Thằng Khùng – Phùng Quán

Thằng Khùng -Phùng Quán
(Cha chính Nguyễn văn Vinh – Giáo-phận  Hà nội ]
Thằng Khùng (viết lại theo lời kể của nhà thơ Nguyễn Tuân)
“… Anh ta vào trại trước mình khá lâu, bị trừng phạt vì tội gì, mình
không rõ. Người thì bảo anh ta phạm tội hình sự, người lại bảo mắc tội chính
trị. Nhưng cả hai tội mình đều thấy khó tin. Anh ta không có dáng dấp của kẻ
cướp bóc, sát nhân, và cũng không có phong độ của người làm chính trị. Bộ dạng
anh ta ngu ngơ, dở dại dở khùng. Mình có cảm giác anh ta là một khúc củi rều,
do một trận lũ cuốn từ một xó rừng nào về, trôi ngang qua trại, bị vướng vào
hàng rào của trại rồi mắc kẹt luôn ở đó. Nhìn anh ta, rất khó đoán tuổi, có thể
ba mươi, mà cũng có thể năm mươi. Gương mặt anh ta gầy choắt, rúm ró, tàn tạ,
như một cái bị cói rách, lăn lóc ở các đống rác. Người anh ta cao lòng khòng,
tay chân thẳng đuồn đuỗn, đen cháy, chỉ toàn da, gân với xương.
Trên người, tứ thời một mớ giẻ rách thay cho quần áo. Lúc đầu mình cứ tưởng anh
ta bị câm vì suốt ngày ít khi thấy anh ta mở miệng dù là chỉ để nhếch mép cười.
Thật ra anh ta chỉ là người quá ít lời. Gặp ai trong trại, cả cán bộ quản giáo
lẫn phạm nhân, anh ta đều cúi chào cung kính, nhưng không chuyện trò với bất cứ
ai. Nhưng không hiểu sao, ở con người anh ta có một cái gì đó làm mình đặc biệt
chú ý, cứ muốn làm quen… Nhiều lần mình định bắt chuyện, nhưng anh ta nhìn mình
với ánh mắt rất lạ, rồi lảng tránh sau khi đã cúi chào cung kính.
Hầu như tất cả các trại viên, kể cả những tay hung dữ nhất, cũng đều
thương anh ta. Những trại viên được gia đình tiếp tế người để dành cho anh ta
viên kẹo, miếng bánh, người cho điếu thuốc.
Ở trại, anh ta có một đặc quyền không ai tranh được, và cũng không ai muốn
tranh. Đó là khâm liệm tù chết. Mỗi lần có tù chết, giám thị trại đều cho gọi
“thằng khùng” (tên họ đặt cho anh ta) và giao cho việc khâm liệm. Với
bất cứ trại viên chết nào, kể cả những trại viên đã từng đánh đập anh ta, anh
ta đều khâm liệm chu đáo giống nhau. Anh ta nấu nước lá rừng, tắm rửa cho người
chết, kỳ cọ ghét trên cái cơ thể lạnh ngắt cứng queo, với hai bàn tay của người
mẹ tắm rửa cho đứa con nhỏ.
Lúc tắm rửa, kỳ cọ, miệng anh ta cứ mấp máy nói cái gì đó không ai
nghe rõ. Anh ta rút trong túi áo một mẩu lược gãy, chải tóc cho người
chết, nếu người chết có tóc. Anh ta chọn bộ áo quần lành lặn nhất của
người tù, mặc vào rồi nhẹ nhàng nâng xác đặt vào áo quan được đóng bằng gỗ tạp
sơ sài.
Anh ta cuộn những bộ áo quần khác thành cái gói vuông vắn, đặt làm gối cho
người chết. Nếu người tù không có áo xống gì, anh ta đẽo gọt một khúc cây làm
gối. Khi đã hoàn tất những việc trên, anh ta quỳ xuống bên áo quan, cúi hôn lên
trán người tù chết, và bật khóc.
Anh ta khóc đau đớn và thống thiết đến nỗi mọi người đều có cảm giác
người nằm trong áo quan là anh em máu mủ ruột thịt của anh ta. Với bất cứ người
tù nào anh ta cũng khóc như vậy. Một lần giám thị trại gọi anh ta lên:
– Thằng tù chết ấy là cái gì với mày mà mày khóc như cha chết vậy?
Anh ta chấp tay khúm núm thưa:
– Thưa cán bộ, tôi khóc vờ ấy mà. Người chết mà không có tiếng khóc
tống tiễn thì vong hồn cứ lẩn quẩn trong trại. Có thể nó tìm cách làm
hại cán bộ. Lúc hắn còn sống, cán bộ có thể trừng trị hắn, nhưng đây
là vong hồn hắn, cán bộ muốn xích cổ, cũng không xích được.
Thằng khùng nói có lý. Giám thị trại mặc, cho nó muốn khóc bao nhiêu
thì khóc. Nhưng mình không tin là anh ta khóc vờ. Lúc khóc, cả gương mặt vàng
úa, nhăn nhúm của anh ta chan hòa nước mắt. Cả thân hình gầy guộc của anh ta
run rẩy. Mình có cảm giác cả cái mớ giẻ rách khoác trên người anh ta cũng khóc…
Trong tiếng khóc và nước mắt của anh ta chan chứa một niềm thương xót khôn tả.
Nghe anh ta khóc, cả những trại viên khét tiếng lỳ lợm, chai sạn, “đầu
chày, đít thớt, mặt bù loong” cũng phải rơm rớm nước mắt. Chỉ có nỗi đau
đớn chân thật mới có khả năng xuyên thẳng vào trái tim người. Mình thường nghĩ
ngợi rất nhiều
về anh ta. Con người này là ai vậy? Một thằng khùng hay người có mối
từ tâm lớn lao của bậc đại hiền?…
Thế rồi, một lần, mình và anh ta cùng đi lùa trâu xuống con sông gần trại cho
dầm nước. Trời nóng như dội lửa. Bãi sông đầy cát và sỏi bị nóng rang bỏng như
than đỏ. Trên bãi sông mọc độc một cây mủng già gốc sần sùi tán lá xác xơ trải
một mảng bóng râm bằng chiếc chiếu cá nhân xuống cát và sỏi. Người lính gác
ngồi trên bờ sông dốc đứng, ôm súng trú nắng dưới một lùm cây. Anh ta và mình
phải ngồi trú nắng dưới gốc cây mủng, canh đàn trâu ngụp lặn dưới sông. Vì mảng
bóng râm quá hẹp nên hai người gần sát lưng nhau. Anh ta bỗng lên tiếng trước,
hỏi mà đầu không quay lại:
– Anh Tuân này – không rõ anh ta biết tên mình lúc nào – sống ở đây
anh thèm cái gì nhất?
– Thèm được đọc sách – mình buột miệng trả lời, và chợt nghĩ, có lẽ
anh ta chưa thấy một cuốn sách bao giờ, có thể anh ta cũng không biết đọc biết
viết cũng nên.
– Nếu bây giờ có sách thì anh thích đọc ai? – anh ta hỏi.
– Voltaire! – một lần nữa mình lại buột miệng. Và lại nghĩ: Nói với
anh ta về Voltaire thì cũng chẳng khác gì nói với gốc cây mủng mà mình đang
ngồi dựa lưng. Nhưng nhu cầu được chuyện trò bộc bạch với con người nó cũng lớn
như nhu cầu được ăn, được uống… Nhiều lúc chẳng cần biết có ai nghe mình, hiểu
mình hay không. Đó chính là tâm trạng của anh công chức nát rượu Marmeladov bất
chợt nói to lên những điều tủi hổ nung nấu trong lòng với những người vớ vẩn
trong một quán rượu tồi tàn, mà Dostoievsky miêu tả trong “Tội ác và Trừng
phạt”.
Anh ta ngồi bó gối, mắt không rời mặt sông loá nắng, hỏi lại:
– Trong các tác phẩm của Voltaire, anh thích nhất tác phẩm nào?
Mình sửng sốt nhìn anh ta, và tự nhiên trong đầu nảy ra một ý nghĩ kỳ lạ: một
người nào khác đã ngồi thay vào chỗ anh ta… Mình lại liên
tưởng đến một cậu làm việc cùng phòng hồi còn ở Đài phát thanh, tốt
nghiệp đại học hẳn hoi, đọc tên nhạc sĩ Chopin (Sôpanh) là Cho Pin.
Mình trả lời anh ta:
– Tôi thích nhất là Candide.
– Anh có thích đọc Candide ngay bây giờ không?
Không đợi mình trả lời, anh ta nói tiếp:
– Không phải đọc mà nghe… Tôi sẽ đọc cho anh nghe ngay bây giờ.
Rồi anh ta cất giọng đều đều đọc nguyên bản Candide. Anh đọc chậm rãi, phát âm
chuẩn và hay như mấy cha cố người Pháp, thầy dạy mình ở trường Providence. Mình
trân trân nhìn cái miệng rúm ró, răng vàng khè đầy bựa của anh ta như nhìn phép
lạ. Còn anh ta, mắt vẫn không rời dòng sông loá nắng, tưởng chừng như anh ta
đang đọc thiên truyện Candide
nguyên bản được chép lên mặt sông…
Anh đọc đến câu cuối cùng thì kẻng ở trại cũng vang lên từng hồi, báo đến giờ
lùa trâu về trại. Người lính gác trên bờ cao nói vọng xuống:
“Hai đứa xuống lùa trâu, nhanh lên!”.
– Chúng mình lùa trâu lên bờ đi! – anh nói.
Lội ra đến giữa sông, mình hỏi anh ta:
– Anh là ai vậy?
Anh ta cỡi lên lưng một con trâu, vừa vung roi xua những con trâu khác, trả
lời:
– Tôi là cái thanh ngang trên cây thập tự đóng đinh Chúa .
Rồi anh ta tiếp:
– Đừng nói với bất cứ ai chuyện vừa rồi…
Giáp mặt người lính canh, bộ mặt anh ta thay đổi hẳn – ngu ngơ, đần
độn như thường ngày.
Cuối mùa đông năm đó, anh ta ngã bệnh. Nghe các trại viên kháo nhau
mình mới biết.
Thằng chuyên gia khâm liệm e đi đong. Thế là nếu bọn mình ngoẻo, sẽ không còn
được khâm liệm tử tế và chẳng có ai khóc tống tiễn vong hồn…
– những người tù nói, giọng buồn.
Mình gặp giám thị trại, xin được thăm anh ta.
Giám thị hỏi:
– Trước kia anh có quen biết gì thằng này không?
Mình nói:
– Thưa cán bộ, không. Chúng tôi hay đi lùa trâu với nhau nên quen nhau thôi.
Giám thị đồng ý cho mình đến thăm, có lính đi kèm. Anh ta nằm cách ly trong
gian lán dành cho người ốm nặng. Anh ta nằm như dán người xuống sạp nằm, hai
hốc mắt sâu trũng, nhắm nghiền, chốc chốc lại lên cơn co giật…
Mình cúi xuống sát người anh ta, gọi hai ba lần, anh ta mới mở mắt,
chăm chăm nhìn mình. Trên khoé môi rúm ró như thoáng một nét cười.
Nước mắt mình tự nhiên trào ra rơi lã chã xuống mặt anh ta. Anh ta thè
luỡi liếm mấy giọt nước mắt rớt trúng vành môi. Anh ta thều thào nói:
– Tuân ở lại, mình đi đây… Đưa bàn tay đây cho mình…
Anh ta nắm chặt bàn tay mình hồi lâu. Một tay anh ta rờ rẫm mớ giẻ
rách khoác trên người, lấy ra một viên than củi, được mài tròn nhẵn
như viên phấn viết. Với một sức cố gắng phi thường, anh ta dùng viên
than viết vào lòng bàn tay mình một chữ nho. Chữ NHẪN .
Viết xong, anh ta hoàn toàn kiệt sức, đánh rớt viên than, và lên cơn co giật.
Người lính canh dẫn mình lên giám thị trại với bàn tay có viết chữ Nhẫn ngửa
ra. Người lính canh ngờ rằng đó là một ám hiệu.
Giám thị hỏi:
– Cái hình nguệch ngoạc này có ý nghĩa gì? Anh mà không thành khẩn khai báo,
tôi tống cổ anh ngay lập tức vào biệt giam.
Mình nói:
– Thưa cán bộ, thật tình tôi không rõ. Anh ta chỉ nói: tôi vẽ tặng cậu
một đạo bùa để xua đuổi bệnh tật và tà khí.
Nghe ra cũng có lý, giám thị trại tha cho mình về lán…
Phùng Quán
________
Ghi Chú:
(*) THẰNG KHÙNG trong tù này là Cha Chính Vinh, tức là Linh mục Gioan Lasan
NGUYỄN VĂN VINH (1912-1971), của Nhà thờ lớn Hà Nội.  Bài viết của Phùng
Quán đã kể lại chuyện thật những năm, những ngày cuối trong ngục tù của Ngài.
Xin mời đọc thêm (bài kèm theo dưới đây) tiểu sử của Cha Vinh để chúng ta biết
thêm nhiều chi tiết về cuộc đời Ngài; và cũng để hiểu thêm gương phụng sự Chúa
của Ngài…. Linh mục Gioan Lasan NGUYỄN VĂN VINH, Cha chính Hà Nội, (1912 – 1971).
Tấm gương can trường.
Linh mục Gioan Lasan NGUYỄN VĂN VINH*
Cha Gioan Lasan Nguyễn Văn Vinh chào đời ngày 2 tháng 10 năm 1912 tại làng Ngọc
Lũ, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam.
Cậu Vinh, một thiếu niên vui vẻ, thông minh, có năng khiếu nghệ thuật bẩm sinh
về âm nhạc, ca hát. Cậu biết kính trên, nhường dưới, trong xứ đạo, ai cũng quý
yêu. Cha xứ Ngọc Lũ thời đó là Cố Hương, một cha người Pháp tên là Dépaulis
giới thiệu cậu lên học tại trường Puginier Hà Nội. Năm 1928, cậu học Tiểu Chủng
viện Hoàng Nguyên, Phú Xuyên, Hà Tây.
Năm 1930, thầy Vinh được cố Hương dẫn sang Pháp du học. Năm 1935, thầy vào Đại
Chủng viện St Sulpice, Paris. Ngày 20-6-1940, thầy được thụ phong linh mục ở
Limoges .
Chiến tranh thế giới xảy ra, cha Vinh phải ở lại Pháp và tiếp tục học tập.
Ngài học Văn Khoa – Triết tại Đại Học Sorbone, học sáng tác và hòa âm tại Nhạc
viện Quốc Gia. Ngài phải vừa học vừa làm. Vóc dáng nhỏ nhắn dễ thương của ngài
đã làm cho nhiều người Pháp tưởng lầm ngài là phụ nữ nên cứ chào: “Bonjour
Madame!”
Nhưng ẩn trong cái dáng vóc nhỏ bé đó là một tâm hồn rộng lớn, sau đôi mắt sáng
là tính cương trực, dưới nụ cười là ý chí sắt son.
Sau khi tốt nghiệp cử nhân Văn Triết ở Sorbone, ngài gia nhập dòng khổ tu Biển
Đức tại Đan Viện Sainte Marie.
Sau 17 năm du học, năm 1947 cha Vinh về nước, nhằm góp sức xây dựng Giáo Hội
Công Giáo Việt Nam vững mạnh về mọi mặt. Khi ấy, Đức cha François Chaize –
Thịnh, Bề trên Giáo phận đã bổ nhiệm ngài làm cha xứ Nhà Thờ Lớn Hà Nội. Ngài
xin Bề trên lập dòng Biển Đức ở Việt Nam, nhưng không thành.
Cha Vinh, dù tu học ở Pháp nhưng luôn có tinh thần yêu nước, độc lập, không nệ
Pháp. Năm 1951, Nhà Thờ Lớn Hà Nội tổ chức lễ an táng cho Bernard, con trai
tướng De Lattre de Tassigni. Trong thánh lễ, tướng De Lattre kiêu căng đòi đặt ghế
của ông trên cung thánh và bắt chuyển ghế của Trần Văn Hữu, Thủ tướng Việt Nam
xuống dưới lòng nhà thờ. Vì lòng tự trọng dân tộc, danh dự quốc gia, cha Vinh
cương quyết không chịu.
Tướng De Lattre rất tức giận, gọi cha Vinh tới, đập bàn quát tháo, đe
dọa. Cha Vinh cũng đập bàn, lớn tiếng đáp lại, quyết không nhượng bộ, nhưng Thủ
Tướng ngại khó nên tự nguyện rút lui. Sau vụ đó, để tránh căng thẳng, Đức Cha
Khuê đã chuyển cha Vinh làm giáo sư của Tiểu Chủng Viện Piô XII, phụ trách Anh
văn, Pháp văn, âm nhạc, triết học; ngài khiêm tốn vâng lời. Ngài cũng giảng dạy
Văn Triết ở trường Chu Văn An.
Năm 1954, Đức cha Trịnh Như Khuê cho phép cha Vinh và cha Nhân đưa chủng sinh
đi Nam, nhưng cả hai đều xin ở lại sống chết với giáo phận Hà Nội, dù biết hoàn
cảnh đầy khó khăn, nguy hiểm. Đức Cha Khuê bổ nhiệm ngài làm Cha Chính, kiêm
Hiệu Trưởng trường Dũng Lạc.
Ngài tổ chức lớp học giáo lý cho các giới, có những linh mục trẻ thông minh,
đạo đức cộng tác, như cha Nguyễn Ngọc Oánh, cha Nguyễn Minh Thông, cha Phạm Hân
Quynh. Lúc đầu, lớp học được tổ chức thành nhóm nhỏ tại phòng khách Tòa Giám
Mục, về sau, con số người tham dự tăng dần, lớp học được chuyển tới nhà préau,
và ngồi ra cả ngoài sân. Lớp học hiệu quả rất lớn, những tín hữu khô khan trở
thành đạo đức nhiệt
thành, ảnh hưởng lan tới cả giới sinh viên và giáo sư đại học, nhiều
người gia nhập đạo. Sau chính quyền ra lệnh ngừng hoạt động vì lý do an ninh.
Khi cha Vinh đang làm Hiệu Trưởng Dũng Lạc, Chính phủ ra chỉ thị phải treo ảnh
lãnh tụ thay vào ảnh Thánh Giá ở các lớp học. Ngài không tuyên đọc chỉ thị cũng
không tháo bỏ Thánh giá, nên năm 1957, trường bị đóng cửa.
Thời bấy giờ, Đại học Y khoa Hà Nội thiếu giáo sư, nên đã đề nghị Đức Cha Khuê
cử cha Vinh đến trường dạy La tinh. Nhiều sinh viên cảm phục ngài. Một hôm, Chu
Ân Lai, thủ tướng Trung Quốc đến thăm trường, thấy bóng dáng chiếc áo chùng
thâm linh mục, ông nói với đoàn tháp tùng:
“Đến giờ này mà còn có linh mục dạy ở Đại Học quốc gia ư?” Ít lâu sau trường
Đại học Y khoa không mời cha dạy nữa.
Biết tài năng và kiến thức âm nhạc của ngài, nhiều nhạc sĩ ở Hà Nội
tìm cha Vinh tham khảo ý kiến và nhờ xem lại những bản nhạc, bài ca họ mới
viết.
Cha Vinh, một trong những nhạc sĩ tiên phong của Thánh nhạc Việt Nam, và là một
nhạc sĩ toàn tài. Ngài chơi vĩ cầm và dương cầm thật tuyệt, chính ngài là người
Việt Nam đầu tiên chơi vĩ cầm ở Hà Nội.
Ngài có năng khiếu đặc biệt về âm nhạc, lại được học tập chu đáo nên
đã sáng tác và để lại nhiều nhạc phẩm thánh ca tuyệt vời. Cha Vinh
trình bày bản hợp tấu “ Ở Dưới Vực Sâu ” nhân cuộc đón tiếp phái đoàn Việt Nam
do ông Hồ Chí Minh dẫn đầu sang dự Hội Nghị Fontainebleau năm 1946.
Ngài cộng tác với Hùng Lân sáng tác “Tôn Giáo Nhạc Kịch Đa-Vít.” Sáng tác nhiều
nhạc phẩm lớn: “Mở Đường Phúc Thật,” “Tôn Vinh Thiên Chúa Ba Ngôi,” “Ôi GiaVi,”
“Lạy Mừng Thánh Tử Đạo.” Ngài phổ nhạc cho các Ca Vịnh 8 , Ca vịnh 16, Ca vịnh
23, Ca vịnh 41, Ca vịnh 115 và nhiều bài hát khác như Đức Mẹ Vô Nhiễm, Thánh
Tâm Giêsu. Ngài còn viết những bài
ca sinh hoạt: Sao Mai, Đời Người, phổ nhạc bài “Bước Tới Đèo Ngang” của Bà
Huyện Thanh Quan.
Hằng tuần ngài đến dạy nhạc, xướng âm và tập hát bên chủng viện Gioan.
Cha Vinh có giọng nam cao, âm hưởng thanh thoát, lôi cuốn. Ngài tổ chức và chỉ
huy dàn đồng ca trong nhiều cuộc lễ và rước kiệu lớn như cuộc Cung Nghinh Thánh
Thể từ Hàm Long về Nhà Thờ Lớn Hà Nội.
Năm 1957, Nhà nước muốn tỏ cho dân chúng trong nước và thế giới thấy là ở Việt
Nam đạo Công giáo vẫn được tự do hành đạo và tổ chức được những lễ nghi long
trọng, tưng bừng. Dịp Lễ Noel, chính quyền tự động cho người đến chăng dây, kết
đèn quanh Nhà Thờ Lớn, sau lễ họ vào đòi nhà xứ Hà Nội phải thanh toán một số
tiền chi phí lớn về vật liệu và tiền công.
Năm 1958 cũng thế, gần đến lễ Noel, không hề hỏi han, xin phép, một số người
của Nhà nước ngang nhiên đưa xe ô tô chuyển vật liệu, tự động bắc thang, chăng
dây treo bóng điện màu trang trí ở mặt tiền và trên hai tháp Nhà Thờ Lớn. Cha
xứ thời đó là cha Trịnh Văn Căn bảo vệ chủ quyền Giáo Hội trong khuôn viên cơ
sở tôn giáo, không đồng ý, nhưng họ cứ làm. Để phản đối, cha Căn liền cho kéo
chuông nhà thờ cấp báo, giáo dân kéo đến quảng trường nhà thờ rất đông ủng hộ
cha xứ, hai bên to tiếng.
Cha Căn gọi Cha Vinh ra can thiệp, sau một hồi tranh luận không kết
quả, cha Vinh kéo những người của Nhà nước đang leo thang chăng đèn xuống, rồi
chính ngài leo lên thang, hai tay đưa cao trước mặt, hai bàn tay nắm lại, hai
cườm tay đặt lên nhau, làm dấu hiệu còng tay số 8, và nói lớn:
“Tự do thế này à!”
Vụ giằng co lộn xộn kéo dài suốt buổi sáng, công cuộc trang trí không thành.
Cha Căn, cha Vinh cùng một số giáo dân bị cơ quan an ninh thẩm vấn, đem ra xét
xử. Tòa án Hà Nội tuyên án: Cha Trịnh Văn Căn, Chính xứ Nhà Thờ Lớn, người chịu
trách nhiệm tổ chức lễ Noel năm 1958 chịu án 12 tháng tù treo.
Cha Chính Nguyễn Văn Vinh chịu án 18 tháng tù giam, với tội danh: “Vô cớ tập
hợp quần chúng trái phép, phá rối trị an, cố tình vu khống, xuyên tạc chế độ,
gây chia rẽ trong nhân dân” (!).
Sau phiên tòa, cha Vinh bị đưa đi giam ở Hỏa Lò, sau bị chuyển đi
nhiều trại giam khác như Chợ Ngọc, Yên Bái, cuối cùng là trại “Cổng Trời”, nơi
dành riêng cho các tù nhân tử tội.
Khi cha Vinh mới đến trại Yên Bái, ngài còn được ở chung với các tù nhân khác,
nhiều giáo dân, chủng sinh, tu sĩ đến xin cha giải tội, vì thế
ngài bị kỷ luật, phải biệt giam, bị cùm chân trong xà lim tối. Mấy
tháng sau được ra, ngài lại ban phép giải tội. Cán bộ hỏi:
“Tại sao bị cùm, bị kỷ luật, được ra, anh tiếp tục phạm quy?”
Ngài đáp:
“Cấm là việc của các ông, giải tội là việc của tôi, còn sống ngày nào, tôi phải
làm bổn phận mình!”
Ở tù đói rét là đương nhiên, lúc nào cũng đói, hằng ngày mỗi bữa một
bát sắn độn cơm, ăn với lá bắp cải già nấu muối, khi chia cơm phải cân đong
từng chút một… Một lần cha Vinh nhận được gói bưu kiện do cha Cương, quản lý
Nhà Chung Hà Nội, gửi lên, trong đó có ít thức ăn, lương khô và vài đồ dùng cá
nhân, ngài đem chia sẻ cho anh em trong nhóm, cả Công giáo lẫn lương dân, ăn
chung, dùng chung. Anh em tù hình sự thân thương gọi ngài là “Bố.”
Ngay trong nhà tù, cha Vinh vẫn can đảm bảo vệ người bị áp bức, có lần một tổ
trưởng đánh đập tù nhân, ngài lên tiếng bênh vực, liền bị người tổ trưởng này
xông đến giang tay đánh, ngài đưa tay gạt, anh ta ngã khụy. Từ đó trong trại có
tiếng đồn cha Vinh giỏi võ, mọi người phải nể vì.
Một cán bộ cao cấp ở Hà Nội lên Cổng Trời gặp cha Vinh, nói: “Đảng và Chính phủ
muốn anh được tha về, nhưng với điều kiện phải cộng tác với linh mục Nguyễn Thế
Vịnh (Chủ tịch Ủy Ban Liên Lạc Công Giáo). Nếu anh đồng ý, anh có thể về Hà Nội
ngay bây giờ với tôi”. Ngài khẳng khái đáp: “Ông Vịnh có đường lối của ông
Vịnh. Tôi có đường lối của tôi”.
Vì không khuất phục được ngài, nên bản án từ 18 tháng tù giam, không qua
một thủ tục pháp lý án lệnh nào, đã biến thành 12 năm tù kiên giam, xà lim,
biệt giam và án tử.
Năm 1971, khi ngài từ trần không ai được biết, một năm sau, chính
quyền mới báo cho Đức Cha Khuê và cha Cương quản lý Nhà Chung: “Ông Vinh đã
chết. Không được làm lễ áo đỏ cho ông Vinh!”
Suốt đời mình, trong mọi tình huống cha Chính Vinh làm tròn trách vụ của mình. Ngài
đã mạnh mẽ rao giảng Tin Mừng và làm chứng cho đức tin, khi thuận tiện cũng như
khó khăn. Vượt mọi thử thách gian khó, không chịu khuất phục trước cường quyền,
luôn trung kiên với Thiên Chúa và Giáo
Hội.
Cha Chính Gioan Lasan Nguyễn Văn Vinh là một chứng nhân của thời đại, một linh
mục Công Giáo Việt Nam can trường, hậu thế kính tôn và ghi ân ngài.
TGP Hà Nội – 2013
BBT (Theo HĐGMVN)
From: Đỗ Tân Hưng

