Sự thụt lùi vĩ đại qua vụ sập hầm đường sắt

Ba’o Tieng Dan

Nguyễn Thông

15-4-2024

Vụ sập hầm đường xe lửa (đường sắt, hỏa xa) chui qua đèo Cả khiến mạch giao thông này bị tê liệt, ách tắc đã mấy hôm nay, và chưa biết sẽ còn tắc tới khi nào, nói lên điều gì?

Một nước dài thoòng như nước ta, cả 3.000 cây số, thì đường sắt liên vận là quan trọng nhất, kinh tế nhất. Chính vì thế người Pháp đã bắt tay làm đường sắt ngay sau khi đã tạm ổn định cuộc chinh phục. Những đoạn đường, tuyến đường cuối cùng họ làm cũng đã có tuổi cả thế kỷ. Đường sắt là thứ công trình kỳ vĩ số 1 mà người Pháp đã xây dựng và để lại cho xứ An Nam. Nói chính xác, không có “thực dân Pháp” thì không có đường sắt Việt Nam.

Vậy nhưng, sau khi đánh đuổi được đế quốc to Pháp, người cộng sản hầu như chỉ biết tiếp thu sử dụng sản phẩm có sẵn ấy, khai thác triệt để, chứ không làm thay đổi, phát triển được bao nhiêu. Nói ngay cái khổ/ cỡ đường, cho tới giờ, sau cả trăm năm, vẫn hẹp như cũ. Các toa tàu vẫn phần lớn kiểu cũ, vệ sinh xả thải ngay xuống nền đường ray. Tốc độ thậm chí còn chậm hơn tàu thời Pháp. Mua được cái vé xe lửa để xuyên Việt, để về quê dịp lễ tết còn khổ hơn bị trời hành, v.v…

Công trình giao thông vĩ đại như thế, cái hầm qua đèo Cả vừa bị sụp chẳng hạn, rồi hầm Hải Vân, hầm đèo Ngang… cả thế kỷ bị khai thác tối đa mà không nghĩ tới bồi bổ gia cố nó, thì nó phải sụp thôi. Tất nhiên họ sẽ đổ cho trời, tại địa chất này nọ.

Đường sắt lộ thiên bị sụp, bị ngập lụt, dù hư hỏng cách mấy cũng dễ khắc phục trong thời gian ngắn, nhưng ở hầm hẹp khó bề xoay trở thì đừng nghĩ cứ có quyết tâm và tinh thần cách mạng tiến công là được.

Hầm Bãi Gió (đèo Cả) là ví dụ. Mấy ngày rồi, cũng chưa biết khi nào mới xong, xong rồi có dám chạy lại không. Mà khi nó đã rệu rã sau trăm năm bị lợi dụng mà không bồi bổ thì chẳng riêng đoạn sụp ấy đâu, nhiều đoạn khác đang chờ tới lượt. Rồi những hầm khác nữa cũng đang xếp hàng chờ an nghỉ sau trăm năm phục vụ. Bóc lột chúng mãi, tất nhiên tới lúc chúng phải đình công bằng cách… sụp.

Tôi nói thật, với những cái hầm tuổi bách niên như thế, nói phỉ phui cái miệng, tàu đang chui vào giữa mà nó sụp cái ầm thì sau đó chỉ còn cách họp bàn rút kinh nghiệm. Hầm Bãi Gió chính là lời cảnh báo, là lời nhắc nhở của ông trời chứ không phải đùa.

Sau hai phần ba thế kỷ tiếp thu sự cai trị đất nước này, với ngành đường sắt, người cộng sản đã để lại dấu ấn về sự thụt lùi vĩ đại, kể từ khi “nhà mày có khỉ già lắm”.


 

Làm mưa, cầu mưa được không?- Chu Mộng Long

Ba’o Tieng Dan

Chu Mộng Long

13-4-2024

Thế giới tư bản với khoa học kỹ thuật tự cho là hiện đại nhưng không làm được công việc của Trời. Nhưng các nước xã hội chủ nghĩa thì làm được tất. Làm mưa làm gió là chuyện nhỏ.

Thời cải cách ruộng đất cho đến hợp tác hoá nông nghiệp có câu ca:

Ông thần ông thánh thì dẹp một bên,

Để cho ông Đội bước lên làm Trời.

Ông Đội từng làm mưa làm gió đến mức “long trời lở đất”. Bọn địa chủ bị dìm chết trong bão lũ. Khi học lớp 4, chúng tôi từng học bài thơ Trời đành chịu thua:

Ngày xưa hạn hán cầu trời,

Ngày nay hạn hán thì người trị ngay…

Tôi nhớ cu Khoa còn sáng tác cả một bản Trường ca Đi đánh giặc hạn. Không gì con người mới xã hội chủ nghĩa không làm được. Không ngẫu nhiên mà Bộ Dục đặt mục tiêu giáo dục phát triển toàn diện 5 phẩm chất 10 năng lực, đến mức Đấng Toàn năng là Trời cũng thua!

Những năm 80, tôi học cấp ba, cô giáo dạy môn chính trị kể chuyện lãnh tụ Lê Duẩn thăm Liên Xô về với tuyên bố, Liên Xô làm mưa nhân tạo được, 10 năm sau Việt Nam ta cũng làm được. Tôi mừng vì mơ cái viễn cảnh thoát khỏi đêm đêm đi tát nước gàu sòng.

Năm 2007, báo nhà nước đăng tuyên bố của Viện trưởng Viện Khí tượng thủy văn, rằng 3 năm sau, tức 2010, các nhà khoa học Việt Nam đủ khả năng thay trời làm mưa. Hiện tại, tức thời điểm của tuyên bố, họ đã thử nghiệm thành công ở Hà Nội.

Ảnh chụp màn hình bài báo Tiền Phong, dẫn lời PGS TS Trần Thục, cho biết, năm 2010 Việt Nam có thể làm mưa nhân tạo

Tôi hình dung Hà Nội từ đó đến nay thường xuyên ngập lụt là do các nhà khoa học ‘thổ đu’ làm mưa quá tay!

Mãi cho đến nay mới có công văn của Hội Liên hiệp khoa học kỹ thuật chi viện một ông Trời cho miền Nam. Mừng quá! Hóa ra nhiều ông Trời bị giấu ở ngoài Bắc, nay mới lộ ra?

Có điều công văn nói “chưa kiểm chứng” là thế nào? Chẳng lẽ lâu nay chuyện làm mưa làm gió hại dân là có thật, còn làm mưa để chống hạn chỉ là bốc phét? Không chỉ bốc phét mà còn lừa đảo để moi ngân sách hoặc moi tiền dân cúng cho các ông Trời bằng da bằng thịt đó sao?

Ảnh chụp văn bản của tiến sĩ Nguyễn Hoàng Điệp, thuộc Hội Liên hiệp Khoa học Kỹ thuật, gửi Chi cục Thủy lợi TP.HCM hôm 2-4, giới thiệu “người có khả năng cầu mưa nhưng chưa được kiểm chứng”. Nguồn: MXH


 

 30 tháng 4 – Ði tìm thời gian đánh mất (II)- Tác Giả: Nguyễn Văn Lục

Ba’o Dan Chim Viet

Tác Giả: Nguyễn Văn Lục

14/04/2024

Tiếp theo phần I

Cuối cùng cả miền Nam đều buồn.

Mẹ tôi không nói ra, nhưng có vẻ héo hắt đi. Đôi mắt hõm sâu thêm vì những đêm không ngủ. Nụ cười úa tàn không còn oan oang như trước nữa. Bố tôi thì bề ngoài thấy như vẫn vậy. Thói quen của mẹ dấu diếm những điều cho riêng mình đã thành tật. Do đó, nó khoét sâu vào tâm khảm, đục khoét cơ thể lúc nào không hay. Người cứ nhẹ đi như bấc. Có những buổi trưa bất ngờ sang thăm mẹ. Mẹ ngồi ngủ gục, ẻo lả một bên. Tôi ngỡ ngàng kinh ngạc, xót xa. Con rể đi học tập, con trai lang thang, lếch thếch ngoài Vũng Tàu tìm đường đi. Con cả ở ngoài bắc vẫn biệt tăm, vẫn mù mịt, không biết sống hay chết. Đã mấy chục năm rồi sao chưa về. Nổi đau quá khứ trộn thêm nỗi lo hiện tại. Các con tứ tán. Mẹ vẫn không một lời ca thán. Mà mẹ biết trách ai bây giờ.

Chẳng bao lâu sau, mẹ từ giã cõi đời vì gánh nặng cuộc đời không gánh nổi.

Mẹ tôi chết. Không còn cách gì cản quyết tâm phải ra đi của tôi nữa. Đúng là mẹ tôi ép tôi phải ra đi.

————————————-

Từ ngày Cách mạng vào đến giờ, tôi tự hỏi: đã có một ngày, đã có việc gì làm cho chúng tôi vui? Chưa. Chỉ có những chuyện buồn, hết chuyện nọ đến chuyện kia. Thế giới chia cách từ chỗ đó.

Trong vấn đề đi học tập này, chắc cần phải nói thêm cho rõ. Có vài người trong chính quyền mới là các ông Năm Xuân, Mai Chí Thọ và ông Tạ Bá Tòng, Nguyễn Hộ, Võ Văn Kiệt, ông Sáu Ngọc, giám đốc công an thành phố rồi Sáu Đức, tỏ ra nới tay đối với một số trí thức miền Nam. Không có mấy ông này thì nhiều người cũng khốn khổ lắm. Theo ông Hồ Ngọc Nhuận, sau 30/4/75, lãnh đạo đã cho ông một đặc ân là lên danh sách những người được đi học tập cải tạo riêng. Ông Nhuận có kể trưởng hợp Dương Văn Ba bị lọt sổ (DVB). Can thiệp mấy cũng không được. Ông Tạ Bá Tòng thì cứ nhất định phải đưa DVB đi học tập. Đến phút chót, ông Tòng mới xét lại và miễn cho DVB khỏi đi học tập cải tạo tập trung. Có những anh đã được can thiệp như dân biểu Thạch Phen, đại uý quận trưởng, gốc Khmer hay Trần Ngọc Giao đã được miễn học tập tập trung… Nhưng về địa phương thì lại khác, bị bắt, rôi được thả, rồi cả hai ông đều chết. Không có ông Mai Chí Thọ thì ông Nguyễn Chức Sắc, chồng bà dân biểu Kiều Mộng Thu hay dân biểu Lê Tấn Trạng làm sao thoát cảnh tù đầy.

Cũng cần nhắc lại ở đây là thành ủy thành phố Hồ Chí Minh (TPHCM) đã đánh giá khá tích cực ba thành phần sau đây sẽ là những yếu tố thuận lợi sau này trong việc xây dựng, tái thiết và phát triển miền Nam. Bỏ qua ba yếu tố này sẽ là những bất lợi bất cập gây trở ngại cho việc tái thiết và phát triển miền Nam.
Đó là 3 thành phần cơ hữu của chế độ cũ cần được đánh giá đúng mức: Người Việt gốc Hoa, viên chức và sĩ quan chế độ cũ và khối người Thiên Chúa giáo.

Rất tiếc, sự đối xử phân biệt với người Hoa cũng như việc trục xuất người Hoa ra khỏi VN, việc đánh tư sản mà phần lớn là người gốc Hoa, việc bắt viên chức cũng như sĩ quan đi học cải tạo lâu ngày đã đưa đến thảm cảnh ‘boat people’ như mọi người đã thấy. Việc trục xuất khâm sứ toà thánh và các thừa sai ngoại quốc mà theo đề nghị của ông Nguyễn Cơ Thạch là nên duy trì tòa Đại sứ Hoa Kỳ để cho việc bang giao quốc tế không bị gián đoạn.

Nếu đề nghị của ông Nguyễn Cơ Thạch, một người có kinh nghiệm về những bang giao chính trị trên thế giới, được chấp nhận, thì đã hẳn có thể tránh được nhiều thảm họa cho đất nước.
Cơ hội xây dựng đất nước đã một lần để hụt tay

Một chuyện vui kể lại: Gia đình tôi có dịp đón tiếp anh chị Kim, con nhà bác từ Hà nội vào. Anh chị cũng hiền lắm. Hình như cũng không được khá giả gì. Anh có cô con gái là nữ ca sĩ nổi tiếng miền Bắc lúc bấy giờ. Giọng cháu lanh lảnh, thánh thót, sắc cạnh, cao vút, nhưng không truyền cảm lắm. Nghe vẫn chưa quen, thấy thế nào ấy. Thấy hay, nhưng vẫn không cảm được. Cho cái gì, anh chị cũng nhận mang về, tất cả chỉ là đồ cũ. Tôi có chai rượu Black and White để dành, nhân dịp đó mang ra đãi anh. Hình như chỉ qua chầu rượu thứ hai, anh đã say mèm. Say rồi , anh chả giữ ý tứ, chả rào trước đón sau, chả nói theo bài bản nữa như lúc mới đến. Anh lộ nguyên hình hài là anh, con người thật. Anh chửi hăng quá, chửi cho đã như thể chưa bao giờ có dịp để chửi như thế, như thể đã nhịn nhiều năm. Anh chửi những nhân vật đời thường anh chỉ biết tụng niệm.

Xin đổi câu thơ này ra để tặng anh:

Sống mình không được nói
Chết mới được ra lời.

Anh không chết, nhưng rượu vào làm anh chết giả và lúc đó anh mới sống thật với lòng mình. Tôi chỉ buồn cười. Cũng thương anh rồi dìu anh đi ngủ. Chị ấy thì sáng hôm sau có vẻ rất băn khoăn khổ sở về bữa rượu hôm trước. Tôi thì thấy thường quá, say nói lăng nhăng ai chấp làm gì. Từ đó, anh chị không bao giờ vào chơi nữa. Thật đáng tiếc.

12 tháng 6, 1975. Mỹ gửi đến tòa Đại sứ Việt Nam một thông điệp

Thông điệp này do sứ quán Mỹ ở Paris gửi đến sứ quán của VN ở Paris: “Về nguyên tắc, Mỹ không thù hận gì Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà (VNDCCH). Đề nghị trên cơ sở đó tiến hành bất cứ quan hệ nào giữa hai bên. Mỹ sẵn sàng nghe bất cứ gợi ý nào mà phía VNDCCH có thể muốn đưa ra’’.

Sau đó có buổi họp giữa ta và Mỹ, cấp bí thư thứ nhất ngày 10/07, giữa ông Đỗ Thanh và Pratt chủ yếu bàn về vấn đề MIA. Mỹ chấp nhận Việt Nam vào LHQ, Mỹ có thể đóng góp khôi phục lại Việt Nam bằng cách phát triển buôn bán, hợp tác kinh tế.

Và theo ông Trần Quang Cơ, nguyên thứ trưởng ngoại giao Công Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam (CHXHCNVN0, năm 1977 ta đã có đủ khả năng để ta bình thường hóa quan hệ với Mỹ, nhưng ta đã bỏ qua. Thật là đáng tiếc.

Thứ bảy 14 tháng 6, 1975, thay đổi giờ thay đổi đời.

Kể từ sáng nay, giờ Hà nội (GMT-7) thay thế chính thức cho giờ ở Sài Gòn (GMT- 8). Đây là một thay đổi duy nhất mà người Sài Gòn không ai để ý tới. Chuyện thay đổi cả đời người còn chưa lý tới, một giờ thì nhằm nhò gì. Bây giờ là giờ của cách mạng hiểu theo nghĩa nào cũng đúng cả: Giờ của lịch sử, giờ của người chiến thắng.

Chỉ có kẻ thua trận là không có giờ và dĩ nhiên không có cả tương lai nữa.

Gia đình tôi lại có dịp tiếp đón một ông chú bên nhà vợ. Mọi người gọi là chú Tiến. Nghe nói, hình như chú là thứ trưởng bộ kinh tế thì phải. Tội nghiệp chú, các bà cô vợ tôi được dịp chửi rủa xả láng, nói bóng nói gió, chê bai đủ thứ. Chú chỉ cười. Chú chả thèm xin bất cứ thứ gì, có cho chắc cũng không lấy. Chú giầu chăng? Phần tôi, phải nhận tôi quý mến chú, dù ông chỉ hỏi thăm tôi một hai câu..

Giống anh chị Kim, ông chỉ tới thăm một lần và không bao giờ trở lại.

Dù sao, có bà con ở phía cách mạng cũng lợi, vì có thể chửi mà không sợ đi tù.

Thứ ba, 17 tháng 6, 1975, tất cả các ngân hàng tư nhân đều bị đóng cửa.

Tất cả tài sản và tiền của các ngân hàng đều phải chuyển giao về ngân hàng quốc gia VN. Tất cả các hãng xưởng, nhất là của người Pháp đều rơi vào tình trạng tê liệt không hoạt động được. Đó là các hãng Citroen, các đồn điền cao su, các hãng nước ngọt vv. Họ phải chuyển giao hãng xưởng, tài sản tư nhân phải bán, ra đi với hai tay trắng. Lời hứa của tướng Trần Văn Trà, ủy ban quân quản thành phố vào ngày 8 tháng năm trước đại diện 120 đại diện báo chí ngoại quốc không còn ai nhắc tới nữa: “tất cả các tài sản của người ngoại quốc sẻ được bảo đảm tôn trọng’’. Theo ông Duchemin đã được Mai văn Bộ trấn an: Người Pháp cứ việc yên tâm ở lại làm ăn.

Cái mà chính phủ nhắm tới là Người Tầu đang nắm giữ việc thương mại, buôn bán ở Chợ lớn. Nhưng chính phủ còn chưa ra tay. Mặc dầu vậy, những người Tầu có tiền của cũng đã chuẩn bị trong tay một giấy thông hành Đài Loan rồi.

Đừng quên rằng, sau những người Tàu Chợ Lớn, còn có cả một nước Tầu đứng sau họ.

Thứ bảy 21 tháng 6, 1975, giáo dục dưới mái trường XHCN.

Ngoài các trường công đã được hoạt động ngay những ngày đầu giải phóng, nay một số trường tư và trường chuyên môn dạy nghề được phép mở cửa, hoạt động trở lại. Đây là cái cửa mở đầu tiên được mở ra. Nhưng coi chừng, cửa chỉ mở hờ. Trường Regina Pacis nay không còn dạy giáo lý hay đọc kinh mà thay vào đó là những bài hát ca tụng Bác Hồ…

Các trường đại học cũng mở cửa lại, nhưng chưa có chính thức giảng dạy. Các chức Viện trưởng, khoa trưởng đều từ ngoài Bắc vào nắm giữ. Chuyên với hồng bắt đầu từ đây. Đây là keo thử thách nữa về sự phân biệt thế nào là chuyên, là hồng.

Đất nước tiến lên hay thụt lùi cũng từ cái khâu này.

Lại có vụ ám sát giết hai bộ đội sáng nay ở đường Trần Hưng Đạo. Họ bị cứa đứt cổ. Chẳng biết là thật hay giả. Dù sao, những tin tức kiểu đó cũng là món ăn giải trí và bổ đưỡng cho những kẻ thua trận.

Các giáo sư tuần tự đến trường đều đặn. Không bảo nhau mà trong trường chia ra phe phái rõ ràng không có quy ước và không có giới tuyến. Anh Hiệu trưởng cu ky một mình. Anh kín đáo quá. Hiệu phó lăng xăng vẫn không che đậy hết cái gốc tư sản của anh. Mọi việc giao tiếp, xử lý, hình như anh đại diện hiệu trưởng lo liệu. Một anh trẻ tên Hùng, đang là đoàn viên, rất gương mẫu, rất kỷ luật, rất khe khắt với chính mình và đồng nghiệp. Con mắt có vẻ soi mói mọi người, mọi chỗ. Anh cũng cu ky một mình theo cách của anh. Sau này, anh tình nguyện đi lính sang Campuchia. Anh đã không có cơ hội trở về. Cùng lắm anh có Hương, một đoàn viên khác là bạn đồng hành. Nhưng tuy không nói ra người ta vẫn đọc được tâm sự ẩn kín của Hương. Ánh mắt lúc nào cũng gợi buồn, sự cố gắng đến mệt mỏi, nụ cười gượng gạo. Hoá ra, số phận Hương có thể còn khổ gấp đôi lần những người bạn đồng nghiệp. Một số nữ giáo viên lớn tuổi mà có thể chồng con đi học tập, họ làm việc, tuân thủ như cái máy không hồn. Một cuộc sống bất đắc dĩ. Một cuộc sống mơ về một cuộc sống ở một nơi nào khác.

Đa số giáo viên trẻ còn vui đùa hồn nhiên họp thành một đám. Hố thẳm rơi của những người cùng thân phận. Nhiều tình cảm nẩy nở giữa họ do cùng tâm trạng, cùng hoàn cảnh, cùng suy nghĩ. Ít lắm, có vài đồng nghiệp trẻ mà nhen nhúm quý mến nhau hết mực, trân trọng hết mực, bảo vệ nhau hết mực..cho mãi đến về sau này.

Điều mà người ta không hề có, điều mà người ta không có dịp để sống trong những thời gian trước 75..

Thứ sáu 27 tháng 6, 1975, các tin đồn mỗi ngày mỗi nhiều.

Có bốn bộ đội canh gác ở ngay trong thư viện quốc gia bị giết. Hai bị đâm chết, hai bị cắt cổ. Trong ngày, nhiều tiếng nổ lớn được nghe thấy từ phía Tân Sơn Nhứt. Hai thường dân cưỡi Honda bị bắn hạ trước cửa toà lãnh sự Pháp vào lúc 4 giờ. Đến 20 giờ tối, ba bộ đội bị bắn chết bởi hai người đi trên xe Honda ở góc Phan Thanh Giản, Phan đình Phùng.

Tin đồn như thức ăn hằng ngày của dân Sàigòn.

Mùng 10, tháng 7, 1975, tờ báo Công giáo và dân tộc: tiếng nói của chính quyền.

Sau đúng 10 tuần lễ, một tờ báo công giáo được xuất bản:

Tờ Công giáo và Dân tộc do nhóm Trương Bá Cần, hay nói ngược lại là Trần Bá Cường, Vương Đình Bích, Phan KhắcTừ, Huỳnh Công Minh điều hành. Họ là người của Cộng sản. Xin ghi lại đây lời của Vương Đình Bích: “Đảng Cộng Sản đã gây dựng 4 người chúng tôi làm đầu nảo mọi hoạt động của đảng trong giới Công giáo’’ . Phần Huỳnh Công Minh, khi được chọn làm đại biểu Quốc Hội đã phát thệ: “Phần tôi, tôi nguyện suốt đời phục vụ’’. Trong một bài viết trên Tin nhà, số 43, 2000. Nguyễn Hữu Tấn Đức gọi bọn bốn ông này là Prêtres et commissaires. Linh mục và cán bộ. Thật ra tiền thân của nó là từ một tờ báo Công Gíao và Dân Tộc (CGDT) ở giáo xứ Paris, từ 69-75 do ông Nguyễn Đình Thi đứng đầu. Nó có mặt từ đây cũng là do tiền của Nguyễn Đình Thi tài trợ lúc ban đầu. Tất cả 4 người trên đều có dính dáng, liên lạc hay hoạt động với chế độ cộng sản từ trước. Tờ báo chỉ là nối kết những tổ chức tôn giáo nhà nước như trước đây ở Hànội. Chẳng hạn, ngoài Bắc có tổ chức với cái tên rất dài là: Ũy Ban liên lạc toàn quốc những người VN yêu tổ quốc, yêu hoà bình (UBLLCGTQ) Tờ báo CGDT ở Sài Gòn tọa lạc trên một toà nhà ba tầng gồm 50 nhân viên, trong đó có một vài tu sĩ. Vốn liếng tài trợ tờ báo là những hợp tác xã, cơ sở kinh doanh được nhà nước tài trợ như xí nghiệp làm bút bi, quạt trần, khách sạn Đại Kết, công ty Tinh Hoa, trường ngoại ngữ Nguyễn Trường Tộ, trường dạy nghề và máy vi tính Bạch Đằng..

Cho đến nay, tờ báo vẫn còn họat động đều đặn. Có lẽ đây là tờ báo duy nhất được sinh ra từ sau giải phóng và tồn tại lâu dài như vậy. Nó không thể chết, vì nếu nó chết thì cái đã làm nên nó chắc hẳn cũng không còn nữa. Vì có tính cách chính thức như tiếng nói của chính quyền nên nhiều người nghi kỵ và dè dặt. Người dân có cái nhạy cảm và dị ứng với cái gì chính thức, cái công quyền. Trước đây, các tờ Chỉ Đạo, Cách Mạng Quốc Gia cũng nhận được sự rẻ rúng của dư luận quần chúng. Đây là cái bình phong che chắn cho chế độ. Sau này, chính nội bộ của họ cũng tố cáo nhau như trường hợp giữa ông Nguyễn Đình Đầu và ông Trần bá Cường tức Trương Bá Cần viết lộn ngược. Ông Vương Đình Bích thì đã viết thư hạch hỏi ông Phan KhắcTừ về tội lem nhem tiền bạc, về tổ chức, về chuyện một vợ hai con của ông. Tiền bạc vốn tài trợ ngoại quốc khoảng 150 ngàn Mỹ kim. Vốn vay để thêm thu nhập cho tờ CGDT như ở trên đã nhắc tới. Ông Bích hỏi ông Từ tiền lời lãi do xí nghiệp làm bút bi, quạt trần, đỡ đầu cho công Ty Tinh Hoa, vay vốn hai tỉ để lập nhà máy may và trồng 33 mẫu cao su, rồi đầu tư với công ty Singapore, đầu tư khách sạn Đại Kết, trường ngoại ngữ Nguyễn Trường Tộ, trường dạy nghề may và trường dạy vi tính Bạch Đằng là bao nhiêu, tiền đó bây giờ ở đâu. Tất cả đều do ông Từ đừng tên. Làm sao người dân biết được những chuyện làm ăn đó. Thì cũng do chính họ tố giác nhau mà dân mới biết được.

Nhưng chuyện lem nhem của các ông thì có liên quan gì đến chính quyền, miễn là tiếng nói của các ông vẫn theo một điệu nhạc đã sọan sẵn, bài bản được dàn dựng.

Sau này, Đức cha Nguyễn Minh Nhật, chủ tịch Hội đồng Giám mục (HĐGM) Việt Nam đã trả lời phỏng vấn trên tờ Églises d’Asie là: “người Thiên Chúa giáo hết tin tưởng vào Ủy Ban Đoàn Kết Công Giáo (UBĐKCG) và tờ báo Công giáo và Dân tộc”. Câu trả lời như thế có thể bị hiểu lầm là trước đây người ta vẫn tin, bây giờ mới hết tin.

Thứ tư mồng 9 tháng 7, 1975, vẫn lại những phụ nữ có chồng đi học tập.
Có một nhóm phụ nữ có chồng đi trình diện học tập cải tạo đã tụ tập trước dinh Độc Lập cũ. Họ đòi hỏi cho biết tin tức về chồng con của họ. Bộ đội đã đến giải tán. Có những tin đồn cho biết, có 4 xe nhà binh chở bọn họ bị giết trên đường đi. Chế độ càng bưng bít, tin đồn càng nhiều. Sự lo sợ càng lúc càng gia tăng. Người ta bắt đầu đặt ra nhiều dấu hỏi về số phận những người đi học tập này.

Sau này, vào năm 1979, Việt Trần đã nhắc lại điều ấy trong cuốn sách của ông: J’ai choisi l’exil. nxb Seuil, 1979.

Hai chị tôi cũng nằm trong số những người đàn bà bất hạnh trên. Anh rể tôi, một sĩ quan đại uý an ninh quân đội. Một thứ sĩ quan bàn giấy mà suốt đời chỉ là đại uý. Chưa hề bao giờ biết bắn súng. Vậy mà anh đi biền biệt ra Bắc hơn mười năm sau mới trở về. Chị lớn tôi, một nách 7 đứa con, hai đứa lớn nhất còn ngồi ghế đại học, đứa út chập chững vào trung học. Chị nhỏ cũng không thua, 6 đứa. Gia đình chị lớn trước đây sống bương chải nhờ có thêm hiệu hớt tóc ở đường Nguyễn Thiện Thuật. Cuộc sống đạm bạc qua ngày, chắt chiu và hà tiện để nuôi các con ra người. Chị tôi cùng lắm là loại đàn bà đảm đang, khéo thu vén như nhiều người khác. Nhưng nay chồng đi học tập. Gánh nặng đè trên hai vai các chị. Bỗng chốc hai chị tôi trở thành những người đàn bà phi thường. Một chị buôn bán kem. Một chị xông xáo, hàng gì cũng buôn, buôn đủ thứ. Đã hai lần, hễ cứ buôn bán có tiền là “xuất cảng” quẳng mấy đứa nhỏ ra biển. Hết lớp này đến lớp kia như lên cơn dồng. Hai lớp đã quẳng chúng ra biển đều thoát và không bị hãm hiếp. Nỗi lo, nỗi mừng cứ như sóng dồi. Các chị tôi như mê, như say điên cuồng không còn biết sợ là gì. Tôi sang trước, năn nỉ, lạy van các chị đừng cho các cháu đi nữa. Vẫn đi. Đi là đi. Đi xong tất cả chừng nấy đứa thì chị nào chị nấy như cái khăn ướt vắt khô nước, cạn kiệt. Chị nhỏ tuổi gục xuống như cây chuối bị phạng ngang lưng như mẹ tôi trước đây, chưa kịp đi đoàn tụ. Bên này, tôi tức tưởi khóc lén một mình. Chị lớn vừa sang ít lâu, gục theo không kèn, không trống. Gục xuống vì công việc đã hoàn tất. Mission accomplie.

In memoriam những dòng này cho hai chị tôi. Những người đàn bà bất hạnh trong một đất nước mà trời đất nổi cơn gió bụi, mà nước mắt như mưa sa, mà lòng người độc ác vô tận, mà hận oán như trời đất bao la.
Dù sao thì các anh rể tôi cũng may mắn hơn nhiều người đi học tập khác. Tôi có người bạn, anh Nguyễn Thanh Ty, anh nguyên là giáo sư biệt phái nên phải đi học tập. Mới đây anh có viết một cuốn sách và gửi tặng cho tôi đọc: Trong lao tù, CS, Trại Đá Bàn và A.30. Mấy tháng sau ngày đi học tập, anh đã nhận được thư vợ viết như sau: Nếu những ngày tới, em không còn cách nào kiếm được gạo nuôi con nữa thì mẹ con em sẽ cùng uống thuốc chuột chết cho xong. Em và các con đã khổ quá rồi. Nỗi bất hạnh của anh không dừng ở đó, sau này anh biết vợ anh đã bỏ lại các con cho bà nội để tìm một bến đậu khác. Nào có thể trách ai bây giờ.

Một trích dẫn cuối cùng. “Hai mươi năm làm vợ lính thời chiến, 13 năm vợ tù cải tạo thời bình, là người con gái ở miền quê Bầu Trai. Tôi có làm gì đâu mà suốt đời chỉ sống với nước mắt’’ (Trích Người Bàu Trai. Tháng tư 2004.)

Qua những câu truyện kể trên, hễ mà một chính quyền hảnh dân, làm dân khổ thì ta sẽ xếp hàng về phía những người cùng thân phận hay đứng về phía kẻ có quyền lực. Sự chọn lựa hẳn đã là rõ.

Một cảnh đời khác đang vẽ ra…

Trong khi đó thì theo tin hãng France-presse cho biết, ở Hà nội nay có nhiều xe Honda từ Sàigòn chạy trên đường phố. Xe gắn máy dần thế chỗ cho xe đạp. Một nếp sống mới đang thành hình. Người ta còn thấy nhiều loại nước uống sản xuất bởi hãng B.G.I cũng được bầy bán ở đây. Bát nước chè xanh nay thay thế bằng ly nước xã xị hiệu Con Cọp.

Sàigòn thì như một thành phố bị chiếm đóng và có nạn hôi của những người thua cuộc để khuân về Hà nội. Nhiều nhất là salon, tủ lạnh, quạt máy, máy hát, vải vóc, thuốc tây và ngay cả bột giặt. Nghĩa là tất cả những gì ở Hà nội không có. Những chiếc xe nhà binh chở lính vào thì nay đầy nhóc những món hàng của kẻ thua cuộc để lại. Một cuộc vơ vét thẳng tay và khá trắng trợn.

Hãng giấy Cogido có 8.000 tấn giấy trong kho đã được lệnh chuyển ra Bắc. Tất cả những xe hơi mới của hãng Citroen, Renault, Peugeot cũng được lệnh chở ra Bắc. Hãng Engineco, có 165 xe được tân trang cũng chờ để được chở ra Bắc. Cách mạng bị mang tiếng nhiều về vấn đề này lắm. Những lời mỉa mai, bóng gió không thiếu qua cái câu chẳng thơm tho gì: Miền Nam nhận họ, miền Bắc nhận hàng này.
Hạt gạo miền Nam đã thiếu hụt nay lại phải cắn chia đôi, chia ba cho miền Bắc.

11 tháng 7, 1975, Tướng Trần Văn Trà: Mắt xích cuối cùng của cánh miền Nam

Tướng Trà , tác giả cuốn sách: Kết thúc chiến tranh 30 năm, bị gọi ra Bắc để trả lời và trình bày về những rối ren, về tình trạng an ninh và nhất là tình trạng tham nhũng hối lộ. Vai trò của ông và mặt trận có dấu hiệu không còn nữa.

Cho đến lúc này, nạn tham nhũng trong thành phần cán bộ lãnh đạo, trong chính quyền bắt đâu lộ dạng. Và kể từ đó đến nay, sau gần 30 năm, không có dấu hiệu gì có sự cải tiến. Đã có bao nhiêu nghị quyết? đã có bao nhiêu lần tuyên bố cương quyết diệt trừ tham nhũng?

Ở một nước Tự do thì người dân sẽ có cảm tưởng chính quyền coi thường dân chúng. Có thể thế được chăng? Có thể kéo dài mãi chăng?

11 tháng 8, 1975, tờ Tin Sáng với nhóm cựu dân biểu đối lập thời VNCH

Một tờ báo tư nhân đầu tiên đã được phép xuất bản. Tờ Tin Sáng mà một số người đứng đầu trước đây đều là những dân biểu đối lập trong chính quyền Ngụy. Đó là các ông Ngô Công Đức, Lý Quý Chung, Hồ Ngọc Nhuận, Nguyễn Hữu Hiệp, Hồ Ngọc Cứ, Nguyễn Văn Bình, Hoàng Ngọc Biên, Trương Lộc, Phan Ba, Dương văn Tòng.

Lý Quý Chung tin tưởng rằng với sự có mặt của tờ Tin Sáng cho thấy có sự hợp tác giữa chính quyền mới và những người trí thức chế độ cũ. Ông còn nói thêm, xưa làm báo như thể những người bửa củi, còn bây giờ làm báo như một người thợ nề xây cất.

Theo những người chủ trương tờ báo, họ hãnh diện đây là tờ báo duy nhất không phải Cộng Sản trong lòng một chế độ Cộng Sản. Tờ báo tồn tại được bao lâu? Đó là câu hỏi chưa có câu trả lời. Trong le Nouvel Observateur, mồng 4 tháng 8, 1975, Jean Lacouture viết:

“Ngô Công Đức n’est pas un conformiste. Le revoici à pied d’oeuvre. On verra dans la marge de liberté d!expression qui lui sera laissée un test décisif de L’esprit démocratique du nouveau régime”. Năm năm sau N. Chomsky trong Guerre en Asie viết: “Cinq années se sont passées. Le Tin Sáng de Ngô Công Đức et ses amis parait toujours. Le test est il positif?” Câu hỏi vẫn còn đó, câu trả lời thì có rồi.

Sau này, ông Võ Văn Kiệt trong một bài phỏng vấn vào ngày 30 tháng 4 năm 1980 cũng coi Tin Sáng như một biểu tượng hợp tác giữa chính quyền CS và trí thức miền Nam.

Nhưng chẳng bao lâu sau thì tờ Tin Sáng bị đóng cửa, vì ‘‘đã hoàn thành nhiệm vụ’’ (Tin sáng 1975-1980)
Tờ Tin Sáng ăn mừng:

Ông Hồ Ngọc Nhuận có ý tổ chức một bữa ăn “Đoàn Viên” trong nhóm bạn bè của ông, ở địa chỉ số 132, Lê Lai. Không biết ai trong số những người này đã thay chủ bút mời bữa ăn đó. Có thể là Nguyễn Xuân Lập, Trần Thị Huệ, Huỳnh Tấn Mẫm hay Dương Đầy. Chỉ biết là phường khóm không cho. Cuối cùng chỉ vì một bữa ăn mà phải cầu cứu đến ông Tạ Bá Tòng. Ông Tạ Bá Tòng lại xin ở cấp cao hơn nữa. Nhận được giấy phép ở cấp cao hơn nữa rồi mấy người lu bu, tụ tập đầy đủ ở trên lầu. Phường khóm đã vác súng đến hỏi chguyện. Năn nỉ mãi thì cũng được thông cảm, sau khi xin lỗi và hứa lần sau rút kinh nghiệm hơn. Ông chủ tịch phường khóm khi ra về không quên nhắc: “Nên nhớ, thủ tướng cũng phải xin phép, nếu muốn làm gì ở đây…”

Thứ năm 7 tháng 8, 1975, Học Tập Không Ngày Về

Nay đã hơn 7 tuần rồi, quá cái giới hạn đi học tập một tháng rồi. Chính quyền cho biết nay những người đi học tập có quyền gửi thư về nhà một tháng một lần. Lại một hứa hẹn nữa nhằm xoa dịu đám vợ sĩ quan ở nhà. Chính sách học tập cải tạo là một lãng phí nhân tài, sức lao động sản xuất và nhất là gây hận oán trong bà con, thân nhân người đi học tập. Việc kéo dài thời gian đi học tập một cách không cần thiết làm buồn lòng dân Sàigòn và tạo ra sự mất tin tưởng vào chế độ. Có ai có đủ thành thật để cho biết họ đã học được gì? và đã cải tạo được như thế nào? Vì vậy mà thành phần những người đi học, dù sau này đã được sang đây vẫn canh cánh bên lòng nỗi hận oán chế độ?

Nhân khi đọc bài này, tôi có người bạn là anh Lê Tấn Lộc, giáo sư Triết, nguyên Trưởng Khu Học Chánh 12 tỉnh miền Đông. Với chức vụ đó, anh phải đi trình diện học tập cải tạo. Hai người bạn tù đã chết. Anh có kể rằng có một phái đoàn của Hội Ân xá quốc tế tới thăm trại học tập. Họ đã lùa các anh tù cải tạo vào trong rừng, chỉ để lại một số người làm cò mồi. Trong khi đó, trên tờ Tin Sáng, một trí thức tên tuổi có viết rằng: người đi học tập được ăn thịt gà rôti, nghĩ mát và chơi bóng chuyền. Vui và khỏe mạnh. Cũng ông, khi người con trai của ông làm nghĩa vụ sang đánh Campuchia.. Ông đã làm một bài thơ ca tụng những người thanh niên lý tưởng đã từ bỏ gia đình ra đi giúp nước. Sau này, một số trí thức, trong đó có ông, đã ký tên trong một danh sách biện hộ cho đường lối của chính quyền trong vấn đề tù cải tạo, vấn đề người di tản vv.

Anh Lê Tấn Lộc có quyền bất nhẫn về chuyện đó như kẻ trong cuộc bị phản bội

Xin nêu danh tánh một số trí thức miền Nam đã đặc biệt đứng tên ủng hộ chế độ mới, ủng hộ chính sách đi học tập cải tạo trong một lá thư gửi ra cho bạn bè người ngoại quốc. Họ không cần thanh minh với 3 triệu người VN di tản, mà chỉ biện bạch với người ngoại quốc thôi. Họ là Giáo sư Hồ đắc An. Ông Trương Bá Cần. Ông Võ Đình Cường. Thượng tọa Minh Châu. Nghệ sĩ Kim Cương. Dân biểu Lý Quý Chung. Bác sĩ Trần Văn Du. Nhà báo Ngô Công Đức. Bác sĩ Nguyễn Ngọc Hà. Nhà văn Vũ Hạnh. Giáo sư Trần Vình Hiển. Ông Tôn Thất Dương Kỵ. Giáo sư Bùi Thị Lang, Luật sư Trần Ngọc Liễng, Thẩm phán Trần Thúc Linh, luật sư Nguyễn Long, Giáo sư Phạm Hoàng Hộ, giáo sư Châu Tâm Luân, sư Huỳnh Liên, ông Huỳnh Công Minh, Thẩm Phán Triệu Quốc Mạnh, giáo sư Nguyễn Vinh My, dân biểu Hồ Ngọc Nhuận, giáo sư Nguyễn Quang Nhạc, Giáo sư Chu phạm Ngọc Sơn, giáo sư Phạm Biểu Tâm, giáo sư Trần Kim Thạch, giáo sư Lê Văn Thới, Luật sư Ngô Bá Thành, giáo sư Lý Chánh Trung, ông Phan Khắc Từ, kỹ sư Lâm Văn Vạng, kỹ sư Đinh Xa.

Trong số những người này, đôi khi có người bất đắc dĩ có tên. Họ cũng muối mặt câm lặng, cũng có thể khổ sở lắm. Nhưng phần tôi, cũng bất đắc dĩ phải hài tên họ ra vì trong tay tôi có tên tuổi họ và lá thư trên.

Đây là nội dung mở đầu tóm tắt của lá thư đó: Nous, intellectuels de l’ancien sud Viet Nam, profondément indignés par la bruyante campagne de calomnie et de dénigrement menée dans certains pays occidentaux contre la République socialiste du VN, notre patrie, estimons de notre devoir de publier la présente lettre’’

Và quan điểm của các trí thức có tên tuổi ở trên trùng hợp với quan điểm của một vài nhà báo: “Ces camps ne sont ni des clubs de vacances ni des Goulag’’. Ý kiến của R. Pic, tháng tư 1976. J. Lacouture thì viết: “Ce n’est pas le Goulag apparemment- pas l’école des Roches non plus’’ tháng 5, 1976. Nói tóm một chữ: Chúng không phải những trại tập trung. Cũng không có cái bề ngoài của một trại diệt chủng. Đó là ý kiến của phóng viên đã đến thăm trại Nam Hà và đã gặp cựu đại tá Lê Thanh Hoà, cựu Trung Tướng Huỳnh Văn Cao, cựu nghị sĩ Ng. Văn Hàm.

Họ, những người trí thức có tên ở trên đã tự hạ mình để nói gian dối che đậy cho chế độ.

Phần tôi, xin được phép kiệm lời khi nói đến số phận người tù cải tạo. Bởi vì tôi không đủ tư cách, đủ lời để nói về điều ấy. Còn quá nhiều người mà nỗi khổ, nỗi nhục của họ không thể cất ra lời. Chẳng biết văn chương nào có thể chuyển tải những nỗi đau làm người của kẻ thua trận. Tôi cùng lắm chỉ đứng ngoài mà nhìn vào. Chỉ biết rằng khi tôi đọc: Một nửa Việt Nam Cộng Hoà nối dài của Tạ Chí Đại Trường nhắc đến đoạn: một người đàn bà ngồi trên xe ba bánh trên một đoạn đường đất đỏ, bụi mù. Xe vừa lướt qua thì thấy một đoàn người tù cải tạo đang lếch thếch trên đường về trại. Bà mủi lòng hất bao bố củ sắn xuống và những người tù xấu số đã chạy xô đến tranh dành như một lũ chó đói. Người đàn bà trên xe Lambretta ba bánh thấy cảnh đó bèn vội ôm mặt khóc. Tôi cũng chẳng làm gì khác hơn người đàn bà bất hạnh ấy.

