Mở án chân phước cho một linh mục trong vụ đắm tàu Titanic

Mở án chân phước cho một linh mục trong vụ đắm tàu Titanic

http://dongten.net/wp-noidung/uploads/2015/04/titanic-sinking.jpg

LONDON. ANH. Khi con tàu Titanic bắt đầu chìm vào ngày 15.4.1912, cha Toma Byles đã có hai cơ hội để lên tàu cứu nạn. Nhưng cha đã bỏ qua hai cơ hội này để nghe giải tội và an ủi cũng như cầu nguyện với những ai bị mắc kẹt lại. Giờ đây, một linh mục tại giáo xứ cũ của cha ở Anh đang xin mở án phong chân phước cho cha.

Khoảng 1.500 người đã chết khi con tàu Titanic nổi tiếng trong lịch sử đụng phải tảng băng và chìm vào lòng Đại Tây Dương vào năm 1912. Do tin rằng tàu quá vĩ đại đến độ không thể chìm được, người ta đã không trang bị đủ tàu cứu hộ cho tất cả các hành khách trong chuyến hành trình đầu tiên từ Southampton đến New York.

Cha Byles cũng có mặt trên chiếc tàu này để đến New York chủ sự lễ cưới cho em mình. Vị linh mục 42 tuổi này đã chịu chức 10 năm trước đó tại Roma và đang làm việc như một cha xứ tại nhà thờ thánh Helen ở Essex từ năm 1905.

Cô Ahnes McCoy, vị hành khách thuộc khoang hạng ba và là người sống sót trong vụ đắm tàu đã chia sẻ rằng cha Byles đã ở trên tàu, nghe giải tội, cầu nguyện với các hành khách và ban phép lành khi tàu chìm. Cô và nhiều người khác đã làm chứng về điều này.

Helen Mary Mocklare, một hành khác khoang hạng ba khác, cũng nói thêm một vài chi tiết khác về những giờ cuối của vị linh mục: “Khi cú va chạm xảy đến, chúng tôi rớt khỏi giường… Chúng tôi thấy cha Byles trước mặt mình, ngài nâng chúng tôi dậy. Chúng tôi biết ngài vì ngài đã viếng thăm chúng tôi vài lần trên tàu và đã dâng lễ cho chúng tôi mỗi buổi sáng.”

“Hãy bình tĩnh, các con yêu dấu”, ngài nói, và rồi ngài đi đến khoang hạng chót để ban phép xá giải và ban phép lành.

Morklare tiếp tục: “Một vài người chung quanh chúng tôi bị kích động. Nhưng chính cha một lần nữa đưa tay lên và ngay lập tức, họ bình tĩnh lại. Các hành khách đều rất ấn tượng bởi sự tự chủ của cha.”

Bà kể rằng một thủy thủ đã “cảnh báo cha về sự nguy hiểm và xin cha hãy lên tàu cứu hộ.” Dù viên thủy thủ rất nhiệt tình giúp cha, nhưng cả hai lần, cha đều từ chối.

“Cha Byles có thể đã được cứu rồi, nhưng cha không muốn bỏ đi, khi dù chỉ còn một hành khách bị bỏ lại. Viên thủy thủ  xin cha đi nhiều lần, nhưng cha không để ý.

Sau khi chúng tôi đã lên tàu cứu hộ cuối cùng, và từ từ bơi ra xa khỏi con tàu lớn, tôi vẫn còn có thể nghe từ đàng xa tiếng của cha và những lời thưa đáp cầu nguyện.”

Hơn 1 thế kỷ sau, cha Graham Smith, cha xứ của giáo xứ Thánh Helen – giáo xứ mà trước kia cha Byles đã từng phục vụ – đã xin mở án phong chân phước cho cha Byles.

Nói với đài BBC, cha Smith cho biết đã bắt đầu tiến trình phong chân phước cho vị tiền nhiệm của mình, một “con người phi thường, đã trao ban mạng sống của mình cho người khác.”

Cha Smith nói rằng “cộng đoàn địa phương đang hy vọng và cầu nguyện để cha Byles được công nhận như là một trong số các vị thánh.”

Tiến trình phong chân phước trước hết đòi phải có những bằng chứng chứng minh vị ấy có một đời sống nhân đức anh hùng, rồi sau đó là một phép lạ nhờ lời chuyển cầu của ngài.

Khi đã được phong chân phước, cũng sẽ cần phải có một phép lạ khác do lời chuyển cầu của cha Byles để ngài được phong thánh..

“Chúng tôi hy vọng mọi người trên khắp thế giới có thể cầu nguyện với ngài khi gặp thiếu thốn, để nếu có phép lạ xảy ra thì việc phong chân phước và phong thánh cho ngài được diễn ra tốt đẹp.

Pr. Lê Hoàng Nam, SJ

(theo CNA)

MỤC TỬ NHÂN LÀNH

MỤC TỬ NHÂN LÀNH

Dân Do Thái là dân du mục.  Cuộc đời họ gắn liền với đoàn vật và những đồng cỏ.  Nên khi Đức Giêsu đưa ra hình ảnh người mục tử và đoàn chiên, người Do Thái hiểu ngay tức khắc.  Đức Giêsu đã dùng hình ảnh quen thuộc ấy để nói lên mối liên hệ của ta với Người và của Người với ta.  Người là Mục tử nhân lành.  Ta là đoàn chiên của Người.  Người lãnh đạo đoàn chiên không phải bằng uy quyền áp chế, bằng kỷ luật khắc nghiệt, nhưng bằng tình yêu tha thiết.  Tình yêu của Người được biểu lộ qua ba khía cạnh: hiểu biết, quan tâm chăm sóc và hy sinh cho đoàn chiên.

Tình yêu của Đức Giêsu là tình yêu hiểu biết. Sự hiểu biết này không phát xuất từ lý trí, do học hỏi, nhưng phát xuất từ trái tim, do tình yêu.  Khi yêu, trái tim trở nên vô cùng nhậy bén đến độ hiểu được hết những âm thanh của tâm hồn và tai người thường không nghe thấy, nhìn thấy hết những gì ẩn kín trong tâm hồn mà mắt thường không nhìn thấy, cảm nhận được hết những chiều sâu thăm thẳm của tâm hồn mà không một nhà tâm lý học nào có thể cảm được.  Khi Đức Giêsu nói: “Ta biết chiên Ta” có nghĩa là Người hiểu biết từng người trong chúng ta.  Người không chỉ hiểu rõ hoàn cảnh sinh sống của chúng ta, mà còn thấu rõ tâm tư tình cảm của ta.  Người biết những gánh nặng mà ta đang phải gánh.  Người thông cảm với những đau đớn mà ta đang phải chịu.  Người đau những nỗi đau trong tâm hồn ta.  Người khổ những nỗi khổ đang dày vò ta.  Người nhức nhối trong vết thương của tâm hồn ta.

Tình yêu của Đức Giêsu là tình yêu quan tâm chăm sóc. Sự hiểu biết sâu xa đến từ sự quan tâm chăm sóc.  Sự quan tâm chăm sóc cũng phát xuất từ tình yêu.  Có yêu mới quan tâm.  Có quan tâm mới hiểu biết nhu cầu.  Có hiểu biết nhu cầu mới biết đường chăm sóc.  Đức Giêsu yêu thương ta nên Người quan tâm đến ta.  Người biết rõ những nhu cầu của ta.  Người chăm sóc ta.  Có những tình yêu muốn chiếm hữu.  Đó là thứ tình yêu ích kỷ.  Có những chăm sóc khiến ta trở nên ấu trĩ, yếu ớt, không lớn lên được.  Đó là thứ chăm sóc độc đoán ràng buộc.  Đức Giêsu chăm sóc không phải để ràng buộc ta nhưng để giúp ta sống trong tự do.  Người chăm sóc ta không phải để ta trở nên ấu trĩ, nhưng là để giúp ta trưởng thành.  Người chăm sóc ta không phải để ta trở nên yếu ớt nhút nhát, nhưng là để giúp ta mạnh mẽ, tự tin.  Vì thế, Người cung cấp cho ta những lương thực lành mạnh.  Người đưa ta đến những đồng cỏ non, đến những giòng suối trong.  Lương thực Người mang đến, đó là Lời Chúa, là Mình Máu Thánh Chúa, là Thánh ý Chúa Cha.  Những lương thực ấy sẽ cho ta được sống và sống dồi dào.

Tình yêu của Đức Giêsu là tình yêu hy sinh.  Đây chính là dấu chỉ chắc chắn nhất của một tình yêu.  Càng yêu mến nhiều càng sẵn sàng hy sinh nhiều.  Yêu đến sẵn sàng hy sinh mạng sống là một tình yêu cao cả không có gì sánh được. Đức Giêsu đã xác nhận điều ấy khi Người nói: “Không có tình yêu nào lớn lao hơn tình yêu của người dám hy sinh mạng sống mình cho bạn hữu” (Ga 15,13).  Chính Người đã thực hiện điều ấy.  Người là Mục tử nhân lành sẵn sàng liều mạng, một mình chống lại sói dữ để bảo vệ đoàn chiên.  Người đã tự hiến mạng sống vì ta.  Người đã chấp nhận chết đi để ta được sống.

Hạnh phúc cho ta được là đoàn chiên của Người.  Ta được an ủi vì Người hiểu ta.  Ta an tâm vì Người hằng quan tâm chăm sóc ta.  Ta sung sướng vì Người yêu thương đến nỗi chết vì ta.

Người muốn ta chia sẻ hạnh phúc ấy cho mọi người.  Người muốn ta lớn mạnh để đến lượt ta, chính ta trở thành mục tử nhân lành theo gương Người.  Cha mẹ là mục tử của con cái.  Thày cô giáo là mục tử của học sinh.  Giám đốc là mục tử của công nhân.  Y bác sĩ là mục tử của bệnh nhân.  Anh chị lớn là mục tử của các em nhỏ.

Nhưng đặc biệt hơn hết, Người muốn có những người tiếp tục công việc của Người, chăm sóc đời sống tâm linh nhân loại.  Chính vì thế, Giáo Hội dành ngày hôm nay để cầu nguyện cho ơn kêu gọi làm linh mục.  Nhìn tình hình chung trên toàn thế giới, và riêng trong Giáo phận, ta thấy còn thiếu rất nhiều linh mục.  Giáo dân cần linh mục như bệnh nhân cần bác sĩ.  Giáo dân cần linh mục như học sinh cần thầy cô giáo.  Giáo dân cần linh mục như một người bạn sẵn sàng cảm thông, chia sẻ vui buồn trong đời sống và như một người bạn đồng hành giúp đỡ trong cuộc hành trình tiến về đời sau.

Hãy cầu nguyện cho có nhiều thanh niên sẵn sàng hiến thân làm linh mục.  Hãy khuyến khích con cháu dâng mình cho Chúa, làm linh mục để phục vụ anh em.  Nhất là hãy cầu nguyện cho các linh mục được trở nên những mục tử như Đức Giêsu, vị Mục Tử nhân lành, biết yêu thương phục vụ đoàn chiên, hiểu biết tâm tư tình cảm của từng người, quan tâm chăm sóc từng con chiên và sẵn sàng hy sinh bản thân vì lợi ích của đoàn chiên.

Lạy Đức Giêsu, Mục Tử nhân lành, xin hãy ban cho chúng con nhiều mục tử tốt lành theo gương Chúa.  Xin biến chúng con thành những mục tử tốt lành trong gia đình, trong khu phố, trong xã hội.  Amen!

TGM Giuse Ngô Quang Kiệt

CÓ NHỮNG HÌNH ẢNH THẬT DỄ THƯƠNG

CÓ NHỮNG HÌNH ẢNH THẬT DỄ THƯƠNG
(MỤC TỬ VỚI ĐÀN CHIÊN)
Tuyết Mai

Thật phước hạnh thay cho những Giáo Xứ có được vị Mục Tử giống hệt như Thầy Giêsu, hằng ngày dẫn môn để đi khắp làng mạc để Rao Giảng Tin Mừng là Nước Trời của Ngài, đến với người cùng khổ để chia sẻ và an ủi họ.

Hình ảnh tuyệt vời này thời nay hẳn hiếm có thấy nhưng cảm tạ Thiên Chúa Đấng muôn đời luôn yêu thương con người đã ban cho toàn Thế Giới con cái Chúa có được một Đức Giáo Hoàng đương kim là Francisco rất gương mẫu, rất giản dị cuộc sống của ngài và rất chân tình; do đó mà ngài đã chiếm đoạt được hàng triệu triệu con tim từ người có đạo cho đến người vô đạo.

Người có đạo thì vui mừng khôn tả vì Thế Giới của người nghèo luôn là chiếm đa số nên rất cần có được người lãnh đạo có tấm gương sáng nổi bật, như thế con cái nghèo của Chúa luôn được chia sẻ, giúp đỡ và được ủi an.   Giúp cho giáo dân luôn có được Niềm Tin vào Thiên Chúa đấng tối cao vì có phải Đức Giáo Hoàng là một vị Mục Tử, là nhân vật có thật đang ở cùng chúng ta bằng xương bằng thịt? mà hằng ngày giáo dân có thể thấy, nghe ngài giảng dạy và học được những bài học bái ái từ nơi ngài.