 

Nguyễn Kim Bằng gởi

 

 

ĐI TÌM THÚ VUI ĐIỀN VIÊN !

ĐI TÌM THÚ VUI ĐIỀN VIÊN !

Tràm Cà Mau

Vợ chồng tôi đến Mỹ gần chẵn mười năm. Những lo lắng ban đầu vì sinh kế đã tạm quên. Cũng đã thực hiện được “cái mộng của người Mỹ” là mua được căn nhà khá khang trang. Thêm vào đó, tiền tiết kiệm trong ngân hàng khá dồi dào. Cũng nhờ công sức hai vợ chồng, làm ngày làm đêm, làm không quản ngại khó khăn, không ngại thứ bảy, chủ nhật, đêm khuya, cứ có việc là có làm, có tiền là có chúng tôi. Chúng tôi chưa biết chê làm việc phụ trội bao giờ. Một hôm chủ nhật rảnh rang, thức dậy muộn, còn nằm trên giường, hai vợ chồng nằm gác chân nói chuyện tầm phào. Vợ tôi hỏi:

“Anh có nhớ câu: ‘Một mai một cuôc, một cần câu” của ông Nguyễn Bỉnh Khiêm hay của ông Nguyễn Khuyến? Câu nầy tác giả muôn nói gì anh nhớ không?”

Được một người nguyên là giáo sư Việt văn các lớp thi Tú Tài hỏi về văn chương, tôi cũng khoái chí, làm bộ hiểu biết, trả lời:

“Ông Nguyễn Khuyến hay Nguyễn Bỉnh Khiêm, không cần phải nhớ ai là tác giả làm chi cho mệt, cứ nhớ là ông Nguyễn thôi cũng đủ rồi. Câu thơ ca ngợi cái thú thanh nhàn khi sống nơi thôn dã.”

Vợ tôi nói tiếp:

“Ngày xưa, anh thường nói với em về giấc mơ khi đất nước hết chiến tranh. Chúng mình sẽ về quê, mua mấy mẫu ruông vườn, và vui thú điền viên. Sống đời thanh thản hạnh phúc. Anh còn nhớ không?”

“Ừ, thì nhớ chứ. Giấc mơ ấp ủ suốt một thời niên thiếu mà. Tiếc thay, sau khi hết mùa chinh chiến, thì đến mùa tù tội. Mà không tù tội, thì cũng không thể nào vui thú điền viên được trong cái xã hội vô cùng kỳ lạ, vô cùng gò ép con người đó. Nghĩ cũng tiếc.”

Vợ tôi nắm chặt tay tôi, nói với giọng tha thiết:

… Bây giờ mình muốn vui thú điền viên cũng đâu có muộn. Cái mộng anh ấp ủ ngày xưa có thể trở thành sự thực dễ dàng. Hay là mình bán nhà, mua một nông trại, lấy hết tiền tiết kiệm ra đầu tư vào chăn nuôi, trồng trọt. Nuôi các thứ gà vịt thả trong vườn, bán cho đồng hương Việt nam mình, trồng các thứ rau ráng mà người Mỹ không sản xuất như rau muống, bí bầu, bạc hà, tần ô, rau răm, rau thơm vân vân, chiếm luôn độc quyền cung cấp cho thị trường. Và gởi máy bay chuyển hàng lên miền đông bắc, tây bắc nước Mỹ mà bán. Không chừng mau phát đạt, mà lại nhàn nhã, có cơ sở vững chắc cho con cái sau nầy tiếp nối.”

Nghe thì khoái, nhưng tôi thở dài:

“Em nghĩ cũng hay lắm. Nhưng anh tiếc công việc đang làm hiện tại. Lương bỗng cũng khá. Công việc làm đã quen. Mình trở thành chuyên viên rồi. Bỏ đi cũng uổng. Vã lại, công việc em đang làm cũng khá bền vững. Bỏ cái bền vững, đi tìm cái bấp bênh, anh cũng hơi ngại.”

Vợ tôi cũng thở dài, tiếng thở dài dài hơn và não nề hơn:

“Công ty em đang làm, cũng chuẩn bị dọn qua một xứ Nam Mỹ, có nhân công rẻ hơn, để cứu vản tình trạng thua lỗ từ mấy năm nay. Em chưa nói với anh, vì ngại anh lo.”

Tôi hỏi vợ:

“Ai bày cho em cái kế hoạch lui về làm nông trại, vui thú điền viên nầy? Em đã nghĩ kỹ chưa, và có chương trình kế hoạch gì trong đầu chưa?”

Vợ tôi trả tời tự nhiên:

“Không ai bày cả. Cách đây mấy tháng, một đêm mất ngủ, em bật truyền hình lên . Xem một phim kể về đời sống ở nông trại thời xưa. Sao mà thanh bình hạnh phúc như trong mộng. Đời sống dễ thương quá. Và những lần đi chợ Á Đông, em thấy họ bán rau muống, rau màu Việt Nam đắt như vàng. Bán khoai mì đắt như sâm nhung. Em nghĩ mình có một nông trại sản xuất ra các thứ hiếm hoi nầy mà cung cấp cho các chợ, thì có thể hốt tiền thiên hạ như hốt lá. Anh xem, những lần tiệc tùng họp bạn, mà có thịt gà tươi “chạy bộ”, ai ăn cũng khen rối rít, xít xoa. Đó là chưa kể mình nuôi vịt bán cho thiên hạ làm tiết canh. Mình cứ đánh đúng vào thị hiếu của họ, thì mặc sức mà hái ra tiền. Chỉ một thời gian ngắn thôi, là hai vợ chồng mình thanh nhàn sung sướng, thong thả, và khi đó thì có thể khi xem hoa nở, khi chờ trăng lên, chứ không làm việc túi bụi như bây giờ“.

