CẦN SỐNG TỪNG NGÀY NHƯ THỂ KHÔNG CÒN CÓ NGÀY MAI

CẦN SỐNG TỪNG NGÀY NHƯ THỂ KHÔNG CÒN CÓ NGÀY MAI

 Tuyết Mai 

Có phải cuộc đời của từng người chúng ta vắn hay dài đều có số mạng cả? Nên chúng ta cần lắm để tiết độ trong thời giờ hằng ngày 24 tiếng mà Thiên Chúa ban cho mọi người được hưởng dùng cách rất công bằng … nên chúng tôi tha thiết mời gọi mọi người sống sao cho đúng giờ với sự tuần hoàn của trời đất thì ai ai cũng sẽ sống vui khỏe trẻ mà không cần phải uống thuốc nhiều đâu.

Hôm nay có một người cao niên ngoài 70 tuổi đã dần hiểu được sơ sơ về tình yêu Thiên Chúa cao vời thế nào qua một vài show có tên là “Highway to heaven” hướng chúng ta đến sự sống tốt lành của giữa người với người đó là yêu người như yêu chính mình vậy. Nên ông có ý định rằng sau khi ông hoàn tất cho hết việc nhà những gì mà ông định dọn dẹp để giữ lại hoặc để đem cho rồi thì ông sẽ kiếm thời giờ mà làm công việc từ thiện gần nhà, trong số giờ hạn hẹp của ông.

Chúng tôi có lời khuyên ông rằng là ông hãy nên nghĩ đến điều tốt lành mà ông định làm trong khả năng và thời giờ Chúa ban cho ông ngay ngày hôm nay đi, chớ đừng chờ đợi đến ngày mai mới làm vì ngày mai chưa chắc ông còn sống nên ý định làm mà ông chưa được làm thì có phí thời giờ lắm không, vì tuổi của ông giờ bắt đầu đếm từng ngày rồi?.

Cũng vì ông là tân tòng ở tuổi đã cao nên chưa cảm nhận được tình yêu Thiên Chúa trong những điều rất đơn giản và tình Chúa thì luôn vô biên vô tận chớ không có giống như tình con người đối đãi với nhau trong cuộc sống hằng ngày quá ư là xô bồ, hão huyền, tranh giành, luôn thích phô trương; sống đời giầu có nhưng lại rất keo kiệt trong một tâm hồn sáo rỗng, ích kỷ, nhỏ nhen cùng luôn nghĩ cách để hại người … Hoặc họ là những người thường ra vẻ đạo mạo thích ngồi chỗ nhất nhưng chính họ lại chẳng xứng đáng?.

Thiên Chúa ban cho chúng ta có 10 Điều Răn Đức Chúa Trời nhưng tóm lại chỉ có 2 điều là cần thiết đó là “Kính Chúa và yêu người như yêu mình”. Để hiểu cho rõ ràng về tình người phải đối với nhau ra sao cho tròn trách nhiệm cùng bổn phận trong gia đình và với người sống ngoài xã hội. Thì chúng ta nên bắt chước sống theo lời khuyên của mẹ thánh Têrêsa Canculta mà rằng “Hãy yêu thương gia đình của chúng ta trước tiên hết, kế đến là người láng giềng sống chung quanh và sau hết mới là những người ở xa hơn”.

Còn nếu chúng ta là những người có hoàn cảnh eo hẹp hơn từ thể xác đau bệnh; đến vật chất, khả năng cùng thời giờ không cho phép nhưng Thiên Chúa của chúng ta Người cũng sẽ kiếm cách dùng chúng ta như khí cụ của Người như chúng ta cũng đã được chứng kiến thấy rất nhiều người khuyết tật chỉ nằm bẹp có một chỗ thôi, hay người đang chữa trị ung thư mà không biết có còn sống đến ngày mai hay không; hoặc có người trẻ tuổi, trẻ người cũng rất tầm thường trong xã hội nhưng lại có thể đem đến trợ giúp cho biết bao nhiêu người có cảnh đời bất hạnh rất đáng thương, ở gần cũng như ở xa.

Chỉ cần chúng ta có tấm lòng cởi mở và một trái tim biết rung động trước những cảnh đời bi đát thì tất cả mọi người đều được Thiên Chúa tuyển dụng cho công việc để làm ngay vì thời giờ thì có hạn, trẻ cũng như già. ĐỪNG ĐỂ ĐẾN NGÀY MAI có thể là quá trễ, quá ân hận và quá tiếc thời gian phung phí đã để trôi qua cách vô ích hay không?. Amen.

Y Tá của Chúa,
Tuyết Mai 
6 tháng 8, 2018

————————————————-

https://www.youtube.com/watch?v=aYsXyckXXPY

Ngày mai hãy để ngày mai
(Thơ và nhạc của Tuyết Mai)

THIÊN CHÚA NÓI KHÔNG

THIÊN CHÚA NÓI KHÔNG

Có một bài thơ của một tác giả vô danh mà Hồng Y Jaime Sin, Tổng giám mục Manila, Phi Luật Tân, lấy làm ưng ý nhất và thường trích dẫn trong các bài giảng của Ngài.  Bài thơ ấy như sau:

 Tôi đã xin Chúa cất khỏi sự kiêu hãnh của tôi và Chúa trả lời: “Không!”  Ngài nói rằng không phải Ngài là người cất khỏi mà chính tôi mới là người phấn đấu để vượt thắng nó.

 Tôi đã xin Chúa làm cho đứa con tàn tật của tôi được lành lặn và Chúa trả lời: “Không!”  Ngài nói rằng tinh thần mới lành lặn, còn thể xác chỉ là tạm bợ.

 Tôi đã xin Chúa ban cho tôi sự kiên nhẫn và Chúa đã trả lời: “Không!”  Ngài nói rằng kiên nhẫn là hoa trái của thử thách.  Ngài không ban cho tôi trái ấy mà để tôi tự tìm lấy.

 Tôi đã xin Chúa ban cho tôi được hạnh phúc và Chúa đã trả lời: “Không!”  Ngài nói rằng Ngài ban ân phúc cho tôi, còn hạnh phúc hay không là tùy tôi.

 Tôi đã xin Chúa gia tăng tinh thần cho tôi và Chúa đã trả lời: “Không!”  Ngài nói rằng tôi phải tự lớn lên, nhưng Ngài sẽ cắt tỉa để tôi mang nhiều hoa trái.

 Tôi đã xin Chúa đừng để tôi đau khổ và Ngài đã trả lời: “Không!”  Ngài nói rằng đau khổ là cho tôi được xa cách với những vướng bận trần gian và mang tôi đến gần Ngài.

 Tôi đã hỏi: “Liệu Ngài có yêu tôi không” và Ngài đã trả lời rằng: “Có!”  Ngài nói rằng Ngài đã ban cho tôi Người Con Một, Đấng đã chết vì tôi và một ngày nào đó, tôi sẽ được lên Thiên Đàng vì tôi đã tin.

 Tôi đã xin Chúa giúp tôi yêu mến tha nhân như Ngài yêu thương tôi và Chúa nói: “Cuối cùng con đã xin đúng điều ta chờ đợi.”

 Nhìn lên thập giá Đức Kitô, chúng ta được mời gọi để tin nhận rằng Thiên Chúa đã yêu thương con người, Ngài đã yêu thương đến độ đã ban Người Con Một của Ngài cho thế gian.  Tình Yêu của Thiên Chúa nhiệm màu thẳm sâu đến độ sự thất bại, cái chết ô nhục đã trở thành Một Dấu Chứng.

Tình yêu ấy nhiệm màu thẳm sâu đến độ ngay cả khi Thiên Chúa xem ra nói không với chúng ta, Ngài vẫn yêu thương chúng ta.  Ngài nói không khi chúng ta xin được khỏe mạnh, và bệnh hoạn vẫn bám lấy chúng ta.  Ngài nói không khi chúng ta xin được thành công và thất bại lại đến với chúng ta.  Ngài nói không khi chúng ta xin được cơm bánh hằng ngày và đói khổ lại cấu xé chúng ta…  Qua những cái không ấy, Thiên Chúa vẫn tiếp tục yêu thương chúng ta…

Xin cho chúng ta cảm nhận được tình yêu ấy mỗi khi chúng ta nhìn lên cái chết ô nhục của Người Con Một Thiên Chúa trên thập giá.  Và cũng giống như Người Con Một ấy, xin cho chúng ta vẫn tiếp tục dâng lời chúc tụng ngay giữa niềm đau tưởng chừng như không còn chịu đựng nổi.  Và giữa trăm nghìn đắng cay chua xót, xin cho chúng ta cũng được tiếp tục thốt lên lời xin tha thứ như Ngài… Mãi mãi, xin cho chúng ta luôn phó thác như Ngài.

****************************** ************

Lạy Chúa,
Con cầu xin ơn mạnh mẽ
để thành đạt trong cuộc đời,
Chúa lại làm cho con ra yếu ớt
để biết vâng lời khiêm hạ…

Con cầu xin có sức khỏe
để mong thực hiện những công trình lớn lao,
Chúa lại cho con chịu tàn tật
để chỉ làm những việc nhỏ tốt lành…

Con cầu xin được giàu sang
để sống sung sướng thoải mái,
Chúa lại cho con nghèo nàn
để học biết thế nào là khôn ngoan…

Con cầu xin được có uy quyền
để mọi người phải kính nể ca ngợi,
Chúa lại cho con sự thấp hèn
để con biết con cần Chúa…

Con xin gì cũng chẳng được theo ý muốn
Nhưng những điều con đáng phải mơ ước,
Mà con không hề biết thốt lên lời cầu xin,
thì Chúa lại đã ban cho con
thật dư đầy từ lâu…

Lạy Chúa,
Hóa ra, con lại là người hơn hết trên đời này,
Bởi con đã nhận được ơn Chúa vô vàn.  Amen!

Paradoxes Of Prayers

From: Langthangchieutim

Chính Ta là bánh ban sự sống

Chính Ta là bánh ban sự sống

Tuyết Mai 

Họ liền thưa Người rằng: “Thưa Ngài, xin cho chúng tôi bánh đó luôn mãi”. Chúa Giêsu nói: “Chính Ta là bánh ban sự sống. Ai đến với Ta, sẽ không hề đói; ai tin vào Ta, sẽ không hề khát bao giờ”. (Ga 6, 24-35). Đó là lời Chúa.

Con người sống trên trần gian này thử hỏi ai lại không CẦN được ăn bánh ban sự sống của chính Chúa Giêsu chứ? Nhưng xét ra cho tận cùng nếu không vì Lòng Thương Xót Chúa thì ai là người mới thật sự xứng đáng để Rước Mình và Máu Thánh Chúa vào trong người mà không bị phạm vào 10 Điều Răn Thiên Chúa cùng luật Hội Thánh dạy? Hay dưới mắt của con người có tánh xét đoán anh chị em của mình vì cho rằng chỉ có mình là xứng đáng thôi, có phải?.

Ấy, cũng vì cái tánh thích xoi mói chuyện người; lên án và kết án người mà chúng ta đã tự thay mặt Thiên Chúa mà cho rằng chỉ có mình là xứng đáng để được Rước Mình và Máu Thánh Chúa còn ngoài mình ra thì chẳng ai nữa xứng đáng để được. Mà nếu chúng ta là con cái Chúa mà có đầu óc xét đoán anh chị em mình như thế thì chính mình đã không xứng đáng rồi vì chúng ta đã mang cái tội rất lớn ấy là tội Kiêu Ngạo đấy, vì trước Nhan Thánh Chúa thật không biết ai đã tội hơn ai?.

Như chuyện dụ ngôn mà Chúa Giêsu đã dạy cho hết thảy chúng ta nhận dạng được ai là người được Chúa cứu độ cùng tha thứ tội và ai là người bị Chúa trách mắng thậm tệ qua câu chuyện của hai người đàn ông cùng có mặt trong nhà thờ. Một ông thì đứng trong, ở hàng ghế đầu trong tư thế thẳng lưng kể lể với Chúa bao nhiêu điều tốt lành mà ông đã làm cho Chúa suốt một năm qua và cuối câu ông đã thòng thêm câu rằng ông không giống một chút nào như người thu thuế rất tội lỗi đang đứng tận cuối nhà thờ kia …

Trong khi ông thu thuế vì biết tội lỗi của mình nên đứng phía cuối của nhà thờ để khóc lóc, đấm ngực, ăn năn, sám hối xin Thiên Chúa tha thứ tội cho ông đã, đang và tiếp tục làm vì lỡ bám theo cái nghề mà ai trong xã hội cũng ghét bỏ, cũng tránh xa. Do đó mà chúng ta rất nên bắt chước như ông thu thuế kia là luôn sống trong sự Khiêm Nhường, tự kiểm điểm nơi chính mình, thông cảm cho người … vì lẽ không ai là không có tội trước Nhan Thánh Chúa đâu. (Nhiều khi ta phạm tội nhẹ thôi nhưng vì Kiêu Ngạo nên lại bị Chúa phạt cho đền tội lâu ở Lửa Luyện Ngục chăng?).