—————————–

Thành lập Hội Trí thức yêu nước

Bên cạnh việc cho Tin Sáng hoạt động trở lại, còn có một biến cố khá quan trọng không thể không nói đến ở đây: việc thành lập Hội Trí Thức yêu nước. Để có được cơ sở hoạt động, chính quyền đã lấy một cơ sở của các cha dòng Đa Minh. Đó là câu lạc bộ Phục Hưng mà trước đây dành cho sinh viên có chỗ ăn ở. Cư xá này do cha Đỗ Minh Vọng, Cras thiết lập từ 1955. Đây chẳng những là nơi dành cho SV có chỗ ăn ở, nó còn là chỗ sinh hoạt của các tổ chức sinh viên công giáo, nơi đào luyện các trí thức trẻ trước khi vào đời. Sau Giải Phóng, như nhiều tổ chức khác tự động tan rã. LM Nguyễn Huy Lịch thời đó đã cho mượn trụ sở này. Người đến tiếp nhận cư xá Sinh Viên là ông Tạ Bá Tòng, một người cư xử rất tốt với đám trí thức miền Nam. Ông Tạ Bá Tòng đã giao cơ sở này cho Hội Trí Thức yêu nước mà đại diện là các ông Chu Phạm Ngọc Sơn và Lý Chánh Trung.

Tổng Thư Ký Hội trí thức yêu nước là ông Huỳnh Kim Báu, một đảng viên đảng Cộng Sản. Phần đông còn lại là trí thức cũ miền Nam, giới nhà văn và nhà giáo cộng với trí thức đi học tập về. Chẳng hạn như trường hợp Thế Uyên mới được thả ra từ trại học tập. Những người này đến Hội Trí thức như những người trú mưa dưới một cái dù che chắn cho khỏi ướt áo. Họ có mặt mà như thể vắng mặt, chìm lẩn vào đám đông.

Trong số những trí thức cũ, có nhiều nhà văn, nhà thơ, nhạc sĩ trước đó đã theo mặt trận hoặc có cảm tình với Mặt trận và lúc này họ nổi bật lên như Lý Chánh Trung, Nguyễn Trọng Văn, Hà Thúc Huy, Nguyễn Đình Đầu, Trần Văn Quảng, Huỳnh Ngọc Chênh, Phạm Hoàng Hộ, Chu Phạm Ngọc Sơn, Phạm Biểu Tâm, Châu Tâm Luân, Nguyễn Tân, Nguyễn Hữu Thái, Trương Thìn, Phạm Trọng Cầu, Hỷ Khương, Hoàng Điệp, Trần Long Ẩn, Miên Đức Thắng, Trịnh Công Sơn, Phạm Thế Mỹ, Đỗ Hồng Ngọc.

Sau này Hội có tổ chức những đêm văn nghệ hát nhạc TCS và được rất nhiều người đi nghe và tham dự. Thay vào tiếng hát Khánh Ly nay có nam ca sĩ Thanh Hải hát nhạc TCS. Nhiều người đi nghe cho rằng Thanh Hải có thể thay thế được tiếng hát của Khánh Ly.

Trịnh Công Sơn trong đêm Văn Nghệ đầu tiên này đang bận ở Huế đã không vào được. Mãi đến năm 1979, TCS mới bỏ Huế vào Sàigòn. Nhưng anh đã có gửi hai bài hát của anh vào nhờ nhạc sĩ Miên Đức Thắng hát dùm. Hai bài hát của TCS có tên là:

Gánh rau ra chợ và Máy kéo nông trường.

Chị Trần Tuyết Hoa, vợ anh Nguyễn Hữu Thái trong dịp này đã khuyên TCS không nên sáng tác những loại nhạc như thế. Không biết Miên ĐứcThắng hát như thế nào và hát làm sao. Hát gánh rau ra chợ, hát máy kéo nông trường đã hẳn không phải là dễ. Tự nhiên MĐT lại gánh cái trách nhiệm nặng nề này. Đây là hai bài hát lỗi nhịp nhất trong cuộc đời sáng tác của họ Trịnh. Biết để mà hiểu, không phải để ghét. Bằng vào hai bản nhạc này, người ta tự hỏi TCS có còn là TCS nữa hay không.

Thái Kim Lan, với bài: “Trịnh Công Sơn; nơi vùng ưu tư thành tiếng Du ca’’ đã viết như sau:’’ Cả một công trình sáng tác mười mấy năm đang bị đe dọa phải chối bỏ, kiểm soát, tự phê bình…Không có bàihát nào của Sơn trong quá khứ được cho lọt sổ. Nhạc Sơn bị cấm phổ biến..Tôi có cảm tưởng đau đớn là Sơn đang tập đi lại những bước nhạc ấu trĩ trong sự nghiệp sáng tác của mình, như kiểu kìa một đàn vịt đang bơi dưới ao hồ…’’ Sau này, tình hình khá hơn, chế độ lỏng tay hơn, TCS sáng tác được mấy bài khác đỡ hơn như Một hòn bi xanh, Ở trọ, Mỗi ngày tôi chọn một niềm vui… Hòn bi … xanh là có vấn đề rồi. Không có lập trường. Riêng bài Ở trọ, tôi nghĩ đấy chỉ là một bài hát rất tôn nghiêm. Tôi nay ở trọ trần gian, mưa nắng cũng ở trọ để rồi khoác áo chân như, bước tới hư vô. Bài hát rất người, rất tôn nghiêm, rất mùi đạo. Cuộc đời như một ở trọ. Đến bài Tôi chọn một niềm vui. Mỗi ngày, tôi chọn một niềm vui, cùng nhau ca hát.. Tôi chọn nơi này, để thấy tiếng cười rộn rã bay. Tôi chọn một lần thôi, tôi chọn nắng đầy.. Nhưng mổi ngày, tôi chọn ngồi thật yên để nhìn rõ quê hương, ngồi nghĩ lại mình, vì sao tôi sống, vì đất nước cần, một trái tim. Hay và ngậm ngùi. Nhưng lại bị hiểu xuyên tạc, bị phản bác là đất nước nay đã thống nhất, thiếu gì niềm vui, hà cớ gì anh lại phải chọn niềm vui. Cắc cớ nữa, tại sao anh lại chọn ngồi thật yên. Anh phải nhúc nhích di chớ. Hà cớ gì lại chọn ngồi thật yên.. Có vấn đề, có vấn đề rồi.

Nhưng biết được hai bài này và những bài sau mới hiểu được thân phận người trí thức dưới chế dộ CS, hiểu đuợc nỗi lòng của họ Trịnh. Cũng như sau này, tôi được biết rằng, họ Trịnh than thở với một người bạn thân của mình là làm bài kiểm thảo đưa cho Hoàng Phủ Ngọc Tường (HPNT) xem trước, HPNT đọc xong cũng chê là viết chưa đạt yêu cầu, phải viết lại. HPNT đang cố lấy điểm để có được cái thẻ đảng. Tôi vẫn bực ông chưa hết và tôi biết rằng viết những dòng này những bạn bè chung quanh ông mà tôi dược biết họ, một số sẽ không vui. Nhưng tôi đành lòng trích một bài viết của tôi vào tháng 12, 2002: Về chính sách của Hànội và thái độ của một số nhà văn miền Bắc đối với văn học miền Nam qua cuốn Chân Dung Và Tác Phẩm của Trần Đăng Khoa: “Trong cuốn ký, chốc lát, thái độ của ông trở thành hung hãn, côn đồ. Ông xách mé gọi người lính Cộng Hoà là thằng lính Ngụy, thằng Diệm, thằng Thiệu. Những người CS thứ thiệt gọi như vậy còn nghe được. Nhưng ông, một trí thức miền Nam, được ăn học, được đào tạo, có cái nếp sống văn hoá của miền Nam, thật khó mà chấp nhận cái ngôn ngữ chợ cá như vậy. Chắc không phải là ông quá.’’. Ông vẫn chứng nào tật ấy, trên Nét Cố Đô, 2005, vào cái giờ này của hơn 30 năm sau, qua lời phỏng vấn cò mồi của Nguyễn Xuân Hoàng (Không phải NXH, giáo sư triết, nhà văn) ông cũng vẫn miệt thị gọi: bọn ngụy. Bọn ngụy là ai. Là tất cả bạn bè của ông, là tất cả họ hàng, bà con thân thuộc của ông ở ngoài Huế.

Đấy là nỗi khốn khổ thứ hai của họ Trịnh bị bạn bè ép. Ép mà phải cắn răng chịu.

Viết đến đây, tôi có điều để thưa. Trước hết cám ơn anh chị Nguyễn Hữu Thái, cựu sv kiến trúc, cựu sv tranh đấu Sàigòn cũ, người đã có cái hân hạnh đứng… bên cạnh tướng Dương Văn Minh, ký giấy đầu hàng CS. Mặc dầu, tôi đã có đôi lần viết hơi nặng lời với anh, anh vẫn không giận, vẫn hỏi thăm rồi gửi cho tôi bài viết của chị Trần Tuyết Hoa, vợ anh và chị đã thẳng thắn tiết lộ hai bài hát sáng tác bất hủ của họ Trịnh. Xin dùng mấy dòng chữ này cám ơn anh chị thay độc giả.

Phần những người được coi là bạn thân của họ Trịnh. Nhiều người chẳng hề tiết lộ hai bài hát này và những bài sau kế tiếp. Ngay cả mới đây, những người viết kỷ niệm 5 năm ngày TCS mất cũng né tránh. Viết thật mới là yêu mến TCS. Ở trong chế độ CS, đừng ai nói hay. Làm người bình thường đã là khó. Huống chi là người hùng.

10 năm sau, Hội Trí thức yêu nước này kể như không còn sinh hoạt gì đáng kể nữa. Một phần người ta lo sinh kế, lo tìm đường đi nước ngoài. Phần khác cán bộ đảng nhà nước ngoài Bắc vào nhiều. “Sự có mặt của họ kể như những thành phần Indésirable”.

Trong số những hội viên hội trí thức yêu nước có Nguyễn Văn Trung. Ông chưa tham dự được bao nhiêu buổi hội họp thì đã bị bắt vào hồi 18 giờ 30, ngày 14 tháng 6, 1978. Với tội danh được ghi trong biên bản: can tội Phản Cách mạng. Biên bản ghi tiếp. Sau khi bị can bị bắt, vợ của bị can là Trần Thị Minh Chi đã cùng đi với chúng tôi khám xét nhà ở thì thấy có những vật kê dưới đây, nghi có liên can đến vụ án (19. tội phản cách mạng):

– Một giấy chứng nhận của trường Đại Học Văn Khoa.
– Một số sách báo, tài liệu cắt báo và chép tay
– Một máy đánh chữ
– Một chứng nhận được giữ sách báo cũ.

Trên đây là những tang vật liên quan đến tội phản cách mạng. Tôi cũng đọc lá thư của Bà Chi gửi vào cho chồng, đã qua kiểm duyệt của Ban Chấp pháp như sau: “Về tả bố, chẳng khác nào như trong truyện được săn sóc nuôi cho ăn uống mập thiệt là mập, trước ở nhà xanh vàng, mặt có những vết nhăn. Bây giờ thấy tròn quay, những vết nhăn biến đâu, trắng..

Bà Trung đã phải viết như thế đấy. Không viết không được. Viết như thế rồi cũng lộ ra những chỗ viết thật thà trong một lá thư khác như: Lưng quần tây của anh rộng nhờ ai khâu bớt vào hai bên.

Và trong hoàn cảnh cô đơn, tuyệt vọng như thế. Ông Trung có lúc tưởng mình không có hy vọng sống còn. Ông đã viết một lá thư như chúc thư để lại ngày 26-11-1978 trong đó có đoạn như sau: “Đối với họ hàng. Cho Bố gửi lời thăm chào từ biệt họ hàng nội ngoại. Xin tha cho Bố những điều đã làm mất lòng và xin hãy thương yêu giúp đỡ nhau, coi những tỵ hiềm là nhỏ mọn. Gia đình Đào chịu khó tiếp tục chăm sóc ông nội. Đối với bạn bè quen thuộc. Chuyển lời Bố xin mọi ngưởi tha thứ những điều đã làm cho buồn phiền và cầu nguyện cho Bố.’’ Nguyễn Văn Trung 26-11- 1978.

Xin đọc với tâm tình chia xẻ về cái khốn khổ trong lao tù Cộng Sản.

Và đến gnày 21 tháng 12 năm 1978. Ông Trung nhận được giấy tạm tha với nội dung: Căn cứ kết quả cuộc điều tra. Không ghi chữ nào cả. Xét thấy: Sức khoẻ bị can quá yếu (bệnh tim)… Trong khi chờ kết quả cuộc điều tra và quyết dịnh di lý.. Ký tên. TL Giám Đốc Công An, Trưởng phòng chấp pháp: Ngô Văn Dần.

Tội vẫn còn đó. Vẫn thế. Chỉ tạm tha thôi.

Cả hai Lý Chánh Trung, Nguyễn Văn Trung đều là trí thức thành phần thư ba. Viết cũng nhiều, ảnh hưởng cũng không ít. Ngưởi tham gia tích cực bằng hành động, người tham gia chỉ bằng ngòi bút. Một dân biểu, một đi tù. Tôi chỉ xin tóm tắt sự nghiệp của các ông bằng cách trích dẫn điều họ viết.

– Đối với Lý Chánh Trung, sự nghiệp viết lách của ông tóm tắt trong câu này: “Về một môn học mà thầy không muốn dạy và trò không muốn học”.
– Đối với Nguyễn Văn Trung, có thể tóm tắt trong lời phát biểu sau đây của ông: “Tham gia Cách Mạng là tham gia vào một quá trình tự tiêu diệt sau này’’.

Về cái hội này, xét về mặt nhân đạo, nó cũng là nơi che dù cho nhiều trí thức miền Nam sau khi đi học tập về khỏi cảnh vùi dập đi kinh tế mới, hoặc khỏi bị phường khóm làm khó dễ, hoặc đỡ đần bao gạo khi túng đói. Sau này, hội trí thức giải tán và dổi ra thành Hội Liên Hiệp Khoa Học Kỹ thuật do Chu Phạm Ngọc Sơn làm chủ tịch. Hội này hoạt động bằng cách mở các lớp dạy sinh ngữ và các sinh hoạt khoa học kỹ thuật. Cuối cùng, dòng Đa Minh đã làm đơn đòi lại cơ sở này qua TGM Bình chỉ hai tháng trước khi ngài qua đời. Sau nhiều năm chờ đợi, nhà nước đã trả lại cơ sở này cho dòng Đa Minh ngày 22-12-2003.

Coi như một món quà Noel của nhà nước.

Thứ năm 14 tháng 8-1975

Có lẽ cái đụng chạm đến người dân miền Nam nhiều nhất vẫn là miếng ăn.

Cơm áo không biết đùa và không đùa với bất kỳ ai, bất kỳ họ là trẻ con hay người lớn. Sống trước đã, có cái ăn trước đã. Không có ăn là không được.

Đời sống mỗi ngày mỗi khó khăn, cái gì cũng trở thành khan hiếm, dĩ chí từ một hạt muối, thìa bột ngọt. Các giáo chức được phát một kỳ một gói bột ngọt, sau xuống mười thìa cà phê bột ngọt, nửa ký thịt trong một tháng, một tút thuốc lá (10 bao), sau xuống một bao rồi đến nửa bao Sàigòn Giải Phóng. Tôi nghiện thuốc lá, nhưng nay một bao thuốc lá mua hợp tác xã bán ra có thể thêm tiền chợ một ngày. Tôi bỏ hút thuốc lá từ đó.

Nhờ Giải phóng, tôi bỏ được tật xấu hút thuốc.

Giá thức phẩm gia tăng. Cái gì cũng khan hiếm đến không hiểu được. Muối là một sản phẩnm quá rẻ, không đáng nói tới cũng trở thành đắt. Một kílô muối tăng từ 50 đồng đến 500 đồng. Một bao quẹt tăng từ 20 đồng đến 40 đồng.. Giá cả tăng đến 80%. Dân chúng bắt đầu phải xếp hàng để đến các hợp tác xã. Đợi chờ cả nửa ngày cho nửa ký sà bông, nửa ký đường. Có những điều trước đây cứ có tiền là mua được, nay trở thành chế độ, xin cho của chính quyền. Chính quyền cho cái gì thì được cái nấy. Nghĩ lại câu nói của một kinh tế Gia Anh nói không sai:”Kẻ nào nắm giữ hầu bao là kẻ đó có quyền”.

Gạo bán ở tổ dân phố không ăn được. Hoặc mốc, muối mọt, hoặc có rất nhiều sạn. Chúng tôi bán đi để mua gạo ăn được. Nay tôi có thêm nghề chạy kiếm các mối bán thực phẩm. Lúc rảnh, tôi chạy xe Vespa ra tận Phú Lâm đón các xe hàng về để mua gạo lậu từ các bà buôn lậu. Họ dấu gạo ở bất cứ chỗ nào có thể dấu được, ngay cả chỗ kín bụng dưới. Đó là những xe thồ di động nơi những người đàn bà dị hình, dị tướng.

Cả nước nay chỉ lo có một chuyện: Lo ăn.

Về lỗi lầm lịch sử của chính quyền Cộng Sản để dân đói, xin được trích dẫn lới chứng của ông Trần Quang Cơ, trong Hồi ức như sau: “Là nhân chứng của lịch sử và cũng là người trực tiếp tham gia các hoạt động ngoại giao này với tư cách là vụ trưởng Vụ Bắc mỹ bộ ngoại giao, trực tiếp tham gia đàm phán về bình thường hoá quan hệ với Mỹ ở Paris năm 1977, rồi Nữu Ước 1978, tôi thật sự đau xót vì ta đã bỏ lỡ mất cơ hội củng cố thế đứng của Việt Nam trong hòa bình…” Trong tập hồi ký của mình “From Third world to first”, Từ thế giới thứ ba đến thế giới thứ nnhất, Lý Quang Diệu đã nhận xét: “Năm 1975, TP Hồ Chí Minh có thể sánh ngang với Bangkok. Nhưng nay, năm 1992, nó tụt lại đằng sau tới 20 năm.’’ Là người Việt Nam, đọc lời nhận xét này của Thủ Tướng Lý Quang Diệu, ai mà không đau xót, vì Việt Nam đã bỏ lỡ cơ hội. Chính quyền Carter thực sự muốn bình thường hóa quan hệ với Việt Nam qua lời tuyên bố của ngoại trưởng Cyrus Vance: “Việc tiến tới bình thường hoá quan hệ Mỹ-Việt Nam phù hợp với lợi ích của hai nước.’’

Nhưng Việt Nam cương quyết đòi Mỹ giải quyết “trọn gói” 3 vấn đề. Bình thường hóa quan hệ ngoại giao, giải quyết vấn đề MIA và viện trợ 3 tỉ 2 như đã hứa. Mỹ bị quốc Hội bó tay trong vấn đề bồi thường. Đến lúc ta quyết định rút bỏ đòi hỏi Mỹ phải bồi thường chiến tranh viện trợ 3,2 tỉ và nhận công thức, “bình thường hóa quan hệ không điều kiện của Mỹ thì đã quá muộn’’.

Việc bình thường hóa quan hệ với Mỹ và việc gia nhập khối Asean, mãi ngót 20 năm sau, 1955, ta mới thực hiện được một cách khá chật vật. Nếu chấp nhận bình thường hoá với Mỹ thì ta đã có thể Không phảỉ một mình đối đầu với Trung Quốc trong cái chiến tranh “dạy cho một bài học”

Đó là cuộc sống bất đắc dĩ.

Ở một góc cạnh khác của đời sống, xin kể là tôi có người bạn là anh Đặng Ngọc Thiềm, giáo sư trường Trần Lục. Không biết có phải vì phẫn chí, vì bất mãn hay có thể bị điên mà anh đã ra nông nỡi này.

Anh có lối sống mà tự bản thân đời sống nó là một lời tố cáo chế độ mới. Đời sống của anh là gián tiếp bôi nhọ chế độ: Chính các anh làm tôi ra nông nỗi này. Từ quần áo dơ bẩn, lôi thôi, từ phong cách thái độ, từ cách ứng xử, từ cách phát ngôn, từ cách thức làm việc, từ chiếc xe đạp cà rịch cà tàng, từ cách cho điểm, từ cách giảng dạy, từ nụ cười châm biếm chế nhạo.

Đến nỗi nhìn qua anh, nhìn ra chế độ. Anh chính là chế độ ấy.

Anh cố tình ăn mặc dơ dáy đến hôi hám, đến bẩn thỉu. Một giáo sư tự trọng, dù nghèo không thể ăn mặc như thế trước mặt học trò. Mỗi lần lĩnh nửa cân thịt, anh treo tòng teng ở ghi đông xe cho mọi người thấy. Anh để lên bàn giáo sư cho học sinh thấy. Anh dơ lên khoe với học trò anh được nửa kí thịt. Học trò im lặng nghe ông thầy làm xiếc, đóng kịch. Anh luôn luôn dùng đủ cách để khen chế độ đến lố bịch.

Anh tố cáo chế độ chỉ bằng những lời khen quá lố. Thông minh và xỏ lá.

Ban Giám hiệu là cấp lãnh đạo ở ngoài vào cũng như trên Quận, Sở đều không có một lời phê phán trực tiếp hay gián tiếp về anh. Họ cư xử thật đúng mực. Bình thường là phải để anh nghỉ việc.

Việc dạy học và cho điểm của anh cực kỳ phi lý và lố bịch. Cột điểm Sử địa của anh bao giờ cũng có ba cột điểm trong một tháng. Hãy coi bằng cách nào anh đã nghĩ ra lối cho điểm quái gở đến như thế. Tỉ dụ học sinh A: Anh cho 3 cột 9 điểm, 8 điểm và 7 điểm. Học sinh B, anh đổi vị trì điểm theo thứ tự như: 8 rồi 7, 9. Học sinh C là 7,8,9. Học sinh D là 7,9,8, E là 8,9,7. G là 9,7,8. Rồi anh cứ cho điểm xoay tua như thế.

Anh không chấm bài, anh không cho điểm hay cho điểm đồng loạt là một cách miệt thị nền giáo dục ấy.

Anh Hiệu trưởng xem và không nói gì cả? Việc cho điểm của anh rõ ràng ngầm ngụ ý không đánh giá học trò, không đánh giá việc dạy học, phủ nhận vai trò thầy giáo và phủ nhận luôn việc dạy học.

Đây là một thứ phản đối tối thượng (Ultimate protest). Mang chính bản thân mình ra làm đối tượng diễu cợt.?

Nếu không có cuộc đổi đời, anh Thiềm sẽ là một giáo sư như thế nào? Trước đây, anh trịnh trọng, áo sơ mi là ủi dài tay, thắt cà vạt, dáng người to lớn, dềnh dàng, không thiếu trịnh trọng trong đi đứng, ăn nói, xử thế. Vài ba năm sau, tôi ra khỏi nước, được tin anh đã mất.

Tiếc cho một người tính tình lúc nào cũng vui cười với óc hài ước rất cao đã tìm cách tự hủy nhân cách mình dần dần một cách cố ý. (Suicide prolongé et intentionnel ) Cố ý tự hủy, cố ý sa đọa hoá nhân cách và con người như thể không còn là con người nữa.

Đó là lối tự hủy của người có học, của trí thức bầy tỏ một nhân cách lộn ngược, bất cần đời thường thấy nơi một số nhà văn, nhà trí thức, người hiểu đời, hiểu thế sự…

Thứ sáu 15 tháng 8-1975, giám mục Seitz, địa phận Kontum-Pleiku bị trục xuất khỏi Việt Nam

GM Seitz cùng với 9 người khác gồm 6 linh mục và ba nữ tu đã bị trục xuất khỏi VN. Các tu sĩ trên đã bị quản thúc tử tháng 3-1975 ở trên cao nguyên. Vài ngày trước đấy, họ được lệnh dời khỏi cao nguyên. Sau khi bộ đội lục soát hành lý của họ, họ được chở bằng xe che mui kín về Sàigòn và giam giữ ở khách sạn Caravelle, sau đó được dẫn ra phi trường. Đừng quên là sau này vào ngày 7-7-1976, những linh mục dòng tên cuối cùng cũng đã dời Việt Nam (gồm hai Pháp, 2 Y Pha Nho, một Gia Nã Đại và một Ý). Dòng tên còn lại khoảng 30 lm người Việt Nam.

Một số người Pháp vẫn tưởng rằng họ được chính quyền mới ưu đãi hơn các người ngoại quốc khác. Thực tế không phải vậy. Giám đốc đồn điền IPH và Chủ nhân hãng Michelin cũng phải cuốn gói. Chẳng những mất tài sản mà chính phủ Pháp qua đại diện còn phải đứng ra bảo lãnh những món thuế còn thiếu của các công ty này. Giám đốc CARIC cũng được phép dời VN để tìm sự trợ giúp tài chánh nơi chính phủ Pháp cho những công trình đóng tầu biển. Nói chung, các công ty này tự dâng hiến toàn bộ cơ sở vật chất, tài sản bất động sản mà vẫn còn nợ thuế chưa trả được.

Khi về lại Pháp, GM Kim có viết một cuốn sách nhan đề: “Le temps des chiens muets” (Thời của những con chó câm). Ông viết: “Les chiens muets, ce sont ceux qui ont peur de dire la vérité, qui n’osent pas aboyer” (Những con chó câm là những con chó sợ nói sự thật và không dám sủa).

Xin trích bản thông cáo lý do trục xuất các người ngoại quốc như sau: Communiqué du service d!information et de la culture de la province de Kontum.

Les étrangers qui viennent d!être expulsés le 12 aôut 1975 et dont les noms suivent: Paul Seitz. André Marty. Léon Dujon. Marcel Arnould. Josep Curient. Gabriel Brice. Olivier Deschamps. Edirc Baker. George Christian. Raphaelle Cormier. Marie-Renée Legal. Cécile de Boissy ont commis des crimes suivants:

Họ phạm 8 tội tất cả. Tội nào cũng đáng lãnh án chung thân hay tử hình như trong bản thông cáo nói: crimes qui méritent l!emprisonnement et la peine de mort. Vậy mà họ chỉ bị trục xuất mà còn bất mãn phản đối đòi ở lại.

Tội nặng như thế, trục xuất là phải rồi.

Phần tôi, tôi chỉ mong muốn thay thế chỗ của Paul Seitz để được trục xuất sang nước Pháp mà không được.

———————-

Số phận Tổng Giám Mục (TGM) Thuận đã được an bài

Cũng trong ngày 15 tháng 8 này, Phó TGM Nguyễn Văn Thuận rời thành phố Sài Gòn đi tù suốt 13 năm. Sau này, một trong số những người chống đối việc bổ nhiệm của Đức Cha (ĐC) Thuận như ông Nguyễn Văn Chín, đại diện phong trào Công giáo Dân tộc và là LM Thanh Lãng (TL) đã viết lời xin lỗi trong một lá thư di chúc vào ngày 28/11/1988 như sau: Tôi xin công khai sám hối với Chúa và Hội Thánh Toàn cầu và VN. Lạy Chúa, xin tha thứ cho con mọi lầm lẫn và ban cho con lòng tin lòng trông cậy và ơn tha thứ. Tôi xin công khai sám hối xin lỗi đức Cha Nguyễn Văn Thuận, xin Chúa gìn giữ và trả công cho đức Cha.

Ngày 28 tháng 11/1988. Đinh Xuân Nguyên, Thanh Lãng (TL). LM TL sau đó qua đời ngày 17/12/1988.

Về cái chết của TL, có dư luận nghi ngờ vì có sự ám toán mờ ám. TL có viết gửi nhà nước một thư ngỏ để bênh vực quan điểm của giáo hội về việc phong thánh. Bức thư được in ra nhiều bản chuyền tay nhiều người. Có một số sinh viên (SV) văn khoa đến xin được gửi bức thư ra Hải ngoại để được phổ biến rộng rãi. Ông đã tiếp họ trong trạng thái bình thường và vui vẻ. Thế rồi Công an quận Tân Bình mời lên gặp và qua ngày hôm sau, ông bị trúng gió và qua đời trong sự bán tin bán nghi của nhiều người.

Cũng trong cái tinh thần xám hối ấy mà sau này vào tháng 8/1988, một nhóm LM và giáo dân đã họp ở trụ sở báo ĐMHCG thuộc dòng Chúa Cứu Thế (CCT) soạn thảo hai bức thư, một gửi cho TGM Nguyễn Văn Bình, một gửi cho HĐGMVN vào ngày 15/8/1989 để yêu cầu đòi can thiệp cho TGM Thuận trở lại Sài Gòn.

Hai lần họp. Hồi 1975 tụ tập ở toà khâm sứ và toà TGM đòi trục xuất TGM Nguyễn Văn Thuận để ủng hộ chính quyền. 12 năm sau, tụ họp đòi cho TGM Thuận trở về, chính thức chống đối chính quyền.

Ngày 16 tháng 8/1975, một lá thư chung của Toà Giám Mục… ra quá chậm

Giáo hội thường được gọi là thầm lặng miền Bắc do Tổng Giám Mục (TGM) Trịnh Như Khuê đợi đến hơn 3 tháng sau, hôm nay mới chính thức ra thông tư, mà nội dung hoàn toàn đạo giáo, không nhắc gì đến ngày 30 tháng tư cả. Người ký thay Giám mục là LM Trần văn Mai.

Nội dung lá thư có những câu như: “cố gắng làm người công giáo tốt, người công dân tốt. Công giáo tốt thì cầu nguyện cho họ chóng được lên Thiên đàng, công dân tốt thì mừng Quốc khánh cách long trọng.”

Giọng điệu không có gì là hồ hởi, lại còn có vẻ lờ đi cái ngày trọng đại thống nhất 30 tháng tư nữa.

Trong khi đó lá thư trong Nam của cha Đức Cha (ĐC) Bình đề ngày 2/9/75 có những đoạn: “trong lòng của tín hữu, cõi trần gian và cõi trời không còn cách biệt, không còn phân ly, nhưng đã hoà đồng và vươn lên mãi dưới sức tác sinh của Thánh Thần Thiên Chúa. Sống niềm tin ấy trong những ngày lịch sử này của dân tộc, chúng ta không còn lý do gì để không vui mừng đón nhận những giá trị của Cách Mạng.”

Hai lá thư chung của hai TGM ở vào hai thời điểm khác nhau cho biết thái độ của họ đối với chính quyền như thế nào.

Hơn 20 năm sau sống dưới chế độ được mệnh danh là “giáo hội thầm lặng”, hình như những vị lãnh đạo Thiên Chúa giáo miền Bắc vẫn chưa nuốt nổi món ăn CS và mối quan ngại đối với chính quyền Cộng sản vẫn còn.

Vì thế, không lạ gì cuộc an táng ĐC Bình, khác hẳn cuộc an táng của Hồng Y Trịnh Như Khuê. Đám tang TGM Bình vào ngày 3/7/1995 được tổ chức trọng thể. Báo Sài Gòn Giải Phóng (SGGP) ra ngày 4/7/1975 cho biết rõ tên tuổi một số cơ quan và nhân vật tham dự. Đặt vòng hoa có: Ông Đỗ Mười, Tổng Bí Thư, ĐCSVN. Ông Lê Đức Anh chủ tịch nước CHXHCNVN. Ông Nông Đức Mạnh, chủ tịch Quốc Hội. Đến viếng có ông Nguyễn Văn Linh, Võ văn Kiệt và các Đoàn Đại biểu Uỷ ban Trung ương Mặt Trậ.n Tổ Quốc (UBTUMTTQ). Đoàn Đại biểu Dân Vận trung ương, Đoàn Đại biểu thành uỷ, Hội Đồng nhân dân TPHCM vv..

Cáo phó đăng hai lần liên tiếp trên tờ SGGP vào ngày mùng 2 và 3, tháng 7, trên trang nhất, góc dưới bên phải, chỗ thường chỉ để dành riêng cho các lãnh tụ Đảng và nhà nước từ trần mà thôi.

Và đây là một vài lời chia buồn của các viên chức nhà nước. Ông Lê Khắc Bình chủ tịch UBMTTQ Tp HCM ghi: “Vĩnh biệt cụ TGM Phao Lồ Nguyễn Văn Bình, đã góp phần vào việc xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân’’. Ông Võ Trần Chí, bí thư thành uỷ dẫn đầu đã ghi vào sổ tang: “Vô cùng thương tiếc cụ Phao Lồ Nguyễn Văn Bình, TGM giáo phận tp. HCM đã tận tụy suốt đời kính Chúa yêu nước, góp phần vào sự nghiệp đại đoàn kết dân tộc’’ Trong khi đo thì ông Trần Bạch Đằng nói lén nhân một buổi hội nghị, TGM Bình là một ông cù lần nhất trong ba ông cù lần.

Có lẽ lời nhận xét trung thực nhất là cụ Bình là người luôn luôn chịu đựng, đứng mũi chịu sào và đồng thờĩ vừa phải tìm cách hợp tác với chính quyền mới.

Nhưng chẳng nên nhìn mấy cái bề ngoài phô trương của đảng này để xét đoán con người. Hãy nhớ lại những lời phát biểu của TGM trước khi chết như một chúc thư cho người ở lại qua lời phỏng vấn của Trần Bá Cường: ‘Nhưng với tôi, 20 năm qua, cảm tưởng sâu đậm của tôi là đã phải sống một thời gian dài nhất của đời người’. Hiểu câu này như một lời trối trăn để hiểu nỗi khổ tâm của một người chủ chiên ở trong một hoàn cảnh đất nước đã phải cam chịu trong 20 năm qua.

Thứ ba, ngày 19 tháng 8/1975, những món quà ý nghĩa

Ngày kỷ niệm nắm chính quyền của Việt Minh vào năm 1945. Chính quyền đã gửi đến cấp lãnh đạo Thiên Chúa giáo bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng của người có đạo. Nhưng người ta cũng chưa quên được việc trục xuất mới đây GM Kim và các thừa sai người Pháp.

Món quà thứ hai cho dân thành phố là việc phóng thích 200 người trong các trại học tập cải tạo. Con số quá ít ỏi, nhưng cũng cấy được một chút hy vọng mỏng manh nơi các gia đình có người thân còn trong trại học tập cải tạo. Niềm tin đó đã kéo dài lê thê trong nhiều năm sắp tới.

Món quà thứ ba đến từ Liên Xô. Một tầu dầu của Liên Xô đã cập bến Sài Gòn mang theo 31 vạn tấn dầu.

Trong những món quà khác, Hội Hồng Thập (HTT) Tự Quốc Tế đã gửi bằng đường biển đến VN thuốc men, dụng cụ y khoa. Điều đặc biệt là Hội Hồng Thập tự đã nhận được một giấy đòi thuế cho những món quà tặng đó. Số tiền là 36 vạn đô la mà Hội HTT phải trả. Hai bên đã thương lượng rất nhiều lần mới đi đến được thỏa thuận. Quà đã tới, đã trao làm sao thu hồi lại được. Vấn đề là làm sao trả bớt thuế. Cho quà mà còn phải đóng thuế, họa chăng chỉ có người VN.

Rút kinh nghiệm quà phải đóng thuế, cho phải trả tiền, một chuyến tầu khác của Hội Hồng Thập Tự đang trên đường đến VN đã được lệnh đổi hướng đến một nước khác biết điều hơn.

Thứ ba 26 tháng 8/1975, tờ Tin Sáng loan tin

Tin ở đây là chính quyền đã kiểm soát và làm chủ đến 70% các cơ sở xí nghiệp ở miền Nam. Trong đó có hãng Denis Frères của Pháp. Nhân công sau đó bị cho nghỉ việc mà không được bồi thưởng một đồng xu nào.

Các ngân hàng tư là những nạn nhân đầu tiên. Tiền bạc, tài sản đều đuợc chuyển giao về Ngân hàng Quốc Gia

Ngoài việc chiếm các cơ sở thương mại, các cán bộ cao cấp chính quyền mới còn chiếm các biệt thự, các dinh thự cũng như các tài sản ở trong đó. Mặc dầu có thông cáo ra lệnh:không có bất cứ tổ chức nào, không có bất cứ đơn vị quân đội nào có quyền trục xuất những người ở trong các biệt thự đó cũng như tịch thu tài sản của họ.

Có lẽ cùng lắm chỉ có dinh thự của ông Hannon, giám đốc CARIC là không ai đụng tới. Cũng vì vậy, chẳng mấy chốc mà những cán bộ cao cấp trong đảng trở thành triệu phú như ông Lu nhận xét. Ông Lu His-Ying, môt thương gia tiếng tăm và có thế lực của người Tàu, một người theo chủ nghĩa Mao cười nói rằng Trung Quốc rất chú ý đến ý nghĩa cuộc chiến thắng này, đồng thời đến số phận những người Trung Hoa như ông hiện nay. Có tất cả 1 triệu rưởi người Trung Hoa như ông Lu và đó là con số đáng kể. Sau đó, ông cho rằng những người của Hà nội ông có thể mua được dễ dàng. Lại cười.

Cái cười của người Trung Quốc.

Lời nói tiên tri của ông Lu phải chăng mở đầu cho một cơ cấu chính quyền tham nhũng như hiện nay.

Trong khi đó báo chí tuyên truyền, rỉ rả cho ngày lễ Độc Lập sắp tới. Để chuẩn bị cho ngày đó, 1000 nhà sư đã tụ tập đến rạp Rex vào ngày 27 tháng tám để học tập. Ngày hôm sau, cũng khoảng con số như thế những tu si Ki Tô giáo đến rạp này cũng để học tập.

Các nhà sư, các ông cha quen làm thày dạy người khác, quen giảng, quen thuyết pháp. Lần đầu tiên trong đời, họ trở thành những cụ, những quý vị LM, tu sĩ, những quý vị Thượng Tọa, đại đức trở thành các tỳ kheo, các học trò ngoan ngoãn như học trò nghe người khác dạy.

Nào trước đây ai đã dạy được các cha, các thày, các thuợng toạ, đại đức. Gớm thay cho người Cộng Sản.

Đó là những buổi học tập bất đắc dĩ để mừng một ngày lễ. Kể từ dây, hễ có lễ lạc là phải học tập. Bất đắc dĩ phải nghe, bất đắc dĩ để mừng.

Thứ bảy 30 tháng 8/1975, câu chuyện về các nhân vật chế độ cũ

Ông Trương Vĩnh Lễ (TVL), nguyên chủ tịch Quốc Hội VNCH thời đệ nhất, chủ nhân nhà in Sài gòn ấn quán. Hồi còn chế độ Ngô Đình Diệm, mỗi lần có dịp lễ lạc gì trên Viện Đại Học Đà Lạt, tôi đều nhận thấy ông có mặt. Có thể, ông đã không thiếu một buổi nào. Trông ông hiền lành như ma sơ. Một người như ông, hiền lành như bụt, chắc làm chính trị là phải. Ông có cả hai cái hiền đó cộng lại. Về sau này, những Trương Công Cừu, Trần Văn Lắm chỉ có cái giả vờ hiền. Thua ông Lễ nhiều lắm. Trong những buổi lễ như thế, tôi cứ chú mục nhìn ba người, nhìn ông Lễ, nhìn ông Diệm rồi sau đó đó lại liếc sang nhìn ông Nhu. Thật chả giống nhau tý nào. Ông Nhu có cái nhìn xa vắng, tiết ra cái oai dễ sợ lắm, ngồi đó mà nghĩ đâu đâu, không nhếch mép một nụ cười. Không thèm chú mục tới bất cứ ai. Không để ý tới những bài diễn văn, những lời chúc tụng chung quanh mình. Ông Diệm dễ mỉm cười, hơi tý đỏ mặt, có vẻ người bề ngoài là người phúc hậu, dễ gần, dễ cởi mở. Sau này, dư luận nói ông ác lắm, tôi cũng không tin. Ông Lễ thì khép nép từ tốn, chắp tay cúi đầu khi lên chịu mình thánh Chúa. Ông Diệm không còn là một Tổng Thống, mà là một ông cha. Còn ông TVL, không còn là chủ tịch QH, mà là một con chiên.

Từ đó, tôi đã biết chọn, ai trong ba người là người làm chính trị. Tự thâm tâm, tôi đâm mê ông Nhu, tôi để ý cái lối ngồi bất động, bộ áo vét hơi nhầu nát, chểnh mảng, mái tóc hoa râm, cứng, thưa và hơi biếng chải, làn da mặt đồi mồi hơi xạm tối, cái vóc dáng trí thức khác người, hơn người của ông. Tôi không lần nào thấy bà Nhu ngồi gần, hay bà ngồi đâu xa xa, lẩn vào đám đông. Chỉ có vậy mà tôi đã nhớ ông suốt đời. Sau này, tôi có nguời bạn là NTV cũng nhắc lại một tâm trạng giống y như tôi… chúng tôi đều chỉ ngồi nhìn ngắm ông Nhu.

Kể từ đó, tôi không thấy khuôn mặt chính trị nào đáng nể nữa. Nhưng nhắc tới ông Nhu là nhớ tới ông Lễ như một phụ bản. Tôi nhớ đến ông TVL là vì thế. Nay nhà in và toàn bộ máy móc của ông đã bị trưng thu kể từ tháng 7. Được tin ông bị bắt cùng với toàn thể gia đình vì có ý định trốn đi ra nước ngoài.

Tự nhiên, cả một quá khứ quay trở về. Tôi nhìn ra chỗ ngồi của ông TVL bên cạnh TT Ngô Đình Diệm và cuối hàng ghế đầu, phía tay trái, chỉ còn một người ngồi nữa là hết dãy ghế, chỗ của ông Ngô Đình Nhu, chỗ có vẻ khiêm tốn, khuất lấp. Thật ra chỗ của ông Nhu, ông muốn ngồi chỗ nào mà chả được.
Sau này, không biết số phận ông Trương Vĩnh Lễ ra sao.

Danh sách trí thức miền Nam ủng hộ chế độ mới — Đây là những trí thức trong thành phần thứ ba và nay ra hợp tác với chính quyền mới. Đây là danh sách cụt và ngắn gọn. Còn rất nhiều người tham gia hợp tác khác mà chưa đủ nổi, chưa tiện nói.

Cao Thị Quế Hương, Chân Tín, Huỳnh Công Minh, Huỳnh Liên, Huỳnh Tấn Mẫm, Lê Văn Giáp, Lê Văn Thới, Hồ Ngọc Nhuận, Lê Văn Nuôi, Lý Chánh Trung, Lý Quý Chung, Ngô Bá Thành, Ngô Công Đức, Nguyễn Duy Thông, Nguyễn Hửu Hiệp, Nguyễn Long, Phạm Biểu Tâm, Phan Khắc Từ, Thích Minh Châu, Tôn Thất Dương Kỵ, Trần Ngọc Liễng, Trần Thúc Linh, Triệu Quốc Mạnh, Trịnh Đình Thảo, Trương Bá Cần, Võ Đình Cường, Võ Thị Bạch Tuyết, Vương Đình Bích.

Phần cụ chủ tịch Thượng Nghị Viện VNCH Nguyễn Văn Huyền — Cụ đã đứng ngoài danh sách trên. Sau này cụ đau nặng. Nhưng Ủy Ban Trung Ương Mặt trận tổ quốc Việt Nam đã nhiều lần mời cụ tham gia vào mặt trận. Cụ đã từ chối vì lý do sức khỏe. Trên tờ Đại Đoàn Kết, người ta nhắc lại với lời tán dương cụ là người đã biện hộ cho luật sư Nguyễn Hữu Thọ ở thời kỳ chống Pháp. Nhưng họ cũng không quên nhắc khéo cụ đừng có làm cao quá về lời mời tham gia vào Mặt Trận… vậy mà cụ đã vô tình lặng lẽ ra đi chưa kịp có một lời giã biệt. Mới đây tờ báo điện tử Chuyển Luân, bên Úc đã cố ý nói không tốt về cụ gián tiếp cho rằng cụ và nhóm Trần Văn Lắm đã làm áp lực lên Thủ Tướng Võ Văn Kiệt đưa đến cái chết của TT Thích Thiện Minh ở trong tù. Một cái chết còn rất nhiều nghi vấn. Nhưng đưa ra một giả thuyết vô bằng như vậy quả là không nên.

