng ông sống tại Caesarea (Acts 21:8). Cũng theo Tông Đồ Công Vụ, ông có 4 người con gái sống đời đồng trinh và đã được ơn nói tiên tri (Acts 21:9).

  1. Bathôlômêô/ Nathanael – Người Cana, Galilee.

Trong Lịch Sử Hội Thánh của Eusebius, sau khi Chúa về trời, Barthôlômêô (Nathanael) sang truyền giáo tại Ấn Độ. Cũng có một truyền thuyết khác nói rằng ông đã truyền rao Tin Mừng tại Ethiopia, Mesopotamia, Parthia, và Lycaonia. Nhưng phần đông vẫn cho rằng ông giảng đạo tại Ấn Độ, và sau này đến Greater Armenia.

Cũng theo truyền tụng đại chúng của người Armenians, Tông Đồ Jude (Thaddaeus) là người đầu tiên đến truyền giảng Tin Mừng trong vùng này từ năm 43-66 AD. Năm 60 AD, Barthôlômêô mới đến cùng truyền đạo với ông. Khi đến đây, ông mang theo Phúc Âm của Mátthêu và đã dịch Phúc Âm này sang tiếng địa phương. Barthôlômêô tử đạo tại Albanopolis, Armenia năm 68 AD.

Có nhiều tài liệu khác nhau nói về cái chết của ông. Một số cho rằng ông bị chém đầu. Một số khác lại cho rằng ông bị lột da sống và chịu đóng đinh ngược đầu do lệnh truyền của Astyages. Lý do vì ông đã cải đạo Polymius em của Astyages, vua xứ Armenia.

  1. Mátthêu/Lêvi – Con của Alphaeus.

Là con của Alphaeus, vì thế ông bị cho là anh em với Giacôbê Trẻ. Trước khi được Chúa gọi, ông là người thu thuế ở Capernaum. Ông được Thánh sử Máccô gọi là Lêvi (Mk 2:14), trong khi đó, Phúc Âm Thánh Luca gọi ông Mátthêu thu thuế, và ở Phúc Âm của mình tên ông viết là Mátthêu. Theo tiếng Do Thái, Mátthêu có nghĩa là “quà tặng của Jehovah”.

Ông viết Phúc Âm cho người Do Thái. Với mục đích viết Phúc Âm cho người Do Thái, nên Phúc Âm của ông được viết bằng tiếng Do Thái. Ông chết tại Hierees, một thành của Parthia (Iran). Eusebius coi ông là giám mục Papias của Hierapolis, trước năm 110 A.D.

Cũng có truyền thống cho rằng, ông giảng đạo và bị tử đạo tại Ethiopia. Ông bị đâm sau lưng bằng lưỡi đòng do một tên hành quyết được vua Heraclius cử tới bởi vì ông đã phê bình đời sống luân lý của vua.

  1. Thomas – Ngư phủ, người Galilee.

Ông rao giảng Tin Mừng cho người Parthians/Medes/Hyrcanians (Iran), Bactrians (Afghanistan). Tử đạo bằng 4 mũi đòng đâm vào người. Ông đã bị 4 người lính dùng giáo đâm chết tại Mylapore, Ấn Độ ngày 21 tháng 12 năm 72 AD.

Thomas cũng gọi là Didymus. Có thể là một ngư phủ, thường được nhớ như Thomas đa nghi. Trong lúc Chúa Giêsu nói với các Tông Đồ tại Bữa Tiệc Ly, ông đã thẳng thắn hỏi Chúa: “Lạy Chúa, chúng con không biết Chúa đi đâu, thì làm sao biết được đường” (Jn 14:5). Cũng trong Tin Mừng của Thánh Gioan (20:25), khi nghe các Tông Đồ nói đã nhìn thấy Chúa sống lại, ông đã thẳng thừng từ chối, và cho rằng chỉ khi nào ông nhìn những vết đinh nơi tay Chúa, và thọc tay vào cạnh sườn Ngài, ông mới tin.

Nhưng Chúa đã thỏa mãn sự nghi ngờ của ông và qua đó, chúc lành cho mọi người sau này không được diễm phúc nhìn thấy Ngài như ông nhưng vẫn tin: “Tôma vì con đã thấy thầy và đã tin. Nhưng phúc cho những ai không thấy mà tin” (Jn 20:29). Cũng do thái độ hoài nghi của ông mà sau này mới được biết về cái chết và việc Đức Mẹ về trời cả hồn lẫn xác.

Theo Hippolytus, Thomas là một nhà rao giảng nhiệt thành. Ông được biết là đã rao giảng Phúc Âm cho người Parthians (Iran), Medes (Iran), Persians (Iran), Hyrcanians (Iran), Bactrians (Afghanistan), và Margians. Ông có lẽ năng động nhất ở đông Syria. Sử sách cũng ghi lại, ông đã giảng dạy mãi xa tận Ấn Độ, đã tử đạo trên ngọn “Đồi Lớn” gần Madras, và đã để lại một cộng đoàn ở đó cho đến khi người Bồ Đào Nha tới.

  1. Giacôbê – Con của Alphaeus.

Ông không phải là con của Zebedee, và do đó, ông cũng không phải là anh em với Gioan. Tên của ông được xuất hiện trong Mt 10:1-3, Mk 3:14-19, Lk 6:13-16, và Acts 1:13. Mẹ của ông là Maria, một trong những phụ nữ ra viếng mộ Chúa Giêsu và thấy mộ trống vào buổi sáng Phục Sinh. Ông được gọi là Giacôbê Trẻ hay Giacôbê Hậu để phân biệt với Giacôbê Tiền hay Giacôbê Cả là anh của Gioan.

Cũng vì cha ông là Alphaeus, nên ông thường bị cho là anh em với Mátthêu.

Sau khi Chúa về trời, ông truyền rao Tin Mừng trong phạm vy Giêrusalem. Ông là một trong những vị Tông Đồ sống lâu nhất, có lẽ còn hơn cả Gioan. Ông qua đời năm 94 tuổi. Trước hết bị đánh đòn, và bị ném đá, sau đó bị đánh vào đầu bằng một cây gậy. Tuy nhiên, theo Hippolytus, thì ông bị người Do Thái ném đá tại Giêrusalem. Và ông được mai táng bên cạnh đền thờ năm 62 AD.

  1. Simon Nhiệt Thành – Con của Clopas.

Ông đến từ Cana và vì thế cũng được gọi là Simon người Canaanite, hoặc Simon Nhiệt Thành (nhưng không thuộc những người Do Thái nhiệt thành chống lại người Rôma). Ông là con của Clopas. Theo Hippolytus, ông là Giám Mục thứ hai của Giêrusalem kế vị Giacôbê. Thánh Demetrius thành Rostov đã xác nhận ông là Giám Mục thứ hai của Giêrusalem.

Ông qua đời hưởng thọ 120 tuổi. Ông được an táng tại Giêrusalem. Theo tài liệu thì ông đã bị đóng đinh như vị Giám Mục của Giêrusalem sau khi giảng Phúc Âm tại Samaria. Một tài liệu khác lại cho rằng khi truyền giáo tại Persia, ông đã bị cưa đôi vì từ chối không dâng lễ vật cho thần mặt trời.