Kẻo chúng ta lại dám lên mặt ngang hàng với các linh mục của Chúa mà làm cho con cái Người ngày càng xa lánh Chúa hơn bằng cách lên án họ, nói xấu sau lưng họ, làm chứng gian, làm cớ cho người phải bỏ nhà thờ, bỏ xóm đạo, ngay cả đổi đạo hay bỏ đi thật xa để tránh mặt những con người cho mình là đạo mạo, thánh thiện, có chức vụ cao trọng trong nhà thờ trong giáo xứ, v.v… Mà không chịu hiểu rằng cái tội Kiêu Ngạo này mới thật sự làm cho Thiên Chúa chán ghét biết bao. Vì sao? Vì những con người này luôn nghĩ rằng họ nằm trong số 99 con chiên công chính nên không cần phải sám hối, ăn năn.

Thời nào thì trong chúng ta cũng có rất nhiều người sống kiểu đạo đức giả lắm nhất là những người cao trọng trong giáo xứ; luôn được mời ngồi ở chỗ nhất, luôn được nhiều người nịnh bợ, hùa theo để làm cho Nhà Chúa trở nên nơi buôn bán và là nơi trao đổi kinh doanh. Hay làm trung gian để nối dáo cho giặc. Làm cho giáo xứ có nhiều chuyện chẳng lành, tai tiếng, gây chia rẽ rồi thì linh mục cũng bị ảnh hưởng theo và xin được đổi dời đi nơi khác, v.v…

Lạy Chúa Giêsu ngự trong bánh và rượu xin cho hết thảy con cái Chúa hiện đang rước Chúa cách thiêng liêng cũng nhận được ơn ích cho linh hồn cùng nguồn trợ lực, an ủi, biến đổi chúng con được trở về cùng Chúa và giúp chúng con cố gắng sống trong sự tốt lành, trong khả năng rất có giới hạn mà Thiên Chúa ban cho chúng con; vì thời gian có hạn. Amen.

Y Tá của Chúa, 
Tuyết Mai 
3 tháng 8, 2018

———————————————————————–

https://www.youtube.com/watch?v=r5IedqhL7dU

Mình Và Máu Thánh Chúa Kitô 
Thơ và Nhạc của Tuyết Mai (06 – 06 – 2010)

YOUTUBE.COM

Mình Và Máu Thánh Chúa Kitô

** Mình Và Máu Thánh Chúa Kitô ** (Thơ và Nhạc của Tuyết Mai (6/6/10)) Ai ăn Thịt Ta và uống Máu Ta sẽ sống muôn đời Mầu nhiệm thay! Đấng Toàn…

LỬA MẾN THƯƠNG

LỬA MẾN THƯƠNG

  1. Mấy ngày nay, thỉnh thoảng lại hiện lên trong tôi Lời Chúa Giêsu phán xưa: “Thầy đã đến ném lửa vào mặt đất. Và Thầy đã rất ước mong phải chi lửa ấy đã bùng lên”(Lc 12, 49).

Tôi xin Chúa soi sáng cho tôi hiểu ý Chúa. Một lúc bất ngờ, tôi được nghe từ thẳm sâu tâm hồn tôi ý Chúa: “Lửa đó là lửa mến thương. Lửa mến Chúa, thương người, đó là lửa rất cần cho mọi môn đệ Chúa trong mọi thời mọi nơi, nhất là tại Việt Nam hôm nay”.

  1. Như thế, nghĩa là tôi cần có lửa trong tôi. Lửa đó là lửa thiêng. Bản chất lửa thiêng đó là mến yêu.

Theo Phúc Âm, thì tôi sẽ nhận ra mình có lửa đó hay không, căn cứ ở dấu chỉ này: Khi gặp người đau khổ, tôi xót thương họ, tôi cảm thương với họ, tôi dấn thân giúp đỡ họ, thì đó là dấu chỉ tôi có lửa mến thương đích thực (x. Mt 25, 35- 40).

  1. Khi hiểu ý Chúa là như vậy, tôi hồi tâm xét mình. Kết quả hiện lên trước lương tâm tôi là thế này: Rất nhiều khi tôi đã không xót thương, đã không cảm thương những người đau khổ mình gặp.

Như vậy chứng tỏ tôi không có lửa thiêng mến thương trong tôi.

  1. Nhận ra sự thực đó, tôi sám hối, và xin Chúa thương đốt lên trong tôi lửa thiêng từ trái tim Chúa.

Chúa đáp lại là Chúa luôn muốn đốt lửa đó trong tôi. Nhưng tôi có luôn đón nhận không?

  1. Thú thực là, vì không tỉnh thức và cầu nguyện, nên rất nhiều khi tôi đã không đón nhận lửa thiêng đó, hoặc đã đón nhận, rồi lại để nó nguội đi.
  2. Thiếu lửa thiêng nơi người môn đệ Chúa, đó là một thảm họa trên lĩnh vực mục vụ, truyền giáo và tu đức.

Thảm họa đó sẽ càng thê thảm, khi người môn đệ Chúa không những thiếu vắng trong mình lửa thiêng mến thương, mà còn nuôi trong mình những thứ lửa do Satan cống hiến với danh nghĩa giả tạo là mến Chúa yêu người, để rồi chống lại những người có lửa mến yêu đích thức.

  1. Chống nhau, khích bác nhau, loại trừ nhau, đó là thảm họa đang xảy ra tại nhiều nơi trong đạo ngoài đời hiện nay.
  2. Tình hình như thế không những báo hiệu sự thiếu vắng lửa thiêng mến thương, mà còn báo động một nguy cơ đau buồn có thể xảy ra, đó là những hình thức nội chiến, từ mức độ nhẹ đến mức độ lớn. Lịch sử quá khứ vốn là như vậy. Lịch sử tương lai cũng sẽ như vậy.
  3. Hình như Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã cảm thấy nguy cơ đó, nên ngài hay nói đến sự không nên kết án nhau. Một câu ngài có lần nói, nay đã trở thành nổi tiếng: “Tôi là ai mà dám kết án ai”. Đúng là trong ngài có lửa mến thương đích thực.
  4. Theo gương ngài, tôi để ý chỉnh đốn lại lương tâm tôi.

Một là tôi không kết án ai. Cho dù họ sai lầm rõ ràng, thì tôi vẫn cảm thương họ, vẫn xót thương họ, vẫn cứu họ.

  1. Hai là tôi tin lòng thương xót Chúa vẫn mở rộng đến mọi người, vì thế, mà nhiều người dù là Công giáo hay ngoài Công giáo, đều có thể đã đang và sẽ nhận được lửa mến thương của Người. Thực tế hôm nay cho tôi thấy nhiều người ngoài Công giáo đã là gương sáng về sự xót thương, cảm thương đối với đồng bào nghèo khó và khổ đau tại Việt Nam hôm nay.
  2. 12. Riêng tôi, để đón nhận lửa mến thương của Chúa, tôi luôn cầu xin với tư cách mình là kẻ tội lỗi: “Thánh Maria Đức Mẹ Chúa trời, cầu cho chúng con là kẻ tội lỗi”. Tôi là kẻ tội lỗi, tôi nói với Mẹ mỗi ngày nhiều lần như vậy. Mẹ nhận lời cầu xin đó, mà dâng lên Chúa. Và Chúa đã thương ban cho tôi lửa mến thương của Chúa.
  3. Tôi cũng hay nhìn gương thánh nữ Têrêxa Hài Đồng Giêsu. Tức là tôi đón nhận lửa mến thương của Chúa từng giây phút nhỏ, từng việc làm nhỏ. Tôi cũng cho đi lửa mến thương Chúa ban qua những việc nhỏ, trong từng giây phút nhỏ.

Tôi còn đang giữ bên cạnh mình một sợi tóc nhỏ của Thánh nữ Têrêxa thành Lisieux. Để nhắc nhở tôi là lửa mến yêu, dù nhỏ như sợi tóc, vẫn có sức cứu độ.

  1. Tới đây, tôi sực nhớ tới chuyện của Thánh Gioan Vianney, cha sở xứ Ars. Một người đến với cha, khóc lóc vì một người thân mới chết, người thân đó là một tội nhân rối rắm nổi tiếng. Người đó nhảy xuống sông tự tử.

Cha thánh đã cầu nguyện và trả lời an ủi: “Anh ta đã được Chúa cứu. Từ trên cầu nhảy xuống sông chỉ là tích tắc. Nhưng trong tích tắc đó, anh đã được ơn sám hối, nhờ bao người đã cầu nguyện cho anh trước đó”.

Chuyện đó khuyên tôi hãy vững tin vào Chúa trong việc cầu xin cho mình và cho người khác. Chắc chắn sự cứu rỗi cũng đang được xảy ra, dù chỉ trong tích tắc, tại nơi này nơi nọ. Nhờ lửa mến thương của bao người.

  1. Trong con,có lửa hay không có lửa? Có lửa, thì lửa đó là lửa nào? Lửa đó là từ đâu?

Mấy ngày nay, Đức Mẹ hay hỏi tôi như vậy. Tất nhiên, tôi thưa là “Mẹ biết rõ hơn con”. Tôi trở nên rất bé nhỏ bên lòng Mẹ. Lửa từ trái tim Mẹ được chia sẻ sang tôi. Nhờ vậy tôi đã cùng với Mẹ, chúc tụng Chúa. Linh hồn tôi tung hô Chúa, thần trí tôi mừng vui vời vợi trong Đấng cứu chuộc tôi (Lc 1, 46-47).

Long Xuyên, ngày 02.8.2018

+ Gm. Gioan B BÙI TUẦN

From Vongtaysongnguyen

ĐỐI XỬ CÔNG BẰNG VỚI LINH HỒN TA 

ĐỐI XỬ CÔNG BẰNG VỚI LINH HỒN TA 

Sau khi được Chúa Giêsu ban cho một bữa ăn no nê thỏa thích qua phép lạ hóa bánh ra nhiều, đám đông người Do-thái đổ xô tìm đến với Chúa mong được Người cho ăn tiếp. Chúa Giêsu không bằng lòng với toan tính đó nên Người nói thẳng với họ: “Thật, tôi bảo thật các ông, các ông đi tìm tôi không phải vì các ông đã thấy dấu lạ, nhưng vì các ông đã được ăn bánh no nê.”

 Biết rõ bận tâm của đám đông là chỉ lo cho có lương thực nuôi xác, còn lương thực nuôi dưỡng tâm hồn và đời sống thiêng liêng thì chẳng màng tới, Chúa Giêsu răn bảo họ: “Hãy ra công làm việc không phải vì lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực trường tồn đem lại phúc trường sinh.” (Ga 6, 27).

Khi nói như thế, Chúa Giêsu kêu gọi mỗi người hãy cố công chăm lo cho linh hồn mình được phúc đời đời chứ đừng chỉ dồn tất cả công sức chăm lo cho thân xác mau hư nát nầy.

 ******************************

Một nhà kia có hai người con.  Người con út được cha mẹ đem hết lòng yêu thương chăm sóc: cho ăn, cho mặc, cho học hành, cho thuốc men, cho tiêu xài thoải mái, cho tất cả những gì nó muốn và không từ chối nó bất cứ điều gì.

Trong khi đó, đứa con cả không được cha mẹ đoái hoài: không được nuôi ăn, chẳng được cấp dưỡng chút gì, bị cha mẹ bỏ mặc như thể nó không hề có mặt trên đời, mặc dù nó không làm điều gì sai trái.

 Cha mẹ phân biệt đối xử như thế là quá bất công, đáng bị lên án.  Nếu chúng ta ở vào địa vị người cha người mẹ trên đây, chắc chắn không bao giờ chúng ta đối xử bất công như thế. 

Thế nhưng, bất cứ ai trong chúng ta cũng đều có “hai người con” trong đời mình, đó là linh hồn và thân xác.  Thân xác nầy nay còn mai mất thì được nhiều người chăm sóc chiều chuộng tối đa, còn linh hồn trường sinh bất tử thì chẳng được đoái hoài. 

Châm ngôn của một số đông là: Tất cả dành cho thân xác, tất cả cho cuộc sống đời nầy.  Người ta không từ chối thân xác bất cứ điều gì.  Dù thân xác có đòi hỏi những điều hèn hạ, vô luân, người ta cũng chiều theo nó.  24 giờ của mỗi ngày đều dành trọn cho thân xác.  168 giờ của mỗi tuần, 720 giờ của một tháng đều dành trọn để lo cho thân xác và cứ như thế hết tháng nầy qua tháng khác, hết năm nầy qua năm kia. 