Thế Giới ngày càng sa lầy trong tội lỗi rất cần một vị lãnh đạo rất đúng nghĩa với tinh thần sống nghèo, ra khỏi Nhà Thờ đến với người nghèo, làm cho đôi tay chai cứng, khiêm nhường, bác ái, yêu thương.   Quên mình hy sinh để tìm đến chia sẻ cho những kẻ khốn cùng mà với tấm gương tốt lành của Đức Giáo Hoàng Francisco đó đã làm cho bao nhiêu triệu triệu con tim nguội lạnh đã phải quỳ mọp xuống đấm ngực, ăn năn, sám hối, khóc lóc cho tội lỗi của mình và muốn được trở về cùng Chúa.

Nguyện xin ba ngôi Thiên Chúa ban cho giáo dân chúng con trên khắp cùng Thế Giới luôn có được những Mục Tử tốt lành, nhân hậu để đường về Trời không còn là mơ tưởng nhưng là sự thật.   Amen.

** Xin bấm vào mã số để nghe và hát:
https://www.youtube.com/watch?v=YVmuJaPdSrk
(Xin Như Tông Đồ Ngài)

Y Tá của Chúa,
Tuyết Mai
04-21-15
———————————————-
**::* Xin Như Tông Đồ Ngài *::**
*~* Tuyết Mai (22) 10-01-03 *~*

Lạy Chúa! Xin cho con như Tông Đồ Ngài.
Được đến khắp chốn khắp nơi trên địa cầu.
Truyền giảng nước Chúa đến nơi cho mọi nhà.
Đem an bình của Chúa đến muôn nơi.

Lạy Chúa! Xin cho con luôn bên cạnh Ngài.
Từ bỏ tất cả thế gian không nề hà.
Dù phải vất vả sống hy sinh từng ngày.
Chỉ mong được hạnh phúc mãi không lo.

ĐK:
Lạy Chúa! Xin cho con qua cuộc sống này.
Dù đường đi quanh co dẫn về Nước Trời
Lậy Chúa! Đôi khi mây giăng mù lối về.
Chỉ cần có Chúa giúp sức dắt con đi.
Chỉ cần có Chúa giúp sức kéo con về …. nẻo ngay

Lạy Chúa! Xin cho con luôn an phận đời.
Đừng phải dính bén thiết tha trên bạc tiền.
Đừng phải mắc lỗi trước Thiên Nhan của Ngài.
Luôn phụng thờ vì sống có bao lâu.

Lạy Chúa! Xin cho con yêu thương mọi người.
Dù có những lúc phải nghe không thuận lòng.
Dù có những lúc mắt gai nhưng phải đành.
Xem cuộc đời là gió thỏang mây bay.

*** Để cảm tạ, ngợi khen, và tôn vinh Thiên Chúa là Cha chung của tất cả chúng ta, tôi chân thành mời anh chị em hãy dùng những bài hát của tôi đem đến những phương trời xa để làm Sáng Danh Thiên Chúa.

Cảm tưởng của anh chị em Homeless được vào thăm Bảo Tàng Viện Vatican

Cảm tưởng của anh chị em Homeless được vào thăm Bảo Tàng Viện Vatican

Balan cư trú ở cái lườn của con đường chính dẫn vào Quảng Trường Thánh Phêrô (Via della Conciliazione). Ông đã sống 20 năm trên hè phố và đang ở vào tuổi 51. Ông sống ở đây khoảng 7 tháng rồi. Hôm Thứ Năm, 26/3/2015, ông cũng thuộc về 150 khách vô gia cư được mời vào thăm Bảo Tàng Viện Vatican lần đầu tiên, nhất là nhờ đó còn được trực diện với Đức Thánh Cha và bắt tay ngài nữa: “Đó là một kinh nghiệm mà tôi sẽ mang trong mình cho đến ngày cuối đời của tôi… Tôi cảm thấy sung sướng suốt đêm hôm qua”.

Ngày hôm sau, nhóm vô gia cư của ông chẳng làm gì ngoài việc nói chuyện với nhau về ngày đặc biệt hôm qua. Đại diện cho họ là chính ông vì kiến thức của ông về người Ý. Ông cho biết:

“Chúng tôi được trong các nơi Bảo Tàng Viện rất lâu… Những nơi ấy rất ư là đẹp! Sau cùng chúng tôi đến Nguyện Đường Sistine rồi chúng tôi được bảo ngồi xuống. Chúng tôi nghĩ rằng sẽ có Lễ lậy, cầu nguyện gì chứ, một việc gì đó giống như vậy…. Thế nhưng, từ bên trong cánh cửa, vị phát chẩn Don Corrado (Đức Tổng Giám Mục Konrad Krajewski) xuất hiện và bên cạnh vị này là Đức Giáo Hoàng. Trời đất ơi – My goodness!”

“Chúng tôi đã vỗ tay vang lừng. Ngài đã chào chúng tôi; chúng tôi đã cám ơn ngài. Sau đó chúng tôi cùng nhau đọc ‘Kinh Lạy Cha’. Đức Giáo Hoàng thậm chí còn cho chúng tôi được chụp hình với ngài. Do đó có nhiều tấm hình chụp và Đức Don Corrado đã hứa mang lại cho chúng tôi. Thế rồi Đức Giáo Hoàng đã chào từng người chúng tôi. Ngài đã bắt tay tất cả 150 người bạn có biết không? Trời ơi là trời – My goodness…”

Khi được bắt tay Đức Giáo Hoàng, “tôi đã nói cùng ngài rằng: Xin cám ơn Đức Giáo Hoàng. Con chúc Đức Giáo Hoàng rất nhiều điều tốt đẹp, nhất là được mạnh khỏe. Ngài đã mỉm cười và nói ‘cám ơn anh, cám ơn anh…'”

Được mạng điện toán toàn cầu Zenit hỏi “bạn có cảm động hay chăng?”, câu trả lời lập tức được phát biểu rằng “làm sao lại không cảm động chứ. Tôi cũng đã chảy nước mắt ra. Các bạn của tôi cũng khóc, cho dù bấy giờ họ có vẻ khô cằn cứng cỏi… Tôi đã khóc vì tôi biết tôi được may mắn, ở chỗ không phải hết mọi người đều có thể gặp được Đức Giáo Hoàng sát ngay bên, được hôn tay của ngài, được ôm lấy ngài…”

“Tôi liền gửi một lời nhắn cho đứa con trai 23 tuổi của tôi  đang sống và làm việc ở Balan, và tôi nói với cháu rằng: ‘Eric ơi, bố đã được gặp Đức Giáo Hoàng! Bố đã sung sướng khóc … Có ngày bố sẽ gửi cho con các tấm ảnh chụp nhé!”

“Tôi còn rất nhiều điều phải nói, phải nhớ…”. Người đại diện nhóm anh chị em vô gia cư phát ngôn này cho biết ông vẫn còn giữ tấm vé mời thăm Bảo Tàng Viện Vatican ở trong túi: “Tôi muốn giữ nó như là một kỷ niệm…” Thậm chí ông xin lỗi không dám mang nó ra khoe với người phỏng vấn: “Tôi sợ rằng nó bị hư hại”.

“Đức Giáo Hoàng Phanxicô yêu thương chúng tôi. Ngài đang thực hiện nhiều sự cho chúng tôi: nào là phòng tắm, nào là hớt tóc, nào là dù che mưa, nào là thăm bảo tàng viện v.v. Tôi cũng nghe thấy rằng ngài đang muốn có một chiếc xe chuyên chở nhỏ để lo cho những ai cần chăm sóc sức khỏe. Chúng tôi thực sự là sung sướng về hết mọi sự”.

Liên quan đến phòng tắm: “Chúng tôi may mắn có được những phòng tắm này. Hằng ngày chúng tôi được tắm rửa và đi đây đó một cách lịch sự. Chúng tôi không còn cảm thấy xấu hổ bởi người ngợm xông mùi nữa”.

Về vấn đề hớt tóc: “Thật vậy, tôi đã đến hớt tóc Thứ Hai vừa rồi. Giờ đây tôi sẽ đến đó một lần nữa, vì tôi muốn tóc tôi trọc lóc. Chẳng bao lâu nữa sẽ bắt đầu nóng rồi… Thế nên tôi sẽ cạo trọc vì tôi không cần mua lược chải”.

Tất cả những điều ấy “thực sự là những gì quan trọng đối với chúng tôi, chúng đều hữu ích. Đức Giáo Hoàng hiểu được điều ấy. Ngài yêu thương chúng tôi”.

“Mỗi một buổi sáng chúng tôi giục nhau rằng ‘chúng ta hãy cầu nguyện cho Đức Giáo Hoàng Phanxicô. Vào lúc 9 giờ sáng, các nữ tu đến với chúng tôi, đôi khi có cả 1 vị linh mục nữa, và họ giúp chúng tôi cùng nhau cầu nguyện. Chúng tôi bao giờ cũng cầu cho Đức Giáo Hoàng, cho sức khỏe của ngài, vì chúng tôi muốn ngài sống lâu dài. Dù sao chúng tôi cũng cầu cho tất cả mọi vị linh mục cũng như cho dân chúng… cho người tốt lành, những người làm lành cho chúng tôi. Nhiều lắm…”

Xin xem một đoạn video clip về cuộc viếng thăm của 150 anh chị em homeless ở Rôma vào thăm Bảo Tàng Viện Vatican Thứ Năm 26/3/2015: http://www.romereports.com/pg160864-150-homeless-get-exclusive-tour-of-the-sistine-chapel-en

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, tổng hợp

Cảm tưởng Homeless thăm Bảo Tàng Vatican

“Đó là một kinh nghiệm mà tôi sẽ mang trong mình cho đến ngày cuối đời của tôi… Tôi cảm thấy sung sướng suốt đêm hôm qua”.

Trăng đang nằm trên sóng cỏ,

“Trăng đang nằm trên sóng cỏ,”

Cỏ đùa trăng đến bên ao,

Trăng lại đẫm mình xuống nước,

Trăng nước đều lặng nhìn nhau.

Đôi ta bắt chước thì sao?””

(Dẫn từ thơ Hàn Mặc Tử)

Mai Tá lược dịch

Bắt chước thì sao”? Mấy năm về trước, tôi có dịp cũng đi xem nghệ sĩ bi hài thuộc Dòng Tên, là Michael Moynahan trình diễn vở kịch câm mang tựa đề “Bi hài và nỗi thống khổ”, kể về giờ phút cuối của Đức Kitô ở trần thế. Vào kịch, là sự xuất hiện của một anh hề với nụ cười quên tắt trên môi. Anh biểu diễn các màn tung bóng ngay trước mặt khán giả, rất đẹp mắt.

Tiếp đó, là cảnh đám quân binh bước đến, dẫn Đức Kitô ra trình diện bá quan thiên hạ; để rồi, bọn họ đóng đinh Ngài lên cây khổ giá hình chữ thập. Tay hề chứng kiến cảnh tượng đầy kịch tính ấy với nỗi niềm sao xuyến, hãi sợ. Khi thấy Đức Kitô thực sự đã chết, đám quân binh ra về, không đợi gì thêm.

Nhưng, tay hề vẫn nán lại, ngồi bệt xuống dưới chân khổ giá. Anh bắt đầu gỡ bỏ các dấu đinh còn sót nơi tay và chân Chúa. Xong, đặt thi hài Ngài nằm sõng lên đùi anh, hệt như bức la Pietà nổi tiếng của nhà điêu khắc Mi-Kê-Lăng-Gê-lô.

Tay hề xót xa, rơi nước mắt khi phải chứng kiến cái cảnh Đấng Công Chính bị đóng đinh trên khổ giá, hình chữ thập. Cùng lúc ấy, đám quân binh quay lại, thấy tay hề còn ngồi đó thẫn thờ khóc cho thân phận của Đức-Chúa-làm-người. Chúng vực xốc anh dậy, đóng đinh anh lên cây thập tự thay cho Chúa. Tay hề đau đớn, chịu đựng được một lúc, rồi cũng trút hơi cuối cùng trên thập tự bằng gỗ cứng. Sần sùi.

Khi quân binh đi rồi, Đức Chúa trỗi dậy, Ngài trở về với sự sống khác thường. Ngài hướng mắt nhìn tay hề đã cùng chịu cũng một thân phận khổ ải như Ngài, bèn đến gỡ bỏ các đinh khoen đóng xác, đỡ anh xuống. Ôm gọn anh vào lòng, cứ để như thế mãi chốn thiên thu, miên trường.

Xem trình diễn vở kịch câm hôm ấy, tôi thấy như có tiếng thở dài rơi lệ, ở đâu đó nơi người dự khán. Chẳng có ai trong họ, lại cứng lòng đến độ trơ như đá; hoặc, không nhỏ giọt lệ ướt mi, trước bi hài kịch đầy xót thương. Ai oán.

Thật ra, chữ “xót thương” là cụm từ lấy từ tiếng “Compati” của La ngữ, mang ý nghĩa chịu đựng. Khổ ải. Tuyệt nhiên, cụm từ này không mang ý nghĩa thương hại, đồng cảm; hoặc sớt chia nỗi buồn bực, gì hết. Cũng vậy, cụm từ “buồn bã”, “xót xa” bên tiếng Việt lại bao hàm lập trường xa cách.