Nghe vợ vẽ vời hay quá, cái lãng mạn đã ngủ yên trong tôi bỗng dưng thức giấc xao xuyến. Thanh nhàn, sung  ướng, ai mà không ưa, họa là khờ. Và lại còn khi xem hoa nở, khi chờ trăng lên, chao ôi, đẹp quá chừng. Dù khoái tai với cái mông tưởng của vợ, tôi cũng thử vợ tôi thêm:

“Em cũng biết, nhà anh suốt mấy đời chưa hề làm nông, chưa ai cầm đến cái cuốc, cái cày. Ông nội anh là nhà nho thất chí, suốt một đời mang áo dài the, cắp cái dù đi lang thang nhà bạn bè bàn chuyện cần vương hưng quốc, ba anh thì là nhà giáo, anh suốt đời cầm bút làm việc trong văn phòng, có biết chi về canh nông, về chăn nuôi, mà dấn thân vào đó.”

Vợ tôi hăng hái thuyết phục thêm:

“Anh cũng đã từng bị đi tù cải tạo, học tập lao động mấy năm, cũng đã cuốc đất trồng khoai, cũng có chút kinh nghiệm phần nào rồi chứ. Việc nào rồi cũng quen đi. Anh xem, ngày mới qua Mỹ, mình đâu có biết việc gì, mà rồi việc gì khó khăn đến đâu, cũng làm được cả. Đi qua biển với ngàn hiểm nguy như thế, còn làm được, thì việc gì mà không làm được?”

“Nầy, sao cái luận điệu của em hao hao giống luân điệu của những kẽ tự xưng là nhân dân anh hùng, họ thường bảo rằng vượt Trường Sơn đánh Mỹ còn được, thì việc gì mà không làm được. Anh nói thêm cho em rõ, học tập lao động trong trại tù, là học được cái trây lười, cái làm cho có. Và nếu lao động như thế để kiếm ăn, thì đói cho vẫu mỏ ra.”

Cứ thế, vợ tôi nhẹ nhàng
thuyết phục tôi về một cuộc đời vui thú điền viên, về cái hạnh phúc đơn sơ
trong thanh nhàn, cái an bình trong tâm tưởng, được làm chủ lấy mình, không tùy
thuộc vào công ăn việc làm của người khác, không lo kinh tế nay lên mai xuống,
bấp bênh sụt trồi.

Thấy vợ tha thiết với nông
trại, mà những vẽ vời của nàng cũng đẹp thật, tôi cũng muốn làm vui lòng vợ một
lần. Vợ tôi đã khổ, đã chịu nhiều cay đắng trong đời khi chồng đi tù, khi chồng
tù về, và đã theo tôi đi qua bao đoạn đường chông gai khó khăn của cuộc đời. Mơ
ước của vợ tôi về cuộc sống nông trại, cũng rất chính đáng. Tôi bằng lòng bán
nhà, mua đất làm ăn.

Chưa bán được nhà, mà chúng
tôi đã được mấy ông hành nghề địa ốc lôi chạy. Chạy đôn chạy đáo theo mấy ông
từ vùng nầy, qua vùng kia, để xem đất, để xem các bảng tính toán lỗ lời do các
ông đưa ra. Hình như cuộc đất nào cũng tốt, cũng đem lại một tỉ suất lời cao.
Cuối cùng, chúng tôi cũng mua được một sở đất năm mẫu, cách thành phố Dalas bảy mươi dặm về hướng bắc. Lái xe chừng hơn một giờ thì đến thấu.

Năm mẫu đất nằm giữa đồng
không mông quạnh, gió thổi vun vút, mùa hè bụi lốc xoáy mù. Chủ đất và người
hành nghề địa ốc dẫn tôi đi, lội cỏ lút đầu gối để chỉ các cột mốc ranh giới.
Tôi và vợ đi theo, mà thở hồng hộc, vấp té mấy lần.

Học theo các chủ nông trại
đi trước, chúng tôi mua một căn nhà tiền chế có ba phòng ngủ, hai phòng tắm và
thuê xe kéo về đặt trên thửa đất. Căn nhà trông bên ngoài cũng rất mỹ thuật,
đẹp đẻ. Phòng ốc bên trong xếp đặt rất hợp lý và sáng sủa. Ngồi trong nhà,
không có cảm giác chi là căn nhà tiền chế. Vợ tôi khen, căn nhà nầy còn mới, và
rộng không thua chi căn nhà cũ của chúng tôi. Nhìn cái xe của hãng sản xuất nhà
tiền chế kéo cái nhà về đặt trên sở đất mà ngán. Cái nhà dài lòng thòng, và
rộng bề ngang, kéo đi choán hết bề rộng mặt đường. Hãng phải xin giấy phép đặc
biệt để kéo đi. Cái nhà về đến trước đường cái, chiếc xe từ từ nhích vào nơi
chúng tôi muốn đặt căn nhà, mới chạy được một đoạn ngắn, thì bánh xe lún xuống
đất bùn nhão nhẹt và quay tít. Lui không được mà tiến cũng không xong, tiếng
máy xe gầm lên từng hồi như con thú bị thương. Thì ra vì trời mưa suốt tuần
trước, làm đất mềm và nhão, không đủ sức cho bánh xe cán lên. Ông tài xế râu
ria xồm xoàm và ăn mặc áo da, giống như mấy tay găng tơ trong phim xi nê nhảy
xuống xe và chữi thề om xòm, làm như chính tôi là thủ phạm làm xe ông mắc lầy.
Tôi lãng ra nơi khác, không muốn thấy cái thái độ thiếu lịch sự của gã. Ông đòi
mượn ván gỗ để chêm bánh xe, tôi làm sao có được, y chạy lui chạy tới như gà
mắc đẻ, rồi hét lớn;

“Tại sao không cho biết đất còn mềm, bây giờ làm sao mà lui ra đây?”

“Tôi làm sao mà biết được đất cứng hay mềm mà nói? Đâu phải là chuyện của tôi?”

“Thế thì cái nhà nầy của ai đây? Không phải của anh chắc?”

Ông tài xế lên xe, dùng điện
thoại kêu về công ty và ngồi chờ. Chừng hơn một giờ sau, có chiếc xe khác tới
phụ, lôi chiếc xe bị lún bùn ra. Cái nhà bị đẩy giật tới, giật lui, lúc lắc.
Cuối cùng, cái nhà được tạm thời hạ xuống bên đường lề đường, và lấn ra, choán
gần hết mặt lộ. Cái nhà nằm khơi khơi trên con đường trông rất chướng mắt. Ông
tài xế bảo tôi:

“Cứ để tạm đó, chờ khi nào đất khô rồi kéo vào.”

Tôi vô cùng bối rối. Cái nhà choán mặt đường, xe cộ ngược chiều đi qua không thấy nhau, và phải nhường cho nhau đi qua trong một phần nhỏ hẹp của lòng đường còn lại. Mà chẳng có bảng hiệu, bảng thông báo trước để xe chuẩn bị mà tránh nhau.

“Thế thì bao giờ cái nhà mới được đem vào bên trong” Tôi lo ngại hỏi anh tài xế.

“Không biết. Chờ”

“Để ngoài đường như thế nầy rất nguy hiểm cho người lái xe. Lỡ họ tông hư nhà thì làm sao”

“Anh không phải lo” Ông tài xế trả lời tôi như nói với đứa con nít…

Không biết làm gì hơn, tôi
cùng vợ lái xe về, mà trong lòng không yên. Hôm sau, chúng tôi đến lại cuộc
đất, thì thấy cảnh sát đã gài giấy phạt, và hăm phạt tăng nhiều lần nếu còn để
cái nhà choán đường lưu thông. Tôi đem giấy phạt về công ty bán nhà và than phiền
với hãng. Ông chủ hãng nầy không tiếp tôi, mà giao cho người khác giải quyết.
Anh chàng nầy nói năng rất từ tốn, bảo là hãng sẽ giải quyết ngay, đừng lo. Thế
nhưng cả tuần sau, cái nhà mới được đưa đúng vào vị trí mong muốn. Tôi tưởng
đặt nhà là ở được. Nhưng không. Đi tiêu đi tiểu và nước thải đổ vào đâu? Không
lẽ lấy cuốc đào chút đất trong vườn, sau khi đi tiêu, lấp lại như ở nhà quê
sao? Thế là phải chạy đi mua cái hầm tiêu tự hoại. Mua thì dễ, mà giấy phép đặt
hầm cầu, thì có những chi tiết kỹ thuật bắt buộc phải cung cấp cho văn phòng
quận. Lại mất thêm tiên cho công ty kỹ thuật lập hồ sơ. Cái nhà tiền chế bị
dịch lui dịch tới nhiều lân, làm gảy các ống nhựa bắt sẵn bên trong, cho nên
khi nối đường nước vào, thì nước chảy tung tóe. Ướt hết từ trong ra ngoài. Tôi
đứng nhìn mà ngao ngán. Phải chờ thêm mấy ngày để chờ thợ ống nước đến sửa
chửa.

Khi tôi đến công ty điện,
công ty nước để xin nối điện, nối nước vào nhà, tôi mới giật mình thấy cái bảng
ước tính chi phí bắt điện, bắt nước. Nhà tôi xa đường dây điện chính, phải
trồng thêm nhiều trụ điện khác, mới chạy được đường dây vào. Tôi phải chịu phí
tổn đó. Không ai nói trước cho tôi điều nầy. Dù chi phí cao đến mấy, tôi cũng
phải cắn răng mà ký tên vào tờ giao kèo, thỏa thuận. Không lẻ phải mua máy điện
riêng, lôi thôi chịu chi nỗi. Đã đâm lao thì phải theo lao, chứ làm sao bây
giờ. Đường nước, thì tôi may mắn hơn, nước đã đến cách cuộc đất chúng tôi không
xa lắm, nhưng cũng phải chi tiêu khá nhiều để chuyển nước từ ống chính vào.
Công ty nước đào đất, chuyển ống đến đồng hồ mà thôi, sau đồng hồ nước là mình
phải tự lo lấy. Thợ ống nước tính tiền ngọt lắm, đào xới, lắp ráp, sửa chửa,
chút chút là đòi bạc trăm, bạc ngàn, mình không có dụng cụ, và không có kinh
nghiệm, nên cứ cắn răng mà trả, có kêu ca cũng vô ích. Tôi đứng quan sát các
anh thợ, để học lóm nghề, thì ra cũng dễ dàng như chơi. Chịu khó mua một ít
dụng cụ, thì cũng có thể tự làm được. Nhờ học lóm, mà sau nầy, tôi tự chạy
đường nước tưới cây trong vườn.

Bốn góc nhà, tôi bắt thêm
bốn vòi nước, để dễ câu ra vườn. Đất mùa mưa nhão nhẹt, không chạy xe vào nhà
được, tôi kêu xe đổ sạn trắng, làm thành một vòng cung ngay trước nhà. Cái đỉnh
vòng cung là cửa vào nhà, hai chân vòng cung nối ra đường. Phải đặt ống cống
cho nước trong mương bên lề đường thông thương. Khi xe vào vườn, chỉ cần chạy
một chiều, vào bằng một cửa, ra bằng cửa khác. Vợ tôi ví cái đường vòng cung
nầy với sân tòa Bạch Ốc, cũng sang trọng và đẹp không kém.

Vợ tôi sung sướng ngâm nga :

“Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ.

Người khôn người tìm chốn lao xao”.

Ngâm đi ngâm lại mãi. Vợ tôi
bàn rằng, làm thêm một cái bệ gỗ bên cạnh nhà, che song gỗ bên trên, mùa hè ban
đêm cả gia đình ra ngồi ngắm trăng, uống trà ăn kẹo ngọt, để nhớ miền quê Việt
Nam. Cũng để xem ông thi sĩ miền Bắc nước ta, bốc thơm đàn anh Trung Quốc rằng
“Trăng nước Mỹ không đẹp bằng trăng Trung Quốc” có đúng không. Nghe đã lỗ tai,
tôi mua gỗ về hì hục, cưa đóng cả tuần mới xong. Tốn tiền, mà sau nầy vì công
việc nông trại tối mắt, tắt mày, chưa bao giờ có thì giờ rảnh ra ngồi ngắm
trăng uống trà, chỉ có những khi mệt vã mồ hôi, ngồi bệt lên sàn nghỉ một chốc
mà thôi.

Bây giờ thì phải làm hàng
rào bao quanh khu vườn lại. Tôi mua cọc sắt, và lưới làm hàng rào. Loại cọc mà
bên Việt nam mình kêu là cọc sắt ấp chiến lược, và loại lưới gọi là lưới B40.
Nhìn vào bảng ước tính giá mua cọc và lưới mà mặt vợ tôi nhăn lại như ăn dấm
chua. Cũng mất mười mấy ngàn đồng. Không thể chịu đựng nỗi chi phí nầy, tôi
quyết định chỉ rào khu chăn nuôi thôi, còn khu trông trọt thì cứ để trống. Ai
mà chạy xe ra đến đây để ăn cắp hoa màu cuả mình. Nước Mỹ chớ đâu phải châu Phi mà lo. Hãng bán cọc sắt và lưới đổ cho tôi một đống lớn trong vườn. Mình phải
tự làm hàng rào lấy, chứ thuê thì tiền đâu mà chịu nỗi. Tôi mua búa tạ và thang
xếp, làm thành cái dàn. Con gái tôi mới mười bốn tuổi, giúp bố giử cây cọc, tôi
leo lên, dùng búa giáng xuống. Sức dộng của búa rung cây cọc sắt, làm tay con
tôi đau buốt và buông cọc ra mà kêu thét lên. Tôi phải làm một nùi vải, chêm
vào tay cho nó cầm. Cứ đóng vài ba búa, là thấy cọc có chiều nghiêng nghiêng,
không đứng thẳng được. Tôi phải leo xuống, dùng dây dọi điều chỉnh rất khó
khăn. Vợ tôi dứng nhìn và nói:

“Đóng cọc theo lối nầy, thì không chừng tốn cả năm trường mới xong được.”

Hai bàn tay tôi đỏ và sưng
lên. Con gái tôi cũng nhăn nhó mặt mày vì cái trò chơi không mấy hứng thú nầy,
và phải đứng ngoài nắng gió cả buổi. Để việc rào dậu chóng hoàn tất, tôi phải
tính đến chuyện thuê người làm phụ. Tôi bàn với vợ, thuê một anh người Mễ. Vợ
tôi ngại sẽ bị lôi thôi với pháp luật, vì thuê người nhập cảnh bất hợp pháp.
Tôi bảo rằng, tôi không ra ứng cử dân biểu, nghị sĩ, thì sợ gì, có ai mất công
mà tố cáo tôi thuê người nhập cảnh bât hợp pháp.

Sáng hôm sau, tôi lái xe về
phía Nam nông trại, đi mất chừng hơn nửa giờ, đến gần khu có cây xăng, nơi đây
các thanh niên người Nam Mỹ thường hay tụ tập, đứng lóng ngóng chờ người đến
thuê đi làm. Xe tôi vừa đậu lại, thì có hơn hai chục thanh niên vây kín, lao
nhao đòi đi làm. Có vài anh còn nhãy lên thùng xe ngồi đó. Không ai biết tiếng
Anh, mà tôi thì mù tịt tiếng Mễ. Họ biết tôi cần người làm, tôi biết họ cần
việc làm, nhưng không ai nói cho ai hiểu là phải làm việc gì.

Tôi nhãy xuống xe, đứng cong
lưng, hai tay đưa lên đưa xuống, ra dấu đóng cọc. Họ à à gật đầu và cười, nói
“Ô kê, ô kê”. Tôi ra dấu, đưa một ngón tay lên, bảo là chỉ cần một người thôi,
thế mà bốn năm người nhảy lên thùng sau xe ngồi, và chục người khác bu theo
nhao nhao, nói gì tôi không hiểu. Tôi chán quá, la lên và khoát tay và lắc đầu,
có ý bão họ là không thuê ai nửa cả, đòng thời ra dấu cho mấy người ngồi trên
xe tôi đi xuống. Phải lâu lắm, tôi mới rời được đám người nầy. Khó quá, mình
không biết nói, mà họ cũng không hiểu mình, và cứ đeo theo đòi đi làm. Tôi lái
xe đi, giả vờ như không thấy những người Mễ hai bên đường đang ra dấu, hỏi tôi
có thuê họ hay không. Dừng xe lại là họ nhào đến, không đi được.

