Nga tấn công Ukraine, phá vỡ hòa bình Châu Âu

Nga tấn công Ukraine, phá vỡ hòa bình Châu Âu

February 24, 2022

KYIV, Ukraine (NV) – Quân đội Nga từ ba hướng đánh vào Ukraine hôm Thứ Năm, 24 Tháng Hai, đồng loạt tấn công nhiều thành phố và căn cứ quân sự của quốc gia này bằng phi cơ và pháo binh, trong lúc dân chúng hốt hoảng bỏ chạy bằng xe lửa và xe hơi dân sự về khu vực phía Tây, nơi có các quốc gia thuộc khối NATO, nhất là Ba Lan.

Theo bản tin hãng thông tấn AP, chính phủ Ukraine nói rằng chiến xa và bộ binh đã tiến qua biên giới quốc gia này trong cuộc “chiến tranh toàn diện,” và có thể sẽ thay đổi trật tự chính trị địa dư thế giới.

Dân chúng Ukraine kéo đến nhà ga xe buýt để di tản khỏi thủ đô Kyiv. (Hình: Pierre Crom/Getty Images)

Khi loan báo quyết định xâm lăng lớn nhất kể từ khi quân Nga tiến vào Afghanistan năm 1979, Tổng Thống Nga Vladimir Putin bác bỏ mọi lên án và đe dọa trừng phạt kinh tế của thế giới, và còn đưa sức mạnh võ khí nguyên tử ra đe dọa. Putin nói rằng bất cứ quốc gia nào tìm cách ngăn cản “sẽ bị các hậu quả chưa từng thấy.”

Còi báo động vang rền khắp thủ đô Kyiv của Ukraine, các tiếng nổ lớn được nghe thấy ở nơi này và các thành phố khác. Người dân kéo tới các nhà ga xe lửa, cũng như sử dụng đường bộ để di tản.

Chính phủ Ukraine nói quân Nga tấn công từ ba hướng Đông, Bắc và Nam. Đến nay có hơn 40 quân nhân Ukraine thiệt mạng và hàng chục người khác bị thương.

Lính Ukraine bố trí tại khu vực Tây Bắc thủ đô Kyiv. (Hình: Daniel Leal/AFP via Getty Images)

Tổng thư ký liên minh NATO gọi cuộc tấn công là “hành động chiến tranh tàn bạo” phá vỡ hòa bình ở Châu Âu, và cùng nhiều nhà lãnh đạo thế giới lên án hành động của Nga, vốn có thể gây nhiều tổn thất nhân mạng cho thường dân, lật đổ chế độ dân chủ do dân bầu lên ở Ukraine và thay đổi tình hình an ninh sau thời Chiến Tranh Lạnh.

Cuộc chiến mới khởi sự này đã làm rúng động thị trường tài chánh thế giới, làm giá chứng khoán sụt giảm mạnh, giá dầu thô tăng cao và tạo lo sợ rằng chi phí sưởi ấm mùa Đông cùng giá thực phẩm sẽ tăng vọt.

Giá dầu thô vào sáng ngày Thứ Năm đã lên hơn $100, cao nhất kể từ năm 2014 tới nay. Trong khi đó giá cổ phiếu tại thị trường chứng khoán New York rớt hơn 700 điểm vào lúc đầu ngày.

Tổng Thống Ukraine, ông Volodymyr Zelenskyy, cắt đứt liên hệ ngoại giao với Nga và tuyên bố tình trạng thiết quân luật. Ông cũng loan báo chính phủ sẵn sàng cung cấp võ khí cho tất cả mọi công dân tình nguyện chiến đấu chống quân Nga xâm lược. (V.Giang)

Ukraine: Nga bắn hỏa tiễn vào thủ đô Kiev, chiến tranh bắt đầu

Ukraine: Nga bắn hỏa tiễn vào thủ đô Kiev, chiến tranh bắt đầu

February 23, 2022

KIEV, Ukraine (NV) – Quân đội Nga bắn hỏa tiễn vào một số thành phố của Ukraine và đổ bộ lên bờ biển phía Nam nước này hôm Thứ Năm, 24 Tháng Hai, theo giờ địa phương, giới chức và truyền thông tại thủ đô Kiev cho biết, theo Reuters.

Bộ Nội Vụ Ukraine thông báo sự xâm lăng của Nga đã bắt đầu với hàng loạt hỏa tiễn bắn vào thủ đô cùng nhiều thành phố, các phóng viên quốc tế và những nhân chứng cho biết có nghe tiếng nổ ở nhiều nơi.

Ông Vladimir Putin, tổng thống Nga, tuyên bố bắt đầu chiến dịch quân sự tại Ukraine chiều Thứ Tư, 23 Tháng Hai. (Hình: Mikhail Klimentyev/Sputnik/AFP via Getty Images)

Vụ tấn công bằng hỏa tiễn xảy ra ngay sau khi ông Vladimir Putin, tổng thống Nga, tuyên bố trên đài truyền hình nhà nước Nga là quân đội nước này tiến hành hoạt động quân sự tại Ukraine.

“Putin vừa phát động một cuộc xâm lược toàn diện vào Ukraine. Các thành phố yên bình của Ukraine đang bị tấn công,” ông Dmytro Kuleba, ngoại trưởng Ukraine, tung tin nhắn trên Twitter. “Đây là một cuộc chiến tranh xâm lược. Ukraine sẽ tự vệ và sẽ chiến thắng. Thế giới phải ngăn chặn Putin. Bây giờ là lúc phải hành động.”

Các trung tâm chỉ huy quân sự của Ukraine ở Kiev và thành phố Kharkiv ở phía Đông Bắc bị hỏa tiễn tấn công, theo một trang tin Ukraine dẫn lời một giới chức cho biết.

Quân đội Ukraine giữ trật tự trên đường phố thị trấn Novoluhanske, miền Đông Ukraine. (Hình: Aris Messinis/AFP via Getty Images)

Quân đội Nga đổ bộ vào các thành phố cảng phía Nam là Odessa và Mariupol, theo hãng Interfax Ukraine đưa tin.

Các vụ nổ cũng làm rung chuyển thành phố ly khai Donetsk ở miền Đông Ukraine và các máy bay dân sự được cảnh báo tránh xa khu vực này. 

Tổng Thống Putin cho rằng Nga không còn lựa chọn nào khác ngoài việc “tự vệ” trước những gì ông nói là các mối đe dọa đến từ Ukraine hiện đại.

“Nga không thể cảm thấy an toàn, phát triển và tồn tại với một mối đe dọa thường trực phát ra từ lãnh thổ của Ukraine hiện đại,” ông Putin nói.

“Mọi trách nhiệm đổ máu thuộc về lương tâm của chế độ cầm quyền ở Ukraine,” ông Putin, người ra lệnh cuộc tấn công Ukraine, tuyên bố.

Binh sĩ Ukraine tại tuyến phòng thủ vùng Đông Ukraine. (Hình: Aris Messinis/AFP via Getty Images)

Phạm vi đầy đủ của hoạt động quân sự của Nga chưa được rõ ràng ngay lúc này nhưng ông Putin nói: “Các kế hoạch của Nga không bao gồm việc chiếm đóng các vùng lãnh thổ của Ukraine. Chúng tôi sẽ không áp đặt bất cứ điều gì bằng vũ lực.”

Ông Putin nhắc lại quan điểm của mình rằng việc NATO mở rộng bao gồm cả Ukraine là không thể chấp nhận được và nói rằng Nga không còn lựa chọn nào khác ngoài việc tự bảo vệ mình trước những mối đe dọa đến từ Ukraine.

Chiến xa và bộ binh Nga từ Belarus tràn vào

CNN cho biết các đoạn video livestream cho thấy chiến xa và quân Nga từ Belarus vượt qua biên giới Ukraine vào lúc 6 giờ 48 phút sáng Thứ Năm.

Ông Volodymyr Zelensky, tổng thống Ukraine, ban hành lệnh thiết quân luật, kêu gọi: “Không hoảng loạn. Chúng ta là dân tộc kiên cường. Chúng ta đã sẵn sàng tất cả. Chúng ta sẽ chiến thắng bất kỳ kẻ thù nào vì tổ quốc Ukraine.” (Hình: Fabrice Coffrini/AFP via Getty Images)

Phản ứng của Ukraine

Ông Volodymyr Zelensky, tổng thống Ukraine, ban hành lệnh thiết quân luật, kêu gọi quốc dân bình tĩnh.

Ông nói: “Thưa quốc dân đồng bào, sáng nay Putin tuyên bố tiến hành chiến dịch quân sự đặc biệt ở Donbas. Người Nga đã tiến hành các cuộc tấn công vào cơ sở hạ tầng quân sự và lực lượng biên phòng của chúng ta. Đã có tiếng nổ ở nhiều thành phố của Ukraine. Tôi ra lệnh ban hành thiết quân luật trên toàn bộ lãnh thổ của đất nước. Một phút trước đây, tôi có nói chuyện với Tổng Thống Joe Biden, Mỹ đã thống nhất sự hỗ trợ quốc tế cho chúng ta. Tôi kêu gọi quốc dân hãy giữ bình tĩnh. Hãy ở yên trong nhà nếu được. Chính phủ vẫn đang hoạt động. Quân đội vẫn đang làm việc. Toàn bộ các cơ quan quốc phòng và an ninh vẫn đang làm việc.”