Tuy nhiên nơi ông rao giảng Tin Mừng và cái chết của ông không được rõ ràng. Có tài liệu nói là ông đã giảng đạo tại Anh. Tài liệu bằng tiếng Hy Lạp thì cho rằng ông giảng đạo tại Hắc Hải (Black Sea), Ai Cập, và Bắc Phi. Nhưng theo tài liệu Latin “Passio Simonis et Judae”, ông truyền giáo tại Persia, và tử đạo tại Suanir. Nơi an táng của ông không được ghi lại. Sau khi giảng đạo tại Ai Cập, ông và Giuđa (Thaddaeus/Judas) được cho là đã cùng nhau đến giảng đạo tại Persia và Armenia, hoặc Beirut, Lebanon. Cả hai cùng tử đạo năm 65 AD.

Giáo Hội Tây Phương kính ông cùng với Jude (Thaddaeus). Ngược lại, ở Đông Phương hai ngài được kính riêng. Ông là bổn mạng những người thuộc da.

11.Thaddaeus/Judas – Con của Giacôbê.

Rao giảng Tin Mừng tới Edessa gần sông Euphrates và chung quanh khu vực Mesopotamia (Iraq, Syria, Turkey, Iran). Qua đời năm 72 AD. Ông bị bắn bằng tên tại Ararat.

Thánh Giêrônimô gọi Judas là “Trinomious” có nghĩa là người có 3 tên. Trong Máccô 3:18 ông được gọi là Thaddeus. Trong Matthêu 10:3, ông được gọi là Lebbeus. Và tên Thaddeus (Trái tim được sưởi ấm). Còn trong Luca 6:16 và Tông Đồ Công Vụ 1:13, ông được xem như Juda anh em của Giacôbê.

Theo Hippolytus, sau khi Chúa về trời, ông ra đi rao giảng Tin Mừng cho người ở Edessa (bên trên Mesopotamica) và cả vùng Mesopotamia. Qua đời tại Berytus (Lebanon, gần Syria và Thổ Nhĩ Kỳ), và được an táng tại đó.

Trong Tân Ước, ông đã hỏi Chúa Giêsu trong Bữa Tiệc Ly, “Tại sao Chúa chỉ tỏ mình cho chúng con mà không cho thế giới” (Jn 14:22). Qua câu hỏi này ông muốn cho mọi người được biết Chúa Kitô.

  1. Matthias – Thay thế Giuđa Iscariot.

Theo tiếng Hy Lạp, Matthias có nghĩa “Ân huệ của Giavê”. Ông là một trong 70 môn đệ theo Chúa Giêsu từ đầu, lúc Ngài chịu phép rửa bởi Gioan Tiền Hô trên sông Jordan cho đến khi Ngài về trời (Acts 1:21-22). Sau khi Chúa về trời, Phêrô đã triệu tập 11 Tông Đồ trên căn thượng lầu và đã bỏ phiếu giữa Matthias và Giuse còn gọi là Joseph Barsabbas, người có tên họ là Justus. Matthias được chọn thay thế cho Giuđa Iscariot để nâng con số các Tông Đồ thành 12, nhưng ông là Tông Đồ không do chính Chúa Giêsu tuyển chọn.

Ông được coi là đã tới Syria cùng với Andrê. Theo Nicephorus (Historia eccl., 2, 40), Matthias đầu tiên giảng Tin Mừng ở Judea, rồi sau đó ở Ethiopia (miền Colchis, thuộc Georgia ngày nay), và bị ném đá chết.

Một truyền thống khác cho rằng ông bị người Do Thái ném đá tại Giêrusalem, sau đó bị chém đầu. (cf. Tillemont, Mémoires pour servir à l’histoire ecclesiastique des six premiers siècles, I, 406-7). Cũng theo Hippolytus, Matthias chết ở Giêrusalem năm 80 AD. Ông là Giám Mục Giêrusalem. Và một truyền thống khác cho rằng ông đã rao truyền Phúc Âm trên bờ biển Caspian và Cappadocia.

Liên quan đến cuộc sống và cái chết của ông, theo Nicephorus (Lịch Sử Giáo Hội II.40), đầu tiên ông rao giảng Phúc Âm ở Judea, rồi tới Ethiopia, và ông bị đóng đinh. Nhưng theo Dorotheus thì Matthias rao giảng Tin Mừng cho những người man khai, mọi rợ ở trong Ethiopia, và hải cảng biển Hyssus tại cửa sông Phasis. Ông qua đời tại Sebastopolis, và được an táng gần Đền Thờ Mặt Trời. Thánh Helena đã đem hài cốt của ông về Rôma.

  1. Phaolô – Tông Đồ Dân Ngoại.

Được Chúa Giêsu gọi khi ông đang trên đường ông đến Damas bắt các Kitô hữu. Ông có tên là Saul (Saulê). Ông sinh năm c.5 AD. Tại Tarsus, Cilicia thuộc Đế Quốc Rôma, ngày nay là Mersin, Thổ Nhĩ Kỳ. Ông tử đạo năm c. 64/65 AD., tại Roma, Ý, trong Đế Quốc Roma. Vương Cung Thánh Đường Thánh Phaolô Ngoại Thành được xây trên nơi ông đã bị chém đầu.

Phaolô bị chặt đầu bằng gươm, vì ông có quốc tịch Rôma. Ông bị hành hình dưới thời hoàng đế Neron năm 33 AD. Cuộc đời của Phaolô, ơn gọi đặc biệt của ông, việc trở lại diệu kỳ của ông, hành trình truyền giáo của ông, cũng như những tư tưởng phi thường của ông đã được ghi rõ trong Tông Đồ Công Vụ và các thư do ông viết trong Tân Ước.

——————————————

Tài liệu tham khảo

– Ken Curtis, Ph.D.

Church History Timeline

6000-1 BCAD 1-300301-600601-900901-12001201-15001501-16001601-17001701-18001801-19001901-20002001-Now

– Hippolytus of Rome – Birth unknown, died around 236 AD.

– Eusebius – Was the Bishop of Caesarea in Palestine, known as the “Father of Church History” because he wrote about the church history. Lived around 260-341 AD.

https://en.wikipedia.org/wiki/Paul_the_Apostle


 

 

TRÓI BUỘC – Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

 Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

“Thật là ngốc!”.

Kính thưa Anh Chị em,

Thật khó để tưởng tượng Chúa Giêsu gọi ai đó là “ngốc”, nhưng thực sự, trong Tin Mừng hôm nay, Ngài đã nói như thế với một biệt phái. Với ông, luật thay vì giải thoát, lại ‘trói buộc’ và làm cho người ta ra ngốc nghếch!

Người biệt phái mời Chúa Giêsu dùng bữa; và ông trách Ngài không rửa tay. Nhân cơ hội này, Ngài cho biết, ông ấy giả hình; ông “theo ‘tôn giáo trang điểm’, giả vờ xuất hiện theo một cách thức ‘vui mắt’ nào đó, đang khi bên trong – như Ngài nói – là ngôi mộ đầy xương người chết và mọi thứ ô uế!” – Phanxicô.