Xin nêu ra vài nhận xét của Hồ Ngọc Nhuận về cụ Huyền. Kể cũng trớ trêu thật, cùng tên Nhuận mà mỗi người xét đoán sự việc mỗi người mỗi khác. Hoàng Nguyên Nhuận, trên Chuyển Luân thì nghi can cho cụ có trách nhiệm vào vụ thảm sát TT Thích Thiện Minh. Còn Hồ Ngọc Nhuận thì lại nghĩ rằng, cụ là một trong những nhà chính trị hiếm hoi của VNCH là người đạo đức. Cụ cũng là người mà Cao Thị Quế Hương, một sv Phật tử tranh đấu hết lòng bày tỏ sự biết ơn, vì thời gian ở tù, cô vẫn được cụ tới viếng thăm và giúp đỡ. Hồ Ngọc Nhuận đã viết như thế này: Không biết cụ lấy đâu ra từ trong con người ốm yếu của cụ cái chất giọng trầm, sắc, chắc, khoẻ, to và cái hơi dài như vậy. Hãy xem cảnh cụ Huyền điều khiển Thượng Viện dưới ngòi bút của Hồ Ngọc Nhuận:

Như trên đã nói, tôi muốn nói gì cứ nói, tôi muốn đao to búa lớn với hành pháp thế nào cũng được, như trong vụ dân biểu Trần Ngọc Châu bị bắt và trong nhiểu vụ khác… Nhưng khi tôi vừa cất giọng hướng mũi tấn công về cụ Lương coi như đồng lõa của hành pháp… thì nhanh như cắt, cụ Huyền chộp lấy cái búa gỗ… Hẳn cụ chủ tịch TV cho rằng cụ chủ tịch Hạ Viện là khách danh dự của cụ, nên cụ phải bảo vệ, không để ai động đến. Nhưng tôi đâu nỡ để cho cụ ‘búa’ mất sức lắm… và cảnh vờn nhau thầm lặng không kém phần quyết liệt giữa một già, một trẻ như vậy tại Hội Trường không chỉ diễn ra một lần, khiến nhiều đồng viện để ý theo dõi cũng phải bật cười.

Sau gần 20 năm sống thầm lặng, cụ bỗng được mời vào Trung Ương MTTQVN. Là người sùng đạo, cụ Huyền cũng là người mực thước, đức độ và rất được cố TGM Bình hết mực tin cậy. Cụ có người em gái là nữ tu dòng kín. Đến lúc cuối đời, cụ vẫn sống khiêm tốn, giản dị, hàn vi trong ngôi nhà nhỏ ở gần góc Hồng Thập Tự- Bùi Chu, một phần nhà mặt tiền dành cho một người cháu hành nghề hớt tóc. Yếu nhiều, cụ nghỉ ngơi, làm việc ngay tại phòng khách, cạnh giường luôn để sẵn cây gậy.

Một thời gian sau, cụ Huyền lặng lẽ ra đi. Mà không ai hay.

Tôi nghĩ viết như thế là đủ, khỏi cần tranh cãi với Hoàng Nguyên Nhuận.

Thứ ba, mồng 2/9/1975, Kỷ niệm ngày lễ Độc Lập

Đây là buổi tập trung đông đảo người nhất kể từ 30 tháng tư. Buổi chiều có pháo bông. Tờ Giải Phóng cho biết có 10 triệu người tham dự buổi Mít tinh trên tổng số hơn 3 triệu dân thành phố.

Lại những con số ảo đến lố bịch. Có những con số làm phiền, có những con số ảo lố bịch và có những con số làm ta phát nản.

Cũng trong dịp này, thành phố Hà nội khánh thành khách sạn Thắng Lợi. Cũng là dịp để mừng 30 năm ngày tuyên bố Độc Lập. Khách sạn này là do tiền tài trợ giúp của nước Cuba anh em cho Việt Nam. Vật liệu xây dựng từ bao xi măng đến cái nắm cửa, cho đến thày thợ đều chở từ Cuba sang. Ở vào thời kỳ đó thì khách sạn Thắng Lợi là niềm tự hào của hai nước và chỉ dành cho các khách sang, các nhà ngoại giao từ ngoại quốc đến. Ở đây cũng là kho lương thực cho các nhân viên đại sứ quán có thẻ lương thực mà tiêu chuẩn là một nửa lít sữa cho ba người một ngày và nửa kí lô đường cho một người trong một tháng.

Tiêu chuẩn lương thực như thế cũng chả có gì là hấp dẩn, nhưng đối với một người VN bình thường thì quả là không dễ mà có được.

So sánh khách sạn Thắng Lợi với khách sạn Thống Nhất, còn gọi là hotel Métropole cũ thì cũng khác xa nhau một trời một vực. Tòa Đại sứ Ý (Italy)ưu tiên có được hai phòng cho hai cố vấn tòa Đại sứ với gia đình họ ở khách sạn Thống Nhất. Toà đại sứ Iraq thì chỉ được một phòng, vừa làm văn phòng, vừa làm chỗ ăn ngủ cho 3 nhân viên sứ quán. Muốn có máy lạnh thì nhân viên sứ quán phải tự mang máy lạnh đến và khi dời khỏi khách sạn thì phải hứa tặng lại cho khách sạn.

Các nhân viên sứ quán thì bị hạn chế di chuyển và chỉ có chuột là tự do đi lại trong khách sạn. Nhân viên sứ quán Úc Đại lợi (Australia) nhận thấy nước máy quá dơ bẩn đã nghĩ ra được cách lọc nước máy đơn giản và hiệu quả. Buộc một chiếc bít tất vào vòi nước. Vậy là xong.

Kỳ tết vừa rồi, tôi có dịp đi ngang qua khách sạn này. Nó chẳng còn như xưa nữa mà đi vào sự hoang phế chờ để được đập phá đi.

Tất cả đã thay đổi nhiều lắm

Có tin bệnh viện Grall đóng cửa — Bệnh viện tư duy nhất của người Pháp còn để lại. Phải đóng cửa, vì thiếu thuốc men, mặc dầu có một số thùng thuốc được chở đến từ Singapore từ 22 tháng 7. Theo các bác sĩ trong bệnh viện, nhu cầu thuốc men cần cho bệnh viện lúc này là 20 tấn. Chuyện phải đến đã đến, mặc dầu Sài Gòn thiếu trầm trọng các bác sĩ, y tá cũng như thuốc men.

Tốt hơn hết trong lúc này là đừng có ốm đau gì cả.

Người ta có trhể nhịn ăn, nhịn mặc, nhịn nói, tại sao lại không có thể nhịn ốm được nhỉ?

Thứ sáu, 12 tháng 9/1975, Hội nghị Hiệp Thương thống nhất tổ quốc

Phái đoàn gần 100 trí thức miền Nam ra thăm miền Bắc đi tham dự Hội Nghị Hiệp Thương Thống Nhất Tổ Quốc.

Trong phái đoàn đặc biệt có Ni sư Trưởng Huỳnh Liên, luôn luôn mặc áo toàn vàng nghệ, theo phái khất sĩ, đầu cạo láng coóng. Thật chẳng giống gì với mấy sư ông miền Bắc toàn một mầu nâu, đầu quấn khăn. Bên cạnh theo phù tá là Nữ nghệ sĩ Kim Cương cũng láng coóng theo kiểu áo dài trong Nam..

Trong phái đoàn có một nhà báo kỳ cựu là ông Nam Đình. Cho đến bây giờ, tôi vẫn không hiểu được tại sao ông lại có mặt ở đây. Trước đây trong Hồi ký Nam Đình, hồi ký làm báo của ông, ông đã cực lực lên án phe đệ tam đã giết hại những người của phe đệ tứ như Phan Văn Hùm, Tạ Thu Thâu. Ông là một trong những nhà báo nổi tiếng có một thư viện đồ sộ và những tài liệu quý báu ít ai có được. ( Xem thêm, Nhìn lại sáu mươi năm tranh đấu cho Việt Nam. Hồ sơ đệ tứ, tập 3. Nhóm đệ tứ VN tại Pháp )

Còn Chân Tín thì trẻ con miền Bắc tưởng lầm là ông Liên Xô. Với vầng trán hói quá khổ và mái tóc dài thõa xuống ngang vai. Lúc đó, ông làm lớn lắm: Thứ nhất là Ủy viên Trung ương Mặt trận tổ quốc VN và phó chủ tịch Mặt trận thành phố. Mới đây, tôi gặp lại ông ở Sài Gòn thì đầu tóc đã ngắn không còn dài như trước nữa. Chỉ ít lâu sau khi về lại thành phố thì ông đã nói: Tôi được giải phóng rồi, nghĩa là mất tuột tất cả những chức vụ hữu danh vô thực trên. Lúc này thì ông kêu gọi người Cộng Sản phải sám hối.

Ông bị cô lập và cuối cùng giam lỏng ở Cần Giờ. Những người bị giam tù thời VNCH như Huỳnh Tấn Mẫm, Nguyễn Huy Diễm hay Võ Thị Bạch Tuyết, giám đốc Sở lao động thương binh và xã hội thành phố cũng thường rủ nhau tới thăm ông. Thăm như một trả ơn nghĩa lúc ông là sáng lập Ủy Ban đòi cải thiện chế độ lao tù tại miền Nam VN.

Nguyễn Ngọc Lan thì cân cả quần, cả áo mới nặng được 33 kí lô sau khi ăn cơm xong. Ông tham quan Hà nội, 1975 về viết bài trên tờ Đứng Dậy, trước hồi VNCH là tờ Đối Diện. Bài báo nhằm giới thiệu Hà Nội một cách trung thực với nhan đề: Hà Nội tôi thế đó. Thế đó là thế nào. Nghĩa là nghèo xác xơ. Nói thế đâu có được. Nói thế là chửi xỏ xiên chế độ. Kết qua là Đứng Dạy đóng cửa và ít lâu sau, ông trở thành người đối lập chỉ trích nhà nước Cộng Sản trong: Những tin nhà.

Lại có thêm Lý Chánh Trung, người nổi bật nhất trong phái đoàn, có thói quen ngậm ống vố rất là cao sang và tự hào. Ông kể cho tôi là đi đến đâu, từ chị lái đò đến anh công nhân đều đã đọc bài viết của giáo sư trong thời kỳ chống Mỹ cứu nước. Như thế, trình độ văn hóa của dân miền Bắc kể là cao hơn so với miền Nam. Nghe những truyện ông kể, tôi thật sự không vui. Tôi chỉ biết nói thế. Sau này mới đây gặp lại ông, hình như ông đã bỏ thói quen ngậm ống tẩu. Ông chỉ còn giữ lại được nụ cười nhếch mép cố hữu từ thời tuổi trẻ. Cái còn lại duy nhất của đời ông lúc tuổi xế chiều

Bà Ngô Bá Thành và Lý Quý Chung (cả hai đều đã mãn phần) đều coi đấy là một vinh dự hi hữu của cả một đời người. Riêng Lý Quý Chung, trong Hồi ký không tên của ông cho hay, khi ba ông, ông Lý Quý Phát, bị đột quỵ và lúc tập nói được thì câu đầu tiên ba ông đã nói với ông như sau: Tao không muốn gặp mày nữa, gia đình mày đã ra thế này, cha mày đã ra thế này mà mày còn viết báo cho Cộng Sản, cha mày từ mày. Ông thú nhận là chưa bao giờ ba của ông đã nặng lời với ông như thế. Ông viết thêm về gia đình ông: Cùng một lúc, tôi mất bảy đứa em, vào lúc này người vượt biển coi như không có hy vọng gặp người ở lại.

Nhưng câu thú nhận đau lòng nhất vẫn là: Sau 30 năm, tôi vẫn là “người khách đặc biệt”, chưa bao giờ là một thành viên trọn vẹn của chế độ mới.

Sau đó thì phái đoàn miền Nam được hướng dẫn đi tham quan một xã tiêu biểu là xã: Như Quỳnh, cách Hà nội 20 cây số trên đường đi Hải Phòng, thuộc tỉnh Hưng Yên. Sau chuyến tham quan về thì ông Hồ Ngọc Nhuận viết khác Nguyễn Ngọc Lan như thế này: Nhưng ngày nay thì đã hoàn toàn khác hẳn. Đồng bào nông thôn của ta ở miền Bắc đã thật sự được giải thoát khỏi áp bức bóc lột. Họ đã hoàn toàn làm chủ đời sống của họ, vận mệnh của họ và do đó thật sự là những người chủ đất nước. Chủ nghĩa xã hội là con đường tiến lên tất yếu… Và chúng tôi nghĩ rằng, chúng tôi tin rằng Độc lập dân tộc và Thống nhất tổ quốc phải được gắn liền với chủ nghĩa xã hội.

Và sau 25 năm, chính ông Hồ Ngọc Nhuận đã viết lại như thế này: “Và tôi nữa, sau 25 năm, khi đọc lại chính mình, tôi tìm thấy được bao nhiêu phần trăm của tôi hôm nay trong đó… Trong những gì mình viết, suy nghĩ, khẳng định năm xưa.”

Xem tiếp phần cuối

 


 

 Quảng Ngãi bắt Facebooker phát ‘livestream đòi đa nguyên, đa đảng’

Ba’o Nguoi-Viet

April 12, 2024

QUẢNG NGÃI, Việt Nam (NV) – Facebooker Lê Quốc Hùng, 57 tuổi, ở thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi, vừa bị bắt với cáo buộc “chống phá.”

Theo báo Công An Nhân Dân hôm 12 Tháng Tư, ông Hùng bị quy tội dùng nhiều danh khoản Facebook để phát “livestream” với nội dung “đòi đa nguyên, đa đảng, xúc phạm Hồ Chí Minh.”

Facebooker Lê Quốc Hùng (thứ hai từ trái) lúc bị bắt. (Hình: Công An Nhân Dân)

Công An Thành Phố Quảng Ngãi quy chụp rằng các video clip của ông Lê Quốc Hùng “xuyên tạc tình hình thực tế.”

Ngoài ra, ông Hùng còn bị công an cho là “nhiều lần nhận tiền từ một số đối tượng chống phá Việt Nam ở ngoại quốc” và mời những người này tham gia “livestream” của mình.

Tuy vậy, chi tiết về các khoản tiền mà ông Hùng nhận không được làm rõ.

Đây là trường hợp mới nhất bị công an các địa phương bắt với cáo buộc “chống phá.”

Nửa tháng trước, nhà sư Thạch Chanh Đa Ra, người Khmer ở tỉnh Vĩnh Long, bị bắt, khởi tố với tội danh này.

Trước đó, có bốn người bị bắt liên tiếp ở Hà Nội, Hà Tĩnh và Lâm Đồng gồm các ông Nguyễn Chí Tuyến, Nguyễn Vũ Bình, Hoàng Việt Khánh và Phan Đình Sang.

Trong số này, ông Sang được ghi nhận có nhiều năm sinh sống, làm việc tại Lào trước khi về Việt Nam và “có tư tưởng bất mãn với chế độ, nên phát tán, chia sẻ nhiều bài viết xuyên tạc lịch sử, phỉ báng chính quyền nhân dân và lãnh tụ.”

Đáng nói, công an cho rằng ông Phan Đình Sang có quan hệ với một số cá nhân, tổ chức “phản động” tại Việt Nam và hải ngoại, trong đó có người được nêu đích danh là YouTuber Thái Văn Đường, tên thật là Đường Văn Thái.

Ông Thái, 42 tuổi, bị mật vụ Việt Nam bắt cóc hồi Tháng Tư năm ngoái sau đó được các báo đưa tin là ông này “xâm nhập trái phép từ Lào về Việt Nam qua đường tiểu ngạch ở tỉnh Hà Tĩnh.” Hiện chưa rõ thời điểm ông này bị đưa ra xét xử.

Nhà sư Thạch Chanh Đa Ra ở Vĩnh Long bị công an ép buộc phải thay áo cà sa bằng áo thun để chụp hình lúc bị bắt. (Hình: Thanh Niên)

Cũng hồi tháng trước, bị cáo Đỗ Minh Hiền, 67 tuổi, ở quận Hoàng Mai, Hà Nội, bị kết án sáu năm tù với cáo buộc “làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm nhằm chống nhà nước.”

Cáo trạng vụ án này cho rằng bị cáo Hiền dùng hai email “phát tán nội dung nói xấu lãnh đạo đảng, nhà nước” và “lồng ghép các quan điểm chống đối của cá nhân.” (N.H.K) [qd]


 

30 tháng 4 — Ði tìm thời gian đánh mất (I)- Tác Giả: Nguyễn Văn Lục

Ba’o Dan Chim Viet

Tác Giả: Nguyễn Văn Lục

12/04/2024

Sài Gòn không còn ngày

Buổi tối, tôi leo lên sân thượng. Trời tối đen, cái im ắng đến chết người.

Nhưng trong bóng đêm, tôi đã nghe rõ được tiếng của im lặng.

Cái im lặng của cõi đêm, của một cuộc đời, của mảnh đất tôi đang sống đã khép lại.

Chỉ mới hôm qua, những chiếc trực thăng còn lập lòe trên các mái nhà và biệt tăm ngay sau đó vào đêm tối. Rồi chốc lát đã mất hút. Niềm hy vọng như cạn mòn.

Một triệu, một trăm mười ngàn (1.110.000) binh sĩ VNCH đâu rồi cộng với 50 binh sĩ Hoa Kỳ còn sót lại? Và Neil Sheenan trong Innocence perdu đã chả từng nói: “Cette guerre que nous n!aurons jamais gagné’’ Cái trận chiến mà chúng ta đã chưa hề bao giờ thắng. Và nay chúng ta sắp sửa làm một cuộc hành trình qua sa mạc (une traversée du désert) với khô héo cạn kiệt, cô độc và đơn thương một mình, một hành trình gian khổ với đầy bất trắc đe dọa, hiểm nguy.

Ngồi một mình thấy tương lai vô định. Lòng buồn vô tả. Nước mắt tuôn trào không ngăn được. Chuồng chim bồ câu trên sân thượng ăn dần nay chỉ còn vài cặp. Chợt nghĩ. Ít lâu nữa sẽ không có mà ăn nữa.

Bụng tự nhiên nhói lên.

Tương lai như mù mịt. Vui chưa thấy, lo thì không thiếu. Chẳng hiểu chính quyền mới đối xử ra sao? Đó cũng là mối lo của nhiều người, nhất là những người có dính dáng nhiều đến chế độ Sài Gòn.

Chiến tranh đã chấm dứt. Đáng nhẽ phải vui mà hóa buồn.

Hết rồi cảnh chạy đôn chạy đáo tìm đường thoát thân. Có sự im lặng nặng nề như một con vật chờ chết trong nỗi tuyệt vọng. Ván bài chơi đã xong. Trong khi đó, 8 chiến xa đã vào thành phố trên đại lộ Thống Nhất. Nhiều nhà đóng cửa rồi từ trong nhà ngó ra xem động tĩnh. Chỉ có một thiểu số người dám ra đường đứng thản nhiên nhìn đoàn xe cộ đi qua. Bộ đội tỏ ra ngơ ngác, hiền lành và kỷ luật. Họ dơ tay vẫy chào nguợng ngập.

Mãi vào lúc 16 chiều ngày 30/4/1975, ba vị thuyết khách của ông Dương Văn Minh (DVM), thuộc thành phần thứ ba là luật sư Trần Ngọc Liễng, giáo sư Châu Tâm Luân và Linh Mục Chân Tín mới từ trại David Tân Sơn Nhứt ra về. Các ông là những người được tướng DVM cử làm đại diện vào trại David chiều ngày 29/4/1975 để thuyết phục những người của Mặt trận yêu cầu họ đừng đánh phá vào Sài Gòn. Các tướng Nguyễn Anh Tuấn và Đại tá Võ Đông Giang đã hứa chỉ pháo chút ít để làm áp lực với tướng DVM mà thôi. Quân Bắc Việt đã tiến quân vào Tân Sơn Nhất (TSN) nên các ông bị kẹt lại cho đến chiều 30 tháng tư mới ra về được.

21 năm sau, ngày 28/1/1996, Chân Tín trả lời phỏng vấn đài VNCR đã nói khác: “Chúng tôi ngồi yên nhìn cái ngu dốt và cái sa lầy của một chế độ đang trên đà tan rã’’. Nay mới đây nghe tin ông ra tờ báo chui. 86 tuổi đầu tưởng đã tự cho phép mình hưu tranh đấu. Ông vẫn chưa ngưng nghỉ, chưa hưu, chiến đấu đến cùng.

Ngoài phố, chỉ còn nghe tiếng xích sắt lạnh lẽo của bánh xe nghiến trên mặt đường nhựa. Mặt đất như rung lên bần bật. Sài Gòn như oặn mình dưới làn xích sắt đi qua. Tiếng xích sắt như nhắc nhở gợi về tiếng xích sắt của mùa xuân Praha năm nào. Cái mùa xuân nát úa. Cái mùa xuân hy vọng của tuổi trẻ Prague chưa kịp nhú lên thì đã bị xích sắt xe tăng của Hồng quân Liên Xô đè dập nát khi tiến vào Prague, trên những dường phố lát đá gồ ghề, thẫm màu đen thuở nào của xứ Tiệp.

Những chiến xa trên có cắm cờ của mặt trận Giải Phóng miền Nam như niềm hy vọng nhỏ nhoi sót lại của người Sài Gòn.

Những chiếc chiến xa đang chạy trên đường Tự Do, Catinat cho tôi có cảm tưởng đường Tự Do (TD) của miền Nam là đại lộ Champs-Élysées của Paris. Nhưng Champs-Élysées của Paris vào tháng 8 1944 là cả một biển người đón tiếp De Gaulle. Biển người đó là nỗi vui mừng giải phóng, chỉ có tiếng cười và nước mắt hoan lạc.

Nhưng Champs Élysées thì không phải đưởng Tự Do ở Sài Gòn. Đường TD không có nỗi vui hoan lạc mà chỉ có những ánh mắt lo âu và sợ sệt.

Ở một góc phố cạnh hotel Majestic, người ta thấy một nhóm nhỏ người đứng nhìn chiếc chiến xa đi qua. Bên kia đường, có một thanh niên mặc quần tây áo trắng bỏ ngoài quần, chắp tay đứng nhìn. Không có biển người mà cũng không có tiếng vỗ tay reo hò.

Và đừng quên cộng thêm 125 nhà báo ngoại quốc đứng ở đâu đó.

Họ còn ở lại để chứng kiến cảnh tháo chạy, cái cảnh mà Bảo Ninh đã mô tả trong truyện ngắn Ba lẻ một:

Chen chúc, xô lấn, giày đạp, chà xéo, đánh nhau, giết nhau, cưỡng hiếp và cướp bóc và cảnh tiến tới ồ ạt của những T54 và K63, như một cơn lốc bẳng thép xé mặt lộ lướt tới với thần tốc kinh hồn, là phẳng mọi chướng ngại trên đường, nhắm hướng Nam truy kích.

Đài phát thanh Sài Gòn mở đầu bằng tiếng hát Trịnh Công Sơn (TCS). Tiếng hát một thời. Tiếng hát của của một đời ngưòi.

Anh cất tiếng hát không phải khúc ca da vàng, nhưng lạc lõng với bài: Nối Vòng tay lớn bên cạnh đám bạn bè anh, trong đó có Nguyễn Hữu Thái, một sinh viên tranh đấu.

Dân Sài Gòn đã đón tiếp quân Giải Phóng như thế đấy. Một nhúm người người dân ngơ ngác, 125 nhà báo và TCS với Nối Vòng Tay Lớn. 8 chiến xa có trang bị kính nhắm hồng ngoại tuyến dùng cho những cuộc đánh nhau ban đêm? Chả còn gì để dấu diếm nữa. Những chiến xa của Liên Xô từ ngoài Bắc chạy thẳng vào chứ đâu phải của mặt trận giải phóng miền Nam?

Trên chiến xa có cắm cờ Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam (MTGPMN). Nhưng cắm một lá cờ thì không lẽ đủ để thay đổi một tình thế?

Trong khi đó, ông Minh và toàn bộ chính phủ ông đã chờ sẵn tại dinh độc lập để trao quyền hành lại cho những người chủ mới. Người ta không thấy có một đại diện nào của MTGPMN. Nhiều người chê trách ông Minh hèn “bán đứng miền Nam”. Nếu ông Minh hèn thì những kẻ chạy vắt giò lên cổ từ những ngày cuối tháng tư phải gọi bằng tên gì? Kẻ trốn chạy và kẻ ở lại lãnh thẹo, ai hèn hơn ai? Sài Gòn lúc đó như một bãi rác với đủ thứ rác: rác Mỹ, rác quân đội với súng ống, quân trang, quân dụng vứt bừa bãi, rác chính quyền tham nhũng. Cùng lắm, ông Minh chỉ là người không thức thời cúi mình xuống nhặt cái chính quyền bị người ta vứt lại từ đống rác đó.

Lại còn vấn đề trao cái chính quyền đó vào tay ai? Chẳng biết nữa, người nói ông Bùi Tín, người nói Chính ủy Tùng. Theo Stanley Karnov, trong Viet Nam viết:

Ngồi trên một chiến xa vào dinh độc lập, Ông Bùi Tin chuẩn bị đóng hai vai trò một lúc: Là nhà báo, ông muốn là nhân chứng cho cuộc đầu hàng. Nhưng là sĩ quan cao cấp trong đơn vị của ông, ông muốn chính ông tiếp nhận sự đầu hàng này.

Tôi chờ các ông từ sáng nay để trao quyền hành lại cho các ông, đại tướng Minh đã nói như thế khi ông Bùi Tín vào đến đại sảnh. Bùi Tín đáp lại, không có vấn đề trao quyền hành. Quyền hành của các ông còn đâu để mà giao. Ông không thể giao một cái mà ông không có.

(Pénétrant à bord d’un char dans la cour du Palais, il se préparait à jouer un double rôle: journaliste, il désirait être témoin de la capitulation, officier le plus élevé en grade de son unité, il avait pour de voir de la recevoir. J’attends depuis ce matin pour vous remettre le pouvoir, annonca le général Minh1quand Bui Tin entre dans le salon. Il n’en est pas question, répliqua le colonel. Votre pouvoir s’est écroulé. Vous ne pouvez donner ce que vous n’avez pas.)

Nhưng có lẽ câu nói quan trọng nhất của Bùi Tín vẫn là câu sau đây: “Cùng là người Việt Nam cả, sẽ không có kẻ thắng người bại. Chỉ có người Mỹ là kẻ bại trận. Nếu ông là người yêu nước, đây là lúc để vui mừng, vì chiến tranh đã không còn nữa trên quê hương của chúng ta”.

(Entre Vietnamiens, il n’y a ni vainqeur, ni vaincus. Seul les Américains ont été battus. Si vous êtes patriotes, c’est le moment de vous réjouir. La guerre pour notre pays est terminée”.

Từ đó đến nay, đã hơn 30 năm, người ta vẫn chờ đợi câu nói của Bùi Tín được thực hiện.

Cũng trong tháng 9 năm 1975, các ông Lê Đức Thọ và Xuân Thủy còn nhắc nhở mọi ngưởi rằng: Ai còn nói ngụy là ngụy…

Hồi mất Điện Biên Phủ (ĐBP), cuộc chiến giữa Pháp và Việt Minh phải mất 56 ngày đêm. Mất Sài Gòn nhanh hơn, chỉ có 55 ngày. Ít hơn một ngày. Hồi ĐBP, chỉ mất một nửa. Lần này mất tất cả.

Về phía những người thua trận

Không kể những người đã tháo chạy, không kể những người còn kẹt lại trong gọng kìm lịch sử oan nghiệt. Còn có những người cất lên tiếng nói cuối cùng. Thiếu Tá Long, Cảnh sát Quốc Gia đã đến đứng trước tượng TQLC trước tòa nhà Quốc Hội ở Sài Gòn rồi rút súng tự sát. Ông đã nằm chết ngay dưới chân pho tượng.

Trung sĩ Quân Cảnh Trần Minh, thuộc đại đội một quân cảnh phụ trách an ninh khu vực Bộ Tổng Tham Mưu (TTM). Lúc 10giờ 30, sau khi nghe tin đầu hàng, trung sĩ Trần Minh đã dùng súng lục tự tử dưới chân cột cờ Bộ TTM.

Thêm vào đó là những cái chết của Chuẩn tướng Lê Nguyên Vỹ, tư lệnh sư đoàn 5 bộ binh. Chuẩn tướng Trần văn Hai, sư đoàn 7 bộ binh. Thiếu Tướng Phạm văn Phú, Tư lệnh quân khu 1. Thiếu tướng Lê Văn Hưng, Tư lệnh phó quân đoàn 4. Thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam, Tư lệnh quân đoàn 4. Những cái chết anh dũng. Nhưng đã thay đổi được gì và có thể đại diện cho những vị khác đã bỏ chạy không? Đó là những cái chết bằng ngàn lời ca, bằng vạn tiếng nói.

Và kẻ chết cuối cùng vẫn là kẻ có lý.

Và tự sát bao giờ cũng cần được hiểu là một sự hy sinh cuối cùng (Ultimate sacrifice) đáng được trân trọng.

Không có cái chết vô ích mà chỉ có những cái sống vô ích.

Đó là số phận những người đã tự chọn cái chết. Những cái chết đó giá trị bằng ngàn lời ca, bằng vạn tiếng nói.

Còn số phận những người còn lại?

Tôi ghi lại đây hình ảnh một anh lính VNCH, đi chân đất, hai tay áo rách, đầu gối rách, chắp tay. Đằng sau anh là một bộ đội mặc đồ đen, cầm súng lăm lăm và sau chót là đám đông dân làng, khoảng 6, 7 chục người khoanh tay bất lực với lời ghi chú của nhiếp ảnh viên:* Un avenir qui ne s’annonce pas vraiment radieux pour ce soldat de Thiệu: pendant combien d’années sera-t-il rééduqué… (ảnh của Abbas. Gamma). Một tương lai không mấy sáng sủa cho người lính này của Thiệu: Người lính này sẽ bị đưa đi học tập cải tạo trong bao lâu.

Thật ra người lính lúc đó chỉ có 3 chọn lựa: di tản ra nước ngoài, nhẫn nhục để đi học tập cải tạo hoặc tìm đến cái chết

Cạnh đó là bức hình của kẻ chiến thắng. Hình một anh bộ đội chống nạng, cụt hẳn một giò đến háng, đi bên cạnh một xe tăng đã bốc cháy với lời ghi: Après les vingt-cinq années de guerre, une photo qui résume tout (ảnh của Leroy-Gamma). Sau 25 năm cuộc chiến, một bức hình nói lên tất cả.

Cũng khoảng 2 giờ rưỡi trưa hôm ấy, những chiến xa đã từ trong dinh Độc Lập chạy dọc theo đại lộ Catinat-Tự Do, từ nhà thờ Đức Bà ra hướng bờ sông. Có tới mười người rụt rè dơ cánh tay vẫy chào.

Nhiệm vụ của người chiến thắng không phải là dễ. Chiếm được Sài Gòn rồi, nhưng làm sao thay vì chỉ có 10 cánh tay rụt rè giơ lên, phải nhân lên bao nhiêu triệu lần? Phải chờ xem vậy thôi.

Vào cái giờ này của ngày chiến thắng. Toàn bộ báo chí đã ngưng xuất bản. Gần 50 chục báo hằng ngày của Sài Gòn sáng nay vắng mặt. Họ đâu cả rồi? Tất cả liên lạc viễn thông với thế giới bên ngoài cũng bị cắt. Họa chăng còn lại đại diện của các tòa đại sứ sau đây: Pháp, Bỉ, Nhật, Khâm sứ Tòa thánh, Thụy Sĩ và lãnh sự Ấn độ. Chế độ mới hầu như tạm thời cắt đứt với thế giới bên ngoài.

Cho mãi đến ngày 23 tháng năm, liên lạc với thế giới bên ngoài mới được nối lại và chuyến bay đầu tiên ra nước ngoài vào ngày 24 tháng năm. Chuyến bay này chở một số người ngoại quốc còn kẹt lại trong thành phố mà phần lớn là người Pháp.

Theo Ngũ Giác Đài, có khoảng 50 ngưởi Mỹ bị kẹt lại VN sau ngày 30 tháng tư, cộng thêm 26 người VN là vợ con của những người Mỹ này.

Sát cạnh nhà tôi, có hai vợ chồng người Việt cũng ra đi theo diện quốc tịch Pháp. Trong tình huống này mới thấy người Pháp là những người tử tế. Chị họ con ông bác tên Diệp, làm y tá nhà thương Grall cũng được đi và sang Pháp cũng làm y tá lại, lương bổng ngạch trật như cũ. Chẳng bao lâu sau, có vợ chồng một đại tá, đã đến cư ngụ ờ căn nhà đó. Sau này, suốt vài năm ở cạnh nhà như hàng xóm, ra vào đụng mặt nhau, ông bà chưa bao giờ nói chuyện, hoặc chào hỏi chúng tôi lấy một lần. Điều này phải được hiểu là thế nào?

Không dễ dàng gì để những người dại diện đó được nhìn nhận. Họ không có trong mắt của người Sài Gòn.

Chiến thắng thì đã xong, nhưng chinh phục thì chưa tới.

Phía trí thức miền Nam: Mặt trận Giải Phóng, ảo tưởng và ảo ảnh

Xin ghi lại dây hình một bé gái chừng 12 tuổi, đầu quấn một khăn trắng đang đi trên một bờ ruộng với lá cờ MTGPMN, hai mầu, ở giữa có ngôi sao với lời tiên đoán:* le drapeau du FNL flotte sur le Sud-VietNam. Il sera sous peu remplacé par le drapeau du Nord, devenu celui du Viet Nam réunifié( ảnh của JC Labbé-Gamma). Lá cờ MTGPMN tung bay ở miền Nam VN. Nhưng chẳng bao lâu nữa, nó sẽ được thay thế bằng cờ của miền Bắc, trở thành cờ của VN thống nhất.

Cuộc chiến tranh giữa hai miền Nam Bắc đã để lại một di sản thừa như một cục bướu ung thư cần nhổ. Đó là MTGPMN. Mặt trận này đối với trí thức thành phần thứ ba hay đối với sinh viên VN hải ngoại chỉ dẫn đưa họ đến một kết quả là: những ảo tưởng vĩ đại (grandes illusions) và đối với toàn thể thế giới là một âm mưu lừa bịp trắng trợn.

Xin nhắc để mọi người cùng nhớ: những trí thức đi theo Mặt trận hồi đó gồm có các ông luật sư Trịnh Đình Thảo, Chủ tịch Liên Minh Các Lực lượng Đấu tranh Dân chủ và Hòa bình Việt Nam (LMCLLDTDCVHBVN), phó chủ tịch Hội đồng Cố vấn Chính phủ Lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam (HĐCV CPLTCHMNVN), chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ Quốc (UBTUMTTQVN) và vợ là Ngô Thị Phú, ở Sóc Trăng. Lâm Văn Tết, Phùng Văn Cung, Trần Kim Bảng, bút hiệu Thiên Giang, vợ nữ sĩ Vân Trang. Nguyễn Văn Chì, Chánh án Phạm Ngọc Thu, dược sĩ Đỗ Thu, Kỹ sư Cao Văn Bổn, Kỹ sư Tô Văn Cang, nhạc sĩ Lưu Hữu Phước, chức sắc Cao Đài Nguyễn Văn Ngưỡi, kỹ sư Trương Như Tảng, bác sĩ Dương Quỳnh Hoa, bà Nguyễn Thị Bình, Huỳnh Tấn Phát, luật sư Nguyễn Hữu Thọ, Lữ Phương, bà Bùi Thị Nga, Trần Quang Long, Trần Triệu Luật. Nhà văn Thanh Nghị Hoàng, Trọng Quỳ và vợ ca sĩ Tâm Vấn. Thêm vào đó gs Lê Văn Hảo theo vào năm 1968, chủ tịch LMCLLDTDCVHBVN, thêm chủ tịch UBKNHTT. Trong dịp tờ Quê Mẹ phỏng vấn ông năm, 1999 ở Pháp, ông Hảo giải thích: dư luận gán cho ông về cuộc rhảm sát Mậu Thân ở Huế là không đúng. Thứ nhất, lúc quân đội CS đánh Huế, tôi không có mặt trong thành phố. Trước tết 5 ngày, tôi được dẫn lên núi, nói là mời họp rồi giữ tôi ở lại luôn, không về thành phố lần nào. Cùng với tôi có Hoàng Phủ Ngọc Tường. Chỉ có Hoàng Phủ Ngọc Phan và Nguyễn Đắc Xuân đã theo bộ đội về Huế và tôi được biết Phan và Xuân đã từng ngồi xét sử nhiều người có quan hệ với chính quyền Sài Gòn, trong những phiên xử của cái gọi là toà án nhân dân.

Sau này, các ông Trần Quang Long, Trần Triệu Luật đã chết vì bom Mỹ. Những người còn lại may mắn sống sót.

Sau 30 tháng 4, đám trí thức trên vỡ mộng. Họ không có một vị trí nào trong chính quyền Cộng Sản tương lai và danh xưng MTGPMN cũng không ai muốn nhắc tới. Chẳng bao lâu sau ngày giải phóng, cờ của Mặt trận bị cuốn gói, xếp một chỗ.

Có thể bà bác sĩ Dương Quỳnh Hoa là người đầu tiên xin ra khỏi đảng CS và không tham dự phái đoàn nhân sĩ trí thức miền Nam ra ngoài Bắc. Lý do chính là hai vợ chồng chính thức phản đối việc thống nhất hai miền như một thứ bội phản đối với miền Nam. Đơn xin rút tên ra khỏi đảng đã được Thủ tướng Phạm Văn Đồng ra một điều kiện: Phải 10 năm sau mới được quyền công bố chính thức rút tên ra khỏi đảng.

Sau này, trong bài phỏng vấn trả lời trên tờ Far Eastern Economic Review (FEER) ngày 17/10/1996, bà đã trả lời như sau.

Hỏi: Quel est l!évènement le plus marquant pendant les 50 années passées. (Biến cố nào được coi là nổi bật nhất trong 50 năm đã qua?).

Trả lời: L’effondrement du mur de Berlin qui mit un terme à la grande illusion Sự sụp đổ bức tường Bá Linh chấm dứt một thời kỳ cuả ảo tưởng lớn.

Và nói như ông Hồ Sĩ Khuê: “Thành viên Mặt trận thực sự chẳng có bao nhiêu. Nhưng ở Sài Gòn, sao mà ai cũng có vẻ là người của Mặt trận quá.” Nhưng bên trong, họ chỉ làm bù nhìn. Hình nộm “ngồi chơi xơi nước” như theo lời tường thuật của kỹ sư Trương Như Tảng. Ông Tảng vốn là một sinh viên du học bên Pháp, có dịp gặp Hồ Chí Minh, coi HCM như khuôn mặt lãnh tụ sáng chói nhất để chống lại người Mỹ, và trước mắt, chống lại chính quyền Ngô Ðình Diệm đã viết: Hồi ký của một Việt cộng (A Viet Cong Memoir) cho thấy MTGPMN chỉ là một sự dàn dựng, họ được đưa vào bưng để làm bung xung, đánh lừa cả thế giới. Họ bị bịt mắt, dẫn đi quanh co trong rừng. Những buổi họp, để giữ bí mật, các thành viên mặt trận đều bịt mặt, vì thế chẳng biết ai vào với ai. Ai là thật, ai là giả? Ðó là kinh nghiệm đau xót của một số ít trí thức miền Nam. Trong The Myth of Libération, Trương Như Tảng tố cáo sự dàn dựng giả dối của chính quyền Cộng sản Hà Nội: “Trong nhiều năm, họ đã nghe Việt Nam Dân chủ Cộng hòa long trọng tuyên bố cam kết”, qua lời Tổng bí thư Lê Duẩn, rằng “Miền Nam cần có chính sách riêng của miền Nam”. Hay như lời Thủ tướng Phạm Văn Ðồng tuyên bố với phóng viên nước ngoài: “Chẳng ai lại có cái ý nghĩ ngu xuẩn và tội lỗi là thôn tính miền Nam”.

William Shawcross, trên tờ Washington Post, nhận xét:

“He became the Viet Cong’s Minister of Justice, but at the end of the war, he fled the country in disillusionment and despair. He now lives in exile in Paris, the highest level official to have defected from Viet Nam to the West. This is his candid, revealing and unforgettable autobiography.”

(Tạm dịch: “Ông trở thành Bộ trưởng Tư pháp trong chính phủ Việt cộng, nhưng sau khi chiến tranh chấm dứt, ông đã trốn thoát khỏi Việt Nam với tâm trạng bị vỡ mộng và thất vọng. Nay ông tỵ nạn ở Paris. Ông là một trong những viên chức cao cấp nhất đã đào thoát ra khỏi Việt Nam sang Tây Phương. Ðây là cuốn tự truyện đáng nhớ, phơi bày (nhiều chuyện) và thành thật.”)

Vai trò bù nhìn của MTGPMN cũng được đề cập đến trong hồi ký của Vũ Thư Hiên. Ông viết: “Trẻ con miền Bắc cũng biết Mặt trận Giải phóng là do miền Bắc dựng nên”.
Người trí thức miền Nam một lần nữa bị lừa gạt .

Riêng Nguyễn Hữu Thọ, sau 1975 được làm phó chủ tịch nước. 1981, phó chủ tịch quốc hội, 1988, chủ tịch Mặt Trận Tổ Quốc. Nhưng cuối cùng thì ông cũng phải thốt ra một câu như sau:

Dân chủ không thể có bằng sự ban ơn, mà bằng sự đấu tranh

Sau này, sau khi miền Nam bị mất vào tay Cộng sản, nhiều người trong bọn họ trước đó mang ảo tưởng sẽ có vai trò, sẽ được dùng, sẽ được lãnh đạo miền Nam, bị gạt ra bên lề một cách thảm hại, có chức mà không có quyền.

Màn lường gạt, tráo trở này chắc chắn không phải lần đầu mà chắc chắn cũng không phải lần cuối.
Những người trí thức này chỉ quên một điều: Người Cộng Sản bao giờ cũng ăn thịt trước tiên những đứa con đẻ của mình.

Niên lịch mới, Sài Gòn thời của những tiên tri giả.

Bộ đội chính quy, cán bộ miền Bắc đã đành là có mặt. Nhưng dân 30 tháng tư, bọn cơ hội nhố nhăng thì đầy đường, đầy ngõ. Không biết ở đâu ra mà họ đông thế.

Chúng là những tiên tri giả, bán rao thời cuộc. Gọi theo một thứ ngôn ngữ chuyên dùng hơn thì đó là bọn tiêu bạc giả, vốn liếng là sự bịp bợm, sự tráo trở và tư cách vô liêm sỉ. Có thể bọn họ tuần trước, tháng trước, năm trước còn “đả đảo Cộng Sản” nay thì hoan hô.

Bên cạnh đó, có một số trí thức đã có dính dáng, hoạt động bí mật trong Mặt Trận nay xuất đầu lộ diện. Trong số này, có Giáo sư Lý Chánh Trung, sau làm đại biểu Quốc hội. Nguyễn Ngọc Lan trên tờ Đối Diện nay đổi là Đứng Dậy.

Đổi tên tờ báo đã khéo, chơi chữ đã khéo. Nhưng Đứng Dậy có thể hiểu lầm là nổi dậy đấy. Hãy coi chừng.

Một số người khác như Nguyễn Đình Đầu, luôn luôn dấu mặt sau hội trường dật giây và em rể, giáo sư sử địa Trần Đức Quảng, gs Châu Tâm Luân, TT Thích Minh Châu, LM Chân Tín, Trần Bá Cường, v.v…

Và nếu nói theo người Pháp: Il n’y a que le premier pas qui compte, có nghĩa chỉ bước đầu tiên là quan trọng thì những người trên là những người đầu tiên ló mặt sau ngày giải phóng

————————————————-

Ngày 4/5/1975, xung đột với Campuchia

Những tin tức nóng hổi sau đây nhiều bạn đọc, sau hơn 30 năm, có thể đây là lần đầu tiên đuợc nghe nói tới. Điều đó không lạ, vì tin tức thông tin nằm trong mạng lưới tuyên truyền của chế độ CS. Vào ngày 4/5/1975, có nghĩa là chỉ bốn ngày sau khi miền Nam thua trận, quân đội Khemer của Pol Pot đã đổ bộ xâm chiếm đảo Phú Quốc. Ngày mồng 8, quân đội trên bộ của Pol Pot đột nhập vào tỉnh Tây Ninh. Ngày 10, chiếm đảo Thổ Chu và bắt hơn 500 thường dân. Để trả đũa, bộ đội VN chiếm đảo Poulo Way, sau đó thì rút lui. Tất cả những biến cố trên xảy ra dân chúng đều không hay biết vì các báo bị đình bản. Nhưng đài phát thanh cũng không thông báo cho dân chúng biết

Nòng súng của bộ đội Bắc Việt chưa kịp nguội thì đã chuẩn bị cho một cuộc chiến khác. Hai cuộc chiến trước đây là chiến tranh chống chủ nghĩa Đế quốc thực dân, vậy thì sẽ gọi tên cuộc chiến sắp tới là gì? Cho đến nay, có hai cuộc chiến đã xảy ra, một phía Nam và một phía Bắc Việt Nam (VN.) Vẫn chưa có một tên gọi thích đáng. Chúng vẫn chưa có một giấy khai sinh hộ tịch. Phải gọi đó là những cuộc chiến tranh gì? Cũng không ai nhắc tới nửa lời về lẽ thắng thua của hai cuộc chiến ấy. Mọi chuyện được bung bít dấu nhẹm như thường lệ. Nói gian dối là cái lệ của người làm chính trị chẳng khác gì rỉ sét là cái đương nhiên của vỏ tầu biển. Nói gian dối riết rồi bị lộ, bị chìm chẳng khác gì rỉ sét lâu ngày đục vỡ sàn tầu.