Đứng ở ngoài. Chẳng có liên hệ mảy may nào dính dự đến kinh nghiệm bản thân; hoặc, những cảm xúc hướng vào bên trong. Cụm từ ‘xót thương’, mang nặng một ‘cảm xúc’ của những người đồng cam đồng chịu, cũng một thân phận. Thân phận, mà Vị Mục Tử Nhân Hiền đã tự gánh lấy cho Ngài. Và, đây cũng là ý nghĩa đích thực của mùa Phục Sinh, rất hôm nay.

Giả như, ta xứng đáng để trở thành những người dám dấn bước, theo chân Đức Kitô, hẳn là ta cũng sẻ san cùng một tâm trạng, ngày Thứ Sáu Chịu nạn. Tuy thế, Chúa Nhật Phục Sinh, nay mang ý nghĩa thật rõ nét. Đó là: Chúa Cha đã trung tín với Con Một Ngài thế nào, thì Ngài cũng một lòng chung thủy đối với ta, hệt như thế.

Những năm tháng gần đây, nhiều vị Giám mục, vẫn được gọi là Mục tử nhân hiền ở giáo hội địa phương. Các ngài cũng bị chĩa mũi dùi, nhìn xoi mói khía cạnh đời sống tu đức của mỗi vị. Việc bị quan tâm/lưu ý như thế, cũng chẳng có gì là lạ. Bởi, tất cả chúng ta, dù ở cương vị nào đi nữa, vẫn đang sống cuộc đời của đạo-hữu chân-chính dõi bước chân mềm, đi theo Chúa.

Theo Chúa, còn có nghĩa là: nhận lãnh trách nhiệm, về những gì mình đã làm, và cả những gì mình không chịu làm. Xét như thế, các mục tử ở giáo hội địa phương, cũng không nằm trường hợp ngọai lệ.

Quả thật, các mục tử nhân hiền ở địa phương đã phải trải qua nhiều thời kỳ cam go, buốt óc. Đàn chiên dân Chúa, nay được huấn luyện theo tiêu chuẩn khá cao. Chẳng ai còn chịu để cho đấng chăn dắt mình, bắt phải rập khuôn, duy trì não trạng của thú đàn, vô tri giác. Không. Ai trong chúng ta cũng muốn biết về vị mục tử chăn dắt mình. Ai cũng muốn nghe tiếng mời gọi thân thương của các vị đang chăn dắt.

Thân thương, là tình thân biểu lộ ra ngoài lòng thương yêu, ta cần có. Biết quan tâm phấn đấu, đòi thực hiện cho bằng được sự chính đáng, công bình đến với các nạn nhân, ở khắp nơi. Đặc biệt hơn, là: nạn nhân đang bị chính Giáo hội mình làm cho thương tật.

Hẳn là, ai cũng muốn cam kết rằng: những gì vị mục tử nhân hiền ở địa phương phán quyết hoặc hành xử, nhất nhất đều phải rập khuôn lời lẽ và cử chỉ hiền hậu của Đức Chúa, tức Vị Mục Tử Nhân Hiền rất đích thực.

Những năm về trước, hẳn chúng ta có cảm giác choáng váng, thất vọng khi thấy một số –cũng may còn rất ít -các vị mục tử ở địa phương lợi dụng danh thơm tiếng tốt của Giáo hội, đã nhân danh quyền lực và vị thế xã hội của Đạo mình, đã lấy đi gương lành đạo đức lẫn nghĩa vụ pháp lý, tài chánh để rồi đã khiến cho thành viên trong đàn chiên bé nhỏ, đang bị thương tổn.

Tin Mừng hôm nay, thánh Gioan nhắc nhớ ta về vai trò và bản chất cần có của các vị lãnh đạo trong Hội thánh Chúa. Đức Giêsu không so sánh các vị lãnh đạo ấy như ông hoàng bà chúa nơi cung điện cao sang, quyền quý hoặc như thống đốc, quan toàn quyền ở tiểu bang. Hình ảnh Chúa đưa ra hôm nay, là: vị mục tử thân thương, nhân hiền.

Mục tử, chính là người chăn dắt rất tận tình, thật dễ thương. Các vị này, dám ngủ lại với đàn chiên nhỏ bé của mình, cả vào chốn đồng hoang trống vắng, rất hiểm nguy. Mục Tử Nhân hiền mà Đức Ktiô ám chỉ, là người biết rất rõ chiên đàn của mình. Rõ đến độ, Ngài dám hy sinh cuộc sống của mình, cho bầy đàn mình chăn dắt.

Tham dự Tiệc thánh hôm nay, ta cầu cho chiên đàn mình có lãnh đạo xứng đáng với lòng ngưỡng mong. Cầu mong sao, các vị lãnh đạo có lòng nhân thân thương trong sáng, biết khơi dậy nơi ta cũng một tình cảm, như các ngài đã ứng xử với chiên đàn bé nhỏ, của mình. Có như thế, các ngài mới đích thực là Mục tử thân thương, nhân hiền.

Có như thế, mới là lãnh đạo “chính chuyên”. Công chính. Biết ân cần phục vụ. Phục vụ, để đàn chiên mình luôn vui sống. Sống an vui, hiền hoà. Ân cần, trước mọi nhu cầu thiết thực của đàn chiên bé nhỏ. Nhất là lúc này, khi bầy lang sói vẫn rình rập, ở đâu đó. Thứ sói lang mang hình thù, mã số rất thời thượng, những Dan Brown, Tom Hanks ở sân khấu-cuộc đời, đầy nhiễu nhương.

Lm Richard Leonard sj –

Mai Tá lược dịch

Ngồi, dưới trăng lắng im nghe lòng ta,

“Ngồi, dưới trăng lắng im nghe lòng ta”,

Thổn thức bao chuyện ngày qua… sầu đau

Hỡi người dấu yêu, sao đành nỡ quên…

Sao đành tình ta vỡ tan, như cánh chim lìa bay?

(Breakfast at Tiffany’s Moon River – Phạm Duy: Dưới Trăng)

(2Cor 13: 5-10)

Trần Ngọc Mười Hai

Thật ra thì, có “ngồi dưới trăng lắng im nghe lòng ta” cách mấy đi chăng nữa, đã chắc gì mình thấy lại được hồn mình đang “thổn thức bao chuyện ngày qua…sầu đau”, đâu chứ!

“Sầu đau” không, vẫn là chuyện của người viết khi ông lại đã hát thêm, rằng:

“Lòng, đắm say những khi ta gần nhau,

Ngồi dưới ánh trăng dịu êm ….cùng mơ.

(Dưới Trăng – bđd)

Ấy đấy, là vấn đề. Sầu đau hay buồn vương, chán chường vẫn là chuyện thời đại, của nhiều người. Những chuyện như thế, nay len lỏi vào tâm tư các vị xưa nay từng sống với quyền-cao-chức-trọng, cũng hệt thế.

Sầu đau hôm nay, có thể là chuyện vẫn xảy đến với nhà Đạo, khi nhiều vị ở đó vẫn quan-tâm đến chuyện phù-phiếm, chóng qua như so-sánh chuyện nổi-danh/nổi-tiếng hoặc nổi cộm được toàn thế-giới hâm-mộ, như hôm rồi nhà báo Úc, viết những giòng như sau:

“Sau 2 năm vẫn ‘trụ’ ở cương vị giáo-chủ cả một đạo, Đức Phanxicô nay đạt tỷ-lệ nổi tiếng/mến-mộ đến 90%, vượt xa Đức Bênêđíchtô 16 và coi là đấng được nhiều người ưu-chuộng nhất hành-tinh.

Đức Phanxicô dự-định ghé thăm thủ-đô Washington, New York và Philadelphia vào tháng 9 năm 2015, nên tin này đã làm người Mỹ tìm cách lập khảo-sát nhằm thu-thập số phiếu bầu ngài là “vị Giáo-hoàng được lòng người Mỹ nhất” lên đến 57% số phiếu bầu.

Theo hãng thăm dò dư-luận Pew Research Centre, thì tiếng-tăm của Đức Phanxicô nay gia-tăng rất nhiều nội hai năm qua. Từ ngày khởi-đầu triều-đại Giáo-hoàng, ngài khởi-phát chỉ mới 58% vào độ tháng 9/2013 nhưng đến năm 2014, tỷ-lệ này lên đến 66% và năm 2015 đạt 70%, ngay ngày đầu. Với người Công-giáo đi lễ đều đặn, thì các vị lại bầu cho Đức Phanxicô một tỷ-lệ đến 95% số phiếu tuyên-dương ngài là chủ chăn được người ưa-chuộng nhiều nhất. Và, trong số các người này, nhiều vị lại hoàn-toàn đồng-ý với ngài, trong mọi chuyện…

Theo nghiên-cứu/khảo-sát do công-ty Pew Research Centre thực-hiện từ ngày 18 đến 22 tháng Hai 2015 trên điện-thoại nhà và di-động đã chuyển đến 1504 người lớn tuổi trên toàn quốc đã nắm được con số trên.” (tin trên The Catholic Weekly 22/3/2015, tr. 15)

Bàn về chuyện người người rất ưa-thích Đức Phanxicô như thế quả quá đúng. Và ở đây, ta cũng không có gì để bàn cãi với tranh-luận. Thế nhưng, nếu cứ theo tin tức và bảng điểm do báo/đài truyền-thông Mỹ loan đi, thì chỉ như thế thôi.

Thế thôi, nghĩa là chỉ mỗi con số và con số nói lên cũng chỉ chút ít thực-tại, trong khi đó sự thật rất thực có thể lại rất khác. Thực-tại đích-thật khác, là ở chỗ: không thấy báo/đài nào chấm điểm hoặc so-sánh tính khiêm-nhu/lành-thánh của ‘đấng bậc’ ở chốn trời-cao-mây-trắng-toát-rất-tít-mù là Giáo hội Công-giáo của mình, hết.

Bởi, có làm thế cũng bằng thừa, vì: vào những tháng ngày gần đây, người đi đạo cũng nghe/biết nhiều về tình-hình phong thánh các đấng bậc lại đã gia-tăng nhiều đến độ có người gọi đó là “Lạm phát chất thánh”…

Gia-tăng như thế, nghĩ cũng phải, vì các ngài tuy chưa quá vãng hoặc đã xa lìa cõi thế-trần này những cũng được người đời gọi bằng danh xưng thật rất thánh quá mức đến nỗi các vị, khi được bầu làm giáo-chủ một đạo, là đạt ngay danh hiệu quí-hiếm: Đức “thánh” Cha, ngay thôi. Thế nghĩa là: các ngài dù chưa hoạt-động gì bao lăm cũng đã là thánh rồi, để rồi khi chết lại cũng trở-thành ‘thánh’, gấp đôi mà thôi.

Thôi thì, có gọi các ngài là Đức “thánh” Cha hay không, cũng đâu là chuyện quan-trọng. Điều quan-trọng với Giáo-hội hôm nay, là: Giáo-hội ta có còn đặt nặng khía-cạnh “quyền-lực” vào vị-thế của các đấng bậc đứng đầu một Giáo-hội hay không, mà thôi!

Bàn việc này, cũng nên tạt qua ý/lời của đấng bậc vi vọng cỡ bậc thầy thần-học ở chốn miền khá thấp nhưng lại là bậc thày của 4 đại học Công giáo ở Hoa-Kỳ đến 40 năm tròn, là Lm Kevin O’Shea CSsR, như sau:

“Bài Thương Khó do thánh Máccô ghi, khi nói Đức Giêsu bị giới quyền cao chức trọng người La Mã hạch-hỏi xem Ngài có đích-thực là Vua-dân-Do-thái, tức là người có quyền chức tương-đương nơi dân Ngài, không. Sở dĩ Philatô hỏi thế, là vì ông bị đám Do thái có quyền-chức là các thượng-tế trong đạo cứ bủa vây, xúi giục ông làm những việc như vậy. Thế nhưng, Đức Giêsu vẫn lặng-thinh không nói lời nào, là bởi như ngôn-từ của Trình-thuật Tin Mừng cho thấy: Ngài không trả lời theo hướng họ đưa ra, vì Ngài không thuộc hệ-thống cầm-quyền như họ.

Đức Giêsu muốn giải-thoát nhân-loại không vì mục-đích đưa nhân-loại ra khỏi chốn “lỗi tội” mà còn đưa ra khỏi mạng-lưới quyền-lực vốn dĩ muốn gài bẫy những người cùng một vai-trò, ở trong đó. Điều này cho thấy: có nhận-thức đích-thực từ ảnh-hưởng của cơ-chế xã-hội trong mọi quyết-định về chính-trị.

Đặc quyền/đặc lợi, là cha đẻ ra quyền-lực, mà quyền-lực lại đẻ ra bức-bách, bức bách đẻ ra sức mạnh. Đương nhiên cùng một lúc, hệ-thống quyền-bính không buộc phải trở-thành một thứ “dê tế-thần” cốt bào-chữa cho các hành-xử của người có vai-trò lãnh-đạo, ở cấp cao. Nhưng, chính họ là người có bổn-phận đứng lên chống lại áp-lực của xã-hội như thế, trước mặt mọi cơ-chế bất công.