Lời Chúa chất vấn chúng ta về những gì có thể ‘trói buộc’ đời sống mình. Nhiều khi, chúng ta vô tình biến điều sai trái thành ‘giá trị’, chỉ để che giấu tội kiêu ngạo, ích kỷ và tự phụ. Tệ hơn, chúng ta cố ‘phổ quát hoá’ những lệch lạc ấy, biến đạo đức thành một sự điều chỉnh cho phù hợp xu hướng xã hội, miễn sao không bị lạc lõng hay bị loại trừ. Và như thế, dù giá phải trả là sự tăm tối của tâm hồn, chúng ta vẫn tự trấn an, “Ai mà chẳng như thế!”. “Chúng ta đã học cách mài giũa thói xấu của mình cho đến khi chúng sáng lên như nhân đức!” – Søren Kierkegaard.

Phaolô mạnh mẽ tố cáo thái độ biệt phái này. Họ là “Những người lấy sự bất chính mà giam hãm chân lý” – và quyết liệt hơn cả Chúa Giêsu – “Đầu óc họ suy luận viển vông và tâm trí ngu si của họ hoá ra mê muội. Họ khoe mình khôn ngoan, nhưng đã trở nên điên rồ!” – bài đọc một. “Khi đạo đức bị uốn cong cho hợp tiện nghi, thì sự thật là điều đầu tiên bị hy sinh!” – C. S. Lewis.

Thế kỷ XVIII, triết gia người Pháp – Jean-Jacques Rousseau như một hiện tượng. Ông kiêu ngạo đến mức thách thức, “Trước nhan Chúa, ai dám nói, ‘Tôi tốt hơn Rousseau!’”. Trước khi chết, ông tự tôn, “Ôi hạnh phúc! Một người không có lý do gì để hối hận hay tự trách mình!”; “Tôi trả lại linh hồn trong sáng cho Chúa như khi nó xuất phát từ Ngài; hãy để nó hạnh phúc với Ngài!”. Trong các tác phẩm, ông cổ vũ ngoại tình, tán dương tự tử. Hơn hai mươi năm sống xa hoa, ngông cuồng và duy ngã, những đứa con ngoài giá thú của ông đều bị vứt bỏ nơi viện mồ côi. Ông trở thành biểu tượng của một con người phô trương, bội bạc, giả hình và phạm thượng!

Anh Chị em,

“Thật là ngốc!”. Hẳn Chúa Giêsu sẽ nói với Jean-Jacques Rousseau và cũng có thể nói với bạn và tôi như thế. Hãy lắng nghe, đừng cảm thấy xúc phạm! Đó là những lời yêu thương nhất. Chúa Giêsu muốn chúng ta làm sạch chiếc cốc tâm hồn. Hãy để những lời này tiết lộ những gì cần ‘tháo cởi’. Đó có thể là lòng kiêu hãnh vốn đã làm chệch hướng và ‘trói buộc’ các thực hành nội tâm và cách giữ luật Chúa. “Sự thật khó đối diện nhất là sự thật lột mặt nạ những ‘nhân đức’ của ta!” – Thomas Merton. Đừng làm ngơ; hãy mở lòng và khiêm tốn đón nhận! Nhờ đó, bạn và tôi trở nên công chính và có thể cùng “Trời xanh tường thuật vinh quang Thiên Chúa” – Thánh Vịnh đáp ca!

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, nếu hôm nay con nghe Chúa nói, “Thật là ngốc!”, cho con biết mỉm cười đáp lại, ‘Vâng, con ngốc thật; nhưng ít ra con vẫn còn đủ khôn để nghe Ngài!’”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế)

***************************************

Lời Chúa Thứ Ba Tuần XXVIII Thường Niên, Năm Lẻ

Hãy bố thí thì mọi sự sẽ trở nên trong sạch cho các người.

✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Lu-ca.    Lc 11,37-41

37 Khi ấy, Đức Giê-su đang nói, thì có một ông Pha-ri-sêu mời Người đến nhà dùng bữa. Tới nơi, Người liền vào bàn ăn. 38 Thấy vậy, ông Pha-ri-sêu lấy làm lạ vì Người không rửa tay trước bữa ăn. 39 Nhưng Chúa nói với ông ấy rằng : “Này, nhóm Pha-ri-sêu các người, bên ngoài chén đĩa, thì các người rửa sạch, nhưng bên trong các người thì đầy những chuyện cướp bóc, gian tà. 40 Thật là ngốc ! Đấng làm ra cái bên ngoài lại đã không làm ra cái bên trong sao ? 41 Tốt hơn, hãy bố thí những gì ở bên trong, thì bấy giờ mọi sự sẽ trở nên trong sạch cho các người.”


 

Trời là gì? – Cha Vương

Một ngày an lành trong niềm hy vọng vào Chúa Cứu Thế nhân hậu nhé.

Cha Vương

Thứ 2: 13/10/2025.  t5-22

GIÁO LÝ: Trời là gì? Trời là thời gian vô tận của tình yêu không bao giờ còn xa cách nữa giữa Thiên Chúa và lình hồn đã yêu mến và tìm kiếm Người suốt đời. Được hiệp nhất với tất cả các thiên thần và tất cả các thánh, linh hồn được vui hưởng hạnh phúc luôn luôn ở gần Chúa và với Chúa. Trời là Thiên đường. (YouCat, số 158)

SUY NIỆM: Đôi bạn trẻ nhìn nhau với đôi mắt tình tứ, một em bé đang bú mẹ tìm đến cái nhìn của mẹ nó, như muốn giữ gìn mỗi nụ cười đó mãi mãi…. đó là những thí dụ có thể cho ta một ý niệm nhỏ về trời hay thiên đường. Được nhìn thấy Thiên Chúa mặt đối mặt là như thời gian độc nhất của tình yêu kéo dài đến vô tận. (YouCat, số 158 t.t.)

❦ Một người có thể mất hết của cải đời này trái với ý muốn của mình, nhưng không bao giờ họ mất của cải đời đời nếu không hoàn toàn do ý muốn của mình. (Thánh Augustinô)

LẮNG NGHE: Bây giờ chúng ta thấy lờ mờ như trong một tấm gương, mai sau sẽ được mặt giáp mặt. Bây giờ tôi biết chỉ có ngần có hạn, mai sau tôi sẽ được biết hết, như Thiên Chúa biết tôi. (1 Cr 13:12)

CẦU NGUYỆN: Lạy Chúa, là con người thì có lẽ ai cũng có những lần lo âu xao xuyến, nhất là khi con đang sống trong một thế giới bất ổn, xin Chúa củng cố niềm tin cho con để con luôn xác tín vào lời Chúa dạy: “Anh em đừng xao xuyến! Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy. Trong nhà Cha Thầy, có nhiều chỗ ở; nếu không, Thầy đã nói với anh em rồi, vì Thầy đi dọn chỗ cho anh em. Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó.” (Ga 14:1-3)

THỰC HÀNH: Để hưởng hạnh phúc muôn đời với Chúa, bạn cần phải sạch tội. Tội nào đang làm bạn xa lìa Chúa? Hãy cố gắng tránh xa dịp tội hôm nay nhé.

From Do Dzung

*********************

Xin Đưa Về Quê Trời – Paul Nguyen, Vincent Cao, R. Zaragoza

Mặt Trời Quay, Một Phép Lạ Vĩ Đại Chưa Từng Xảy Ra Và Không Ai Có Thể Chối Cãi Được!

FATIMA NĂM 1917

Mặt Trời Quay, Một Phép Lạ Vĩ Đại Chưa Từng Xảy Ra Và Không Ai Có Thể Chối Cãi Được!

LM Nguyễn Hữu Thy

Chắc hẳn khi nhắc đến tên Fatima, các bạn đã nghe nói đến phép lạ mặt trời quay?