Trong khi linh hồn thì bị bỏ rơi, không được đoái hoài!  Đó là một bất công không thể chấp nhận được và mang lại hậu quả đau thương cho cuộc sống mai sau, vì không sớm thì muộn, cái chết cũng sẽ đến để cướp hết những gì người ta đang có và hủy hoại thân xác ra không.  Cuối cùng thân xác con người chỉ là một nhúm bụi đất còn linh hồn thì phải trầm luân muôn đời muôn kiếp.  Thật là điên rồ khi người ta dành hết tất cả thời gian, công sức, trí tuệ, tài năng, nghị lực của mình cho thân xác để rốt cuộc nó chỉ còn là bụi đất! 

Qua sứ điệp Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu kêu gọi mọi người hãy đối xử công bằng với linh hồn mình.  Thân xác nầy nay còn mai mất thì chỉ cần chăm lo vừa đủ, còn linh hồn sống đời đời vĩnh cửu thì phải được chăm lo nhiều lần hơn.  Khi nuôi xác bằng cơm bánh được thu hoạch từ lòng đất thì cũng phải nuôi hồn bằng “Bánh từ trời xuống.”  Chính Chúa Giêsu là Bánh bởi trời được Chúa Cha ban cho nhân loại để mang lại sự sống cho thế gian. (Ga 6, 32-35) 

“Ăn” Chúa Giêsu (theo nội dung đoạn Tin Mừng hôm nay, Gioan 6, 24-35) không có nghĩa là nhai, là nuốt Chúa Giêsu nhưng là đến với Chúa Giêsu và tin vào Người: “Chính tôi là Bánh trường sinh.  Ai đến với tôi, không hề phải đói; ai tin vào tôi, chẳng khát bao giờ!”  Nói khác đi, “ăn” Chúa Giêsu là đến với Chúa Giêsu, học với Chúa Giêsu, sống như Chúa Giêsu để đào tạo mình nên người có phẩm chất cao đẹp như Chúa, để rồi mỗi người chúng ta trở nên hình ảnh sống động của Chúa Giêsu và được chung hưởng hạnh phúc vĩnh cửu với Người. 

Lm. Ignatiô Trần Ngà

 From Langthangchieutim

“Trái tim con, đang rên siết héo mòn,”

Suy Tư Chúa nhật thứ 18 thường niên năm B 05/8/2018

(Ga 6: 24-35)

Vậy khi dân chúng thấy Đức Giê-su cũng như các môn đệ đều không có ở đó, thì họ xuống thuyền đi Ca-phác-na-um tìm Người. Khi gặp thấy Người ở bên kia Biển Hồ, họ nói: “Thưa Thầy, Thầy đến đây bao giờ vậy?” Đức Giê-su đáp: “Thật, tôi bảo thật các ông, các ông đi tìm tôi không phải vì các ông đã thấy dấu lạ, nhưng vì các ông đã được ăn bánh no nê. Các ông hãy ra công làm việc không phải vì lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực trường tồn đem lại phúc trường sinh, là thứ lương thực Con Người sẽ ban cho các ông, bởi vì chính Con Người là Đấng Thiên Chúa Cha đã ghi dấu xác nhận.” Họ liền hỏi Người: “Chúng tôi phải làm gì để thực hiện những việc Thiên Chúa muốn?” Đức Giê-su trả lời: “Việc Thiên Chúa muốn cho các ông làm, là tin vào Đấng Người đã sai đến.” Họ lại hỏi: “Vậy chính ông, ông làm được dấu lạ nào cho chúng tôi thấy để tin ông? Ông sẽ làm gì đây? Tổ tiên chúng tôi đã ăn man-na trong sa mạc, như có lời chép: “Người đã cho họ ăn bánh bởi trời.”

Đức Giê-su đáp:”Thật, tôi bảo thật các ông, không phải ông Mô-sê đã cho các ông ăn bánh bởi trời đâu, mà chính là Cha tôi cho các ông ăn bánh bởi trời, bánh đích thực, vì bánh Thiên Chúa ban là bánh từ trời xuống, bánh đem lại sự sống cho thế gian.” Họ liền nói:“Thưa Ngài, xin cho chúng tôi được ăn mãi thứ bánh ấy.” Đức Giê-su bảo họ:”Chính tôi là bánh trường sinh. Ai đến với tôi, không hề phải đói; ai tin vào tôi, chẳng khát bao giờ!”    

&   &    &

“Trái tim con, đang rên siết héo mòn,”

“Nên chạy đến bên Người, con kêu khấn.”

(dẫn từ thơ Hoài Châu)

 Phải chăng nhà thơ nay chạy đến bên Người là vì tâm can rên siết, những héo mòn? Phải chăng nhà Đạo cũng làm thế, khi tim mình chẳng còn thấy gì hứng thú? Héo mòn và hứng thú, là hai phạm trù được diễn tả ở trình thuật thánh Gioan ghi, hôm nay.

Trình thuật thánh Gioan nay ghi, là ghi về một sự thể có tình tiết giống ở đời. Tình tiết, về Bánh Hằng Sống rất yêu thương, không chỉ có ở Tiệc Thánh, mà thôi. Nhưng, Bánh Hằng Sống còn là Lời Ngài trải rộng trong từng giai đoạn tiến triển ở Tiệc Thánh. Và, Tiệc Ngài dọn còn dành nguyên nửa buổi để giúp người dự vui hưởng tâm tình Ngài tỏ bày, qua bài đọc.

Bài đọc 1, trích từ Cựu Ước thường ăn khớp với Phúc Âm. Ở ngay giữa là bài đọc 2, gồm các thư của thánh tông đồ theo chân Chúa từ độ ấy, đa phần là thư thánh Phaolô được Hội thánh dùng làm cầu nối giữa Cựu và Tân ước. Thế nên, Tiệc Thánh vẫn là dịp thuận để người dự sống áp dụng Lời Ngài, trong cuộc đời.

Đôi lúc người dự Tiệc thấy cũng khó mà hiểu trọn các đoạn Kinh Sách được trích theo kiểu bốc thăm vốn vượt ra ngoài bối cảnh của Tin Mừng. Nên, đôi lúc người nghe cũng thấy khó mà áp dụng vào cuộc sống bình thường của người đi Đạo. Nhưng, nếu người đọc và người nghe chú tâm vào chủ đề từng biến đổi từ cảnh bạo lực trong cuộc sống thành động thái biết chọn sống hiền lành/tử tế, sẽ khác hẳn.

Đồng thời, trích dẫn bài đọc từ sách Cựu Ước theo kiểu bốc thăm/may rủi, có thể làm người nghe thấy cũng giống báo đài thuật toàn chuyện bạo lực, như: khuynh loát, sách nhiễu, hành hạ nô lệ, lưu đày, thánh chiến, nói chung về nền văn hoá Do thái trước sau lưu đày. Với người Do thái, toàn bộ nền văn hoá này gồm tóm trong Torah, vẫn tồn tại trong thế giới còn hoang sơ mà họ là thành phần thiểu số. Ở đó, còn nói đến Giao ước Chúa thiết lập với con ngưòi. Đến Lời Ngài hứa ban cho dân con một tương lai ngời sáng có “đất lành chim đậu”, có vương quốc Nước Trời hiền hoà do vua cha và ngôn sứ dành để.

Bài đọc 3, là trình thuật rút từ Giao Ước Mới của Chúa, đôi khi cũng pha dặm đôi nét bạo lực, như: cảnh Chúa cam chịu đóng đinh, đền thờ Giêrusalem bị phá hủy, hoặc đế quốc La Mã hà hiếp văn hoá của người Do thái ở thế kỷ cuối trước Công nguyên. Nói tóm, Giao Ước Mới cũng thấy cảnh khổ đau, sầu buồn, tàn bạo. Nhưng, thực chất của Giao Ước Mới chỉ đưa ra cách sống mới không bạo tàn, cưỡng bức.

Bằng vào cung cách mới này, Đức Giêsu và những người theo chân Ngài cũng từng trải sự sống không chỉ lúc nào cũng tích cực, nhưng có lúc cũng trầm buồn, rất nản lòng. Và, Ngài cũng thấy ở đó một dịp thuận tiện để ta suy tư về chủ thuyết duy-kỷ vốn lợi dụng người khác để làm lợi cho chính mình, tôn thờ mình. Trái lại, Ngài còn chấp nhận đường sống rất thấp để biến Ngài thành chốn hư không, trống rỗng, không màng quyền lực vẫn chờ chực mình ở quanh đó. Và, Ngài chấp nhận chịu đóng đinh trên thập tự là vì thế. Chấp nhận, cả cái chết rất bạo tàn qua kinh nghiệm về nỗi “chết dần chết mòn” để rồi tìm ra điều tích cực hiện tỏ sự trỗi dậy từ mồ trống.

Suốt cuộc đời, Ngài chỉ nói bằng Lời thương yêu vô điều kiện. Thứ tình thương chỉ hiện rõ nơi cuộc sống trải nghiệm về nỗi chết bạo tàn hầu chọn lựa Sự Sống tích cực mà con người vẫn giáp mặt, nhưng khó thấy. Chúa từng sống trải nghiệm vẫn giáp mặt nỗi niềm chết chóc rất tiêu cực, có thế mới ban cho ta khả năng và nghị lực cùng ý chỉ để được sống như Ngài. Và Ngài chuyển đến cho ta sức sống nội tâm là Thần Khí đến ở trong ta, để ta cùng Ngài mà sống. Sống, có thời khắc của Xuân mùa bất tận, trong đó mọi người sẽ không còn sống theo cung cách bạo lực, nữa.

Đôi lúc việc chọn bài đọc không cho người nghe biết rõ tất cả ý nghĩa của chọn lựa. Nhưng nếu người dự Tiệc Thánh vẫn thường xuyên đến với cộng đoàn để cùng dự, sẽ dễ nhận ra điều này. Và, người dự sẽ còn khám phá thêm nhiều ý nghĩa hơn. Khám phá ra Chúa đang nói Lời yêu thương với ta. Và, Ngài vẫn chờ đợi nơi ta một đáp trả, tích cực. Đáp trả, không bằng câu trích từ sách cổ, nhiều điển tích. Nhưng, bằng áp dụng Lời sống động vào cuộc sống của ta, và mọi người.

Bởi thế nên, đọc Lời Chúa ở Tiệc Thánh không chỉ đơn giản đọc và hiểu mỗi nghĩa chữ của bài đọc; nhưng nên coi đó như Lời đối thoại Chúa chuyển đến với ta, để ta đàm đạo với Người. Đối thoại, là để đáp trả từ niềm tin sau khi nghe Lời Ngài dạy dỗ. Đối thoại trong im lặng, cũng là động thái đáp trả mà Chúa vẫn chờ từ nơi ta. Đáp trả, bằng niềm tin-yêu ta vẫn có đối với Chúa, với mọi người.              

Tiếng Do thái cổ xưa, được sử dụng trong Cựu ước, thường diễn tả sự đáp trả ấy bằng cụm từ “Dabar” tức “lời được thốt” bao gồm cả một ý tưởng về một sự kiện vừa khởi đầu. Ở Tiệc Thánh, nhất là phần Tiệc Lời Chúa, là sự khởi đầu của đáp trả. Theo sau đó, có lời diễn giải của linh mục hoặc phó tế muốn biến đáp trả ấy bằng hiện thực, ngay tại chỗ. Diễn và giải, không là giáo án hoặc bài giảng thuyết. Nhưng lại là nói lên quan điểm lập trường bảo rằng Lời của Chúa trong đó bao gồm rất nhiều đường lối sống Chúa đưa ra, và có nghĩa là Ngài còn chờ sự đáp trả, không phải bằng nghi thức tế tự ở buổi Tiệc, mà bằng cuộc sống thực được áp dụng vào những tuần sau đó. 

Diễn giải hoặc san sẻ Lời của Chúa, dù gọi đó là giảng thuyết hay giảng đạo đi nữa, vẫn là để cho người dự Tiệc nghe biết về đường lối sống giống như Chúa. Giống, như một đáp trả rất thân thiện, lành mạnh. Diễn giải Lời Ngài, còn để khích lệ người dự Tiệc học được cung cách biến đổi tính bạo tàn trong cuộc sống thành tính chất hiền từ/tử tế, vào mọi lúc. Hiền từ/tử tể với chính mình, người khác và với Chúa.

Chu kỳ phụng vụ suốt 3 năm, Hội thánh trích dẫn rất nhiều bài đọc. Và, kèm theo đó, có rất nhiều bài giảng thuyết khiến người nghe những là ngủ vùi, hoặc lịm chết. Nhưng, tựu trung, Chúa vẫn tỏ ra kiên nhẫn với người diễn và giảng Lời. Thậm chí, Ngài còn mong cho mọi người cả người diễn giảng lẫn người nghe giảng giải có thể biến đổi trở nên hiền từ/tử tế, rất hết mình. Ngài không vội vã ước muốn lời diễn giảng mau chóng mang lại kết quả rất nhãn tiền. Bởi, càng vội vã bao nhiêu thì việc đổi và biến cũng không bảo đảm được chất lượng thực sự của biến đổi.