“Không hoảng loạn. Chúng ta là dân tộc kiên cường. Chúng ta đã sẵn sàng tất cả. Chúng ta sẽ chiến thắng bất kỳ kẻ thù nào vì tổ quốc Ukraine,” ông nhấn mạnh.

Bộ Ngoại Giao Ukraine kêu gọi: “Thế giới phải hành động ngay lập tức. Tương lai của Châu Âu và thế giới đang bị đe dọa.”

Ukraine đưa ra danh sách các việc cần làm sau đây:

1-Ban hành các biện pháp trừng phạt đối với Nga NGAY LẬP TỨC, bao gồm cả SWIFT.

2-Cô lập hoàn toàn Nga bằng mọi cách, dưới mọi hình thức.

3-Trang bị vũ khí cho Ukraine.

4-Hỗ trợ tài chính.

5-Hỗ trợ nhân đạo. (MPL) [đ.d.]

Các giám mục Ba Lan kêu gọi người đồng hương tiếp đón người tị nạn Ucraina

Giáo xứ Cần Giờ – DCCT

Các giám mục Ba Lan kêu gọi người đồng hương tiếp đón người tị nạn Ucraina

Trong bối cảnh những căng thẳng tại Ucraina ngày càng gia tăng, Đức cha Stanislaw Gądecki, Chủ tịch Hội đồng giám mục Ba Lan kêu gọi người Công giáo và tất cả những người thiện chí ở Ba Lan tiếp tục cầu nguyện cho hòa bình và chuẩn bị chào đón những người tị nạn Ucraina.

Trong Lời kêu gọi đưa ra hôm 21/2/2022, Đức cha Gądecki, cũng là giám mục giáo phận Poznań, đã viết: “Mọi người đều có quyền được sống trong hòa bình và an ninh. Mọi người đều có quyền tìm kiếm điều kiện sống an toàn cho bản thân và cho những người thân yêu của họ.”

Thể hiện lòng hiếu khách cách cụ thể

Đức cha Chủ tịch Hội đồng giám mục Ba Lan nhắc rằng “trong nhiều thế kỷ, Ba Lan đã là nơi ẩn náu cho những người chạy trốn khỏi sự bách hại và thù hận, trong khi tôn trọng văn hóa và luật pháp Ba Lan”, và, cũng trong những năm gần đây, nước này đã mở cửa cho những người mới đến từ Ucraina, “những người sống giữa chúng ta, làm việc với chúng ta, cầu nguyện trong các nhà thờ Ba Lan, và học tập tại các trường học Ba Lan”.

Ngài yêu cầu rằng lòng hiếu khách đối với người tị nạn phải được thể hiện cụ thể thông qua việc hỗ trợ các tổ chức từ thiện, như Caritas Ba Lan, Caritas giáo phận và giáo xứ, và các hiệp hội khác. Ngài nói thêm rằng Caritas Ba Lan đã chuẩn bị một chương trình hỗ trợ bổ sung cho những người tị nạn từ Ucraina trong trường hợp căng thẳng và hành động quân sự leo thang hơn nữa.

Các giám mục châu Âu hoan nghênh hỗ trợ tài chính của EU đối với Ucraina

Trong khi đó, hôm 21/2/2022, các giám mục châu Âu hoan nghênh việc Liên minh châu Âu phê duyệt hoạt động hỗ trợ tài chính vĩ mô khẩn cấp trị giá 1,2 tỷ euro dưới hình thức cho vay để thúc đẩy sự ổn định ở Ucraina và tăng cường khả năng phục hồi của đất nước.

Đức Hồng y Jean-Claude Hollerich, Chủ tịch Hội đồng Giám mục châu Âu kêu gọi cộng đồng quốc tế, bao gồm cả Liên minh châu Âu, lặp lại cam kết vì hòa bình và đóng góp tích cực vào các nỗ lực đối thoại, “không phải bằng cách biểu dương vũ lực và củng cố cơ chế vũ khí, mà bằng cách tìm kiếm các cách thức sáng tạo đàm phán và dấn thân dựa trên các giá trị”.

Đức Hồng Y Hollerich tuyên bố: “Việc gia tăng những lời lẽ và hành động khiêu khích đã gây ra mối đe dọa không chỉ đối với người dân Ucraina mà còn gây nguy hiểm cho hòa bình trên toàn Lục địa châu Âu và hơn thế nữa, mang đến đau khổ và cái chết khủng khiếp cho con người, và cũng phá hủy thành quả của nhiều thế hệ trong việc xây dựng hòa bình và ổn định ở Châu Âu trong nhiều năm tới.”

Vatican News

TỘI ÁC CỦA NGA THỜI LIÊN XÔ…

TỘI ÁC CỦA NGA THỜI LIÊN XÔ…

Ukraine: Mồ chôn tập thể lớn nhất từ thời Stalin và Nạn đói Holodomor

Nơi có thể là một trong những nấm mồ tập thể lớn nhất, có từ thời Stalin, vừa được các nhà nghiên cứu xác định tại Ukraine.

Hài cốt của từ 5.000 đến 8.000 người đã được tìm thấy trong 29 nấm mộ tại thành phố Odessa ở miền nam nước này.

Địa điểm này, được cho là có từ vào khoảng cuối thập niên 1930, đã được phát hiện trong khi người ta tiến hành khảo sát theo kế hoạch nhằm mở rộng một sân bay.

Hàng trăm ngàn người Ukraine được cho là đã thiệt mạng trong thời gian Joseph Stalin cầm quyền tại Liên Xô.

Sergiy Gutsalyuk, người đứng đầu chi nhánh khu vực của Viện Tưởng niệm Quốc gia Ukraine, nói với hãng tin AFP rằng các nạn nhân nhiều khả năng đã bị giết chết bởi đơn vị cảnh sát mật Liên Xô trong thời gian cuối thập niên 1930.

Tuy nhiên, ông nói có lẽ không thể xác định được danh tính các nạn nhân, do mọi hồ sơ đều được lưu trữ tại Nga.

Theo trang web Ukrinform (08/2021) khoảng 8.600 người tại Odessa đã bị lực lượng cảnh sát mật Liên Xô kết án tử hình trong thời gian từ 1938 đến 1941.

Viện Tưởng niệm Quốc gia bước đầu nói rằng không thể ước tính được số người bị xử tử tại địa điểm này, nhưng có vẻ như đây là một trong những mồ chôn tập thể lớn nhất từng được phát hiện tại Ukraine.

Một trong các sử gia đang làm việc về khám phá này, Aleksander Babich, nói trên Facebook rằng nhiều khả năng sẽ còn có thêm nhiều hài cốt hơn so với số lượng đã được tìm thấy, do công tác khai quật vẫn chưa hoàn tất ở một số phần tại địa điểm này.

Ông nói thêm rằng có thể còn có thêm các ngôi mộ nữa ở một địa điểm gần đó, nơi hiện đang thuộc về một đơn vị quân đội.

Các nhà sử học nói rằng hàng trăm ngàn người đã bị giết chết trong thời kỳ đàn áp đẫm máu dưới thời Stalin cầm quyền, hồi thập niên 1930, với những nấm mồ tập thể khác đã được tìm thấy tại Odessa và những nơi khác của Ukraine.

Một trong những địa điểm lớn nhất là tại Bykivnia, một khu rừng nằm bên ngoài thủ đô Kiev, nơi một số người ước tính là có khoảng hơn 200 ngàn tù nhân chính trị bị xử tử rồi chôn tại đó.

Hàng triệu người Ukraine cũng đã thiệt mạng trong nạn đói dưới thời Stalin, 1932-1933, điều mà một số người tại Ukraine tin là hành động diệt chủng do nhà lãnh đạo Liên Xô thực hiện – tuy nước Nga bác bỏ.

Di sản Nạn đói diệt chủng thời Liên Xô

Hiện nay ở Kyiv có Bảo tàng Quốc gia về Nạn đói Diệt chủng (Holodomor Genocide).

Ước tính vài triệu nông dân Ukraine bị chính quyền Liên Xô bỏ đói để giết chết thời Stalin trong công cuộc cải tạo nông nghiệp, nông trang hóa năm 1932-33 nhằm xây dựng ‘chủ nghĩa xã hội’.

Sử gia Mỹ, Timothy Snyder từ ĐH Yale, người nghiên cứu về Nạn đói này, cho hay con số người chết là 3,3 triệu.

Các sử gia khác nêu con số cao hơn: 4 triệu.

Theo lệnh Stalin, cán bộ cộng sản tịch thu thực phẩm, cấm nông dân ra khỏi làng để tìm thức ăn. Ai chống lại nông trang hóa cưỡng bức sẽ bị trừng trị thẳng tay.

Người Ukraine nay gọi đây là ‘Holodomor’- bỏ đói cho chết (killing by starvation).

Một di sản của Nạn đói Diệt chủng, theo các sử gia Ukraine, là “mục tiêu dọn bớt người Ukraine” nhằm tạo không gian cho người Nga từ các vùng khác của Liên Xô sang sinh sống, mà hệ quả là số dân nói tiếng Nga tăng lên áp đảo ở nhiều vùng thuộc Ukraine cho đến năm 1991.