Tôi đang phân vân, chưa biết
phải làm thế nào, thì thấy có một anh Mễ to lớn, mập mạp, đang đi một mình trên
đường, tôi chạy xe chậm lại, và hất đầu làm dấu như hỏi anh ta có muốn đi làm
viêc hay không. Anh vui vẻ gật đầu, tôi mở cửa cho anh lên xe, thì thấy có
nhièu người khác chạy gấp về phía tôi, và la lên, có người níu xe. Tôi phải xua
tay, và rồ máy chạy thẳng. Đến một góc đường xa, tôi dừng xe lại. Hỏi anh Mễ
muốn tôi trả bao nhiêu một ngày. Hai bên không hiểu nhau, anh Mễ cứ đực mặt ra,
như người điếc. Tự nhiên tôi cảm thương anh Mễ , vì anh làm tôi nhớ tới thời
mới tới Mỹ, ai nói gì cũng không hiểu và chỉ cười. Tôi lấy giấy ra, ghi số tiền
tôi muốn trả cho anh ngày hôm nay, cao hơn lương lao động tối thiểu chừng mười
lăm phần trăm. Anh Mễ lắc đầu, ghi số tiền gấp đôi. Tôi ra dấu cho anh xuống
xe. Anh lấy giấy ghi số tiền thấp hơn. Tôi lắc đầu. Cuối cùng, anh bằng lòng
làm việc với số tiền công tôi ghi ban đầu.

Đi bốc người, vừa đi vừa về
mất hơn hai giờ, rồi buổi chiều phải mang trả anh ta tại chỗ cũ nữa. Nhưng
không thể làm việc một mình được.

Tôi dẫn anh Mễ vào, dắt đi
quanh vườn, ra dấu cho anh biết là tôi sẽ đóng cọc hàng rào quanh khu nầy. Hai người
nói chuyện với nhau bằng tay, ra dấu, và tôi nói tiếng Anh, anh ấy nói tiếng
Mễ. Tôi cầm cọc sắt cho anh Mễ đóng. Tôi nghĩ là với cái tướng dáng to lớn vạm
vở đó, anh chỉ đóng ba búa cho mỗi cọc, là đi tuốt xuông đất sâu. Nhưng không
ngờ, anh Mễ dáng búa lên, và gõ nhẹ xuống cây cọc, như sợ cây cọc đau, cứ từ từ
chầm chậm búa xuống, thong thả nhàn nhã và nhẹ nhàng. Đóng mãi mới xong được
một cây cọc. Vợ tôi đứng nhìn. Khi đóng qua cây cọc thứ hai, thì vợ tôi hỏi:

“Anh ơi, ông Mễ múa thể dục
Tài Chi hay sao mà yểu điệu và khoan thai thế. Đóng cọc theo lối nầy, thì biết
đến thuỡ nào mới xong được?”

Tôi cũng nóng ruột với cái
dáng điệu khoan thai của anh Mễ, kêu anh xuống thang, và bảo anh cầm cây cọc
cho tôi đóng. Anh cầm cây cọc chắc lắm, tôi cứ đóng xuống là thẳng đứng. Ừ thì
ít ra cũng xữ dụng được cái sở trường của anh nầy. Tôi tự an ủi là dùng người
như dùng gỗ, dùng cái ưu điểm của anh ấy thôi. Chưa lao động quen, mồ hôi cứ vã
ra như tắm, và tôi uống nước liên tục. Cứ nữa tiếng, là tôi nghỉ ngơi một chốc.
Vợ tôi phàn nàn rằng, thuê người để họ làm, chứ đâu phải thuê người về vịn cây
cọc. Sau nầy tôi mới được các bạn bè cho biết, họ làm theo đồng tiền được trả,
khi cho là ít tiền, thì họ làm ít. Tiền nào của đó, và môt lý do nữa, là họ làm
chậm, thì hy vọng công việc làm được nhiều ngày hơn.

Buổi chiều, trả tiền cho anh
Mễ, anh kỳ kèo đòi thêm, cứ đưa tay ra mãi. Bực quá, tôi cho thêm năm đồng, anh
vẫn chìa tay ra, tôi lắc đầu cương quyết không là không. Vợ tôi thấy tôi cho
thêm tiền, tiếc của la lối :

“Không làm được gì mà anh
còn cho thêm tiền ư?”

Vợ tôi kéo tôi ra nói nhỏ:

“Em nghĩ anh Mễ nầy không
được lương thiện lắm. Cứ nhìn trộm em hoài., làm em sợ. Chắc mình phải mua
súng, để tự vệ. Chứ nơi đồng không mông quạnh nầy, có chuyện gì xẫy ra chẵng
biết làm sao.”

Tôi cảm thấy lo, nói cho vợ
yên lòng:

“Ừ, để rồi tính sau. Dễ mà,
xứ nầy mua bao nhiêu súng cũng được, bất cứ loại súng nào.”

Tôi ra dấu cho anh Mễ lên
xe, để tôi chở trả anh về nơi cũ. Khi đến gần nơi xuống xe, anh nói: “Mà nha
na, mà nha na” (manãna: ngày mai), có ý muốn ngày mai làm việc nữa. Tôi chỉ
hiểu tiếng ngày mai thôi. Lắc đầu, tôi nói “Nô mà nha na.”

Chẳng thể không thuê người
phụ đóng cọc được, hôm sau tôi lái xe về nơi cũ. Khi đi ngang chỗ các anh Mễ,
tôi gia tăng vận tốc chút xíu, thế mà cũng có những cánh tay đưa ra ngoắt tôi.
Lòng tôi lại chợt chùng xuống, và thương những người lìa bỏ quê hương đi kiếm
ăn. Tôi nghĩ đến thân phận mình may mắn hơn, được vào Mỹ hợp pháp, được đi làm
và cũng có cơ hội đồng đều như người Mỹ sinh trưởng tại đây. Tôi liếc mắt tìm
những anh Mễ đứng đơn dộc, và chạy xe chậm lại kềm sát một người đang đi ngược
chiều. Tôi hất đầu làm dấu, anh Mễ gật đầu. Tôi mừng vì anh nầy biết lỏm bỏm
tiếng Anh. Tôi đưa giá, anh bằng lòng ngay. Anh nầy cao, gầy, rắn chắc, tên là
Pedro.

Rút kinh nghiệm ngày hôm
qua, tôi không nói trước là phải làm bao nhiêu hàng rào để họ khỏi tính chuyện
câu giờ. Tôi giữ cọc sắt cho Pedro đóng xuống. Anh đóng ào ào, mỗi nhát búa tạ
của anh làm cây sắt đâm sâu xuống đất, sâu gấp hai lần mỗi nhát búa của tôi.
Tôi bằng lòng lắm. Vợ tôi đem nước cam và thức ăn, cùng trái cây ra đãi trong
khi chúng tôi nghỉ xả hơi. Ngày hôm đó, chúng tôi đóng được gần ba lần ngày hôm
trước. Vợ tôi vui ra mặt và nói với tôi:

“Sao anh không đề nghị cho
Pedro làm khoán , có lẻ mình đỡ mệt, mà đi lo việc khác.”

Tôi cố gắng lắm mới nói cho
Pedro hiểu. Anh bằng lòng làm, và cho một cái giá thấp mà tôi không ngờ được.
Tôi chở Pedro về, và hẹn hôm sau trở lại đón lúc bảy giờ sáng. Hôm sau Pedro
đem theo một người bạn, hai anh thay phiên nhau đóng cọc, và làm mãi cho đến
khi trời tối mịt mới nghỉ. Tôi đãi hai anh nầy cơm nước, bánh trái rất hậu. Vợ
tôi nói “Ngày xưa Tào Tháo đải Quan Công e cũng chỉ đến thế mà thôi.” Chỉ mấy
ngày, Pedro và bạn anh đã hoàn tất cái hàng rào. Họ còn nhổ lên và đóng lại
những cái cọc xiên xẹo, những cái tôi đã đóng lúc đầu.

Hôm hoàn tất hàng rào, tôi
làm tiệc đãi Pedro, thịt nướng ăn với rau, có mấy chục lon bia trợ lực. Trả
tiền, và tính lại thì tiết kiệm được rất nhiều tiền công, nếu thuê hãng chuyên
môn rào, thì tiền nhân công đắt gấp ba lần.

Xong cái hàng rào, tôi mua
hai trăm con vịt xiêm, ba trăm con gà, thả vào vườn. Cho chúng mặc sức mà đi
lại, chạy nhãy và phá phách khu cỏ chưa trồng trọt. Vịt thì ban đêm nó chui vào
gầm nhà tiền chế mà ngủ, tránh sương tránh gió. Cứ đầu hôm, chúng kêu om sòm.
Có khi nữa đêm giật mình vì tiếng vịt kêu. Con tôi cho rằng có lẽ vịt nó nằm mơ
và la hoảng. Tôi nghĩ là vịt nó núp dưới sàn nhà rất tiện lợi, đở tốn tiền làm
chuồng. Nhưng chỉ mới mấy ngày, vợ tôi la các con, hỏi có đứa nào đạp phân gà
vịt và mang vào, làm dính thảm nhà hay không, sao có mùi hôi mãi. Tôi giật
mình, thì ra vịt nó phóng uế đầy ngập dưới gầm nhà. Thế là tôi phải lái xe đi
mua vật liệu, về hì hục đóng chuồng. Đóng một mình thì không được, phải có thợ
phụ. Vợ tôi giúp, và con gái đi học về cũng ra phụ. Tôi phải dùng vòi nước, bò
vào gầm rất thấp của căn nhà mà rửa cho sạch phân. Vừa chật, vừa hôi, vừa khó
chịu, tôi nghĩ mình dại quá, không nghĩ ra sớm cái chuyện vịt phóng uế . Thôi
thì phải trả nợ cái tội thiếu nghĩ xa.

Tôi định rào lưới che hầm
sàn nhà, thì có nhân viên của thành phố đến, cho tôi biết rằng, theo luật thành
phố, thì cái nhà phải mặc quần, nghĩa là che kín phần dưới chân lại, không có
quyền ở truồng, vì mùa đông sợ lạnh bụng. Thế là phải đi đặt hàng, mua vật liệu
để che kín cái chân nhà lại. Tôi cũng mất cả tuần mới hoàn tất cái quần cho căn
nhà. Thức ăn gà vịt, phải qua thành phố bên cạnh mà mua, chất đầy cả chục bao
trên xe, chạy về. Cũng chỉ có một mình tôi lăn xuống xe hơi, bỏ lên xe kéo, và
mang vào chất trong kho. Nặng nề, mệt lữ và bụi bặm. Không quen lao đông, khi
nào tôi cũng thở phì phò, có khi quáng mắt, thấy đom đóm giữa ban ngày.

Phân gà phân vịt tràn đầy cả
sân cỏ, cả lối đi, nhão nhẹt và dơ bẩn. Tôi dùng vòi nước xối rửa mỗi ngày. Sau
nầy, nhìn biên lai tiền nước, tôi giật mình không dám rửa ráy thường xuyên và
xài phí nhiều. Có tháng phải trả cả năm trăm đồng tiền nước, mà chưa bán được
đồng nào nông phẩm.

Gà cũng thả rong, vịt cũng
thả rong. Nhiều lúc chú gà trống lớn vô tình lãng vãng đi gần đàn vịt mái. Ông
vịt xiêm đầu đàn hiểu lầm, phóng đến đánh đuổi chú gà. Thế là có cuộc đọ sức,
như hai võ sĩ thượng đài. Chú gà đâu có chịu thua dễ dàng, nhảy lên, cắn vào
mồng ông vịt, dùng hai chân đạp thốc vào ngực vịt, có lẽ hai cái cựa nhọn cũng
đâm sâu vào địch thủ. Ông vịt dong hai cánh đập tạt vào, mạnh như roi quất. Có
khi làm chú gà lộn ngược nằm lăn ra đất. Cuộc chiến kéo dài, tôi và thằng con
trai ngồi coi khoái lắm, toét miêng cười, và có khi la hổ trợ cho cuộc chiến.
Vợ tôi thì nhãy đỗng lên mà gào:

“Anh không ra mà can chúng
ra, để chúng bị thương, có con chết đấy”

“Con nào chết thì đem nấu
cháo ăn”. Tôi trả lời.

Ông vịt hạ cái đầu xuông
thấp, thẳng ra phía trước như võ sĩ đi xà quyền. Chú gà ngóc đầu lên cao mổ
xuống. Ông vịt hất ngược cái đầu lên, thọc mạnh vào dưới hàm con gà, và hai
cánh vịt đập vào như trời giáng, chú gà ngã lăn quay. Dứng dậy, bỏ đi mà không
chạy trốn, rồi đập cánh bồm bộp, gáy hai tiêng dài, như thổi kèn chiến thắng.
Ông vịt chắc cũng thấm đòn, gờm, không dám đuổi theo.

“Sao con gà mà đấu thua con
vịt hở Ba?”
Thằng con trai tôi hỏi.

“Vì con gà thiếu chính
nghĩa. Léng phéng gần đám đàn bà của con vịt. Vả lại, theo luật quyền Anh, đây
là một cuộc đọ sức không cân xứng, con vịt nặng gần gấp đôi con gà?..”

Tôi trả lời chưa xong,
thì thằng con cắt ngang:

“Chính nghĩa là gì Ba?”

Vợ tôi nghe con hỏi, nạt
tôi:

“Thôi ba nó ơi. Đừng đầu
độc con cái. Thấy gà vịt đánh nhau, đã không can mà còn ngồi xem, tán thưởng.
Làm con nó quen với cái ác, hư đầu óc thơ ngây của chúng.”

Đám gà vịt nầy, ăn mạnh
và lớn mau, đẻ trứng lung tung đầy vườn. Chúng tôi phải đi nhặt cất vào thùng
lớn, mua hộp có ngăn đựng trứng mà chứa. Bây giờ thì phải nghĩ đến cách tiêu
thụ trứng nầy. Vợ tôi bàn rằng, mua một cái máy ấp, bán hột gà lộn hai mươi mốt
ngày, và bán luôn hột vịt lộn.

Cái máy ấp đem về, mỗi
lần ấp được ba trăm trứng. Ấp xong, tôi lựa những cái trứng lớn cho gia đình
dùng. Trứng ấp tại nhà, ăn ngon vô cùng,

Nước trong trứng ngọt
lịm. Tôi ăn một lúc sáu cái. Đứa con gái tôi rùn vai ghê sợ, không dám ăn.
Thằng con trai bắt chước bố, cũng ăn được năm cái, và bị sình bụng suốt đêm nằm
rên ư ử. Trứng ngon quá, đem đi bán thì uổng, tôi bàn với nhà tôi, chủ nhật
nầy, đem về thành phố tặng cho các bạn bè bà con, mỗi người vài chục hột ăn
chơi, hưỡng cái thành quả đầu tiên của nông trại chúng tôi.

Thế là chúng tôi mất thêm
một ngày chủ nhật, chạy từ nhà nầy qua nhà kia, chia cái vui của nông trại cho
bà con. Ai cũng khen, vồn vả tiếp đón, vì mấy khi có trứng lộn tươi như thế nầy
trên đất Mỹ. Chúng tôi ra về, dù đường xa mệt nhọc và tốn xăng, tốn sức, nhưng
lòng vui như hoa nở.

Tôi đi ngoại giao, gặp
các chủ tiệm bán thực phẩm Á Châu, hứa sẽ cung cấp cho họ rau tươi, bầu bí, gà
vịt tươi, trứng lộn, với giá rẻ. Đa số đều vui vẻ, và bảo tôi đem hàng đến cho
họ xem, rồi họ sẽ mua. Về sau, trứng ấp được đem bỏ mối cho các chợ, ban đầu
thì bán rất khá, nhưng càng lúc, thì càng ế ẩm, vì người ta ăn cho vui, ăn để
nhớ hương vị quê nhà, không phải ăn vì ngon, và muốn ăn thường xuyên. Trứng
không để lâu được, các tiệm bán không hết trả lui, tôi phải ôm về, còn phải năn
nỉ bạn bè để tặng không cho họ. Thế mà có người từ chối, và nói thẳng thừng là
không muốn ăn các thứ đó nữa. Đám gà vịt, cũng không bán được bao nhiêu, trong
nhà ăn mãi cũng ớn. Đem cho bạn bè thì nhiều. Người thì làm tiết canh vịt, vịt
xáo măng, gỏi gà, cháo gà, phở gà. Gà tươi nuôi trong vườn thì ăn ngon. Cho thì
họ ăn, nhưng mua thì không mua. Tiền bán gà vịt gom lại, không bằng tiền thực
phẩm mua cho chúng ăn trong vài tháng. Ấp trứng thì lỗ vốn lớn, có lẻ tiền bán
được chưa đủ tiền điện, tiền xăng, chưa kể công vận chuyển.