Thời nay, người người nói quá nhiều về cụm từ “đọc sách thánh”, hiểu theo nghĩa chỉ những đọc và nghe mà không theo đường lối tích cực. Tức, chỉ ngồi đó nghe tai này lọt tai khác như nghe hát nhạc kịch. Nghe rồi là xong, chẳng đánh động cũng chẳng đưa người nghe đi vào một quyết tâm. Nói cách khác, chẳng có gì bảo đảm là Lời Chúa đi sâu vào tâm khảm của người nghe lẫn người đọc để rồi khích lệ họ áp dụng vào đời sống có đáp trả.

“Đọc sách thánh” ở Tiệc Lời Chúa, lại quyết mang một ý nghĩa khác. Ý nghĩa, của sự việc giúp đỡ người nghe đi vào hiện thực. Nghe như thế, là nghe trong tư thế sẵn sàng biến đổi từ sự bạo tàn, khó chịu thành động thái chịu khó mà sống hiền từ/tử tế. Có như thế, Lời Chúa mới tiếp tục trở thành cuộc đối thoại cởi mở, giữa Chúa và chính mình. Giữa chính mình và Đức Chúa hiện diện nơi tâm người khác. Dù người đó có là Kitô-khác, hay chỉ là người “ngoài luồng”, ngoài Đạo.

Nói cách khác, “đọc sách thánh” là đọc được sự đối thoại giữa Đức Chúa và con người. Giữa con người và con người, như Kitô-khác. Đọc như thế, sẽ như thể dám cùng nhau đứng thẳng dậy mà tuyên xưng niềm tin qua kinh Tin Kính của cuộc đời vẫn tuyên bố rằng: Chúng tôi tin vào đường lối sống Chúa khuyên dạy, từ Sách thánh. Và chúng tôi sẽ tìm cách biến Lời ấy thành hiện thực, ở đời thường.

Tiệc Lời Chúa, như thế là sự thể của toàn thể vũ trụ vạn vật. Thế nên, vào giờ nguyện cầu tiếp theo sau, lời lẽ yêu cầu vào lúc ấy không còn là những thỉnh cầu lợi lộc cho riêng bản thân người cầu và nguyện, nhưng mang tính toàn cầu. Bởi lời cầu của vũ trụ không là cầu cho ông A bà B được tìm thấy sau khi bị lạc. Nguyện cầu đây, cũng không là lời cầu của vũ trụ vạn vật chỉ xin Chúa có được sự kiện lớn lao trong vũ trụ. Nhưng là lời cầu mong cho chuyện lớn trong vũ trụ được xảy đến qua đó mọi người trở nên hiền từ/tử tế, thật giống Chúa.

Nguyện cầu vào Tiệc Lời Chúa, là nguyện và cầu để vũ trụ vạn vật có được bình an, không một ai còn hằn in tính chất bạo tàn, kỳ thị. Nhưng, biết nghĩ đến người khác. Biết hỗ trợ, giùm giúp những người có nhu cầu thiết thực, ở mọi nơi. Lời cầu và nguyện ước ấy dẫn đưa người dự Tiệc hiên ngang phấn khởi để vào với phụng vụ Thánh Thể, rất hiệp thông. Xuyên suốt. Rất đậm đà tình Chúa và tình người.

Trong tâm tình đó, nay ta lại ngâm tiếp lời thơ ý nhị còn ngâm dở:

            “Trái tim con đang rên siết héo mòn,

            Nên chạy đến bên Người con kêu khấn.

            Xin Chúa thương đưa bàn tay chí thánh,

            Giúp cho con được chắp cánh cùng nàng…”

            (Hoài Châu – Nguyện Cầu)  

    Nguyện cầu đây, không chỉ để chắp cánh bay cao cùng nàng, về đâu không biết nữa. Nhưng nguyện và cầu, để người người biết nghe Lời giống như Chúa, chỉ muốn hiện thực ý của Ngài, mà thôi. 

Lm Kevin O’Shea DCCT biên soạn –

Mai Tá lược dịch

 “Rộn ràng một nỗi đau” 

Chuyện Phiếm đọc trong tuần 18 Thường niên năm B 05/8/2018

 “Rộn ràng một nỗi đau”
Nghẹn ngào một nỗi vui
Dịu dàng một nỗi đau
Nghẹn ngào một nỗi vui.
(Ngô Tịnh Yên/Trần Duy Đức – Nếu Có Yêu Tôi)

(2Thessalônikê 1: 4-6)

 Trần Ngọc Mười Hai

Nỗi đau rộn ràng ư? Đã đau rồi, thì bao giờ mà chẳng rộn-ràng. Rộn và ràng, theo nghĩa “khẩn trương” thân thương thật gấp rút. Nếu không, chắc sẽ không còn đủ thì giờ mà hát với xướng, những câu sau đây:

“Có tốt với tôi thì tốt với tôi bây giờ
Đừng đợi ngày mai đến lúc tôi xa người
Đừng đợi ngày mai đến khi tôi phải ra đi
Ôi buồn làm sao nói lời tạ ơn. 

Nếu có bao dung thì hãy bao dung bây giờ
Đừng đợi ngày mai đến lúc tôi xa đời
Đừng đợi ngày mai biết đâu tôi nằm im hơi
Tôi chẳng làm sao tạ lỗi cùng người.
(Ngô Tịnh Yên/Trần Duy Đức – bđd)

Và cứ thế, người nghệ sĩ lại cứ ca hoài/ca mãi một câu hát được trích-dẫn rất nhiều lần, như sau:

“Có nhớ thương tôi thì đến với tôi bây giờ
Đừng đợi ngày mai lúc mắt tôi khép lại
Đừng đợi ngày mai có khi tôi đành xuôi tay
Trôi dạt về đâu chốn nào tựa nương.

Và:

“Nếu có yêu tôi thì hãy yêu tôi bây giờ
Đừng đợi ngày mai đến lúc tôi qua đời
Đừng đợi ngày mai có khi tôi thành mây khói
Cát bụi làm sao mà biết mỉm cười. 

Rộn ràng một nỗi đau
Nghẹn ngào một nỗi vui
Dịu dàng một nỗi đau
Nghẹn ngào một nỗi vui.”

(Ngô Tịnh Yên/Trần Duy Đức – bđd)

Nỗi đau và niềm vui đây, có giống câu truyện kể ở bên dưới không?

“Truyện rằng:

Cậu bé 8 tuổi lần đầu tiên bước vào lớp ngày tựu trường.

Cô giáo hỏi:

-Này, em tên gì thế? 

-Em tên Mohamed. 

Cô giáo bèn nói tiếp:

-Em đang ở Mỹ, từ nay mọi người sẽ gọi em là Mike nha. 

 Tan trường cậu bé trở về nhà. Mẹ cậu bèn hỏi:

“Ngày đầu đi học ra sao, Mohamed?” 

Cậu bé nói:

-Con đang sống ở Mỹ, từ nay tên con sẽ là Mike. 

-Mày xấu hổ vì cái tên Mohamed hả? Mày muốn làm nhục cha mẹ, tổ tiên, truyền thống, và tôn giáo mày hả? Rồi bà mẹ đánh cậu bé một chập. 

 Lúc chồng về tới nhà, bà ta kể lại. Thế là ông cha lôi thằng bé ra đánh thêm chập nữa. 

Hôm sau tới trường, thấy mình mẫy cậu bé bị bầm dập, cô giáo hỏi,

-Em bị gì vậy Mike?” 

Mike trả lời:

-Liền sau khi vừa trở thành người Mỹ, em bị 2 đứa khủng bố Hồi giáo chúng tấn công em!

“Bị Hồi-giáo tấn công”, không sợ bằng bậc thày nọ có quan-niệm lạ về Cuộc sống, Giáo huấn và Sự việc liên quan đến Cách mạng Tôn giáo” như đã viết, rằng:   

“Từ hồi nhỏ, tôi vẫn hát những ca khúc kể về cuộc đời Đức Giêsu đã thuyết phục tôi suốt nhiều năm trường cho tới khi khôn lớn tôi vẫn nhận ra rằng đời mình còn có vấn-đề quan-trọng không kém, đó là: làm sao kể truyện Ngài đây?

 Quả thật, có nhiều cách kể về đời Đức Giêsu, nhưng kể cách nào, đó mới là vấn-đề. Và, vấn-đề này luôn mang tính nghiêm-chỉnh rất khó lường…

 Ở thế kỷ thứ tư và thứ năm, ngôn ngữ nhà Đạo luôn luôn kể rằng Đức Giêsu là “Ngôi Thứ Hai” trong Ba Ngôi Đức Chúa Trời và Ngài luôn trở nên Một với Thiên-Chúa Cha”. Với người theo Đạo Chúa, thì: mặc-khải lớn về Thiên-Chúa là Đấng có xương thịt, mà ta vẫn gọi bằng cụm-từ “Con Thiên Chúa”, qua đó sự việc Ngôi Lời đã mặc tính xác thịt ôm trọn những gì mọi người nghĩ về Thiên-Chúa trong cuộc sống của con người, như Ánh Sáng chiếu rọi nhân-trần, Ngài tỏa sáng trên ta về bản-chất và ý-định của Thiên Chúa và đường lối để ta sống.

 Đã đành là, người Đạo Chúa vẫn cho rằng Kinh thánh luôn mặc-khải về Thiên-Chúa như Lời của Ngài”. Quả thật, thần-học chính-thống của Đạo Chúa từ ngàn xưa, vẫn khẳng-định rằng sự việc mặc khải Thiên-Chúa đầy tính quyết-định chính là Đức Giêsu bằng xương bằng thịt.

 Và, Kinh thánh chính là “Lời” trở thành “lời lẽ”thế nên mặc-khải về Chúa bằng “lời lẽ” của con người.

 Thành thử, Đức Giêsu chính là “Lời” trở thành xác phàm, thế nên mặc-khải về Chúa đã thành hiện-thực trong cuộc sống của con người. Thành thử ra, Đức Giêsu mang mặc đặc-tính đầy xác-quyết hơn cả Thánh Kinh…” (X. Marcus J. Borg, Jesus: Uncovering the Life, Teachings and Relevance of a Religious Revolutionary, HarperOne 1989, tr. 5-7)

Niềm vui và nỗi đau ở đời người, còn được diễn tả trong truyện kể của người mình, cũng huê-dạng như sau:

“Hà Nội là cả một thế giới bí mật, nó luôn luôn giấu những bất ngờ nho nhỏ ở một chỗ ta không hình dung ra được. Một may mắn tình cờ nào đó ta tìm thấy cái bí mật đó ngay trước mặt ta, ta bàng hoàng như được ai mời một chén rượu quý. Cái ngọt của rượu cứ vương mãi ở cổ như một bài thơ chưa đọc đến câu cuối cùng. Câu thơ đó có thể ở lại với ta suốt một đời người.

Một buổi chiều, tôi lang thang trên đường phố Hà Nội, đi một mình trong khi chờ đợi chồng con (được một ngày mẹ cho) đang phân tán trong phố cổ trở về đi ăn tối. Vừa đi vừa ngắm nghía hai bên: Phố, người, xe tấp nập buổi tan tầm, chạy đâm vào nhau, như những con rối trong tuồng múa nước. Cái cảnh này trên thế giới chỉ có ở những nơi đất hẹp người đông. Hà Nội, Sài Gòn Việt Nam là hai nơi điển hình đáng kể nhất. Chen giữa bước chân đi là những hàng ăn, hàng uống bầy cả ra hai bên phố. Ngay trước những cửa hiệu hàng hóa, ai muốn bán thì cứ bầy ra bán.

 Ở một con ngõ vào xóm người ta cũng có thể chăng một tấm bạt từ vách tường của nhà bên phải sang vách tường của nhà bên trái ở ngay đầu ngõ làm thành một quán cà phê hay một quán bán chè, bán cháo.

 Ai may mắn có được cái mặt tiền độ ba thước vuông là thành một cửa hiệu khang trang lắm rồi, còn không thì cứ bầy ngay ra trên lối đi, trên một nắp miệng cống cũng để vừa một gánh hàng rong. Khách hàng xúm xít ngồi xuống ăn uống rất là tự nhiên, giản dị, thưởng thức món ăn thật hạnh phúc, chẳng kém gì những người khách ở trong một nhà hàng sang trọng thưởng thức món ăn của mình.