– Bykivnia là một địa điểm chôn tập thể nằm gần thủ đô Kiev của Ukraine. Nguồn hình ảnh, AFP

– Lễ tưởng niệm nạn nhân Holodomor ở Kyiv tháng 11/2021

Oleksandra Zaharova (right) with her young family member

Chụp lại hình ảnh. AFP via Getty Images

– Bà Oleksandra Zaharova kể lại cho cháu về nạn đói khủng khiếp thời Liên Xô

Nga chính thức xâm lược Ukraine

Nga chính thức xâm lược Ukraine

24-2-2022

Thế là Nga đã chính thức tấn công tổng lực vào các căn cứ quân sự của Ukraine trên khắp cả nước chứ không chỉ ở Donbass. Cuối cùng thì việc phương Tây “lu loa” khả năng Nga tấn công đã thành sự thật, không hiểu anh em cuồng Nga nghĩ sao về tình trạng hiện nay? Nên nhớ đây là cuộc tấn công quân sự vào tận Kiev chứ không chỉ hạn chế trong phạm vi “bảo vệ Nga kiều”. Đây chính xác là một cuộc tấn công xâm lược, không còn gì để biện bạch nữa.

Việc Ukraine gia nhập NATO không hề dễ dàng, do Đức và Pháp không ủng hộ, nhất là khi Ukraine đang có tranh chấp Crimea với Nga, cũng là vi phạm nguyên tắc kết nạp thành viên của NATO. Như vậy bản chất nguyên nhân cuộc chiến này chỉ do Nga thấy Ukraine dần tuột khỏi tay mình nên muốn “Dạy cho Ukraine một bài học”.

Kịch bản nào tiếp theo?

Động thái này mình cũng đã dự đoán. Khả năng lớn là Nga sẽ tấn công tổng lực vào các cơ quan đầu não về quân sự hòng làm tê liệt khả năng chiến đấu theo chiến tranh quy ước với Nga. Nga sẽ không chiếm đóng Ukraine nhưng không loại trừ việc kéo quân bộ sang để đánh triệt hạ hoàn toàn sức chiến đấu của Ukraine rồi nhanh chóng rút quân về củng cố vùng Donbass. Có thể phiến quân sẽ chiếm giữ toàn bộ Donbass (hiện chỉ chiếm được khoảng 1/3), dưới sự BẢO HỘ của Nga.

Khả năng Nga dựng được một Chính phủ thân Nga trên toàn nước Ukraine kiểu như Việt Nam đã làm ở Campuchia là rất thấp.

Người Ukraine sẽ không cô đơn, dân ba nước Baltic, Ba Lan thậm chí có thể cả một số nước Đông Âu khác có thể sẽ hỗ trợ nhân lực cho Ukraine. NATO sẽ bơm mạnh vũ khí. Cuộc chiến các ác liệt thì Nga càng sa lầy và trở nên bị cô lập và Ukraine sẽ càng được sự ủng hộ quốc tế.

Khả năng NATO can thiệp trực tiếp là rất thấp vì lo ngại chiến tranh hạt nhân. Đối đầu tổng lực với Nga là điều dại dột, nhưng cuộc chiến du kích dài ngày chắc chắn sẽ làm Nga thất bại.

Thỏa thuận của cường quốc và bài học cho Việt Nam (Phần 2)

Thỏa thuận của cường quốc và bài học cho Việt Nam (Phần 2)

 Bởi  AdminTD

23-2-2022

Tiếp theo Phần 1

II. LÝ LẼ KẺ MẠNH VÀ THÔNG ĐIỆP MANG TÍNH “TỐI HẬU THƯ” CỦA ÔNG PUTIN

Ngày 22/2/2022 Tổng thư ký Liên hợp quốc, ông Antonio Guterres đã khẳng định, nhóm lính Nga được triển khai ở miền Đông Ukraine không phải là “lực lượng gìn giữ hoà bình” như Matxcova tuyên bố.

Thực ra, từ khi ông Putin xâm chiếm và sát nhập Crimea tháng 2 năm 2014, là bắt đầu một cuộc chiến tranh không tuyên bố giữa Nga và Ukraine. Dân quân hai vùng Donetsk và Lugansk không thể chống lại được quân đội Ukraine. Lực lượng chủ chốt và vũ khí tại Donetsk và Lugansk là của Nga.

Với việc sát nhập Crimea và công khai đưa quân vào Donbass, chiếm 2 vùng lãnh thổ Donetsk và Lugansk của Ukraine, ông Putin đã vi phạm luật pháp quốc tế về biên giới hiện hành, không đếm xỉa đến chữ ký của tiền nhiệm trong Bản ghi nhớ Budapest về đảm bảo toàn vẹn lãnh thổ Ukraine, chối bỏ ngay cả thoả thuận của chính ông Putin về tôn trọng đường biên giới hiện hành của Ukraine trong thoả thuận Minsk.

Các đế chế xuất hiện rồi tan biến. Nếu nói rằng Crimea và miền Đông Ukraine là lãnh thổ trước đây của Nga, nay lấy lại, thì Mông Cổ sẽ đòi lại phần lớn lãnh thổ LB Nga (bao gồm Matxcova), Đông Âu và các lãnh thổ khác với diện tích lên đến 24 triệu km2; Trung Quốc sẽ đòi lại 600.000 km2 vùng viễn đông của LB Nga bao gồm Vladivostok; Người da đỏ sẽ đòi lại châu Mỹ; Anh sẽ đòi lại 35% lãnh thổ thế giới… cả thế giới không thể vẽ lại được bản đồ. Lý luận “lãnh thổ trước đây” nay tiến hành chiến tranh lấy lại là lý luận bất chấp luật pháp quốc tế, là lý lẽ của kẻ mạnh.

Ông Eltsin, tiếp theo là ông Putin, đã đàn áp bằng được sự đòi độc lập của dân tộc Cherchen cộng hoà Chechnia qua hai cuộc chiến tranh đẫm máu hoang tàn 12/1994 – 8/1996 và 8/199 – 5/2000. Nhưng ông Putin lại ủng hộ và dưỡng sinh những nước “cộng hoà độc lập” trong lòng Grudia và Ukraine. Những người điếc cũng nghe được tiếng súng mà nhận ra “lẽ phải thuộc về kẻ mạnh” của các hoàng đế xâm lược và các bạo chúa độc tài.

Ông Putin tập trung khoảng 190.000 quân tại biên giới Ukraine không phải chỉ để tập trận, không phải để đe doạ, mà để hành động. Một bộ phận trong số đó đã được bố trí ngập tràn ở Donetsk và Lugansk. Hôm 22/2/2022 ông Putin đã không ngần ngại gửi một thông điệp mang tính “tối hậu thư” cho Ukraine và Phương Tây để tránh chiến tranh, với 4 điểm mấu chốt:

Điều gì nên xảy ra để, theo quan điểm của chúng tôi, tình hình được xem xét giải quyết theo quan điểm lịch sử lâu dài, để chúng ta có thể sống trong hòa bình, không để xảy ra bất kỳ cuộc xung đột nào, đặc biệt là những cuộc xung đột vũ trang”, ông Putin nói.

Trước tiên, theo ông, mọi người nên công nhận Crimea bị chiếm đóng là của Nga. Thứ hai, Ukraine phải tự nguyện từ bỏ tư cách thành viên NATO. Thứ ba, “giải quyết vấn đề Donbass thông qua các cuộc đàm phán và thực hiện các thỏa thuận Minsk”, nhưng điều này, theo Putin, “đã không còn phù hợp”.

“Và cuối cùng, điều quan trọng nhất, điều thứ 4. Mọi thứ đã nói ở trên có thể được lật ngược trong một giây nếu những người được gọi là đối tác của chúng tôi bơm cho chính quyền Kiev những loại vũ khí hiện đại. Do đó, điểm quan trọng nhất là mức độ nhất định về việc phi quân sự hóa Ukraine ngày nay”.

Bốn điều kiện mà ông Putin đưa ra, Ukraine khó mà chấp nhận, nguyên tắc nhất là toàn vẹn lãnh thổ. Và như ông Putin đe doạ “mọi thứ đã nói ở trên có thể được lật ngược trong một giây”.

Ai cũng biết, NATO không bao giờ dám gây chiến tranh với Nga, tổng thống Mỹ cũng đã tuyên bố rõ ràng như vậy. Trong trường hợp Nga tấn công Ukraine, Anh, Mỹ đều công khai tuyên bố không mang quân trợ giúp, chẳng những thế các nước Phương Tây đã sơ tán cả nhân viên ngoại giao và cảnh báo công dân của họ rời khỏi Ukraine. Còn Ukraine thì không bao giờ có thể đe doạ hay tấn công được Nga. Nhưng điều 4 đã cho thấy ông Putin lo sợ Ukraine có vũ khí hiện đại. Ông muốn Ukraine không có được khả năng quân sự đủ để cầm cự được sự tấn công chớp nhoáng của Nga. Và như vậy, Ukraine luôn nằm trong thế thần phục ông Putin.

Từ năm 1991, sau khi Liên Xô tan rã, Ukraine đã chung sống với LB Nga mà không hề có ý định gia nhập NATO. Ý định gia nhập NATO chỉ xuất hiện sau khi ông Putin xâm chiếm Crimea và sát nhập vào LB Nga năm 2014. Chính ông Putin đã đẩy Ukraine vào thế phải tìm kiếm NATO để bảo vệ lãnh thổ.