Nhưng các bạn có biết rằng qua cách thức phép lạ xảy ra, thì đây hẳn là một phép lạ vĩ đại nhất chưa từng xảy ra trong lịch sử Giáo Hội?  Hay: Phải chăng đây là một chuyện thêm thắt và bịa đặt thái quá?

Hy vọng qua những dòng sau đây, các bạn sẽ có được sự nhận định chính xác hơn.

Để mọi người tin

Vào ngày 13.10.1917, tại ngọn đồi Cova da Iria ở Fatima, Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ Thiên Chúa, đã hiện ra lần thứ sáu với ba trẻ chăn chiên: Lucia (10 tuổi), Francisco (7 tuổi) và Jacinta (6 tuổi).

Nhưng nhiều người cho rằng việc Đức Mẹ hiện ra chỉ là trò hề, do ba đứa trẻ nhà quê bịa đặt ra để gạt gẫm người khác, hay do thủ đoạn của những người lớn đứng phía sau giật dây để nhắm tới một mục đích chính trị hay kinh tế nào đó.

Chính bà mẹ Lucia cũng hoàn toàn nghi ngờ, đến nỗi bà còn đánh đập con gái mình vì cho rằng Lucia nói dối.

Để đánh tan sự nghi ngờ và bất tín của thiên hạ, nhất là để mọi người tin nhận biến cố Fatima là sự thật, trong lần hiện ra vào ngày 13.07.1917, Vị Thiên Nữ đã hứa là vào ngày 13.10.1917, sẽ có một phép lạ vĩ đại xảy ra trước sự chứng kiến của mọi người.

Lời hứa này còn được Vị Thiên Nữ nhắc lại vào ngày 19.08.1917 và vào ngày 13.09.1917.

Vâng, trong lần hiện ra vào ngày 13.09.1917, sự thông báo của Vị Thiên Nữ về một phép lạ vĩ đại sẽ xảy ra vào ngày 13 tháng 10 tới, cũng được ba trẻ nói cho mọi người hay.  Vì thế, đúng vào ngày đó, đã có khoảng từ 50 đến 70.000 người đã tấp nập đổ xô về Fatima, trong số họ, gồm có đủ mọi hạng người, từ các tín hữu, những người tò mò cho đến cả những người nghi ngờ chống đối.

Nhiều phóng viên của những tờ báo lớn ở Bồ Đào Nha cũng đều có mặt trong lần hiện ra hôm đó.  Nhưng có lẽ những phóng viên này chỉ muốn đến để soạn sửa cho bản tin ăn khách sẽ được đăng ở trang nhất trên các tờ báo của họ trong số ra ngày mai với tít lớn: “Sự thất bại ê chề của hiện tượng Fatima,” hay: “Nhân loại văn minh của thế kỷ XX vẫn còn bị những chuyện hoang đường lừa đảo” kèm theo những bài bình luận đầy giọng mỉa mai châm biếm tôn giáo, nếu như phép lạ đã được loan báo trước, không xảy ra.  Nhưng vào ngày 13.10.1917, mọi sự đã xảy ra hoàn toàn khác với ý nghĩ của những nhà báo này: Phép lạ cả thể đã thực sự xảy ra; mặt trời đã quay cuồng trước sự chứng kiến của tất cả mọi người có mặt hôm đó.

Một vị giáo sư là chứng nhân hiện tượng lạ lùng hôm đó 

Ở đây, chúng ta hãy nghe tiến sĩ José Maria Proença de Almeida Garrett, giáo sư môn khoa học tự nhiên đại học Coimbra, kể lại những gì ông đã quan sát thấy ở Fatima hôm đó.  Vì ông là một giáo sư, nên lời tường trình của ông rất khả tín và gây được sự chú ý của mọi người:

“Hôm đó, tôi đến nơi vào giữa trưa.  Cơn mưa tầm tã từ buổi sáng sớm chẳng những không ngớt, mà bây giờ còn bị những trận gió dữ dội thổi ào tới tấp như muốn làm tràn ngập cả cảnh vật.  (…) Lúc đó vào khoảng 2 giờ chiều.  Trong vài giây lát trước đó, mặt trời còn bị che khuất sau đám mây dày đặc, bỗng chốc nó chiếu sáng qua đám mây.  Mọi cặp mắt đều hướng nhìn về phía mặt trời như bị một sức mạnh nam châm vô hình nào đó cuốn hút vậy.  Chính tôi cũng nhìn thẳng vào mặt trời.  Nó trông giống như một cái đĩa sáng rực rỡ, chói lọi, nhưng không làm lóa mắt.  (…) Nhưng mặt trời vào lúc bấy giờ không làm lóa mặt, không giống như khi chúng ta nhìn nó bị che khuất sau một đám mây.  Không, bầu trời lúc bấy giờ hoàn toàn trong sáng, chứ không hề có một vẩn mây nào che khuất mặt trời cả; nó xuất hiện rõ ràng giữa bầu trời.  Cái đĩa sáng chói đầy mầu sắc rực rỡ đó không đứng yên, nhưng chuyển động rất nhanh.  Và đó không phải là những tia sáng lung linh phát ra từ các ngôi sao.  Cái đĩa lửa quay tròn với một tốc độ nhanh khủng khiếp, khiến từ đám đông những người có mặt hôm đó, bỗng chốc vang lên những tiếng kêu la sợ hãi thất thanh.  Mặt trời cứ tiếp tục quay tròn như thế cùng với tốc độ nhanh khủng khiếp tương tự, đồng thời nó tách ra khỏi không trung và tiến đến gần mặt đất với mầu đỏ máu, mọi cảnh vật như đang sắp sửa bị nghiền nát dưới độ quay nhanh khủng khiếp của vòng lửa không lồ.  (…) Tất cả những hiện tượng này, tôi đã bình tĩnh quan sát và trình bày ra đây sự nhận xét khách quan của mình, chứ không do bất cứ sự xúc động nào chi phối cả.  Tôi cũng hoàn toàn chờ đợi sự nhận xét và quan điểm của kẻ khác.”[1]

Phải chăng đám đông bị thôi miên?

Hàng chục ngàn người đều đổ nhìn về phía mặt trời đang quay lộn kỳ lạ.  Về phép lạ mặt trời quay, có lẽ sẽ có người cắt nghĩa ngay rằng vì đã được báo từ trước, và đám đông đã đến Fatima với một tâm trạng quá nóng lòng hồi hộp chờ đợi.  Vì thế, khi có một hiện tượng bất bình thường nào đó nơi mặt trời xảy ra, họ đã vội cho là phép lạ, và rồi sự công nhận đó cứ lan tỏa ra nhanh trong đám đông một cách vô ý thức như một dòng điện vậy, tương tự như phản ứng của các khán giả ngồi xem đá banh trong một sân vận động khi có cầu thủ đá thủng lưới đối phương.

Nhưng sự cắt nghĩa đó sẽ hoàn toàn trở nên buồn cười và không thể đứng vững được khi sự kiện cụ thể xảy ra trong thực tế, đó là người ta có thể quan sát và nhìn thấy được phép lạ mặt trời quay trong chu vi rộng 1550 cây số vuông.