Thành-ngữ do thánh Máccô sử-dụng cốt để mai-mỉa/phản-bác lối khuynh-loát, cũng là ngôn-từ để nói rằng: thủ-lãnh cấp cao nơi công-quyền lại cũng là nô-lệ của nhiều thứ. Chương 10 câu 44-45 còn thấy đầy những ngôn-từ chính-trị mang tính hạt-nhân ban đầu, mà tiếng Hy-Lạp gọi là “protos”, vẫn ở cạnh chữ “nô-lệ”, tức “doulos”“diakonen”, tức “phục vụ”. Ngay chữ đầu đã có nghĩa trở-thành “nô-lệ” rồi. Quan-điểm này, thật triệt-để; do cụm từ “doulos” không chỉ nói về giai-tầng thấp ở cơ-cấu quyền-lực mà thôi, nhưng còn diễn-tả như sự trượt-vuột khỏi cơ-cấu nắm quyền và có uy-lực đầy mình. Từ-vựng ấy, cũng không diễn-tả giai-tầng cao xa nhất, hoặc giai-tầng thuộc loại thứ-yếu hoặc chót hết, hiểu theo nghĩa cơ-cấu quyền-lực. Đó, là thứ gì trái-nghịch hẳn. Là mặt trái, tức: thông-điệp đầy mỉa-mai/châm-biếm vốn dĩ nằm bên trong cơ-cấu quyền-lực rồi. Nói cách khác, đây thực sự là những người biến thành nô-lệ cho quyền-lực. Họ cần được giao cho đám thiếu quyền-lực nhất…” (x. Lm Kevin O’Shea, CSsR, Ơn Cứu Chuộc Nơi Ngài chan-chứa, Chương 2 phần 4, nxb Hồng Đức sẽ phát hành vào hạ tuần 4/2015)

Đề-cập đến vấn-đề Giáo-hội và quyền-lực, vẫn luôn là chuyện nóng bỏng, rất khó lòng. Khó, là bởi khi ai đó đã ở bên trong guồng máy có quyền và có lực rồi, thường sẽ có khuynh-hướng hỗ-trợ cả hai bên, tất tần tật. Nói thế, tức diễn tả cách nào đó để bảo rằng: đôi bên đều như nhau và ngang nhau.

Đề-cập chuyện thế-quyền và thần-quyền, là ta đi vào những chuyện nóng bỏng, càn dễ “cháy” hơn nữa. Cháy, cả trong lẫn ngoài. Cháy, từ trên xuống dưới, mà ngôn-ngữ đời thường vẫn bảo đụng vào sẽ “từ chết đến bị thương, thôi.”

Thật ra thì, đề-cập đến sự nổi tiếng khi nắm gọn vai trò chóp bu ở thế-quyền hay thần-quyền cũng đừng quên lời Đấng Thánh-hiền còn đó, vẫn gọi mọi người hãy đọc đi rồi tự xét, như sau:

“Anh em hãy tự xét xem

mình có còn sống trong đức tin hay không.

Hãy tự kiểm điểm.

Anh em chẳng nhận thấy là

có Đức Giêsu Kitô ở trong anh em sao?

Trừ phi anh em đã thua trong cuộc kiểm điểm này.

Tôi hy vọng rằng anh em sẽ nhận thấy

là chúng tôi đây không bị thua.

Chúng tôi cầu xin Thiên Chúa

cho anh em đừng làm điều gì trái,

không phải để tỏ ra chúng tôi thắng,

nhưng để anh em làm điều thiện,

cho dù chúng tôi như bị thua.

Vì chúng tôi không thể làm gì chống lại sự thật,

nhưng chúng tôi chỉ có thể hoạt động cho sự thật.”

(2Cor 13: 5-8)

Nhắc nhớ lời thánh-hiền xưa căn-dặn, hẳn cũng thừa. Thừa hơn nữa, là khi lời nhắn ấy lại gửi đến đấng-bậc vị-vọng trong giáo-hội rất thánh của Đức Chúa. Nhắc nhở đôi điều gửi đến những ai còn có tham-vọng “làm lớn” hoặc nổi-tiếng như cồn ở đâu đó, có lẽ cũng chỉ nên nhắc và nhở bằng truyện kể hoặc tin tức…mình, ở đời thôi.

Nhưng trước khi cứu xét những sự việc như thế, tưởng cũng nên trở về với lời ca mà người nghệ-sĩ ở nhà từng dịch ra lời Việt và hát thêm, rằng:

“Ngồi dưới trăng lắng im nghe lòng ta

Thổn thức bao chuyện ngày qua… sầu đau

Hỡi người dấu yêu, sao đành nỡ quên…

Sao đành tình ta vỡ tan như cánh chim lìa bay?

Lòng đắm say những khi ta gần nhau,

Ngồi dưới ánh trăng dịu êm cùng mơ…

Con thuyền trôi về đâu dưới trăng vàng?

Cớ sao một mình ta ngồi dưới ánh trăng lẻ loi,

buồn vấn vương… chán chường…”

(Dưới Trăng – bđd)

“Buồn vấn-vương, chán-chường” có là tâm-trạng của người đời ở đời, sau khi đứng ‘trụ’ chốn cao trong phong-trào nào đó, tức ‘tiếng tăm’ của mình đã nổi đình/nổi đám suốt một thời, nhiều năm tháng như cặp đôi “đồng tính” ở địa-hạt thời-trang, nay có vấn-đề như sau:

“Chuyện đạo-đức trong sinh-hóa tuần vừa qua, lại xảy đến từ sàn diễn thời-trang ở Milan, nuớc Ý cho tới buổi phỏng-vấn tập-san Panorama ở đây nói về cặp bài trùng tạo mẫu thời trang là Stefano Gabbana và Domenico Dolce đã đả-kích hôn-nhân đồng tính luyến ái, thụ thai ống-nghiệm IVF và chuyện thay mẹ đẻ để sinh-sôi nảy nở…

Dolce và Gabbana từng chung sống như cặp tình nhân đồng-tính đến 20 năm, nhưng đã chia tay cách nhẹ nhàng vào năm 2005, dù đạt thành-công như người chung-phần đối-tác trong thương-vụ. Khi được hỏi, quý vị có muốn làm cha theo cung-cách nào đó không, thì Dolce trả lời ngay rằng:

“Tôi là người đồng-tính luyến-ái, nên không thể có con được… chúng ta sinh ra có cha có mẹ, hoặc ít ra là như thế, còn các trẻ không có cha có mẹ theo nghĩa tự-nhiên như thế, thì tôi gọi là “trẻ con sinh tự phòng dược, hoặc trẻ chế-biến tổng-hợp, sinh từ buồng trứng thuê mướn, do chọn tinh-trùng từ danh-mục hàng-hoá…”

Không những thế, nhà tạo mẫu Domenico Dolce, 57 tuổi lâu nay tự nhận là người Công-giáo vẫn còn đi nhà thờ khá đều-đặn, lại nói:

“Không thể tính chuyện sinh con theo cách thuê mướn tử-cung hoặc dùng hoá-chất mà tạo thành được. Cuộc sống, là giòng chảy tự-nhiên có những điều trong đời, ta không được phép thay đổi nó, mới đúng. Nếu quý vị sinh ra từ cung lòng người mẹ và do tinh-trùng của người cha đích-thực hoặc ít ra phải như thế. Làm khác đi, thì đó chỉ là đứa con từ phòng dược, tức trẻ được chế-biến theo cách tơ sợi tổng-hợp, thuê mướn tử-cung của ai khác, hoặc tinh-trùng được chọn từ tập danh-mục thương-mại, mà thôi.”

Trong khi đó Stefano Gabbana lại bảo:

“Gia đình không là ‘mốt’ thời-trang. Gia-đình phải có nghĩa siêu-nhiên gần gũi thân-thương của người nhà…” Vào lúc đó, Dolce lại đã thêm ý của Gabbana: “Đồng-công kiến-tạo là động-thái của tình yêu. Ngay các chuyên-gia tâm-thần cũng đang phải đối đầu với ảnh-hưởng của cuộc thực-nghiệm do mình tạo ra, nữa.”

Chuyện xảy ra là, khi nghe biết câu chuyện như thế, thì thần-tượng đồng-tính luyến-ái người Anh là ngài Elton John, tức cha của hai đứa trẻ sinh từ bà-mẹ-thuê-mướn thay cho mẹ ruột đã phản-ứng một cách rất nóng-giận và bảo rằng: sao các anh lại dám qui về các đứa con thân-yêu tuyệt-vời của tôi, rồi đặt tên cho chúng là trẻ bé sinh từ tơ sợi tổng-hợp? Các anh thật đáng xấu hổ chỉ biết chĩa tay vào ống nghiệm IVF thôi. Tư-duy của các anh nay lỗi thời rồi, hệt như thời-trang do các anh tạo ra nay không còn ăn khách nữa. Từ nay, tôi sẽ không thèm mua đồ Dolce & Gabbana tạo mẫu về mặc đâu..” (X. Michael Cook, Dolce & Gabbana spark internet frenzy over IVF, BioEdge 21/3/2015)

Xem thế thì, chuyện nổi đình/nổi đám đầy tiếng tăm suốt nhiều năm, đã trở-thành vấn-đề với nhiều người, những hỏi rằng: được thế đến bao lâu. Nổi cồn như thế, có làm cho bản-thân người nổi tiếng thêm được chút hạnh phúc nào không? Hoặc, có giúp người nổi tiếng trở-thành lành/thánh lâu năm không?

Trả lời câu hỏi gay-go/hiểm hóc này, thật cũng khó. Khó, là bởi những người như bạn và tôi, có lẻ ta chưa bao giờ được thế. Nên, thay vì trả lời cho đích-đáng, có lẽ cũng nên đi vào vùng trời truyện kể, để xem: có thể may ra cũng có trường hợp tương-tự.

Quyết thế rồi, nay mời bạn và mời tôi, ta đọc thử truyện kể sau đây, rồi sẽ thấy:

“Truyện rằng:

Ngày xưa, có một họa sĩ tên là Ranga, một người siêu việt, vẽ được rất nhiều kiệt tác đáng ghi nhớ khiến ai cũng dều khen ngợi.

Ông mở một lớp học mỹ thuật để dạy nghề cho mọi người và cũng để tìm đệ tử nối nghiệp. Ông không mấy khi khen ngợi ai, cũng không bao giờ đề cập đến thời gian của khóa hoặc. Ông nói, một học trò chỉ có thể thành công khi ông hài lòng với kỹ năng và hiểu biết của người đó. Ông truyền cho học trò những phương pháp đánh giá, ước định của ông, và chúng cũng độc đáo như những tác phẩm của ông vậy. Ông không bao giờ thổi phồng tầm quan trọng của những bức tranh hay sự nổi tiếng, mà ông luôn nhấn mạnh đến cách xử sự, thái độ với cuộc sống của học trò.

Trong một số lượng lớn học trò, Rajeev là một người có tài nhất, chăm chỉ, sáng tạo,nên anh ta tiếp thu nhanh hơn nhiều so với các bạn đồng môn. Ông Ranga rất hài lòng về Rajeev.

Một ngày kia, sau bao nhiêu cố gắng, Rajeev được ông Ranga gọi đến và bảo:
-Ta rất tự hào về những tiến bộ mà con đã đạt được. Bây giờ là thời điểm con làm bài thi cuối cùng trước khi ta công nhận con thực sự là một họa sĩ tài năng. Ta muốn con vẽ một bức tranh mà ai cũng phải thấy đẹp, phải khen ngợi.

Rajeev làm việc ngày đêm, trong rất nhiều ngày và đem đến trình thầy Ranga một bức tranh tuyệt diệu. Thầy Ranga xem qua rồi bảo:

-Con hãy đem bức tranh này ra đặt ở quảng trường chính, để tất cả mọi người có thể chiêm ngưỡng.

Hãy viết bên dưới bức tranh là tác giả sẽ rất biết ơn nếu bất kỳ ai có thể chỉ ra bất kỳ sơ suất nào trên bức tranh và đánh một dấu X vào chỗ lỗi đó. Rajeev làm theo lời thầy: đặt bức tranh ở quảng trường lớn với một thông điệp đề nghị mọi người chỉ ra những sơ suất.

Sau hai ngày, Ranga đề nghị Rajeev lấy bức tranh về. Rajeev rất thất vọng khi bức tranh của mình đầy dấu X. Nhưng Ranga tỏ ra bình tĩnh và khuyên Rajeev đừng thất vọng, cố gắng lần nữa. Rajeev vẽ một kiệt tác khác, nhưng thầy Ranga bảo phải thay đổi thông điệp dưới bức tranh. Thầy Ranga nói phải để màu vẽ và bút ngay cạnh bức tranh ở quảng trường và đề nghị mọi người tìm những chỗ sai trong bức tranh và sửa chúng lại bằng những dụng cụ để vẽ ấy.