Nhưng thực chất, vấn đề Ukraine chưa bao giờ được nằm trên bàn NATO để thảo luận. Có hai điều khoản của NATO mà Ukraine khó vượt qua. Một là, NATO không kết nạp các thành viên đang có tranh chấp lãnh thổ. Hai là, chỉ cần một nước trong NATO phủ quyết là không được thông qua. Không ít các thành viên trong NATO không chấp nhận Ukraine vì quan hệ với Nga.

Nhưng bây giờ, khi ông Putin công khai đưa quân vào Donbass, thì khát vọng gia nhập NATO của Ukraine còn lớn hơn, và vấn đề gia nhập NATO của Ukraine có thể ở một tình thế khác.

Còn nói về tên lửa của NATO, thì ba nước Ban-tích thành viên NATO là Litva, Latvia, Estonia nằm cạnh Saint Petersburg, gần Matxcova như Kiev. Tất cả các lý do đưa ra đều là lý lẽ của kẻ mạnh.

III. TUYÊN BỐ CỦA TỔNG THỐNG UKRAINE ZELENSKY

Sau phát biểu mang tính “tối hậu thư” của ông Putin, vào lúc 22 giờ ngày 22/2/2022, Tổng thống Ukraine Zelensky đã có bài phát biểu dưới đây.

“Dân tộc tự do của đất nước tự do!

Tôi đã hứa rằng chúng ta sẽ thường xuyên trao đổi với nhau, và quan trọng nhất là trao đổi một cách thành thật.

Hiện giờ là 22h, giờ Kiev. Như đã hứa, tôi xin được báo cáo lại tất cả các hoạt động của chúng tôi một cách rõ ràng để các bạn hiểu chính xác những gì đang diễn ra ở Ukraine và cả ở ngoài biên giới của chúng ta.

Ngày hôm qua, Liên bang Nga đã công nhận độc lập cho những thực thể hình thành tại khu vực bị chiếm đóng trên lãnh thổ Ukraine. Ngày hôm nay họ đã phê chuẩn cái gọi là “Thỏa thuận” và cho phép tổng thống Nga có thể sử dụng quân đội ở nước ngoài, nghĩa là ở Donbas, thuộc lãnh thổ Ukraine. Bằng vào việc đó, họ chính thức thay lời dối trá “chúng tôi không có ở đó” bằng “Dù sao chúng tôi vẫn ở đây”. Quyết định này được tất cả họ đồng thuận. Như thế là đã rõ, ai là bên muốn hòa bình trên trái đất này, còn ai là bên muốn chia chác lại đất đai.

Với quyết định này của họ, trên thực tế Nga đã rời bỏ mọi thỏa thuận Minsk, thỏa thuận mà theo lời của họ là không có gì có thể thay thế. Còn đối với cá nhân tôi, kết thúc chiến tranh mới không thể khác được chứ không phải là cơ sở hay định dạng để đàm phán. Vì vậy, tôi sẵn sàng đàm phán cả ở các cuộc đàm phán song phương lẫn các cuộc đàm phán có sự tham gia của các nhà lãnh đạo khác. Nhưng tôi xin nhấn mạnh rằng, đối với tôi, điều quan trọng nhất là chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ.

Trước tiên, chúng tôi đã đề nghị tổ chức Hội nghị thượng đỉnh các thành viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hiệp quốc với sự tham gia của Ukraine, Thổ Nhĩ Kỳ và Đức. Phần lớn các thành viên tham gia Hội nghị thượng đỉnh đều ủng hộ sáng kiến này, trong đó có tổng thống Thổ Nhĩ Kỳ Recep Erdogan.

Đồng thời các đối tác của Ukraine cũng cho thấy rõ, không còn con đường nào khác ngoài việc áp dụng các chế tài đối với Liên bang Nga. Tổng thống Mỹ Joe Biden đã thông qua các chế tài đối với những thực thể khủng bố LDNR, còn Anh quốc đã công bố các chế tài khác đối với các ngân hàng và các tài phiệt thân hữu. Phía Đức cũng đình chỉ việc cấp phép đường ống dẫn khí “Dòng chảy phương bắc -2”. Cannada cũng cho biết, sẽ áp dụng chế tài với Liên bang Nga vì sự vi phạm trắng trợn toàn vẹn lãnh thổ Ukraine.

Tôi cũng xin cảm ơn mọi giúp đỡ tài chính từ Mỹ, Canada, Anh, Pháp, Nhật và Ngân hàng thế giới. Đây là những nguồn tài chính để bảo đảm sự vững vàng cho nền kinh tế Ukraine.

Liên quan đến an ninh và quốc phòng.

Cho đến hôm nay, việc tổng động viên trên toàn quốc là chưa cần thiết. Hiện tại, chúng ta chỉ cần tích cực hoàn thiện quân đội và các tổ chức quân sự khác.

Với tư cách là Tư lệnh tối cao của các lực lượng vũ trang Ukraine, tôi ban hành lệnh triệu tập quân số dự bị trong giai đoạn đặc biệt. Xin nhấn mạnh, chỉ những người thuộc lực lượng dự bị chiến đấu liên quan đến sắc lệnh này. Chúng ta cần nâng cao tính sẵn sàng chiến đấu cho quân đội trong mọi bối cảnh. Trong những ngày tới, sẽ tổ chức tập huấn quân sự cho các lực lượng dự bị ở địa phương.

Chúng ta cũng cần làm việc và đóng góp cho nền kinh tế Ukraine để có thể bảo đảm một quân đội vững mạnh. Người yêu nước không chỉ là những người chiến đấu với kẻ thù bảo vệ quê hương, mà còn là những người làm việc đóng góp vật chất và tạo ra công ăn việc làm cho đất nước. Do đó, nhà nước quyết định thực thi Chương trình kinh tế yêu nước. Đây là những ưu đãi đối với nền sản xuất nước nhà.

Mục đích chương trình kinh tế này hỗ trợ một số lĩnh vực sản xuất, giảm nhẹ gánh nặng thuế má và hạn chế thanh tra doanh nghiệp. Sự ưu đãi này nhằm thu hút nguồn lực của nhân dân đầu tư vào kinh doanh và hệ thống ngân hàng. Nhà nước cũng sẽ giảm thuế giá trị gia tăng cho xăng dầu. Mục đích của chúng ta là có một nền kinh tế độc lập, đặc biệt trong lĩnh vực năng lượng.

Đã đến lúc mọi chính trị gia đều phải trở thành nhà hoạt động chính sách. Hãy vứt bỏ mọi tham vọng cá nhân để vì lợi ích quốc gia. Tôi đã trao đổi với những người đứng đầu các đảng phái chính trị, mọi người đều hiểu rõ rằng, hiện tai, trong quốc hội chỉ cần một liên minh duy nhất – đó là liên minh quân sự: đồng lòng, đưa ra những quyết định quan trọng và nhanh chóng để có một nền kinh tế vững mạnh và nâng cao khả năng quốc phòng của đất nước. Từ hôm nay, mọi đảng phái đều đứng dưới một màu cờ – màu xanh – vàng của chúng ta.

Ngày mai, tôi sẽ gặp gỡ với 50 doanh nghiệp hàng đầu. Tất cả các doanh nghiệp này cần ở lại trong nước. Nhà máy, xí nghiệp của họ nằm trên lãnh thổ Ukraine mà quân đội chúng ta có trách nhiệm bảo vệ. Do đó, các doanh nghiệp cũng có trách nhiệm bảo vệ nền kinh tế và tạo thêm công ăn việc làm. Tất cả đồng lòng vực dậy và củng cố nền kinh tế. Mỗi người đều ở trên mặt trận của mình.

Đồng bào kính mến!

Ukraine là một dân tộc hiền lành, Chúng ta thích yên ổn. Nhưng nếu hôm nay chúng ta im lặng, ngày mai chúng ta sẽ bị tiêu diệt. Chờ đợi phía trước chúng ta là những tháng ngày khó khăn, vất vả. Nhưng chúng ta đã sẵn sàng. Hãy tự tin vào bản thân. Hãy tin vào đất nước và tin vào chiến thắng!

Đừng than vãn mà hãy chiến thắng!

Vinh quang Ukraine!

Volodymyr Zelensky”

22.02.2022.

(https://www.rbc.ua/rus/news/zelenskiy-zapisal-ocherednoe-obrashchenie-1645564980.html, bản dịch của Nguyễn Hồng Giang).

Về quan điểm phía Nga, truyền thông Việt Nam đã đưa nhiều, còn quan điểm phía Ukraine thì ít được nhắc đến. Để có thêm thông tin, xin giới thiệu ý kiến của Đại biện lâm thời Ukraine tại Việt Nam, bà Natalia Zhynkina – một công dân từ Lugansk của Ukraine.

Bà Natalia Zhynkina khẳng định: “Trong mọi trường hợp, chúng tôi sẽ bảo vệ đất mẹ của mình và dựa vào sự hỗ trợ của quốc tế”.

Breaking News: Putin công nhận hai khu vực ly khai, Biden phản pháo trừng phạt kinh tế

Breaking News: Putin công nhận hai khu vực ly khai, Biden phản pháo trừng phạt kinh tế

February 21, 2022

MOSCOW, Nga (NV) – Tổng Thống Joe Biden phản ứng nhanh chóng trước việc Tổng Thống Nga Vladimir Putin tuyên bố công nhận nền độc lập của hai khu vực ly khai ở miền đông Ukraine, một hành động có thể mở màn cho một cuộc xâm lăng mà Mỹ đã cảnh báo trong suốt thời gian vừa qua.