Rất nhiều nhân chứng đã từ xa chứng kiến được phép lạ mặt trời, lại là những người vô tín ngưỡng, những người đã từng phê bình và cười chê những khách đến Fatima hôm đó như những kẻ “nhẹ dạ cả tin.”  Trong số những người quan sát được phép lạ mặt trời từ xa, chứ không có mặt tại Fatima, đã cho ý kiến như sau:

Linh mục Joaquim Lourenco, hiện là nhà giáo luật học của giáo phận Leiria, nhưng vào lúc xảy ra phép lạ, hãy còn là một học trò và cùng người anh và các bạn bè của ngài đang có mặt tại làng Alburitel, cách Fatima vào khoảng 54  km.  Tất cả đều tưởng ngày tận thế đã đến.

Cha Lourenco tường thuật lại như sau: “Tôi nghĩ rằng tôi không đủ khả năng để diễn tả lại những gì chính tôi đã chứng kiến xưa kia.  Tôi nhìn như dán mắt vào mặt trời để quan sát: Mặt trời có màu nhợt, đến nỗi tôi có thể nhìn thẳng vào nó mà không bị đau mắt chút nào cả.  Mặt trời vào lúc bấy giờ trông tựa như một quả bóng bằng tuyết, quay chung quanh cái trục của mình, và bỗng chốc nó như rơi ra khỏi bầu trời, quay lượn ngoằn ngoèo và tiến sát gần mặt đất với vẻ đầy đe dọa.  Vì quá sợ hãi, tôi đã chạy nấp vào phía sau người lớn đang đứng khóc lóc vì tưởng rằng thế giới trong giây lát nữa sẽ bị chấm tận.  Bên ngoài ngôi trường làng của chúng tôi, có một đám đông đang tụ họp lại; còn đám học trò chúng tôi thì xô nhau chạy ra khỏi lớp học và đi xuống đường.  Khi phép lạ bắt đầu xảy ra thì chúng tôi nghe thấy tiếng kêu la của những người đang đứng đầy ngoài đường phía trước cổng trường, đàn ông cũng như đàn bà…

Lúc bấy giờ có một người vô thần, mà cả buổi sáng hôm đó cứ rêu rao lên tiếng chê bai cười nhạo những người tới Fatima là “những kẻ ngu ngốc,” cốt chỉ để xem một đứa bé gái nhà quê.  Nhưng trong suốt lúc xảy ra phép lạ thì ông ta đứng đờ ra như một người bị bất toại cả thân mình và chỉ đưa mắt cắm chặt vào mặt trời.  Ông ta bắt đầu run rẩy cả mình mẩy lẫn chân tay, rồi quỳ xuống trên bùn lầy và giơ hai tay lên trời cầu xin Chúa tha thứ cho mình.”[2]

Một hiện tượng không thể cắt nghĩa được

Qua sự trình bày của tất cả mọi nhân chứng có mắt hôm đó khi xảy ra phép lạ mặt trời quay, người ta có thể nói được rằng phép lạ cả thể đó có bốn đặc điểm khác nhau:

  1. Đám đông đã có thể nhìn thẳng vào một vật sáng chói lọi, mà họ cho là mặt trời, chứ họ không cần phải đeo kính râm hay bất cứ phương tiện bảo vệ mắt nào cả.
  2. Vừng sáng chói lọi đó đã tỏa ra những tia sáng mầu sắc rực rỡ xuống trên mặt đất, đến nỗi mọi cảnh vật đều bị nhuộm mầu hết.
  3. Vừng sáng chói lọi rực rỡ đó rơi xuống trên đám đông.
  4. Chỉ trong vòng mấy phút mà cả vùng đất Fatima đang bùn lầy dơ bẩn, bỗng chốc trở thành khô cứng, và áo quần của đám đông trên dưới 60 ngàn người từng bị cơn mưa cả buổi sáng làm ướt đẫm, cũng hoàn toàn khô ráo bình thường.

Đúng vậy, chỉ trong vòng khoảng 10 phút đồng hồ mà cả mặt đất lầy lội cũng như quần áo ướt át của đám đông bỗng chốc khô ráo hoàn toàn.  Đó quả là một điều đã minh nhiên nói lên rằng ngoài phép lạ siêu nhiên ra, không thể tìm ra được lời giải thích theo phương diện tự nhiên được.

Nỗi lo lắng của Mẹ Maria cho con cái loài người

Nếu thánh nữ Têrêxa Hài Đồng Giêsu đã từng ước ao là khi được về trên trời, thánh nữ sẽ trở thành tình yêu đầy sáng tạo để cứu giúp mọi người, thì nay Fatima và nhất là phép lạ mặt trời quay, là một bằng chứng hùng hồn của tình yêu đầy sáng tạo của Mẹ Maria đối với con cái loài người chúng ta, dĩ nhiên, trên hết là bằng chứng của tình yêu Thiên Chúa.

Bởi vậy, chúng ta hãy nghiêm chỉnh đón nhận dấu chỉ của sự lo lắng của Mẹ Thiên Chúa; đúng như lời chị Lucia đã cảnh báo: “Fatima luôn luôn mang tính cách thời sự cao điểm của nó.”  Bởi vì, đối với Thiên Chúa, thời giờ là vô tận; nhưng đối với phàm nhân chúng ta, thời giờ luôn có giới hạn của nó.  Và giới hạn đó không ai biết được dài ngắn, lâu mau.  Vì chưa bao giờ có ai biết được mình sẽ được sinh ra lúc nào, và cũng rất ít ai biết được mình sẽ chết lúc nào.  Ngày tận cùng của mỗi người sẽ xảy đến một cách bất chợt, không ngờ trước được, tương tự như một kẻ trộm vậy (x.  Mt 24,37-44).  Do đó, Đức Giêsu đã căn dặn chúng ta: “Các con phải canh chừng, phải tỉnh thức, vì các con không biết khi nào thời ấy đến!” (Mc 13,33).

Nhưng dĩ nhiên, sự tỉnh thức và canh chừng mà Chúa nói đây, không có nghĩa là sự ngồi chờ cách thụ động, vô vi; nhưng là một sự tỉnh thức đầy sáng tạo, nghĩa là một sự tỉnh thức chờ đợi đầy tính năng động mà Mẹ Maria đã chỉ cho chúng ta tại Fatima cách đây đúng 90 năm về trước.  Đó là:

  • Mỗi người phải ăn năn sám hối và cải thiện cuộc sống cá nhân của mình;
  • Hằng ngày hãy siêng năng và sốt sắng lần hạt Mân Côi;
  • Tôn sùng Trái Tim Vô Nhiễm của Mẹ, như Chúa muốn.

Nếu được thế, thế giới sẽ được hòa bình, nhiều dân tộc sẽ tránh khỏi cảnh bị diệt vong và nhiều linh hồn sẽ không bị trầm luân trong hỏa ngục đời đời.

LM Nguyễn Hữu Thy

Nguồn: vietboston.com

 From: suyniemhangngay1& ThuNNguyen


 

Lại nói về sự tha thứ – Tác giả: Phùng Văn Phụng

Phùng Văn Phụng

Đề tài này rất nhiều người đã viết. Tôi cũng có viết đề tài này rồi, tuy nhiên tôi cũng xin thêm vài ý nghĩ về sự tha thứ.