Hai ngày sau, khi lấy tranh về, Rajeev rất vui mừng khi thấy bức tranh không bị sửa gì hết và tự tin đem đến chỗ Ranga. Ranga nói:

-Con đã thành công vào ngày hôm nay. Bởi vì nếu chỉ thành thạo về mỹ thuật thôi thì chưa đủ, mà con còn phải biết rằng con người bao giờ cũng đánh giá bừa bãi ngay khi có cơ hội đầu tiên, cho dù họ chẳng biết gì về điều đó cả. Nếu con luôn để cả thế giới đánh giá mình, con sẽ luôn thất vọng. Con người thích đánh giá người khác mà không nghĩ đến trách-nhiệm hay nghiêm-túc gì cả. Mọi người đánh những dấu X lên bức tranh đầu tiên của con vì họ không có trách nhiệm gì mà lại cho đó là việc không cần động não. Nhưng khi con đề nghị họ sửa những sơ suất thì không ai làm nữa, vì họ sợ bộc lộ hiểu biết – những thứ mà họ có thể không có. Nên họ quyết định tránh đi là hơn. Cho nên, những thứ mà con phải vất vả để làm ra được, đừng dễ dàng bị ảnh hưởng bởi đánh giá của người khác. Hãy tự đánh giá mình. Và tất nhiên, cũng đừng bao giờ đánh giá người khác quá dễ dàng.” (truyện kể do St sưu-tầm gửi lên mạng)

Kể thế rồi, nay mời tôi và mời bạn, ta cứ đi vào giòng chảy những nghĩ suy để rồi tự mình rút ra bài học để đời cho mình, cho người, và cả đấng bậc trên cũng như dưới, rất Nước Trời.

Trần Ngọc Mười Hai

Và những ngày

Nhiều nghĩ suy

Về những tiếng tăm

nổi cộm một thời

rồi cũng xẹp

trong âm-thầm.

BÌNH AN CHO CÁC CON

BÌNH AN CHO CÁC CON

Trên những chuyến xe khách, xe buýt, các bến xe… người ta thường thấy những hàng chữ “chúc quý khách thượng lộ bình an.”  Người tài xế Công giáo treo hình Đức Mẹ trên xe có kèm theo hàng chữ “Nữ Vương ban sự bình an.”  Người tài xế Phật giáo treo hình Đức Phật, dù có hay không có hàng chữ nào, trong lòng họ vẫn cầu mong Đức Phật ban bình an.

Theo Hán tự, chữ “bình” có nghĩa là bằng phẳng, đều hòa, hòa hợp, thoải mái, chữ “an”, theo cách viết là “người nữ ở trong nhà”, có nghĩa là được bảo vệ, an toàn.  Như vậy, bình an nói lên trạng thái tâm hồn, trạng thái nội tâm thư thái, an hòa, vui tươi, bình thản, vững chắc.  Do đó, bình an khác với hòa bình.  Hòa bình nói lên trạng thái bên ngoài: không còn cạnh tranh, không còn chinh chiến, xô xát, súng đạn, gươm đao.  Cho nên có khi có hòa bình nhưng không có bình an.  Nhân loại thì khao khát hòa bình, còn mỗi người thì khao khát bình an.

Chúa Giêsu sống lại từ ngày thứ nhất trong tuần đã hiện ra với các môn đệ và ban bình an cho các ông.  Lời đầu tiên của Chúa Phục Sinh là: “ Bình an cho anh em” (Ga 20,19-21).  Bình an là hồng ân của Chúa Phục Sinh ban cho các môn đệ (Ga 20, 26; Lc 24, 36).

Các sách Tin Mừng và Công vụ Tông đồ thuật lại: mỗi lần Chúa Giêsu hiện đến đều thấy các môn đệ hội họp trong nhà, cửa đóng then cài vì sợ người Do thái.  Khi Chúa hiện diện, sự sợ hãi của các môn đệ tan biến và các ông có được niềm vui, bình an, can đảm.

“Thầy ban bình an của Thầy cho anh em… anh em đừng xao xuyến, đừng sợ hãi” (Ga14, 27). Có một sự khác biệt cơ bản giữa bình an “thế gian ban tặng” và “bình an Đức Giêsu ban tặng.”

1. Bình an Chúa Giêsu là bình an trong tâm hồn

Chúa Giêsu Phục sinh là niềm vui lớn lao nhất của các Tông Đồ và của các phụ nữ đạo đức.  Niềm vui nhân lên gấp bội khi Chúa trao quà tặng Bình an.

“Bình an cho các con.”  Khi tâm hồn của các Tông Đồ hoang mang lo lắng buồn vui lẫn lộn về sự việc Chúa chết và sống lại, thì lời chúc lành của Chúa Giêsu rất đúng lúc để củng cố đức tin và đem lại an bình cho tâm hồn của các ông.

“Bình an cho các con.”  Sự bình an này không giống bình an của người đời ban tặng.  Sự bình an của người đời là tạm bợ và sẽ không tồn tại, bởi vì người đời chỉ dựa vào của cải vật chất để trấn an tâm hồn đầy bất an.  Người ta chúc nhau được bình an, nhưng không ai tìm được bình an trong cuộc sống.  Người giàu có thì cảm thấy bất an khi đêm về vì sợ kẻ trộm.  Người có địa vị thì sợ kẻ khác chiếm đoạt, lật đổ.  Người mạnh khoẻ thì sợ đau ốm.v.v… tất cả đều ở trong trạng thái mất bình an.

Có câu chuyện kể rằng: trong triều của một vua nọ có hai họa sĩ rất tài ba nhưng luôn ganh ghét đố kỵ nhau.  Một hôm nhà vua phán: “Ta muốn phán quyết một lần dứt khoát ai trong hai ngươi là người giỏi nhất.  Vậy hai ngươi hãy vẽ mỗi người một bức tranh theo cùng một đề tài, đó là bình an.”

Hai họa sĩ đồng ý.  Một tuần sau họ trở lại, mỗi người mang theo bức vẽ của mình.  Bức họa của người thứ nhất vẽ một khung cảnh thơ mộng: những ngọn đồi nhấp nhô bao quanh một cái hồ rộng với mặt nước phẳng lì không một gợn sóng.  Toàn cảnh gợi lên một cảm giác thanh thản, thoải mái.  Sau khi xem xong, nhà vua nói: “Bức họa này rất đẹp, nhưng trẫm chưa hài lòng.”  Bức họa của người thứ hai vẽ một thác nước.  Hình ảnh rất sinh động đến nỗi nhìn nó người ta như nghe được tiếng nước đổ ầm ầm xuống vực thẳm.  Nhà vua nói: “Đây đâu phải là một cảnh bình an.”  Họa sĩ thứ hai bình tĩnh đáp: “Xin bệ hạ nhìn kỹ hơn một chút nữa xem.”  Nhà vua nhìn kỹ và khám phá một chi tiết mà ông chưa chú ý: Trong một nhành cây nép mình sau dòng thác lũ, có một tổ chim. Trong tổ, chim mẹ đang ấp trứng, đôi mắt nửa nhắm nửa mở.  Chim mẹ đang bình thản chờ các con mình nở ra.  Nhà vua nói: “Ta rất thích bức tranh này.  Nó đã chuyển tải được một ý tưởng độc đáo về bình an, đó là vẫn có thể sống bình an ngay giữa những xáo trộn của cuộc đời.”  Và nhà vua đã trao giải nhất cho tác giả bức họa này.

Bình an không phải giống như yên ổn, vì yên ổn là ở bên ngoài còn bình an thì ở bên trong.

Bình an là tình trạng của một tâm hồn đang có tương quan tốt với Thiên Chúa và với tha nhân.  Thành tố quan trọng của bình an là sự công chính.  Bởi thế, không có bình an cho kẻ dữ.

Bình an là kết quả của lòng trông cậy vào Chúa và khi ước muốn làm đẹp lòng Chúa là điều quan trọng bậc nhất trong đời.  Đây là điều mà ta có thể có ngay giữa những xáo trộn, xung đột và những vấn đề rắc rối chưa giải quyết được.

Chỉ có Bình An của Chúa mới làm cho chúng ta được hạnh phúc.  Bởi vì bình an là thông hiệp với Thiên Chúa.  Chúa Giêsu đang hiệp thông mật thiết với Thiên Chúa nên Ngài vẫn có thể nói về bình an ngay cả khi kẻ thù của Ngài đã đến gần và sắp giết chết Ngài.

“Bình an cho các con.”  Thế giới như đang sống trên một lò lửa.  Chiến tranh, khủng bố, thiên tai, động đất…  Thế gian chưa có bình an.  Cho nên sự Bình An của Chúa Giêsu vẫn luôn có giá trị đích thực cho nhân loại, cho những tâm hồn khắc khoải tìm kiếm bình an trong cuộc sống.

2. Hoa quả của Bình An

Có nhân thì có quả.  Có tranh chấp thì sinh ra hận thù, có ghét ghen thì sinh ra mưu mô thủ đoạn. Đó chính là chuyện nhân quả mà hằng ngày chúng ta đều thấy và biết.  Việc lành cũng như việc xấu, mọi thứ đều có nhân quả của nó.

Hoa quả của Bình An là: yêu thương, tha thứ,  bao dung,  quảng đại,  khiêm tốn,  nhẫn nại, nhịn nhục…

Khi trong tâm hồn có sự bình an của Chúa Giêsu Phục Sinh, thì chúng ta biết thông cảm với người làm ta bực mình, dễ dàng cảm thông với những người không yêu mến, sẽ khiêm tốn hơn trong lời nói trong cử chỉ thái độ của mình…  Hoa quả của bình an chính là tình yêu của Chúa Kitô thúc bách chúng ta làm việc thiện, thúc bách chúng ta vì anh em mà phục vụ như Chúa Kitô đã phục vụ, như các thánh Tông Đồ đã phục vụ Giáo Hội.

Hoa quả bình an thể hiện bằng tiếng cười, niềm vui, hạnh phúc trong gia đình, an hòa thư thái trong tâm hồn.

Hoa quả bình an cũng chính là sự thật.  Ta cảm thấy bình an khi mình sống ngay thẳng, sống theo sự thật.

Con người ta ai cũng muốn có bình an trong tâm hồn, nên luôn cầu chúc cho nhau được bình an.  Nhưng sẽ không có bình an thật, nếu tâm hồn không có tinh thần Phục Sinh của Chúa Kitô, tinh thần đổi mới con người cũ trở nên con người mới sống theo hướng dẫn của Thánh Thần.

Con người ta ai cũng cần sự bình an, có khi còn cần hơn cả cơm ăn áo mặc nữa.  Chúa luôn muốn ban bình an cho chúng ta.  Giáo hội cũng mong muốn như vậy.  Cho nên mỗi khi tham dự thánh lễ, linh mục thay mặt Chúa và Giáo hội cầu chúc: “Bình an của Chúa ở cùng anh chị em,” rồi linh mục nói với chúng ta: “Anh chị em hãy chúc bình an cho nhau.”  Có bình an của Chúa ở nơi mình, chúng ta mới có bình an để chia sẻ cho nhau.

Bình an là một hồng ân Chúa ban và cũng là một trách nhiệm.  Không phải chúng ta chỉ cầu khẩn và tìm kiếm bình an cho mình mà còn phải là “khí cụ bình an của Chúa,” góp phần tạo nên bình an cho mọi người và cho toàn xã hội.

Ước gì cuộc đời của tôi của bạn, trong mọi nơi mọi lúc, nhất là lúc cam go sợ hãi thử thách luôn nghe được lời chúc bình an của Chúa Phục Sinh: Bình an cho anh em.

Lm Giuse Nguyễn Hữu An

Tìm hiểu gốc tích Tháng Hoa Đức Mẹ

Tìm hiểu gốc tích Tháng Hoa Đức Mẹ

Là người Công giáo Việt Nam, nhất là những người đã lớn lên trong một xứ đạo miền Bắc, Trung hoặc Nam, có lẽ họ không lạ gì sinh hoạt tôn giáo trong tháng Năm, tháng Hoa Đức Mẹ. Khi ngàn hoa xanh, đỏ, trắng, tím, vàng nở rộ trong cánh đồng, thì con cái Mẹ cũng chuẩn bị cho những đội dâng hoa, những cuộc rước kiệu, để tôn vinh Mẹ trên trời. Những điệu ca quen thuộc trìu mến bỗng nổi dậy trong tâm hồn cách thân thương, nhất là bài “Đây Tháng Hoa” của nhạc sĩ Duy Tân với điệu 2/4 nhịp nhàng:

“Đây tháng hoa, chúng con trung thành thật thà. Dâng tiến hoa lòng mến dâng lời cung chúc. Hương sắc bay toả ngát nhan Mẹ diễm phúc. Muôn tháng qua lòng mến yêu Mẹ không nhoà.”

– Đây muôn hoa đẹp còn tươi thắm xinh vô ngần. Đây muôn tâm hồn bay theo lời ca tiến dâng. Ôi Maria, Mẹ tung xuống muôn hoa trời. Để đời chúng con đẹp vui, nhớ quê xa vời.

– Muôn dân trên trần mừng vui đón tháng hoa về. Vang ca tưng bừng ngợi khen tạ ơn khắp nơi. Ánh hồng sắc hương càng tô thắm xinh nhan Mẹ. Sóng nhạc reo vang tràn lan đến muôn muôn đời”.