Toà Bạch Ốc cho biết ông Biden sẽ sớm ban hành lệnh “cấm người Mỹ đầu tư, thương mại và tài chính kể cả đầu vào hoặc ra” hai khu vực Donetsk và Luhansk, nằm dưới sự kiểm soát của phe ly khai do Nga hậu thuẫn, vừa được ông Putin công nhận.

Toà Bạch Ốc cho biết Tổng Thống Joe Biden sẽ ban hành cấm vận kinh tế Donetsk và Luhansk, hai khu vực vừa được Nga công nhận độc lập. (Hình: Anna Moneymaker/Getty Images)

Bà Jen Psaki, phát ngôn viên Toà Bạch Ốc, cho biết như trên vào Thứ Hai, 21 Tháng Hai, đồng thời nói thêm rằng Washington “cũng sẽ sớm công bố các biện pháp bổ sung liên quan đến sự vi phạm trắng trợn các cam kết quốc tế của Nga hiện nay.”

“Nói rõ hơn: những biện pháp này riêng biệt và bổ sung cho các biện pháp cấm vận kinh tế một cách nhanh chóng và nghiêm ngặt mà Mỹ đã và đang chuẩn bị với sự phối hợp với đồng minh và các quốc gia đối tác nếu Nga xâm lăng Ukraine,” bà Psaki nhấn mạnh.

Ông Vladimir Putin, tổng thống Nga, cũng vào hôm Thứ Hai lên tiếng yêu cầu các nhà lập pháp nước này công nhận hai khu vực ly khai, bước đầu thiết lập cớ để mở cuộc xâm lăng Ukraine, theo NPR.

Hành động công nhận độc lập trên của ông Putin cho phép phe ly khai chính thức mời quân đội Nga vào trong vùng lãnh thổ miền Đông của Ukraine.

Trong tuyên bố của nhà lãnh đạo điện Kremlin, ông gọi tên hai vùng lãnh thổ đòi ly khai khỏi Uraine là Cộng Hoà Nhân Dân Luhanks và Cộng Hoà Nhân Dân Donetsk. Cả hai khu vực này đều là những vùng lãnh thổ tự trị bởi lực lượng ly khai do Nga hậu thuẫn ở vùng Donbas, miền Đông Ukraine, sau khi các cuộc giao tranh với chính phủ Kiev vào năm 2014.

Tổng Thống Nga Vladimir Putin. (Hình: Mikhail Klimentyev/Sputnik/AFP via Getty Images)

Tuyên bố của Nga công nhận độc lập hai vùng lãnh thổ này là một sự leo thang nghiêm trọng thủ tiêu các thoả thuận hiệp định Minsk, hồi 2015, mà nhiều người tin rằng có thể giúp tìm ra một cách ngoại giao thoát khỏi bế tắc hiện tại. 

Ông Putin đã gọi điện thoại cho Thủ Tướng Đức Olaf Scholz và Tổng Thống Pháp Emmanuel Macron hôm Thứ Hai để thông báo việc công nhận nền độc lập của Donetsk và Luhansk, theo ký giả Rob Schmitz của NPR đưa tin từ Berlin. 

Thủ Tướng Scholz tuyên bố hành động này sẽ dẫn đến vi phạm một phía các thỏa thuận Minsk, đồng thời thúc giục Putin rút quân đội Nga khỏi biên giới Ukraine để giảm căng thẳng.

Ông Boris Johnson, thủ tướng Anh, gọi quyết định của ông Putin là “một dấu hiệu cho thấy mọi thứ đang đi sai hướng ở Ukraine,” theo BBC đưa tin.

“Nước Anh sẽ tiếp tục làm mọi thứ có thể để đứng về phía người dân Ukraine, bao gồm cả việc chuẩn bị các biện pháp trừng phạt và củng cố sườn phía đông của NATO,” vị thủ tướng của Anh tuyên bố.

Trong một tuyên bố, Nga cho rằng Ukraine đang thực hiện một “cuộc diệt chủng” ở tại vùng Donbask và Tổng Thống Putin có thể cử quân đội đến để ứng cứu. 

Phía Hoa Kỳ, trong những ngày qua, đã mô tả những tuyên bố của Nga như trên báo hiệu một cuộc xâm lăng Ukraine sẽ được tiến hành bất kỳ ngày nào.

Tin tình báo Mỹ cho biết Nga tập trung tới 190,000 quân ở biên giới với Ukraine. 

Washington và các đồng minh phương Tây đã cảnh báo về các biện pháp trừng phạt nếu Nga vượt biên giới của Ukraine. (MPL)

ĐGH Phanxicô mở dành lời cầu nguyện cho thành phố của Ba Tây bị lở bùn khiến hơn 100 người chết

ĐGH Phanxicô mở dành lời cầu nguyện cho thành phố của Ba Tây bị lở bùn khiến hơn 100 người chết

Ít nhất 117 người đã thiệt mạng vì lở bùn và lũ lụt ở thành phố Petrópolis gần Rio de Janiero ở Ba Tây.

Đức Thánh Cha Phanxicô đã gửi một bức điện tới Đức Giám mục Petrópolis Gregório Paixão Neto, do Đức Hồng y Pietro Parolin, Quốc vụ khanh Vatican ký.

Ngài viết rằng Đức Giáo hoàng gửi lời chia buồn đến gia đình các nạn nhân và chia sẻ nỗi đau của tang quyến. Ngài cũng cầu chúc sự thanh thản và niềm hy vọng của người Kitô giáo cho tất cả những người bị ảnh hưởng bởi thảm họa.

Kể từ tháng Mười Hai, mưa lớn đã dẫn đến lũ lụt và lở đất chết người trên khắp Ba Tây.

Tại Petrópolis, hơn 700 người đã phải rời bỏ nhà cửa và hiện đang phải trú ẩn trong các trường học và các khu nhà tạm. Nhà chức trách cho biết hơn 100 người vẫn mất tích.

Jos. Nguyễn Minh Sơn

Tình báo Estonia: Nga có thể tấn công quân sự ‘chừng mực’ vào Ukraine

VOA Tiếng Việt

Nga đang tiếp tục điều quân đến biên giới Ukraine và có thể sẽ mở một cuộc tấn công quân sự “chừng mực” nhắm vào Ukraine, người đứng đầu Cơ quan Tình báo Nước ngoài của Estonia cho hay.

Cuộc tấn công sẽ bao gồm pháo kích bằng phi đạn và chiếm “địa hình quan trọng” tại Ukraine, ông Mikk Marran, tổng giám đốc Cơ quan Tình báo Nước ngoài Estonia, nói.

“Hiện nay, chúng tôi đánh giá là họ sẽ tránh những thành phố đông dân, vì phải mất nhiều quân để kiểm soát những khu vực này. Nhưng không biết rõ là binh sĩ Nga sẽ khai thác đường nào,” ông nói tại một cuộc họp báo.

Một khả năng khác có thể là gia tăng cường độ giao tranh tại hai vùng ly khai ở đông Ukraine mà Nga hậu thuẫn, theo tình báo Estonia. Leo thang như vậy “rất có khả năng xảy ra”, và theo cách này “Nga có thể phủ nhận chính đáng và tránh chế tài,” ông Marran nói.

“Nếu Nga thành công tại Ukraine, thì sẽ càng khuyến khích họ tăng áp lực lên vùng Baltic trong những năm tới,” ông nói. “Đe dọa chiến tranh đã trở thành công cụ chính sách chủ chốt của ông Putin.”

Tình báo Estonia biết có khoảng 10 quân đoàn chiến đấu của quân đội Nga tiến về biên giới Ukraine, nơi đã triển khai 100 quân đoàn chiến đấu Nga tức khoảng 170.000 binh sĩ, ông Marran cho hay.

Số này gồm những binh sĩ thường xuyên được triển khai tại các khu vực xung quanh Ukraine, nhưng cũng có cả các binh sĩ tại Belarus mà Nga đưa đến để tập trận gần biên giới Ukraine.

Một số binh sĩ có thể ở lại Belarus quá ngày 20/2 kết thúc cuộc tập trận, một lo ngại đáng kể cho liên minh NATO mà trong đó có các nước vùng Baltic, ông Marran nói. “Việc này sẽ giảm bớt thời gian chuẩn bị cho một cuộc tấn công vào khu vực Baltic.”

Cờ Ukraine dài 200 mét được trưng bày tại sân vận động Olympiyskiy ở Kyiv, Ukraine, nhân Ngày Đòan kết 16/2/2022.

Sử gia Harari: Hướng đi của nhân loại đang được quyết định tại Ukraina (RFI)

Sử gia Harari: Hướng đi của nhân loại đang được quyết định tại Ukraina

Đăng ngày: 13/02/2022 

Sử gia Yuval Noah Harari. © wikipedia

Trọng Thành

Những tuần lễ đầu tiên của năm 2022, khi đại dịch Covid-19 có phần tạm lắng sau 2 năm hoành hành, nhân loại lại đứng trước một đe dọa lớn mới đáng sợ hơn bội phần : Chiến tranh. Nguy cơ nước Ukraina bị xâm lăng không chỉ là đại họa với người dân của riêng quốc gia này cùng những khu vực xung quanh, mà còn đe dọa toàn bộ thành tựu của thế giới từ hơn nửa thế kỷ qua: Nền hòa bình.