Làm sao tha thứ cho người đã hãm hại mình, đã vu khống, nói xấu mình, có khi còn giết chết mình và gia đình mình. Tha thứ không phải là việc dễ dàng, sự tha thứ nó vượt quá khả năng của con người bình thường. Có thể không nhắc tới, không liên hệ, nhưng nói đến tha thứ kẻ đã gây quá nhiều đau khổ cho mình, cho gia đình mình thì thật là quá khó khăn. Tuy nhiên, tôi xin nêu vài trường hợp đã xảy ra để giúp cho ta suy nghĩ và học hỏi.

Lời nói cuối cùng của Chúa Giê-Su:

Lời cầu xin cho những kẻ hành hạ: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lu-ca 23:34). Đây là một trong những lời nói cuối cùng của Chúa Giê-su trên thập giá, thể hiện lòng thương xót bao la ngay cả đối với những kẻ làm Ngài đau khổ.

 1)   Phó tế Stêphanô.

Phó tế Stephanô là người tử đạo đầu tiên tại Giêrusalem năm 35.

Stêphanô đã tranh luận nhiều lần với người Do Thái cứng lòng, Ngài đã nói lên những lời khôn ngoan, nhờ ơn Chúa Thánh Thần, khiến đối phương phải im tiếng. Vì thế họ tức giận rồi vu khống cho ngài tội phạm thượng, chống lại Môisen và Thiên Chúa.

Họ đã dẫn Ngài ra ngoài thành rồi ném đá cho đến chết. Nhưng trước khi tắt hơi, thánh Stêphanô còn ngước mắt lên trời xin Chúa tha tội cho những người hành hạ mình. 

https://tgpsaigon.net/bai-viet/ngay-26-12-thanh-stephanotu-dao-tien-khoi-43756

 2)   Đức Giáo Hoàng Gioan Phao Lô II

Vào ngày 13 tháng 05 năm 1981 Đức Giáo Hoàng đã bị một người đàn ông Hồi giáo, gốc Thổ Nhĩ Kỳ tên là Mehmet Ali Agca, bắn trọng thương khi Ngài đang đứng trên xe chạy vòng quanh quãng trường thánh Phêrô

Viên đạn xuyên qua ổ ruột, cách động mạch vài ly, dù Ngài bị mất nhiều máu nhưng vẫn được cứu sống kịp thời.

Về phần mình Ngài lại xem đó như một sự can thiệp lạ lùng của Đức Mẹ Maria.

Sau khi hồi phục, Đức Giáo Hoàng đã tuyên bố với mọi người rằng: “Tôi luôn cầu nguyện cho người anh em đã bắn vào tôi, người tôi đã chân thành tha thứ”. Giáo hoàng đã viết thư định gửi cho Ali Agca: “Tại sao anh lại bắn tôi khi mà cả hai chúng ta đều chung đức tin vào Chúa?” Nhưng thay vì gửi bức thư đó, đã quyết định đến gặp Ali Agca.

 Năm 1983, Ngài đến thăm Agca và tha thứ cho việc ám sát ông. Ngài còn cầu khẩn nhà cầm quyền Ý ân xá cho Agca. Ngài đã giữ liên lạc với gia đình của Agca nhiều năm sau đó và đã thăm mẹ Agca năm 1987.

https://vi.wikipedia.org/wiki/Gi%C3%A1o_ho%C3%A0ng_Gioan_Phaol%C3%B4_II

 3)   Đức Hồng Y Nguyễn Văn Thuận

Đức Hồng Y bị giam 13 năm, 9 năm biệt giam, bị bỏ đói, tưởng chết trong trại kiên giam.  Nhưng Đức Hồng Y không nhắc đến giai đoạn bị đày đoạ, đau khổ tột cùng đó và Ngài vẫn đi rao giảng về yêu thương và tha thứ.

Cáo thỉnh viên Waldery Hilgeman, cáo thỉnh viên phụ trách tiến trình phong thánh cho cố Hồng y Nguyễn Văn Thuận, nêu nhận định của ông về cố Hồng y:[112]

Điều đánh động tôi trong linh đạo của ngài là tình yêu liên lỉ đối với tha nhân. Ngài bị cầm tù và khi ở trong tù, ngài vẫn không ngừng yêu thương những người bách hại ngài, từ những viên chức cao nhất của chế độ đến anh lính canh thấp bé nhất.

Linh mục Trần Đức Anh, Giám đốc Ban Việt ngữ Đài phát thanh Vatican, đưa ra nhận định:[106]

Bản thân tôi, tôi có dịp được tiếp xúc với Đức Hồng y rất nhiều, và tôi rất khâm phục Ngài ở chỗ không bao giờ Ngài than trách, nói xấu hoặc phê bình những người đã hại Ngài, những người đã tạo đau khổ cho Ngài trong quá khứ. Đó là điều mà tôi rất cảm kích.

https://vi.wikipedia.org/wiki/Phanxic%C3%B4_Xavi%C3%AA_Nguy%E1%BB%85n_V%C4%83n_Thu%E1%BA%ADn

 *******

Đức Hồng Y viết: “

Có một hôm mấy anh gác hỏi tôi:

–          Ông có thương chúng tôi không?

–          Có chứ, tôi yêu thương các anh cách thành thực, không có gì là khách sáo đâu!

–          Kể cả khi người ta giam ông, mất tự do năm này sang năm khác? Không xét xử gì cả.?

–          Anh nghĩ lại bao nhiêu năm ở với nhau. Tôi làm sao giấu được. Tôi thực sự yêu thương các anh.

–          Chừng nào được tự do anh có sai giáo dân của anh trả thù không?

–          Không, tôi vẫn tiếp tục yêu thương, dù các anh có muốn giết tôi.

–          Nhưng tại sao lại yêu kẻ thù hại anh?

–          Vì Chúa Giêsu đã dạy tôi yêu thương; nếu tôi không tuân giữ, tôi không đáng gọi là Kitô hữu nữa.”

(Sách Sách” Năm Chiếc Bánh và Hai Con Cá” trang 76)

  4)Thánh nữ Maria Goretti, đồng trinh, tử đạo

Một di sản đạo đức quý giá khác mà thánh Maria Goretti để lại cho hậu thế đó là lòng từ bi và sự tha thứ. Sự tha thứ mà thánh Maria Goretti dành cho kẻ đã hạ sát mình đã làm trổ sinh hoa trái là sự hoán cải của Alessandro Serenelli, kẻ đã hãm hại và tước đi mạng sống của thánh nữ. Alessandro bị tuyên án 30 năm tù khổ sai lưu đày vì tội cố sát. Sau khi thụ án, anh đã tìm đến nhà Goretti gặp bà Assunta, mẹ của thánh nữ để xin được tha thứ. Anh cũng đã có mặt tại quảng trường thánh Phê-rô tham dự lễ phong thánh của Maria Teresa Goretti cùng với bà Assunta.

Sau đó, anh đến xin làm lao công trong một tu viện dòng Phanxico: để sống cuộc đời hoán cải và đền tội. Có thể thấy rằng, hai phép lạ đã xảy ra khi sự tha thứ làm nảy sinh ơn hoán cải. Khả năng tha thứ xuất phát từ ân sủng của Thiên Chúa và sự quảng đại của một tâm hồn thánh thiện, liêm chính đã thúc đẩy Maria Goretti nói những lời này: ‘Tôi muốn kẻ giết tôi cũng được như tôi trên Thiên Ðàng’.

https://vntaiwan.catholic.org.tw/thuongde/thuongde200.htm

Kết:

Trong suốt giòng lịch sử từ khi Chúa Giê-su chịu tử nạn cho đến ngày hôm nay (2025) vẫn có rất nhiều Kitô hữu là môn đệ của Thầy chí thánh, đã học tập, noi gương Thầy Giê-su đã quãng đại yêu thương và tha thứ đối với những kẻ đã nói xấu, vu khống, hãm hại mình.