Khi nuôi vịt, tôi nghĩ
vịt là phải có nước cho chúng tắm, tôi chưa biết vịt có thể ở khô. Tôi thuê xe
ủi đất, hì hục đào một cái hồ lớn, cái hồ chứ không phải là ao. Mấy ngày ròng
rã. Tôi vật lộn với cái máy ủi đất. Đào, xời hắt lên cao. Khi đào xong cái hồ,
thì tôi chợt nhận ra là cái xe ủi đất đang nằm dưới lòng hồ, mà bờ hồ thì cao,
dốc đứng, xe không lên được. Tôi phải hì hục đào một đường dốc xiên cho xe đi
lên. Thế là vợ tôi có dịp để cười và chế nhạo. Đào hồ xong, thì phải xả nước
vào, và hy vọng mùa mưa khỏi phải tốn nước. Cuối tháng đó, đọc cái biên lai
tiền nước mà tôi hoa mắt, chóng mặt. Tôi phải dấu cái biên lai tiền nước, không
cho vợ biết, vì sợ vợ buồn. Cái ao đã đào lỡ rồi, mỗi ngày nước bốc hơi, phải
châm thêm cho đầy. Nghe tiêng nước chảy, mà tôi đau như máu mình đang thất
thoát. Bỗng tôi đâm ác cảm với bầy vịt, ăn thì như hạm, phóng uế vung vãi, bán
thì khó. Để già thì thịt dai, không ai ăn, và họ có lỡ mua một lần, thì lần sau
không dám đụng đến nữa. Vịt già cũng sẽ làm hại uy tín kinh doanh. Làm thịt bỏ
tủ lạnh, thì tôi không đủ can đảm đầu tư thêm cái máy làm gà vịt, không đủ vốn,
mà từ đó sinh ra nhiều chi phí khác nữa.

Cứ nghĩ ra thêm một cái
gì, thì tốn kém thêm tới đó. Có người mách tôi, cứ đem gà vịt ra chợ trời mà
bán vào các ngày họp chợ, từ thứ sáu đến chủ nhật. Lại biết thêm nghề bán chợ
trời. Bán ở chợ trời thì chịu nắng nôi, nhưng nhiều người mua. Về sau, tôi bán
sĩ với giá rẻ cho những người bán lẻ. Như thế thì mau hơn, đở tốn công, đỏ mệt
nhọc.

Tôi dựng giàn trồng bầu
bí, chưa kịp đi mua gỗ đóng giàn, thì có người mách bảo: “Hãy mua ống nước bằng
nhựa, mua thêm các khúc ống nối thẳng, nối cong, nối chữ T, chữ L. Cứ thế mà
ráp vào thành giàn, làm mau như gió. Tội chi mà đóng giàn gỗ cho khổ công mà
mau mục ải.” Tôi nghe theo lời thầy bàn, nghe thì có lý lắm, nhưng khi vào thực
tế thì gặp không biết bao nhiêu ván đế. Thứ nhất là quá tốn kém, thứ hai là
giàn không vững, khi gió thổi thì mấy cái giàn cứ đu đưa nhún nhẫy theo chiều
gió. Thế là phải mua thêm ống nước lớn mà chống chỏi, mà đâu phải là dễ chống,
vì ống nước nhựa trơn lu, không có nơi tựa, mà đông đinh thì xôc xệch lỏng lẻo.
Lại tốn thêm bộn tiền. Phải mua thêm lưới mắt cáo trùm lên cho bầu bí leo. Mỗi
ngày, buổi chiều đi học về, con gái tôi ra vườn tưới cây. Bầu bí lớn mau như
thổi, chẳng bao lâu dàn cây lá sum sê xanh mướt, ra hoa vàng rực, và những nụ
trái nhú ra đẹp như những nậm ngọc. Lũ ong bướm kéo đến nhỡn nhơ . Tôi nhìn mà
lòng vui không xiết. Rồi những trái bầu bí dài thòng, nặng chĩu, phải buộc dây
treo chúng lên.

Vợ tôi bàn rằng, nên thuê
người đổ đất làm một con đường chạy từ ngoài vào đến cuối vườn, để mai đây, khi
nông phẩm nhiều, xe vận tải lớn có thể vào chuyên chở thẳng ra chợ. Tôi thấy có
lý quá, đi giao thiệp,và giao cho nhà thầu đổ đất, cán đường, làm mương thoát
nước hai bên đường. Lại tốn kém thêm ngoài dự trù, nhưng nghĩ lại, mai đây, đở
tốn công thuê người khuân vác từ nhà ra đường. Sau nầy, con đường chưa được hân
hạnh đón chiếc xe vận tải nào đi qua, vì chúng tôi ước tính thì nhiều, mà thành
quả nông nghiệp không gặt hái được bao nhiêu.

Những trái bầu non, nấu
canh tôm ngọt nước, ban đầu thì ngon lắm, vợ chồng khen tấm tắc và như ăn canh
thay cơm, nhưng ăn mãi thì cũng chán. Bạn bè bà con xa gần cũng hưỡng được
thành quả của chúng tôi. Chúng tôi đem bầu bí ra bỏ mối ở các chơ Việt Nam, có
bao nhiêu bán được hết bấy nhiêu. Nhưng đó là thời gian đầu mùa, về sau, dù
xuống giá rẻ rề, cũng không bán hết, phải mang các thứ trái cây héo về, đổ
xuống làm phân xanh. Tôi lại chuyển bầu bí ra chợ trời, bán sĩ cho các gian
hàng, người ta trả giá nào cũng phải bán tháo đi. Bạn bè bà con, ăn mãi cũng
chán bí chán bầu, không ai muốn nhận các món quà nầy, vì ngoài chợ cũng rẻ rề.

Chúng tôi tính toán sai
cả, thì ra cái tưởng tượng khác xa thực tế. Chưa có kinh nghiệm, chưa từng
trãi, cứ vẽ vời trong trí tưởng tượng mà đem ra thực hành. Đôi khi tôi có cảm
tưởng như vợ tôi là vị bí thư tỉnh ủy, cứ vạch hết kế hoạch nầy, đến kế hoạch
kia, mà tôi là nhân dân, chỉ biết thi hành và sai thì sửa và càng sửa thì càng
sai.

Mùa đông đầu tiên, một
buổi sáng thức giấc, dậy đánh răng rửa mặt, mở nước không chảy. Tôi tưởng hãng
cung cấp nước tạm thời khóa nước để sửa chửa. Tôi định sẽ kêu điện thoại than
phiên vì khóa nước mà không báo trước. Nhưng sau tôi mới biết là thời tiết
lạnh, đã làm đông đá nước trong ống. Mấy đứa con tôi không chịu đi học vì chưa
đánh răng súc miệng. Tôi cũng chịu thua. Ống nước bị lạnh đông đá, làm nhiều
nơi bị vở, khi đá tan, nước chảy lênh láng. Lại phải nhờ mấy ông thợ ông nước
đên sửa chửa với tiền công chém rất ngọt. Nhà tiền chế, tường mỏng, mái mỏng,
mùa hè thì thiêu đốt như lò lửa, mùa đông thì lạnh căm căm. Tôi lại phải tốn
thêm tiền mua hệ thông sưởi, hệ thông điều hòa không khí.

Chỉ một thời gian thôi,
tiền tiết kiệm, tiền bán căn nhà, đã đổ hết vào cái nông trại. Thấy cạn tiền
đầu tư cho mùa tới,vợ tôi bàn chuyện đi vay ngân hàng, đem cái nông trại nầy ra
mà cầm cố. Thôi thì cũng liều – Sống trên xứ nầy không có nợ, thì không phải là
người tốt – Một anh bạn tôi bảo vậy. Tôi chở vợ ra ngân hàng làm giấy tờ vay
mượn. Chỉ mấy hôm sau, được giấy báo là ngân hàng đã chấp thuận. Chúng tôi hớn
hở, cứ còn nước thì còn tát, để cứu vãn cái nông trại nầy. Nhưng khi nhìn vào
bản chiết tính chi tiết các phí khoản vay, đủ các thứ chi phí, vay thì ít, mà
nợ tốn kém thì nhiều. Vợ tôi nhăn nho, nói tiếng Việt Nam với tôi, trước mặt
ông nhân viên cho vay:

“Bọn nầy là tụi ăn cướp
ngày, ăn cướp có giấy tờ, ăn cướp có pháp luật che chở. Vay chừng đó, mà chi
phí chừng đó, có chết thì thôi, tôi không mượn đâu. Thôi đi về.”

Không mượn được tiền,
chúng tôi lo lắng lắm. Thôi thì tạm thời chi tiêu bằng thẻ nhựa, chịu lãi suất
cao, cũng còn đở hơn. Tôi thức khuya, dậy sớm chăm nom lũ gà vịt, lũ rau ráng.
Có khi đến mười giờ khuya mà vẫn còn vác nặng trên vai những bao thức ăn súc
vật, còn xối nước tưới cây. Những lúc nầy, tôi cũng bắt chước vợ mà hổn hển
ngâm nga:

“Ta dại ta tìm nơi vắng
vẻ,

Người khôn người tìm đến
chốn lao xao”,

và thấy ông Trạng Trình
Nguyễn Bỉnh Khiêm viết sấm ký giỏi quá, dự đoán tương lai cho tôi đúng phóc.
Quả không có ai dại bằng mình., tìm đến nơi vắng vẻ nầy mà lao động khổ nhọc,
đốt hết tiền tiết kiệm trong bao nhiêu năm.

Một hôm nữa khuya thức
giấc, vợ tôi nhẹ nhàng hỏi:

“Anh có nhớ chuyện Tam
Quốc Chí không? Khi đánh nhau, họ hay lập thế trận ỷ dốc. Anh có biết thế trận
ỷ dốc là thế nào không?”

“Trời ơi, nữa đêm mà nói
chuyện Tam Quốc Chí, anh lao động quần quật từ sáng đên khuya, rã người, em để
anh ngủ cho có sức để mai còn lao động tiếp.”

Tôi nghe tiếng thở dài
não nuột của vợ mà động lòng, trả lời ấm ớ cho vợ khỏi buồn:

“Anh không biết chắc ‘ỷ
dốc’ là cái khỉ khô gì. Nhưng có lẻ họ chia quân đóng hai vị trí khác nhau, một
nhóm tác chiến, còn nhóm kia yểm trợ“.

Vợ tôi như bắt được ý,
hăng hái nói:

“Em nghĩ, mình cũng nên
bắt chước người xưa, lập thế trận ỷ dốc mà cứu vãn cái nông trại nầy. Có nghĩa
là anh xin việc đi làm bên ngoài, đem lợi tức về bù đắp, yểm trợ cho khu nông
trại của chúng ta. Nếu một năm sau nữa , mà còn không nên cơm cháo gì, thì bán
quách, chúng ta đi làm công cho người khác. Nếu thành công, thì anh nghỉ việc
bên ngoài, trở về với nông trại.”

Nghe vợ bàn mà tôi tỉnh
ngủ. Ừ, giản dị thế mà cũng nghĩ không ra. Cứ lo lắng hoài. Đàn bà cũng có
nhiều cái suy nghĩ thật hay. Tôi nhẹ nhàng hỏi vợ:

“Nhưng một mình em, có
kham hết công việc trong nông trại nầy chăng? Việc thì bề bộn, nặng nhọc, làm
hoài không hết.”

“Những việc thường
thường, thì em có thể làm được, những việc nặng nhọc, thì chờ anh đi làm về
giúp”

Tôi nghe mà ngao ngán.
Thế nầy là vui thú điền viên trong tuổi xế chiều chăng. Ngày đi làm toàn thời
gian, đêm về làm việc nặng. Nhưng có lẽ không còn giải pháp nào tốt hơn. Ráng
thêm vài năm nữa, may ra thời vận đến.

Nhờ có chuyên môn, tôi
xin được việc làm có đồng lương khá. Mỗi tháng đem tiền lương về nuôi lũ gà
vịt, lũ rau ráng bí bầu. Công ty tôi làm đang đến đến hồi phát triển mạnh, mỗi
ngày tôi làm việc từ mười đến mười hai giờ, mỗi tuần làm sáu ngày. Mịt mờ trời
đất, thế mà đêm về cũng phải lo thêm việc của nông trại nữa. Vợ tôi thỉnh
thoảng phải thuê người phụ làm trong vườn. Lương tôi cũng tạm thời đáp đổi chi
phí của nông trại. Ngày chủ Nhật tôi phải lái xe đưa nông phẩm ra chợ bán.
Nghĩa là không có một ngày nghỉ nào trong tuần.

Thỉnh thoảng nghe vợ tôi
than phiền về chồn cáo bắt mất một số gà vịt, tôi chỉ cười bảo:

“Chia cho chúng tha bớt,
mất càng nhiều, thì em càng đở mệt.”

Chồn cáo xứ nầy khôn
ngoan lắm, chúng biết con chó săn trong nhà đêm đêm đi tuần rảo quanh hàng rào,
rồi vào nằm nghe ngóng canh chừng. Chúng lập kế đánh du kích, để vài ba con kêu
chí chóe xa xa về hướng đông, con chó chạy về hướng đó mà sục sạo. Thừa thế,
chúng lẻn vào hướng tây mà bắt gà vịt lôi đi. Khi lũ gà vịt kêu lên thất thanh,
con chó quay lại, thì chồn cáo đã đem theo được chiến lợi phẩm mà cao chạy xa
bay, ra khỏi vòng rào.

Mấy hôm, thấy lũ vịt
không xuống hồ bơi lội mà đứng trên bờ ngơ ngác, lông lá tả tơi. Tôi ra xem,
thấy mặt hồ đóng váng, như có ai đổ dầu, và quanh bờ thì có những vờ bọt đen
đặc quánh. Tôi vớt bọt, dùng cây mà quậy, thì thấy như có chất dầu. Đem đốt thì
cháy ra khói đen đặc và hôi mùi dầu. Tôi tái mặt, và nhảy cẫng lên mà chạy mau
vào nhà la lớn:

“Em ơi, mình sắp thành tỷ
phú rồi em à. Dưới đất của mình có vàng đen. Dầu, dầu hỏa, mình sắp thành phó
vương dầu hỏa rồi. Thôi, dẹp hết, bỏ hết, chẵng có bí bầu gà vịt chi nữa. Bỏ ra
công sức thì nhiều, mà thu hoạch chăng bao nhiêu. Bỏ ra cả trăm ngàn bạc mà thu
lại chưa được vài ngàn. Trời thương chúng mình, trời đãi chúng mình.”

Vợ tôi chưa tin, tôi ra
hồ nước, vớt dầu vào làm thí nghiệm chứng minh. Vợ tôi thấy dầu cháy, ôm lấy
tôi hôn mà kể công, rằng đó là nhờ nàng đưa ý kiến làm nông trại, mà nay thành
tỉ phú. Cả tuần, chúng tôi bỏ không tưới cây, gà vịt thì cho ăn cầm chừng. Kêu
bạn bè đến, bảo muốn bắt bao nhiêu thì bắt. Giàu rồi, thì kể chi mấy con gà,
con vịt lẻ tẻ. Nhiều đêm hai vợ chông tôi nằm mơ chuyện sang giàu, gởi con qua
Anh Quốc cho học trường lớn nhất., chuyện ngao du khắp thế giới. Tôi chạy ngược
chạy xuôi tìm hãng khai thác dầu. Và niềm vui của tôi xẹp xuống, khi nghe người
ta nói về việc khai thác dầu. Hãng dầu còn xem trử lượng được bao nhiêu, có
đáng khai thác hay không, và khi biết mõ dầu có trữ lượng cao, thì họ chỉ thuê
một khu đất nhỏ,với giá rẻ mạt, không đáng vào đâu. Thế là giấc mơ tỷ phú của
chúng tôi xẹp xuống thảm hại.