Tôi hòa mình vào trong cái dòng sinh mệnh đông đảo đó. Lang thang mãi, mỏi chân và khát nước, thấy thèm một ly trà quá. Thật may, một cái quán bán nước trà, kẹo lạc (đậu phọng) đơn sơ ngay góc đường Tôn Đức Thắng và Đoàn thị Điểm. Quán không có bảng hiệu, vài cái bàn thấp và ghế đẩu, nhưng gần như mọi người đã ngồi hết, tôi đứng loay hoay một vài giây, có người giúi cho vào tay chiếc ghế đẩu, mà chẳng nói một câu gì.

 Tôi vội cám ơn và nhận được một nụ cười. Ngồi xuống, chưa kịp gọi thì chủ quán, một người đàn bà trẻ khoảng ngoài ba mươi đã đem đến trước mặt tôi một ly nước trà, và cái đĩa nhỏ có mấy chiếc kẹo. Chị không nói câu nào, đặt ly nước trà bốc khói, thơm ngát xuống ngay một góc bàn đã có bốn người ngồi trước mặt tôi với một nụ cười, tôi cũng cười lại đáp lễ, cúi xuống nhìn vào ly nước một giây, rồi uống một ngụm nhỏ. Nước trà vừa chát, vừa ngọt, vừa thơm, đúng là trà mộc Thái Nguyên. Uống ngụm nước mà như uống một nụ cười. Hình như những người ở trong quán này ai cũng hào phóng nụ cười.

Nước trà làm tôi tỉnh hẳn người, lúc đó tôi mới để ý nhìn chung quanh. Quán trà nhỏ xíu nhưng rất ấm cúng và giản dị. Chị chủ quán đang loay hoay với những chiếc ấm, những hộp, những gói trà và những chiếc ly thủy tinh. Ánh lửa ở chiếc lò ga hắt lấp lóe một bên má chị, nhìn thấy cả đuôi lông mày của con mắt bên đó kéo dài một nét thanh thanh, cái bóng nhỏ bé của chị hắt một vệt rất mờ trên vách.

 Cả quán có ba chiếc bàn vuông và một chiếc bàn dài, bàn vuông thì ngồi được hai người, bàn dài thì được bốn người. Vì quán rất hẹp, nên kê gần nhau lắm. Bàn nào hình như cũng chen thêm ghế, và khách ngồi sát vai nhau rất là thân mật. Họ chụm đầu vào nhau, trò chuyện, nhai kẹo lạc ròn thành tiếng, khói trà nghi ngút bốc lên ngang mặt mọi người, nhưng sau làn khói mỏng manh đó những con mắt vẫn ánh lên khi họ nhìn nhau trò chuyện. Thỉnh thoảng họ lại giơ tay đập vào vai nhau rất thân thiện.

Quán trà bình dân này không có tiếng hát, tiếng nhạc vỡ ra từ máy phát thanh hay truyền hình như ở các nơi khác, nên không khí rất êm ả. Khách nói chuyện với nhau rất khẽ, khẽ đến nỗi không nghe được tiếng, chỉ thấy những bàn tay xòe ra, nắm vào, những ngón tay chỉ vào ngực mình, hay chỉ vào mũi người khác thi nhau múa lên. Nếu họ nói to thì chắc là quán đang ồn lắm.

 Mặc cho tiếng ồn ào của những chiếc xe gắn máy, tiếng còi xe bóp inh ỏi, tiếng người gọi nhau ơi ới, tiếng rao hàng và đôi khi chen vào cả tiếng cãi cọ trước cửa quán, những người vào đây uống trà họ giữ được không khí rất là thinh lặng, nói rất khẽ và cười rất nhẹ. Chị chủ quán luôn luôn biết ý khách hàng, không đợi gọi, kẹo chưa hết đã mang ra, trà lúc nào cũng được rót đầy ly đem tới, chị thong thả chuyên nước sôi từ ấm sang bình, tiếng nước sôi trên bếp cũng nhẹ nhàng như tiếng guốc chị di chuyển, hình như tôi nghe được cả tiếng thở của chị.

Tôi uống đến ly trà thứ hai và ăn gần hết chiếc kẹo, tỉnh hẳn người, lúc đó mới quan sát kỹ đến những người khách chung quanh mình. Họ phần đông còn trẻ, người già nhất chắc chỉ khoảng bốn mươi, họ đang nói chuyện với nhau bằng những bàn tay, múa khoa lên trong quán. Cách nói chuyện của họ làm tôi liên tưởng đến một lớp “Sign Language” ở College tôi đã theo học cách đây mấy năm.

 Câu đầu tiên chúng tôi học là lấy ngón tay chỉ vào giữa ngực mình, xong xòe bàn tay ra áp vào bên trái ngực, rồi chỉ ngón tay vào người đối điện. Như thế có nghĩa là I love you.Tôi đã học hết khóa vỡ lòng và có thể nói chuyện vài ba câu thông thường với người câm, điếc. Bẵng đi một thời gian không học tiếp theo, bây giờ khó mà nhớ lại được hết những điều mình học.

Chị chủ quán đến gần tôi với một mảnh giấy, đưa cho tôi đọc. “Đây là quán Trà của người câm và điếc, bà cần gì thêm xin viết xuống đây.” Tôi ngẩn người ra nhìn chị, chị nhìn lại tôi cũng vẫn với nụ cười. Tôi viết lên tờ giấy của chị vừa đem đến, hỏi chị mở quán này bao lâu? Thì chị cho biết là mới hai năm, sau khi vừa lập gia đình, anh cũng là người dùng ngôn ngữ thinh lặng như chị.

 Chúng tôi tiếp tục bút đàm với nhau, chị nói khi mới mở quán trà, muốn bán cho tất cả mọi người, nhưng khách nói được đến uống trà thấy cứ phải bút đàm với chủ quán mất nhiều thời giờ quá và khách không nói được thì cứ giơ tay chỉ chỏ vào họ, nên họ bỏ đi. Dần dần những người câm, điếc rủ nhau đến đây uống trà, coi như quán này mở ra chỉ để dành riêng cho họ, những người đối thoại thinh lặng.

Tôi ngồi im trong bóng chiều chập choạng, một vài cửa tiệm đã lên đèn, chị chủ quán cũng bật lên một ngọn đèn điện ở một góc quán, ngọn đèn không được sáng lắm, nhưng cũng soi rõ những bàn tay đưa ra, những ngón tay chỏ vào nhau, tôi ngắm nhìn những bàn tay đó cố vận dụng vốn liếng ít ỏi đã học được của mình, dần dần tôi hiểu họ đang nói với nhau về việc làm, giá sinh hoạt, có người có con vừa ở bệnh viện ra, có người vừa thất nghiệp. Tôi dở quá nên nghe được mà không nói được. Nếu tôi còn nhớ để nói chuyện được với họ thì hay biết bao!

Nếu ai đã từng được thưởng thức tuồng Nô của người Nhật, là một loại tuồng các diễn viên sơn mặt trắng toát giống nhau, khi diễn kịch họ không nói tiếng nào, chỉ diễn tả bằng cách khoa tay múa chân, người xem phải đoán được cảm xúc của họ qua những cử chỉ đó, thì thấy những người đang uống trà trong quán này giống như họ vậy, có khác một điều những người này không phải kịch sĩ, họ không quét sơn trắng lên mặt, nên ta đọc được cảm xúc trên từng cái cau lông mày, cái cười mệt mỏi nửa miệng, hay nụ cười nở tung ra như một đóa hoa.

 Tôi phải nhờ chị chủ quán thông ngôn, cái ngôn ngữ thinh lặng này. Tôi viết xuống giấy câu hỏi, rồi chị chủ quán dùng tay nói lại với họ. Chị cho biết phần đông những người này không biết đọc, biết viết. Nếu tôi muốn nói chuyện với họ, phải nói thật to, không được dùng tay che miệng, họ sẽ nhìn miệng tôi mà đoán tôi đang nói câu gì.

Có người rút ở trong túi ra một tờ giấy, có bọc plastic với một dòng chữ in sẵn: Tôi vừa câm vừa điếc. Không biết chữ. Xin nói to và đừng che miệng. Tôi nhìn tờ giấy được giữ gìn cẩn trọng như một tờ căn cước mà trong lòng rưng rưng, thấy nghèn nghẹn ở cuống họng, vội cúi xuống uống ngay một ngụm trà.

Tôi ngồi chuyện trò với họ bằng sự trợ giúp của chị chủ quán, chúng tôi nói với nhau về những đời thường. Chuyện gia đình, chuyện học của con, chuyện việc làm của cha mẹ. Họ hỏi tôi về cái đất nước xa xăm tôi sống, ở đó những người câm, điếc được giúp đỡ thế nào? 

Chúng tôi hỏi nhau cả về chuyện uống trà. Câu chuyện càng lúc càng thân thiện cởi mở, họ nói năng tự nhiên, ước mơ giản dị, chỉ mong kiếm đủ ngày hai bữa, có chút tiền nhỏ phòng khi con cái ốm đau, đủ tiền đóng học phí cho con mỗi khóa học.

Những buổi chiều tan việc, họ bỏ lại tất cả nhọc nhằn khuân vác trên bến dưới thuyền ở những bãi sông; những túi xi măng, những viên gạch, tảng đá ở nơi xây cất; cái cuốc cái xẻng ở một con đường đang đào, đắp nào đó, ghé uống mấy ly nước trà và gặp những người cùng chung ngôn ngữ với họ, ngôn ngữ thinh lặng trong quán trà thinh lặng này.

Tôi ngắm nhìn họ cầm ly uống trà rất là bình dân, sảng khoái, hình dung ra ở một nơi uống trà khác của những người được gọi là thanh lịch. Những quán trà dành cho tao nhân mặc khách có những nghi thức cầu kỳ gọi là Trà Đạo. Khi cho trà vào ấm thì gọi là Ngọc Diệp hồi cung. Khi tráng trà thì gọi là Cao Sơn trường thủy (rót nước 60 độ, cao cách trà 20-30 phân). Khi pha trà thì gọi Hạ Sơn nhập thủy (rót sát miệng ấm, nước sôi đủ 100 độ). Khi nhấc chén trà lên thì mấy ngón tay cũng được thăng hoa gọi là ba con rồng Tam Long giá ngọc, trước khi uống ngụm trà đó phải từ tốn đưa lên mũi từ trái sang phải thưởng thức mùi thơm của trà gọi là Du Sơn lâm thủy.*

 Chao ôi là nghi lễ, thật cầu kỳ.

Những người uống trà trong quán trà Thinh Lặng này họ giản dị lắm, trà do chị chủ quán pha một bình lớn, rót ra sẵn trước mặt, họ cầm lấy chén trà, nhìn nhau bằng những ánh mắt thân mật, ngửa cổ lên uống một hơi đầy, uống theo cả mệt nhọc của một ngày lao động vất vả vào lồng ngực. Họ chỉ vào ngực mình, ngực bạn, nói lòng quý mến nhau. Những tiếng động bên ngoài đường của xe cộ, của âm thanh ầm ĩ, họ bỏ cả ngoài tai. Trong những lồng ngực đơn sơ đó cái âm thanh tĩnh lặng kéo dài theo nhịp đập êm ả của trái tim.

Tôi chào họ ra về, mang theo quán trà Thinh Lặng trong trái tim nhiều tiếng động đời thường của mình, nước mắt bỗng ứa ra.

 Chao ôi, là quê hương yêu dấu! Mỗi chỗ giấu một điều bí mật, ta có may mắn tìm thấy, khác nào như những người tìm được châu báu trong kho tàng cổ tích thần tiên.” (Trích “Quán Trà Thinh Lặng” của Trần Mộng Tú)

 Thinh lặng hay ồn ào, vẫn là nỗi đau của đời người, được người nghệ sĩ diễn tả thêm lần nữa, qua nét nhạc, rằng những hát:

“Có tốt với tôi thì tốt với tôi bây giờ
Đừng đợi ngày mai đến lúc tôi xa người
Đừng đợi ngày mai đến khi tôi phải ra đi
Ôi buồn làm sao nói lời tạ ơn. 

Nếu có bao dung thì hãy bao dung bây giờ
Đừng đợi ngày mai đến lúc tôi xa đời
Đừng đợi ngày mai biết đâu tôi nằm im hơi
Tôi chẳng làm sao tạ lỗi cùng người.
(Ngô Tịnh Yên/Trần Duy Đức – bđd)

Gặp phải nỗi đau suốt một đời, cũng đừng tạ lỗi với ai hết. Bởi, nỗi đau ở đời người luôn sát cánh với người đời, hệt như lời đấng thánh-hiền từng bảo ban, như sau:

“Bởi thế, chúng tôi hãnh diện về anh em

trước mặt các Hội Thánh của Thiên Chúa,

vì anh em kiên nhẫn

và có lòng tin mỗi khi bị bắt bớ

hay gặp cảnh gian truân.