Quân đội Khờ Me Ðỏ mới vào Nam Vang hôm 17 tháng 4, thì ngay ngày hôm sau đã chuyển quân về hướng biên giới VN. Và như đã trình bày ở trên, đã chiếm đảo Phú Quốc. Theo ông Phan Hiền thì sau đó, nhiều cuộc thương thuyết đã diễn ra từ tháng 4-1976, nhưng kết quả không đi tới đâu và hai bên đã ngưng mọi thương thuyết vào ngày 18/5/1976… Sang đến tháng 4/1977 thì tranh chấp giữa hai bên càng trở nên ác liệt. Các tỉnh biên giới của VN như Tây Ninh, Hà Tiên phải di tản dân chúng. Tây Ninh thì một phần dân chúng phải bỏ nhà, Hà Tiên đến ba chục ngàn người phải di tản đi nơi khác. Phóng biên Roland-Pierre Paringaux đã nhìn thấy hàng đống thây người bị giết, bị cắt cổ ở các ruộng thuộc tỉnh Hà Tiên. Francois Nivolon cũng đã nhìn thấy những cảnh chém giết, dốt nhà tàn bạo như thế ở làng Mỹ Đức, cách biên giới Cam Pu Chia chỉ 4 km. Có gia đình cả bố mẹ, 4 anh chị em đều bị giết, trừ một người con gái sống sót kể lại như một nhân chứng. Sau này, Ông Ngô Diên tố cáo có cố vấn Trung Quốc trong các binh đội quân Khờ me đỏ. Phải chăng, đằng sau Pol Pot là kẻ thù cố cựu của VN? Thật vậy, do sự xúi dục của Bắc kinh, chính quyền Căm bốt (Cambodia) mới dám gây chiến tranh biên giới với Việt Nam và cắt đứt quan hệ ngoại giao với ta ngày 31/12/1977.

Ông Trần Văn An, một cán bộ tỉnh, cho biết từ 1975, tại tỉnh Tây Ninh, tỉnh giáp ranh với Cam bốt, có một 1090 thường dân bị giết do quân đội Pol Pot gây ra. 70.000 dân chúng phải dời bỏ ruộng vườn đi nơi khác. 15000 mẫu hoa mầu bỏ không canh tác. Tuy nhiên, đây cũng chỉ là những con số đưa ra, sự thẩm định độ chính xác cần được dè dặt.

Trong một tài liệu sau này VN thu nhặt được cho thấy Pol Pot coi cuộc đối đầu giữa Cambốt và VN là một đối đầu giữa Sống hoặc Chết. Sự thù ghét của Pol Pốt đã rõ ràng và minh bạch trong cuốn Sách đen ghi nhận: “Dân tộc Cam Bốt nuôi một mối hận quốc gia đối với Việt Nam, một kẻ hiếu chiến đi xâm lược, nuốt chửng đất đai của Cambốt. Người Cam Bốt biết rõ ràng tính xảo trá, mưu mô quỷ quyệt và giả hình của VN. VN hành động như một Hitler đối với Cambốt một cách man rợ và Phát xít. Chúng ta phải bằng mọi cách giết người VN, một đổi 30.’’

Cũng sau này, trên mặt báo Le Figaro đã cho chạy một hàng tít lớn, phóng viên Yves-Guy Berges xác nhận: “Hà nội đang tiến hành một cách khoa học một cuộc diệt chủng lớn nhất trong lịch sử” (Hanoi procède scientifiquement au plus grand génocide de l’histoire). Điều này xem ra có vẻ không đúng sự thật. Le Figaro tỏ ra thiếu ngay thẳng và trung thực. Hà nội đã không đến mỗi ngu dại như thế, vì họ có cách xử lý khôn ngoan và khéo léo hơn. Nhưng mặc dù Pol pot gây hấn trước đã mang quân sang chiếm đóng Phú Quốc, việc VN mang quân sang chiếm đóng Campuchia đã bị cộng đồng thế giới lên án khiến uy tín ngoại giao của VN bị suy giảm, nhất là đối với các nước Đông Nam Á. Về phía người Mỹ, Ngoại trưởng Mỹ Cyrus Vance nói: “Các cuộc nói chuyện Mỹ-Việt Nam về bình thường hoá đã tan vỡ do cuộc xâm lược Cam pu chia của Việt Nam.’’

Ngày 5/5/1975, Thông cáo của tòa Tổng Giám Mục (TGM) Sài Gòn.

Sau tiếng hát của Trịnh Công Sơn (TCS) trên đài phát thanh Sài Gòn, dấu hiệu thứ hai đón tiếp chính quyền mới là vị đại diện của Thiên Chúa giáo

Chưa đầy một tuần sau ngày giải phóng, TGM Nguyễn văn Bình gửi tâm thư kêu gọi giáo dân phải hòa mình vào nhịp sống mới, nỗ lực đón nhận trong tinh thần hoà hợp, hòa giải dân tộc. Lá thư có đoạn như sau: “Một trang sử mới đã mở ra cho dân tộc VN… Đây là một niềm vui chung của cả dân tộc, và với cái nhìn theo đức tin của người tín hữu, đây cuĩng chính là một hồng ân của Thiên Chúa.. Hơn mọi lúc, giờ đây người công giáo phải hoà mình vào nhịp sống của toàn dân, đi sâu vào lòng dân tộc… người công giáo chúng ta phải phải sẵn sàng thi hành một cách tích cực mọi nghĩa vụ công dân do Chính phủ cách mạng lâm thời chỉ dẫn.”

Nội trong năm 1975, có cả thảy ba lá thư chung như thế. 12 tháng 6 một lá thứ hai và nhân dịp Hội nghị Hiệp thương thống nhất tổ quốc diễn ra tại TP Sàigòn, một lá thứ ba mà nội dung nhằm thứ nhất trấn an người Thiên Chúa giáo (TCG), linh mục, tu sĩ trong toàn địa phận. Thứ hai bảo đảm với chính quyền CM về sự sẵn sàng hợp tác trong hoàn cảnh mới. Theo tinh thần hiến chế: Gaudium et Spes. Anh em ơi, hãy vui mừng. Một vài Kitô giáo trí thức cấp tiến như Nguyễn Ngọc Lan đã dùng thánh kinh để gọi Ngày Giải Phóng: đó là tin mừng cứu độ đã được gửi đến.

Bảo hãy đừng sợ thì còn nghe được. Bảo hãy vui mừng thì quả thực không dễ.

Một số khác thì tỏ ra lo ngại về đường lối hòa giải của Tổng Giám Mục Nguyễn Văn Bình. Sài gòn có khoảng 600 linh mục, trong đó có hơn 100 vị đã du học nước ngoài và 2000 tu sĩ phần đồng khép mình đưới sự chỉ đạo của đức cha Bình. Tất cả những cơ sở trường tư thục TCG như đại học, đại chủng viện như cơ sở dòng Tên, Đồng Công, Chúa Cứu Thế, học viện thánh Piô 10, Đàlạt, các cơ sở thương mại như nhà in Nguyễn Bá Tòng, trại gà Đàlạt, thương xá Eden, nhà sách, cơ sở nhà in Tân Định đều phải giao nạp cho chính quyền mới. Theo Georg Evers, Missio 2003, CHLB Đức trong bài Tình trạng nhân quyền tại Cộng hào Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (CHXHCNVN), tự do tôn giáo, bản dịch Việt ngữ của Liên Đoàn công giáo Việt Nam tại Đức thì Giáo Hội miền Nam có 226 trường trung học, 1030 trường tiểu học. Ngoài ra theo niên giám 2004, vào năm 1962-1963, giáo hội TCG miền Nam có có 58 cô nhi viện nuôi hơn 6000 trẻ em, 48 bệnh viện, 35 viện dưỡng lão, 8 trại phong và 159 phòng phát thuốc phát thuốc cho khoảng gần 2 triệu lượt người. Tất cả đều bị trưng thâu, nộp cho nhà nước.

Sự chọn lựa của Tổng Giám Mục Nguyễn Văn Bình đã hẳn không phải dễ. Một tháng trước ngày qua đời, phóng viên Hải Nam, tức Trương Bá Cần, báo CGVDT đã phỏng vấn cụ trong 20 năm ‘‘sống phúc âm giữa lòng dân tộc’’, cụ là người đứng đầu Công Gíao VN, xin cụ cho biết cảm tường của cụ trong 20 năm qua sống dưới chế độ VNDCCH, cụ còn thấy sợ không. Trả lởi ‘‘vẫn còn sợ ” và cụ nói tiếp: “Đời con người giống như một cuộc leo núi. 50 năm đầu là thời gian leo núi và những năm còn lại sau này là xuống núi. Khi leo lên núi thì thời gian kéo dài và khó khăn, còn khi xuống núi thì dễ dàng và nhanh hơn. Nhưng với tôi, 20 năm qua, cảm tưởng sâu đậm của tôi là đã phải sống một thời gian dài nhất của đời người’’.

Sau này, tác giả Tuệ Không, trong một bài viết vào 10/5/1995, cho rằng tất cả bài phỏng vấn trên là ngụy tạo của Uỷ Ban Tôn giáo chính phủ dựng đứng lên. Toà TGM Sài Gòn cũng xác nhận cụ Nguyễn Văn Bình đã quá suy yếu, kiệt sức để có thể trả lời một bài phỏng vấn như thế. Bài phỏng vấn từ câu hỏi đến câu trả lời là của ông Trương Bá Cần dàn dựng viết ra. Ông có đưa tới trình Đức Cha vẫn đang đau yếu, chỉ đọc mấy câu, câu được, câu mất và yêu cầu đừng đăng. Nhưng ông Trương Bá cần đã viện cớ là bài đã lên chữ rồi, ở nhà in, để rồi xin cứ đăng.

Theo tôi, có lẽ tâm trạng và lòng mong ước của cụ Giám Mục Bình thể hiện rõ nhất trong câu trả lời lúc 80 tuổi của báo Iregno Attualita, đăng lại trên Église d’ Asie là: ‘‘Lúc này đức cha ước vọng gì nhất. Trả lời: Sau những biến cố Đông Âu, tôi hy vọng mọi sự sẻ tiến triển tốt đẹp.’’

Phía Phật Giáo, cả hai vị lãnh đạo của hai khối đều không có tiếng nói. Thượng toạ Thích Tâm Châu chọn lựa ra đi như nhiều người. Thượng toạ Trí Quang thì tịnh khẩu suốt hơn 30 năm nay. Phật tử như rắn không đầu. Người cần lên tiếng và đáng nhẽ phải lên tiếng là TT Trí Quang. Còn ai uy tín hơn ông trong lúc này, người đã từng được nước Mỹ qua phóng viên James Wilde và Frank Mc Culloch trên tờ Time mệnh danh ‘‘politician from the pagoda’’ hay ‘‘a most extraordinary man’’ (người phi thường nhất). Tôi chỉ muốn đổi một vài chữ như sau. Trước 1975, ông là một politician outside the pagoda và sau 1975, một politician inside the pagoda.

Nhưng ông Diệm, ông Thiệu không còn, Thượng toạ Trí Quang không có giá nữa. Ông chỉ có thể là người của thời cuộc dưới một chế độ kiểu ông Diệm, ông Thiệu mà thôi. Trong suốt hơn 30 năm quy ẩn và ngồi dịch rất nhiều kinh sách, ông chỉ làm được một thứ chính trị inside the pagoda, một điều hữu ích cho chính ông và cho những kẻ thù của ông ở bất cứ phía nào. Đó là: Ta bảo cho các người hay, ta không bao giờ là người Cộng Sản như các người nghĩ, nhưng ta là nhà tu thật trong chế độ Cộng Sản. Và TGM Bình thì có thể nói: Ta bảo cho các người hay, có người chê ta ba phải. Nhưng trước sau, ta là nhà tu thật dưới thời ông Diệm, ông Thiệu. Nhưng ta trở thành nhà chính trị bất đắc dĩ dưới thời Cộng Sản.

Và có lẽ, tôi thích nhất câu nói để đời sau đây của nhà tu bất đắc dĩ: ‘‘Nó giết mình hôm trước, hôm sau nó đem vòng hoa đến phúng điếu mình.’’

Có lẽ chính nhờ hiểu cái lẽ quyền biến của câu trên đã giúp ông không phải nhận một vòng hoa phúng điếu.

Sau 1975, chúng ta có chủ nghĩa CS và có thêm chủ nghĩa bất đắc dĩ. Bất đắc dĩ để Thượng toạ Trí Quang phải quy ẩn trong chùa và bất đắc dĩ, Tổng Giám Mục Nguyễn Văn Bình phải làm chính trị. Kẻ làm chính trị phải đi tu và kẻ đi tu phải làm chính trị.

Và cả miền Nam đều làm những công việc bất đắc dĩ như thế.

Ngày 6 tháng 5/1975, bộ mặt thứ hai của Sàigòn sau Giải Phóng

Bộ mặt thứ nhất là những tiên tri giả ở trên, bộ mặt thứ hai là những người buôn bán giả. Chỉ sau một tuần, cái điểm nỗi bật của một thành phố chết vừa mới trỗi dậy là sự xuất hiện rất nhiều những người buôn bán lẻ. Họ ngồi dọc theo các đường, từ đầu phố hay đầu con hẻm. Bán đủ thứ và mua cũng đủ thứ.

Người buôn bán phần đông là những người chưa bao giờ buôn bán. Đây là lần đầu họ làm nghề buôn bán bất đắc dĩ. Sự buôn bán này là một bài toán trắc nghiệm người chủ mới trong thế chờ đợi thời thế, nghe ngóng động tĩnh.

Nghĩ đến hoàn cảnh bất đắc dĩ của cả miền Nam, xin mượn lời hát của TCS:

Hãy sống dùm tôi
Hãy nói dùm tôi
Hãy thở dùm tôi…

Nhiều người không muốn sống, không muốn thở và đã hẳn không muốn nói nữa.

Cuộc truy diệt văn hóa, sách vở miền Nam.

Người ta kể trường hợp ông N.L., một cán bộ vào tiếp thu văn hoá miền Nam có dịp đọc cuốn Loan Mắt Nhung của nhà văn Nguyễn Thụy Long. Ông thích cuốn sách đó, mang về Bắc trình ông Tố Hữu. Ông Tố Hữu đọc xong nói: “miền Bắc đã không thể có người viết văn như thế này…”.

Vậy mà lần đầu tiên người dân Sài Gòn phải đốt sách vở.

Nhà văn Bùi Ngọc Tấn trong cuốn Viết về bè bạn cũng đã từng trải nghiệm việc phần thư như thế ở ngoài Bắc: ”thế là tất cả các thư từ đều được đem ra đốt. Dưới bếp nhà anh chị tôi, vắng vẻ. Tôi nhớ là mùa nắng hanh. Những bức thư bắt lửa. Đây mới thật là lễ Hiến tế… Tôi đưa từng lá thư vào lửa. Khuôn mặt của từng người bạn hiện ra trong ngọn lửa lem lem. Tôi và Nguyên Bình cùng im lặng. Không ai nói một lời trong suốt lễ hóa vàng. Không cả tiếng thở dài nữa.”

Trong cuộc truy lùng sách vở Ngụy, bị đánh giá đồi trụy và phản động này, thì ông Linh mục (LM) Trương Bá Cần, nguyên giáo sư sử học, hay Trần Bá Cường tỏ ra biết lợi dụng thời cơ nhất. Trần Bá Cường đã yêu cầu địa phận, nhà xứ, nhà in nộp tất cả tài liệu ấn phẩm tôn giáo. Từ đó cho người sàng lọc tài liệu nào không cần thì đem bán ki lô, tài liệu nào xử dụng được hay có giá trị lịch sử thì ông cất giữ cho riêng mình. Người viết bài này biết rằng riêng địa phận Sài Gòn và nhà in Tân Định còn tàng trữ rất nhiều tài liệu quí giá từ thời Pháp thuộc. Các văn kiện liên quan đến Tòa thánh, các phúc trình địa phận, các thư từ giao dịch của các vị giám mục tiền nhiệm, các sắc chỉ, bài sai, các sách cũ quý và hiếm không đâu có, các sách đạo như kinh bổn, hạnh thánh, báo chí như tờ Nam Kỳ địa phận trong suốt hơn 40 năm… Không biết ông Cường đã cướp được những tài liệu gì và cất giữ ở đâu. Điều chắc chắn là cả một di sản văn hóa tinh thần có giá trị lịch sử đạo TCG bỗng chốc trở thành tiêu ma.

Sau này, cái tội dối với lịch sử đó, mình ông gánh vác lấy.

Trách chính quyền CS truy diệt văn hóa miền Nam đã là một lẽ, ngay một số nhà văn miền Bắc cũng có cái nhìn khinh miệt, đánh giá thấp văn học cùng văn nghệ sĩ miền Nam, dù đã sau nhiều thập niên. Trong truyện ngắn Rửa tay gác kiếm xuất bản vào năm 2002 mới đây, ta còn đọc được những đoạn văn như sau của Bảo Ninh:

Chỉ mỗi mình Tú, một tay mọt sách, nguyên sinh viên trường Tổng Hợp là không ngại rúc vào đó, ngụp lặn lục tìm trong bụi tha về phòng một bao tải nặng chịch những cuốn tiểu thuyết chưa bị mối xông. Nhưng tất cả đều rặt một nòi thối tha mục nát văn chương chống Cộng, chữ nghĩa tối tăm, mờ ám, nội dung láo toét, ít ai kiên nhẫn đọc nổi quá nửa trang, chất giấy lại không hợp để vấn thuốc và khổ thì quá nhỏ để gói bọc một thứ gì, thành thử đống sách của Tú chẳng mấy ai buồn ngó, dù rằng nó cứ vơi đi. Người ta thấy các mẩu vụn của những Chu Tử, Xuân Vũ, những gì đó nữa quanh chỗ dựng điếu cày và trong nhà bếp, trong nhà cầu…

Họ đã cố hủy diệt văn học miền Nam mặc dù đã không hiểu gì về Văn học ấy. Càng không hiểu được sức sáng tác từ tinh thần tự do sáng tạo của các nhà văn miền Nam cũng như hệ thống tự do xuất bản so với miền Bắc. Bình Nguyên Lộc viết 820 truyện ngắn vào năm 1966. Đến 1975, số lượng đã hẳn trên 1000. Truyện dài của ông gần 100 cuốn. Và còn vô số truyện dài chưa in, khoảng 30 truyện. Nhà văn Duyên Anh có khoảng 60 tác phẩm. Phạm Duy đã sáng tác gần 1.000 bản nhạc đủ loại. Hay có, dở cũng có. Trịnh Công Sơn trên 600 bài, nhiều bài thuộc loại nhạc vượt thời thời gian đi vào bất tử cả tử lời ca đến nhạc điệu. Chỉ xét về lượng sách xuất bản, có nhà văn nào ở miền Bắc có thể so sánh bằng?

Nguyễn Tuân, nhà văn hàng đầu miền Bắc, trước tiền chiến có 10 tác phẩm nổi tiếng như Vang Bóng một thời, Tàn đèn dầu lạc, từ 45-75 có 10 tác phẩm đều tầm thường như Hà Nội Ta Đánh Mỹ giỏi… Những Tô Hoài, ngoài một vài cuốn ký, Xuân Diệu, Huy Cận, Nguyên Hồng, Vũ Ngọc Phan, nhất là Nam Cao đã viết được gì?

Văn Cao bất hủ thời tiền chiến nay để lại được gì? Có bằng số lượng 2% phần trăm so với Trịnh Công Sơn? Có đi được nhiều thế hệ tuổi trẻ như Trịnh Công Sơn? Hay như Huy Cận với những bài Cướp súng giặc, Giết giặc, Tăng gia sản xuất, hoặc Lưu Trọng Lư với Cái mũ nồi, Tươi đẹp mầu cờ. Nhà văn Thanh Tịnh với Bài trừ hàng xa xỉ phẩm, Chống tư tưởng sợ Mỹ…

Xin trích dẫn nhà thơ Lưu Trọng Lư nổi tiếng với Lá Thu Vàng để chúng ta có dịp ngậm ngùi:

Đứa nào rẽ thúy chia uyên.
Bắn cho nổ con ngươi, lòi con mắt
Chặn bàn tay, trói giật bàn tay.

Và đây là thi sĩ Tố Hữu, nhà thi sĩ đứng thứ nhì ở miền Bắc:

Thảm lắm anh à lũ ác ôn
Giết cả trăm người trong một sáng
Máu tươi lênh láng đỏ đường thôn
Có những ông già nó khảo tra
Chẳng khai, nó chém giữa sân nhà
Có chị gần sinh không chịu nhục
Lấy vồ nó đập thai ra
Có em nhỏ nghịch ra xem giặc
Nó bắt vô vườn, trói gốc cau
Nó đốt, nó cười… em nhỏ hét:
Má ơi nóng quá, cứu con ra.

Ngày 15 tháng 5/1975, giáo chức được lệnh phải trình diện tại Bộ Giáo Dục.

Một trong những sai lầm của chế độ mới là để giáo sư cũ đi dạy trở lại.

Bởi vì, tất cả không trừ một người, đều không đủ tư cách làm một thày giáo trong chế độ mới. Không phải chỉ đi học hai ba tuần lễ chính trị đã đủ để biến họ thành một giáo viên của mái trường xã hội chủ nghĩa. Việc dạy và học trở thành một màn kịch lừa đảo, tráo trở và ngô nghê. Thày đóng kịch còn trò mất tin tưởng. Con người sống bất đắc dĩ, sống hai mặt, nói một điều nghĩ một điều. Đi dạy mà sợ học trò, nhất là học trò lớp nhỏ. Đối với học trò lớn, dễ có sự thông cảm hơn. Không tin nhau thì còn dạy dỗ gì được. Cái tồi tệ nhất của học đường không phải là thiếu trường sở, cơ sở vật chất, thầy giỏi, phương pháp giáo dục năng động, cho bằng sự mất niềm tin nơi giới trẻ đánh mất niềm tin ở thầy.

Chính trị hóa học đường là điều xúc phạm nhân phẩm thầy giáo.

Trong Nam, trước 30/4/1975 người thầy chưa hề bị xúc phạm như thế. Sau 30/4/1975, đi dạy học là một dằn vặt khổ sở đối với thầy vì cảm thấy mình hèn, không nhân cách. Mỗi ngày, ông thầy phải tranh đấu với chính mình, vật lộn với cái đầu của mình, phải tìm cách chiến thắng những tư tưởng bất đồng cứ ngo ngoe muốn ngóc đầu dậy để phản đối cái này cái kia. Có nhiều thứ để phản đối, để không đồng ý. Vai trò nhà văn, nhà giáo quả không xa nhau lắm ở chỗ biết nói sự thật. Xã hội phải tin vào người thầy và trả lại vai trò truyền đạt kiến thức và nhân phẩm.

Bộ mặt thứ ba của Sài Gòn sau Giải Phóng: bộ mặt của kẻ chiến thắng?

Có cuộc diễn binh ăn mừng chiến thắng. Chiến thằng gì, ai chiến thắng ai? Đã nói rằng cuộc chiến này không có người thắng, kẻ thua. Vậy ăn mừng chiến thắng là bỉ mặt đối với người Sài Gòn. Người Sài Gòn muốn quên, còn họ muốn nhớ. Họ muốn phô trương sức mạnh, họ muốn người Sàigòn nhìn nhận thua cuộc. Họ muốn xác nhận một điều không cần xác nhận nữa. Và mỗi năm, họ tái diễn lại cảnh này.

Tôi tự hỏi khi thống nhất nước Đức thì dân chúng Tây Đức ứng xử thế nào, nhà cầm quyền Tây Đức đã hành xử ra sao? Đã bắt đi học tập? Đã đầy đi kinh tế mới? Đã tịch thu tài sản, nhà cửa dân Đông Đức? Đã truy diệt đốt phá sách vở bên Đông Đức? Đã bắt các nhà văn, nhà bao Đông Đức vào tù? Đã dựng nên những bức tường ô nhục? Đã gọi dân quân Đông Đức là bọn Ngụy, bọn phản động? Đã xua đuổi người ta ra biển? Đã có bao nhiêu người dân Đông Đức phải trốn ra khỏi nước họ? Và một câyu hỏi chót: Dân Tây Đức đã hy sinh bỏ ra bao nhiêu tỉ để thực hiện việc thống nhất nước Đức?

Các anh em đồng bào, những thanh niên trí thức từng du học, từng đi làm bên các nước Đông Âu, hãy làm nhân chứng viết lên điều này. Các anh đã thấy gì, nghĩ gì và so sánh gì khi nghĩ tới hoàn cảnh thống nhất đất nước sau 1975 so với nước Đức?

Bài học thống nhất nước Đức là bài học lớn mà người CS khi nhìn lại đã không học được, chỉ vì việc thống nhất này xảy ra sau 1975. Nhưng ngay cho dù xảy ra trước 1975, vị tất đã học được gì? Bằng chứng là sự tan rã chế độ CS Đông Âu, nào họ đã rút ra được bài học gì? Bộ mặt thứ ba này cho thấy một điều: Họ luôn luôn cư xử với người Sài Gòn như kẻ thắng cuộc, như kẻ đô hộ với người bị trị. Đó là một thứ thực dân kiểu mới.

Người ta thấy trên đường phố diễn hành những đại bác 130 ly của Xô Viết, hoả tiễn SAM 2 Xô Viết xuất phát từ Thủ Đô Hà Nội. Một lần nữa xác quyết rằng, đấy là thành quả chiến thắng của Hà Nội chứ không của một ai khác. Một thành quả mà Hà Nội đã trả một giá không rẻ. Trong Les gens de la C.I.A, 1980, Guérin đã cho biết một cán bộ CS ở Bình Dương, vào năm 1963-1965, nhóm của ông này có cả thảy 75 người, đến ngày giải phóng, chỉ còn mình ông sống sót. ‘‘Des soixante-quinze membres des années 1963-1965, je suis le seul survivant’’. Dương Thu Hương nhắc lại số học sinh trong 4 lớp Trung Học cùng thời với bà, sau chiến tranh, chỉ có hai người sống sót trở về.

Đó là cảnh mà một thi sĩ Trung Hoa đã ngao ngán viết: “Nơi vó ngựa chiến đi qua, mười năm sau, cỏ chưa mọc và gió thổi còn mang mùi máu…’’.

Theo một tài liệu Mỹ cho thấy từ 1961-1968, có 259.447 cán binh Cộng Sản bị giết và 389.171 bị thương cộng với khoảng 300.000 bị chết, nhưng không tìm được xác

Đó cũng là cảnh mà một chuyên gia người Mỹ, ông Keith Weller Taylor đã ngạc nhiên nhận xét về sức sống của người VN: Những chuyên gia về sự tồn tại.

Cảnh đó cũng được quay chiếu thành film: We we’re soldiers. (Chúng ta đều là những người lính). Ở nơi đó, vị trung tá chỉ huy trước cảnh hoang địa với sự hy sinh của hơn 2 phần 3 đồng đội chỉ còn mỗi một điều an ủi: “Cuối cùng thì những kẻ còn lại vẫn là những người chiến thắng”.                                                                                 

————————————–

27/5/1975, bộ mặt thứ tư của Sài Gòn sau Ngày Giải Phóng: Sự sợ hãi.

Đài phát thanh thành phố ra lệnh phải thu nộp tất cả các sách vở, báo chí, phim ảnh, tài liệu in ấn trước ngày 30 tháng tư được coi là đồi trụy? Chỉ một lệnh này thôi đủ làm dân thành phố đau ruột. Nhà nào chả có sách vở, nhà nào mà chả có chữ nghĩa.

Hình như chế độ tạo cho mọi người dân “mặc cảm tội lỗi” đến làm gì cũng sợ. Làm việc gì, nói điều gì, phát biểu điều gì cũng phải dòm trước, dòm sau, uốn lưỡi bảy lần mới nói. Cái tâm trạng đó biến nhân cách con người thành thiếu trung thực, nghĩ một đằng làm một nẻo. Sống như thế kể là đáng buồn. Sợ bóng, sợ gió, sợ đủ thứ. Trước đây còn trẻ sợ ma, sợ người chết, nay bắt đầu sợ người sống. Nhất là sợ chế độ.

Chế độ mới quản lý con người bằng cách đẩy họ đến tâm trạng sợ hãi bằng cảnh cáo, bằng hù dọa, bằng học tập, bằng lý lịch, bằng bản tự kiểm mà biểu tượng là các vị công an phường khóm với những hình thức chế tài, kiểm soát, chế độ xin cho.

Như ở Ba Lan thời cộng sản, 65% dân chúng có hồ sơ của mật vụ Ba Lan. Thế thì sống luôn luôn trong sự sợ hãi và bất an thường trực. Thân phận lưu đầy ở đây là cảm thức mình là kẻ tội phạm. Cảm thức này phải sống trong lòng chế độ mới biết được. Mới đây, tôi về Việt Nam (VN), ra Hà Nội, đến các khu vực “cấm thành” dọc theo đường Hoàng Diệu, khu Ba Đình, tự nhiên cảm giác bất an, lo sợ tự nhiên dấy lên trong tôi. Sau 30 năm trở lại, tưởng nó chết rồi, nó còn đó trong vô thức ngóc đầu trở lại. Tôi vội vã rời khỏi khu vực đó..

Đó là một thứ phong kiến kiểu cộng sản.

Cái khốn khổ dằn vặt con người không phải là đã phạm tội gì mà vận dụng hết cách như trí nhớ, sự khôn ngoan, trí thông minh nghĩ ra, tưởng tượng ra tội phạm.

Cái cảm nghiệm này đối với những người theo Thiên Chúa giáo (TCG) thật sự không xa lạ gì. Khi còn nhỏ tuổi, người theo TCG cũng thường rơi vào mặc cảm mình lúc nào cũng tội lỗi, một ngày ít lắm cũng phạm tội đến 7 lần. Trẻ con mà có tội gì? Vậy mà mỗi tuần mỗi xưng tội. Mỗi tuần ngồi thần ra để đẻ ra tội, đẻ càng nhiều càng tốt. Có gì khác nhau giữa người Thiên Chúa giáo và người Cộng Sản?

Người miền Nam sinh ra ngờ vực, cái gì cũng có cảm giác mình bị lừa.

Chủ nhật 1/6/1975

Quân bài mạt chược cũng biết đóng kịch và người tử tế không còn nữa.

Đã một tháng trôi qua, đã có rất nhiều thay đổi. Mọi người đều cố gắng vận dụng khả năng thích ứng, sao cho thích hợp với hoàn cảnh mới. Thật cũng không dễ dàng gì. Trước 1975, tôi có thú giải trí xoa mạt chược cuối tuần. Đã một tháng hầu như quên lãng. Nay chợt nhớ lại. Thời gian như đã từ lâu chưa chơi lần nào.

Lần đầu tiên, tôi lén lút đi xoa mạt chược cho đỡ ghiền. Nhưng 160 quân bài mạt chược nay cũng phải mặc thêm bộ áo che chắn như người để khỏi gây ra tiếng động khi xoa bài. Chủ nhà đã nghĩ ra được sáng kiến đến lạ. Ông tốn kém đi mua một lốp săm xe đạp, cắt ra thành từng khúc vuông nhỏ, rộng nửa đốt ngón tay, rồi quấn ngoài quân mạt chược. Vì thế quân bài xoa va vào nhau không phát ra tiếng kêu, tránh cho hàng xóm khỏi nghe thấy. Nhưng từ nay, mỗi lần đánh quân bài ra, nó nhảy tưng tửng đến là buồn cười. Không ngờ, nó đóng kịch cũng hay.

Đi ra đi vô phải ra lần lượt từng người một để tránh sự dòm ngó của người chung quanh.

Niềm vui nho nhỏ, giải trí cũng đã sứt sẹo, mất vui.

Trên đường về nhà, từ chỗ đánh mạt chược ở khu Hàng Xanh, nhất là vùng Thị Nghè, đường Nguyễn Huệ, bờ sông Sài Gòn, người ta bán đủ thứ do ăn cắp, hôi của từ các kho hàng, các hãng xưởng. Có thể tìm thấy đủ thứ ở các nơi đó. Nạn con buôn chạy hàng, manh múm, nạn chợ đen, giá cả mỗi nơi mỗi khác thay đổi từng ngày. Hàng thùng thuốc lá của các hãng Bastos, hãng thuốc lá M.I.C, thùng bia của hãng B.G.I. được đem ra bán. Xăng được bán lẻ từng chai ở mọi chỗ với cái chai không được bày ra đường làm dấu hiệu. Xăng này do bộ đội bán ra, vì các cây xăng bị đóng cửa. Giá cả từ 1.000 đồng đến 2.000 đồng một chai.

Sau này, tôi cũng nhập vào dòng chảy buôn bán xuôi ngược này. Nhiều nguồn, nhiều cách buôn lắm. Tôi mua lại những chai thuốc viên Aspirine từ Hànội mang vào. Mua cả lố hàng 2, 3 chục ngàn viên. Tôi đem đến bán cho một hai cơ sở bào chế.. Họ nghiền, tán thuốc Aspirine Hà Nội rồi cho máy chạy ép ra thuốc Aspro trong Nam, có vỉ nhựa bọc. Viên thuốc cứng nhắc, trình bầy đẹp, in ấn đẹp, viên thuốc không mềm nhũn như thuốc Hà Nội mà giá đắt gấp 3, 4 lần hơn. Chưa biết là có pha thêm bột không? Bào chế xong, tôi lại đến mua lại cho một số hiệu thuốc quen và bán lại cho những người bán lẻ, có thể họ bán lại cho chính anh cán bộ đã bán Aspirine Hà Nội.

Thật là một vòng xoay đến buồn cười. Thật ra đó chỉ là vấn đề thương hiệu, vấn đề tên nhãn thuốc.

Nói chung, mọi người từ trong Nam đến ngoài Bắc đều “có vẻ tin tưởng” vào những sản phẩm trong Nam hơn. Thuốc ngoài Bắc, người ta gọi là “thuốc rởm”. Đây là lúc người ta so sánh nhiều thứ lắm. Ngoài Bắc thế này, trong Nam thế kia. Mà bao giờ kẻ thắng trận cũng thành kẻ thua.

Tôi là người gốc Bắc, nhưng do sự tiếp xúc thường xuyên với người cán bộ, tôi cảm thấy tôi có chất Nam nhiều hơn chất Bắc. Chất Nam Kỳ làm tôi có cảm tưởng không giống chút nào với những người mới vô nữa. Tôi khác họ. Trước đây, có thể có kỳ thị Nam Bắc. Nay có thể có kỳ thị Bắc-Bắc, Bắc 54 với Bắc 75.

Nếu cần tổng kết một tháng trôi qua thì phải nói đã ló dạng nạn buôn bán, mánh mung, nạn chợ đen, tham nhũng, nạn chụp giựt lừa đảo bắt đầu. Một xã hội đen, một xã hội bên lề đã thành hình. Đó cũng là đặc trưng của Sài Gòn sau 30 tháng tư. Có những người trước đây tử tế như thế nay sinh gian tham, mánh mung, lừa đảo. Đã thấy xuất hiện những người tử tế không còn tử tế nữa. Người thật thà trở thành gian manh.

Người ăn nói trung thực trở thành nói láo khoét. Con người sống trung thực bắt đầu biết đóng kịch. Chủ nghĩa bất đắc dĩ đã sản sinh ra những người vợ trung chinh nay bắt đầu thay lòng đổi dạ. Học trò siêng năng trở thành lười biếng. Thanh niên ngưỡng vọng cao vời bắt đầu mất lý tưởng.

Đó là điều mà Dương Thu Hương cho là một nghịch lý: “Một dân tộc dũng cảm biết bao trong chiến tranh và hèn mọn biết bao trong cuộc sống thời bình’’.

Chiến tranh đã cướp đi tất cả những gì là cao quý, trong sáng chỉ còn để lại bọn khôn ngoan cơ hội, bọn trục lợi, bọn ăn may theo trình tự: Trong chiến tranh, người trẻ chết trước người già, người nghèo cùng khổ bán máu chết thay cho bọn giầu có quyền, có chức. Người ít học chết thay cho bọn có học, chết thay cho bọn đầu cơ chính trị.

Người bắt đầu không ra người. Cái gì đã làm dổi thay cá tính con người như vậy. Những mánh khóe lừa đảo đủ loại ra đời mà không sách vở nào dạy hết được. Chính bản thân tôi cũng bị lừa vài lần đến đau điếng. Tại sao xã hội lại thay đổi như vậy? Trước đây, cũng không thiếu tầng lớp người nghèo xác xơ, tại sao cảnh đó lại không xảy ra?

Trục xuất Khâm sứ Toà thánh và hủy bỏ việc bổ nhiệm Giám Mục (GM) Nguyễn Văn Thuận làm phó Tổng GM (TGM).

Trong thời gian này, có xảy ra vụ trục xuất Khâm sứ Toà Thánh và phản đối việc bổ nhiệm GM Nguyễn Văn Thuận làm phó Tổng GM có quyền thay thế. Việc trục xuất do sự phát động của một số 20 Linh mục (LM) cấp tiến Triều và Dòng, trong đó có LM Thanh Lãng, giáo sư đại học Văn Khoa.

Ngoài Thanh Lãng còn phải kể đến Nguyễn Quang Lãm, Vương Đình Bích, Trương Bá Cần, Trần Viết Thọ, Nguyễn Văn Trinh, Phan Khắc Từ, Hoàng Kim, Nguyễn Thới Hòa, Nguyễn Văn Huệ, Nguyễn Nghị, Nguyễn Ngọc Lan, Chân Tín, Huỳnh Công Minh, Nguyễn Thiện Toàn, Đinh Bình Định. Nhiều tin đồn và dư luận xôn xao và đã có xáo trộn trong đám giáo dân. Một nhóm sinh viên căng biểu ngữ trước tòa TGM Sài Gòn vào ngày 13/5/1975 phản đối việc bổ nhiệm Đức cha Nguyễn Văn Thuận.

Theo như lời phỏng vấn ông Nguyễn Văn Hanh trên tờ Sàigòn Giải Phóng thì: “Do đó đã xảy ra xôn xao và xáo trộn, thậm chí có chết người trong cuộc xô xát đêm 3/6/1975, gần cầu Trương Minh Giảng’’. Phần LM Thanh Lãng, người cổ xúy cho việc này thì đã viết một bài: “Tạm tổng kết vụ Giám Mục Nguyễn Văn thuận”. Nhân đó ông Nguyễn Văn Hanh đã không quên thừa dịp này đề cao LM Thanh Lãng là: “là nhà văn và là nghiên cứu có tiếng là trí thức và ôn hoà…” Trong khi đó thì lại có một tiếng nói khác của LM Trần Du, đăng trên tờ Đứng Dậy, số 72, trang 46 như sau: “Quyết định bắt Đức Giám Mục Nguyễn Văn Thuận rời Sài Gòn không thể thi hành được. Hai triệu dân công giáo không chấp nhận. Đức Giám Mục Nguyễn Văn Thuận không có quyền từ chức. Vậy thì chính quyền có thể giết ngài, có thể giết cả tôi, có thể bỏ tù Ngài hay bỏ tù tôi.. Nhưng không thể tự ý trục xuất Đức Giám Mục Nguyễn Văn Thuận ra khỏi Sài Gòn”.

Phần TGM Nguyễn Văn Bình trong một lá thư gửi LM, tu sĩ, giáo dân ngày 7/6/1975 đã xác định:

-Việc bổ nhiệm là hợp với nhu cầu mục vụ
-Chính tôi đã đồng ý hoàn toàn việc bổ nhiệm này.
-Mấy tổ chức mệnh danh công giáo chỉ là thiểu số.
-Những tội danh gán buộc cho Đức khâm sứ Henri Lemaitre và Đức TGM Nguyễn Văn Thuận hoàn toàn thất thiệt.
-Chấm dứt các chiến dịch bôi nhọ, vu cáo.
-Chận đứng các chiến dịch vận động phi pháp trục xuất TGM Nguyễn Văn Thuận.

Bất chấp kháng thư của Tổng GM Nguyễn Văn Bình, hai tháng sau, ngày 15/8/1975, Ủy ban MTDTGP TP. HCM và Ủy ban quân quản trình bày vụ TGM Nguyễn Văn Thuận tại Nhà hát thành phố (trụ sở Hạ Nghị Viện cũ), ông Phó chủ tịch Mai Chí Thọ tuyên bố: “đưa giám mục Nguyễn Văn Thuận về lại Nha Trang, vì Giám Mục Thuận được chuyển đến Sài Gòn không phù hợp với tình hình mới.” Cũng trong ngày ấy, tức 15/8, Ủy Ban quân quản mời Đức Cha Bình và Thuận đến “làm việc” tại dinh Thống Nhất (dinh Độc lập), giữ cha Thuận lại, đưa xe bít bùng chở đi câu lưu tại Cây Vông, thuộc tỉnh Khánh Hoà, sau đó chuyển ra Bắc, bị tù 13 năm, trong đó có 9 năm biệt giam, cho tới ngày 23/11/1988.

Xin ghi lại đây mấy dòng nhật ký của TGM Nguyễn Văn Thuận: Ngày 1 tháng 12, năm 1976, lúc 9 giờ tối, bất thình lình, tôi bị gọi đi cùng với vài tù nhân khác. Chúng tôi bị xích người này với người kia từng hai người một và được đẩy lên xe cam nhông… Chúng tôi bị đưa lên tàu, chở ra miền Bắc – một cuộc hải hành dài 1.700 cây số. Dĩ nhiên trong điều kiện như một đàn súc vật người chen chúc, thiếu ánh sáng, thức ăn và không khí, nhưng đầy ắp những tiếng uất ức nói không nên lời. Trong 9 năm biệt giam cơ cực, có lúc tôi bị giam trong một xà lim không có cửa sổ. Có khi đèn điện bật sáng từ ngày này qua ngày khác. Trong thời gian, tôi bị biệt giam, tôi được giao cho 5 người canh gác. Họ thay phiên nhau luôn luôn có hai người ở với tôi… Khi tôi bị quản thúc tại làng Giang Xá, cách Hà Nội khoảng 20 cây số, người canh giữ tôi là một tín hữu công giáo.

Vụ việc này xảy ra chỉ không đầy hai tháng sau khi “chỉ thị của Thủ Tướng Chính phủ về các hoạt động tôn giáo”

Thứ bảy, 7/6/1975, thân phận một nữ sinh viên tranh đấu trước 75.

Trong giới sinh viên, nhiều người biết đến Cao thị Quế Hương như một người tranh đấu điển hình, nhất là trong giới Phật tử. Cuộc biểu tình, tuyệt thực nào mà không có cô. Ra tù, ra khám như chơi. Nổi tiếng tranh đấu như thế, chắc hẳn vào tù không khỏi bị các quản ngục làm nhục cách này, cách khác. Báo chí nhắc đến cô với ngưỡng phục vì lòng can đảm, vì nhiệt tình hăng say. Vào những giờ phút chót của VNCH thì cô vẫn đang ngồi tù ở Biên Hòa. Ở một nơi nào, trong một trại giam biệt lập, mà ít người biết.