Đối với sử gia nổi tiếng người Israel, Yuval Noah Harari (*), « thành tựu chính trị lớn nhất » của nhân loại trong bảy thập niên qua là « tình trạng suy tàn của chiến tranh ». Chiến tranh, chinh phạt, xâm chiếm lãnh thổ, cướp bóc tài nguyên, lấy bạo lực để bảo đảm vị thế, sự thịnh vượng, bảo đảm vinh quang, vốn từng là hoạt động hết sức phổ biến trong lịch sử nhân loại hàng ngàn năm nay. Luật Rừng, nơi mạnh được yếu thua, đã từng là nguyên tắc chủ yếu chi phối lịch sử nhân loại trong một thời gian dài. Tuy nhiên, theo sử gia Harari, trong vòng một vài thế hệ gần đây, thế giới đã chuyển sang một hướng đi hoàn toàn khác, một thay đổi triệt để. Cụ thể là một bộ phận lớn của giới tinh hoa lãnh đạo thế giới hiện nay tin tưởng là chiến tranh là « cái ác có thể tránh được ».

Cho dù chiến tranh vẫn tiếp diễn giữa một số quốc gia, trong nội bộ một số quốc gia, nhưng xu thế chung của giai đoạn lịch sử hơn nửa thế kỷ qua là nền hòa bình đã trở thành tình trạng phổ biến, và chiến tranh xâm lược ngày càng trở nên chuyện gần như không thể. Theo tác giả, « sự suy tàn của chiến tranh » không phải là kết quả của một phép màu hay sự thay đổi của các quy luật mang tính tự nhiên, mà chính là do sự lựa chọn của con người.

Yuval Noah Harari sống tại Trung Đông, một khu vực mà bạo lực chiến tranh xảy ra khá thường xuyên. Tác giả phân biệt những gì là « ngoại lệ » với xu thế chung. Theo tác giả, « nền hòa bình mới » là điều chưa từng có với nhân loại. Chiến tranh xâm lược khó xảy ra hơn hiện nay khi tri thức đã trở thành « nguồn lực chủ yếu tạo ra của cải », chứ không còn là tài nguyên thiên nhiên như trước đây. Giờ đây, bạo lực do chiến tranh khiến ít người chết hơn là tai nạn giao thông hay bệnh béo phì. Chi phí cho giáo dục, y tế, phúc lợi xã hội nhiều hơn hẳn ngân sách cho vũ trang, vốn chiếm tỉ lệ lớn nhất trong ngân sách của giới cầm quyền các thời kỳ lịch sử trước đây.

Yuval Noah Harari nhấn mạnh là « nền hòa bình mới » chưa từng có với nhân loại đang bị đe dọa: « Sự trỗi dậy của vũ khí mạng, các nền kinh tế do trí tuệ nhân tạo điều khiển và việc tái quân sự hóa nền văn hóa của chúng ta có thể mở ra một kỷ nguyên chiến tranh mới, tồi tệ hơn rất nhiều so với bất kỳ điều gì chúng ta từng biết trước đây ». Theo ông, hướng đi của nhân loại sẽ bị đảo chiều, nếu chiến tranh xâm lược bùng nổ tại Ukraina.

Tuy nhiên, nhà sử học nổi tiếng với tiếp cận lịch sử toàn cầu, xuyên nhiều thiên niên kỷ, cũng tin tưởng là chiến tranh, Luật Rừng không phải quy luật có trong tự nhiên, mà là sự lựa chọn của con người. Con người đã tạo lập được « nền hòa bình » kéo dài hơn nửa thế kỷ. Chiến tranh không phải là định mệnh, Luật Rừng không phải là luật tự nhiên. Khả năng hợp tác và xây dựng nền dân chủ có thể giúp cho nhân loại bảo vệ được hòa bình. Việc người dân Ukraina bất ngờ dựng nên nền dân chủ non trẻ, trỗi dậy lạ kỳ sau hàng thế kỷ bị đàn áp tưởng như không ngóc đầu lên được, cho thấy Ukraina có thể mang lại cho nhân loại những bài học bất ngờ.

Sau đây, xin giới thiệu với quý độc giả góc nhìn của sử gia Yuval Noah Harari trên The Economist, qua bài « Yuval Noah Harari argues that what’s at stake in Ukraine is the direction of human history » (tạm dịch là « Sử gia Harari: Hướng đi của lịch sử nhân loại đang được quyết định tại Ukraina »). Phần chuyển dịch dựa trên bản dịch tiếng Pháp trên Courrier International).

***

HƯỚNG ĐI của NHÂN LOẠI ĐANG ĐƯỢC QUYẾT ĐỊNH tại UKRAINA

Thành tựu chính trị lớn nhất của nhân loại trong bảy thập niên qua là tình trạng suy tàn của chiến tranh. Thành tựu đó hiện đang gặp nguy hiểm.

Trong tâm điểm của cuộc khủng hoảng Ukraina, có một câu hỏi căn bản liên quan đến bản chất của lịch sử và bản chất của nhân loại : Đó là thay đổi là có thể hay không thể ? Con người có thể thay đổi được ứng xử của mình ? hay lịch sử rút cục chỉ là sự lặp lại không ngừng, bởi nhân loại bị kết án mãi mãi lắp lại các bi kịch trong quá khứ, mà không có thể làm gì để thay đổi cả, có chăng chỉ là những gì không căn bản ?

Có một trường phái tư tưởng phủ nhận triệt để khả năng thay đổi của con người. Theo trường phái này, thì thế giới tuân theo Luật Rừng, nơi các loài mạnh ăn thịt các loài yếu, và sức mạnh vũ trang là phương tiện duy nhất ngăn cản một quốc gia này nuốt chửng một quốc gia khác. Lịch sử đã là như vậy, và sẽ luôn luôn tiếp tục là như vậy. Những ai không tin vào Luật Rừng sẽ không chì sống trong ảo ảnh, mà còn khiến sự tồn tại của chính mình lâm nguy. Họ sẽ không thể sống sót.

Một trường phái tư tưởng khác khẳng định rằng cái gọi là luật cạnh tranh sinh tồn đúng là rất phổ biến, nhưng lại không phải là một quy luật tự nhiên. Chính con người đã tạo ra nó, và như vậy con người có thể thay đổi nó. Ngược với những ý tưởng sai lầm đang tồn tại, theo các dấu hiệu khảo cổ học xưa nhất không thể phản bác, hoạt động chiến tranh có tổ chức chỉ xảy ra vào khoảng 13.000 năm trước Công nguyên. Và ngay cả sau niên đại này, trong nhiều khoảng thời gian dài, khó tìm thấy các dấu vết khảo cổ về chiến tranh. Ngược hẳn với « trọng lực » (một quy luật tự nhiên), chiến tranh không phải là một sức mạnh vốn có của thiên nhiên. Sự tồn tại của chiến tranh, mức độ căng thẳng của chiến tranh phụ thuộc vào các yếu tố công nghệ, kinh tế và văn hóa ngầm ẩn. Và khi các yếu tố này thay đổi thì chiến tranh cũng thay đổi.

Tri thức, nguồn lực chủ yếu sáng tạo ra của cải

Có nhiều bằng chứng cho sự thay đổi này xung quanh chúng ta. Trong vòng một vài thế hệ, vũ khí hạt nhân đã biến chiến tranh giữa các siêu cường thành một nguy cơ tự sát tập thể điên rồ. Đây là điều buộc các quốc gia hùng mạnh nhất hành tinh phải tìm ra các phương tiện ít bạo lực hơn để giải quyết các xung đột. Nếu như các cuộc chiến tranh giữa các đại cường, như kiểu Thế chiến Hai hay cuộc chiến tranh Punic lần thứ hai (từ 218 đến 201 trước Công Nguyên, tại Bắc Phi và Nam Âu, giữa Carthage và đế quốc La Mã –  người dịch bổ sung) đã từng là một đặc điểm nổi trội trong phần lớn lịch sử, thì 70 năm gần đây chưa từng chứng kiến bất cứ một xung đột trực tiếp nào giữa các đại cường.

Trong cùng một giai đoạn, nền kinh tế thế giới, trước đây vốn dựa vào các nguồn tài nguyên, nay đã chuyển hướng sang dựa vào tri thức. Trong lúc trước kia các nguồn tài nguyên chính là các tài sản vật chất, như mỏ vàng, đồng ruộng, các giếng dầu, thì giờ đây nguồn tài nguyên chính là tri thức. Mà, nếu như có thể dùng vũ lực để chiếm lĩnh các mỏ dầu, thì lại không thể làm như vậy với tri thức. Chính vì vậy, chinh phục lãnh thổ giờ đây ít mang lại lợi ích hơn.

Cuối cùng thì văn hóa thế giới đã trải qua một giai đoạn biến chuyển dữ dội. Trong lịch sử, một bộ phận lớn của giới tinh hoa – ví dụ như các thủ lĩnh của người Hun, người Viking, hay giới quý tộc La Mã – đã từng cho chiến tranh là điều tốt. Từ Sargon Đại Đế vùng Lưỡng Hà đến nhà độc tài Ý Benito Mussolini, các nhà lãnh đạo thường tìm kiếm danh tiếng bất tử thông qua các cuộc chinh phạt (…). Một số thành phần tinh hoa khác, như Giáo hội Thiên Chúa giáo, từng coi chiến tranh là cái ác không thể tránh được.