Đó là dấu cho thấy Thiên Chúa xét xử công minh:

anh em sẽ được coi là

xứng đáng tham dự Nước Thiên Chúa,

chính vì Nước Thiên Chúa

mà anh em chịu đau khổ.”

(2Thessalônikê 1: 4-6)

 Hãnh-diện, không vì anh chị em từng chịu đau khổ suốt mọi thời. Nhưng, vì anh chị em mình đều vì Nước Thiên-Chúa, nên mới thế.

  Trần Ngọc Mười Hai

Và những nỗi đau

rất khó tả trong đời mình,

nhưng vẫn kiên nhẫn

sống vui sống mạnh với mọi người

suốt một đời.

LINH ĐẠO I-NHÃ – LINH ĐẠO CỦA CON TIM !

LINH ĐẠO I-NHÃ – LINH ĐẠO CỦA CON TIM !

    Trong bài thao luyện Tiếng Gọi Vua Đời Tạm Giúp Chiêm Ngắm Cuộc Đời Vua Hằng Sống, thánh I-nhã nói rằng có hai kiểu đáp trả trước tiếng gọi của Thiên Chúa.  Một kiểu đáp trả đến từ con người lý trí.  Kiểu thứ hai đến từ con người quảng đại và hào hiệp.  Chúng ta có thể gọi kiểu đáp trả đó là sự đáp trả của con tim.

 Thánh I-nhã mở đầu Linh Thao của ngài với 20 ghi chú nhằm giải thích mục đích của những bài thao luyện cũng như đưa ra vài lời khuyên và chỉ dẫn cho người hướng dẫn tĩnh tâm.  Chính những chỉ dẫn đầu tiên này đã giải thích điều thánh nhân muốn nói ngang qua những bài tập thiêng liêng.  Tập thể dục giúp điều hòa thân thể và tăng cường sức khỏe.  Và theo thánh I-nhã, Linh Thao hữu ích trong việc “giúp tăng cường và nâng đỡ chúng ta trong nỗ lực đáp trả ngày càng trung tín hơn với Tình Yêu Thiên Chúa.

 Hãy để ý điều mà thánh I-nhã không nói đến.  Ngài không nói Linh Thao được biên soạn để đào sâu sự hiểu biết của chúng ta hoặc để gia tăng ý muốn của chúng ta.  Ngài không giải thích những mầu nhiệm thiêng liêng cho chúng ta hay khai sáng tư tưởng của chúng ta.  Chúng ta dễ thấy có những bài tập đặt nặng về trí hiểu, nhưng đây không phải là mục đích.  Mục đích của những bài thao luyện là một sự đáp trả vững tâm.  Thánh I-nhã theo đuổi sự đáp trả của con tim.

 “Con tim” không có nghĩa là cảm xúc (mặc dù từ ngữ này bao gồm ý nghĩa cảm xúc).  Từ ngữ này ám chỉ tới định hướng bên trong tâm hồn chúng ta.  “Con tim” này là điều mà Chúa Giêsu nhắc đến khi Ngài dạy bảo chúng ta hãy tích trữ kho tàng trên trời thay vì tích trữ của cải trần thế: “Vì kho tàng của anh ở đâu, thì lòng anh ở đó” (Mt 6, 21).  Đây là “tấm lòng” mà Chúa Giêsu đã trăn trở khi ngài nói: “vì tự lòng phát xuất những ý định gian tà, những tội giết người, ngoại tình, tà dâm, trộm cắp, làm chứng gian và vu khống.”  Chúa Giêsu nhận thấy rằng tấm lòng (con tim) của chúng ta có thể dần xa rời hành động của chúng ta: “Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta” (Mt 15, 8).  Trong cảm thức này, con tim – lời đáp trả toàn diện – mới thực sự là mối bận tâm của Linh Thao.

     Trên đây là ý nghĩa cổ xưa của từ ngữ “con tim” theo truyền thống Kinh Thánh, nhưng thực tế chúng ta còn lưu lại những vết tích của ý nghĩa này trong tiếng Anh đương đại.  Khi chúng ta nói với ai đó: “trái tim tôi dành cho bạn,” chúng ta muốn nói lên một điều gì đó vượt lên trên cảm nghĩ bận tâm hay lo lắng.  Chân thành mà nói, câu nói này thông truyền ý nghĩa về sự gắn kết hết lòng với ai đó.  Nó mang ý nghĩa xa hơn câu nói “tôi hiểu bạn” (về mặt trí năng).  Nó cũng mang ý nghĩa xa hơn câu nói “tôi thông cảm với bạn” (về mặt cảm xúc).  Nó có ý nghĩa đại loại như câu “tôi ở đây, tôi ở bên bạn.”  Đó là cách diễn tả một chọn lựa căn bản.

    Ngày nay, chúng ta thường nói về một người tỏ ra thiếu hăng say trong một dự án: “Hắn ta làm việc thật vô tâm.”  Chúng ta cũng thường nói điều này khi cung cách hành xử của người ấy không xứng hợp với ước muốn thâm sâu nhất của chính anh ta.  Chúng ta cũng nói như thế với chính mình mỗi khi vô tình làm tổn thương những người thân yêu hoặc làm những điều mà chúng ta biết là mâu thuẫn với bản chất của chúng ta.  “Cái tâm” ở đây là điều mà thánh I-nhã bận tâm.  Chúng ta có thể nghĩ về linh đạo I-nhã như một cách xếp đặt con tim cho đúng.

 Thánh I-nhã hiểu được điều này vì đó là điều đã xảy ra cho ngài.  Ngài đã trải qua một cuộc hoán cải sâu xa trong lúc hồi phục vết thương, nhưng đó không phải là một sự biến đổi về trí hiểu hay ước muốn.  Trước cuộc hoán cải – và về sau – ngài luôn là một Kitô hữu “chính truyền” luôn tuân theo những thực hành tôn giáo được mong đợi nơi ngài.  Chuyện đó không hề thay đổi.  Cuộc hoán cải của ngài bao gồm những khao khát và dấn thân sâu xa nhất, mà điểm quy chiếu cốt yếu của chúng là phẩm tính của con người trước mặt Thiên Chúa.  Qua thời gian, hiểu biết về tôn giáo trên lý thuyết lẫn thực hành của thánh nhân hiển nhiên được đào sâu, nhưng quan trọng nhất là chính con tim của ngài được biến đổi.

     Qua bao năm cầu nguyện sốt sắng và được người khác linh hướng, thánh I-nhã đã khai triển nhiều cách thức để lắng nghe ngôn ngữ con tim.  Đây chính là loại ngôn ngữ bày tỏ những ý định của Thiên Chúa và thôi thúc chúng ta quảng đại đáp trả.  Điều chúng ta tin và điều chúng ta làm thì quan trọng thật đấy, nhưng thánh I-nhã còn quan tâm hơn nữa đến tình trạng tâm hồn của mỗi người chúng ta.

     Tuy nhiên, hầu hết chúng ta vẫn gặp phải một cám dỗ dai dẳng là muốn biến Linh Thao hay bất kỳ một cuộc canh tân thiêng liêng nào đó trở thành vấn đề của việc thay đổi tư duy.  Thực vậy, nguy cơ này nảy sinh ngay cả trong một cuốn sách kiểu như cuốn Linh Thao – một cuốn sách đề ra những ý tưởng, quan niệm và nguyên tắc giúp mở rộng tầm hiểu biết của chúng ta về linh đạo I-nhã.  Thật là quan trọng để ý thức ngay rằng hiểu biết không phải là mục tiêu cuối cùng của chúng ta trong Linh Thao.  Chúng ta có thể biết rất nhiều thứ, nhưng có thể điều này chẳng ảnh hưởng gì đến cách chúng ta sống.  Mục tiêu của Linh Thao là sự đáp trả của con tim – điều thật sự làm thay đổi trọn cả con người chúng ta.

     Thiên Chúa đã huấn luyện con tim thánh I-nhã ngang qua nhiều thị kiến thần bí mà thánh nhân nhận được ngay từ khi bắt đầu hành trình thiêng liêng.  Một thị kiến kiểu như thế đến với thánh nhân vào lúc ngài đang băn khoăn xem có nên đọc ba hay bốn lời cầu nguyện với Chúa Ba Ngôi chăng – mỗi lời cầu nguyện hướng đến một ngôi riêng rẽ – Cha, Con và Thánh Thần – và lời nguyện thứ tư hướng đến Một Thiên Chúa Duy Nhất.  Một lần, khi đang thong dong cầu nguyện ngoài trời ở trên bậc tam cấp của một tu viện, thánh nhân bất chợt nghe tiếng Ba Ngôi Chí Thánh như tiếng nhạc của ba phím đàn đang hòa thanh (ba nốt nhạc cấu thành một hợp âm).  Khi khác, thánh nhân nhận được một thị kiến về cách thức Thiên Chúa sáng tạo thế giới, làm như thánh nhân thấy “một vật thể trắng sáng phát ra những tia sáng” và “Thiên Chúa làm thành ánh sáng.”  “Kẻ ấy không biết giải thích những điều này thế nào,” thánh nhân viết về mình trong ngôi thứ ba số ít (“kẻ ấy”).  Dẫu sao, thánh I-nhã đã đáp trả bằng con tim của ngài: “Nước mắt trào ra, kẻ ấy thổn thức không sao kìm hãm được.

     Sự đáp trả của con Tim là nền tảng của Linh Thao.  Công cuộc sáng tạo là một dòng chảy những quà tặng của Thiên Chúa, và sự đáp trả của con người là tiếp điểm để dòng chảy ấy trở về với nguồn mạch là chính Thiên Chúa.  Sự đáp trả của con người là sự lựa chọn tự do để cho cuộc sáng tạo của Chúa diễn ra.  Cuộc sáng tạo ấy giúp chúng ta hiểu biết, yêu mến Thiên Chúa và muốn sống với Ngài mãi mãi.

     Ngay từ đầu Linh Thao, thánh I-nhã đề nghị thao viên cầu nguyện trước Chúa Giêsu Kitô trên thập giá.  Thánh nhân chân nhận Chúa Kitô là Đấng Tạo Hóa, là Thiên Chúa của Nguyên Lý Và Nền Tảng.  Dường như Thánh I-nhã muốn nói: “Hãy trò chuyện với Chúa về cách thức Ngài sáng tạo thế giới vì tình yêu.”  Không có gì khó hiểu hay trừu tượng về một Thiên Chúa của lý trí, nhưng về một Thiên Chúa của Tình Yêu được chiêm ngắm trong khuôn mặt Đức Giêsu Kitô.  Đó là Chúa Kitô theo Thánh Phao-lô trong thư gửi cho các tín hữu ở Cô-lô-xê và Ê-phê-xô.  Đó là Chúa Kitô trong lời tựa Tin Mừng theo thánh Gio-an: “Nhờ Ngôi Lời, vạn vật được tạo thành.”  Đây là Con Thiên Chúa, là Alpha và Omega (Khởi Nguyên và Cùng Đích) trong sách Khải Huyền của tác giả Gio-an. 

    Hành trình thiêng liêng của chúng ta là một nỗ lực để trả lời câu hỏi: “Cả cuộc sống này có ý nghĩa gì?”  Đây là câu trả lời của thánh I-nhã: một hình ảnh về Thiên Chúa trong con tim của chúng ta, chứ không phải trong trí hiểu.  Hình ảnh đó là họa thuật về Đấng Tạo Hóa như một Đấng ban tặng dư dả. Ngài không ngừng trao ban những món quà và mời gọi chúng ta đáp trả – một chọn lựa tự do để chúng ta có thể quay trở lại với Ngài trong niềm tri ân cảm mến.  Đó là một hình ảnh mà chỉ con tim mới có thể đáp lời.

 Truyền Thông SJVN

 From: KittyThiênKim & KimBằngNguyễn

10 lý do chịu đau khổ

10 lý do chịu đau khổ

Horatio G. Spafford là một luật sư giỏi ở Chicago hồi thập niên 1800 và là bạn của nhà truyền giáo Dwight L. Moody.  Luật sư Spafford được kính trọng và tốt lành, nhưng ông vẫn không tránh khỏi những lúc khổ đau.

Trước hết, ông mất đứa con trai vì chứng ban đỏ (scarlet fever).  Rồi vốn đầu tư làm ăn cũng bị thua lỗ.  Không lâu sau đó, 4 cô con gái của ông chết trong một vụ đắm tàu ở Đại Tây Dương, chỉ còn bà vợ Anna của ông sống sót nhờ bám vào chiếc phao rồi được cứu.

 Tại sao bi kịch xảy ra với người tốt?  Luật sư Spafford không thể hiểu, nhưng rồi ông vẫn vững tin vào quyền năng của Thiên Chúa.  Mọi người có thể tôn vinh Thiên Chúa ngay cả trong những lúc đen tối nhất của cuộc đời.  Theo Kinh Thánh, đây là 10 lý do để chúng ta chịu đau khổ.