Hôm nay, cô Cao Thị Quế Hương từ Đà Lạt về mỗi năm để làm giỗ cho anh Nguyễn Ngọc Phương và để gặp lại bạn bè tranh đấu thời trước. Cao thị Quế Hương là một khuôn mặt nổi bật trong giới sinh viên tranh đấu trước 1975. Nhắc lại cái thời kỳ ấy, có một số các bà, đặc biệt có chị Yến và một bà người Tàu chuyên nấu bếp ở chùa Ấn Quang Họ thường tổ chức nấu ăn, tiếp tế tương chao cho tù nhân ở nhà giam Tân Hiệp Biên Hoà. Đám giỗ Phương đã được tổ chức ở Tịnh Xá Ngọc Phương của cố ni sư trưởng Huỳnh Liên. Mỗi lần giỗ như thế thì có đông các ni sư, ni cô và các bà Sài Gòn tụ tập lại. Lẽ dĩ nhiên là thường ăn đồ chay.

Trong thời kỳ đó, toà án mặt trận vùng 3 chiến thuật xử lần thứ nhất tạm phóng thích khoảng 10 sinh viên, trong đó có cô Cao Thị Quế Hương, Nguyễn Ngọc Phương, tự Ba Triết, Dương Văn Đầy và Huỳnh Tấn Mẫm. Mẫm nguyên là chủ tịch Sinh Viên 1970, lãnh đạo thành đoàn Tòa xử lần 2. Mẫm và Đầy và một sinh viên được thả, số còn lại bị giữ cho đến ngày được trao trả. Trừ Nguyễn Ngọc Phương.

Cuối năm 1972, Nguyễn Ngọc Phương và một số tù Chí Hoà nhịn ăn để chống lại đại tá Vệ, giám đốc nhà tù Chí Hoà. Phương đuối sức, được đưa vào bệnh viện Sài Gòn. Đến đầu 1973, Phương chết. Sau này Lê Văn Nuôi, chủ tịch thành đoàn, chủ bút báo Tuổi Trẻ thường nhắc lại kỷ niệm về Phương: Phương chưa kịp mừng Hiệp Định Hoà Bình ra đi thì đã mất.

Đám ma Phương được nhiều dân biểu, nghị sĩ đối lập như các dân biểu Kiều Mộng Thu, Phan Xuân Huy, Hồ Ngọc Nhuận v.v… đến nhà ở đường Cao Bá Nhạ phúng điếu. Sau đám tang Nguyễn Ngọc Phương, Cao Thị Quế Hương bị bắt lại và bị giam ở trại Chiêu Hồi Đức Tu Biên Hòa cho đến trước ngày giải phóng. Cao Thị Quế Hương trốn khỏi trại trước ngày giải phóng và ra ở nhà chị Dậu, một phụ nữ đấu tranh nổi tiếng ở Vũng Tàu, đến tháng 5-75 mới về lại Sài Gòn.

Cuộc đời của Cao Thị Quế Hương sau đó củng chìm lỉm vô danh như nhiều người khác. Cô về sống với mẹ ở Đà Lạt như một người quy ẩn. Nói quy ẩn cũng không đúng hẳn. Cô giữ chức chủ tịch Hội Liên Hiệp phụ nữ tỉnh Lâm Đồng, Đà Lạt.

Đó là những bóng người như những bóng đêm câm lặng nhường chỗ cho những bọn múa rối ra đời và sắp ra đời, tuỳ theo mỗi thời kỳ… Thoạt đầu là những Trí thức yêu nước, sau này là trí thức hải ngoại tìm về v.v…

Đến có thể nói một điều chua chát như thế này. Rất nhiều người đã “nổi’’ nhờ chế dộ độc tài Nguyễn Văn Thiệu miền Nam như: Cao thị Quế Hương, Huỳnh Tấn Mẫm, Lý Quý Chung, Ngô Công Đức, Hồ Ngọc Nhuận, các quý vị đi theo Mặt trận Giải phóng miền Nam (MTGPMN). Sau giải phóng, thay vì nổi thì họ chìm.

Sài Gòn của tin đồn thất thiệt.

Nay thành phố giới nghiêm từ 10 giờ tối. Dù không có giới nghiêm thì cũng không ai muốn ra khỏi nhà vào cái giờ ấy. Có nhiều tiếng nổ lớn ở phía Bắc thành phố vào lúc 3 giờ… Có tiếng còi hụ của xe cứu hỏa, người ta đồn với nhau là tiếng nổ do Plastic gài vào xe của của bộ đội. Cũng có hai bộ đội bị đâm chết ngay cạnh rạp ciné Mini-Rex, đường Lê Lợi. Nhiều người còn kháo với nhau có mảnh giấy ghim trên ngực người chết ghi “chúng tôi không muốn cuộc cách Mạng của các ông’’. Thật sự thì đã có ai nhìn thấy mảnh giầy ghim trên ngực đó không? Chắc là không. Chỉ đồn, chỉ bịa, chỉ tưởng tượng đủ thứ. Tôi không tin có mảnh giấy đó.
Mảnh giấy đó chỉ nằm trong đầu người ta mà thôi.

Thay vì nghe đài phát thanh thì nay dân chúng đã có “Radio Catinat”, mỗi ngày phát thanh tin đồn thất thiệt hai mươi bốn trên hai mươi bốn.

Sài Gòn không có thông tin, nên nẩy ra rất nhiều tin đồn để lấp chỗ trống đó. Càng cấm, tin đồn càng nhiều. Có những tin đồn đến hoang đường, đến không tưởng mà người ta vẫn kháo nhau cho là thật. Tin đồn được tung ra từ các đám người đấm bóp thời cuộc, ngồi ở cà phê đầu đường tán dóc cho qua thì giờ.

Bà Ngô bá Thành trong một cuộc phỏng vấn đã nhận xét: “Radio-Catinat là một lực lượng đáng kể ở thành phố Hồ Chí Minh. Nó vượt qua dễ dàng những phương tiện truyền thông chính thức của chúng tôi”.

Hôm nay. Hôm nay là hôm nào? Hôm nào cũng được, miễn là ngày của chúng tôi. Một số đồng nghiệp trẻ tổ chức ăn với nhau tại nhà một cô giáo bên Khánh Hội.

Không khí đầm ấm, nhớ đời. Cuộc sống của chúng tôi chỉ có ý nghĩa thực sự ở những lúc này.
Chúng tôi gần nhau hơn, chia sẻ nhiều hơn, mặc dầu bữa nhậu dù cố gắng lắm cũng rất đạm bạc. Ăn xong, một số các em nữ giáo viên trẻ đàn hát nhạc cũ. Hát nhỏ thôi. Hát lén thôi. Nhưng chính ở chỗ hát lén mà nó đậm đà, mà nó cảm động. Ăn trộm, ăn vụng đã ngon, lần đầu tiên hát lén cũng thấy hay không thể chê được. Nhiều em gái, dơm dớm nước mắt. Chúng tôi chia tay, trong lòng ai cũng muốn có những bữa ăn như thế nữa.

Thứ ba, 10/6/1975, đại sứ Pháp Merillon ra đi.

Chuyến máy bay thứ ba ra nước ngài chở theo tất cả những nhà ngoại giao còn sót lại. Trong số này, có ông đại sứ Pháp Mérillon, nổi tiếng vào những câu chuyện giờ thứ 25 của Sài Gòn. Ông ôm gói ra đi trong một tình trạng bị đối xử thật tồi tệ đối với đại diện một cường quốc như nước Pháp. Hà Nội hình như muốn khép tất cả các cánh cửa ra ngoài. Với sự ra đi của ông Đại Sứ Pháp… hầu như mọi liên lạc với thế giới tư bản bị cắt đứt. Hà Nội hình như muốn đóng cửa để dễ làm việc, giải quyết những chuyện nội bộ cho xong. Sau này, tại hải ngoại đã có cuốn sách dựng đứng việc Đại Sứ Mérillon thương lượng với chính quyền giải phóng về một giải pháp bị thất bại. Lại một chuyện hoang tưởng nữa, mất công ông Đại Sứ viết bài báo cải chính cũng không xong.

Thứ năm, 12/6/1975, trình diện học tập cải tạo

Ngày đánh dấu một thay đổi lớn với tất cả những nhân viên, sĩ quan trong chế độ cũ. Guồng máy chính trị chế độ bắt đầu chạy, bắt đầu xiết. Thông cáo cho hay, các sĩ quan và viên chức chính phủ cũ sẽ phải đi học tập cải tạo tối thiểu một tháng đối với Sĩ quan quân đội và cảnh sát ngụy, những người làm chính trị, dân biểu, bộ trưởng, nghị sĩ. Họ phải trình diện trong ngày mai và chỉ được mang theo quần áo mặc thay đổi và còn nói rõ mang theo 1.3610 đồng để trả tiền ăn trong một tháng.

Đối với các Hạ sĩ quan trở xuống, chỉ phải trình diện học tập ba ngày. Tờ Sài Gòn Giải Phóng giải thích: “Họ có phần trách nhiệm của họ vì đã cầm súng đánh giặc cho kẻ thù, hoặc đã làm việc cho kẻ thù”.

Chắc nhiều người nay ở Hải ngoại đã hẳn không quên được cái ngày lịch sử này đối với đời sống còn lại của họ.

Tôi gọi đó là ngày mà chính quyền dựng lên một bức tường ô nhục phân biệt giữa kẻ thắng, người thua. Sau 30 tháng tư, nhiều bức tường ô nhục đã được dựng lên như thế.

Tiện nơi đây, xin trích dẫn những con số khác nhau về số những người đã phải đi học tập cải tạo. Dư luận dân chúng thì đưa ra con số là 80 vạn người tù học tập cải tạo. Năm 1976, P. de Beer đưa ra con số 200.000. J. Lacouture, vào tháng 5, 1976 đưa ra con số 300.000. Những người có khuynh hướng thân CS thì đưa ra những con số như sau: Tháng tư, 1978, Chanda cho có 50.000, tháng tư 1978. RP. Paringaux cũng 50.000. tháng 6, 1979, F. Nivolon, trên tờ Le Figaro, thiên tả, đưa ra con số 50.000.

Trong truyện đi học tập, có một số cựu viên chức miền Nam đã được miễn như các trường hợp kể sau đây: Trong Hồi ký không tên, Lý Quý Chung có ghi lại như sau, khi ông nhận được một phong bì giao tận tay: giao cho nguyên Tổng Trưởng Thông Tin, nguyên dân biểu đối lập ngụy quyền, Lý Quý Chung, thông báo được miễn học tập tập trung. Ký tên: Cao Đăng Chiếm. Phó chủ tịch Ủy Ban Quân Quản.

Khi nói rằng Lý Quý Chung được miễn học tập cải tạo tập trung thì có nghĩa là ông được miễn khỏi phải vào các trại tập trung như cô nhi viện Long Thành. Nhưng ông vẫn phải tham dự các khóa học tập tại chỗ, tổ chức nhiều nơi và nhiều ngày trong thành phố Sài Gòn lúc bấy giờ.

Chẳng hạn, hơn một ngàn giáo sư trung học cả công cả tư trong thành phố cũng được miễn đi học tập tập trung. Nhưng họ vẫn phải tham dự các khóa học tập ngắn ngày trong thời gian liên tiếp ba tuần lễ.
Một trường hợp điển hình khác là ông Lý Chánh Trung, đã từng được đưa vào bưng để tiếp xúc với những lãnh đạo MTGPMN. Khi giải phóng xong, dù sau nay dược là dân biểu, được tiếp tục giảng dạy ở Đại Học Văn Khoa. Ông vẫn phải tham dự các khóa học tập về chủ nghĩa Mác Lênin, không phải một vài tháng, mà kéo dài cả năm, có trao dổi, có làm bài, có chấm điểm.

Vậy thì bất cứ ai ở miền Nam, nếu không trực tiếp là đảng viên cộng sản, hay đã tham gia trực tiếp vào MTGPMN thì dù được miễn học tập cải tạo tập trung vẫn phải dự các lớp học tập tại chỗ. Đó có thể cũng là trường hợp của tướng Lê Văn Nghiêm và một số trí thức miền Nam khác.

Vì thế, việc miễn học tập tập trung cũng còn dành cho một số người khác như Dương Văn Ba, Đinh Văn Đệ, Phan Xuân Huy, Hồ Ngọc Nhuận, Ngô Công Đức, Đinh Xuân Dũng, Nguyễn Phúc Liên Bảo, Nguyễn Hữu Hiệp, Trần Bá Thành (cựu Tổng giám đốc Cảnh sát Sài Gòn, thời Tổng thống Ngô Đình Diệm) v.v…

Nhưng sau đó những người trên vẫn tham dự những buổi học tập diễn ra từ ngày 15/8 đến 22/8, do Tạ Bá Tòng hướng dẫn.

Bên cạnh đó, các ông Dương Văn Minh, Nguyễn Văn Huyền, Vũ Văn Mẫu, Trần Văn Hương là những trường hợp đặc biệt của đặc biệt. Bốn vị này thay vì đi học tập tại chỗ thì người ta gọi là những buổi trao đổi. Thật ra thì cũng là một thứ học tập, ở mức độ nhẹ nhàng và thoải mái thôi. Chỉ có khác là học ở Sài Gòn. Trong những buổi học tập này, cụ Hương là người hăng hái nhất, phát biểu cũng nhiều nhất.

Cuối cùng thì có thể nói là cả miền Nam phải học tập. Trẻ, già, lớn, bé, từ phường khóm đến trường học. Không miễn trừ cho bất cứ người nào.

Nhà nào cũng có người là sĩ quan phải đi học tập. Không sĩ quan thì ngụy quyền. Đâm ra nhà nào cũng có chuyện buồn, cũng có chuyện phải lo. Anh rể tôi, anh cột chèo đều phải đi cả. Các chị tôi đã hẳn buồn và lo lắm. Tôi làm sao không buồn theo.

Xem tiếp phần II


 

Đồng bằng sông Cửu Long: Nông dân phải thích ứng với ngập mặn ngày càng trầm trọng

 TẠP CHÍ VIỆT NAM

Đồng bằng sông Cửu Long: Nông dân phải thích ứng với ngập mặn ngày càng trầm trọng

Là vựa lúa của Việt Nam, vùng đồng bằng sông Cửu Long đang bị ngập mặn ngày càng trầm trọng và nông dân trong vùng này nay buộc phải thích ứng với tình trạng đó.

Nông dân trên cánh đồng lúa khô hạn giữa đợt nắng nóng kéo dài ở tỉnh Cà Mau, Đồng bằng sông Cửu Long, Việt Nam. Ảnh chụp ngày 23/02/2024. AFP – TAN DIEN

Thanh Phương

Tình trạng khô hạn và ngập mặn ở đồng bằng sông Cửu Long lên đến mức mà tỉnh Tiền Giang  vào ngày 06/04/2024 đã phải công bố “tình huống khẩn cấp” trong khu vực huyện Tân Phú Đông.

Trước đó, bên lề hội thảo Bảo vệ, phục hồi và phát triển tài nguyên nước tại Hà Nội ngày 15/3, Viện Khoa học Tài nguyên nước, Bộ Tài nguyên và Môi trường, đã công bố một nghiên cứu mới cho biết là bốn ngành lúa, thủy sản, cây ăn quả, hoa màu của đồng bằng sông Cửu Long mỗi năm bị thiệt hại hơn 70.000 tỷ đồng, tương đương với khoảng 3 tỷ euro, do bị xâm nhập mặn.

Báo cáo cũng dự đoán là thiệt hại do xâm nhập mặn sẽ tăng dần theo thời gian, với các kịch bản cho những năm 2030, 2040, 2050. Ông Trần Anh Phương, Viện Khoa học Tài nguyên nước, cho biết sự gia tăng của các dự báo tương ứng với kịch bản nước biển dâng, hoạt động phát triển kinh tế, xã hội cũng như khai thác tài nguyên nước thượng nguồn, đặc biệt là phát triển thủy điện và chuyển nước ra ngoài lưu vực.

Đồng bằng sông Cửu Long là phần hạ lưu giáp biển của sông Mekong, có địa hình thấp và khá bằng phẳng với 2 vùng trũng lớn là Đồng Tháp Mười và Tứ Giác Long Xuyên. Cùng với 2 dòng chính là sông Tiền và sông Hậu, đồng bằng sông Cửu Long có hệ thống kênh rạch chằng chịt, cho nên dễ bị xâm nhập mặn do thủy triều đưa nước mặn vào sâu trong sông và nội đồng, đặc biệt trong mùa cạn, khi mà lưu lượng dòng chảy từ thượng nguồn sông Mekong xuống thấp. Trả lời RFI Việt ngữ, giáo sư Võ Tòng Xuân, chuyên gia hàng đầu về nông nghiệp Việt Nam, nhắc lại lịch sử hình thành của đồng bằng sông Cửu Long:

“Các nhà địa chất xác định tuổi carbon 14 của đồng bằng là được hình thành từ khoảng 10 ngàn năm trước. Khi đồng bằng sông Cửu Long mới hình thành, bờ biển nằm ở ranh giới Cam Bốt bây giờ. Qua những đợt nước biển lùi vài trăm năm rồi nước biển dâng trở lại vài trăm năm, cứ dâng và lùi như vậy, mỗi lần thay đổi mặt nước biển thì để lại vết tích là những dòng cát. Có hàng trăm dòng cát như vậy nằm song song với bờ biển hiện tại.

Nói cách khác, đồng bằng sông Cửu Long không có lạ gì với hiện tượng nước biển dâng và lùi. Nhưng bây giờ các nhà khí tượng học dự đoán là những quy luật trước đây như vào thời “Năm Thìn bão lụt” thì bây giờ không còn như vậy nữa. Bây giờ muốn lụt lúc nào thì lụt, muốn hạn lúc nào thì hạn. Bên kia thì đang lụt, nhưng bên đây thì lại đang cháy rừng.”

Thiếu nước ngọt trong mùa nắng nóng

Trong hơn một tháng qua, miền Nam Việt Nam phải đối mặt với đợt nắng nóng kéo dài bất thường. Các nhà khí tượng học cảnh báo hiện tượng này có thể tiếp tục kéo dài với hậu quả làm trầm trọng thêm tình trạng xâm nhập của nước biển vào nước ngầm hoặc nước mặt. Hiện tượng, vẫn xảy ra hàng năm vào mùa khô, càng gia tăng do tác động của thời tiết nóng bức và mực nước biển dâng cao, cả hai đều chịu áp lực do biến đổi khí hậu. Độ mặn tăng ảnh hưởng đến cây trồng và khả năng tiếp cận nước sinh hoạt của người dân.

Trong số 13 tỉnh thành đồng bằng sông Cửu Long, Cà Mau có mức độ thiệt hại lớn nhất, tiếp đến là Bến Tre. Hãng tin Pháp AFP ngày 20/03/2024 đã có bài phóng sự tại Bến Tre, nơi đang bị một đợt nắng nóng kéo dài và xâm nhập mặn đe dọa nền kinh tế địa phương. Nói với AFP, nông dân Nguyễn Hoài Thương than thở: “Thật lãng phí khi bỏ ruộng lúa vì chúng tôi không có nước ngọt. Thay vào đó tôi phải nuôi bò”.

Tại Bến Tre, các cánh đồng vốn được trồng lúa nay đã bị nứt nẻ do hạn hán, nắng nóng. Do thiếu mưa, gia đình nông dân Nguyễn Hoài Thương phải mua nước sinh hoạt của hàng xóm với giá gần 500.000 đồng (20 euro) vào tháng 2 vừa qua. Ông Nguyễn Hoài Thương giải thích: “Chúng tôi không có nguồn nước ngọt ngầm và nước mặt thì mặn”. Nông dân Phan Thành Trung, người trồng lúa cùng làng với Nguyễn Hoài Thương, cho biết: “Tôi phải giảm vụ từ ba vụ xuống chỉ còn hai vụ một năm. Nước ở vùng tôi quá mặn nên không thể sử dụng được”. Người hàng xóm Nguyễn Văn Hùng thì đã tận dụng đợt nắng nóng để kiếm thêm thu nhập từ nguồn nước ngọt dồi dào dưới lòng đất. Ông cho biết: “Khi có những đợt hạn hán, xâm nhập mặn, tôi bán nước ngọt cho hàng xóm, nhưng nói thật là tôi cũng không vui. Thời tiết bất lợi thực sự ảnh hưởng nặng nề đến chúng tôi.”

Đa dạng hóa nông nghiệp để thích ứng

Gần đây, các tổ chức quốc tế và các chương trình của chính phủ đã khuyến khích đa dạng hóa nông nghiệp nhằm hướng tới khả năng phục hồi kinh tế và khí hậu tốt hơn. Cụ thể là nông dân nên duy trì các đồng lúa trong mùa mưa, khi sông Mekong có thể cung cấp đủ nước ngọt, sau đó chuyển những cánh đồng đó sang nuôi tôm hoặc nuôi tôm vào mùa khô.

Giáo sư Võ Tòng Xuân cũng đưa ra khuyến cáo tương tự:

Những vùng nào mà mình biết đã nhiễm mặn thì đừng ngăn mặn và đem nước ngọt về “ngọt hóa” để trồng lúa làm gì, đã có nhiều lúa lắm rồi. Bây giờ mình làm theo nghị quyết của chính phủ năm 2017, nghị quyết mà tôi đã hết sức đấu tranh để nhà nước chấp nhận thả ra, không còn ép buộc trồng lúa mọi lúc, mọi nơi. Sau nghị quyết 2017, nông dân được hướng dẫn là ở vùng ven biển không trồng lúa trong mùa nắng, trong mùa nước mặn nữa, mà chỉ trồng lúa trong mùa mưa thôi. Sau khi hết mưa rồi, thu hoạch lúa xong thì mình cho nước mặn vào rồi nông dân bắt đầu nuôi tôm, cua biển, hoặc cá kèo. Khi mùa mưa tới nữa thì mình lại trồng lúa.

Mình cũng khuyến cáo bà con nông dân rất kỹ: Khi vừa thu hoạch lúa xong, đất ruộng còn ướt, đưa nước mặn vào thì nước mặn chỉ nằm bên trên thôi. Tức là khi đưa nước mặn vào thì đất ruộng phải còn ướt, còn sình lầy, như vậy đất sẽ không bị nhiễm mặn, mùa tới khi mưa trở lại thì có thể trồng lúa như bình thường.

Ở vùng giữa ( đồng bằng sông Cửu Long ), bây giờ bà con được khuyến cáo là chỉ trồng một vụ lúa thôi, còn lại thì trồng những loại cây trồng cạn, như cây bắp, cây sorgho, cây mía…Có vùng thì họ lên liếp hết, trồng cây ăn quả ở trên, còn ở dưới mương thì nuôi cá hay dùng giống như hồ chứa nước trong mùa mưa để tưới cho cây trồng trong mùa nắng.

Còn nguyên một vùng nằm dọc theo biên giới Cam Bốt, nơi mà sông Cửu Long bắt đầu đến Việt Nam, thì mình lấy nước ở đoạn sông đó để dẫn vào hệ thống thủy lợi dọc theo vùng phía trên Đồng Tháp Mười để phân bổ nước ngọt của sông Hậu Giang cho vùng Tứ Giác Long Xuyên. Diện tích tổng cộng của vùng này là khoảng 1 triệu 500 ngàn hecta, là vùng luôn luôn có nước ngọt, nước mặn không bao giờ lên đến đó. Đây là vùng mà tôi gọi là “sống chung với biến đổi khí hậu”, tức là không bị ảnh hưởng”.

Mô hình “không bền vững”?

Trong một bài viết trên trang mạng The Diplomat của Nhật Bản ngày 09/02/2024, bà Quinn Goranson, một nhà nghiên cứu về khí hậu và chuyển đổi năng lượng ở Canada, đã cảnh báo về những hậu quả của mô hình nói trên, vì theo bà, người ta ít  chú ý đến các tác động tiêu cực đến môi trường của quá trình chuyển đổi hàng loạt sang nuôi tôm, một hành động mà thật ra theo bà là “không bền vững”. Giáo sư Võ Tòng Xuân trấn an về cảnh báo nói trên:

“ Đất ruộng để nuôi tôm không bao giờ sử dụng hóa chất, cho nên loại múa ST25 là loại gạo ngon nhất Việt Nam được trồng ở những ruộng tôm này là tốt nhất, vừa đạt tiêu chuẩn quốc tế, vừa an toàn cho người dân ăn. Đó là tại vì người ta biết là xài hóa chất cho lúa thì sẽ ảnh hưởng đến tôm nuôi. Còn khi nuôi tôm thì bây giờ người ta cũng sản xuất tôm giống rất là kỹ. Khi nuôi trong ruộng nếu tôm bệnh thì người ta dùng các loại thuốc vi sinh, tức là probiotique, chứ không phải là antibiotique.”

Tuy nhiên, trong bài viết nói trên, nhà nghiên cứu Quinn Goranson lo ngại một cái vòng luẩn quẩn của tác động tiêu cực từ mô hình đó:

Nông dân theo mô hình trồng lúa/nuôi tôm đã bắt đầu nhận thấy tác động lâu dài của các ao nuôi tôm đối với chất lượng đất, vì biến đổi khí hậu hạn chế khả năng xả muối của sông Mê Kông, khiến đất kém màu mỡ. Cuối cùng, khi tình trạng xâm nhập mặn trở nên trầm trọng hơn do mực nước biển dâng cao và sụt lún mặt đất liên tục, độ mặn sẽ vượt quá mức có thể chấp nhận được ngay cả đối với những loài tôm này. Cho nên người ta đã khuyến khích việc khai thác nước ngầm để làm loãng độ mặn của ao nuôi tôm. Sự suy giảm tầng chứa nước đã góp phần gây ra tình trạng sụt lún đất ở đồng bằng sông Cửu Long trong nhiều thập kỷ, đẩy nhanh tốc độ sụt lún chưa từng thấy của đồng bằng ở mức 18 cm trong 25 năm qua.”

Tình trạng sụt lún đất cũng chính là một trong những nguyên nhân ban đầu dẫn đến xâm nhập mặn. Cho nên nhà nghiên cứu Quinn Goranson đề nghị cần có những nghiên cứu sâu hơn để hiểu rõ hơn về tác động lên hệ sinh thái đồng bằng sông Cửu Long.

Thanh Phương

From: Tu Phung


 

Lại đua đòi ‘khổng lồ,’ Hưng Yên làm bánh chưng, bánh giầy 12 tấn

Ba’o Nguoi-Viet

April 11, 2024

HƯNG YÊN, Việt Nam (NV) – Sau vài năm gián đoạn vì đại dịch COVID-19, tỉnh Hưng Yên ở Việt Nam vừa tái diễn thói đua đòi làm bánh chưng, bánh giầy “khổng lồ” để “gây tiếng vang.”

Theo báo Thanh Niên hôm 10 Tháng Tư, một cái bánh chưng nặng đến 10 tấn và cái bánh giầy 2 tấn vừa được nấu trong năm ngày tại đền Quốc Mẫu Âu Cơ ở thành phố Hưng Yên, tỉnh Hưng Yên.

Lượng gạo nếp, thịt, đậu xanh để làm bánh chưng nặng 10 tấn và bánh giầy 2 tấn. (Hình: Thanh Niên)

Vụ nấu bánh “khổng lồ” được giải thích là nhân dịp “lễ hội truyền thống chùa Hoàng Xá và đền Quốc Mẫu Âu Cơ” vào Tháng Ba Âm Lịch hằng năm.

Bản tin cho biết, kinh phí mua gạo nếp, thịt, đậu xanh, lá dong và 50-70 tấn củi là do người dân, Phật tử đóng góp.

Ông Lã Văn Lưu, chủ tịch xã Hùng Cường, thành phố Hưng Yên, nói rằng cái bánh chưng năm nay nặng “gấp đôi” cái bánh chưng 5 tấn nấu hồi năm 2014 cũng tại địa phương này.

Sau khi được luộc chín, do bánh rất nặng nên được đặt tại vị trí ban đầu ở sân đền Quốc Mẫu Âu Cơ và được làm lễ dâng bánh từ ngày 14 đến 18 Tháng Tư.

Ông Lưu nói thêm: “Nhiều người lo ngại với trọng lượng bánh chưng, bánh giầy lên tới 12 tấn sử dụng không hết sẽ gây phí phạm. Tuy nhiên, sau khi làm lễ xong, bánh sẽ được chia cho toàn bộ nhân dân địa phương và du khách thập phương đến dự lễ hội. Chúng tôi bảo đảm sẽ không còn miếng bánh nào dư thừa.”

Vụ Hưng Yên cho nấu bánh chưng “khổng lồ” khiến người ta nhớ lại chuyện tỉnh Nghệ An mấy năm trước thường tổ chức lễ dâng cặp bánh chưng nặng 7 tạ tại mộ bà Hoàng Thị Loan, mẹ ông Hồ Chí Minh, vào mỗi dịp Tết Nguyên Đán hằng năm.

Sau khi bị công luận chỉ trích vì sự phí phạm thực phẩm, chính quyền tỉnh này đã ngưng làm bánh chưng “khổng lồ” và thay bằng hàng chục cái bánh chưng với kích cỡ thông thường.

“Nồi” nấu bánh chưng đỏ lửa trong năm ngày, với 50-70 tấn củi. (Hình: Thanh Niên)

Báo Lao Động hồi năm 2018 từng chỉ trích vụ thành phố Sầm Sơn, tỉnh Thanh Hóa, chạy đua làm bánh giầy kỷ lục 3 tấn dâng Vua Hùng là “phô trương, hình thức.”

“Kinh phí dành cho việc dâng bánh ‘khủng’ không phải là quá lớn. Nhưng điều đáng nói là việc làm ấy đã khơi mào cho thói đua đòi theo hư danh, hình thức, lãng phí trong lễ hội quan trọng của quốc gia, trong khi chúng ta đang phát động ý thức cần kiệm, sự thành tâm, chân thật, nhân văn. Việc làm những cái bánh ‘khủng’ không phải chứng minh chúng ta đã giàu có, sung túc hay có tiến bộ về khoa học, công nghệ. Đó chỉ thể hiện tư duy giản đơn, thích ‘chơi trội,’” báo này kết luận. (N.H.K) [qd]


 

Sài Gòn, dư -âm cuối của ngày rời xa-Tác Giả: Phạm Thanh Nghiên

Ba’o Dan Chim Viet

Tác Giả: Phạm Thanh Nghiên

09/04/2024

Ảnh do tác giả cung cấp

(Nhân một năm, ngày bị đẩy ra khỏi quê hương)

Chúng tôi gặp nhau lần cuối vào một ngày Tháng Sáu năm 2022 trước khi Gaetan kết thúc nhiệm kỳ tại Việt Nam để về Mỹ. Được biết, đất nước tiếp theo Gaetan sẽ đến là Ba Lan, quê hương của vợ anh. Anh có vẻ háo hức với nhiệm kỳ sắp tới vì Ba Lan là quốc gia châu Âu ủng hộ mạnh mẽ nhất cuộc chiến đấu vệ quốc của người Ukraine trước sự xâm lược của quân Nga. Trong số những viên chức ngoại giao nước ngoài quan tâm về những người bất đồng chính kiến mà tôi từng tiếp xúc, Gaetan là người để lại cho tôi nhiều thiện cảm nhất.

Khác hẳn các lần gặp trước với những câu chuyện về bắt bớ, đàn áp nhân quyền hay về các tù nhân lương tâm. Hôm đó, Gaetan không còn giữ vẻ quá trang trọng của một viên chức ngoại giao, anh thể hiện thái độ khá thân thiện, và không ngại bày tỏ cảm xúc trong khi trò chuyện.

“Tôi muốn nói với anh chị rằng, đây là một nhiệm kỳ thất bại của tôi. Có những điều tôi mong muốn đã không xảy ra. Nhiều dự định của tôi đã không thực hiện được trong thời gian ba năm làm việc ở Việt Nam”.

Chúng tôi thật sự bất ngờ và không khỏi bối rối trước lời bộc bạch chân thành của Gaetan.

“Một trong những mong muốn của tôi, đó là được đích thân tiễn anh chị và cháu bé ra tận phi trường để sang Mỹ. Tôi muốn thấy gia đình anh chị được an toàn tại nước Mỹ. Tôi thật sự xin lỗi vì đã không thể làm gì hơn”.

Ngoài những yếu tố nhạy cảm không tiện nói – theo lời giải thích của Gaetan, thì đại dịch COVID-19, việc công an luôn gây trắc trở cho việc làm giấy tờ tùy thân của anh Tú, và kể cả chính sách hạn chế người nhập cư của chính phủ Mỹ thời điểm đó, là những lý do khiến việc ra đi của chúng tôi bị chậm lại.

Trong khi chờ đợi người thông dịch làm công việc của mình, thỉnh thoảng Gaetan lại nhìn chúng tôi mỉm cười. Nụ cười buồn và ánh mắt chất chứa niềm cảm thương.

“Tôi muốn nói rằng anh chị là những người rất dũng cảm và tôi thật may mắn được làm bạn với anh chị. Trước ngày đến gặp anh chị, tôi đã xem lại một bộ phim khá nổi tiếng của Mỹ, nói về Frank Kameny, người đã dũng cảm chống lại chính phủ để đòi quyền bình đẳng cho người đồng tính”.

Gaetan kể cho chúng tôi nghe câu chuyện về Frank Kameny. Ông là một nhà thiên văn học, làm việc tại Cơ quan Bản đồ Quân đội Hoa Kỳ ở Washington, D.C. Năm 1957, Frank bị sa thải sau khi ông bị phát hiện là người đồng tính. Chính phủ Mỹ cho rằng người đồng tính là mối đe dọa đối với an ninh đất nước. Họ mở một chiến dịch nhằm xác định giới tính của các nhân viên và sa thải bất cứ ai bị nghi ngờ là người đồng tính. Hậu quả của các cuộc săn lùng là hàng ngàn người bị đuổi việc, bị lâm vào cảnh nghèo túng, thậm chí tự sát. Nhưng hầu như tất cả những người bị sa thải đều nghĩ rằng quyết định của chính phủ là đúng, và chấp nhận điều đó.

Frank là người đầu tiên phản đối việc sa thải ông. Frank tìm gặp những người cùng cảnh ngộ, thuyết phục họ đứng lên đòi quyền được trở lại làm việc. Ông đã bắt đầu một cuộc đấu tranh mạnh mẽ chống lại chính sách mà ông cho là sai lầm của chính quyền Mỹ, và trở thành người dẫn đầu phong trào bảo vệ quyền của người đồng tính vào đầu những năm 1960. Cuộc đấu tranh bền bỉ và gian khổ của ông cuối cùng đã có kết quả. Nhiều người đồng tính đã được gọi trở lại làm việc. Năm 2009 và 2010, Frank Kamely được mời đến Nhà Trắng, nơi Tổng thống Obama ký kết những Đạo luật quan trọng công nhận quyền bình đẳng của người đồng tính.

Sau khi bị sa thải, Frank đã tự đặt câu hỏi rằng chính phủ “sai” hay “đúng”. Anh ấy chỉ mất đúng một giây để tìm ra câu trả lời: anh đúng, chính phủ và xã hội Mỹ sai. Frank đã dũng cảm đứng lên đấu tranh cho điều anh ấy tin là đúng. Giống như những việc làm của anh chị. Rõ ràng là xã hội Việt Nam, nhà nước Việt Nam đã sai và anh chị đã đúng. Có thể bây giờ thì chưa, nhưng tôi tin, vào một lúc nào đó, xã hội và nhà nước Việt Nam sẽ phải thừa nhận những gì anh chị và các bạn của anh chị làm là đúng”.

Tôi đáp lại Gaetan, giọng có chút đanh lại:

“Nhưng chính phủ Việt Nam khác với chính phủ Mỹ. Những người lãnh đạo ở đất nước anh biết lắng nghe, còn ở đất nước tôi thì không”.

Chúng tôi im lặng. Dù rất kiềm chế, nước mắt tôi vẫn ứa ra.

Tôi có tật xấu, gặp chuyện gì cảm động là khóc, bất kể liên quan đến mình hay không.

Tôi cảm động trước câu chuyện và tình cảm của Gaetan dành cho gia đình mình. Nhưng cũng thật cay đắng với suy nghĩ rằng, người đàn ông ngồi trước mặt mình, đến từ một đất nước xa xôi, không cùng màu da, không cùng ngôn ngữ, không cùng chủng tộc nhưng lại thấu hiểu, đồng cảm và ủng hộ những việc mình làm. Trong khi đó, những người cai trị đất nước này lại truy lùng, bắt bớ và tìm cách loại bỏ chúng tôi. Những tiếng nói bảo vệ công lý và sự thật, quá cô đơn trên chính quê hương mình.

Trước khi ra về, Gaetan dặn, khi nào đi được thì email báo cho anh biết và gửi cho anh tấm hình chụp ba người chúng tôi trên đất Mỹ để anh vui.

Chín tháng sau ngày chia tay Gaetan, chúng tôi được mời lên văn phòng IOM (Tổ chức Di dân Quốc tế) tại quận Nhất, Sài Gòn. Người phụ trách hồ sơ của gia đình tôi, thông báo:

“Anh chị có thể chọn ngày đi. Nhưng chậm nhất là 30 Tháng Tư anh chị phải rời khỏi Việt Nam”.

Tôi lặng người đi. Ngay tức khắc, một nỗi buồn tê tái siết chặt lấy tâm hồn tôi. Bao nhiêu câu hỏi “tại sao” luẩn quẩn trong đầu, nhưng miệng tôi cứng đơ, không thốt ra được lời nào. Chồng tôi ngồi bên cạnh, cũng lặng im như thế. Thay vì mừng vui, tôi lại thấy thương hại cho chính mình.

Một cảm giác tủi thân đến vô cùng. Tôi sinh ra và lớn lên trên đất nước này. Máu thịt tôi ở đây, hồn vía tôi ở đây. Tôi thuộc về nơi này và nơi này thuộc về tôi. Thế mà bây giờ, tôi “phải rời khỏi Việt Nam chậm nhất là ngày 30 Tháng Tư”. Những người đồng bào Miền Nam của tôi đã phải lũ lượt, lầm lũi ra đi sau cái ngày 30 Tháng Tư năm 1975 nghiệt ngã ấy. Lẽ nào, sau gần 50 năm trường, cái biến cố thảm thương ấy vẫn siết chặt lấy thân phận người Việt, trong đó có gia đình tôi, như một thứ định mệnh bi đát không thể nào thoát ra được.

Người ta cho tôi hạn chót để rời bỏ quê hương, nhưng ngày về thì không ước hẹn. Bao giờ….bao giờ…., biết đến bao giờ…?

Phạm Thanh Nghiên (Facebook) 


 

 Ký ức 30-4: Giấc mộng kinh hoàng

Ba’o Nguoi-Viet

April 7, 2024

Phan Đức Minh/SGN

Một triết gia đã nói: Nhìn lại quá khứ gian lao để biết yêu quý hiện tại và tin tưởng ở tương lai…

Ba hồi kẻng báo thức vang lên, tôi bật dậy như cái máy.

Suốt cuộc đời ba chìm bảy nổi, chín cái lênh đênh, từ lúc 15 tuổi bỏ trường học đi kháng chiến, đánh Tây, chui hầm, rúc hố, hai lần bị Tây bắt nhốt vào tù, rồi 23 năm lính, hơn 12 năm tù cải tạo, phiêu bạt giang hồ qua bao nhiêu trại giam, toàn là rừng với núi âm u, hiểm hóc, giáp biên giới Lào, bao phen chết lên chết xuống, cho tới lúc này, 90 tuổi rồi, đang sống ở Mỹ, tôi vẫn không ghét cái gì bằng ghét những tiếng kẻng báo thức ác ôn, khốn nạn đó.

Nó báo hiệu bắt đầu một ngày lao động kinh khủng trong cái đói khát, khổ sở, nhọc nhằn đến tận cùng của cuộc đời.

Tất cả chung quanh đều tối om. Ngọn đèn dầu duy nhất là chiếc lọ đựng thuốc, đốt bằng dầu cặn, lớn cỡ quả trứng gà, thường treo ở góc tường phía trước cầu tiêu cuối phòng đã tắt ngủm từ lúc nào vì lượng dầu không đủ cho một đêm thắp sáng. Có tiếng la chí choé vì thằng nọ đái vào thằng kia.

Vì tên ngồi trên bồn cầu tiêu chưa kịp lên tiếng thì đã bị thằng đứng phía dưới, kẹt quá… đi một đường vòng, tưới ướt sũng từ cổ trở xuống. May mà tay kia vì ngồi trên cao cho nên mắt mũi, mồm miệng chưa phải lãnh cái thứ nước ghê gớm đó của tù cải tạo, tích tụ cả đêm.

Cảnh náo loạn này thường xuyên xảy ra vì tay nào cũng khôn ngoan, kinh nghiệm đầy mình, cứ thức dậy sớm hơn người khác một tí là phải lò mò, rón rén trong cái tối đen như mực Tầu, lần vào cái cầu tiêu duy nhất ở cuối phòng…

Nếu không, khi kẻng báo thức vang lên là gần một trăm tên tù cải tạo của nhà 10, cái nhà nhốt những tên bị coi là “ác ôn côn đồ thượng hạng”: chức vụ cao, có thành tích “chống phá cách mạng,” nhiều phen bị nhốt chuồng cọp vì đủ thứ việc… sẽ đổ xô vào cái nhà cầu chỉ có hai bàn cầu dành cho việc “đại sự,” còn “tiểu sự” thì cứ tưới xuống cái rãnh trước bồn nước, do tên tù trực phòng gánh nước giếng đổ vô đó từ chiều hôm trước.

Đèn điện bật sáng 10 phút cho đám tù dọn dẹp đủ thứ trên cái “lãnh thổ” dành cho mỗi tên: chiều dài hai mét theo bệ xi-măng, chiều ngang đo đúng ba gang tay của tôi. Khi ngủ mà nằm ngửa là đụng hoặc đè lên đứa bên cạnh cho nên ban đêm chỉ có cách nằm nghiêng mà thôi.

Cái bệ xi-măng làm giường ngủ là ở trình độ cao cấp nhất, do công an “phát minh” ra. Những năm đầu, quân đội nhân dân quản lý tù, người ta cho tù ngủ trên những cái sạp đan bằng nứa, tre rừng hoặc cây nhỏ. Xài kiểu giường này, dân tù nhà ta dù có đập chết vẫn tìm cách giấu giếm, gùi nhét đâu đó vài ba mẩu giấy linh tinh, mấy thứ đồ “quốc cấm, nguy hiểm, bí mật”. Công an phát minh giường bằng bệ xi-măng thì tù chỉ còn có nước… khóc mà thôi, nhét cái gì xuống bệ xi-măng được bây giờ?

Tíếng khóa mở cửa, rồi tiếng kéo cây sắt chặn ngang bên ngoài kêu rầm rầm. Tên tù trong Ban trật tự trại (có gốc con ông, cháu cha nón cối, hay có dây mơ rễ má với cán bộ của trại) quát to: “Nhà 10 ra tập họp điểm danh, mau lên!”.

Những con người vọt ra, đứng sau hàng rào kẽm gai, vặn mình vặn mẩy, vung tay vung chân cho khỏi mỏi sau một đêm ngủ theo cái kiểu co quắp, úp thìa (xếp muỗng) vì vùng núi ban đêm thường lạnh. Mùa đông thì thôi, lạnh khỏi nói, lạnh muốn chết luôn.

Ba hồi còi rít lên, tất cả dân tù ngồi chồm hỗm xuống đất, mười tên một hàng cho cán bộ trực trại điểm danh, ghi sổ. Xong màn điểm danh, một số chạy vô trong nhà lo dọn dẹp, chuẩn bị lãnh khoai sắn, đồ đem theo đi lao động. Riêng tôi, cái bao cát có quai đeo, của vợ con gửi cho khi “thăm nuôi” đã sống chết theo sát bên tôi bao nhiêu năm rồi, không nhớ nữa. Công an mà nghe nói “thăm nuôi” là có chầu bị “hỏi thăm sức khoẻ” vì Đảng và Nhà Nước có để cho ai đói đâu mà phải “nuôi”, phải nói là “đi thăm” mới đúng chính sách.

Trong túi là phần khoai sắn ăn trưa nhét trong cái lon ghi-gô đen sì, nham nhở vì đã qua nhiều phen “trận mạc, khói lửa”. Đó là cái lon đựng sữa bột Guigoz cho con nít trước 1975 được tôi dùng làm nồi niêu, soong chảo, nấu nướng đủ thứ trên đời, bất cứ thứ gì kiếm được và ăn được.