Nếu có ai tự hỏi: Tháng Hoa có từ đời nào? Do ai khởi xướng? thì câu trả lời cũng không khó khăn gì.

Gốc tích như thế này:

Vào những thế kỷ đầu, hàng năm, khi tháng Năm về, người Rôma tôn kính sự thức giấc sau mùa đông dài của thiên nhiên bằng những cuộc tổ chức gọi là những ngày lễ tôn kính Hoa là Nữ thần mùa Xuân.

Các tín hữu Công giáo trong các xứ đạo đã thánh hóa tập tục trên. Họ tổ chức những cuộc rước kiệu hoa và cầu nguyện cho mùa màng phong phú.

Có nơi người ta tổ chức các cuộc “Rước xanh”. Người ta đi cắt các cành cây xanh tươi đang nở hoa, đưa về trang hoàng trong các nhà thờ và đặc biệt các bàn thờ dâng kính Đức Mẹ. Các thi sĩ cũng như các thánh đua nhau sáng tác những bài hát, bài giảng ca tụng những ngày lễ đó cũng như ca tụng Đức Mẹ.

Đến thế kỷ 14, linh mục Henri Suzo dòng Đaminh, vào ngày đầu tháng 5, đã dâng lên Đức Mẹ những việc tôn kính đặc biệt và lấy hoa trang hoàng tượng Đức Mẹ.

Thánh Philipe đệ Nêri, cũng vào ngày 1 tháng 5, thích tập họp các trẻ em lại chung quanh bàn thờ Đức Mẹ, để cùng các bông hoa mùa xuân, Ngài dâng cho Đức Mẹ các nhân đức còn ẩn náu trong tâm hồn non trẻ của chúng.

Đầu thế kỷ 17, tại Napoli, nước Ý, trong thánh đường kính thánh Clara của các nữ tu Dòng Phanxicô, tháng Đức Mẹ được cử hành công cộng: Mỗi chiều đều có hát kính Đức Mẹ, ban phép lành Mình Thánh. Từ ngày đó, tháng Đức Mẹ nhanh chóng lan rộng khắp các xứ đạo.

Năm 1654, cha Nadasi, dòng Tên, xuất bản tập sách nhỏ khuyên mời giáo hữu dành riêng mỗi năm một tháng để tôn kính Đức Mẹ Chúa Trời.

Đầu thế kỷ 19, hết mọi xứ trong Giáo hội đều long trọng kính tháng Đức Mẹ. Các nhà thờ chính có linh mục giảng thuyết, và gần như lấy thời gian sau mùa chay là thời gian chính thức để tôn kính Đức Mẹ. Trong việc này linh mục Chardon đã có nhiều công. Không những ngài làm cho lòng sốt sắng trong tháng Đức Mẹ được phổ biến trong nước Pháp mà còn ở mọi nước Công giáo khác nữa.

– Đức Giáo hoàng Piô 12, trong Thông điệp “Đấng Trung gian Thiên Chúa”, cho “việc tôn kính Đức Mẹ trong tháng Năm là việc đạo đức được thêm vào nghi thức Phụng vụ, được Giáo hội công nhận và cổ võ”.

– Đức giáo hoàng Phaolô 6, trong Thông điệp Tháng Năm, số 1 viết:

“Tháng Năm là Tháng mà lòng đạo đức của giáo dân đã kính dâng cách riêng cho Đức Mẹ. Đó là dịp để ” bày tỏ niềm tin và lòng kính mến mà người Công giáo khắp nơi trên thế giới có đối với Đức Mẹ Nữ Vương Thiên đàng.

Trong tháng này, các Kitô hữu, cả ở trong thánh đường cũng như nơi tư gia, dâng lên Mẹ từ các tấm lòng của họ những lời cầu nguyện và tôn kính sốt sắng và mến yêu cách đặc biệt. Trong tháng này, những ơn phúc của Thiên Chúa nhân từ cũng đổ tràn trên chúng ta từ ngai toà rất dồi dào của Đức Mẹ” (Dictionary of Mary, Catholic book Pub. 1985, p. 236)

Một câu truyện cũ đáng ta suy nghĩ:

Ở thành Nancêniô trong nước Pháp, có một gia đình trung lưu. Vợ đạo đức, chồng hiền lành nhưng khô khan. Vợ luôn cầu xin Chúa mở lòng cho chồng sửa mình , nhưng chồng cứng lòng mãi.

Năm ấy đầu tháng Hoa Đức Mẹ, bà sửa sang bàn thờ để mẹ con làm việc tháng Đức Mẹ. Chồng bà bận việc làm ăn, ít khi ở nhà, và dù ông ở nhà cũng không bao giờ cầu nguyện chung với mẹ con. Ngày lễ nghỉ không bận việc làm thì cũng đi chơi cả ngày, nhưng ông có điều tốt là khi về nhà, bao giờ cũng kiếm mấy bông hoa dâng Đức Mẹ.

Ngày 15 tháng Sáu năm ấy, ông chết bất thình lình, không kịp gặp linh mục. Bà vợ thấy chồng chết không kịp lãnh các phép đạo, bà buồn lắm, nên sinh bệnh nặng, phải đi điều trị ở nơi xa. Khi qua làng Ars, bà vào nhà xứ trình bày tâm sự cùng cha xứ là cha Gioan Vianey.

Cha Vianey là người đạo đức nổi tiếng, được mọi người tặng là vị thánh sống. Bà vừa tới nơi chưa kịp nói điều gì, cha Gioan liền bảo:

– Đừng lo cho linh hồn chồng bà. Chắc bà còn nhớ những bông hoa ông vẫn đem về cho mẹ con bà dâng cho Đức Mẹ trong tháng Hoa vừa rồi chứ?

Nghe cha nói, bà hết sức kinh ngạc, vì bà chưa hề nói với ai về những bông hoa ấy, nếu Chúa không soi cho cha, lẽ nào người biết được?

– Cha sở nói thêm: Nhờ lời bà cầu nguyện và những việc lành ông ấy đã làm để tôn kính Đức Mẹ, Chúa đã thương cho ông ấy được ăn năn tội cách trọn trong giờ chết. Ông ấy đã thoát khỏi hỏa ngục, nhưng còn bị giam trong luyện ngục, xin bà dâng lễ, cầu nguyện, làm việc lành thêm cầu cho ông chóng ra khỏi nơi đền tội nóng nảy mà lên Thiên đàng.

Nghe xong lời cha Gioan, bà hết sức vui mừng tạ ơn Đức Mẹ.(Sách Tháng Đức Bà, Hiện Tại xuất bản, 1969, trang 10).

Nếu chỉ vì mấy bông hoa mọn dâng kính Đức Mẹ cũng được Đức Mẹ ban ơn cứu rỗi lớn lao như vậy, thử hỏi, những ai trong tháng Năm này tham dự dâng Hoa, rước kiệu, đọc kinh Mân côi, hơn nữa, họ dâng lên Mẹ những hoa tin, cậy, mến, hi sinh, đau khổ, bệnh nạn…chắc sẽ còn được Đức Mẹ ban muôn ơn trọng hơn nữa? vì Mẹ thích những bông hoa Xanh của lòng Cậy, hoa Đỏ của Lòng mến, hoa Trắng của lòng trong sạch, hoa Tím của hãm mình, hoa vàng của niềm tin, hoa Hồng của kinh Kính mừng lắm lắm.

Thánh Anphongsô Ligori quả quyết rằng: “Nếu tôi thật lòng yêu mến Mẹ, thì tôi chắc chắn được lên thiên đàng”.

Thánh Bênado diễn tả văn vẻ hơn:

“Được Mẹ dẫn dắt, bạn sẽ không ngã. Được Mẹ che chở, bạn sẽ không sợ. Được Mẹ hướng dẫn, bạn sẽ an lòng. Được Mẹ ban ơn, bạn sẽ đạt đích mong chờ”.

(Lm. ĐoànQuang, CMC NS.TTDM tháng 5-08 trg 4)

CÁCH HIỆN DIỆN CỦA ĐẤNG PHỤC SINH

CÁCH HIỆN DIỆN CỦA ĐẤNG PHỤC SINH

GM Vũ Duy Thống

Một trong những địa danh được nhắc đến nhiều nhất vào Mùa Phục Sinh, đó là ngôi làng Emmaus.  Mặc kệ các nhà khảo cổ với những công trình tìm kiếm xem ngôi làng đó nằm ở đâu trên thực tế địa lý.  Mặc kệ các nhà chú giải với những phân tích chi li xem địa danh Emmaus hợp bởi chữ gì và có nghĩa gì.  Mặc kệ các nhà hội họa với những cảm hứng khơi nguồn đã khéo tô điểm Emmaus nên một kiệt tác như bức họa nổi tiếng của Rembrandt.  Mặc kệ tất cả.  Người tín hữu chỉ có một cảm tình tốt đẹp là xem Emmaus như một địa chỉ tinh thần không thể quên được.  Bởi lẽ khởi đi từ đó, Đấng Phục sinh đã ưu ái cho thấy Ngài luôn có mặt bên cạnh con người và vẫn muốn hiện diện thường xuyên cho cuộc sống con người.  Khởi đi từ địa chỉ tinh thần ấy, người ta thấy ít ra có ba cách hiện diện của Đấng Phục sinh:

1) Đấng phục sinh có mặt trong những bước đồng hành chia sẻ

Bối cảnh của bài Phúc Âm là những ngày tiếp theo biến cố Phục sinh.  Hoàn cảnh của các môn đệ thật là bi đát.  Họ là người theo Chúa từ những ngày đầu cuộc sống công khai, những mong được tả hữu vinh quang khi Đấng Messia chinh phạt thế giới.  Nào ngờ Thầy mình lại chọn lấy con đường khác để cứu độ.  Ngài đã bị giết, bị chôn vùi trong huyệt đá.  Và lưu ảnh cuối cùng họ có về Thầy mình, đó chính là ngôi mộ hoàn toàn trống rỗng.  Vỡ mộng, thất vọng, cô đơn, họ như những môn sinh “chữ thầy lại trả cho thầy, trở về làng cũ học cầy cho xong”.

Mà đâu có xong.  Chính lúc tưởng chừng trống vắng không gì có thể lấp đầy được, Đấng Phục sinh đã âm thầm hiện diện bên họ, trong dáng dấp của một người khách lạ, trong thân quen của những bước đồng hành và trong ân cần của những lời thăm hỏi rất đỗi bình thường.  Ngay trong Phúc Âm hôm nay, liền sau biến cố Emmaus, khi hai môn đệ đang kể lại Chúa Giêsu ở ngôi thứ ba, thì Ngài đã tự bao giờ “đứng giữa” câu chuyện ở ngôi thứ hai để chào hỏi đối thoại ủi an.

Vâng, Đấng Phục sinh là như thế.  Tưởng vào trong vinh quang là bắt đầu nẻo đời xa cách, nào ngờ lại là lúc Ngài la cà thân thiện với con người hơn cả bao giờ.  Thiên Chúa đã gần gũi với đời người, cho con người trở nên phần đời của Thiên Chúa.  Chính khi đời người xem ra trống vắng nhất, Đức Kitô vẫn hiện diện đồng hành chia sẻ, để rồi khi con người biết chia sẻ cuộc sống cho nhau thì Ngài vẫn có đó trong sức mạnh đồng hành.

2) Đấng phục sinh có mặt bằng những lời củng cố tin yêu

Tâm trạng của các môn đệ hôm nay trong Phúc Âm cũng vẫn là thất vọng ê chề.  Sau lưng họ là Giêrusalem đen tối, trước mặt họ là những nơi xa cũng chẳng sáng sủa gì.  Quá khứ vừa mới khép lại, tương lai chưa kịp mở ra.  Chới với, chao nghiêng.  Nhưng chính lúc ấy, Đấng Phục sinh có mặt, bằng lời Thánh Kinh sống động và hóa giải, Ngài thanh luyện các môn đệ khỏi những tình cảnh thất vọng sợ sệt và đặt họ vào một đà sống mới.

Lời Chúa chính là lời hiện diện của Đấng Phục sinh.  Nhưng tất cả còn tùy thuộc vào cách đón nhận của ta.  Sẽ không có mặt của Đấng Phục sinh nếu ta chỉ coi lời Chúa như vật phẩm điểm trang, dẫu có kính cẩn ghi chép, trân trọng giữ gìn, đeo chặt trên trán như thói quen của mấy ông biệt phái.  Sẽ không có mặt của Đấng Phục sinh nếu ta chỉ xem lời Chúa như thứ lá chắn bung xung cho một mưu đồ, nghĩa là coi lời Chúa như phương tiện để tô vẽ lên mưu lợi riêng tư.  Nhưng sẽ là một hiện diện thường xuyên ở bất cứ đâu cho bất cứ ai, nếu lời Chúa được thực thi chân thành trong đời sống.

Hai môn đệ đi làng Emmaus đã thấy ấm lòng khi nghe lời Chúa.  Các môn đệ ở lại Giêrusalem trong Phúc Âm hôm nay cũng thấy phấn khởi khi được Chúa soi sáng củng cố và đặt vào tin yêu hy vọng của đời chứng nhân.  Nếu mỗi tín hữu hiểu và sống lời Kinh Thánh, họ cũng sẽ cảm nhận được sự hiện diện của Đấng Phục sinh như những ý lực trong ngày sống, như một sức mạnh để vươn lên, cho dẫu sống chứng nhân cũng là sống với Đức Kitô trên đường thương khó.