Tuy nhiên, trong vòng một vài thế hệ trở lại đây, lần đầu tiên thế giới được lãnh đạo bởi một bộ phận giới tinh hoa coi chiến tranh là một cái ác có thể tránh được. Cả các tổng thống Mỹ George W. Bush và Donald Trump, chưa kể đến những người như thủ tướng Đức Merkel và thủ tướng New Zealand Ardern. Đó là những chính trị gia khác hẳn với Attila Rợ Hung hay Alaric đệ nhất, vua của tộc Goth (tức các thủ lĩnh quân sự lừng danh châu Âu thế kỷ V – người dịch). Các chính trị gia đương đại (như Merkel nay Ardern) nhìn chung lên nắm quyền nhờ việc nuôi dưỡng niềm tin trong công chúng vào ước mơ có được các cải cách trong nước hơn là tiến hành các cuộc chinh phạt bên ngoài. Trong lúc đó, những cây đại thụ trong các lĩnh vực nghệ thuật và tư tưởng – từ danh họa Pablo Picasso đến nhà điện ảnh bậc thầy Stanley Kubrick – nổi tiếng đặc biệt là do đã mô tả sự ghê rợn phi lý của chiến tranh, hơn là tôn vinh những người gây ra chiến tranh.

Đường ăn khiến nhiều người chết hơn là thuốc súng

Tiếp theo những thay đổi như vậy, phần lớn các chính quyền đã ngừng coi các cuộc chiến tranh xâm lược, như một công cụ có thể dùng đến để bảo vệ các lợi ích của họ, và đa số các quốc gia cũng ngừng nuôi dưỡng tham vọng chinh phạt và sát nhập lãnh thổ của các láng giềng. Sẽ là sai lầm khi tin rằng lực lượng quân sự duy nhất đủ để ngăn cản Brazil chinh phục Uruguay, hoặc Tây Ban Nha xâm lược Maroc.

Các thống kê cho thấy sự suy tàn của chiến tranh không thiếu. Từ năm 1945, tương đối hiếm có việc các biên giới quốc tế bị vẽ lại do một cuộc xâm lược, và không có một quốc gia nào bị xóa sổ khỏi bản đồ do một cuộc xâm lặng từ bên ngoài. Dĩ nhiên là có nhiều loại xung đột khác, như nội chiến và nổi dậy. Tuy nhiên, ngay cả khi tính tổng cộng tất cả các nạn nhân của những cuộc chiến như vậy trong 20 năm đầu của thế kỷ XXI, bạo lực chiến tranh khiến ít người chết hơn là nạn tự sát, tai nạn giao thông hay bệnh tật liên quan đến béo phì. Giờ đây thuốc súng khiến ít người chết hơn là đường.

Tính chính xác của các số liệu này là đối tượng tranh luận trong giới khoa học, nhưng cần vượt ra khỏi chuyện này để nhắm đến câu chuyện căn bản hơn. Sự suy tàn của chiến tranh không chỉ là câu chuyện thống kê mà cũng là một hiện tượng tâm lý. Trước hết, có thể thấy có một thay đổi kỳ lạ trong bản thân nghĩa của từ « hòa bình », như một hệ quả. Trong suốt chiều dài lịch sử của nhân loại, « thời bình » đã từng là đồng nghĩa như « sự vắng mặt tạm thời của chiến tranh ». Năm 1913, khi mọi người nói rằng đã có « hòa bình » giữa Pháp và Đức, thì điều đó có chỉ nghĩa là hai quân đội Pháp và Đức đang trong tình trạng không đụng độ trực tiếp, nhưng tất cả đều hiểu rằng chiến tranh có thể bùng nổ bất cứ lúc nào.

Kể từ vài thập niên trở lại đây, « hòa bình » cuối cùng đã mang nghĩa « chiến tranh là bất khả thi ». Nhiều quốc gia ngày nay khó lòng hình dung được là họ có thể bị xâm lược và chinh phục bởi các nước láng giềng. Tôi là người sống ở vùng Trung Đông, vì vậy tôi biết rõ rằng có những ngoại lệ với xu hướng này. Nhưng việc xác định các xu hướng cũng quan trọng không kém việc chỉ ra các trường hợp ngoại lệ.

Khi con người có những lựa chọn đúng hơn

« Nền hòa bình mới » không còn là một trạng thái bất thường xét về mặt thống kê, và cũng không còn là một ảo tưởng của giới hippy. Các ngân sách – được tính toán một cách lạnh lùng – cung cấp các bằng chứng rõ ràng nhất cho điều này. Trong những thập kỷ gần đây, các chính phủ trên toàn thế giới đã cảm thấy đủ an toàn khi chỉ chi trung bình 6,5% ngân sách cho vũ trang, và chi nhiều hơn hẳn cho giáo dục, y tế và phúc lợi xã hội. Điều mà chúng ta có thể dễ dàng coi là chuyện đương nhiên, trong khi đây là một điều mới lạ đáng kinh ngạc, nếu xét trên toàn bộ lịch sử nhân loại. Trong hàng nghìn năm, chi tiêu quân sự đã từng là khoản chi lớn nhất trong ngân sách của các hoàng tử, các đại hãn, các quốc vương, hoàng đế. Họ hiếm khi chi tiền cho giáo dục hoặc chăm sóc y tế cho đại chúng.

Sự suy tàn của chiến tranh không phải là kết quả của một phép màu thần thánh hay sự thay đổi của các quy luật tự nhiên. Mà đó là bởi vì con người đã có những lựa chọn tốt hơn. Có thể nói, chắc chắn đây là thành tựu chính trị và đạo đức vĩ đại nhất của nền văn minh hiện đại. Nhưng thật không may, bởi nếu điều đó được sinh ra bởi sự lựa chọn của con người thì cũng có nghĩa là nó có thể bị đảo ngược.

Công nghệ, nền kinh tế và văn hóa tiếp tục phát triển. Sự trỗi dậy của vũ khí mạng, các nền kinh tế do trí tuệ nhân tạo điều khiển và việc tái quân sự hóa nền văn hóa của chúng ta có thể mở ra một kỷ nguyên chiến tranh mới, tồi tệ hơn rất nhiều so với bất kỳ điều gì chúng ta từng biết trước đây. Để tận hưởng nền hòa bình, điều cần thiết là tất cả mọi người, hoặc hầu hết tất cả mọi người, có được những lựa chọn đúng đắn. Ngược lại, chỉ cần một người tham gia lựa chọn tồi có thể khiến chiến tranh bùng nổ.

Đây là lý do tại sao mối đe dọa xâm lược Ukraina của Nga có thể khiến tất cả cư dân trên hành tinh này lo lắng. Nếu các quốc gia hùng mạnh có thể đè bẹp các nước láng giềng yếu hơn mà không bị trừng phạt, thì các cảm xúc và hành vi trên toàn thế giới sẽ thay đổi. Hệ quả đầu tiên, và có lẽ là rõ ràng nhất, của sự quay trở lại của Luật Rừng sẽ là sự gia tăng mạnh chi phi quân sự gây bất lợi cho phần còn lại của thế giới. Số tiền đáng lẽ dành cho giáo viên, y tá và nhân viên xã hội sẽ được đầu tư vào xe tăng, tên lửa và vũ khí mạng.

Vòng xoáy luẩn quẩn có thể dẫn nhân loại chúng ta đến chỗ diệt vong

Việc quay trở lại luật rừng cũng sẽ làm suy yếu hợp tác toàn cầu, đặc biệt là khi liên quan đến việc ngăn chặn biến đổi khí hậu, hoặc điều chỉnh các công nghệ tiềm ẩn nguy hiểm như trí tuệ nhân tạo và kỹ thuật di truyền. Thật không dễ dàng để làm việc, khi phải sống cạnh các quốc gia đang chuẩn bị xóa sổ nước bạn khỏi bản đồ. Và khi biến đổi khí hậu và cuộc chạy đua trí tuệ nhân tạo tăng tốc, thì mối đe dọa xung đột vũ trang cũng sẽ chỉ có thể gia tăng, giam hãm chúng ta vào một cái vòng luẩn quẩn, có thể dẫn nhân loại chúng ta đến chỗ diệt vong. Nếu bạn tin rằng sự thay đổi lịch sử là điều không thể xảy ra và loài người chưa bao giờ rời khỏi rừng rậm và sẽ không bao giờ rời khỏi rừng rậm, thì sự lựa chọn sẽ là giữa chọn làm kẻ săn mồi hoặc chọn làm con mồi. Khi ấy nếu phải lựa chọn, hầu hết các nhà lãnh đạo sẽ thà đi vào lịch sử như những kẻ săn mồi đỉnh cao và bổ sung tên của họ vào cái danh sách thê thảm của thủ lĩnh các cuộc chinh phạt mà những học sinh nghèo phải học thuộc lòng để qua được các kỳ thi môn lịch sử.