Người Kitô hữu thường nhớ và áp dụng lời Chúa Giê-su dạy: “Hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ đã ngược đãi anh em” (Mt 5,44)

Phùng Văn Phụng

12/10/2025

VỰC TỐI – Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

“Họ sẽ không được thấy dấu lạ nào, ngoài dấu lạ ông Giôna!”.

Một chú mèo rơi xuống một giếng cạn, người ta xúm lại tìm cách cứu nó bằng việc xúc đất lấp giếng. Ai đó lo lắng, “Làm thế, nó sẽ chết!”. Nhưng họ vẫn tiếp tục. Lạ thay, cứ mỗi lần một lớp đất rơi xuống, con mèo lại phủi đất rồi bước lên cao hơn. Cuối cùng, nó ra khỏi giếng – bình an, tự do – dẫu khá lấm lem!

Kính thưa Anh Chị em,

Lời Chúa hôm nay cho thấy, như con mèo kia, nhiều khi chúng ta cũng bị vùi lấp giữa những lớp đất của thử thách, tội lỗi hay nỗi sợ. Thế nhưng, chính trong những ‘vực tối’ đó, Thiên Chúa lại tỏ mình cách sâu thẳm nhất.

Bị ném xuống biển sâu, chôn vùi trong bụng cá, nhưng chính ở đó, Giôna bắt đầu trải nghiệm thế nào là bóng tối, thế nào là nổi loạn, là hoán cải; và điều quan trọng là Thiên Chúa có mặt ở đó! Đức Kitô cũng đã bước vào nấm mồ, vực sâu của sự chết, để ở đó, Ngài cũng trải nghiệm thế nào là sự dữ, là tội lỗi, là chết đi để từ đó trỗi dậy và bừng lên ánh sáng phục sinh. Như vậy, Thiên Chúa không ở ngoài vực thẳm u tối; Ngài ở trong đó, để biến ‘vực tối’ thành nôi sự sống. “Khi ta dám bước vào bóng tối của mình, ta khám phá ra rằng Thiên Chúa đã ở đó từ trước!” – Henri Nouwen.

Phaolô cho thấy lý do của mầu nhiệm ấy. Đức Kitô “xuất thân từ dòng dõi Đavít xét như người phàm”, nhưng “đã từ cõi chết sống lại” – bài đọc một. Để cứu con người Con Thiên Chúa phải bước xuống ‘vực tối’ của nó. Nếu Ngài chỉ đứng trên cao, nó sẽ không bao giờ được chạm đến Ngài; nhưng một khi Ngài cúi xuống, Ngài biến vực sâu của nó thành cầu thang dẫn về trời, ban cho nó ơn cứu độ vốn không đến từ bên ngoài, mà đến từ bên trong vực tối nhân sinh. “Bóng tối không phải là kết thúc; nó là lòng mẹ sinh ra sự sống mới!” – Richard Rohr. “Chúa đã biểu dương ơn Người cứu độ!” – Thánh Vịnh đáp ca. Đúng vậy, Thiên Chúa không biểu dương ơn Người cứu độ bằng tiếng sấm trên trời, nhưng bằng thập giá trên đất. Ở nơi tưởng chừng Ngài vắng bóng, Ngài lại hiện diện viên mãn hơn bao giờ hết.

Anh Chị em,

“Họ sẽ không được thấy dấu lạ nào, ngoài dấu lạ ông Giôna!”. Nếu Giôna đã gặp Chúa trong bụng cá, nếu Đức Kitô đã tỏ mình trong mồ sâu, thì mọi ‘vực tối’ của chúng ta – tội lỗi, cô đơn, thất bại, sợ hãi – đều có thể trở thành ‘vực gặp gỡ’ Thiên Chúa. “Khi ta dám bước vào bóng tối của mình, ta khám phá ra rằng, Thiên Chúa đã ở đó từ trước!” – Henri Nouwen. Ở đó, Ngài vẫn âm thầm tạo nên ánh sáng như chính Ngài đã làm trong buổi đầu sáng thế. ‘Vực tối’ không kết thúc bằng tuyệt vọng, nếu chúng ta biết phủi bụi và đứng lên. Mỗi lần chúng ta chỗi dậy, mỗi lần bạn và tôi để ánh sáng Chúa chiếu soi, chính là một lần chúng ta bước cao hơn trên con đường phục sinh. ‘Vực tối’ không vắng Chúa, mà chính là nơi Ngài đợi ta!

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, đừng để con sợ vực thẳm đời con; cho con tin rằng, nơi tận cùng yếu đuối và tội lỗi của con, tình yêu Ngài vẫn mạnh mẽ hơn mọi đổ vỡ!”, Amen.

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

************************************************

Lời Chúa Thứ Hai Tuần XXVIII Thường Niên, Năm Lẻ

Thế hệ gian ác này sẽ không được thấy dấu lạ nào, ngoài dấu lạ ông Giô-na.

✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Lu-ca.    Lc 11,29-32

29 Khi ấy, dân chúng tụ họp đông đảo, Đức Giê-su bắt đầu nói : “Thế hệ này là một thế hệ gian ác ; chúng xin dấu lạ. Nhưng chúng sẽ không được thấy dấu lạ nào, ngoài dấu lạ ông Giô-na. 30 Quả thật, ông Giô-na đã là một dấu lạ cho dân thành Ni-ni-vê thế nào, thì Con Người cũng sẽ là một dấu lạ cho thế hệ này như vậy. 31 Trong cuộc Phán Xét, nữ hoàng Phương Nam sẽ đứng lên cùng với những người của thế hệ này và bà sẽ kết án họ, vì xưa bà đã từ tận cùng trái đất đến nghe lời khôn ngoan của vua Sa-lô-môn ; mà đây thì còn hơn vua Sa-lô-môn nữa. 32 Trong cuộc Phán Xét, dân thành Ni-ni-vê sẽ trỗi dậy cùng với thế hệ này và sẽ kết án họ, vì xưa dân ấy đã sám hối khi nghe ông Giô-na rao giảng ; mà đây thì còn hơn ông Giô-na nữa.”


 

LÃNG QUÊN HỒNG ÂN – Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

“Còn chín người kia đâu?”.

Chuyện kể về một bà mẹ quê, 85 tuổi, hiền hậu mà sâu sắc. Một chiều, con trai bà gọi điện thăm; như bao lần, trước khi gác máy, bà không quên nói, “Cám ơn con!”. Ai ngờ, ba tiếng “Cám ơn con” hôm ấy lại là lời cuối bà dành cho đứa con yêu. Từ ngày mẹ mất, người ấy không bao giờ quên nhẩm tên thánh song thân mỗi khi dâng lễ. Công bằng thôi! Một Linh mục đã được mẹ dạy luôn biết nói “cám ơn”, nghĩa là không để mình lãng quên hồng ân!