Việc trồng trọt và nuôi
gà vịt quá nhọc nhằn, chúng tôi không kham nỗi, vợ tôi bàn chương trình nuôi
dê, bò. Chúng tôi bán tháo hết đám gà vịt, mua hai mươi lăm con dê cái, có con
đã chửa bụng lưng lửng, và một anh dê đực râu xồm, có hai cái sừng quăn lại,
xỉa ra đàng trước. Mua thêm bốn con bò, ba con cái, một con đực. Bọn dê tạp ăn,
lá gì cũng bứt và nhai nuốt, thật là dễ nuôi. Thả chúng long rong trong vườn.
Cách nuôi thật nhàn hạ, không cần chăm sóc chi nhiều. Bốn con bò cũng vậy. Mỗi
ngày, con dê đực làm tình với bọn dê cái liên miên, làm vợ tôi ngượng. Con chó,
cũng to lớn không thua gì con dê, nhưng sống độc thân, mỗi lần thấy con dê đực
nhãy cái, thì nó ghen, chồm lên mà sủa om sòm. Có khi nó nhãy lên, tấn công sau
mông con dê đực. Con dê dực tức giận vì kẽ phá đám, quay lại, dùng sừng ủi đại
vào cho chó. Có khi con chó tránh đòn không kịp. Cũng lăn kềnh ra. Vợ tôi đứng
la lớn, bảo tôi can chúng ra. Sợ con chó bị thương vì cái sừng nhọn của dê. Tôi
cũng nạt nộ, la hét mà hai bên không ngưng chiến. Tôi phải dùng cây roi da, vụt
túi bụi vào cả dê lần chó, chúng mới chịu dang ra.. Vợï tôi nói:

“Con dê nầy hung tợn quá,
có ngày con chó bị sừng dê đâm đổ ruột”

Tôi cười:

“Lỗi tại con chó. Trời
đánh còn tránh bữa ăn. Huống chi nó đang làm cái việc truyền giống thiêng
liêng, mà con chó nhãy vào phá đám. Ví như tụi mình đang vui vẻ, có đứa nào phá
đám, mình có nỗi điên lên không.”

“Thôi ông ơi, ăn nói đàng
hoàng một chút có được không?”- Vợ tôi cằn nhằn.

“Mà con chó nó ghen tức
cũng phải, nó thì chay tịnh, mà con dê thì cứ làm tình lia lịa, không ngứa mắt
sao được?”

Mấy con dê cái bắt đầu
sinh con, những con dê con như cục nhung mềm, môi đỏ hồng, hai mắt long lanh,
dáng đi yếu đuối. Mấy đứa con tôi cưng chúng lắm. Cứ ẵm bồng hoài, đi học về là
ra vườn ẵm dê con vuốt ve.

Chị tôi từ Úc Châu qua Mỹ
thăm, anh chị thấy tôi ở giữa đồng không mông quạnh gió hú vi vu mà ái ngại. Cứ
lắc đầu mãi. Cứ nói mãi câu:

“Cậu mợ tính như thế nầy
là trật lất rồi. Mình đã xa quê hương, thiếu tình đông bào, phải sống nơi nào
phồn hoa đô hội, cho bớt nỗi cô đơn. Lại gần chợ búa, gần bệnh viện, gần các
tiện ích công cọng, có bạn bè, có bà con láng giềng, khi đau ốm, khi trái gió
trở trời có nhau. Lại khi muốn ăn tiệm Việt Nam cũng phải lái xe đi về hơn hai
giờ , phí công quá. Phải tính lại đi.”

Một buổi sáng sớm, cả nhà
ngồi uống cà phê nhìn qua cửa sổ, thấy con dê đực đứng trước cửa chuồng, chổng
râu dê lên đón bọn dê cái. Mỗi khi có con dê cái đi ngang qua, thì dê đực nhãy
lên lưng làm tình. Liên tiếp mười mấy lần, mà thấy chàng dê vẫn tỉnh táo như
thường. Chị tôi phát mạnh vào vai anh rể tôi cười mà nói:

“Ba mầy chẳng bằng một
phần nào của con dê cả.”

Anh rễ tôi bình tỉnh nói:

“Em xem, con dê đực thay
đổi nhiều con dê cái khác nhau, chứ nếu chỉ có một con dê cái thôi, thì nó cũng
chỉ làm một lần, chứ không làm đến lần thứ hai. Nếu có hai chục bà khác nhau,
thì anh đâu có thua anh dê kia chút nào.”

Trưa hôm ấy, một người bạn
cũ của anh rễ tôi ghé nhà thăm, thấy bầy dê và nghe kể lại chuyện tiếu lâm buổi
sáng, mắt anh sáng lên, rũ chúng tôi đi đến tiệm bán thịt dê của người Ấn Độ
nằm về phía Bắc của thành phố. Đi mua thịt dê về nhậu chơi, tăng cường sức khỏe
mà bổ dương. Mấy bà ở nhà, chúng tôi ba người đàn ông lái xe đi. Tiệm rộng lớn,
có hai căn, như một căn chợ. Nồng nặc mùi cà ri, muì hương vị. Đủ loại cà ri,
đủ loại hương vị trong bao ni lông, chất đầy trên kệ. Bên kia thì dê dã lột da
treo lòng thòng nhiều con trần truồng. Khách hàng muốn mua cẳng, đùi, ngực, thì
cứ việc chỉ vào đó. Anh Ấn Độ đầu quấn khăn chà chóp đem cưa dến, cắt ào ào gọn
nhẹ lắm. Chúng tôi mua nguyên cái đùi sau con dê, hơn mười cân Anh. Anh rễ tôi
thấy nhiều cặp ngọc dương (dái dê) tròn trỉnh, trắng tươi, gói trong giấy bóng
rất bắt mắt, xuýt xoa, đòi mua đến năm cặp. Tôi hỏi ai mà ăn hết, anh bảo không
ai ăn thì để cho anh. Mấy khi mà có thứ quý báu nầy trên miền đất văn minh. Anh
thì thầm: “Ăn thứ nầy vào, thì phải biết. Không có hiệu quả sao có ghi trong
sách thuốc người Tàu?”

Chúng tôi mua thêm một ít
hương liệu, rồi hớn hở chạy xe về. Ông bạn anh rễ tôi dành làm bếp, nấu các món
đặc biệt, mà ông nói đùa là món “Ông ăn bà khen”. Ông bạn đem ướp ngọc dương
rồi xào với hành tây, đem ra nhậu trước. Mấy bà biết đó là cái gì, thì cứ la
oai oái ngoãnh mặt đi. Mười viên xào tròn trịa nằm trên dĩa, có hành xắt lát,
có tiêu rắc lấm chấm đen. Trông thật ngon. Tôi bắt chước ông anh, gắp một viên
đưa vào miệng, mới cắn sơ, đã có mùi thum thủm, tôi muốn nhả ra. Trong lúc ông
bạn của anh tôi thì gắp bỏ vào mồm, nhai nuốt ực ngon lành, còn hít hà khen
ngon. Ông anh rễ tôi cũng thưởng thức tận tình và nói:

“Bổ lắm đấy nhé. Cứ ăn
vào là nghe máu chuyển rần rật, mặc sức mà rượt các bà chạy có cờ. Người
Ấn
độ và Trung Hoa biết món ăn
nầy nên đông con là phải”

“Nếu có thêm rượu thuốc
toa Minh Mạng nữa, nhấp vào, thì là một phối hợp hết sẩy” – Bạn ông anh tôi
tiếp lời – “Hồi còn ở bên nhà, tôi thấy mấy ông già trộn huyết dê với rượu,
uống vào thì như thần dược.”

Thịt dê được nấu càri,
thêm nhiều hương vị khác, nước cà ri vàng màu đỏ sền sệt, chấm với bánh mì mà
ăn . Bà chị tôi nói:

“Vẫn còn mùi mồ hôi dê.
Nghe đâu khi làm dê, để thịt khỏi hôi, người ta cho dê uống nước, rồi cột dây,
đánh nó chạy quanh một cái cọc, cho vả mồ hôi ra. Xong xối nước tắm cho nó. Bao
nhiêu mùi hôi đều ra hết. “

Vợ tôi xen vào:

“Ở Mỹ mà làm thế là đi tù
sớm, vì mang tội hành hạ súc vật. Ngon đâu không thấy, đi tù mệt lắm”

Mấy hôm sau, có con dê
cái trong vườn bị thương tích, ông bạn của anh tôi đề nghị làm dê thui mời bạn
bè ăn chơi. Ông nhận trách nhiệm thọc thuyết và lột da dê. Cái chậu đựng rượu
Vodka được chôn lưng chừng xuống mặt đất, ông thọc dao vào cổ dê mà ngoáy. Máu
dê tuôn ra kêu ọc ọc. Các bà khiếp sợ la lên và bỏ chạy cả. Mổ bụng ra, mối
biết con dê có chửa. Cái tử cung chứa bốn con dê con đã tượng hình. Ông bạn anh
tôi xuýt xoa, bảo rằng thứ nầy quý lắm, để ông làm dê “hà nàm” cho mà ăn. Cái
bọc tử cung để nguyên, dổ vào nồi, đặt lên bếp hầm với nhiều vị thuốc bắc. Khi
chí đem xuống, vớt ra dĩa, dùng dao mà cắt từng khoanh, thịt dê con mềm nhũn,
nuốt vào cổ như ăn đông sương. Con dê được xuyên qua cây cọc, quay trên đống
lửa than đá.

Tôi điện thoại mời đám
bạn bè xa gần đến tham dự buổi tiệc thịt dê. Nghe có tiết canh dê, dê thui, dê
“hà nàm”, ông nào cũng hớn hở, đòi mời thêm các bạn bè khác nữa.

Đám đàn ông ăn uống nhồm
nhoàm, miệng môi đầy máu tiết canh, nói chuyện tiếu lâm bao quanh vấn đề tình
dục, không kiêng cử gì cả, và cười ha hả, làm nhiều bà nhăn mặt bất bình.

Buổi tiệc thịt dê thật
vui, anh em ra về hỉ hả, và hẹn có ngày trở lại làm một chầu khác. Tối hôm đó,
tôi nằm chờ kết quả của dê “hà nàm” và tiết canh dê, nhưng không thấy gì cả và
ngủ quên cho đến sáng. Vợ tôi nhìn tôi cười hỏi:

“Có thật thịt dê làm tăng
cường năng lực sinh lý không?”

“Toàn cả chuyện tào lao,
tiếu lâm chơi thôi, đàn ông ưa ăn tục nói phét, bịa chuyện cho vui bữa rượu ấy
mà”

Bọn dê sinh sản nhanh,
mau lớn, và ăn tạp, phá trơ trụi cả khu vườn. Chúng biết đứng lên trên hai chân
sau, mà bứt lá những cành cao. Làm cho khu nông trại tiêu điều trông trải. Mỗi
chủ nhật, tôi đẩy dê lên xe, đem ra bán ở chợ trời. Thấy mình giống mấy anh nông
dân Âu Châu tả trong tiểu thuyết của Pháp, mà ngày xưa thường hay
đọc.. Đem dê bán cũng không phải là chuyện
giản dị, đứng chờ, trả giá, cò cưa. Loại người như tôi không thích hợp với công
việc thương mãi, nên cảm thấy chán lắm.

Một lần đứng bán dê, có
cô thư ký trong sở đi chợ trời, thấy tôi, nhãy đến ôm chầm như gặp cố nhân – Mà
ngày nào không gặp nhau chứ – Cô cười nói huyên thuyên và ôm hôn mấy con dê như
người Mỹ thường hôn chó. Thấy cô thích quá, và hỏi chuyên dê tíu tít, tôi cho
cô một con. Lấy cái áo cũ bao mông nó lại, đẩy lên băng sau chiếc xe hơi sang
trọng của cô thư ký. Con dê phá tan cả vườn hoa của nhà cô và hai vợ chông gây
nhau, suýt li dị. Cô dem con dê trả lại cho tôi ngay tại sở. Tôi lại phải khổ
sở kiếm vải bọc mông con dê, cho lên băng sau chiếc xe mình, chở về. Vợ tôi
thấy con dê la lên:

“Dê bán không hết, anh
mua thêm về làm chi?”

Vợ tôi nhọc nhằn vì cái
nông trại quá, bàn với tôi bán đi, về lại thành phố ở. Phải gần nữa năm mới bán
được đám đất nông trại. Bán lỗ vốn, vì chúng tôi muốn phủi tay cho xong. Căn
nhà tiền chế, người mua đất đòi chúng tôi trả thêm tiền họ mới nhận. Còn không
thì phải dẹp đi. Chúng tôi năn nỉ mãi, họ mới nhận với điều kiện tất cả trang
bị về máy sưỡi, máy lạnh, điên nước để nguyên. Vợ tôi nói:

“Ai đời cho không căn nhà
mà phải năn nỉ người ta. Lại còn đòi hỏi đủ điều.”

Chúng tôi thở phào, thoát
ra được cái “vui thú điền viên“ nhọc nhằn đó, dọn về phố, thuê nhà ở. Dù còn nợ
nần nhiều, nhưng chúng tôi cảm thấy như trút được gánh nặng ngàn cân trong
lòng. Hai vợ chồng đi làm công, chiều về ngồi xem truyền hình, đọc sách đọc
báo. Buổi tối ngủ thẳng giấc không lo lũ chồn cáo du kích tấn công. Ngày nghỉ
rủ nhau đi chơi, đi phố, thăm bạn bè bà con. Thảnh thơi không lo lắng nhiều.
Suốt ba năm làm nông trại, tôi chỉ có được một lần vui toàn vẹn, là lần mời bạn
bè cùng ăn thịt dê. Tôi chưa có một lúc rảnh rang để ngững đầu lên trời nhìn
trăng, chứ khoan nói là khi xem hoa nở khi chờ trăng lên.

Tôi bảo với vợ rằng:

“Mấy ông thi sĩ, văn sĩ,
cứ vẽ vời ra cảnh thơ mộng để gạt gẫm tụi mình.. Tiêu phí sạch cả tiền bán căn
nhà, tiền tiết kiệm, mà lại ngày đêm đầu tắt mặt tối trong mấy năm . May mà
thoát ra được. Sướng quá. Thôi nhé, từ nay em đừng vẽ vời thêm chuyện thơ mộng
nữa nhé.”

Vợ tôi cười:

“Ông Nguyễn Bỉnh Khiêm có
nói rồi:

“Ta dại ta tìm nơi
vắng vẻ”.

Lỗi tại mình, không chịu
hiểu nghĩa đen mà cứ hiểu nghĩa bóng.
Nên
mới ra nông nỗi.”