Nhưng thay đổi cũng là điều có thể ? Có thể vì Luật Rừng là một sự lựa chọn chứ không phải là định mệnh ? Nếu như vậy, nhà lãnh đạo nào lựa chọn quyết định xâm lược quốc gia hàng xóm sẽ có một vị trí đặc biệt trong ký ức của nhân loại, tệ hơn rất nhiều so với Tamerlane (thủ lĩnh quân sự nổi tiếng tàn bạo (sinh 1336 – chết 1405), người sáng lập đế quốc Timurid ở vùng Ba Tư và Trung Á – người dịch bổ sung). Một kẻ như vậy sẽ đi vào lịch sử với tư cách là người phá bỏ thành tựu vĩ đại nhất của chúng ta. Sẽ đưa chúng ta trở lại thế giới của Luật Rừng, trong khi chúng ta tin tưởng là đã thoát khỏi nó.

Người Ukraina có nhiều điều để dạy chúng ta

Tôi không biết điều gì sẽ xảy ra ở Ukraina. Nhưng với tư cách là một nhà sử học, tôi tin vào khả năng thay đổi. Đây không phải là niềm tin ngây thơ, mà là chủ nghĩa hiện thực. Điều duy nhất bất biến trong lịch sử loài người đó là sự thay đổi. Và về chủ đề này, người Ukraina có thể có điều gì đó để dạy chúng ta. Nhiều thế hệ người Ukraina chỉ biết đến chế độ chuyên chế và bạo lực. Họ đã phải chịu đựng hai thế kỷ dưới chế độ chuyên chế Sa hoàng (cuối cùng đã sụp đổ trong cơn đại hồng thủy của Thế chiến thứ nhất). Nỗ lực giành độc lập ngắn ngủi của dân Ukraina đã nhanh chóng bị đè bẹp bởi Hồng Quân, lực lượng đã khôi phục quyền thống trị của đế chế Nga. Sau đó, người Ukraina đã trải qua nạn đói khủng khiếp do chính sách « Holodomor » (1932 – 1933) (chính sách gây chết đói hàng loạt), sự khủng bố của chế độ Stalin, sự chiếm đóng của Đức Quốc xã và nhiều thập niên bị đè nén dưới chế độ toàn trị cộng sản. Khi Liên Xô sụp đổ, đã có mọi lý do để tin rằng người Ukraina sẽ một lần nữa đi theo con đường của chế độ chuyên chế tàn bạo, vì đó là những gì duy nhất mà họ đã biết được.

Nhưng dân Ukraina đã có một sự lựa chọn khác. Bất chấp sức nặng của lịch sử, bất chấp tình trạng nghèo đói cùng cực và bất chấp những trở ngại dường như không thể vượt qua nổi, người Ukraina đã thiết lập được một nền dân chủ. Ở Ukraina, không giống như ở Nga và Belarus, các ứng cử viên đối lập đã nhiều lần lên nắm quyền. Đối mặt với mối đe dọa của một chế độ ngả sang độc tài, trong những năm 2004 và 2013, người Ukraina đã hai lần nổi dậy để bảo vệ quyền tự do của mình. Nền dân chủ với dân Ukraina là hoàn toàn mới mẻ. Cũng giống như « nền hòa bình mới » (của nhân loại từ hơn nửa thế kỷ nay – người dịch). Cả hai đều mong manh và có thể sẽ không tồn tại lâu. Nhưng cả nền dân chủ và hòa bình đều là điều có thể thành công, và có thể bắt rễ sâu. Chúng ta đừng quên rằng những gì cũ hiện nay trước đây đã từng là cái mới. Tất cả đều phụ thuộc vào những lựa chọn của con người.

GHI CHÚ

(*) Yuval Noah Harari (sinh năm 1976) là giáo sư Khoa Lịch sử tại Đại học Hebrew Jerusalem. Ông là tác giả của ba cuốn sách bán chạy hàng đầu thế giới: Sapiens: Lược sử loài người (2014), Homo Deus: Lược sử tương lai (2016) và 21 bài học cho thế kỷ 21 (2018).

LIMA-PERU: Thành Phố Kỳ Lạ Nhất Hành Tinh: 600 Năm Mới Mưa Một Lần  

LIMA-PERU: Thành Phố Kỳ Lạ Nhất Hành Tinh: 600 Năm Mới Mưa Một Lần  

Thành phố Lima của Peru là thành phố duy nhất trên thế giới quanh năm không có mưa nhưng người dân vẫn sống rất tốt. Tại sao lại như vậy?

Nếu các bạn chưa biết thì Lima chính là thủ đô, là thành phố lớn nhất của Peru. Thành phố có diện tích 804,3 km², dân số chiếm 2/3 tổng số dân cả nước. Đây là trung tâm văn hoá, công nghiệp, tài chính và giao thông của Peru. Thành phố Lima sẽ rất bình thường nếu chúng ta không nhắc đến khí hậu của thành phố này. Khí hậu ở đây rất đặc biệt, quanh năm không có mưa nhưng lại không bao giờ bị khô hạn.

Lima là thủ đô, thành phố lớn nhất của Peru

Đến với thành phố Lima, bạn chắc chắn sẽ rất ngạc nhiên khi thấy đa số nhà ở khu ổ chuột ở đây đều không có mái che. Thậm chí, có những nhà còn được tạo nên bằng cách dùng bìa cứng quây lại.

Tại sao nhà của họ lại không cần mái che? Điều này hoàn toàn xuất phát từ đặc điểm khí hậu của Lima. Do quanh năm không có mưa và khí hậu khá ôn hòa nên họ cảm thấy làm mái là điều không cần thiết cho lắm. Hơn nữa, cũng vì vậy mà ô và áo mưa ở đây gần như không được dùng đến.

Thành phố Lima có lịch sử rất lâu đời. Ngay từ năm 1535, nơi đây đã là thuộc địa của thực dân người Tây Ban Nha. Và tại đây đã có sự giao thoa giữa 2 nền văn hóa phương Tây và nền văn hóa bản địa cũ. Đến thế kỉ XVI và XVII, thành phố Lima đã rất phát triển, chất lượng cuộc sống của người dân ngày càng được cải thiện.

Tất nhiên, trong quá trình sinh sống người châu Âu đã nhanh chóng phát hiện ra sự kì lạ của thành phố này. Trong một trăm năm, họ chỉ thấy có một cơn mưa duy nhất. Thậm chí, nhiều người dân địa phương ở Lima còn chưa bao giờ thấy mưa trong suốt cuộc đời của họ. Không có mưa đã trở thành một điều rất hiển nhiên ở thành phố này, đó là lý do tại sao Lima còn có một cái tên khác,”Thành phố không mưa”.

Hiện tại, theo thống kê, lượng mưa trung bình năm ở Lima chỉ dao động từ 10mm-15mm. Con số này còn chưa bằng 1/5 lượng mưa trung bình năm của sa mạc Sahara, một trong những vùng khô hạn nhất thế giới.

Lần có mưa cuối cùng ở thành phố Lima đã xảy ra hơn 600 năm trước. Có thể nói hiện nay đây là thành phố duy nhất trên thế giới không mưa.

Tuy nhiên, khi thành phố Lima “mưa” thì cảnh tượng cũng rất độc đáo. Không phải mưa theo hạt, từng cơn từng cơn một mà chúng ta vẫn thấy, mà nó chỉ là lượng lớn sương mù bao phủ thành phố, và sẽ đọng lại trên đất tạo chút ẩm ướt mà thôi.

Tuy thành phố Lima có lượng mưa rất nhỏ nhưng lại là thành phố rất thích hợp cho người dân sinh sống và cư trú. Thành phố Lima tuy thuộc khí hậu sa mạc nhiệt đới nhưng nhiệt độ trung bình năm chỉ có 18 độ C, nhiệt độ trung bình tháng thấp nhất là 17 độ C, cao nhất cũng chỉ tới 24 độ C, rất thích hợp cho con người sinh sống. Mặc dù xung quanh thành phố Lima là sa mạc nhưng trong thành phố thì diện tích đất được phủ xanh khá nhiều và chất lượng không khí khá tốt.

Câu hỏi đặt ra là: Tại sao mưa ít như vậy nhưng thành phố Lima lại không bị khô hạn như những nơi khác?

Đó đều do ảnh hưởng từ vị trí địa lý có phần đặc biệt của thành phố. Tuy thành phố Lima nằm ở rìa cao cận nhiệt đới Nam Thái Bình Dương, nằm trong vùng nhiệt đới nhưng lại chịu ảnh hưởng của dòng khí lạnh của dòng hải lưu Peru.

Điều này cũng khiến hơi nước trên thành phố Lima trong khi bốc lên đã bị dòng khí lạnh chặn lại, không thể ngưng tụ thành các đám mây vũ tích, do đó không thể gây mưa. Chính vì vậy, thành phố Lima không những không khô hạn mà còn rất ẩm ướt vì có lượng hơi nước lớn.

Ngoài ra, do có vị trí gần biển, lại có con sông Mark nổi tiếng nên thành phố Lima có nguồn nước ngầm rất dồi dào, chưa bao giờ xuất hiện tình trạng thiếu nước. Ngược lại, nguồn nước ở đây luôn phong phú, không chỉ đủ sinh hoạt mà còn cung cấp đủ cho các hoạt động khác nữa.

Khi quan sát thành phố Lima từ trên cao, ta có thể thấy rõ ràng thành phố được bao quanh bởi sa mạc, bờ biển và cát vàng, tạo thành một cảnh quan tuyệt đẹp. Nếu bạn thấy thành phố này thú vị, bạn có thể ghé thăm thành phố không mưa này trong tương lai.

Thiên An