3) Đấng phục sinh có mặt giữa những tấm bánh bẻ ra cho đời

Nếu có phút giây nào để lại ấn tượng mạnh nhất trong bài Phúc Âm, đó phải là lúc Chúa Giêsu hỏi các môn đệ xem có gì ăn không, rồi Ngài lại tự nhiên ăn cá và mật ong trước bao cặp mắt sững sờ của họ.  Ngài hỏi thức ăn không phải vì Ngài đói và Ngài ăn không phải vì cơ thể Ngài cần.  Đấng Phục sinh mà không một định luật vật lý nào có thể ngăn cản được như trong việc Ngài thoắt hiện thoắt đi đâu cần phải có thực phẩm nhân gian để mà tồn tại.  Đấng Phục sinh có mặt giữa con người không giống như kẻ hồi sinh sau tai nạn để cần phải bổ dưỡng bù trừ theo kiểu “ăn giả bữa.”  Nhưng, nếu qua việc Chúa Giêsu bẻ bánh, hai môn đệ đi làng Emmaus đã nhận ra Thầy mình, thì qua việc ăn uống này Đấng Phục sinh đã củng cố lòng tin vốn đang chao đảo hoang mang của họ.

Đấng Phục sinh ăn trước mặt các môn đệ.  Đó là một khoảnh khắc đầy ấn tượng, nhưng đã làm nên lý chứng phục sinh và ý nghĩa cuộc đời, bởi có Ngài hiện diện, nên thôi hết buồn sầu để mở ra một lối sống mới trong niềm vui.  Thảo nào các môn đệ hôm đó đã nhận lệnh lên đường làm chứng về những gì các ông đã thấy đã hiểu đã tin.

Nếu có lần nào ta chiêm ngắm Chúa Kitô như tấm bánh bẻ ra để xây dựng một thế giới mới, thì có lẽ một cách vô thức ta đã quy chiếu vào khoảnh khắc bất ngờ này.  Và nếu đúng như thế thì qua việc rước Mình và Máu Đức Kitô hôm nay, ta cũng được mời gọi để trở nên những tấm bánh, những mẩu cá, những tảng mật ong sống động biết chia sẻ nâng đỡ, vun đắp chung xây cuộc sống tốt lành tại địa bàn dân cư nơi mình sinh sống.

Ba cách hiện diện nghe như quen mà vẫn cứ lạ, nghe như gần gũi mà vẫn cứ rời xa.  Cảm tưởng quen quen lạ lạ gần gần xa xa ấy có là vì Đức Kitô Phục sinh có mặt, nhưng không hữu hình như xưa để dễ dàng mắt thấy tai nghe nữa, mà đã hiện diện vô hình chỉ gặp được bằng tin yêu hy vọng.  Và thường thì vì ta quá vô tình không nhận ra Ngài trong những khuôn mặt cuộc đời, tình huống của ta và của những người quanh ta.  Nhưng hiện diện của Đấng Phục sinh không phải là một hiện diện thụ động chỉ để ta tìm gặp, mà còn là một hiện diện chủ động khi ta biết tích cực đồng hành chia sẻ, cũng như gieo lời Chúa vào môi trường sống, rồi từng ngày nỗ lực âm thầm trở nên những tấm bánh “ăn được” cho người lân cận.

Qua thánh lễ này, ta được đồng hành bên nhau, được chia sẻ lời Chúa và được rước lấy Thánh Thể. Xin cho đời ta được đổi mới nơi địa chỉ Emmaus tinh thần này, để tới phiên ta cũng sẽ trở thành địa chỉ tinh thần mới cho cuộc sống hôm nay.

GM Vũ Duy Thống

HAI SẮC HOA TI GÔN

HAI SẮC HOA TI GÔN
T.T.Kh

Một mùa thu trước mỗi hoàng hôn
Nhặt cánh hoa rơi chẳng thấy buồn
Nhuộm ánh nắng tà qua mái tóc
Tôi chờ người ấy với yêu thương

Người ấy thường hay ngắm lạnh lùng
Dải đường xa vút bóng chiều phong,
Và phương trời thẳm mờ sương cát,
Tay vít dây hoa trắng lạnh lòng.

Người ấy thường hay vuốt tóc tôi,
Thở dài những lúc thấy tôi vui.
Bảo rằng “Hoa dáng như tim vỡ,
Anh sợ tình ta cũng thế thôi.”

Thuở đó nào tôi có hiểu gì,
Cánh hoa tan tác của sinh ly,
Cho nên cười đáp: “Mầu hoa trắng
Là chút lòng trong chẳng biết suy.”

Đâu biết lần đi một lỡ làng
Dưới trời đau khổ chết yêu đương.
Người xa xăm quá, tôi buồn lắm
Trong một ngày vui, pháo nhuộm đường.

Từ đấy thu rồi thu lại thu,
Lòng tôi còn giá đến bao giờ.
Chồng tôi vẫn biết tôi thương nhớ
“Người ấy” cho nên vẫn hững hờ.

Tôi vẫn đi bên cạnh cuộc đời,
Ái ân lạt lẽo của chồng tôi,
Mà từng thu chết, từng thu chết,
Vẫn giấu trong tim bóng một người.

Buồn quá hôm nay xem tiểu thuyết
Thấy ai cũng ví cánh hoa xưa
Nhung hồng tựa trái tim tan vỡ
Và đỏ như màu máu thắm phai

Tôi nhớ lời người đã bảo tôi,
Một mùa thu cũ rất xa xôi.
Đến nay tôi hiểu thì tôi đã
Làm lỡ tình duyên cũ mất rồi!

Tôi sợ chiều thu phớt nắng mờ,
Chiều thu hoa đỏ rụng, chiều thu…
Gió về lạnh lẽo chân mây vắng,
Người ấy ngang sông đứng ngóng đò.

Nếu biết rằng tôi đã có chồng,
Trời ơi, người ấy có buồn không?
Có thầm nghĩ tới loài hoa vỡ,
Tựa trái tim phai, tựa máu hồng

********************************

Huyền thoại thi ca tiền chiến Việt Nam những năm 1937-38 bỗng nổi cơn ba đào với bốn bài thơ ký tên T.T.Kh rồi sau đó lặng lẽ tan vào cõi hư không mặc cho dư luận ồn ào xôn xao.  Chất hưng phấn làm hoa ti gôn nở rộ một thời được khai hoa nở nhụy bằng một câu chuyện “Hoa ti gôn” của ký giả Thanh Châu đăng trên báo “Tiểu Thuyết Thứ Bảy” xuất bản tại Hà Nội.  Là một truyện ngắn không có gì đặc sắc nhưng nhẹ nhàng và bay bổng, “Hoa ti gôn” kể về một chuyện tình buồn giữa một chàng họa sĩ và một thiếu nữ gia đình thượng lưu.

Sau đó không lâu, tòa soạn nhận được một bài thơ “Hai sắc hoa ti gôn”, ký tên T.T.Kh do một người thiếu phụ trạc hai mươi, dáng bé nhỏ thùy mị, nét mặt u buồn mang đến.  Đó là lần đầu và cũng là lần cuối người thiếu phụ nầy xuất hiện.  Câu chuyện “Hoa ti gôn” đã khơi lại mối tình xưa của người thiếu phụ (T.T.Kh.) với một chàng nghệ sĩ, cả hai đã qua một thời yêu thương hẹn hò dưới giàn hoa ti gôn.  Rồi chàng ra đi biền biệt không hẹn ngày về.  Nàng ở lại vâng lời mẹ cha gạt nước mắt nên duyên cùng người khác – một người chồng luống tuổi – để rồi tan nát tâm tư mỗi khi nhớ lại những kỷ niệm êm đềm của thời quá khứ.  Bài thơ Hai sắc hoa ti gôn đã gây nên xúc động lớn trong lòng người yêu thơ bởi những câu thơ quá da diết.  Sau bài thơ nầy, toà soạn Tiểu Thuyết Thứ Bẩy lại nhận được bằng đường bưu điện ba tác phẩm khác cũng mang tên T.T.Kh.  Đó là các bài “Bài thơ thứ nhất”, “Bài thơ đan áo” (riêng đăng ở Phụ nữ thời đàm) và “Bài thơ cuối cùng”.

Từ đó về sau, người ta không còn gặp thơ của T.T.Kh nữa.  Không ai hiểu tại sao bài “Hai sắc hoa ti gôn” lại xuất hiện trước “Bài thơ thứ nhất” và cũng không hiểu tại sao tác giả lại lặng lẽ rời bỏ văn đàn không lời từ biệt để lại trong lòng người yêu thơ bao nỗi niềm thương nhớ luyến tiếc.

********************************

Bảy mươi năm trôi qua, nhân gian tốn bao giấy mực để tìm hiểu T.T.Kh là ai.  Người thì đoán Trần Thị Khánh, một nữ sinh Hà nội, người yêu của Thâm Tâm, một nhà thơ Việt Nam nổi tiếng với bài Tống Biệt Hành.  Kẻ lại bảo là Nguyễn Bính, rồi em gái họ nhà thơ Tế Hanh.  Người khác đoan chắc đó là Trần Thị Vân Chung, người yêu nhà văn Thanh Châu, tác giả truyện ngắn Hoa ti gôn.  Ai đúng ai sai, làm sao biết được khi tác giả tiếp tục thinh lặng “sống hờ hết kiếp, trong duyên trái đời”.

Làm sao có thể dệt nên chuyện tình buồn nếu chỉ có một người?  Thế là dư luận đổ xô đi tìm “người ấy” của T.T.Kh để hỏi xem “người ấy có buồn không?  Có còn nghĩ tới loài hoa vỡ”. Kẻ xầm xì nói đó là nhà thơ Thâm Tâm, người lại bảo là nhà văn Thanh Châu.  Nguyễn Bính, J. Leiba và bao nhiêu anh hùng thiên hạ khác nữa cũng nhận T.T.Kh. là người yêu của mình!  Ai đúng ai sai, làm sao biết được khi loài hoa ti gôn chỉ nở một lần, hoa rụng mang theo niềm bí mật của người yêu hoa.

Làm sao có thể dệt nên chuyện tình ngang trái nếu không có người thứ ba, là kẻ có nợ nhưng không duyên, có nghĩa nhưng không tình?  Thế mà thiên hạ chẳng ai buồn tìm hiểu người chồng “nghiêm luống tuổi” là ai?  Báo chí chẳng tốn một giọt mực, không một lời phân ưu.  Chẳng ai buồn thắc mắc đến danh tính của kẻ chiến thắng nhưng lại là chiến bại, kẻ “được” nhưng là “mất”.  Cũng như vợ mình, chân dung của ông vẫn là một ẩn số phụ bé nhỏ không lối đáp trong nghi án văn học T.T.Kh.

Bài thơ tình lãng mạn thời tiền chiến này đã đi sâu vào lòng tôi một thời.  Ngắm hoa ti gôn “sắc hồng tựa trái tim tan vỡ, và đỏ như màu máu thắm pha”, tôi ngậm ngùi xót thương người con gái bạc phận ôm mối tình dang dở lên xe hoa, theo lời mẹ cha nhắm mắt đưa chân sống “quang cảnh lạ, tháng năm dài.  Đêm đêm nằm tưởng ngày mai giật mình.” Tôi cảm thông tâm tình cay đắng người thiếu phụ buồn ngồi bên song cửa sổ miễn cưỡng “đan đi đan lại áo len cho chồng” mà mắt cứ dõi nhìn phương xa.  Tôi thầm trách “người ấy” đã làm tan nát thêm cõi lòng người yêu khi mang “bài thơ đan áo nay rao bán, cho khắp người đời thóc mách xem”. Xót xa, tiếc nuối…. là những tình cảm lưu luyến dành cho hai nhân vật trai thanh gái tú có duyên gặp gỡ nhưng không phận phu thê đã dệt nên những áng thơ tình bất hủ cho nền văn chương Việt Nam!

Cũng như người đời, tôi chưa một lần thắc mắc tâm tư người chồng đi bên lề cuộc đời vợ mình ra sao.  Ông buồn hay vui khi đêm đêm nằm ôm cái xác không hồn với cặp mắt ngơ ngác thất thần?  Ông nghĩ gì khi môi đụng làn môi băng giá?  Ông cảm thấy gì khi được vợ nhưng không được trái tim của nàng?  Cho đến một ngày tình cờ đọc Kinh Thánh, tôi ngờ ngợ như đọc được nỗi niềm cay đắng của ông, một người đứng bên lề cuộc đời người yêu qua những dòng chữ chua chát “Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta” (Mc 7:6b). Ôi, Thiên Chúa của tôi, Đấng tạo dựng nên muôn loài muôn vật, giàu sang và uy quyền, lại chia sẻ chung số phận hẩm hiu với người chồng già bạc phận trong “Hai sắc hoa ti gôn” hay sao?  Tôi đã sống ra sao để Ngài phải thốt lên những lời ai oán ấy?