Tràm Cà Mau

Chuyện tình bi thảm của Pierre Abelard và Heloise

Chuyện tình bi thảm của Pierre Abelard và Heloise
6iykim2000002
Chuyện tình bi thảm của Pierre Abelard và Heloise
alt
Chuyện có thật
Chàng là giáo sĩ, nàng là nữ tu, chuyện tình của họ so về mức độ mãnh liệt và
cả sự bi đát thì không thua gì Romeo và Juliet. Chỉ khác, họ là nhân vật có
thật. Họ là Pierre Abelard, nhà triết học và thần học lừng danh của nước
Pháp thế kỷ 12, và Heloise, một trang giai nhân mà sắc đẹp của nàng tuy đã hơn
người nhưng nếu so với trí tuệ và phẩm cách thì không kém phần nổi bật. Họ tạo
nên câu chuyện tình bất hủ, chuyện tình được xem là đẹp nhất mà cũng bi thảm
nhất trong lịch sử loài người.
Mối tình bị cấm đoán
Pierre Abelard gặp  Heloise lần đầu tiên khi chàng đã 36 tuổi, còn nàng mới là thiếu nữ tuổi 16. Lúc đó, Abelard đã là một triết gia, một nhà thần học kinh viện lừng danh, là giáo sư xuất sắc trong các lĩnh vực này ở Paris. Còn Heloise là cháu ruột của
Fulbert, một giáo sĩ có chức sắc, giàu có và thế lực. Nàng được hưởng một nền
giáo dục tốt từ nhỏ, và đến tuổi trăng tròn thì đã trở nên thông tuệ hơn người.
Không rõ vì đã biết đến Heloise từ trước và phải lòng nàng nên Abelard mới “thu
xếp” để Fulbert mời chàng đến làm gia sư dạy nàng về triết học, hay ý muốn trau
dồi kiến thức cho cháu gái của Fulbert đã tạo điều kiện cho đôi tài tử giai
nhân gặp gỡ. Chỉ biết rằng không bao lâu sau khi Abelard đến ở nhà Fulbert để
dạy học, giữa hai người đã nảy sinh một tình yêu nồng cháy.
Dù khéo che đậy đến  mấy, mối tình này cũng nhanh chóng bị phát hiện. Ngài Fulbert nổi giận, lập tức chia rẽ đôi tình nhân. Thế là bắt đầu một thiên tình sử qua những lá thư sau này sẽ trở nên những áng văn chương bất hủ đối với nền văn học thế giới. Và
trong một lá thư như thế, Heloise cho biết một giọt máu của tình yêu đã thành
hình trong cơ thể nàng. Biết tin, Abelard tìm mọi cách đưa Heloise đi trốn.
Nàng ẩn náu tại nhà của chính chị gái Abelard, và sinh một đứa con trai đặt tên
là Astralabe.
Không còn đường nào  khác, Abelard phải tìm gặp ông bác của người yêu để nói chuyện và xin cưới nàng. Điều này làm cho cơn giận của Fulbert càng bùng lên dữ dội vì ông vẫn muốn nhắm cho Heloise một người chồng trong đám vương công giàu có. Nhưng rồi ông cũng chấp nhận. Abelard không nghĩ đến chuyện hỏi ý kiến Heloise nên vô cùng sửng sốt khi đã được Fulbert gật đầu rồi thì lại bị nàng chối từ. Heloise
biết rằng, người mình yêu sẽ bất hạnh khi gắn bó cuộc đời với nàng, không muốn
một trí tuệ như chàng phải phiền lụy vì những mối khổ tâm của cuộc sống đời
thường. Nhưng sau một thời gian Abelard vật nài, van vỉ, nàng cũng đồng ý bởi
không muốn chàng tuyệt vọng nghĩ rằng nàng không yêu chàng nữa. Một đám cưới bí
mật được tổ chức rất giản dị. Và ngay cả sau khi cưới, họ cũng ít được gặp
nhau, cũng không gặp gỡ công khai.
Cuộc báo thù tàn khốc
Dù chuyện hôn nhân của  cô cháu cưng đã an bài nhưng Fulbert không bao giờ nguôi mối hận đối với Pierre Abelard, và ngài tự thề sẽ trả thù. Ngài rỉ tai bạn bè, người thân từng chút một về chuyện của Abelard – Heloise, gieo vào lòng họ sự khinh bỉ đối với cặp đôi này, và họ làm nhục thiếu phụ những khi có dịp. Ngài thậm chí còn có ý định
giết Abelard và gả cháu gái cho một người khác.
Xót xa cho cảnh bị hành hạ, lăng nhục của vợ, Abelard bảo nàng hãy tạm lánh vào một tu viện và gửi con về cho chị gái chàng. Biết tin này, Fulbert càng điên giận, nghĩ cô cháu dại dột của mình đã hết lòng yêu một kẻ không xứng đáng để rồi bị bỏ rơi, bị
ruồng rẫy đến mức phải vào nhà tu kín. Để trừng phạt, đêm nọ, Fulbert thuê một
nhóm người xông đến nhà Abelard đè ra thiến chàng.
Về nỗi đau này, Abelard viết: “Khi tôi đang chìm vào giấc ngủ, họ đã đột nhập với sự tiếp tay của một tên đầy tớ của tôi bị họ mua chuộc. Tại đó, họ trút sự trả thù vào tôi
với sự tàn độc nhất và cách trừng phạt đáng hổ thẹn nhất. Tất cả những việc họ
làm khiến cả thế giới kinh hoàng, vì họ cắt lìa bộ phận của cơ thể tôi với với
suy nghĩ tôi là nguyên nhân nỗi đau buồn của họ”. Nỗi đau khủng khiếp cơ thể
không là gì so với nỗi nhục nhã và tuyệt vọng về một hạnh phúc lứa đôi, sau sự
biến này, Abelard chính thức trở thành một tu sĩ thuộc dòng tu Benedek ở
Saint-Denis. Từ đó, cuộc đời chàng dành trọn cho nghiên cứu triết học, thần
học. Còn tình yêu đau đớn đối với Heloise, thứ tình yêu mà thảm kịch và sự chia
lìa không diệt nổi, chỉ được tiếp tục qua những trang thư.
Mất chồng, Heloise cũng nguyện không cải giá. Nàng phủ khăn đen lên đầu, trở thành một nữ tu cùng dòng tu với Abelard. Dù thân thể đã bị bó buộc, trái tim họ vẫn dành cho nhau suốt đời. Những lá thư trao qua đổi lại trong những năm ấy đã trở thành những áng văn chương bất hủ của nhân loại. “Anh biết không, anh yêu dấu? Cả thế giới đều biết, em đã mất anh. Làm thế nào mà số phận khốn khổ với hành động phản bội trắng trợn lớn nhất lại có thể cướp đi anh của em?”; “Nếu mất anh, em còn gì để
hy vọng chứ? Tại sao phải tiếp tục khi trong cuộc hành hương của đời người, em
chẳng còn chỗ dựa nào ngoài anh, chẳng ai chịu hiểu rằng anh vẫn tồn tại và em
bị cấm tất cả những niềm vui khác bên anh, nỗi lòng hân hoan về sự hiện diện
của anh hết lần này tới lần khác có thể cứu rỗi chính em?”, trong thư gửi
Abelard, Heloise đã viết như vậy.
Những năm xa nhau, Abelard tiếp tục đi sâu hơn, xa hơn trên con đường học thuật và phát triển tư tưởng của mình, những tư tưởng được vô số trí thức ngưỡng mộ học hỏi, nhưng cũng khiến cho những kẻ thủ cựu nổi giận. Sự bất đồng đó khiến ông bị cáo buộc tội dị báng bổ, dị giáo, bị đuổi khỏi tu viện, bị quản thúc, lưu đày, bị đốt
sách do mình viết, và không ít lần phải đối mặt với ấm mưu ám hại, thủ tiêu…
Những sự đọa đày đó dần làm Abelard kiệt sức. Ông qua đời ở tuổi 63. Còn Heloise, bà sống thêm 22 năm nữa trong sự tưởng nhớ người đàn ông duy nhất của đời mình, cai quản tu viện nơi bà gắn bó, nuôi dạy những đứa trẻ theo tinh thần khoa học và đạo đức mà mình tin tưởng.
Ngày nay khi đến thăm kinh thành Paris hoa lệ, nhiều người không quên đến thăm nghĩa trang Père Lachaise, nơi an nghỉ những linh hồn cao quý nhất của nước Pháp – những trí thức, nhà văn, nhạc sĩ, thiên tài, và đặc biệt là cặp tình nhân huyền thoại
Abelard –  Heloise. Sau khi lìa đời, họ đã được chôn cạnh nhau ở tu viện mà
Heloise cai quản, và 7 thế kỷ sau đó, họ được đưa về nghĩa trang này, ở bên
nhau vĩnh viễn.
Dũng cảm hơn cả Romeo  và Juliet – đôi tình nhân dám chết khi cuộc đời không cho ở bên nhau -, họ đã làm được một điều đáng cho ta cúi mình kính ngưỡng: tiếp tục sống, tiếp tục chịu đau đớn để cống hiến, để yêu. Và dù cách mặt, họ thực sự đã bên nhau, có nhau suốt cuộc đời và cả khi đã sang bên kia thế giới.
alt

Sưu tầm
From: Do Tan Hung & Nguyễn Kim Bằng gởi

Em Tên Là Nujood, Mười Tuổi, Xin Ly Dị.

Em Tên Là Nujood, Mười Tuổi, Xin Ly Dị.

·
Trên đây là tựa đề cuốn tiểu thuyết kể lại hoàn cảnh đau lòng của các em bé gái ở nước Yemen. Gia đình em Nujood bắt em phải làm vợ một người đàn ông lớn tuổi vào lúc em mới 10 tuổi. Em bị đánh đập, hành hạ, và cha mẹ em từ chối giúp đỡ. Vì thế, em phải tìm cách tự cứu lấy mình. Em chạy đến toà án xin quan toà cho em được ly dị người chồng của em.

·      Câu chuyện thương tâm của em Nujood đã làm thay đổi luật lệ về tục lệ tảo hôn ở quốc gia theo Hồi Giáo. Chúng tôi dịch phần tóm lược cuốn truyện đăng trên Reader’s Digest tháng 1 năm 2013.

“Đầu óc em quay mòng mòng – Chưa bao giờ em trông thấy một đám đông nhiều người đến như thế . Ngoài sân toà án, người ta đang vội vã, tấp nập từ mọi phía, đổ dồn về đây. Chẳng ai trông thấy em: Em nhỏ bé quá so với những người này. Năm nay em mới được mười tuổi, không chừng chưa đủ mười tuổi. Nào có aí biết rõ em bao nhiêu tuổi?”

NGƯỜI TA ĐỒN RẰNG QUAN TOÀ   là người giúp đỡ những kẻ cô thế. Vì  vậy, em phải tìm cho được một vị quan toà, và kể cho ông ta nghe câu chuyện của em. Em mệt bã cả người. Trời nóng bức quá, em còn phải mang tấm lưới che mặt, đầu em nhức như búa bổ, và em cảm thấy xấu hổ quá chừng.

Em dáo dác ngó quanh, để ý canh chừng những người cảnh sát mặc đồng phục. Nếu họ trông thấy em, họ có thể bắt em. Một con bé mười tuổi dám bỏ nhà đi hoang. Em sợ đến run rẩy cả chân tay, em cố tìm xem có người phụ nữ  nào mang lưới che mặt đi ngang qua, để hỏi thăm. Gặp một bà, em vội vàng lên tiếng hỏi thăm: “Cháu muốn tìm gặp một vị quan toà.”

Hai con mắt sau tấm lưới mầu đen mở to ra để nhìn em, ngạc nhiên hỏi: “Em muốn gặp ông quan toà nào?”

“Ông nào cũng được. Cứ dẫn cháu đi gặp một ông quan toà đi.”

Bà ta nhìn em chòng chọc, kinh  ngạc khi nghe em trả lời như vậy.

Cuối cùng, bà ta nói: “Em đi theo tôi.”.

Cánh cửa căn phòng được mở ra. Trong phòng có rất nhiều người, và ở cuối căn phòng, tôi trông thấy một người đàn ông ngồi ở đó với nét mặt gầy ốm, và bộ râu mép. Cuối cùng thì tôi cũng gặp được một vị quan toà. Tôi ngồi xuống, ngả lưng ra sau ghế, chờ đến lượt mình.

Đang mơ màng lim dim chợp mắt ngủ, tôi nghe tiếng người đàn ông hỏi: “Ta có thể giúp gì được cho cháu?”. Tiếng nói của người này nghe rất êm ái, dịu dàng. Tôi đưa tay lên dụi mắt cho tỉnh ngủ, và nhận ra người đang đứng trước mặt tôi chính là vị quan toà có râu mép.

 

Thoả Ước Giữa Cha Tôi và Một Người Đàn Ông

Ở Khardji, một ngôi làng nhỏ bé nơi tôi sinh ra, thuộc xứ Yemen, người phụ nữ không được phép chọn lựa khi lập gia đình. Mẹ tôi, bà Shoya lập gia đình với cha tôi, ông Ali Mohammad al-Ahdel, khi bà mới được 16 tuổi. Bà lấy chồng theo sự sắp xếp của gia đình, không một lời phản đối. Sau đó bốn năm, khi cha tôi quyết định muốn lấy thêm một bà vợ thứ hai, mẹ tôi chỉ biết ngoan ngoãn vâng lời. Tôi cũng ở trong
trường hợp giống mẹ tôi, nghĩa là đồng ý lập gia đình theo ý muốn của cha mẹ,
không có ý kiến, và cũng không ngờ mình bị lâm vào hoàn cảnh nguy hiểm. Ở tuổi
còn nhỏ, tôi không có nhiều câu hỏi để thắc mắc.

Mẹ tôi sinh ra tôi, và 15 anh chị em khác ngay tại nhà.Tôi thường gọi mẹ tôi là Omma hay Mama. Khi lớn lên, tôi chỉ biết quan sát sự chăm lo việc nhà của mẹ tôi cho đến lúc tôi biết theo đuôi mấy bà chị giúp mẹ làm việc nhà. Tôi cứ theo hai chị lớn, nghe mẹ và các chị bảo làm gì thì làm. Hai chị rủ đi lấy nước ngoài con suối  đem về nhà, tôi cũng đi theo. Khi tôi được hai hay ba tuổi, bỗng dưng xảy ra một vụ đánh nhau dữ dội giữa cha tôi với vài người trong làng. Chúng tôi bị buộc phải dọn đi nơi khác ngay lập tức.

Khi gia đình chúng tôi đến thành phố Sana, chúng tôi bị “sốc” nặng về cuộc sống mới ở thành phố chính trong vùng. Nó hết sức ồn ào, bụi bậm, khác hẳn với đời sống êm đềm ở dưới làng quê.  Chúng tôi sống trong một bin đinh tồi tàn ở khu Al-Qa. Sau  một thời gian dài chật vật tìm việc, cho tôi được phu quét đường cho sở vệ sinh.

Tôi được cắp sách đi học năm đầu ở trường tiểu học, và là họ trò giỏi. Tôi sắp sửa lên năm học thứ hai thì một buổi chiều tháng Hai năm 2008, cha tôi- tôi vẫn gọi người là Aba- đi làm về nói với tôi rằng ông có một tin vui cho tôi.

“Nujood, con sắp sửa lập gia đình rồi.”

Tin này đến với tôi thật là bất ngờ, không biết tử đâu tới.
Tôi thực sự chẳng hiểu gì cả. Lúc đầu tôi cảm thấy hình như đó là điều tốt, vì
tôi sẽ được ra khỏi nhà, ở riêng. Cuộc sống trong nhà chật trội, tù túng đến
ngộp thở. Aba (cha tôi) không tìm được việc làm toàn thời gian sau khi ông bị
mất việc làm phu quét đường cho sở vệ sinh. Vì thế, tháng nào ông cũng lâm vào
hoàn cảnh trả tiền thuê nhà trễ nải. Mấy đứa em trai của tôi đứng ngoài đường
chặn xe hơi ở ngã tư để bán cuộn giấy chùi tay kiếm được vài cắc bạc. Sau đó
đến lượt chị Haifa cũng phải ra đường bán hàng, và rồi đến lượt tôi. Tôi không
thích cái việc rượt chạy theo xe để bán hàng.

Lúc gần đây, Aba thường hay ngồi la cà, nhai lá thuốc phiện  “khat” với bạn bè. Ông bào chữa là nhai lá “khat” giúp ông khuây khỏa, bớt chán đời. Qua ba cái vụ ngồi lê, nhai lá “khat” như vậy, cha tôi được một người đàn ông khoảng trên dưới 30 làm quen với ông. Hắn nóí với cha tôi: “Tôi muốn hai gia đình chúng ta kết nghĩa với nhau.”

Người đàn ông đó tên là Faez Ali Thamer, làm nghể giao hàng. Hắn cũng là dân vùng Khardji giống như gia đình tôi, và đang có ý định đi  tìm vợ. Cha tôi nhận lời cầu hôn của hắn. Thế là sau  hai chị tôi, đến lượt tôi phải lập gia đình ra ở riêng.

Chiều tối hôm đó, tôi nghe lóm được câu chuyện giữa chị Mona và cha tôi.

Chị tôi cằn nhằn cha tôi: “Em Nujood còn bé quá, sao cha lại đem gả chồng cho nó.”.

Cha tôi lý sự: “Đó là cách hay nhất để bảo bọc cho nó. Nó sẽ không bị người lạ hãm hiếp, và không bị làm đề tài để nói xấu hay dèm pha. Người đàn ông này rất đàng hoàng, đứng đắn. Anh ta hứa sẽ không đụng vào người con Nujood cho đến khi nó đủ khôn lớn. Ngoài ra, gia đình mình không có đủ tiền để nuôi cả nhà đông con.”.

Mẹ tôi không nói một lời nào cả. Bà có ý buồn lòng, nhưng ngậm câm không nói ra. Ở nước tôi, đàn ông là chủ gia đình, quyết định mọi chuyện.

 

Đám cưới được tổ chức.

KẾ HOẠCH CHUẨN BỊ ĐÁM CƯỚI CHO TÔI được tiến hành như dự
liệu, và tôi sớm nhận ra những điều bất hạnh sẽ xảy ra cho tôi từ lúc tôi nghe
nói gia đình bên chồng  quyết định sẽ không cho tôi đi học nữa. Tôi thích
đi học, và yêu trường học. Đối với tôi những giờ cắp sách đi học đến trường là
những giây phút thần tiên. Chỉ có ở trường học tôi mới có thể trốn khỏi được sự
tù túng, khó khăn của cuộc sống. Trường học là nơi ẩn náu bình yên cho tôi.