  1. Chúng ta chịu đau khổ vì chúng ta phạm tội.  Chẳng có ai công chính (Rm 3:10), nghĩa là ai cũng là tội nhân (Rm 3:23). Những người không có đức tin thì sống biệt lập với Chúa, còn những người có đức tin thì trải nghiệm từng khoảnh khắc, từng ngày, từng mùa… về niềm tin vào Thiên Chúa. Quy luật tâm linh được tạo ra để triệt tiêu tội lỗi trong đời sống của tín hữu, quy luật này nghiêm khắc, kể cả cái chết: “Ai ăn và uống mà không phân biệt được Thân Thể Chúa, là ăn và uống án phạt mình. Vì lẽ đó, trong anh em, có nhiều người ốm đau suy nhược, và cũng có lắm người đã chết.  Giả như chúng ta tự xét mình, thì chúng ta đã không bị xét xử.  Nhưng khi Chúa xét xử là Người sửa dạy chúng ta, để chúng ta khỏi bị kết án cùng với thế gian” (1 Cr 11:29-32).
  1. Chúng ta chịu đau khổ vì người khác phạm tội. Vợ chồng và con cái chịu đau khổ vì bị lạm dụng. Công dân chịu đau khổ vì chính quyền tham những. Satan xúi giục vua Đa-vít thống kê dân số Ít-ra-en, và có 470.000 người chịu hậu quả (2 Mcb 10:20). Chúa Giêsu chịu đau khổ và chịu chết không phải vì lỗi của Ngài mà vì tội lỗi của nhân loại.
  1. Chúng ta chịu đau khổ vì chúng ta sống trong thế giới tội lỗi. Tai nạn và tai họa xảy ra, mỗi năm có hàng triệu người chết. Thánh Phaolô nói rằng “muôn loài thọ tạo cùng rên siết và quằn quại như sắp sinh nở” (Rm 8:22). Đó là hậu quả của tội lỗi.
  1. Chúng ta chịu đau khổ vì chúng ta được tự do chọn lựa. Quyền năng Thiên Chúa và khả năng của con người là hai sự thật trong Kinh Thánh. Chúng ta không là robot, chúng ta có thể chọn lựa vì Thiên Chúa cho chúng ta quyền tự do. Đôi khi sự chọn lựa của chúng ta gây đau khổ – cho mình và cho người khác. Randy Alcorn viết:“Nếu Thiên Chúa tước hết vũ khí và ngăn chặn các tài xế say xỉn, thế giới này sẽ không là thế giới thật để con người chọn lựa… Trong một thế giới như vậy, người ta sẽ chết mà không có nhu cầu, chỉ thấy mình ở Địa ngục”.
  1. Chúng ta chịu đau khổ vì sự sống đời đời. Thế giới này không là nhà của chúng ta, chúng ta chỉ là khách vãng lai. Chúng ta là công dân Nước Trời. Thánh Phaolô nói: “Tất cả các ngài đã chết, lúc vẫn còn tin như vậy, mặc dù chưa được hưởng các điều Thiên Chúa hứa; nhưng từ xa các ngài đã thấy và đón chào các điều ấy, cùng xưng mình là ngoại kiều, là lữ khách trên mặt đất” (Dt 11:13).  Chính đau khổ ngăn cản chúng ta bám víu vào thế gian này, vì thế gian sẽ qua đi.
  1. Chúng ta chịu đau khổ để không gặp điều tệ hại hơn. Đau khổ làm cho chúng ta tập trung vào nguyên nhân, để cố gắng sửa đổi trước khi tệ hại hơn. Cơn sốt dẫn chúng ta tới bác sĩ, tại đây chúng ta được chẩn đoán và chữa trị. Ở mức lớn hơn, đau khổ cho chúng ta biết có gì đó bất ổn, và dẫn chúng ta tới Chúa Giêsu. Bóng tối, đau khổ, cô đơn, lo buồn… Mọi thứ đó giúp chúng ta nắm bắt thực tế cuộc sống, giúp chúng ta cần đến Chúa.
  1. Chúng ta chịu đau khổ để thông phần đau khổ với Đức Kitô và nên giống Ngài. Thánh Phaolô nói:“Vấn đề là được biết chính Đức Kitô, nhất là biết Người quyền năng thế nào nhờ đã phục sinh, cùng được thông phần những đau khổ của Người, nhờ nên đồng hình đồng dạng với Người trong cái chết của Người, với hy vọng có ngày cũng được sống lại từ trong cõi chết” (Pl 3:10-11). Nhờ kinh nghiệm đau khổ mà chúng ta có thể an ủi người khác khi họ chịu đau khổ. Khi chúng ta chịu đau khổ là chúng ta được nên giống Đức Kitô. Thánh Phaolô phân tích:“Một chút gian truân tạm thời trong hiện tại sẽ mang lại cho chúng ta cả một khối vinh quang vô tận, tuyệt vời”(2 Cr 4:17).
  1. Chúng ta chịu đau khổ để tôn vinh Thiên Chúa. Chúa Giêsu động viên chúng ta nếu chúng ta chịu đau khổ vì danh Ngài: “Phúc thay ai bị bách hại vì sống công chính, vì Nước Trời là của họ. Phúc thay anh em khi vì Thầy mà bị người ta sỉ vả, bách hại và vu khống đủ điều xấu xa” (Mt 5:10-11). Ngài cảnh báo rằng thế gian sẽ ghét chúng ta vì họ đã ghét Ngài trước (Ga 15:18). Trong thư gởi giáo đoàn Do Thái, chương 11, có người nhờ đức tin mà được chúc lành bằng của cải và thành công, có người lại được chúc lành bằng đau khổ và cái chết. Thiên Chúa không phân loại các anh hùng đức tin này tùy trường hợp của họ, Ngài chỉ tôn vinh họ vì vững mạnh đức tin. Nếu các Kitô hữu có cuộc sống thoải mái thì sẽ làm cho Phúc Âm hấp dẫn vì các lý do sai lệch.
  1. Chúng ta chịu đau khổ để trưởng thành tâm linh.Chúa Giêsu là Đấng hoàn hảo, vậy mà Ngài còn phải chịu đau khổ để học được đức vâng phục. Thánh Phaolô cho biết:“Nhờ Chúa, tôi rất vui mừng vì cuối cùng thấy tình cảm của anh em đối với tôi lại thắm thiết. Tình cảm đó vẫn sống động, nhưng anh em chỉ thiếu dịp tỏ ra. Không phải vì thiếu thốn mà tôi nói thế, bởi lẽ tôi đã học sống tự lập trong bất cứ hoàn cảnh nào. Tôi sống thiếu thốn cũng được, mà sống dư dật cũng được. Trong mọi hoàn cảnh, no hay đói, dư dật hay túng bấn, tôi đã tập quen cả. Với Đấng ban sức mạnh cho tôi, tôi chịu được hết” (Pl 4:10-13). Thánh Phaolô xác định:“Để tôi khỏi tự cao tự đại vì những mặc khải phi thường tôi đã nhận được, thân xác tôi như đã bị một cái dằm đâm vào, một thủ hạ của Satan được sai đến vả mặt tôi, để tôi khỏi tự cao tự đại” (2 Cr 12).
  1. Chúng ta chịu đau khổ để hy vọng vinh quang Nước Trời.  Kh 21:4 nói:“Thiên Chúa sẽ lau sạch nước mắt họ. Sẽ không còn sự chết; cũng chẳng còn tang tóc, kêu than và đau khổ nữa, vì những điều cũ đã biến mất.” Thánh Phaolô nói: “Tôi nghĩ rằng những đau khổ chúng ta chịu bây giờ sánh sao được với vinh quang mà Thiên Chúa sẽ mặc khải nơi chúng ta” (Rm 8:18).

 Có nhiều lý do để chúng ta chịu đau khổ, đôi khi khó nhận biết chính xác.  Như trường hợp Thánh Gióp, ông không bao giờ biết việc đánh cược của Satan với Thiên Chúa. Nhưng đây là sự thật:

  • Thiên Chúa có toàn quyền trên mọi đau khổ của chúng ta.
  • Thiên Chúa vẫn hiện hữu ở bên chúng ta khi chúng ta gặp đau khổ.
  • Thiên Chúa luôn hành động với chúng ta khi chúng ta gặp đau khổ.
  • Nếu Thiên Chúa muốn chúng ta biết lý do, Ngài sẽ nói với chúng ta (qua Kinh Thánh hoặc cách nào đó).
  • Thiên Chúa tác động qua cái ác và đau khổ để sinh ra điều tốt, loại bỏ điều xấu mà Satan và kẻ xấu có thể làm cho chúng ta.

Ngày nào cũng có đau khổ, nhưng hãy nghĩ về hạnh phúc vĩnh hằng ở Nước Trời mai sau.  Randy Alcorn viết: “Số phận của chúng ta không lệ thuộc vào những người kiện cáo, hoặc những chính trị gia, luật sư, giáo viên, huấn luyện viên, sĩ quan quân đội, hoặc chủ nhân. Họ có thể chống lại chúng ta – và Thiên Chúa hoàn toàn có thể chuyển những điều xấu thành điều tốt nhất cho chúng ta”.

Trầm Thiên Thu 

(chuyển ngữ từ Once Delivered.net)

HÃY SỐNG TRỌN VẸN MỘT NGÀY HỮU ÍCH TRONG KHẢ NĂNG CHÚA BAN

HÃY SỐNG TRỌN VẸN MỘT NGÀY HỮU ÍCH TRONG KHẢ NĂNG CHÚA BAN

Tuyết Mai

Chắc có lẽ trong rất nhiều người chúng ta luôn cảm thấy rằng mình nhỏ bé, ít học hay không có học, không là gì trong xã hội bon chen và thích khoe khoa bảng nhiều như thời đại của ngày hôm nay. Nhất là cái nghèo nó cứ đeo đẳng như đỉa đeo mà không sao không sạch trơn cho được vì ngày ngày phải lội dưới ao bèo để hái rau muống đem bán ngoài chợ.

Nhưng khuyên mọi người đừng thất vọng hay thất chí vì xưa Chúa Giêsu có tìm ai trong đám người giỏi giang khoa bảng đâu mà Chúa chỉ tìm gọi người quê mùa mộc mạc có cuộc sống đánh cá bình dị, trên cả sự bình dị. Nhưng trong sự bình dị mộc mạc quê mùa ấy mà Thiên Chúa chủ ý muốn tìm và dùng họ để sự mạnh mẽ, quyền năng và phép lạ của Thiên Chúa mới làm chứng cách sống động qua các tông đồ cùng người luôn sống trung thành với Chúa.

Bởi có hèn yếu, đau bệnh và nằm liệt giường thế vậy mà Thiên Chúa vẫn có thể dùng người ấy để làm được bao nhiêu công trình của Chúa trên trần gian này chưa được hoàn tất, hoàn mỹ hay được Thiên Chúa thỏa lòng, mãn nguyện. Người thì bị ung thư đang phải chiến đấu với căn bệnh chưa kể ngày đêm thân xác bị nó hoành hành rất đau đớn. Nào là người khuyết tật chỉ nằm trên giường suốt bao nhiêu năm dài mà mọi công việc vệ sinh phải nhờ đến bàn tay của cha mẹ và chờ để được đút cơm cho ăn.

Ấy thế mà những người này vẫn cố gắng trong khả năng của mình đã, đang và sẽ đem đến cho những nơi vùng sâu, vùng xa những tiếp tế mà nếu không có thì những anh chị em này có thể chết đói được. Như đem nước sạch, làm giếng, thức ăn khô, thuốc men, mền mùng và quần áo. Xây nhà cho những gia đình gồm người già nua, bệnh tật cần một nơi đàng hoàng có vách che, có mái phủ để ít nhất họ được ấm áp và không bị cháy da trong những mùa nắng nóng.

Họ là những người thiện nguyện viên thường xuyên đi tiếp tế cho những trẻ em ở nhà mồ côi và cũng không quên cảm ơn rất nhiều những đóng góp tích cực của những tấm lòng vàng, những người vô danh đã đóng góp thức ăn, vật dụng, quần áo, hiện kim cùng thỉnh thoảng có cơ hội bỏ công lao khó nhọc đi theo nhóm chung góp một bàn tay giúp đỡ trong công việc nấu nướng, phục vụ và vui chơi với các em.

Giá trị vật chất thì có thể là ít, là tạm thời nhưng giá trị tinh thần thì nó mới to lớn và sâu đậm biết bao; đã luôn để lại cho mọi người kỷ niệm vui khó có thể quên trong lòng người. Nhất là vào lúc “Một miếng khi đói bằng một gói khi no” có phải?. Làm con cái Chúa chúng ta luôn sống trong sự Cầu Nguyện để Chúa làm trên chúng ta sống có ơn ích khi còn tại thế.