Từ “ngày vui pháo nhuộm đường” đó, cuộc sống tuy nhiều sầu muộn, tháng ngày đong đầy những chua cay nhưng T.T.Kh. không hề có ý định chạy trốn cuộc sống, cũng chẳng dự định trốn theo người yêu.  Nàng” vẫn đi bên cạnh cuộc đời” trong sự “ái ân lạt lẽo” của chồng với một thái độ lạnh lùng dửng dưng chấp nhận sự thật dù phũ phàng.  Tôi cũng thế, vẫn đi bên Thiên Chúa, vẫn thờ phượng Ngài, không có ý định bỏ đạo, càng không muốn chống đối Ngài.  Chỉ là một thái độ lạnh nhạt chấp nhận sự việc có Chúa bên đời như một tình cờ, như một sự ép đặt của mẹ cha.  Còn lòng tôi ư?  Người thiếu phụ có chồng “vẫn giấu trong tim bóng một người”, chỉ một người thôi!  Còn tôi, thờ phượng Ngài đó nhưng che giấu trong tim biết bao bóng hình, những mộng mơ với thế gian phù phiếm, những toan tính cho tương lai dù tương lai không thuộc về tôi và bao dự định dang dở….  Những bóng hình đó không ngừng đeo đuổi tôi đến nhà thờ những ngày Chúa nhật dù chỉ một tiếng, vẫn hiện diện trong những lời kinh ro ro thuộc lòng dù chỉ vài phút.  Như một thiếu phụ đoan trang khép mình trong lễ giáo, tôi tuân giữ những luật buộc một cách máy móc, dâng Ngài những của lễ dư thừa trong nhăn nhó.  Nhưng linh hồn tôi, trái tim tôi, tâm trí tôi… dật dờ đâu rồi trong một cõi xa xăm nào đó!

Đi bên chồng nhưng lại hỏi “người ấy” có buồn không, đó là tâm trạng của người xưa.  Còn tôi hôm nay đi bên Ngài đó nhưng vất vả lo toan cho những việc ở trần gian.  Miệng nói tôn kính Thiên Chúa hết lòng hết sức trên hết mọi sự.  Nhưng bao sức lực, trí lực, tài năng, máu huyết của tuổi thanh xuân…. tôi đã dâng hiến cho thế gian hết rồi để mong tìm một chỗ đứng trong xã hội, một cuộc sống tiện nghi…..  Còn chăng chỉ là cái xác mệt mỏi vô hồn trong lòng nhà thờ mỗi ngày Chúa nhật buồn.  Xa thật hai cõi lòng của tôi và Ngài!  Phải chăng những lời trách móc “Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta” (Mc 7:6b) là để chỉ tôi sao?

“Tôi vẫn đi bên cạnh cuộc đời…, vẫn giấu trong tim…”,  “Vẫn đi”“vẫn giấu”, một sự ngoan cố đến lạ lùng của một phụ nữ yếu đuối.  Không có ý định từ chối cuộc sống và gia đình nhưng cũng không có ý định chôn hình ảnh xưa cố quên để sống, nàng đã cố bám víu lấy nó như một thứ lương thực nuôi sống hiện tại.  Tôi thấy thấp thoáng hình ảnh mình trong sự cố chấp bám dính quá khứ của người thiếu phụ.  Vẫn biết một ngày nào đó tôi sẽ phải rũ áo ra đi không mang theo được gì nhưng tôi vẫn ngoan cố xây đắp cho thật nhiều.  Vẫn biết đời sau mới là thiên thu vĩnh cửu nhưng tôi chỉ chăm lo hạnh phúc hời hợt của vài thu chóng qua.  Phải chăng đó là oan trái của kiếp người?  Phải chăng con rắn ngày xưa vẫn tiếp tục cám dỗ trong lòng mỗi người mãi không thôi?  Người thiếu phụ đã bám lấy cả hai và nàng đã phản bội cả hai: người yêu và chồng mà cuộc sống chỉ là “từng thu chết, từng thu chết”. Kết quả cuộc sống của tôi có khá hơn không khi tôi cùng bám vào cả hai:  Thiên Chúa và thế gian?

Còn gì xót xa não nùng cho bằng khi nghe những lời thở than của người vợ hiền “Tôi vẫn đi bên cạnh cuộc đời.  Ái ân lạt lẽo của chồng tôi.” Phải chăng đó cũng là những tiếng trách móc của tôi về sự “ái ân lạt lẽo” của Thiên Chúa?  Như một ông chồng già giàu có nhưng keo kiệt, uy quyền nhưng bủn xỉn, Ngài quay mặt làm ngơ trước những lời van xin thống thiết của tôi: cái xin không được, cái không xin lại cho, cái muốn được thì mất, cái mất lại được.  Ngài đã bỏ tôi chới với một mình trong khổ đau, mặc tôi ngụp lặn trong cô quạnh không lời ủi an.  Trong nỗi đau không tình cờ đó, Ngài tiếp tục thinh lặng, bí mật và khó hiểu….. không một lời đáp trả.  Quả là lạt lẽo và vô tình làm sao!

Dù lời thơ ai oán, hồn thơ chất chứa niềm trách móc cam chịu của người vợ bị chồng “lạt lẽo, hờ hững”, nhưng tôi vẫn bắt gặp đâu đó một sự quảng đại nơi người chồng “nghiêm luống tuổi” môn đăng hộ đối.  “Chồng tôi vẫn biết tôi thương nhớ, “Người ấy” cho nên vẫn hững hờ.” Chỉ là hững hờ thôi sao?  “Vẫn biết”, một sự khẳng định chắc chắn đến thế nhưng không có cảnh đòi li dị, không đuổi về nhà người vợ ngày qua đêm lại chỉ“thờ thẫn hồn eo hẹp” nhớ người xưa, không cưới năm thê bảy thiếp, không đánh đập hành hạ, mà cũng chẳng có chuyện “ông ăn chả bà ăn nem”, … không một hành động cụ thể nào cho sự trả thù.  Chỉ là một thái độ “hững hờ” của người quân tử!  Thái độ “hững hờ” hay nồng nàn, “lạt lẽo” hay sốt mến còn do thái độ cảm nhận của đối tượng nữa.  Tôi không thể nhìn thấy cuộc đời màu hồng khi đeo cặp kiếng đen.  Làm sao có thể tìm thấy một sự yêu đương nồng cháy khi “từ đấy thu rồi, thu lại thu.  Lòng tôi còn giá đến bao giờ?”   Ai có thể làm tan tảng băng nếu lối vô bị bít kín?  Ly nước đã đầy làm sao có thể rót thêm?  Làm sao có thể tìm được lòng sốt sắng yêu mến khi tôi đến với Thiên Chúa với tấm lòng giá băng qua những nghi thức thờ phượng hời hợt bên ngoài, với trái tim đầy ắp những tham vọng thế gian và cái đầu tính toán đầy những thành kiến.

Có đúng chăng sự “hững hờ”“lạt lẽo” của người chồng trong “Hai sắc hoa ti gôn” là kết quả cách sống thờ ơ của người vợ?  Có sai không thái độ giận dữ của Thiên Chúa “Phải chi ngươi lạnh hẳn hay nóng hẳn đi!  Nhưng vì ngươi hâm hẩm chẳng nóng chẳng lạnh, nên Ta sắp mửa ngươi ra khỏi miệng Ta” (Kh 3:15-16) là kết quả cách sống dở dở ương ương của tôi?  Tôi còn có sự tự do lựa chọn cho mình một lối sống, nhưng người con gái đất Việt bảy mươi năm về trước thì không.  Vậy tôi và nàng ai đáng thương và đáng trách hơn?

Xuyên suốt bốn bài thơ của T.T.Kh, ngoài thái độ “hững hờ”“lạt lẽo” của người chồng, còn một thái độ tế nhị khác nữa, đó là sự chờ đợi!  Ông đã âm thầm đi bên cạnh cuộc đời vợ mình để chờ đợi sự quay về của người vợ hiền, nếu không quay về vì yêu thương thì cũng xin vì bổn phận.  Qua ông, tôi bắt gặp hình ảnh chờ đợi của Thiên Chúa, Ngài đã kiên nhẫn đứng bên lề cuộc đời của những người đã chọn Ngài là Chúa nhưng chỉ là môi miệng để ngày qua tháng lại tiếp tục mòn mỏi trông chờ.  Một Thiên Chúa đầy quyền uy nhưng thật tội nghiệp vẫn lặng lẽ đứng đó, không một lời giải thích cho thái độ tưởng như hờ hững, lạt lẽo của mình, với đôi cánh tay giang rộng để chờ đợi không chỉ thân xác, không chỉ hình thức, không chỉ môi miệng nhưng là một tình yêu đích thực từ trái tim, một cái xác có hồn, một sự dâng hiến trọn vẹn tuyệt vời của người yêu.

Ngược lại với sự quảng đại chờ đợi trong âm thầm nhẫn nhục của người chồng là một sự phản bội tế nhị của “người ấy”:

“Chỉ có ba người đã đọc riêng

Bài thơ đan áo của chồng em

Bài thơ đan áo nay rao bán

Cho khắp người đời thóc mách xem.”

Là giết đời nhau đấy biết không? (Bài thơ cuối cùng)

Bây giờ thì nàng đã rõ rồi tấm lòng yêu thương của người mà nàng hằng ấp ủ trong tim.  Trong khi người con gái “vườn Thanh” lo lắng “nếu biết ngày mai tôi lấy chồng.  Trời ơi! Người ấy có buồn không? với một niềm tin mạnh mẽ vào người yêu “nhưng tôi vẫn chắc nơi trời lạ.  Người ấy ghi lòng vẫn nhớ em” và nỗi khắc khoải mong chờ được tái ngộ dù chỉ trong mơ “tiếng lá thu khô xiết mặt hè.  Như tiếng chân người len lén đến”. Thế mà người ấy lại nhẹ nhàng đem tình nàng “rao bán” trên mặt báo.  “Bài thơ đan áo” chỉ viết riêng cho chị chia sẻ nỗi lòng u uất của người con gái lấy chồng phương xa, giờ còn đâu nữa những tâm tư thầm kín của người thiếu phụ khuê các.  Người ta đã quên rồi lời hẹn xưa: “Cố quên đi nhé câm mà nín.  Đừng thở than bằng những giọng thơ”. Người ta thương gì “một mảnh lòng tan vỡ”, xót xa gì “một tâm hồn héo”, tiếc gì một đóa “hoa tàn dấu xác xơ”. Không ăn được thì đạp đổ!  Hạnh phúc của người yêu nào có nghĩa lý gì!  Thẳng tay, phũ phàng và dứt khoát “lại chính là anh, anh của em” đó!  Đâu rồi một tâm hồn nghệ sĩ cao thượng?  Đâu rồi nét quân tử của người yêu hoa?  Chả trách nào tiếng chim trong lồng tắt lịm từ đó!

Hình ảnh “người ấy” phải chăng là hình ảnh của thế gian: đẹp đẽ, lãng mạn, nên thơ… khi tình đang mặn nồng, thưở “nhặt cánh hoa rơi chẳng thấy buồn”. Nhưng khi lòng tôi thao thức với lời mời gọi thiêng liêng từ trong đáy tim thì thế gian cố níu kéo bằng những dụ dỗ ngon ngọt, những hình ảnh phù phiếm, sự hưởng thụ thân xác.  Và khi tôi nhất quyết quay gót trở về với Thiên Chúa thì bộ mặt thế gian biến đổi với những gian trá mưu mô xảo quyệt, với hành động trả thù bỉ ổi nhằm phơi bày tội lỗi thầm kín của tôi cho dù làm thế “là giết đời nhau”. “Đời chỉ đẹp khi tình còn dang dở!” Tình đã dang dở rồi đây nhưng người trong cuộc có thấy đẹp hơn, thơ mộng hơn không hay chỉ toàn cay đắng phũ phàng?

Thế gian là thế đấy!  Người tình là thế đó!  Mặc dù “oán hờn anh mỗi phút giây” nhưng lòng thì “giận anh không nỡ nhớ không thôi”! Thiên Chúa có lẽ quá thấu hiểu sự yếu đuối mù quáng của con người nên hai chữ TỈNH THỨC được lập đi lập lại nhiều lần trong giáo huấn của Ngài và ân sủng từ trời cao không ngừng tuôn đổ để giúp con người biết lựa chọn và sống với sự chọn lựa của mình một cách sáng suốt.

Chuyện tình nào rồi cũng có đoạn kết, mối tình tay ba nào cũng phải kết thúc bằng sự lựa chọn.  Như “Người chồng – Người tình” không thể cùng song hành với nhau trong cuộc sống “Người vợ“, thì Thiên Chúa cũng không thể cùng đồng hành với thế gian trong trái tim và linh hồn một người.  Tôi đang ở đâu trong mối tình tay ba giữa “Thiên Chúa – Thế gian –  và Tôi”?  Tôi sẽ chọn lựa ai, chỉ một trong hai?  Và sẽ sống với thái độ nào trong sự tự do lựa chọn đó?

Lang Thang Chiều Tím

From: ngocnga_12 & Anh chị Thụ Mai gởi