Ngoài ra trong cái bao còn có bi đông nước, lãnh theo tiêu chuẩn nhà bếp, uống cho một ngày, một túi ni lông để nếu hoàn cảnh cho phép thì “cải thiện” tức là kiếm chác tí rau hoang, cà dại, con cóc, con nhái bỏ vô, đến trưa nghỉ giải lao, tìm cách xoay sở biến thành thức ăn bồi dưỡng, không bổ bề ngang cũng bổ bề dọc, miễn sao đừng ngộ độc là được rồi!

Một số anh em vọt ra phía cầu tiêu công cộng, có khi để “giải quyết bầu tâm sự” mà cũng có khi liên lạc, trao đổi dấm dúi cái này cái nọ với bạn bè ở nhà khác hay với đám tù hình sự… Phải đóng tuồng cho khéo, kẻo công an hay đám ăng-ten (bọn tù được công an tuyển chọn, cho hưởng đặc ân: lon gạo, miếng thịt, miếng cá mỗi tháng để giao nhiệm vụ theo dõi và báo cáo về mọi hành động lén lút, vi phạm nội quy) biết được thì cuộc đời khốn nạn ngay.

Rồi một hồi kẻng dài điểm thêm ba tiếng kẻng đằng sau là chúng tôi ào ra cổng trại, ngồi chồm hổm trên cái sân đất rộng, xếp hàng điểm số, đi lao động. Tên công an trực trại, ngồi trong “lô cốt” dò sổ rồi kêu: Nhà 10! Chúng tôi bật dậy, ra cổng, thứ tự hàng một theo sự điều khiển của tên tù Đội Trưởng hay Đội Phó (được công an tuyển theo tiêu chuẩn của chúng), đếm số rồi bước ra khỏi cổng.

Mấy tên trực dụng cụ chạy vào kho nhận và vác theo mấy bó dao đi rừng. Hôm nay, Nhà 10 chúng tôi có nhiệm vụ đi lấy mây, tiêu chuẩn tối thiểu 70 cây, dài hai mét. Nghe qua thì coi bộ ngon ăn, nhưng tìm cho ra khu rừng nào có mây hay còn mây sau hàng chục năm bị tù càn lui, quét tới, quả thực không phải chuyện dễ.

Dao rừng phải cột lại thành từng bó, tới địa điểm do công an quyết định mới được tháo ra, phát cho từng người. Phát trước, sợ tù dùng làm vũ khí… “hỏi thăm sức khỏe” bọn công an áp giải. Trại của chúng tôi đã có một vụ âm mưu nổi loạn, cướp súng, giết công an, đốt trại rồi kéo nhau qua biên giới Lào, ngay sau vụ Trung Cộng kéo quân sang đánh phá sáu tỉnh miền Bắc hồi đầu năm 1979 (vì Trung Cộng muốn dạy cho Hà Nội “một bài học” khi dám theo đuôi sư phụ Liên Xô đem quân sang Căm-Bốt oánh cho bọn cầm quyền Khờ-Me đỏ, con đẻ của Trung cộng, rách như cái mền).

Âm mưu nổi loạn ở trại bị bại lộ, cộng sản đã lập “Tòa án nhân dân” ngay tại trại, xử tử hình tay sĩ quan cầm đầu, còn lại thì lãnh án từ 15 năm tù trở lên cho đến chung thân khổ sai.

Tôi nhớ trung úy Nguyễn Văn Sĩ, Biệt Động Quân, Trưởng Ban tuyên truyền, khi bị bắt đã không khai ra tôi, chắc nó thương tôi, chớ không phải nó quên. Vì quên làm sao được khi có tin tức chi, công việc ra sao, nó cũng chớp nhoáng cho tôi hay để lo liệu, ở ngay góc đống rác cạnh hàng rào kẽm gai ngăn Nhà 10 của tôi với Nhà 11 của nó, khi chập choạng tối, sau khi điểm danh và trước khi tù phải vào phòng để khoá cửa sắt…

Ít lâu sau nó được thả ra, về Sài Gòn rồi cưới vợ, cưới cô con gái thương yêu nó hết mình. Chưa cưới hỏi chi cả mà cứ sáu tháng một lần, cô ấy từ Sài Gòn ra Trung, lên núi thăm nó, mối tình sao mà cao đẹp đến thế! Vậy mà khi điều tra ra, nó bị công an Sài Gòn bắt lại, từ giã người vợ thương yêu, bị đưa về trại cũ, đánh đập, tra khảo tàn nhẫn, bắt khai ra số người đã liên lạc với nó, nhưng nó đã không khai tôi vào số đó.

Tôi chỉ biết thầm cảm ơn và cầu xin trời đất phù hộ cho nó mà thôi vì sau đó, nó bị tống vô xà-lim. Tôi chẳng bao giờ gặp nó nữa, trừ một lần cuối cùng nó bị điệu ra trước “Tòa án nhân dân” lập ngay trong trại, xét xử theo “luật rừng”.

Mỗi khi lên rừng lấy mây, tôi thường đi đôi với thằng bạn thân, đại úy H. trước làm ở Tiểu khu Quảng Nam. Nó ít tuổi hơn tôi, cấp chức cũ cũng nhỏ hơn nên nó gọi tôi là bác. Còn tôi cứ gọi hắn bằng tên cho thân mật. Thằng bạn này thuộc loại “số đỏ” bởi vì có hai vợ mà khi đi tù, cả hai bà đều “nhất trí cao” coi nhau: vợ cả, vợ hai, hai vợ đều là vợ cả. Hai bà vẫn một lòng chia sẻ với nhau anh chồng chung như thuở nào, thay phiên đi thăm nuôi đàng hoàng.

Bữa nay, anh bạn đại úy H. bị đau, ói mửa cả đêm. Trạm y tế cho nằm nhà, nhưng phải quét dọn vệ sinh trong phòng và chung quanh. Cán bộ bảo “Đi học tập cải tạo là không được phép đau. Mà nếu đau thì cũng phải cố gắng lao động nhẹ, chớ nằm một chỗ là con người hư hỏng, bết bát rồi chết luôn”.

Nói đến H, tôi chợt nhớ đến câu chuyện về hai người bạn hay đi lao động cùng toán với tôi:

– Anh thứ nhất: to cao, có lòng giúp đỡ bạn bè, khi đi nhổ sắn, về gần đến cổng trại, anh thường dúi vào gánh của tôi vài củ sắn, cho… đạt chỉ tiêu. Lại nhớ có một hôm anh em đeo ba-lô đi gùi những mảnh sắt thép tại một địa điểm có vài chiếc xe của quân đội miền Nam cũ phá bỏ, nằm ụ đống. Công an cho một nhóm tù có tay nghề tới tháo, cưa kéo thành những mảnh nhỏ rồi gùi, cõng về trại để thợ rèn làm thành những con dao đi làm rừng. Một bữa đi cõng sắt vụn về trại, dọc đường hắn thấy tôi mệt muốn lè lưỡi, bèn ghé sát cạnh tôi mà phán: “Coi bộ ngài quan tòa nhà ta sắp xụm bà chè mất rồi. Thôi! Để mình gùi bớt cho một mảnh!

– Anh thứ hai: một bữa đi nhổ sắn, lúc gánh lên đỉnh đồi, ngồi nghỉ, lấy sức xuống dốc, tìm gói đồ ăn quý hóa gia đình gửi cho, buộc ở thắt lưng bằng dây rừng, thì gói đồ ăn đã rơi đâu mất tiêu. Chắc là mất trong khi len lỏi trong rẫy sắn, chặt cây, nhổ gốc, chặt củ, xếp vô quang gánh đầy ụ, gần 50 kílô, ngày làm hai chuyến.

Bọn chúng tôi ngồi quanh đó phải bóp mồm, bóp miệng, mỗi đứa góp cho cậu ta miếng khoai, miếng sắn để “cứu nguy dân tộc”. Buồn quá, anh ta bèn hát mấy câu đầu của bài “Quốc Tế Ca”: “Vùng lên! Hỡi các nô lệ ở thế gian! Vùng lên hỡi ai cực khổ bần hàn…”. Vậy mà tối về trại, công an quản giáo lôi anh ra hỏi tội: “Tại sao anh lại hát như thế?”…

Ấy chết! Đang nói chuyện lên rừng lấy mây. Thằng bạn đau nằm nhà, tôi lên rừng một mình theo hướng đi thường lệ. Bắt đầu tới con suối nhỏ, tôi quan sát thấy mấy đám cát trắng bên bờ giáp bìa rừng có vô số dấu chân thú rừng, ban đêm mò xuống suối uống nước.

Theo kinh nghiệm của dân vùng núi mà tôi học được thì dấu chân hầu hết là của bầy heo rừng, nhưng cũng có cả dấu chân của “ông Ba Mươi” tức là Cọp. Tôi hơi ngán, nhưng hoàn cảnh này không ai cho phép ngán cả. Tôi leo lên núi, đi dọc theo con suối chừng gần cây số, ngó lên cao thấy có bóng dáng lá mây quen thuộc.

Tôi dừng lại ở điểm đó, không vào sâu nữa, rồi leo ngược dốc đi thẳng lên, lấy tiếng suối róc rách làm hướng cho khỏi lạc, thỉnh thoảng vung con dao rừng chặt một mảng vỏ thân cây lớn đánh dấu đường đi, để còn biết đường mà ra. Càng leo lên núi cao, cây cối càng chằng chịt, nhưng như thế mới dễ có mây. Trời đất không nỡ hại tôi, một vùng mây chằng chịt hiện ra trước mắt.

Mây nằm la liệt dưới mặt đất, mây leo lên tuốt cây cao, toàn mây là mây thôi. Đúng là “kho vàng của Hoàng đế Salomon thời Cổ La Mã rồi!”. Tôi mừng hết lớn, bèn ngồi xuống hòn đá to bự để thở. Bỗng có tiếng sột soạt càng lúc càng rõ ở hướng trước mặt tôi. Chết! Thú dữ đuổi theo con mồi nào đó! Tôi núp vào sau một thân cây to, dựa lưng vào cây, thủ con dao rừng thật chắc trong tay, sẵn sàng liều mạng. Tôi chợt thoáng nhớ tới câu “Plutôt souffrir que mourir – Thà khổ cực còn hơn là chết” của La Fontaine thì phải, trong bài thơ “La Mort et le bûcheron” (“Thần chết và người tiều phu đốn củi”), coi bộ thích hợp trong hoàn cảnh này.

May quá, con thú dữ đuổi mồi đã vòng theo hướng khác, xa dần… Tôi ra khỏi chỗ núp, quan sát rồi bắt đầu lấy mây. Với con dao rừng, tôi rút những sợi dây mây nằm ngổn ngang dưới đất, lẫn lộn với lá rừng đã khô, mục nát vì mưa gió, róc bỏ vỏ ngoài, chặt một đoạn dài 10 gang tay, tức là dài hai mét đó.

Đo đạc kiểu tù mãi cũng quen và chính xác đáo để! Cứ kéo rồi róc vỏ và chặt một hồi, vứt mỗi chỗ mươi đoạn, tôi đoán chừng đã được già nửa số ấn định. Đói và mệt quá, tôi tìm một hòn đá ngồi thở ra và lôi mấy miếng sắn luộc lạnh ngắt, thâm sì trong lon ra ăn, không có nó thì chỉ có nước chết mà thôi.

Thấy đã hồi sức, tôi lại rút mây, lấy dao róc vỏ khô và chặt tiếp. Khi kiểm lại thấy đủ số, tôi chặt dây rừng, buộc chặt làm ba bó nhỏ rồi cứ vác từng bó phóng dần xuống phía chân núi, nghe loáng thoáng có tiếng nước suối chảy róc rách. Có bó theo dốc trượt xuống ngon lành từng quãng. Có bó mắc dịch, mới trượt được vài mét đã mắc kẹt vào cây chằng chịt, làm tôi lại phải tới nơi, lôi ra và phóng xuống.

Hình ảnh những anh hùng vị quốc vong thân, đặt tại đài tưởng niệm trong khu Tượng đài Chiến sĩ Việt-Mỹ. (ảnh: Paul Bersebach/MediaNews Group/Orange County Register via Getty Images)

Con suối đây rồi! Ba bó mây nằm ba chỗ, chênh vênh trên những mỏm đá. Đồng hồ đeo tay đã bị công an tịch thu khi mới vô trại cho nên tôi không đoán rõ được giờ giấc, chỉ biết… cố gắng phấn đấu di chuyển từ mỏm đá này sang mỏm đá khác, gom ba bó mây lại, cột chung thành một bó to bự, cột chặt hai đầu, thêm vòng dây cột ở khúc giữa cho chắc ăn.

Nghỉ một lát lấy sức tôi thả bó mấy bự xuống suối cho dòng nước đẩy đi và chỉ việc giữ cho chắc hai sợi dây rừng để điều chỉnh cho bó mây trôi xuôi, ra ngoài rừng. Thật là khó khăn, trơn trợt với mấy mỏm đá rêu xanh, lắm lúc muốn té ngữa.

Mấy miếng sắn luộc thâm sì, lạnh ngắt, chua lè được đưa vào bao tử hẳn hoi, đàng hoàng mà sao lúc này chúng nó đi đâu mất. Đói lại hoàn đói, đói muôn năm… Ngó quanh, ngó quẩn chẳng thấy có giống chi ăn được, tôi bẻ đại một chùm trái cây lạ hoắc sà xuống bờ suối, trái to bằng đầu ngón tay. Tôi làm thử một trái rồi nghe ngóng. Làm tiếp trái thứ hai, trái thứ ba… chẳng chết thằng Tây đen nào cả sau vài ba phút. Tôi dư biết là dù có chết, cũng chưa đủ thời gian để cho cái chết nó tới. Cái đói nó xúi tôi: cứ ăn đại, ăn tới đi, đói chịu chi cho nổi, ra khỏi rừng còn phải vác bó mây dài, to tổ bố về trại nữa mà. Thế là tôi làm luôn một bụng…

Hình như tất cả mọi sự học hành lẩm cẩm ở nhà trường ngày xửa ngày xưa, chỉ có hai điều giúp ích cho tôi trong cuộc sống trong các trại tù cải tạo của bọn nón cối, dép râu. Đó là cái “Principe d’Archimède – Nguyên Lý Archimède” cuả môn Physique – Vật lý ở bậc trung học. Nó chỉ cho tôi biết cách lợi dụng sức nước đẩy lên đối với một vật được thả xuống nước.

Do đó, khi di chuyển cây cối làm cột nhà hay di chuyển bó mây dài và to bự như thế này, mà cứ vác trên vai, đi suối, đi rừng, rồi hàng chục cây số, không nhờ tới nước suối giúp đỡ để nâng lên và đẩy đi, kéo được quãng nào hay quãng đó, thì chắc là tôi đã chết quách từ lâu rồi.

Điều thứ hai là cái bài học “Dilatation des corps – Sự giãn nở của các chất”. Nhờ cái này mà tù chúng tôi, khi làm đường, làm nhà, chỉ bằng chân tay, với con dao, con rựa, cái búa, cái liềm mà có thể phá tan những tảng đá to như một cái xe hơi. Tù chúng tôi chất cây khô chung quanh tảng đá, tìm cách đốt lửa lên. Đốt cho… đã đời ông địa thì tảng đá cũng phải giãn nở ra chớ! Coi bộ được rồi, tù nhà ta lấy thùng gánh nước suối tới, đứng xa xa một tí rồi hiên ngang, anh dũng hắt vào tảng đá. Thế là đá cứ việc tự nhiên mà nứt, mà bể ra, kêu đôm đốp! Tù cứ việc dọn dẹp, gồng gánh cho đến khi tảng đá bự chảng biến mất.

***

Tôi giật mình thức dậy, hai tay quờ quạng chung quanh. Cái giường nệm êm êm, rộng rãi, cái mền ấm áp, chớ không phải sàn tre, sàn nứa, không phải bệ xi-măng của những trại tù cải tạo hơn 12 năm kinh khủng đã đi sâu vào dĩ vãng… Miền Nam sụp đổ, tôi cũng như hàng triệu người khác, trong hàng ngũ chống cộng sản đã bị đẩy vào những trại tù cải tạo như thế.

Không ai thoát, chỉ có kẻ lâu, người mau, về hay chết luôn trên rừng trên núi mà thôi. Lâu lâu, tôi lại thấy cái cảnh lao động khổ sai kinh hoàng và cuộc sống thua kém cả súc vật vẫn trở lại với tôi trong những giấc ngủ không mấy ngon lành.

Tôi đã 90 năm được sống làm người rồi còn chi! Khi thức giấc, thấy mình đã thoát khỏi cảnh kinh hoàng ghê gớm đó, thấy mình đang sống trong khung cảnh tự do trên đất Mỹ, không còn bị cảnh đói khát, rét mướt cắt da, mưa nắng dãi dầu, lao động quá sức chịu đựng, không còn bị hành hạ cả thể xác lẫn tinh thần, hết bị những cặp mắt cú vọ của công an và cả một số bạn bè bị công an tẩy não, hù dọa, biến thành “ăng-ten, do thám”, tôi lại âm thầm cảm tạ Thượng Đế đã cho tôi sống, cho tôi cơ hội dạy học trở lại suốt năm năm chờ đi định cư nước ngoài, không phải tiếp tục lao động khổ sở để kiếm sống như một số bạn tù cũ của tôi.

Tôi cảm ơn vợ con, gia đình, bạn bè, đã tiếp cho tôi nghị lực, thức ăn, đồ uống, niềm hi vọng, để đủ sức mà sống trong những ngày tháng đó, dù nhiều phen tôi thật sự vô cùng tuyệt vọng.

Khi tôi từ giã rừng núi trở về, mọi người thân yêu còn đủ, không mất vợ, mất con, gia đình tan nát như một vài người bạn bất hạnh khác. Con cái tôi ngoan ngoãn, hiếu thảo, một lòng gắn bó, chung sức với mẹ để cùng gánh vác gia đình trong những tháng ngày ba chìm, bảy nổi.

Tôi cảm ơn chính phủ và nhân dân Hoa Kỳ đã mở rộng vòng tay đón nhận chúng tôi là những người tị nạn cộng sản, cho thế hệ chúng tôi được sống yên lành những ngày còn lại, trước khi tàn lụi và qua đi, nhường lại cho thế hệ con cháu cơ hội sống, làm người, hữu ích cho Quê Hương Đất Nước Việt Nam mai sau, cho xã hội loài người văn minh, tiến bộ, tốt đẹp hơn trên con đường tương lai.

(San Diego, California)


 

NGÀY 30/4/1975 – TIỂU TỬ

TIỂU TỬ

Năm nay tôi 80 tuổi. Vợ tôi thường nói với mấy con: ” Ông bà mình nói người già hay sanh tật, đúng quá ! Bây coi: ba bây bây giờ sáng nào uống cà phê xong cũng lại đứng trước tấm lịch tháng treo ở phòng khách, nhìn trầm ngâm một chút rồi lấy bút gạch tréo ô vuông đề ngày hôm qua! Chi vậy hổng biết? Hỏi ổng thì ổng nói gạch để nhớ rằng đến ngày nầy tháng nầy mình vẫn còn trôi sông lạc chợ! Trời đất ! Định cư ở Pháp từ hơn ba mươi năm chớ phải mới đây đâu mà đi gạch lịch từng ngày! Ổng còn nói gạch để coi chừng nào mình mới thôi gạch để về lại Việt Nam … ”

Câu nói của tôi là sự thật nhưng vì vợ tôi không hiểu nên cho là tôi già sanh tật! Làm sao giải thích được mỗi lần tôi gạch tréo một ngày như vậy tôi có cảm tưởng như là tôi vừa nhích lại gần quê hương một chút – một chút thôi – đủ để nuôi hy vọng thấy một ngày nào đó mình vẫn còn sống mà trở về…

Sáng nay, cũng giống như mọi ngày, tôi cầm bút gạch tréo ô vuông ngày hôm qua. Ô vuông ngày hôm nay đập vào mắt tôi làm tôi giật mình: ngày nầy, năm 1975 ! Tôi bỗng nhớ ra, nhớ rõ, những gì đã xảy ra ngày đó, nhớ như in. Rồi sợ “cái ngày đó” nó vuột khỏi ký ức vốn đã quá hao mòn của tuổi già, tôi vội vã lấy giấy bút ghi lại…

* * *

…Hồi thời trước 75, tôi làm việc cho một hãng dầu ở Việt Nam, phụ trách nhập cảng xăng dầu từ Singapore vào kho dầu Nhà Bè để cung ứng cho thị trường dân sự và quân sự miền nam Việt Nam. Vì trong xứ có giặc nên thị trường quân sự chiếm 60%, trong đó xăng máy bay dẫn đầu. Các bạn tôi trong quân đội giải thích cho tôi biết rằng ở chiến trường miền nam sự yểm trợ của không lực là quan trọng nhứt. Do đó, tôi luôn luôn theo dõi sát tình hình dự trữ xăng máy bay ở các kho dầu miền nam, từ kho Nại Hiên Đà Nẵng dẫn xuống kho Cần Thơ thông qua kho lớn ở Nhà Bè…

Vào cuối tháng 3 năm 1975, sau lịnh triệt thoái cao nguyên, tình hình quân sự trở nên ồ ạt. Sợ trở tay không kịp, tôi còm-măng Singapore một tàu xăng máy bay. Hay tin nầy, hãng bảo hiểm có hợp đồng với hãng dầu tôi làm việc đánh điện phản đối, không cho tàu dầu qua Việt Nam viện cớ tình hình bất ổn. Đánh điện qua, đánh điện lại, cù cưa cả tuần họ mới bằng lòng cho tàu dầu qua, với điều kiện phải có hộ tống của Navy Mỹ họ mới cho tàu vào sông Sàigòn để cập kho Nhà Bè!

Tôi báo cáo với ban giám đốc vì lúc đó ở kho lớn Nhà Bè trữ lượng xăng máy bay chỉ còn đủ có bày ngày tác chiến của không quân. Ban giám đốc chấp thuận điều kiện của hãng bảo hiểm. Tôi vội vã gọi điện thoại lại cơ quan yểm trợ Mỹ để xin họp khẩn. Ông trưởng sở trả lời: ” Tôi sẽ đến ngay văn phòng ông. Cho tôi mười phút ! “. Tôi quen ông nầy – tên W, thường được gọi là ” Xếp ” – nhờ hay đi họp chung. Ông ta dễ thương nhã nhặn, biết chút đỉnh tiếng Pháp nên lần nào gặp tôi cũng nói :” Bonjour! çà va ?” ( Chào ông ! Mạnh hả ?)

Xếp W đến văn phòng tôi với hai người phụ tá. Tôi đã làm sẵn hồ sơ nên sau khi mời ngồi, tôi trao ngay cho họ để họ dễ theo dõi những gì tôi sẽ trình bày. Mười phút sau, tôi kết luận xin can thiệp gấp để tàu dầu xăng máy bay của hãng tôi được hộ tống, không quên nhắc lại điểm chánh yếu là trữ lượng xăng máy bay chỉ còn đủ để chiến đấu trong vòng có bảy bữa !

Nghe xong, Xếp W xin phép bước ra ngoài gọi radio về trung ương. Một lúc sau, ông trở vào, nét mặt và giọng nói vẫn tự nhiên như chẳng có gì quan trọng hết: “Rất tiếc ! Chúng tôi không giúp được ! Thôi! Chúng tôi về! “. Tôi đang nghe nghẹn ngang ở cổ thì ông W vỗ vai tôi nói nhỏ bằng tiếng Pháp: “Allez vous en ! ” (Ông hãy đi, đi !) Ra đến cửa phòng, ổng ngừng lại nhìn tôi, gật nhẹ đầu một cái như để chào nhưng tôi nghĩ là ổng muốn nhắc lại câu nói cuối cùng ” Allez vous en !  (Ông hãy đi, đi!) …

Tôi ngồi bất động, nghe tức tràn lên cổ vì thấy mình bất lực quá và cũng nghe thương vô cùng cái quê hương nhỏ bé của mình, nhược tiểu đến mức độ mà khi cần nắm tay để kéo đi theo thì ” họ ” dán… đầy đường cái nhãn ” hai bàn tay nắm lấy nhau” để chứng tỏ sự thật tình “khắn khít”, rồi khi không còn cần nữa thì cứ tự nhiên buông bỏ không ngượng tay giấu mặt, vì biết mười mươi rằng ” thằng nhược tiểu đó không làm gì được mình “!

Tôi ráng kềm xúc động, bước qua phòng họp của ban giám đốc, chỉ nói được có mấy tiếng: “Chánh quyền Mỹ từ chối !”. Sau đó, tôi đánh điện qua Singapore, cũng chỉ bằng một câu: “Không có hộ tống “. Họ trả lời ngay: ” OK ! Good Luck!” ( Nhận được ! Chúc may mắn ! ) Hai chữ cuối cùng, trong hoàn cảnh nầy và vào thời điểm nầy, nghe sao thật đầy chua xót !

Thấy mới có ba giờ chiều, nhưng không còn lòng dạ đâu để ngồi lại làm việc nên tôi lái xe về nhà. Tôi lái như cái máy, cứ theo lộ trình quen thuộc mà đi. Về đến trước nhà, tôi bỏ xe ngoài ngỏ, đi bộ vô. Vợ tôi chạy ra, ngạc nhiên: “Sao về vậy anh? “. Tôi không nói được gì hết, chỉ gục đầu vào vai vợ tôi rồi bật khóc . Vợ tôi chưa biết những gì đã xãy ra nhưng chắc nàng đoán được rằng tôi phải đau khổ lắm mới phát khóc như vậy. Cho nên nàng vừa đưa tay vuốt vuốt lưng tôi vừa nói, giọng đầy cảm xúc: “Ờ…Khóc đi anh ! Khóc đi ! ”

Ngày đó, tháng tư năm 1975…Đúng là ngày nầy !

Tiểu Tử


 

 Miền Bắc sau 1954-Tác Giả: Nguyễn Văn Lục

 Tác Giả: Nguyễn Văn Lục

Ba’o Dan Chim Viet

08/04/2024

Quân Việt Minh qua phố Hàng Đào Hà Nội (1954) – Hà Nội chuyển mình Nguồn: Image by © Bettmann/CORBIS

Tôi viết lại bài này như một hồi ức đau buồn đã qua. Nó cũng giống như ngày nào “ Miền Nam sau ngày giải phóng”. Bởi vì Đảng vĩ đại ngay cả trong những sai lầm của họ.

________________________________________________

Tôi bước đi
không thấy phố
không thấy nhà
Chỉ thấy mưa sa
trên màu cờ đỏ

(Trích bài thơ Nhất định thắng của Trần Dần sáng tác năm 1955, đăng trong Giai Phẩm Mùa Xuân 1956)

Trần Dần năm 28 tuổi (1926-1997)
Nguồn ảnh: TL gia đình

Bài thơ của Trần Dần là hình ảnh tóm gọn đầy đủ về Hà Nội sau 1954. Không ai có thể nói hơn được Trần Dần qua bốn câu thơ đó. Nhưng cũng vì bốn câu thơ này đã làm ông lao đao suốt cả đời. Kể từ đó, không ai viết về Hà Nội như thế được nữa.

Đó là Hà Nội thật. Hà Nội đổi chủ. Hà Nội sau 1954.

Phải đợi đến Nguyễn Ngọc Lan, sau 1975, ra thăm miền Bắc về viết bài: Hà Nội tôi thế đấy trên tờ Đứng Dậy. Thế đấy là thế nào? Là nghèo nàn, đói rách, tả tơi? Nguyễn Ngọc Lan không nói, để tự người đọc hiểu thế nào thì hiểu. Nhưng Hà Nội hiểu Nguyễn Ngọc Lan xỏ xiên. Không lâu sau 1975 thì đến lượt Nguyễn Ngọc Lan lại bị thất sủng. Viết bài này, tôi nhớ đến hai người ấy.

Bốn giờ sáng ngày 9 tháng 10 năm 1954. Ngày đáng ghi nhớ. Ngày mà còn nhiều cán bộ nhớ lại là trên đường về Hà Nội: “Tôi nhớ chuyến xe hôm ấy về Hà Nội, hành khách đua nhau hát suốt dọc đường.” (Hồi ký Nguyễn Đăng Mạnh, trang 37)

Những ngày đầu phấn khởi

Nhà thơ Trần Dần hơn ai hết đã ghi lại trong nhật ký những ngày đầu tiếp thu Hà Nội với niềm tự hào và tin tưởng. Trần Dần, Ghi 1954-1955 như sau.

“Từ ngày hôm qua sang ngày hôm nay là chuyển hẳn từ hai chữ Chiến Tranh sang hai chữ Hoà Bình. Những tiếng đồng hồ này có một giá trị đặc biệt. Dần dần, người ta mới thấy giá trị của những tiếng đồng hồ đó. Số mệnh, nhiệm vụ của hằng triệu con người thay đổi hẳn… Nhưng (…) sự thay đổi nó dần dà, góp gió, góp gió mãi, tôi đợi một cơn Bão chưa lên.

Hôm nọ có bà bảo tháng 10 thì vui thế. Ngày 10 tháng 10 là ngày tiếp quản Hà Nội. Một phút mà cách nhau hai chế độ mấy trăm năm”.

Đó là cảm nhận kỳ diệu của thời gian của một kiếp người. Một phút trước là nô lệ, một phút sau là con người của tự do.

Ngày ấy người ta say mê, đầy tương lai trong người. Có cán bộ hay nhắc lại những ngày đó. Cho là dân chóng quên. Không thấy hạnh phúc của mình. Hoài Thanh diễn thuyết ở đảng xã hội cũng nói vậy. Chúng ta chóng quên. Quên mất hạnh phúc lớn của mình. Tôi cũng đồng ý là nên nói như vây.Với điều kiện là phải nghĩ rằng:

chúng ta không thể ăn được bằng dư vị bữa tiệc tháng 10 ấy.

Hà Nội với rừng cờ, biển người

Trong một bài viết trước đây của tôi, tôi cũng chia xẻ tâm tình của người Hà Nội những ngày tháng 10, 1954 như sau:

Rừng cờ, rừng người, một rừng cánh tay giơ lên. Thật khó diễn tả cho hết những gì người ta nhìn thấy. Trong rừng người tiến vào thành phố, thật khó để biết ai là sĩ quan chỉ huy. Chẳng ai có thể nhận ra những đồng chí như Bùi Quang Tạo, Trần Đăng Ninh, Hoàng Văn Thái, Võ Nguyên Giáp, Lê Liêm. Người ta nhốn nhác tìm bóng dáng ông Giáp hay ông Hồ nhưng không thấy. Vài ngày sau, qua báo chí, người dân Hà Nội được biết các ông ấy đã về tới Hà Nội, nhưng ở đâu thì không ai hay.”

Hà Nội đã thay đổi diện mạo. Với rừng cờ đỏ. Ở đâu ra mà sẵn vậy?

Đâu đây, người ta thấy một tấm biểu ngữ lớn với hàng chữ thô kệch văn chương lắm:

Cùng nhau múa hát mấy bài
Khải hoàn ngợi khúc xây đài vinh quang

Người ta nhận thức ngay được phải ứng xử thế nào trong hoàn cảnh mới. Có một chút nhạy bén và sức lan truyền đến lạ lùng trong đám thị dân năm thành phần được cách mạng công nhận là thợ thuyền, nông dân, binh sĩ, tiểu tư sản và tiểu tư sản yêu nước. Các cô gái con nhà, yểu điệu thục nữ, mượt mà, quần lụa trắng, áo dài mà mỗi bước đi cố gắng vắt xéo đôi chân từ bên này qua bên kia nay áo cánh nâu, quần đen, tay cầm lá cờ đỏ.

Đôi guốc son thời con gái nay đổi ra đôi dép cao su, hiệu con hổ mầu trắng. Những cô gái áo dài quần lụa trắng vắng bóng dần.

Thay vào đó là những áo cánh nâu chật chội với những thân hình con gái vạm vỡ, lực lưỡng như những lực điền, đi đứng huỳnh huỵch. Những ông công chức với thói quen complet, cravatte, giầy da, mũ phớt lọt thỏm trong đám đông người với những mũ tai bèo.

Nó báo hiệu một thời đã hết. Bời vì lúc ấy nghèo là một chứng chỉ tốt, giầu chỉ thêm mối lo. Vì thế, cũng không thiếu người đã “giả nghèo” chẳng khác gì “giả câm, giả điếc”, “giả ngu ngơ”.

Hoàn cảnh lúc bấy giờ, nó có sự ngược chiều vô lý. Người Hà Nội “giả đi xuống”, che dấu đủ thứ. Người mới tới lại thích phô ra. Họ săm săm đi tìm những phế thải lỗi thời còn để lại. Một anh cán bộ vẫn mũ tai bèo, nhưng gắn thêm đôi kính râm vào mặt, chiếc bút máy parker gài trên túi. Chiếc đồng hồ đeo tay phô ra. Trông anh lố bịch thêm. Nhiều anh không ngại ra tiệm trồng răng gắn thêm hai chiếc răng vàng để cười cho sang. Ở nhà thì ráng mua cho bằng được cái màn tuyn nằm cho thoáng, bõ những ngày muỗi cắn, đi ra đi vào súng sính trong bộ pyjama. Hứng quá, thoải mái quá. Mặc luôn bộ đồ ngủ đi ra ngoài đường cho tiện.

Các nữ cán bộ thì một chút thoang thoảng môi son, chút má hồng. Đủ để cho người ta biết người mình thơm tho. Nhưng lộ liễu quá thì chưa tiện. Và tại sao chối từ một chút nước hoa thay cho mùi ngai ngái của mồ hôi, mùi tóc muối lâu ngày.

Cứ như thế mà cuộc đấu tranh ai thắng ai trong mỗi con người cứ lớn dần lên.

Người ta cảnh cáo cẩn thận hiện tượng mất bản chất.

Nhà văn Vũ Thư Hiên kể cho tôi nghe, về Hà Nội là rủ nhau đi mấy quán ăn ngon cho đỡ thèm. Cũng bị bá cáo và cảnh cáo.

Cảnh cáo cho có lệ. Nhưng chắc chẳng ai thèm nghe.

Phải chăng đó là những sự thay đổi tận gốc rễ của người Hà Nội và cả của người mới tới?

Các bà mệnh phụ trước đây cứ một bước lại ngồi xe tay nay lạch bà lạch bạch ráng theo đoàn người đi tới. Mọi người hình như bằng mọi cách khuôn ép, tự sắp xếp mình vào năm thành phần trên. Đường phố vốn nhỏ hẹp nay chật cứng người như nêm cối. Như tự phát, từng đám người như thế lũ lượt như những đám rước trên đường phố hết đám này đến đám khác.

 Trong đám đông ai đó hô Hồ chủ tịch muôn năm! thế là cả cái cỗ xe người đồng lượt vung cánh tay hô theo.

Họ ùn ùn kéo đến Nhà Hát Lớn, đi qua rạp chiếu bóng Eden, nhà in Viễn Đông, còn được gọi là nhà in Ideo, hướng về phía vườn hoa Con Cóc rồi Bắc Bộ phủ. Nổi bật là những đám thanh thiếu niên, không biết bằng cách nào và từ bao giờ, ăn mặc như hướng đạo mà mỗi em đều quàng một chiếc khăn quàng đỏ.

Hình như cả thành phố chỉ có dân chúng chứ chưa có bóng dáng người lãnh đạo.

Vậy mà cái guồng máy đó chạy đều, nhịp nhàng hăm mươi bốn trên hai mươi bốn. Thành phố như vô chủ, chỉ có đám đông, chỉ có người gặp người, người nhìn người, đi ngược, đi xuôi.

Gặp nhau có lối chào mới: giơ nắm tay đồng loạt hô to. Muôn năm, muôn năm!!

Chẳng có gì có thể tả hết được cái ngày như thế, cái khung cảnh như thế, cái vận hành, cái chuyển đổi, lột xác như thế.

Những đoàn người cuồn cuộn như dòng nước lớn không dứt, hết đám này đến đám khác cho mãi đến nửa khuya và bắt đầu lại vào sáng sớm ngày mai.

 Chính quyền mới trong một tích tắc đồng hồ đã biến đổi đám người trước đây có thể là tiểu thương, viên chức của Pháp, nếu không nói là theo Tây, Việt gian của Tây trở thành một đám quần chúng hăng say mà không mất một ngày tập huấn.

Trong số ấy, có nhiều nhà tư sản kinh doanh hăng say nay muốn hiến hết cho chính quyền tài sản, cơ nghiệp. Họ phải tự giác, tự làm đơn chờ đợi xem có được chính quyền chấp nhận hay không, chấp nhận thành kẻ hợp doanh với nhà nước. Đó là một vinh dự cho họ được cải tạo từ chủ nhân nay trở thành người lao động.

Sau khi được chấp nhận rồi, họ cất được cái mũ “phớt” tư sản để đội cái mũ” tai bèo”, để hội nhập xã hội mới với những tước danh mới như công thương gia yêu nước, kỹ nghệ gia tiên tiến hay cao hơn nữa được gia nhập Mặt Trận Tổ Quốc và may mắn hơn, xúc động đến oà nước mắt nếu được “xuống” làm phó giám đốc xí nghiệp.

Nhưng thay đổi một cái mũ có đủ để thay đổi được cả một cuộc đời không?

Sau đó thì họ trắng tay, nhưng ngược lại họ trở thành nhân vật được mọi người kính nể. Họ là những người yêu nước tiêu biểu như các ông Ngô Tử Hạ, ông Nguyễn Sơn Hà, ông Bùi Hưng Gia, ông bà Trịnh Văn Bô. (Xem Mặt Thật, Thành Tín, trang 84)

Ở miền Nam sau này cũng như thế, nhưng ở mức quy mô và lớn gấp 10 lần. Họ tất cả đều hoan hỉ hiến cho chính quyền mới. Các vua kẽm gai, vua sắt, vua máy cầy, vua hãng dệt nay xuống thành thứ dân vô sản. Ôi, hạnh phúc biết bao, vì đã được đổi đời?

Trong số những nhân vật uy tín này, người viết có vinh dự được nghe danh ông Ngô Tử Hạ, người đã có công với cách mạng ngay từ những ngày đầu kháng chiến bằng cách in ấn các truyền đơn cho cách mạng và bây giờ hiến toàn bộ cơ sở nhà in, ấn loát cho chính quyền mới.

Nhưng giả dụ, ông Ngô Tử Hạ đã không hiến trước thì liệu ông có giữ được sản nghiệp không và liệu người ta có để yên cho ông làm ăn hay không? Nhưng không ai dám nêu câu hỏi vớ vẩn đó ra nên cũng không bao giờ có câu trả lời.

Tuy vậy, những ngày tháng ấy kéo dài chẳng được bao lâu, vì người ta phải đương đầu với thực tế trước mặt. Người ta dần dần thất vọng. Trong đó có Trần Dần. Và ông đã viết như sau:

“Tháng 10 là bữa tiệc lớn cho nhân dân thủ đô. Nhưng bây giờ là tháng 3.1955. Người ta phải ăn bằng những bữa cơm hằng ngày”…

Không thể ăn bằng ký ức một bữa tiệc từ năm ngoái

Câu hỏi được đặt ra saụ 5 tháng sống dưới chế độ mới. Người ta được gì?

Nỗi mừng, niềm vui qua mau và bây giờ là cuộc sống cơm áo với trăm điều phải lo.
Nay thì lo là chính, lo lấn át tất cả. Mừng là phụ.

Nỗi mừng nay biến thành nỗi lo và cả miền Bắc đều lo như vậy.

Bức màn tre phủ xuống trên toàn miền Bắc

Một bức “màn tre” đã phủ xuống trên toàn miền Bắc. Chữ bức “màn tre” lần đầu tiên được người ta dùng để thay thế cho chữ bức “màn sắt” quen thuộc để chỉ các nước cộng sản như Liên Xô hoặc Đông Âu.

Ngữ nghĩa chữ bức màn tre là chỉ thị một chế độ độc tài, khép kín, bưng bít che đậy không để lọt ra thế giới bên ngoài những gì đang xảy ra bên trong đó.

Trong vòng 20 năm, bức màn tre ở miền Bắc đã xảy ra 3 điều cực kỳ quan trọng là: Một là về chính trị, họ tiến hành chiến tranh nhằm xâm chiếm miền Nam. Hai là, về xã hội, khi cuộc di cư vừa chấm dứt thì vào khoảng tháng 5/1955, chính quyền miền Bắc quay trở lại chính sách Cải cách ruộng đất đã thực hiện từ 1953, sau đó tiến hành Hợp tác hóa nông nghiệp. Ba là, về văn hóa, trấn áp giới văn nghệ sĩ trong vụ án Nhân Văn giai phẩm.

Cả ba vụ việc đó đều dùng Bạo Lực “cách mạng” để đạt được mục đích bằng sự hy sinh xương máu của người dân theo đúng tinh thần của Các Mác: Bạo lực là bà đỡ của Cách Mạng.

Sau này liên lạc giữa hai miền Nam Bắc ngăn cách bởi bức màn tre này thành hai thế giới và sự liên lạc giữa hai miền giới hạn vào những tấm thư bưu phiếu. Nhưng cũng chỉ được một thời gian ngắn rồi mất hẳn. Số phận những người chọn ở lại hay bất đắc dĩ phải ở lại sau bức màn tre đó ra sao? Không còn ai biết được nữa.

Bài viết sau đây dành chọn để ghi lại hoàn cảnh miền Bắc sau 1954 với tất cả những trớ trêu lịch sử oan khiên và những hệ lụy từ chế độ đó mà ra.

Xin ghi tiếp phần nhật ký 1954 của Trần Dần để thấy được những thực trạng Hà Nội sau 1954 và những đổi thay, chuyển biến tâm trạng của nhà thơ Trần Dần.

Nhà thơ viết tiếp những suy tư của mình:

Về Hà Nội được đúng 10 ngày. Hà Nội ít thay đổi. Gặp bố. Anh Đường. Cháu Hà. Anh Lan. Gặp bạn. Trần Mai Châu. Một số người không gặp.

Nay thì những dự định khó thực hiện vì chính sách gò bó.Tôi bị bao vây. Chặt quá, ép quá… Tôi muốn gạt những núi định kiến mà ngoi lên thở.. Nhưng sao buồn thế? Khổ thế ? Nhiều lúc tôi tưởng như mất cả cuộc đời rồi.

Tay buông xuôi. Chân duỗi thẳng. Tôi buồn như người đã chết.
Cái màn biểu diễn giáng xuống đầu tiên là việc đổi tiền từ tiền Đông Dương sang tiền cụ Hồ. Trong vụ đồi tiền này, người dân tự nhiên mất 2/3 tài sản của mình. Cụ thể là một bát phở trước đây giá là 3 đồng bạc Đông Dương. Mọi người đều bị móc mất số tiền ở trong túi. Nay muốn ăn một bát phở như thế, phải trả là 10 đồng,

Người cộng sản quả là có tài tạo ra sự khan hiếm y trang miền Nam sau này.

Muối, đường, vải vóc tự nhiên trở thành khan hiếm.

Và người ta kháo với nhau rằng, nếu cộng sản làm chủ sa mạc thì chẳng bao lâu, cát sẽ trở thành khan hiếm, phải xếp hàng mới mua được.

Cuộc sống kể từ ngày hôm nay báo hiệu những ngảy đen tối sắp tới.

20/01/1955

Những ngày cuối năm.

Tết năm nay ở Hà Nội. Ít cành đào quá. Hoa thủy tiên cũng hiếm. Hàng sách chưa thấy những bìa xanh đỏ. Phố Hàng Mã có ít hoa giấy. 10 giờ, phố xá đóng im ỉm. Vắng tanh vắng lạnh. Những dãy phố Bà Đanh này phản ảnh tình hình chính trị kinh tế bây giờ. Còn thiết quân luật. Những ngày đầu tiên của Hòa Bình còn gặp nhiều khó khăn. Nạn đói khu tư. Nạn di cư miền công giáo. Khu 4. Vụ Ba Làng nổi loạn. Hải Phòng phá giá đồng bạc. Các ổ Mỹ, Ngô Đình Diệm phá hoại hòa bình, kều người đi Nam. Đô la Mỹ vẫn làm người ta tốt mắt. Chính nghĩa thì nghèo.