Chẳng phải là chúng ta mong được làm thánh sống đâu nhưng hy vọng rằng Thiên Chúa dùng chúng ta như khí cụ cùng ban cho chúng ta những việc làm nho nhỏ thôi nhưng trong khả năng và thời giờ có giới hạn mà Thiên Chúa ban cho chúng ta mỗi ngày. Rất mong lắm thay!.

“Vinh danh Thiên Chúa trên Trời, bình an dưới thế cho người thiện tâm”. Cảm tạ Thiên Chúa là Đấng luôn yêu thương con người. Nguyện xin Người ban cho tất cả chúng con những tháng ngày bình an trong tình yêu thương của Chúa và trong anh chị em của chúng con gần cũng như xa. Amen.

Y Tá của Chúa,

Tuyết Mai

30 tháng 7, 2018

————————————————–

https://www.youtube.com/watch?v=lxTduer6YyM

Chúa Là Ai Con Không Thấy Quen?

Thơ và Nhạc của Tuyết Mai (06 – 13 – 2010)

Ơn Mẹ

Ơn Mẹ

Thiên Ý

Tôi là một người bị stroke hay tai biến mạch máu.  Tôi chỉ ngoài 50, không bị bênh tim, không cao mỡ, cao máu, tiểu đường, hay, có lịch sử có người bị stroke trong gia đình.   Tôi cũng không thấy nhức đầu hay chóng mặt.  Chiều hôm trước, ngày Chúa nhật, tôi còn đưa 2 bác ngoài 80 tuổi về nhà và cô bạn đi ăn, mà không có một dấu hiệu gì hay một triệu chứng gì báo trước!  

Tôi còn nhớ rất rõ, hôm ấy là ngày thứ Hai, tôi đang ngồi ăn trưa với Cha và các bạn tại nhà hàng, sau khóa Linh Thao với 33 người tham dự từ các tiểu bang lân cận.  Khi tôi ký tên trả tiền, tôi không ký được! Và không nói được!  Tôi biết là mình không xong rồi, nhưng tôi không muốn cho mọi người biết.  Sau khi mọi người về, tôi lái xe đến nhà thương.  Vâng, tôi tự lái xe đến nhà thương.

Tôi nằm nhà thương bốn ngày, bốn đêm.  Tôi mất hết tất cả năng lưc và sinh lực.  Phần bên phải của tôi cứng đờ, từ tay đến chân.  Những gì tôi từng làm: móc, đan, thêu, may, vẽ, viết thư pháp … giờ đến cầm cái chén ăn cơm cũng làm rơi lên, rơi xuống.  Nấu nướng thì bỏng, đứt tay, hay đổ vỡ.  Ngày xưa thì cầm, kỳ, thi, họa.  Ngày nay thì rơi, đổ, bể, vỡ.  Ngày xưa thì viết chữ rất đẹp.  Ngày nay thì viết như… gà bới.  Những khả năng tôi từng có trước đây, nay hoàn toàn mất hết.  Tôi không khác gì là một đứa bé học nói, học viết, học đi, học đọc … tôi phải làm lại từ đầu.  

Nhưng tại sao tôi không bị trong lúc Linh Thao?  Ngày thứ Sáu, thứ Bảy hay Chủ Nhật? Mà phải chờ khóa Linh Thao xong xuôi, tôi mới bị?  Phải chăng vì tôi là người tổ chức nên Chúa và Mẹ Maria đã giữ cho cái đầu tầu được an lành cho đến giờ phút cuối?  

Đã 4 năm!  Bạn bè xa lánh hết.  Có lẽ họ không biết phải xử sự với tôi như thế nào?  Gọi điện thoại cho tôi, tôi không biết nói gì?  Thế là họ bặt tin luôn!  4 năm sống hoàn toàn trong thinh lặng!  4 năm với biết bao cố gắng tập tành và điều trị vết thương lòng. Tôi chỉ còn biết cầu nguyện nhiều với Mẹ Maria với giọng ngọng ngịu của tôi.  Tôi chỉ biết lần chuỗi mân côi mỗi ngày.  Có chuyện gì khó giải quyết, tôi vội tìm đến Mẹ.  Một tu sĩ đã nói với tôi “người đời bỏ chị chứ Chúa và Mẹ Maria sẽ không bao giờ bỏ chị!”  Đúng thế!  Tạ Ơn Mẹ và Chúa rất nhiều:  đã luôn che chở con, dẫn giắt con, giúp đỡ con, gìn giữ con, và ban bình an cho con.  

 Hành hương Âu châu

 Tháng 5 vừa qua, tôi quyết định đi Fatima.  Trước đây, kể từ  năm 2000, tôi đi du lịch ngoại quốc ít nhất mỗi năm một lần.  Sau khi bị stroke, tôi chẳng đi đâu ngoài sở làm và căn nhà của tôi suốt 4 năm qua.  Nhưng tôi sợ!  Tôi không cầm cái gì hơn 5 kg được.  Làm sao tôi xách 23 kg (50 lbs) hành lý?  Tôi không nói được lưu loát.  Nhất là khi mệt quá, tôi không sao nói được!  Dù là tôi đã ở Hoa Kỳ được 43 năm, và, đã học từ trung học lên đại học.  Tôi thông thạo 4 sinh ngữ.  Nhưng giờ đây, tôi nói sinh ngữ nào, cả tiếng Việt, cũng với giọng của một kẻ không biết nói sinh ngữ đó.  Ngoài ra, tôi cũng không chạy được! Tôi không đi nhanh được!  Ôi, bao nhiêu là khó khăn!

 Tôi cầu nguyện với Đức Mẹ.  Mọi việc diễn ra dường như đã được Mẹ sắp xếp.  Tự nhiên trước đó mấy tháng, có người tặng cho tôi 140 giờ nghỉ phép ở trong sở.  Đây là mối trở ngại lớn của tôi: không đủ ngày phép! Vì tôi chỉ làm part time (bán thời gian), nên tất cả giờ phép của tôi đã bị trừ vào cho đủ giờ làm mỗi tuần.  Cho đến nay, các đồng nghiệp và các bạn đã tặng cho tôi đến hơn 600 giờ nghỉ của họ.  Các vị này, xin nhận nơi đây lòng biết ơn và chân thành cám ơn đến tất cả rất nhiều. 

 Thế là tôi ghi danh đi hành hương Fatima, gồm có Bồ Đào Nha (Portugal), Tây Ban Nha (Spain), Pháp (France), và Ý Đai Lợi (Italy).  Hôm ra phi trường, người sẽ chở tôi đi, giờ phút chót bận.  Mẹ gửi đến một người mà tôi không hề quen biết nhưng sẵn lòng chở tôi đi.  Ra tới phi trường, tôi chỉ nói là tôi không cầm được hành lý vì tôi từng bị stroke.  Tất cả sẵn sàng lo cho tôi mà còn hỏi tôi có cần xe dành cho người tàn tật không?  Tôi lắc đầu.  Tôi tự đi, tuy chậm, nhưng không đến nỗi phải ngồi xe.  Mẹ đã khiến mọi sự xảy ra dễ dàng cho tôi.

 Trên đường đi đến Bồ Đào Nha, chuyến bay của tôi phải ngừng ở Boston, MA mất một ngày.  Tôi gọi cho cô tôi đón về nhà chơi và gặp các cháu.  Lúc trở lại phi trường, chúng tôi bị trễ 2 tiếng vì kẹt xe.  Từ giã cô xong, tôi vội đi vào cổng chuyến bay của tôi.  Tôi nhìn đồng hồ thì thấy mình còn nửa tiếng nữa.  Qua chặng thẩm tra an ninh xong vẫn còn 20 phút.  Tôi tiếp tục đi … tôi nghe tên của tôi qua loa phóng thanh của phi trường … tôi cố chạy nhưng không sao chạy được!  Đến nơi, tôi mới biết tất cả các hành khách đã vào trong máy bay rồi.  Tôi là người sau chót! Thế là họ lấy hành lý xách tay tôi … tôi ung dung đi vào máy bay tay không… trong khi hơn 350 hành khách đang ngồi chờ … tôi!!!  Tôi đã từng đi du lịch rất nhiều, trên 100 chuyến, vừa quốc nội lẫn quốc ngoại. Không có một cảnh ngộ nào ở phi trường mà tôi không đã trải qua.  Nhưng đây là cảnh ngộ đầu tiên trong đời tôi …  Con cảm tạ Mẹ!

 Khi vào ghế ngồi, nhìn lại đồng hồ, mới biết là mình trễ ít nhất là 10 phút.  Tại sao họ phải chờ tôi?  Máy bay cất cánh từ lâu rồi chứ?  Tôi có phải là nhân vật nổi tiếng hay quan trọng đâu?  Điều này, tôi không sao hiểu và giải thích được. 

 Đây chỉ mới là những diễn tiến, như đã được sắp xếp trước, bắt đầu cho một cuộc hành hương đầy ý nghĩa. Đối với tôi, cuộc hành hương này còn là một món ăn tinh thần tuyệt diệu cho tâm linh nữa, mặc dù tôi đã từng đi hành hương trước đây.  Tôi còn nhận bao Ơn Lành khác trong suốt cuộc hành trình này nữa.  Con cám ơn Mẹ Maria và Chúa Giêsu đã cùng đồng hành với con trong gần 60 năm nói chung, và với cuộc hành hương vừa qua nói riêng.

Thiên Ý

From: KimBang Nguyen

Hiệp Nhất 

Hiệp Nhất 

Chỉ có một Chúa, một niềm tin, một phép rửa.

Chỉ có một Thiên Chúa của mọi người, Đấng ngự trên mọi người,

 Qua mọi người và trong mọi người (Eph 4,5-6)

Chúng ta cùng có một niềm tin, chỉ thờ một Thiên Chúa, chỉ có một phép rửa.

Sự hiệp nhất trong gia đình, trong một tập thể rất quan trọng.

Nhóm, cộng đoàn được xây dựng nhiều thành phần khác nhau, vì thế chúng ta chỉ thực sự quan trọng khi đứng chung với nhau, tôn trọng nhau và yêu thương nhau.

Chúng ta chỉ chu toàn bổn phận và sứ mệnh làm một thành viên trong gia đình, trong nhóm, trong cộng đoàn khi cùng chia sẻ trách nhiệm cho nhau và chấp nhận sự quan trọng khác nhau của mỗi thành phần.

Nếu chúng ta không chia sẻ trách nhiệm cho nhau, không tôn trọng sự quan trọng của người khác.

Ngược lại nếu mình chỉ nhận ra sự quan trọng của mình mà không nhìn thấy sự quan trọng của của người khác, thì sinh ra bất hòa, cãi vã, tranh dành, hơn thua, chia rẽ và sẽ có nguy cơ tan rã.

Cũng như trong một thân thể, chúng ta có nhiều bộ phận, mà các bộ phận không có cùng một chức năng, thì chúng ta cũng vậy:

Tuy nhiều nhưng chỉ là một thân thể trong Đức kitô, mỗi người liên đới với những người khác như những bộ phận của một thân thể (Rm 12,4 –5)

Trong gia đình, nhóm, cộng đoàn không AI quan trọng hơn AI, không AI chịu trách nhiệm nhiều hơn AI. Cũng không AI kém quan trọng hơn AI, AI ít trách nhiệm hơn AI.

Chúng ta có sự khác biệt trong vai trò, trong vị trí, mỗi người một công việc (người cha, người mẹ, kẻ điều hành, người thư ký, thủ quỹ, nhóm viên v.v…) nhưng không có sự khác biệt trong trách nhiệm Chung của nhóm, của cộng đoàn.

Tất cả lệ thuộc vào nhau, tất cả cần nhau, trách nhiệm như nhau để xây dựng căn nhà của Chung.

Nếu không cần nhau, không hợp tác với nhau, không có trách nhiệm Chung nhau thì căn nhà sẽ sập đổ bất cứ lúc nào.

Được như vậy chúng ta mới có thể vượt lên trên những va chạm, hiểu lầm nhau v.v…

Ước gì ơn Bình An của Đức Kitô điều khiển tâm hồn anh em, vì trong một thân thể duy nhất, anh em được kêu gọi đến hưởng Bình An đó. Bởi vậy anh em hãy hết lòng tri ân (Col 3, 15)

Thầy Giêsu Kitô kêu gọi chúng ta phục vụ trong yêu thương, trong một thân thể duy nhất là chính Thầy để hưởng bình an của Thầy đem đến cho nhau.

Lạy Cha, xin Thần Khí của Cha hướng dẫn các thành phần trong các gia đình, các nhóm, cộng đoàn chúng con hợp nhất nên một trong cùng một Đức Tin, Đức Cậy, Đức Mến. Xin liên kết chúng con về một mối trong Thiên Chúa Ba Ngôi. Amen.

Elisabeth Nguyễn

From Tamlinhvaodoi