Kính thưa Anh Chị em,

‘Lãng quên hồng ân’ – cũng là điều Lời Chúa hôm nay cảnh tỉnh chúng ta. Bởi lắm lúc, chúng ta nhìn mọi sự “chúng ta có”, “chúng ta là” như là điều hiển nhiên. Ấy thế, trong cuộc đời, chẳng có gì là hiển nhiên; tất cả là hồng ân!

Người ta thường viết trên cát những ân phúc, còn những xúi quẩy thì khắc vào cẩm thạch! Chúng ta dễ than phiền về những thiếu thốn hơn là tạ ơn vì những gì đã nhận được. Thật xót xa, nhưng đó là thực tế của căn bệnh ‘lãng quên hồng ân’. Đó cũng là căn bệnh của chín người phong cùi trong Tin Mừng. Trước sự vô tình của họ, Chúa Giêsu ngạc nhiên, “Chớ thì không phải cả mười người được lành sạch sao? Còn chín người kia đâu?”. “Chúng ta thường xem là hiển nhiên chính những điều đáng được biết ơn nhất!” – Cynthia Ozick.

Chín người ấy được lành bên ngoài nhưng chưa được chữa lành bên trong. Họ có thể đã trở lại nếp cũ, thói cũ, và thái độ cũ. Họ không rút ra được bài học nào từ những năm tháng đớn đau – và đó mới là căn bệnh thật, bệnh vô ơn! “Ai không học được gì từ đau khổ sẽ bị kết án phải lặp lại nó!” – G. Santayana. Ngược lại, người Samari ngoại giáo, và như tướng Naaman trong bài đọc một, đã quay lại tôn vinh và tạ ơn Thiên Chúa. Họ không chỉ được lành thể xác, mà còn được cứu độ linh hồn.

“Sự vô ơn là bức tường ngăn cách giữa Thiên Chúa và các tạo vật, là đập ngăn chặn suối nguồn với dòng sông” – thánh Bênađô. Và thật vậy, “những lời ca tụng của chúng ta không thêm gì cho Chúa, nhưng đem lại ơn cứu độ cho chúng ta”, vì chúng nuôi dưỡng lòng biết ơn. Càng sống tâm tình tạ ơn, chúng ta càng được Chúa tuôn đổ hồng ân. Và xét cho cùng, vô thần cũng chỉ là một hình thức vô ơn – hậu quả của ‘lãng quên hồng ân!’.

Anh Chị em,

“Còn chín người kia đâu?”. Câu hỏi ấy vẫn vang vọng. Nếu hai tiếng “cám ơn” đã trở nên hiếm hoi trên môi miệng chúng ta, thì đó hẳn là một dấu báo động: sự khô cạn tình Chúa, lạnh lùng tình người. Khi ơn nghĩa bị chối bỏ, tình liên đới trở nên mong manh, và niềm tin chỉ còn là lớp sương mờ bên lề cuộc sống. Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta biết ơn trời, biết ơn người, và đừng để mình ‘lãng quên hồng ân!’. Giữa muôn ân phúc, hành động tạ ơn tuyệt vời nhất là tham dự Thánh Lễ – Hy Tế Tạ Ơn – nơi chúng ta dâng lời cảm tạ Thiên Chúa vì mọi ơn lành, đặc biệt là quà tặng Giêsu, Con Một Ngài, và những gì tuôn chảy từ đó.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, vô ơn là chiếc bóng của vô thần – khép lòng con trước ánh sáng. Xin dạy con luôn biết tạ ơn, và không bao giờ ‘lãng quên hồng ân!’”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế)

***********************************************

LỜI CHÚA CHÚA NHẬT XXVIII THƯỜNG NIÊN, NĂM C

Sao không thấy họ trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại bang này ?

✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Lu-ca.    Lc 17,11-19

11 Trên đường lên Giê-ru-sa-lem, Đức Giê-su đi qua biên giới giữa hai miền Sa-ma-ri và Ga-li-lê. 12 Lúc Người vào một làng kia, thì có mười người phong hủi đón gặp Người. Họ dừng lại đằng xa 13 và kêu lớn tiếng : “Lạy thầy Giê-su, xin dủ lòng thương chúng tôi !” 14 Thấy vậy, Đức Giê-su bảo họ : “Hãy đi trình diện với các tư tế.” Đang khi đi thì họ được sạch. 15 Một người trong bọn, thấy mình được khỏi, liền quay trở lại và lớn tiếng tôn vinh Thiên Chúa. 16 Anh ta sấp mình dưới chân Đức Giê-su mà tạ ơn. Anh ta lại là người Sa-ma-ri. 17 Đức Giê-su mới nói : “Không phải cả mười người đều được sạch sao ? Thế thì chín người kia đâu ? 18 Sao không thấy họ trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại bang này ?” 19 Rồi Người nói với anh ta : “Đứng dậy về đi ! Lòng tin của anh đã cứu chữa anh.”


 

Sự sống vĩnh hằng là gì?- Cha Vuong

Tạ ơn Chúa đã ban cho bạn một ngày mới để đổi mới đời mình trong mối tình không đổi thay của Chúa. Hãy nhớ cầu nguyện cho nhau nhé.

Thư 7: 11/10/2025. t3-22

GIÁO LÝ: Sự sống vĩnh hằng là gì? Sự Sống vĩnh hằng đã khởi đầu khi ta lãnh Bí tích Rửa tội. Nó tiếp tục sau khi chết và nó sẽ vô cùng tận. (YouCat, số 156)

SUY NIỆM: Những người yêu nhau có kinh nghiệm rằng: họ muốn cho chuyện tình của họ không ngừng lại bao giờ. Thiên Chúa là tình yêu, thư thứ nhất của thánh Gioan nói thế (1Ga 4:16). Thư thứ nhất gửi Côrintô nói đức ái không bao giờ mất được (1Cr 13:8). Thiên Chúa thì vĩnh hằng vì Người là tình yêu và tình yêu thì vĩnh hằng bởi vì tình yêu là thần thiêng. Khi ta sống trong tình yêu, là ta đi vào hiện tại vĩnh viễn của Thiên Chúa. Anh em thân mến, một điều duy nhất, xin anh em đừng quên, đối với Chúa, một ngày ví thể ngàn năm, ngàn năm cũng tựa một ngày. (2 Pr 3:8) (YouCat, số 156 t.t.)

❦ Thời gian để tìm Chúa, đó là sống. Thời gian để tìm được Chúa, đó là chết. Thời gian để có được Chúa là đời đời. (Thánh Phanxicô Salêdiô)

LẮNG NGHE: Phúc thay người lắng nghe ta dạy, ngày ngày canh thức trước cửa nhà ta, túc trực ở ngay lối ra vào. Vì gặp được ta là gặp sự sống, và hưởng ân lộc ĐỨC CHÚA ban cho. (Cn 8:34-35)

CẦU NGUYỆN: Lạy Chúa, hạnh phúc tuyệt đối và trường cửu là của Chúa. Xin  cho con biết dành thời giờ Chúa ban để kết hiệp với Chúa qua việc tích cực tham dự các Bí Tích và sống Lời Chúa trong mọi hoàn cảnh của đời con.

THỰC HÀNH: Khi tham dự Thánh Lễ Chúa Nhật, bạn cảm thấy thế nào khi tuyên xưng “Tôi tin hằng sống vậy.”? 

From Do Dzung

************************

Đời Vui Mấy Khi Con Cần Chúa – Thánh Ca Công Giáo 2024