Kinh tế ta vừa thoát khỏi nanh vuốt Mỹ Pháp, còn non yếu, như đứa bé sơ sinh đỏ hon hỏn. Cán bộ máy móc. Vụ thuế công thương gây một panique lớn. Các rạp hát ế khách. Các hiệu ăn chuyển sang phở nhiều. Giá hang đắt lên. Tiền Đông Dương ăn hơn 70 rồi. Nhiều người thất nghiệp. 6 vạn công nhân. 3 vạn cán bộ miền Nam. 30 vạn đồng bào miền Nam phải xếp việc. Trí thức không có việc. Nghệ sĩ chưa tìm được cách sống cho bằng trước. trường tư sụt đi nhiều. Báo chí bán rẻ, ế. Khả năng mua sách của Hà Nội sụt đi. Hiệu cúp tóc vắng. Cyclo bí, cơ quan cán bộ không đi. Lạp sường lồ mát phàn một đêm khéo lắm bán đưuợc cho hai người…

Đúng vây. Kẻ tà có đô la. Chính nghĩa không có tiền. Tùy từng người chọn đường.

(Trích Trần Dần, Ghi 1954-1960, Phạm Thị Hoài biên tập Văn Nghệ phát hành)

Đấy là bức tranh toàn cảnh đời sống miền Bắc sau 1954 được Trần Dần ghi lại đầy đủ và trung thực sau khi hòa bình trở lại. Bức tranh đó nhắc nhở người ta nhớ câu nói của Tacite xưa như sau:”

“Ils firent un désert et l’appelèrent Paix”. (Họ xây dựng nên một sa mạc và gọi đó là Hoà Bình).

Những suy nghĩ của Trần Dần viết ra là rất nhân bản, rất gần gũi và hơn 25 năm sau, tháng 10, 1991, một Trần Dần thứ hai xuất hiện. Sâu sắc hơn, cay đắng hơn, “tàn bạo” hơn. Đó là Bảo Ninh với Nỗi buồn chiến tranh khi ông viết về cuộc sống của ông, đúng hơn về tiểu đoàn 27 mà cho đến 75 chỉ còn sống sót 10 người trong số 500 người lúc đầu:

”Đến bây giờ, lúc này đây, bạn hãy xem thực chất quanh ta có gì khác hơn ngoài cuộc sống tầm thường và thô bạo của thời hậu chiến? Nền hoà bình này…Hừ hình như tôi thấy các mặt nạ người ta đeo trong những năm trước rơi hết. Mặt thật bầy ra gớm chết. Bao nhiêu xương máu đã đổ ra”.

Dưới mắt Trần Dần quả thực Hà Nội đã không còn như trước nữa.
Nạn đói đe dọa là có thực.

Nạn đói đe dọa

Khu tư đã rơi vào cảnh đói kém, mất mùa như trong phúc trình của đại sứ Ba Lan. Trong bản báo cáo tháng gửi về nước ông, ông đại sứ viết:” Thị trường cần cung cấp thêm lúa gạo và các nông sản khác đang bị thiếu hụt nghiêm trọng. Cần phải ngăn ngừa nạn đói có thể xảy ra ở khu bốn là nơi hội đủ những triệu chứng như: hạn hán, ruộng đất bị bỏ hoang. Nếu Việt Nam không nhận được viện trợ to lớn về lúa gạo thì tình hình sẽ trở thành nguy ngập và cuộc bầu cử sẽ hết sức bấp bênh. Báo cáo của đại sứ Ba Lan tháng 3 như sau: “Một trong những khó khăn nhất mà các đồng chí của chúng ta gặp phải là nguy cơ xảy ra nạn đói… Hiện nay viện trợ của CHNDTQ đã tới nơi, nhưng không đủ đáp ứng nhu cầu. Vụ mùa tháng 5 không khả quan vì hạn hán kéo dài. May thay, nhờ có viện trợ Trung Quốc nên tháng 5, năm 1955, VNDCCH đã tránh được nạn đói”. Theo báo cáo của đại sứ Ba Lan:

“Cuối tháng tư tình hình được cải thiện một chút nhờ gạo, gà và khoai lang gửi từ Trung Quốc đã sang tới nơi ”. (Báo cáo của đại sứ Pietka, Hà Nội, ngày 2/5/1955)

Không có viện trợ thực phẩm của Trung Quốc thì đói to.Tình trạng lương thực ở miền Bắc rất đáng lo ngại mà theo cách tính sơ khởi là mức tiêu thụ gạo không quá 250kg/ mỗi đầu người/ năm (1955 là 286kg/người. 1957 là 285.7kg/người).

Người Pháp cuốn gói ra đi

Nạn đói kém xảy ra phần lớn là do hậu quả sau chiến tranh và sự ra đi của người Pháp cuốn gói theo họ tất cả những gì có thể chở đi được. Người Pháp trù liệu chuyển vào Nam qua tầu chiến Mỹ toàn bộ xe cộ, xe tăng, thiết giáp, súng ống, đạn dược. Trong đó 200.000 tấn đã được dự liệu đưa vào miền Nam. Thêm vào đó là máy móc, trang thiết bị, nguyên vật liêu (raw materials) kho hàng, tất cả đã được chở vào miền Nam. Tính ước lượng trị giá bằng tiền vào khoảng 2000 triệu francs…Cũng vậy, có 29 trên 30 các xưởng kỹ nghệ của Pháp được tháo gỡ, chuyển vào Nam.

Vì thế, chính quyền mới sau khi tiếp quản các cơ sở kỹ nghệ phải đương đầu với tình trạng bất khả dụng hay khiếm dụng. Chẳng hạn, nhà máy xi măng Hải Phòng, chỉ sản xuất được bằng phân nửa so với trước đây. Sau này nhà máy được xây dựng lại do sự giúp đỡ của Liên Xô từ tháng 9-11/1955 và hoạt động 24/24 với 3 tốp thợ, mỗi tốp 2000 người. Tuy nhiên, cho đến 1956, nó cũng chỉ đạt được 61% tổng sản lượng của năm 1939. Sản lượng xi măng của nhà máy Hải Phòng là 400.000 tấn/năm, trước 1954 đủ cung cấp cho nhu cầu xi măng của miền Bắc.

Nhưng tệ hại nhất vẫn là mỏ than Hòn Gai, trước đây mỏ than Hòn Gai được trang bị máy móc của Mỹ. Năng xuất dĩ nhiên là cao. Nay người Pháp đã tháo gỡ trở đi thứ gi cần phải tháo gỡ, thứ gì dùng được và ngay cả thứ gì xét ra không dùng được, nhưng nếu có thể làm trở ngại cho việc sản xuất thì cũng không từ.

Đó là tình trạng Sabotage, phá hoại trước khi bỏ đi. Ấy là chúng tôi không muốn nhắc tới sự phá hoại trực tiếp (sabotage) của nhóm tình báo của đại tá Lansdale vào những ngày cuối cùng của thời hạn 300 ngày theo Hiệp định Genèva.

Vì vậy, việc sản xuất than ở Hòn Gai đã phải quay trở lại thời kỳ tiểu công nghệ lấy sức của người lao động làm chính. Sẽ bốc dỡ than bằng tay, khuân vác bằng sức người. Bao nhiêu công việc nặng nhọc trước đây do máy làm thì nay con người phải lấy sừc người ra mà làm.

Từ đào bằng máy chuyển sang đào bằng tay, sự vận dụng sức người ờ đây phải được kể là vô cùng khó khăn và vất vả cho người lao động. Và chính quyền mới đã bắt đầu làm lại như thế đấy. Nghĩ tới mà khiếp sợ. Và nên nhớ rằng: với sức người, sỏi đá cũng thành cơm.

Nhà máy sợi Nam Định cũng chỉ hoạt động bình thường sau khi Trung Cộng tặng cho 500 máy dệt tự động vào đầu năm 1957. Nhà máy bột giấy (paper mill) cũng được Trung Cộng trang bị lại máy móc và nay hoạt động lại ở Thái Nguyên.

Nhưng quan trọng nhất là nhà máy cơ khí ở Hà Nội được Liên Xô tài trợ và bắt đầu xây cất vào tháng 12/1955. (Trích Revolution, Socialism and Nationalism in Viet Nam, Volume 1, trang 262-263)

Con đường xây dựng Xã Hội chủ nghĩa từ 1954 đến 1975 và từ 1975 đến nay đã đi được bao nhiêu đoạn đường và còn cần thời gian là bao nhiêu năm nữa?

Ruộng đất bỏ hoang

Lý do thứ hai gây khó cho chính quyền mới là ruộng đất bị bỏ hoang. Nhiều ruộng đất lúc chiến tranh đã bị bỏ hoang và chiếm 7% số ruộng đất canh tác ở miền Bắc. Ruộng đất và làng mạc của nông dân các vùng xôi đậu đã bị máy bay Pháp bỏ bom, hoặc nã đạn pháo mỗi ngày, đúng giờ, khoanh vùng tình nghi như một vùng khủng bố trắng “white zone”, giống như No man’s land của người Mỹ sau này.

Nhiều khi, nông dân phải cầy cấy ban đêm vì sợ máy bay, sợ bị đạn pháo. Hơn nữa, cho dù có cầy cấy được thì đất canh tác thuộc vùng Trung Châu Bắc Việt vốn là vùng đất rice- deficit, năng xuất thấp, không đủ cung cấp cho cư dân Bắc Việt, hoặc chỉ là độc canh nên quanh năm thiếu hụt cần sự cung cấp lúa gạo từ trong Nam ra mỗi năm.

Nay tất cả nguồn cung cấp ấy không còn nữa.

Những ruộng đất ấy đã được canh tác cả hàng ngìn năm. Đất đã hẹp, mật độ dân số đông, ruộng đất bị khai thác triệt để như cấy hai mùa, cấy xen kẽ.

Đất không được nghỉ ngơi.

Mỗi mùa, cần đào sâu thêm để được đất mầu, đất tốt. Đào sâu thì chỉ gặp đất thịt, đất đen, mầu mỡ không cò. (Xem thêm Nông dân Bắc Việt, Nguyễn Văn Canh, trang 134)

Nạn lụt, hạn hán và giông bão gây mất mùa

Nếu chúng ta còn thuộc một vài câu ca dao còn sót lại để mô tả cái lo lắng của người nông dân miền Bắc, đã hẳn may ra hiểu đuợc hoàn cảnh của họ. Đó là hoàn cảnh bất lực của con người trước thiên nhiên với đủ thứ lo lắng:

Người ta đi cấy lấy công
Tôi nay đi cấy còn trông nhiều bề
Trông Trời, trông đất, trông mây
Trông mưa, trông gió, trông ngày, trông đêm
Trông cho chân cứng đá mềm
Trời yên bể lặng, mới yên tấm lòng

Cho nên, kẻ thù truyền kiếp của người nông dân vẫn là thời tiết

Chẳng hạn như các vùng đất tân bồi chung quanh tỉnh Nam Định thường gặp thiên tai mỗi năm. Không lụt thì bão tố, không bão tố thì hạn hán.

John Klein
Nguồn: John Klein

John Kleinen, trong bài viết Access to Natural Resources for whom? Aquaculture in Nam Dinh, Viet Nam liệt kê các vùng như Hải Hậu, Nghĩa Hưng, Ninh Cơ là vùng đất tân bồi với đụn cát, đất bùn, rộng 72.000 mẫu tây mà người ta chỉ có thể trồng trên đó những cây phi lao. Các vùng đó luôn bị lụt và bão có khi là cấp số 8-9/ giờ. Vì thế, người ta phải nhiều lần đắp các đê biển (sea dykes) từ những năm 1892-1900, 1934-1939 và sau này 1957-1962 và 1962-1971 để ngăn lụt và chống bão. Đê biển ở các vùng trên chạy dài đến 80 kilômét với mật độ dân số rất cao, trên 1000 người/km2.

Cho nên lụt cũng chết mà hạn hán cũng chết. Vụ mùa tháng 5.1954 thì hạn hán. Nhưng tháng 12, 1954 thì bị lụt. Lụt và hạn hán quanh năm làm khổ người nông dân miền Bắc. Sau này cũng vậy, vào năm 1959, Thủ Tướng Phạm Văn Đồng đã ra trước Quốc Hội cho biết kết quả việc thu hoạch năm vừa qua là thảm bại: Trung bình thu hoạch chỉ là 1,4 tấn/mẫu. Ruộng tốt, trung bình có thể thu hoạch được từ 4 đến 5 mẫu.Vì thế, tổng cộng chỉ thu hoạch được 1,161,000/ tấn. Thiếu hụt 34,3 % của một mùa gặt bình thường.

Vậy mà nạn lụt đã xảy ra vào tháng 12/1954, ngay khi vừa tiếp quản xong Hà Nội. Đã lụt còn rét căm căm. Đói cộng lạnh là hai nỗi khổ của nông dân miền Bắc.

Đã thế, 90% đê điền ở miền Bắc cần phải được tu sửa. Trong lúc chiến tranh, máy bay đã phá hủy 8 hệ thống đập nước dung để tưới tiêu cho 252.000 mẫu ruộng. Sự sống còn của nông dân tùy thuộc vào sự sửa chửa tức thời hệ thống đê điền này nên chỉ trong vòng một năm 2 triệu 68 vạn ngày công đã dùng để sửa chữa hệ thống đê điền và sửa chữa 2750 kilômét bờ đê để tránh nạn lụt.

Lại một lần nữa cho thấy sự vận dụng sức người ở đây là ngoài sức tưởng tượng được.

Chính quyền mới bắt buộc phải nhập 150.000 tấn gạo từ Miến Điện mà mức thiếu hụt là 200.000 tấn/ năm. (Trích tóm lược Revolution, Socialism and Nationalism in Viet Nam. Vol 1, Ken Post, trang 262).

Nạn thất nghiệp

Tính đến tháng 12/1954, nghĩa là sau hai tháng tiếp quản Hà Nội. Có 6000 cửa tiệm đóng cửa. Trước đây, các khu phố Hàng Ngang, Hàng Đào, Hàng Than, trước cửa chợ Đồng Xuân, lúc nào cũng tấp nập kẻ buôn người bán. Nay chủ hoặc vào Nam hoặc tạm đóng cửa. Nhiều cửa hàng ăn lớn nay đổi ra tiệm phở. Gần 9000 chị em bán hàng rong hết đi rong. Không ai có tiền để ăn quà sáng, quà chiều nữa. 4000 thợ tiểu công nghệ như thợ may, thợ bạc phải đổi nghề, hoặc về quê làm ruộng. Chưa kể 20.000 thợ thuyền đủ loại không có công ăn việc làm.

Hà Nội vắng hoe vì thiếu những người bán hàng rong

Sư đoàn 308, Sư đoàn/Đại đoàn Quân Tiên Phong, vào Hà Nội (15/10/2008)
Nguồn: Image by © Bettmann/CORBIS

Trần Dần đã thấy một Hà Nội vắng bóng người. Bởi vì thiếu những người bán lẻ, lưu động. Những người bán hàng rong vốn là nét sinh hoạt cá biệt, sinh động của Hà Nội. Cái làm nên Hà Nội là Hà Nội. Đó là những “cửa hang lưu động” vốn liếng chỉ là quảy đôi quang thúng, hay đôi khi chỉ là một cái thúng đội đầu. Sang ra thì cửa hàng được thiết kế đằng sau chiếc xe đạp như các cửa hàng bán cá giống, bán chim cảnh, bán đồ chơi cho trẻ con, “ciné lưu động”, bán kẹo, nhất là kẹo kéo, bánh bao v.v… Nhiều cửa hàng này đi đến đâu được trẻ con bu lai chung quanh như coi phim (phim thường thường có bón lỗ để nhòm hai bên, phim câm, các loại phim thời đó như Zôrô bịt mặt, hay phim Tarzanv.v…) xem cá cảnh, bán kẹo kéo. Những tiếng rao hàng đủ loại từ sáng đến tối. Tiếng gõ “tục tắc” vui tai đến tiếng lè nhè ”phá xang” nay không còn nữa.
Hà Nội im lặng như Trần Dần mô tả.

Những cửa hàng “lưu động” như gánh phở, cà phê buổi sáng, rất hương vị, mùi cà phê, mùi phở buổi sang bay tỏa thơm đến thèm thuồng.

Đó là những hương vị Hà Nội hay miếng ngon Hà Nội rất ấn tượng làm nên Hà Nội nay cũng không còn nữa.

Hà Nội “chết” theo cái nghĩa ấy. 9000 người trong số họ phải đổi nghề.

Những người như Trần Dần khi về Hà Nội thèm những hương vị ấy và thấy tiếc nuối cái không khí Hà Nội trước 1954.

Gạo ăn chỉ còn đủ cho 3 tháng. Xăng dầu cạn kiệt chỉ đủ cho một tháng.

Nhất là chính phủ hoàn toàn bất lực trong việc kiểm soát giá cả. Vải một mét trước 1954 là 350 đồng/mét, bây giờ là 495 đồng/mét. Đường 570đồng/kilô nay nhảy vọt lên 2900 đồng/kilo. Xăng dầu 310/lít nay là 1630/lít.

Sự trì trệ và xuống cấp thê thảm của sinh hoạt kinh tế miền Bắc

Kể từ 1955, miền Bắc chỉ giao thương với 7 nước trong khối xã hội chủ nghĩa và 3 nước ngoài khối. Việc xuất cảng nguyên liệu vốn là huyết mạch của kỹ nghệ miền Bắc như than đá, quặng sắt, kẽm.Nhưng mặc đầu còn đói kém, vậy mà lần đầu tiên 1957, ngoài Bắc đã có thể cho xuất cảng bột gạo, sắn, hoá chất Cronit và khoáng chất apatit mà tổng sản lượng lên đến 60% hàng xuất cảng. Việc nhập cảng với các nước anh em chìếm tỉ lệ 52% mà đến 54,6% hàng nhập cảng vào năm 1955 là để đổi lấy sản phẩm tiêu dùng mà miền Bắc chưa sản xuất được . Nhưng sang đến năm 1957, hàng nhập cảng đã tụt xuống còn 32% vào năm 1957. (Trích VNA reports, 18 and 21 June 1956, BBC 572, 26 June 1956, p.25)

Tuy nhiên, trên thực tế, chính quyền mới đã không làm được những điều đáng lẽ cần phải làm. Hoặc làm chưa đến nơi, đến chốn. Ông Dương Quang Đông, một đảng viên ở miền Nam đã có lúc phải thốt ra như thế này trên báo Nhân Dân:

Từ mười một năm nay, đảng tỏ ra không có khả năng cung cấp cho dân một hạt gạo nào, một miếng thịt nào, một giọt nước mắm nào và cũng không có khả năng ỗn định về giá cả. Dân khổ quá. Biện pháp tốt nhất là đảng nên để cho dân được tự do sản xuất, tự do sinh sống, tự do học hành.”

(Trích Việt Nam 1920-1945, Cách Mạng và phản cách mạng thời đô hộ thuộc địa, tác giả Ngô Văn, trang 367)

Xin trích dẫn nhận xét của Ken Post trong chương Crisis in the north về tình trạng miền Bắc vào giữa năm 1954:

“By mid-1954 the economy of Bac Bo and northern Trung Bo had suffered a serious decline in productive forces as a direct or indirect effect of the fighting. An area of riceland estimated at between 138.800 and 143.000 hectares, some 7 per cent total, had gone out of cultivation, mostly in so-called “white zones” where the French army had followed a shoot-on-sight policy. On the surface, this was not a large proportion, but it must be remembered that what had now become the” northern regroupment zone” of the new Viet Nam had always been a rice-deficit area in the colonial period, needing to import annually from Cochichina. Hence, any decline in production whilst the new” southern regroupment zone” was politically unstable and under continuing French and increasing US influence was a serious threat.”

(Trích Revolution, Socialism and Nationalism in Viet Nam, volume 1, Kent post, trang 262)

Thủ tướng Phạm Văn Đồng trong dịp phát biểu tại quốc hội, tháng 3. 1955 cho rằng: Hòa bình đã trở lại, cần có lãnh đạo tập trung, thống nhất và mạnh… để đáp ứng được những nhu cầu của chính phủ. Cần tăng gấp 80% viên chức nhà nước trong 3 năm.

Khi người Pháp ra đi, còn để lại 7000 viên chức trong số 20.000 người từng làm việc trong chính phủ Liên Hiệp Pháp. Những người ở lại làm việc theo cung cách cũ, thiếu nhiệt tình và tinh thần hy sinh.

Về lương bổng của những viên chức từng làm cho người Pháp, để lưu dụng họ, chính quyền mới cho họ vẫn giữ bậc lương cũ thời Pháp. Gọi là bậc “lương lưu dung”.Trong khi những người từng đi chiến đấu trở về thi thiếu kiến thức và năng lực chuyên môn nên ăn theo lương” kháng chiến”. Trái khoáy là lương một ông thư ký thời Pháp cao gấp đôi lương một ông Chánh án của chính quyền mới.

Vào khoảng cuối năm 1960, các viên chức ngưới Pháp mới tự nguyện xin rút lương và ăn theo lương như các cán bộ chính quyền mới.

Phải chiều lòng viên chức trong chính quyền người Pháp vì thiếu chuyên viên. Cụ thể như ở mỏ than Hòn Gai khi được chuyển giao cho chính quyền mới. Dưới thời quản lý của người Pháp thì có 21 kỹ sư và 62 chuyên viên, sau này chỉ vỏn vẹn còn 30 chuyên viên. Nhà máy dệt Nam Định đã không còn một kỹ sư nào ở lại. Để bù khuyết khoảng trống đó, từ 1955-1960 có sự chi viện lệ thuộc vào 3600 chuyên viên người Tầu, 1400 Liên Xô và 1000 người của các Quốc gia Đông Âu.

Cũng vậy, trong ngành giáo dục, các giáo chức trước đây dạy ở các trường công và trường tư vẫn được lưu dụng. Các trường như Chu Văn An, Nguyễn Trãi vẫn như cũ. Ngay các trường tư như trường Dũng Lạc, trường tư của Thiên Chúa giáo, nằm bênh cạnh nhà thờ Lớn Hà Nội vẫn được tiếp tục mở cửa. Đặc biệt không ngờ là trường Albert Sarrault của Tây cũng vẫn còn, vẫn dạy tiếng Pháp, chỉ có thay đổi là hiệu trưởng là người Việt.

Trong khi đó, ngân sách từ các năm 1955 đến 1957 đã dành 26.5% cho Quốc Phòng, Xây dựng 24.4 , hành chánh 14.5%. Cộng chung ba bộ này chiếm 65%. Phần còn lại dành cho kỹ nghệ có 2.7%, y tế 1.9% và giáo dục có 2.9%. (Trích Revolution, Socialism and Nationalism in Viet Nam, Volume 2, Viet Nam Divided, Ken Post, trang 52-55)

Với một ngân sách lệch như thế, chú trọng quá nhiều vào Quốc Phòng, đất nước làm sao khá lên được? Một ngân sách nghiêng về Quốc Phòng như thế, bởi vì kể từ năm 1958, đảng Lao động Việt Nam nhằm hai muc tiêu chiến đấu: chiến đấu xây dựng Xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và chiến đấu hoàn thành cuộc gìải phóng miền Nam.

Sau này thì không phải chỉ có hơn 3000 chuyên viên Trung Quốc nữa.

Biên giới phía Bắc được mở rộng để đón tiếp hàng nhập cảng từ Trung Quốc như một “con đường tơ luạ mới của thế kỷ này” cộng với đường biên giới mới của bản đồ được vẽ lại. Con đường tơ lụa nay được ủi phẳng mở đường cho xa lộ kéo dài từ Thái Nguyên, Việt Trì đi thẳng tới Hải Phòng, Hà Nội. Nhất là Khu kỹ nghệ Việt Trì (Viet Tri complex) trong kế hoạch 3 năm mà phần lớn vốn liếng do Trung Cộng đầu tư vào như đập thủy điện, nhà máy giấy, nhà máy mỳ chính, nhà máy thuốc trừ sâu, nhà máy cơ khí, nhà máy đường.Từ đó kích cầu các cơ xưởng kỹ nghệ địa phương, với 854 cơ sở, với đủ các nhà máy cùng với trang bị kỹ thuật, vốn liếng xuất phát từ Trung Quốc trải dài xuống các tỉnh Cao Bằng, Lạng Sơn v.v… Người Pháp vừa xuống tàu về nước thì lại có người láng giềng đến thế chỗ. Bài hát 1000 năm đô hộ Tàu nay phải đổi lời lại như thế nào cho thích hợp? (Xem thêm Mặt Thật, Thành Tín, trang 15).

Tính chung đến thámg 7, 1955, nước anh em Trung Cộng đã giúp đỡ chính quyền mới về thực phẩm và trang thiết bị trị giá 325 triệu Mỹ Kim. Và Liên Xô là 150 triệu Mỹ kim. Không kể một vài nước anh em nhỏ khác như Tiệp Khắc, Đông Đức. (Trích Võ Nhân Trị, Croissance économique, 1967, trang 262). Sau này, trong việc quyết định “dạy cho Việt Nam một bài học”, Đặng Tiểu Bình mở chiến dịch vì cho rằng Việt Nam đã “vô ơn trước sự giúp đỡ trước đây”. Dĩ nhiên, mọi người hiểu rằng đây chỉ là một cái cớ.

Đã thế, sau chiến tranh và hòa bình đã trở lại, nhưng những viên chức cán bộ trong chính quyền mới đổ đốn ra làm việc còn nặng tính cách quan liêu, cửa quyền, bàn giấy. Họ chẳng khác gì những cán bộ trong chính quyền Xô Viết vào những năm 1925-1930. (Xem thêm Cuộc Cách mạng bị phản bội, L.Trôt-Ski, tủ sách nghiên cứu 1993, trang 12)

Đó là một thứ lạm phát chữ nghĩa do tuyên truyền cộng với lạm phát quyền lực do một thiểu số nắm giữ, lạm phát kinh tế do tham nhũng.

Tất cả các thứ lạm phát đó là một thứ thuế trực tiếp đánh trên đầu trên cổ giai cấp giới lao động và dân nghèo

Như Chế Lan Viên cuối đời thú nhận rằng, ông vẫn thường chỉ ăn bánh vẽ và tiếp tực ăn như thế. Bà Vũ Thị Thường, vợ nhà văn đã công bố bài thơ Bánh vẽ của ông có những câu như sau:

Chưa cần cầm lên nếm, anh đã biết là bánh vẽ
Thế nhưng anh vẫn ngồi vào bàn cùng bè bạn
Cầm lên nhấm nháp
Chả là nếu anh từ chối
Chúng sẽ bảo anh phá rối.

Hà Nội với nạn nhà cửa chật hẹp

Ở Hà Nội, sau 1954, ăn đã là một vấn đề nan giải, nhưng ở còn khổ bội phần. Hà Nội thời trước 1954 chỉ có hơn nửa triệu dân. Nhưng Hà Nội vẫn được coi là quá chật chội, không có chỗ ở. Những người làm phu lao động, buôn thúng bán mẹt không thể tìm một chỗ nào để trú ngụ. Đó là những người dân thường như bán hàng rong, những người buôn thúng bán mẹt, những công nhân làm vệ sinh, đổ thùng, quét đường, hốt rác. Hầu hết họ đều ở ngoại ô Hà Nội. Những nhà vườn trồng rau, trồng hoa cung cấp cho Hà Nội cũng tập trung ở khu Ngọc Hà.

Họ phải ra ngoài thành phố về phía Bắc, phía bên kia cầu Paul Doumer hay xuống phía Gò Đống đa, đường đi về Hà Đôngvv. Chỉ trừ một vài thành phần du thủ, du thực bám lấy Hà Nội bằng cách lấy các gầm cầu làm chỗ ở qua đêm.

Sáng họ vào Hà Nội, tối họ đi ra. Có những buổi sáng tinh mơ, phu đổ thùng từng đoàn nối đuôi nhau, gánh kĩu kịt những gánh phân đem theo những xú uế của Hà Nội ra ngoài và ngược chiều, những đoàn người đem vào những tốt tươi, thơm tho của đất trời như rau tươi, hoa quả. Nhất là hoa đủ loại như thể đó là lẽ tuần hoàn của trời đất.

Tôi nghĩ rằng sau 1954, sẽ không còn được trông thấy những cảnh tượng như thế nữa.
Cho nên, người Hà Nội thường là thứ “nguyên gốc”, không pha trộn. Phần đông thuộc thành phần tiểu tư sản, có ăn học. Tất cả các gia đình buôn bán của các phố Hàng Đào, Hàng Bạc, Hàng Buồm, Hàng Ngang đều ít nhiều có gốc gác, lập nghiệp lâu đời. Sau này Bà Susan Bayly có viết cuốn Asian Voices in a Post- Colonial Age, trong đó bà đi tìm lại những người Hà Nội trí thức, có truyền thống gia đình, có thể từ thời 1946-1954.

Và những người Hà Nội có một nếp sống tiểu tư sản thành thị thông qua tiếng nói và cách ăn mặc. Tiếng nói của dân Hà Nội không pha trộn, khác biệt với dân Bắc Ninh, Hải Dương, Hải Phòng và cũng khác biệt ngăn hẳn với dân ở các tỉnh miền xuôi như Phủ Lý, Nam Định, Ninh Bình và Thái Bình.

Tiếng nói người Hà Nội thanh lịch trong giọng nói và kiểu cách trong trao cách trao đổi, đối đáp, thưa gửi. Nhưng khéo quá đôi khi không tránh được tác phong phong kiến, kiêu kỳ, phỉnh phờ, không thật lòng giả dối, nịnh bợ cũng có. Nhất là những tiếng danh xưng vừa có ý trân trọng người đối thoại vừa gián tiếp tự đề cao chính mình. Chẳng hạn, khi nào thì gọi là Quan đốc? cụ đốc, cụ lớn, cậu đốc, anh đốc, chú đốc cháu, bác đốc cháu hay bác đốc nhà tôi? Cả một vấn đề, tùy theo tình huống mà có thể trở thành phức tạp, tế nhị, mát mày mát mặt, nhạy cảm, phiền toái, cầu kỳ, rắc rối, bi kịch, giận hờn, thù oán.

Nhưng đó là nếp sống văn hoá nói Hà Nội. Như một cơn bão nhỏ. Sau 1954, những chữ đó và hằng trăm chữ khác tự động biến mất.

Chữ nghĩa có cái thời của nó, thời để sống và thời để chết.

Cả một nếp sống văn hóa tiêu biểu của Hà Nội không cánh mà bay đi và không bao giờ còn như thế nữa.

Cũng kể từ 1954, một số không nhỏ, khoảng 200.000 người Hà Nội đã rời bỏ thành phố di cư vào miền Nam. Chỗ trống ấy có người lấp ngay. Phần là dân tập kết trong Nam ra. Phần bộ đội và cán bộ vào thành. Phần này là đông nhất. Trong đó không thiếu những người gốc Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh nay là cán bộ kéo vào biến tiếng nói của người Hà Nội thành ọ ẹ. Phần nữa là dân chúng bỏ nhà quê lên tỉnh.

Cho nên, nay mà nói đến dân Hà Nội chính cống, đi tìm một người nói tiếng Hà Nội gốc thì quả thật không dễ, vì họ chỉ chiếm hơn 10% dân số thủ đô. Tôi đã ra Hà Nội và chỉ có thể gặp lại những người họ hàng, bà con mới còn giữ được tiếng nói của người Hà Nội xưa. Đặc biệt là tiếng nói đó không the thé, eo éo như bây giờ.

Cho dù muốn đi tìm lại những ngưòi Hà Nội cũ đi nữa, cho dù tìm được. Họ cũng không còn là họ nữa.

Dân số Hà Nội đã tăng 3, 4 lần sau 1954. Diện tích ở của mỗi đầu người tính ra được 4, 5 mét vuông. Những căn nhà có ngõ dài hun hút, sâu chừng 4,5 chục mét là thường, ở trong các khu phố cổ là vô cùng chật chội, vì một nhà nay phải chứa thêm 4,5 hộ, có khi đến 10 hộ gia đình.

Nếu các gánh hàng rong là mặt ngoài của Hà Nội thì Ngõ là mặt trong của Hà Nội.

Ở đó có những cảnh đời tăm tối tranh nhau, chen chúc nhau từng phân tấc, từng gáo nước, dòm ngó, kèn cựa từng ly từng tý một.

Tôi không nói sai, nói thêm cho người Hà Nội. Quả tình thật là như thế. Đến như có thể nói đến một thứ sinh hoạt văn hoá Ngõ. Người ta phải dựa vào nhau để mà sống, phải nhịn nhục nhau mà sống, phải chấp nhận nhau để mà sống hết năm này qua năm khác. Có khi từ bé tới lớn, tới già. Đó là những nỗi khổ ở đời, nỗi khổ sinh ra làm người, bên cạnh cái khổ túng thiếu, nghèo đói.

Trường hợp ông Nguyễn Đăng Mạnh sau này được xum họp ở Hà Nội. Hãy nghe ông tả oán:

“Năm 1971, vợ chồng tôi mới được phân phối cho một gian nhà lá, nền đất trong một dãy nhà gọi là K2. Bốn người, hai vợ chồng, hai đứa con, có khi lại thêm bà Nhạc đến chơi, ở chen chúc trên mười mấy mét vuông. Mùa hè nóng quá, có khi phải kê giường ngủ ngoài hè. Sách vở đặt trên những xích đông làm bằng tre nứa”.

(Trích Hồi ký Nguyễn Đăng Mạnh, trang 53)

Đó là hỏa ngục trần gian thu hẹp lại.

Nhưng nếu người Hà Nội bây giờ chỉ chịu khó đi dọc con đường Hoàng Diệu sẽ nhìn thấy những căn biệt thự kín cổng cao tường dành cho các quan cán bộ cao cấp.

Nhìn những căn biệt thự uy nghi và đồ sộ ấy, chúng ta sẽ thấy rằng, sẽ không bao giờ có Thiên đường Xã Hội chủ nghĩa ở đời này.

“Các nhà chính trị ở Hà Nội thường nói đến đồng cam, đồng khổ giữa đồng chí và đồng bào, thế nhưng trong vấn đề nhà ở làm sao có thể coi là đồng cam, đồng khổ giữa một ông lớn ở nhà cao cửa rộng hàng 100, 200 mét vuông với một viên chức cán bộ trung cấp, một đại úy hay thiếu tá ở một buồng con 9 thước vuông cùng vợ và 2 hoặc ba con”… Có vị tướng có đến hai ba nhà, giữ cho vợ và con, sang tên một cách mờ ám để chiếm nhà của nhà nước…Cán bộ cao cấp có mức sống cao vượt lên cán bộ trung cấp, cho nên trên thực tế, tỉ lệ chênh lệch 1/7 trở thành 1/50, 1/100 hoặc hơn rất nhiều nữa Có lúc ông viết 1/1000… Có khi họ phải chờ đợi hàng chục năm mới được phân phối một phòng rộng hơn 4 mét vuông, 6 mét vuông sau khi đẻ 2, 3 con…”

Hệ lụy của chính sách Cải cách ruộng đất (CCRĐ) ở miền Bắc tháng 5, 1955

Bài viết này không nhẳm trình bày đầy đủ về chính sách cải cách ruộng đất, nhưng chỉ đưa ra một vài nhận xét tiêu biểu về sự sai lầm nghiêm trọng của chính sách này về mặt thực tế, pháp lý vv.

Tiêu biểu sai lầm nhất của chính sách CCRĐ là đã không tìm ra được kẻ thù đích thực là: Bọn địa chủ.

Ai là địa chủ?

Chính quyền cộng sản lúc bấy giờ chia ra 6 loại địa chủ: Địa chủ phản bội như phục vụ thực dân Pháp, địa chủ phản động tham gia đảng phái như Quốc Dân Đàng, địa chủ gian ác hà hiếp dân lao động, địa chủ kháng chiến có công với kháng chiến, địa chủ thường có từ 3 đến 5 mẫu ta, không giàu và địa chủ khác là các ông đồ nho có chút dư giả. (Trích Nông dân Bắc Việt những năm 1945-1970, Nguyễn Văn Canh, trang 19)

Phân chia ra như vậy, nhưng lúc thi hành thì lại khác.

Nạn nhân đầu tiên: Bà Nguyễn Thị Năm

Ngay đợt đầu cải cách diễn ra ở Thái Nguyên, đã có việc đánh nhầm đối tượng là bà Nguyễn Thị Năm, một địa chủ có đồn điền, có công với kháng chiến, đã từng nuôi đưỡng chứa chấp những người như Trường Chinh và Hoàng Quốc Việt. Bà lại có hai con trai tham gia kháng chiến từ đầu, có công với kháng chiến trong việc chống Pháp. Thí điếm cải cách ruộng đất đầu tiên, Pilot land reform, diễn ra ở 6 làng thuộc tỉnh Thái Nguyên từ tháng 12, 1953 đến tháng 3, 1954, Bao gồm 10.792 người trong đó có nạn nhân là bà Năm.

Trong một Hồi ký rất nên đọc, Làm người rất khó, làm người xã hội chủ nghĩa khó hơn, nguyên phó thủ tướng, ông Đoàn Duy Thành viết về vụ bắn bà Năm như sau:

Đánh một địa chủ ủng hộ kháng chiến, một địa chủ hiến ruộng, địa chủ kiêm công thuơng là ba cái sai lầm. Bắn một địa chủ là nữ, không phải là cường hào gian ác sẽ trái đạo lý thông thường của người Việt Nam. Sau này được biết, khi chuẩn bị bắn, bác Hồ can thiệp và nói đại ý: Chẳng lẽ CCRĐ không tìm được một tên địa chủ, cường hào gian ác là nam giới mà mở đầu đã phải bắn một phụ nữ địa chủ hay sao? Nhưng cán bộ thừa hành bá cáo là đã hỏi cố vấn Trung Quốc và được trả lời là:” Hổ đực hay hổ cái, đều ăn thịt người cả. Thế là đem hành hình Nguyễn Thị Năm”

Theo Thành Tín, theo luận điệu của đội CCRĐ là:

“Việc con mụ Năm đã làm chỉ là giả dối, nhằm chui sâu, leo cao vào hàng ngũ Cách Mạng để phá hoại. Hồ Chí Minh sau khi nghe Hoàng Quốc Việt chạy về bá cáo vụ bà Nguyễn Thị Năm nói: Không ổn, không thể mở đầu chiến dịch bằng cách nổ sung vào một phụ nữ và lại là một người từng nuôi cán bộ cộng sản và mẹ một chính ủy Trung đoàn quân đội nhân dân đang tại chức”.

Thế nhưng sau đó, không có gì động đậy cả, ông Hồ giữ im lặng, không can thiệp. (Trích Mặt Thật, Thành Tín, trang 38-39) Hồ Chí Minh biết việc đấu tố và tử hình bà Năm, nhưng ông đã không can thiệp gì cả. Theo nhà văn Vũ Thư Hiên trả lời một câu hỏi về trách nhiệm của Hồ Chí Minh trong chính sách này, ông trả lời: “Hồ Chí Minh phải là người trách nhiệm chính vì ông đã ký sắc lệnh Cải Cách ruộng đất, dù người thực hiện là ông Trường Chinh”.

Theo ông Hoàng Tùng xác nhận, vụ án Bà Nguyễn Thị Năm đã được bộ chính trị họp và quyết định. Riêng ông Nguyễn Minh Cần, Phó chủ tịch Hà Nội than:

Những người đứng đầu chính phủ đã từng được bà che dấu, nuôi ăn, tặng vàng, nay đang làm chủ tịch nước, Tổng Bí Thư. Ủy viên ban chấp hành, Thủ tướng, phó thủ tướng đã lạnh lùng chuẩn y một bản án tử hình như vậy. Phát súng đầu tiên của CCRĐ đó tự nói lên nhiều điều về các lãnh tụ cộng sản. Nó báo trước những tai họa không lường cho dân tộc”.

(Trích Nguyễn Minh Cần, Xin đừng quên tội ác nửa thế kỷ trước.)

Tổng kết các đợt CCRĐ theo Hồ Việt Thắng

Hồ Việt Thắng là cánh tay mặt của Trường Chinh, được cho đi học ở Trung Cộng về CCRĐ, về phương pháp đấu tố để đem về áp dụng tại Việt Nam. Có tất cả 5 đợt Cải cách và một đợt thí điểm lúc ban đầu ở Thái Nguyên.

Đợt thí điểm tiến hành trong: 6 xã và 10.792 nhân khẩu

Đợt 1: 53 xã và 109.675 nhân khẩu
Đợt 2: 210 xã và 480.563 nhân khẩu
Đợt 3: 466 xã và 1.207.294 nhân khẩu
Đợt 4: 859 xã và 2.564.105 nhân khẩu
Đợt 5: 1732 xã và 6.140.127 nhân khẩu

(Trích Nhận xét về CCRĐ, đợt 5, Hồ Việt Thắng, Talawas,30/09/2005)

Theo bảng tổng kết trên, các đợt CCRĐ đã thực hiện trên 3267 xã trên toàn miền Bắc và ảnh hưởng tới 9.512.556 người. Tức 2/3 dân số miền Bắc. Và theo Hồ Việt Thắng, có hơn 6 triệu nông dân lao động miền Bắc đã thoát khỏi cảnh lầm than, giành lại được ruộng, để vươn mình và đã thật sự làm chủ nông thôn.

Từ nay, quyền chiếm hữu ruộng đất phong kiến bị xóa bỏ vĩnh viễn.

Cũng kể từ nay, mỗi cố nông có 4 sào ruộng, mỗi bần có 4 sào 2 thưóc và mỗi trung nông có 4 sào 12 thước. (Ở miền Nam, mỗi đồng bào di cư ở vùng Cái Sắn được cấp 3000 mét vuông, tương đương 3 mẫu tây)

Và cũng theo Hồ Việt Thắng viết:

Những bần cố nông trước đây không tấc đất cắm dùi hoặc thiếu ruộng, quanh năm lĩnh canh, cày thuê cuốc mướn, sống lam lũ tối tăm, luôn luôn bị đói rét, nợ nần, roi vọt và chết chóc đe dọa, ngày nay đã nghiễm nhiên trở thành chủ nhân chính đáng của đồng ruộng”.

Kể từ nay, họ bước vào cuộc đời mới.

Những sai lầm trong CCRĐ

Chúng ta không thể căn cứ trên tài liệu chính thức của cộng sản để nêu ra được những sai lầm trong CCRĐ. Chằng hạn, tài liệu của Trường Chinh với nhan đề: Sửa sai và tiến lên. Hay là những bài tham luận viết trên báo Quân Đội Nhân dân: “Chính trong sai lầm mà nhân dân ta càng vĩ đại, đảng ta càng thêm vĩ đại” Hay bài viết của Trung Anh: Suy nghĩ về vấn đề viết về những sai lầm trong cải cách ruộng đất, báo Văn Nghệ, 16/11/1956, Lại Nguyên Ân biên soạn)

Phải chịu khó lọc để tìm ra được đôi chút sự thật như các bài viết của Trần Huy Liệu: Xét lại Hồ sơ của giai cấp địa chủ. Hay Thư của Đặng Thái Mai gửi Trường Chinh ngày 19/06/1953

Sai lầm thứ nhất: Về diện tích đất đai

Miền Bắc rộng có 63.000 dậm vuông mà đến 2/3 là núi rừng, phần còn lại là miền Trung du và châu thổ sông Hồng Hà mà trên 90% làm nông nghiệp. Có nghĩa là khoảng 13,5 triệu dân làm nghề nông.
Diện tích đất đai miền Bắc là quá hẹp, thế mà trong đó phân nửa thuộc ruộng công thổ và ruộng của giai cấp Trung nông (Trung nông không là đối tượng truy sát của Cải cách ruộng đất) Phân nửa diện tích còn lại, địa chủ chiếm bao nhiêu diện tích đất? Và trung bình mỗi điạ chủ có bao nhiêu mẫu ruộng để bị đưa ra đấu tố?

Tính số ruộng ở miền Bắc được chính người cộng sản phân phối theo tỉ lệ như sau: Thực dân chiếm 1%. Tôn giáo chiếm 1,5%, Công điền, công thổ chiếm 25%, địa chủ chiếm 24.5 %, Phú nông 7.1%, Trung nông chiếm 29%, Bần nông 10%, Cố nông1%, những người khác 0,8%. (Trích Nông dân miền Bắc, Nguyễn Văn Canh, trang 19)

Như thế, cố nông (nghèo, không ruộng, không nhà cửa, đi làm thuê, bị địa chủ bóc lột) và bần nông (khá hơn, có thể có nhà cửa, có vài sào ruộng, nghèo, phải đi cấy rẽ hoặc cấy thuê cho địa chủ) chiếm 61% dân số, nhưng tỉ lệ chiếm hữu đất đai chỉ là 11.1% trong khi đó 5% phú nông (Có từ vài ba mẫu ruộng, có trâu cầy, nhưng mỗi mùa có thể phải thuê mướn vài người đế giúp cấy, gặt) và địa chủ. (Có nhiều ruộng hơn phú nông, không tự làm lấy đuợc, phải thuê người, hay cho thuê ruộng, cho vay tiền hay thóc, sống bằng sức lao động của người khác) thì chiếm 24.5%%.

Số ruộng của phú nông và địa chủ cộng lại mới đạt 31%. Số ruộng còn lại hơn 50% là thuộc đất công điền và Trung nông. (Trung nông là những người có từ 3 mẫu ta trở xuống, tự canh tác lấy và không thuê mướn người nên không không bóc lột ai cả) Số ruộng hơn phân nửa là ruộng công điền và trung nông, có nghĩa diện tích ruộng này không do địa chủ bóc lột.

Số ruộng còn lại do địa chủ nắm giữ là 24%. Nhưng nếu căn cứ vào thành phần địa chủ ác ôn mới là đối tượng bị đấu tố? Vậy thì số ruộng lấy lại từ địa chủ loại ác ôn là bao nhiêu?

Căn cứ theo bảng thống kê của Hồ Việt Thắng thí mỗi bần cố nông nay được làm chủ vỏn vẹn có 4 sào ruộng. 4 sào ruộng này có đủ để nuôi sống một gia đình nông dân không? Có đáng làm cuộc CCRĐ với đấu tố không?

Sai lầm thứ hai: Quá tả khuynh trong việc đánh địa chủ

Ngay từ tháng 3, 1954, Trần Huy Liệu đã viết một bài về: Xét lại “Hồ sơ” của giai cấp địa chủ gửi cho Hoàng Quốc Việt, một nhân vật chủ chốt trong CCRĐ sau Trường Chinh. Trần Huy Liệu cho rằng khác với Trung Quốc, địa chủ của ta đa số là trung và bậc tiểu mà phần đông lại là thành phần yêu nước, vì vậy cần có sách lược đối xử đúng mức.
Thật vậy, ruộng ít mà đa số ruộng thuộc đất công điền và thuộc trung nông. Tự nhiên, ruộng ít thì địa chủ phải ít.

Trong khi đó, các đội cải cách được lệnh truy lùng bọn địa chủ trong các làng phải đạt chỉ tiêu là 5% địa chủ. Không có thì phảì đi “bắt rễ”, phải tự “đi tìm nghèo, hỏi khổ” cho bằng được, phải đôn, phải kích cả những thành phần phú nông đến trung nông và họ trở thành nạn nhân. Ngay cả trường hợp họ đã chết thì vợ con vẫn bị đưa ra xét sử trước tòa án nhân dân và tịch thu tài sản.

Trong Hồi ký của Nguyễn Đăng Mạnh đưa ra cùng nhận xét: “Bắt oan, giết oan hàng vạn người. Mà thật ngu xuẩn. Làm sao địa chủ lại nhiều thế? 5%? Làm sao mà Quốc Dân Đảng lại có ở khắp mọi nơi. Đúng là rập khuôn theo Trung Quốc một cách cực kỳ ngu xuẩn”. (Trích Hồi ký Nguyễn Đăng Mạnh, trang 41)

Đó là trường hợp xã Sơn Trung, huyện Tùng Thiện, tỉnh Sơn Tây, một xã có chừng 1500 hộ gia đình với 7000 dân. Xã này có 20 gia đình bị quy vào thành phần địa chủ, cường hào, gian ác (tử hình) và 30 gia đình khác bị tù, 1955. 20 gia đình trong số 1500 gia đình thì chưa đủ tiêu chuẩn 5%. Vì thế, sang 1956, các đội được lệnh phải kích một số gia đình phú nông lên thành địa chủ để đạt được 5% địa chủ (Trích Nông Dân Bắc Việt những năm 1945-1970, Nguyễn Văn Canh, trang 44).

Cũng lại theo hồi ký của Nguyễn Đăng Mạnh:

Nguyễn Đăng Mạnh
Nguồn: RFI

Nhưng riêng xã tôi thì tìm mãi không ra thằng nào gian ác đáng xử bắn. Đoàn ủy liền cử người về chấn chỉnh. Tôi nhớ anh cán bộ đoàn tập hợp toàn đội lại ở một chái nhà dân quanh một cáí cối giã gạo. Anh ta xỉ vả chúng tôi một trận thậm tệ:” Không bắn thằng nào thì quần chúng còn bị nó khống chế, đến bao giờ mới ngóc đầu lên được. Lập trường giai cấp để đâu? Hữu khuynh nghiêm trọng. Đảng nuôi cho các anh ăn để ngồi chơi à? Phải kiểm điểm nghiêm khắc, rồi đi sâu, đi sát, tìm thằng đầu xỏ để bắn.Thế là lãnh đạo đội đêm ngày tìm ra thằng đầu xỏ phản động. Họ nghĩ đến một người tên là Cớt, bí thư chi bộ đảng, và gợi ý mớm lời cho cốt cán phát hiện ra những hoạt động của bọn Quốc Dân Đảng đội lốt cộng sản. Lập tức hồ sơ tội trạng của Cớt ngày càng dày lên, và bí thư chi bộ cộng sản thành bí thư chi bộ Quốc dân đảng. Dĩ nhiên là Cớt bị bắt giam và không tránh khỏi sẽ bị xử bắn. Nhưng phúc đời cho Cớt, cuối đợt cải cách có lệnh sửa sai. Các đội được lệnh triệu tập để nghe ông Hoàng Quốc Việt về nói chuyện. Tất cả các tù nhân ở các trại giam được thả ra hết…

(Trích Hồi ký Nguyễn Đăng Mạnh, trang 41)

Đây là sự bắt chước thô bạo và thiển cậnTrung Cộng. Các địa chủ ở Trung Quốc không phải chỉ có vài chục mẫu ruộng mà có từ vài trăm lên đến vài ngàn mẫu ruộng. Dưới tay họ, có hàng ngàn nông dân làm quần quật, bị bóc lột, bị đối xử như người nô lệ. Đó là một chế độ phong kiến, địa chủ đủ tầm cỡ, đã “chín mùi” để đáng làm một Cuộc Cách mạng Cải cách ruộng đất.
Ông Nguyễn Đăng Mạnh cũng cùng nhận xét như sau:

Cải cách ruộng đất đúng là một trường hợp điển hình thô bỉ nhất của vụ cưỡng hiếp của Tàu đối với Việt Nam về chính trị và văn hóa.”

(Trích Hồi ký của Nguyẽn Đăng Mạnh, trang 42). Còn ở Việt Nam, một gia đình trung lưu có từ 10 đến 20, 30 chục mẫu ruộng thường tự canh tác, hoặc thuê mướn người quen, người cùng làng hay họ hàng. Họ tương trợ, đùm bọc nhau mà làm, có ơn nghĩa, có tình xóm làng hoặc tình nghĩa họ hàng.

Cái tương quan thuê mướn đó không thể máy móc xếp vào loại tương quan bóc lột được. Đôi khi còn mang ân nghĩa suốt đời không chả được.

Cho nên không thể mang áp đặt chế độ phong kiến, địa chủ bóc lột bên Trung Quốc áp dụng vào Việt Nam được. Chính vì thế, các đội cải cách chẳng những gặp khó khăn trong việc truy lùng địa chủ, nó còn gặp trở ngại là làm thế nào thuyết phục những nạn nhân chịu đứng ra “đấu tố” những người mà họ coi là ân nhân của mình.

Việc đấu tố trở thành màn kịch giả dối,oan uổng, ép buộc vì nhiều người “chưa đủ tiêu chuẩn” là địa chủ, hay chưa xứng đáng là địa chủ. Đấu tố như thế thí phải bịa đặt, khai gian, bịa ra nhiều điều không có thật nên phải chuẩn bị trước, phải học thuộc lòng, phải tập dượt trước.

Những người được cử ra đấu tố nạn nhân, chính họ lại trở thành nạn nhân của một màn lừa bịp trong đó con nuôi, con dâu, chú cháu, vợ lẽ muối mặt tố cáo người thân thuộc bằng những lời chứng bịa đặt.

Và trích dẫn một số nhận định sau đây đủ thấy tính tàn ác của Hồ Chí Minh như thế nào, ông Hồ tuyên bố:”Phương châm của cải cách ruộng đất là: phóng tay phát động quần chúng nông dân”. (Hồ Chí Minh toàn tập, tập 6, trang 509)

Ông Nguyễn Văn Trấn, đại biểu Quốc Hội Khóa 1 giải thích “phóng tay” của Hồ Chí Minh là cứ làm mạnh thả cửa. Ông Nguyễn Minh Cần giải thích “phóng tay” là: làm hết sức mãnh liệt, thẳng tay, không khoan nhượng, không thuơng xót, cho dù quá trớn, quá tả cũng không đáng sợ”.
Một nhận xét nữa của Hồ Chí Minh về CCRĐ như sau: Như con giun không biết nhảy, khi ta giẫm lên nó, nó cũng giẫy lên trước khi chết. Giai cấp địa chủ cũng thế. (Trích Hồ Chí Minh toàn tập, tập 7, trang, 358, Trích lại trong Nguyễn Quang Duy trong bài: Vai trò của Hồ Chí Minh trong cải cách ruộng đất, Talawas 25.1.2007)

Hay ông Hồ so sánh như thế này: Khi uốn thanh tre cong cho nó thẳng ra, phải uốn quá đi một tý và giữ lâu lâu, rồi thả tay ra thì nó mới thẳng được,” Ông Nguyễn Văn Trấn than rằng:” Trời ơi, Đảng của tôi đã nghe lời người ngoài, kéo khúc cây cong quá trớn. Nó bật lại giết chết bao nhiêu vạn sinh linh. (Nguyễn Văn Trấn, Viết cho mẹ và Quốc Hội, Văn Nghệ, USA, 1997)

Trong phim: Chúng tôi muốn sống, sau 1954, được chiếu ở miền Nam, đã gây nên những xúc động mạnh mẻ trong dân chúng về cảnh dã man của việc đấu tố ở miền Bắc. Cuốn phim diễn lại cái cảnh tượng gia đình địa chủ Nguyễn Văn Long đã có công ủng hộ kháng chiến, con trai là đại đội trưởng Vinh lập nhiều thành tích chống Pháp. Họ vẫn bị lôi ra đấu tố. Những kẻ bị ép buộc ra đấu tố ông bà Long là anh Cu Tý, chăn trâu, anh con nuôi, chị láng giềng. Ngay cả Lan, người yêu của Vinh cũng buộc ra đấu tố bố mẹ chồng. Kết quả là ông bà Nguyễn Văn Long bị kết án tử hình. Chính sách này gây ra những hậu quả tai hại là phá vỡ toàn bộ tương quan xã hội và gia đình. Tình nghĩa máu mù, ruột thịt, bà con họ hàng, tình nghĩa xóm làng không còn nữa.

Mỗi người trở thành kẻ thù của mọi người. Đó là một xã hội băng hoại và tan rã, bật gốc rễ và mất hết các giá trị cổ truyền, truyền thống trong nếp sống, nếp nghĩ ở đời.

Cuối cùng thì người nông dân vẫn là kẻ chịu thiệt thòi nhất như nhận xét của ông giáo sư Tương Lai viết: ”Nông dân Việt Nam là người chịu trên vai gánh nặng nhất của đất nước. Nhưng về sau, bản thân người nông dân lại phải chịu đựng rất nhiều thiệt thòi và ông đúc kết ra những cái thiệt thòi nhất của người nông dân là: Cống hiến nhiều nhất, hy sinh lớn nhất là thứ hai. Hưởng thụ ít nhất là thứ ba. Thứ tư là họ được giúp kém nhất. Thứ năm là họ bị đè nén thảm nhất. Thứ sáu là họ bị tước đoạt nặng nhất. Thứ bảy, họ cũng là người cam chịu nhất lâu dài nhất. Nhưng thứ tám, họ là người tha thứ cao cả nhất.”

Sau hơn 60 năm, sau cải cách ruộng đất và người cày có ruộng, xem ra Việt Nam vẫn cần tìm ra câu trả lời cho những vấn đề công bằng xã hội ở nông thôn mà quan trọng vẫn là vấn đề ruộng đất. Đất nông nghiệp nay được chuyển thành đất xây cất đô thị và công nghiệp. Người ta lấy hằng trăm hecta ruộng của nông dân và không có đến bù xứng đáng.

Bất công vẫn hoàn bất công. Người cộng sản có thể tự hào về nhiều thứ lắm. Nhưng chỉ có một điều họ không thể tự hào được là người nông dân từ hơn nửa thế kỷ này, chưa có một ngày mà họ cảm thấy mình hạnh phúc. Đến năm 1860, còn ăn độn 20%. Nhưng sang đến năm 1966, đã phải ăn độn tới 60%.

Sau những sai lầm về cải cách ruộng đất đi vào đợt 4 thì đảng quyết định sửa sai xem ra đã trể, vì đã có một số nạn nhận chết qua các các đợt cải cách. Đảng cho lệnh ngưng lại.

Nhưng chỉ không hiểu sao thời ấy cả nước từ trên xuống dưới lại ngu xuẩn đến thế?

Số nạn nhân bị giết trong cải cách ruộng đất

Thật ra không có cách nào để tìm ra con số nạn nhân đã chết trong CCRĐ. Tôi không tìm ra được số liệu đích xác về số người chết là bao nhiêu? Nhưng điều chắc chắn là tôi sẽ không bao giờ tìm ra được.

Cùng lắm, nếu chúng ta căn cứ trên tỉ lệ 5% mà chính quyền cộng sản yêu cầu, rồi căn cứ vào số xã đã được các đội cải cách đến bắt rễ và phát hiện các địa chủ. Con số khiêm tốn nhất theo thống kê nội bộ mà ông Bùi Tín tiết lộ cho biết thì có:

* Số địa chủ thường: 82.777, số bị quy sai là 51.480 người. Tỉ lệ sai là: 62%

* Số địa chủ kháng chiến: 586. Số quy sai là: 290, tỉ lệ sai là: 49%

* Số địa chủ cường hào ác bá là: 26.453. Số bị quy sai là: 20.493, tỷ lệ sai: 77%.

Như vậy là có hơn 80 ngàn gia đình địa chủ bị bắt bớ hành hạ. Mỗi gia đình lại có trung bình 4,5 người liên quan nên số bị nạn lên đến trên 400 ngàn người. Họ mất nhà, mất tiền của… một số tự sát… Nếu còn sống cũng đói khổ, ốm đau, suy kiệt. Nhiều gia đình bị tan vỡ, con cái thất học, bơ vơ. Chưa kể 84.000 đảng viên bị xử trí, bị tù, bị tra tấn. (Trích Bùi Tín, Nhìn lại cuộc cải cách ruộng đất, Talawas1.11.2006).

Món nợ này đảng cộng sản trả bao giờ cho hết?

Và còn phải nói tới mối liên hệ gia đình như vợ con, anh em bà con, dòng họ. Tất cả những người còn sống có mối liên hệ huyết thống với tên địa chủ bị loại trừ khỏi làng xã. Họ không được học hành, bi khinh miệt, tẩy chay trong việc lấy vợ, lấy chồng. Biết bao nỗi khổ và nỗi nhục chồng chất đến đời con cháu. Như lời nhận định của Hồ Việt Thắng:” Đối với các chính sách của Đảng và chính phủ, vì không phổ biến sâu rộng trong nhân dân và địch cố xuyên tạc phá hoại, nên quần chúng cũng có nhiều thắc mắc. Đồng bào công giáo thì lo mất cha, mất đạo. Người trước đi làm ngụy quân, nguỵ quyền hoặc có tên trong các tổ chức khác của địch, thì sợ bị trừng trị. Nhà có người đi Nam sợ “bị liên lụy”. Rất nhiều người sợ bị liên quan với địa chủ, đế quyốc và phản động”. (Trích Hồ Việt Thắng, Nhận xét vế cải cách ruộng đất, đợt 5, trích Talawas,30/09/2005)

Nạn nhân “bất đắc dĩ” của CCRĐ

Anh “Nhân” hay anh “Thận”, bí danh của Trường Chinh là người mông muội, sùng bái “Mặt trời Phương Đông”, đọc thuộc lòng tư tưởng Tri Cửu Chiến hay Tân Dân Chủ Luận của Tàu đến mê muội quá mức. Ông là người đã đứng ra phát động chiến dịch cải cách ruộng đất vào tháng 11, 1953 với phụ tá là Hồ Việt Thắng. Thắng là người được đưa sang Trung cộng học về Cải cách ruộng đất, học phương pháp đấu tố rồi về áp dụng ở Việt Nam. Họ chỉ biết học thuộc lòng, cưỡng hiếp oan uổng thực tế Việt Nam bằng bạo lực duy ý chí sao cho phù hợp với sách vở giáo điều. Trường Chinh trước sau cũng chỉ là con vật tế thần của Hồ Chí Minh. Do những sai lầm quá lớn của CCRĐ cũng như số nạn nhân bị giết trong cải cách đã dẫn đến việc Trường Chinh bị mất chức Tổng Bí Thư trong kỳ Hội thứ 10 của ban chấp hành trung ương đảng Lao Động Việt Nam.

Hoàng Quốc Việt Lê Văn Lương bị loại ra khỏi bộ Chính Trị. Hồ Viết Thắng ra khỏi Ban chấp hành Trung Ương.

Tội của bọn họ như thế mà chi bị mất chức thì kể là quá nhẹ.

(Từ phải) Hồ Chí Minh, Nguyễn Chí Thanh, Trường Chinh (học trò xuất sắc của Hồ Chí Minh), Phạm Văn Đồng tại Việt Bắc
Nguồn: Trích Đề cương tuyên truyền Kỷ niệm 100 năm ngày sinh Trường Chinh của Ban Tư tưởng – Văn hóa TW

Một người không phải địa chủ, không ruộng nương, không bóc lột ai, nhưng trở thành nạn nhân cuối cùng của CCRĐ là một trí thức. Người dám đứng ra sửa sai đảng là luật sư Nguyễn Mạnh Tường trong bài Tham luận đọc tại Hội nghị Mặt Trận Trung Ương ngày 30/10/1956, tại Hà Nội. Bài chỉ đúng 4 trang rưỡi giấy ấy đòi phải đặt pháp lý hoá trong những vụ xử án. Kết quả ông đã không đòi được những điều ông không thể đòi: 40 năm còn lại, ông bị trù dập và “ngồi chơi xơi nước”. Ông bị trù ếm lâu nhất so với bất cứ loại địa chủ nào chỉ vì muốn đứng về phía lẽ phải, pháp luật. Ông chỉ quên một điều: Đảng vĩ đại nhất ngay cả trong những sai lầm của họ.

Người miền Nam có thể không biết, hoặc biết mà không nhớ là vào thời điểm 1955-56, bên bờ phía Nam của sông Bến Hải, chính quyên ông Diệm có căng một tấm biểu ngữ lớn ghi mấy câu cho người phía bên, phía Cửa Tùng, Vĩnh Linh đọc: Ở đâu con tố cha, vợ tố chồng?

Chính sách Hợp tác hoá nông nghiệp và những hậu quả của nó

Người nông dân như bần cố nông vừa mới được hưởng ân huệ 4 sào ruộng vì người cầy có ruộng thì nay nhà nước đưa ra chính sách Hợp tác hoá nông nghiệp. Việc sửa sai CCRĐ chưa xong, nhà nước đã ép nông dân đi vào đường tập thể hóa nông nghiệ theo đường hướng của Stalie và Mao Trạch Đông. Nông dân từ nay phải làm việc tập thể. Theo nguyên tắc: có làm mới có ăn, dưới sự lãnh đạo và theo kế hoạch của nhà nước. Nông dân sẽ bị tập thể hóa từ bậc th lên trên, từ xã lên toàn xã theo kiểu công xã nhân dân Trung Quốc.

95% diện tích đất đai từ nay trở thành của HTX, 5% còn lại để cho nông dân tự canh tác lấy.

Mãi cho đến năm 1986, HTX mới bị giải thể. Từ đó nông dân được tự do sản xuất trên ruộng đất của mình. Ngay đó năng xuất gạo tăng vọt đến có thể dư thừa, sau đó, xuất cảng gạo trên thị trường thế giới.

Từ nay, người dân phải làm đơn để hiến số ruộng mình có, hiến nông cụ, trâu bò của mình cho HTX. Sự bồi hoàn tính ra thành những phần hùn, những ngày công được giảm. Nhưng giả dụ có đi ra khỏi HTX thì không được quyền lấy lại.

Việc làm của xã viên được tính theo công điểm. Thóc của Hợp tác xã làm ra được quy định là nghĩa vụ lương thực đối với nhà nước.

Thực tế trước mặt

Tư lợi vẫn là yếu tố thúc đẩy một quá trình sản xuất. Khì không còn tư lợi, sản xuất sẽ bị trì trệ, ít còn trách nhiệm. Làm cho mình thì người ta có thể sẵn sang hy sinh công sức, ngày giờ, tiền Nhưng khôn ai dại gì bỏ công sức ra làm việc cho HTX, vì chẳng được thêm bổng ra ngoài. Người ấy nhất định nhảy xuống ruộng vá bò ruộng làm thoát nước. Nhưng nếu đấy là ruộng HTX thì người ấy có chịu lảm như vậy không? Chắc là không?

Điều đó cắt nghĩa được HTX tại sao ít năng xuất, tại sao thu hoạch kém, tại sao không bao giờ đạt được đúng chỉ tiêu? Và tại sao thất thu, tại sao cả nước vẫn chưa khá lên được?
Đất nước vẫn chưa ra khỏi cảnh nghèo túng, lạc hậu, vẫn chưa xoá được đói, giảm được nghèo suốt từ 1954 đến 1985.

Khi có nạn thiếu hụt lương thực thì người nông dân có thói quen dự trữ gạo cho họ. Một thứ Self-protection đồng thời họ còn hy vọng kiếm lợi nhuận qua số lúa gạo dự trữ thặng dư. Phần chính quyền mới, không tận thu được, chỉ thu đạt được 82.2% mục tiêu mà họ đề ra. Nhiều tỉnh còn tệ hơn nữa, chỉ thu được 60% như các tỉnh Kiến An, Quảng Bình, hoặc thu chưa được một nửa như các tỉnh Hải Phòng.

Chính quyền mới nghĩ đến việc ép dân vào các tổ hợp lao động (collective labour) với các Hợp Tác Xã mà mục tiêu nhằm tới là giới nông dân. Nhưng đã hẳn công việc hợp tác hóa đã không đạt được yêu cầu như mong đợi của chính quyền Cộng Sản. Trường Chinh chủ trương phải làm thế nào đưa được 70 đến 75% nông dân vào các Hợp tác xã, nhất là tầng lớp nông dân trung lưu. Theo như nhận xét của Ken Post như sau:

The last point strongly indicates that peasants were not settling easily in to the new organizations. This was bound to become worse as the officially estimated 30 percent of “ordinary” and “upper, middle” were enrolled. (Trích Revolution, Socialism and Nationalism in Viet Nam. Volume 2, Ken Post, trang 258).

Phần những người sống ở thành thị như công chức, bộ đội, công an, cán bộ, nhất là cấp cán bộ lãnh đạo cao cấp vốn không sản xuất ra lúa gạo thì cần tỗ chức sổ gạo, chế độ tem phiếu để có thể phân phối thực phẩm đến tay họ. Xã hội từ nay bị phân hóa ra nhiều thành phần, nhiều cấp bậc như thời phong kiến, măc dầu không còn có vua. Chênh lệch xã hội ngày càng lớn. Kẻ có vây cánh và thần thế chiếm giữ đặc quyền. Nhiều tầng lớp nhân dân bất mãn với chế độ như trong Ký 54-55 của Trần Dần đã ghi lại.

Chế độ sổ gạo và tem phiếu đã gây ra không biết bao nhiêu bất công, phiền nhiễu, mất thì giờ và cảnh khổ chờ đợi cũng như phẩm chất yếu kém của các món hàng do Hợp Tác Xã bán ra. Dân gian có thói quen gọi XHCN là Xếp hàng cả ngày chắc hẳn là đúng.

Tiêu chuẩn gạo cho quân đội là 18 kí lô/một tháng, người lớn là 13 kílô/tháng. Học sinh 14 ki lô/ tháng. Gạo như thế trở thành món ăn chính. Với số lượng gạo trên, ăn dè mới đủ. Nhiếu nhà, đến ngày 20 mỗi tháng là trong nhà không còn gạo mà ăn nữa. Tiêu chuẩn gạo phân phối như thế đối với một thiếu niên mới lớn thật không cách nào đủ được. Ai cũng phải ăn cả. Không lẽ quân đội thì được ăn nhiều và đầy đủ hơn một người dân thường?

Chưa kể là mua về phải gạo xấu, gạo mốc, gạo mọt, gạo xen cám, xen tấm, xen trấu. Mua về phải sàng lại, phải đãi lọc. Ai trách nhiệm về phẩm chất gạo đây? Kêu ai đây? Trong khi đó, muốn ăn gạo ngon thì cỡ nào cũng có, giá nào cũng có với điều kiện phải mua chợ đen.

Chưa kể là phải chen chúc, cãi cọ, phải chờ đợi, xếp hàng từ 3, 4 giờ sáng để khi cửa hàng mở thì được mua trước. Con cái, vợ chồng phải dạy sớm, thức đêm thức hôm, chầu chực.

Tình cảnh ấy, không thiếu người đã trải qua và cảm nhận được cái vô lý đến phẫn hận của đời sống trong Xã hội chủ nghĩa.

Xin dẫn một chứng từ của ông Nguyễn Đăng Mạnh:

“Ngày 30/04/1975, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Đây là những ngày rất vui. Tuy nhiên về đời sống vật chất thì vẫn khổ, có khi còn khổ hơn cả thời kỳ chiến tranh. Vẫn cơm độn mì hay bo bo. Vẫn xếp hàng chầu chực từ rất sớm để mua gạo mậu dịch. Mì để lâu bị mọt, sinh ra dòi bọ. Tôi đã thấy một lần như thế trong bát cơm của mình. Sợ quá… Làm gì cũng phải xếp hàng, phải chầu chực. Quyền thế nhất lúc bây giờ là bà chủ kho gạo, là cô hàng mậu dịch. Đây là lúc Hoàng Ngọc Hiến từng phát biểu một câu rất tội: Đi đường thấy một xu ai đánh rơi cũng phải nhặt. Kiếm đâu ra một xu bây giờ”.

(TríchHồi ký Nguyễn Đăng Mạnh, trang 55)

Gần đây nhất, tôi có trong tay tờ Công An, thành phố Hồ Chí Minh, bộ mới, số 164, số ra ngày 21/05/2005. ngay trang nhất, tờ báo cho in một câu: Hộ Khẩu. Chưa thể bỏ.

Đã nửa thế kỷ, người dân Việt Nam vẫn còn chịu cảnh sống dưới chế độ Hộ Khẩu.

Có lẽ nhà báo Bùi Tín là người hiểu rõ tất cả guồng máy chính trị cũng như những lắt léo, lạm dụng của cán bộ lãnh đạo cộng sản. Những tiết lộ sau đây của ông Bùi Tín là những tiết lộ “động trời” mà người dân thuờng không bao giờ biết được.

Gạo cho các vị đã có cửa hàng gạo riêng ở đường Ngô Quyền, cùng đường với tòa nhà Bắc bộ phủ cũ cung cấp. Gạo ở đây là gạo hảo hạng. Thành ủy Hà Nội đã giao cho hai hợp tác xã ờ hai huyện Quốc Oai và huyện Từ Liêm dành riêng ra 100 hedta cấy lúa dự và tám thơm cho các “cụ”. Các thửa ruộng đặc biệt này được được chăm sóc và quản lý đặc biệt, cứ như ruộng để lấy gạo tế trời và để vua “ngự” thời trước vậy.

Các thửa ruộng ấy đều được giữ giống lúa thuần chủng, không xen lẫn với các thứ lúa khác, được chăm sóc đạc biệt, không dung thuốc trừ sâu”.

(Trích Mặt Thật, Thành Tín, trang 265)

Đời sống trong chế độ xã hội chủ nghĩa là như thế. Người ta nói về nó quá nhiều rồi. Vậy mà nó vẫn tồn tại. Cho nên, muốn giữ cho xã hội khỏi bất mãn, khỏi nổi loạn, nhà nước đã xây dựng một bộ máy công an, một nhà nước chuyên chế và cứ thế, một chính quyền độc đoán đã hình thành. Cho mãi đến bây giờ, bộ máy chính quyền quan liêu phong kiến của chính quyền Hà Nội vẫn lội bì bõm trong ảo tưởng một thứ chủ nghĩa xã hội mà thực tế, họ chưa bao giờ thực hiện được lấy một lần. Đã hơn thế nửa thế kỷ trôi qua kể từ năm 1954, họ vẫn không ngừng hô to tiến lên, tiến lên chủ nghĩa xã hội bất kể bảng chỉ đường của thế giới nói chung tiến về đâu? Và hơn nữa, bất kể phần lớn các nước cộng sản đẵ khước từ nhãn hiệu thế giới đại đồng? Nhưng họ vẫn phải giả dối coi đó như một khúc quanh tạm thời và vẫn không ngừng đem chủ nghĩa Mác ra tuyên truyền và nay cộng thêm tư tưởng Hồ Chí Minh mà trong thực tế, không một ai trong bọn họ, từ cấp Trung Ương đến địa phương hiểu được tư tưởng đó là tư tưởng gì?

Thay một lời kết

Trung Cộng đã đi trước chính quyền cộng sản miền Bắc trong vấn đề Cải Cách ruộng đất. Họ đã trả giá. Cộng sản VN máy móc, mù quáng làm theo và vẫn chưa một lời xin lỗi các nạn nhân trong vụ CCRĐ.

Cho đến nay, 750 chục triệu người nông dân ở bên Tầu: Ruộng vẫn chưa về tay người cày. Hiện nay, bài toán của Trung Cộng hiện nay vẫn là vấn đề: ĐẤT. Phải triệt để giải quyết theo công bằng và theo pháp lý để quyền lợi đất đai của người nông dân được bảo đảm. Bảo đảm theo nghĩa có quyền sở hữu được canh tác, được cho thuê và được phép bán.

Bài toán nan giải của Việt Nam bây giờ là giải quyết vấn đề đất đai cho người nông dân khỏi bị thiệt thòi và không còn có cảnh đi khiếu kiện nữa.

Nhìn lại hơn 50 năm miền Bắc dưới chế độ cộng sản, người viết chỉ có thể thở dài và nghĩ mình còn may mắn – May mắn vì đã không phải sống dưới chế độ bạo tàn đó.
Vâng, phải nói là may mắn.


 

 

 Viết về một ngày đen tối, với một ước vọng bình minh

Ba’o Nguoi – Viet

April 7, 2024

Kathy Phạm/SGN

Tôi có ký ức tuổi thơ khá loáng thoáng và mờ nhạt về đất nước Việt Nam Cộng Hòa, tuy nhiên những ký ức ít ỏi này vẫn ở mãi trong trí nhớ của tôi cho đến ngày hôm nay.

Tôi còn nhớ rõ vào năm 1975, gần một tháng trước ngày sinh nhật lần thứ chín của tôi, má tôi dự tính mua cho tôi một cái áo mới để đi học và nấu một nồi chè đậu xanh nước dừa để mừng sinh nhật đứa con gái út lên chín tuổi.

Nhưng ngày vui đó không được thực hiện như tôi mong đợi. Lý do vì ngày đó đã xảy ra sự kiện đánh dấu một biến cố lịch sử đau thương cho đất nước và dân tộc Việt Nam: ngày 30 tháng Tư năm 1975. Từ đó cho đến hôm nay, mỗi năm đến ngày sinh nhật, riêng với cá nhân tôi, đều gợi lại những kỷ niệm buồn nhiều hơn vui.

Nhà tôi ở trong khu xóm lao động gần chợ Bàn Cờ. Ba tôi là công chức làm việc tại Phi trường Tân Sơn Nhất. Ba tôi thường xuyên nghe các đài BBC và VOA hàng đêm để biết thêm tin tức thời sự tại Việt Nam và trên thế giới.

Vì là con gái út trong bảy anh chị em, nên tôi thường đeo sát bên Ba và nằm kế bên bộ ván gỗ mỗi khi Ba nghe radio. Tôi còn nhớ rõ, mỗi khi có tình hình chiến sự sôi động tại các chiến trường, như mặt trận Quảng Trị, Huế, Kom Tum, Bình Long, An Lộc, Xuân Lộc…, thì các anh chị lớn tôi đến ngồi nghe ké tin tức cùng Ba, với vẻ mặt lo âu hiện rõ trên khuôn mặt mọi người.

Mùa Hè đỏ lửa 1972 thật sự là một biến động lớn cho gia đình tôi. Anh Hai tôi là sinh viên đang học năm thứ ba Đại Học Sư Phạm Kỹ Thuật Sài Gòn. Vì tình hình chiến sự sôi động tại các tỉnh miền Trung do Cộng quân nổi lên đánh phá, anh phải tạm ngưng việc học, theo lệnh tổng động viên lên đường gia nhập quân đội khóa 6/1972 Trường Sĩ Quan Trừ Bị Bộ Binh Thủ Đức, năm anh vừa tròn 21 tuổi.

Sau khi khóa huấn luyện kết thúc, má và ba có cho tôi đi theo dự ngày lễ tuyên thệ mãn khóa sinh viên sĩ quan của anh Hai. Tôi còn nhớ trong buổi lễ, các tân sĩ quan đứng nghiêm xếp hàng, với bộ quần áo đại lễ của quân đội thật trang trọng, đẹp và oai hùng. Các anh đứng nghiêm trang dưới lá cờ vàng ba sọc đỏ tung bay trước gió, làm lễ chào quốc ca VNCH, và đọc lời tuyên thệ trung thành với đất nước, với quốc gia dân tộc. Trong niềm tự hào và xúc động, tôi đã hát theo bài Quốc ca VNCH mà tôi đã thuộc lòng và thường xuyên cùng các bạn hát vào dịp lễ chào cờ mỗi sáng thứ Hai đầu tuần tại sân trường tiểu học.

Sau khi ra trường Bộ Binh Thủ Đức, anh Hai đã nhận tờ “Sự Vụ Lệnh” bổ nhiệm về Tiểu đoàn II thuộc Sư Đoàn Công Binh Chiến Đấu. Kể từ sau khi anh Hai vào lính, các dịp Tết của những năm 1973, 1974 và 1975, anh không bao giờ được có mặt ở nhà, giống như lời bài hát “Xuân Này Con Không Về.”

Đơn vị anh phải cắm trại 100% trong dịp Tết. Đôi lúc, khi có được 24 giờ phép về Sài Gòn thăm nhà, lúc nào anh cũng mặc bộ quần áo lính trên người, với nón sắt và cây súng lục trong bao da đeo bên thắt lưng phải, và trên cổ áo anh mỗi bên có một bông mai màu đen. Một lần tôi tò mò hỏi anh rằng: “Sao cổ áo của anh Hai có cặp bông mai đen thui vậy, em thấy người ta đeo bông mai vàng mà?”.

Anh mỉm cười nói: “Đơn vị anh xây dựng các căn cứ quân sự và các cây cầu cho xe nhà binh chạy qua để đưa chiến sĩ ra mặt trận, do làm việc ngoài trời nên bông mai phải được nhuộm đen để không bị mặt trời làm chiếu sáng và tránh bị Việt Cộng bắn lén”. Lúc đó trí óc trẻ thơ của tôi mới hiểu rằng cái bông mai đen hay vàng là có gắn liền với sự sống chết hàng ngày mà anh Hai phải đối diện.

Những khi được về phép, lúc rảnh, anh Hai thường ôm cây guitar hát lại những bài ca quen thuộc, lời lẽ của bài nhạc mà tôi vẫn còn nhớ mãi đến bây giờ, như là “Từ khi anh thôi học, lòng thương biết mấy cho vừa…”, hay “Đất biển mặn nuôi lớn khôn tôi, nên năm 21 tuổi tôi đi vào quân đội…”. Lời bài nhạc đơn giản nhưng thật thiết tha, diễn tả được hết tình cảm, tâm tư của người lính xa nhà.

Một hình ảnh nữa trong trí nhớ là tôi được Ba dẫn đi xem cuộc diễn binh nhân dịp kỷ niệm ngày Quân Lực VNCH năm 1973. Tôi nhìn thấy được hình ảnh trang nghiêm và hào hùng của từng đoàn chiến sĩ VNCH thuộc các binh chủng, trong đó có mặt anh Hai trên đoàn xe Sư Đoàn Công Binh Chiến Đấu diễn hành qua đại lộ Trần Hưng Đạo của Thủ đô Sài Gòn.

Những ngày cuối tháng 4 năm 1975, Ba tôi càng thường xuyên nghe các chương trình radio hơn, từ 7 giờ tối cho đến 11 giờ đêm, để theo sát tin tức chiến sự hàng ngày. Cho đến buổi trưa ngày 30-4-1975, cả nhà tôi đều ngồi bên chiếc radio và sau khi nghe lệnh quân lực VNCH phải buông súng, ba tôi im lặng, hai tay ôm đầu buồn bã, còn má tôi thì nước mắt chảy dài trên khuôn mặt lo âu. Đây cũng chính là lý do tại sao ngày sinh nhật của tôi đã không thể tổ chức như dự tính.

Sau biến cố 30-4-1975, vì ba tôi là công chức VNCH nên bị buộc phải đi “học tập cải tạo tại chỗ” trong vòng ba ngày. Còn anh Hai, lúc đó vừa tròn 24 tuổi, là sĩ quan thiếu úy, thì được chính quyền Việt Cộng thông báo (ma giáo) phải “Đi trình diện, và chuẩn bị lương thực trong vòng 10 ngày để tập trung “học tập cải tạo” ở vùng ngoại ô Sài Gòn.”

Còn các ông già, bà lão, phụ nữ, thanh niên, thiếu nhi cũng phải họp mỗi tuần để gọi là “học tập” đường lối, chánh sách…

Cuộc sống gia đình tôi gặp rất nhiều khó khăn, thiếu trước hụt sau. Ba tôi có lúc đi làm cho tiệm điện và có lúc thì làm cho tiệm cơ khí. Má và chị tôi phải bươn chải ra chợ bán chuối chiên, rau cải, để phụ nuôi sống cả gia đình. Má tôi cũng dành ra chút ít tiền để mua đường, đậu, khô mắm… để mỗi năm đi thăm nuôi anh Hai đang “học tập cải tạo” tại các trại tù Suối Máu, Hàm Tân.

Sau ba năm, vào cuối năm 1978, anh Hai được thả về với gia đình vì bị bệnh gần chết. Khi vừa từ trại tù về nhà, lập tức anh được đưa ngay vào bệnh viện Chợ Quán để chữa bệnh. Sau bốn tuần, anh Hai xuất viện về nhà, thân thể vẫn gầy gò với bộ xương biết đi. Nhìn cảnh đó làm cho dòng nước mắt của tôi tự nhiên tuôn trào.

Hơn hai năm sau, năm 1980, anh Hai quyết định đi vượt biên để thoát khỏi cảnh bị kỳ thị và phân biệt đối xử tàn tệ dưới chế độ độc tài Việt Cộng. Rất may mắn, anh đi thoát được sau hai lần vượt biên, và được định cư ở Mỹ theo diện sĩ quan quân lực VNCH. Anh vừa đi làm vừa học lại college ở San Jose, California, anh luôn giúp đỡ gia đình còn ở VN và sau đó bảo lãnh cho cả gia đình định cư tại Mỹ.

Đến nay, anh Hai không còn nữa nhưng anh đã có được hậu duệ là ba đứa con thành đạt, gồm con gái lớn và con trai kế, đều tốt nghiệp MBA cao học quản trị kinh doanh đang làm việc tại thành phố San Jose, còn đứa con trai út vừa tốt nghiệp dược sỹ năm 2019 và đang làm việc cho CVS tại Las Vegas.

Bản thân tôi, sau biến cố 30-4-1975, tôi tiếp tục đi học, nhưng phải học theo cách thức của chế độ Việt Cộng. Việt Cộng tuyên truyền nghe rất lý tưởng, nào là độc lập, tự do, ấm no, hạnh phúc, bình đẳng, giàu mạnh…, nhưng nhìn lại thực tế hoàn cảnh sống của gia đình và mọi người xung quanh, tôi thấy hoàn toàn trái ngược.

Từ những năm đầu thập niên 1980, khi bắt đầu vào học lớp 10 trường trung học Gia Long tại Sài Gòn, sau này bị Việt Cộng đổi tên là Minh Khai, tôi  bắt đầu tìm hiểu và so sánh thế nào là xã hội dân chủ và xã hội độc tài. Tôi may mắn là được nghe kể lại nhiều câu chuyện trước và sau 1975 từ ba, má, các anh chị, người thân quen và bạn bè, cộng thêm nghe tin tức từ BBC, VOA…, cho nên tôi cũng có được những nhận thức căn bản về đời sống.

Sự so sánh về xã hội dân chủ và độc tài càng được chứng minh rõ ràng, khi tôi chứng kiến sự sụp đổ của bức tường Bá Linh tại Đông Đức năm 1989 và sự sụp đổ của cái gọi là “nhà nước công nông đầu tiên của giai cấp vô sản” trên thế giới: Liên Xô – vào năm 1991.

Từ năm 1991, khi gia đình định cư tại Mỹ, tôi được học hỏi thêm nhiều về các mặt sinh hoạt xã hội tại Mỹ, tôi càng hiểu biết về sự cần thiết của hệ thống xã hội “Tam quyền phân lập”: Lập pháp, Hành Pháp, Tư Pháp, cộng thêm quyền thứ tư là tự do báo chí và ngôn luận. Sự cân bằng và phối hợp của “đệ tứ quyền” giúp cho xã hội các nước được phát triển, trong khi cộng sản luôn phủ nhận và cho rằng bốn quyền nầy chỉ là đồ trang trí ở các nước tư bản mà thôi.

Tôi tin rằng, nếu không có biến cố 30-4-1975, VNCH đã có thể phát triển ngang hàng mọi mặt về kinh tế, chính trị, văn hóa và đời sống xã hội như Nam Hàn ngày nay. Trước và sau năm 1975. Việt Cộng thường tuyên truyền rằng Nam Hàn và VNCH là “tay sai của đế quốc Mỹ” nhưng chỉ hơn 20 năm sau thì chính Việt Cộng lại ve vãn Nam Hàn để xin nhận đầu tư và viện trợ nhân đạo.

Nếu có thể đặt ra câu hỏi cho người Nam Hàn rằng: “Bạn có muốn được thống nhất đất nước Nam và Bắc Hàn theo kiểu của Bắc và Nam Việt Nam vào năm 1975 hay là theo kiểu của Đông và Tây Đức năm 1989?” thì tôi tin rằng câu trả lời sẽ hết sức nhanh gọn là chỉ muốn được theo mô hình năm 1989 của Đức mà thôi.

Hơn 46 năm, kể từ biến cố 30-4-1975, Việt Cộng vẫn gian xảo và tàn ác, dùng bạo lực để cai trị sắt máu đối với nhân dân Việt Nam. Tuy nhiên, ngọn cờ vàng ba sọc đỏ VNCH, tượng trưng cho dân chủ và tự do của người Việt Nam đã và vẫn tồn tại, vẫn tung bay trên khắp các thành phố có cộng đồng Việt Nam sinh sống tại các đất nước dân chủ, từ Âu châu đến Úc châu qua Mỹ châu.

Chúng ta luôn mong ước rằng trong một ngày không xa, VNCH với ngọn cờ chính nghĩa ấy sẽ hội tụ về quê hương Việt Nam để xây dựng một đất nước thật sự có Dân Chủ, Tự Do, Văn Minh, Pháp Quyền và toàn vẹn lãnh thổ, lãnh hải.

(Garden Grove, CA, ngày 5 tháng 4, 2021)