Vào ngày đám cưới của tôi, các cô bạn, chị em họ đứng chờ sẵn hai bên đường để reo hò, và vỗ tay khi họ trông thấy tôi đi ra. Nhưng lúc đó, mắt tôi nhòa lệ, không còn trông thấy ai cả.

Từ phiá sau chiếc xe hơi loại SUV, đậu truớc cửa nhà tôi,
một người đàn ông thấp, lùn nhìn tôi chằm chặp. Ông ta mặc bộ quốc phục “zana”
mầu trắng, trên mép có hàng râu mỏng. Mái tóc cắt ngắn của ông bôi dầu bóng
láng, mặt ông được cạo sơ sài, cẩu thả. Ông ta không được đẹp trai cho lắm.
Người đó chính là Faez Ali Thamer! Chồng tương lai của tôi.

Khi chiếc xe nổ máy, người tài xế lái xe đi. Tôi chợt tỉnh
ngộ và bắt đầu khóc thầm, mặt tôi tì lên cửa kính xe hơi. Tôi nhìn mãi về phía
căn nhà thân yêu của tôi cho đến khi hình ảnh cha tôi nhỏ dần.

Một người đàn bà đứng chờ tôi ở bực cửa căn nhà bằng đá ở vùng
Khardji. Tôi linh cảm thấy ngay bà ta không mấy gì ưa tôi. Bà mẹ chồng mới của
tôi già lắm, lớp da trên mặt bà nhăn nheo như da con kỳ đà. Bà ra dấu cho tôi
bước vào nhà. Bên trong căn nhà bầy biện rất sơ sài, không có bàn ghế tủ giả gì
nhiều. Căn nhà có bốn phòng ngủ, một phòng khách, và một cái bếp nhỏ.

Tôi ăn bữa cơm có thịt do em gái của chồng tôi làm sẵn, ăn
chung với mọi người. Sau bữa ăn, những người lớn tuổi trong làng ngồi nói
chuyện, và  ngồi nhai lá “khat” chuyện vãn với nhau. Không ai để ý đến
tuổi tác quá nhỏ của tôi. Về sau tôi mới hiểu rằng lấy con gái nhỏ tuổi là
chuyện thường xảy ra ở miền quê. Ở một bộ lạc, người ta còn nhắc nhở cho nhau
nghe một câu châm ngôn xưa là: “Muốn có một cuộc hôn nhân hạnh phúc, thì nên
lấy một cô gái chín tuổi.”.

Tôi cảm thấy an lòng khi được đưa về phòng riêng của mình.
Một tấm chiếu dài được trải trên nền nhà: đó là cái giường của tôi. Mệt quá,
tôi nằm lăn ra ngủ, chẳng cần tắt đèn.

Phải chi tôi được ngủ luôn một giấc dài vô tận thì hay biết
mấy. Khi cánh cửa bị đẩy mạnh, mở ra, làm tôi thức giấc. Chưa kịp mở to đôi
mắt, tôi đã ngửi thấy cái mùi mổ hôi nhớp nhúa, và một thân hình đầy lông lá đè
lên người tôi. Ai đó đã thổi tắt ngọn đèn dầu, làm cho căn phòng tối đen như
mực. Thì ra người đó là hắn ta. Tôi nhận ra hắn vì cái mùi hôi của thuốc lá, và
mùi lá “khát” toả ra từ người  hắn. Hắn cạ người hắn vào người tôi.

Tôi thở dài, năn nỉ: “Đừng, đừng đụng vào người tôi. Hãy để cho tôi yên.”

“Em là vợ của tôi mà! Sao vậy?”.

Tôi đứng bật dậy, cửa căn phòng chưa khép kín. Tôi nhìn
thấy tia sáng mờ từ bên ngoài lọt vào, tôi phóng mình chạy ra ngoài sân.

Hắn đuổi theo tôi.

Tôi hét lên: “Cứu tôi với! Làm ơn cứu tôi.”. Tôi khóc oà
lên.

Tiếng khóc của tôi vang vọng vào giữa đêm yên tịnh. Nhưng
hình như đó là tiếng la hét trong hư không, vô vọng. Tôi chạy thật nhanh, thở
hổn hển. Tôi vấp ngã, và lại ráng đứng dậy chạy tiếp. Nhưng cánh tay cứng rắn
của hắn đã túm lấy được tôi, lôi tôi trở lại căn phòng ngủ, đẩy mạnh tôi nằm
xuống chiếu. Tôi cảm thấy như mình bị tê liệt toàn thân, như người bị trói chặt.

Hy vọng tìm được một người phụ nữ làm đồng minh đến tiếp
cứu. Tôi kêu cứu bà mẹ chồng: “Amma! Dì ơi đến cứu con.”

Không có ai lên tiếng trả lời, hay chạy đến cứu tôi.

Khi hắn cởi bỏ bộ sà rông cuốn trên người. Tôi lăn tròn người
trên chiếu để tự vệ, nhưng hắn bắt đầu lột quần áo ngủ của tôi ra.

Tôi lại tìm cách bỏ chạy, và nói với hắn: “Tôi sẽ về mách
với cha tôi.”.

“Mày muốn về nói gì với cha mày cũng được. Chính ông ấy là
người đã ký giao kèo với tao kia mà.”

“Ông không có quyền đụng vào tôi.”

Hắn bắt đầu cười to, thái độ khinh mạn, đểu cáng.

“Mày bây giờ là vợ của tao rồi. Mày phải làm đủ mọi thứ tao
muốn.”.

Bỗng nhiên tôi cảm thấy mình như bị cuốn bay đi trong một
cơn bão to, người tôi  bị ném lên không trung, ném vào mưa bão, và tôi
không còn hơi sức để chống cự được nữa. Có cái gì đó đang âm ỉ cháy ở tận sâu
trong đáy lòng. Bất kể tôi gào thét, kêu cứu ra sao, vẫn không có ai đến cứu
tôi. Tôi cảm thấy đau đớn vô cùng. Tôi hét lên tiếng thét cuối cùng, và ngất
đi, không còn biết gì nữa.

 

Tôi quyết định chạy đi trốn.

Tôi phải tự thích ứng với cuộc sống mới thật nhanh, tôi không
có quyền bỏ nhà ra đi, không có quyền than phiền, và không có quyền từ chối làm
bất cứ điều gì. Ban ngày tôi phải rắm rắp tuân lệnh bà mẹ chồng: Đi hái rau,
chùi nền nhà, rửa chén. Khi nào tôi ngừng tay, nghỉ một chút là bị bà mẹ chồng
nắm tóc kéo.

Chồng tôi ra khỏi nhà từ sáng sớm, và trở về  trước lúc mặt trời lặn. Mỗi khi tôi nghe hắn về đến nhà, là tim tôi đau thắt lại vì sợ hãi, hoảng hốt. Khi màn đêm buông xuống là tôi biết chuyện gì lại sắp xảy ra. Cũng những hành động dã man bỉ ổi được tái diễn nhiều lần. Lần nào cũng đem lại đau đớn, và buồn chán cho tôi. Vào ngày thứ ba, hắn bắt đầu đánh tôi. Lúc đầu đánh bằng tay, sau đó đánh bằng gậy. Mẹ hắn ở bên cạnh còn nói đốc thêm vào. Bà bảo con trai bà cứ đánh nữa đi.

Mỗi khi hắn lên tiếng chê trách tôi, là bà lại xúi : “Đánh mạnh vào mắt nó – Nó phải nghe lời con- Nó là vợ của con mà.”.

Tôi sống trong nỗi sợ hãi vô cùng tận. Khi nào có cơ hội ở
nhà một mình, tôi trốn  trong một xó góc nhà, ngồi một mình, ngẩn ngơ suy
nghĩ không hiểu vì sao đời tôi lại khốn khổ thế. Một buổi sáng, chán cái cảnh
trông thấy tôi ngồi khóc cả ngày, hắn bảo tôi là hắn cho phép tôi về thăm cha
mẹ. Cuối cùng thì tôi cũng được toại nguyện, về thăm gia đình một chuyến.

Vừa về đến nhà, gặp cha tôi. Ông nói ngay: “Nujood. Bây giờ
con đã là người phụ nữ có gia đình. Con phải ở với chồng con. Nếu con ly dị
chồng con, anh em, họ hàng của cha sẽ giết cha mất. Danh dự của gia đình là
trên hết.”.

Tôi bèn đi thăm dì Dowla. Bà là vợ thứ hai của cha tôi. Bà
sống với năm đưá con cuả bà trong một apartment rất nhỏ gần nhà của chúng tôi.
Tôi leo hết bực cầu thang, vừa đi vừa bịt mũi vì mùi hôi thối của đống rác, và
dẫy cầu tiêu công cộng gần đó. Dì Dowla mở cửa đón tôi vào với nụ cười rạng rỡ
trên môi.

“Nujood! Con đến thăm dì, làm dì ngạc nhiên quá. Dì mừng được gặp lại con. Vào nhà chơi đi con.”.

Tôi rất thích dì Dowla. Dì có dáng cao và gầy. Dì đẹp hơn
mẹ Omma của tôi nhiều, và dì không bao giờ rầy la tôi. Tội nghiệp dì sống khổ
lắm. Cha tôi hầu như không bao giờ ngó ngàng đến gì. Nghèo quá, dì phải ra
đường đi ăn xin.

Tôi dốc bầu tâm sự kể cho dì nghe hoàn cảnh hiện tại của
tôi. Câu chuyện làm cho dì xúc động mạnh. Dì lặng yên suy nghĩ một hồi lâu,
trong lúc dì pha trà cho tôi uống. Đưa chén trà cho tôi, dì nhìn thẳng vào mắt
tôi, cúi đầu nói thật chậm, và rõ ràng:

“Nujood, nếu không có ai muốn nghe hoàn cảnh của con, con
phải đi đến toà án để trình bầy trường hợp của con.”. Dì nói nhỏ bên tai
tôi.Tôi hỏi lại cho rõ:

“Đi đâu hả Dì?”

“Đi đến toà án làm gì?”

Trong chớp mắt, những hình ảnh các vị quan toà đầu chít
khăn cao, các luật sư đi đứng vội vàng trong toà án, và những người dân thường
đàn ông, đàn bà  ra toà để thưa kiện về những việc rắc rối trong gia đình,
trộm cắp, tranh dành tiền thừa kế. Tôi đã được xem trên truyền hình về sinh
hoạt ở toà án tại nhà một người hàng xóm.

Dì Dowla tiếp tục giải thích thêm: “Con hãy ra toà hỏi thăm xem quan toà có thể giúp gì cho con được không. Công việc của họ là giúp đỡ nạn nhân bị hà hiếp.”.

Sáng hôm sau, tôi nôn nóng ngồi chờ mẹ tôi thức dậy. Bà đến
và cho tôi 150 đồng rials. Bà dặn dò: “Con cầm lấy tiền ra mua bánh mì để ăn
sáng.”.

“Thưa mẹ vâng!”.Tôi ngoan ngoãn trả lời mẹ tôi.

Tôi đi theo con đường quen thuộc để đến tiệm bánh mì. Nhưng
đến phút chót, tôi đổi ý, ra đường lộ chính mà đi.

Tuy vậy, tôi không biết toà án ở đâu. Trong đầu tôi lúc đó
đầy ắp những lo âu, sợ hãi. Bị choáng mắt vì ánh đèn sáng trưng trên đường phố
chính, tôi cố gắng trấn tỉnh, sắp xếp những ý nghĩ lộn xộn trong đầu cho có thứ
tự. Trông thấy một chiếc Taxi chạy ngang, tôi dơ tay ra vẫy taxi. Tôi muốn dùng
taxi đi đến Bab-al-Yemen để gặp chị Mona trước đã.

Xe taxi ngừng. Ngồi vào trong xe, tôi lại đổi ý và nói:
“Tôi muốn đi đến toà án.”

 

Gặp Ông Quan Toà

Chánh án Abdo không dấu nổi sự ngạc nhiên, hỏi lại tôi: “Có phải con muốn xin ly dị, đúng không?”.

“Thưa vâng.”

“Nhưng… bộ con có gia đình rồi hay sao?

“Thưa vâng!”

Trông ông thật là đạo mạo, uy nghi. Chiếc áo sơ mi trắng ông mặc làm tăng vẻ đẹp của nước da mầu ô liu của ông. Nhưng khi nghe câu trả lời của tôi, mặt ông tối sầm lại.

“Nhưng con còn nhỏ quá mà, sao con lại có gia đình rồi?”

Không muốn phải trả lời câu hỏi của ông. Tôi nhắc lại câu
nói của tôi với giọng cương quyết: “Con muốn xin ly dị.”.

Ông bối rối suy nhĩ, lấy tay gãi râu, không hiểu ông có
đồng ý giúp tôi hay không.

Ông tiếp tục hỏi thêm: “Vậy tại sao con lại muốn ly dị?”

Tôi nhìn thẳng vào mắt ông và nói: “Vì chồng cháu đánh đập
cháu mỗi ngày.”.

Câu trả lời của tôi như một cái tát vào mặt ông. Nét mặt ông trở nên đanh lại, lạnh lùng. Ông hỏi tôi một cách sỗ sàng: “Con vẫn còn trinh hay sao?”

Tôi cay đắng ngậm tủi hờn. Tôi hết sức xấu hổ khi phải nói về chuyện riêng tư này. Nhưng cùng lúc đó, tôi linh cảm rằng ông là người thấu hiểu nỗi đau đớn của tôi, nếu tôi muốn ông giúp thắng kiện, tôi phải nói thật mọi chuyện với ông.

“Không. Con đã mất trinh rồi, con bị chảy máu.”

Ông bị xúc động nặng. Tôi đọc thấy nét kinh ngạc trên mặt
ông. Ông muốn che dấu cảm xúc của mình. Sau đó, tôi thấy ông hít vào một hơi
dài, và nói: “Ta sẽ giúp con.”.

Tôi cảm thấy được an ủi, yên tâm. Tôi nhìn ông run rẩy cầm
chiếc điện thoại trong tay. Nếu trời cho tôi gặp may mắn, ông quan toà này sẽ
can thiệp giúp tôi, và chiều nay tôi có thể trở về nhà cha mẹ mình, chơi với
các anh chị em tôi như trước đây. Được Ly Dị!! Đó là điều tôi ước mơ nhất trong
lúc này. Tôi sợ phải trở về nhà chồng ngồi một mình, khi màn đêm buông xuống,
tôi phải nằm cạnh người đàn ông đó.

Một vị thẩm phán thứ hai bước vào phòng để bàn về chuyện
của tôi, ông làm mọi niềm hy vọng của tôi tan vỡ ra từng mảnh.

“Cháu bé à, chuyện của cháu sẽ phải mất nhiều thì giờ mới
gỉải quyết được. Nó không đơn gỉản như cháu nghĩ đâu. Và điều đáng tiếc là ta
không hứa chắc con sẽ thắng kiện được đâu.” .

Vị quan toà thứ hai này là ông Mohammad al-Ghazi. Ông là vị
quan tòa cao cấp nhất của toà án. Ông nói ông chưa hề thấy một trường hợp nào
tương tự như vụ của tôi. Ông giải thích cho tôi biết ở Yemen, con gái thường
lấy chồng rất sớm, trước khi đến tuổi luật định là 15. Chánh án Abdo gỉải thích
thêm đó là một tập quán cổ truyền có từ lâu lắm rồi. Nhưng theo ông hiểu, không
có vụ hôn nhân, cưới gả lúc còn nhỏ tuổi nào  lại đi đến chỗ ly dị, bởi vì
ông chưa hề thấy một cô gái trẻ tuồi ra toà xin ly dị.

Thẩm phán Abdo gỉải thích xong, và nói với tôi: “Chúng tôi
sẽ tìm cho cháu một luật sư.”.

Họ có biết rằng nếu tôi về nhà, không có sự bảo đảm của họ,
chồng tôi sẽ giam giữ tôi, và tiếp tục đánh tôi?.

Tôi trợn trừng mắt và nói rất cứng với ông: “Con muốn được
ly dị.”. Nói xong, chính tôi cũng phải ngạc nhiên, và lo sợ trong bụng. Không
ngờ tôi dám nói thẳng thừng như vậy.

Ông chánh án Al-Ghazi sửa lại khăn cuốn trên đầu, và nói
với: “ Ta sẽ nghĩ cách giúp con. Không thể cho cháu bé này về nhà được đâu.”.
Lúc đó, có thêm vị quan toà thứ ba, ông Abdel Wahed, tình nguyện giúp một tay.
Ông cho biết nhà ông có dư phòng cho tôi ở tạm. Ông sẽ nhận tôi vào tá túc một
thời gian.

Đến chín  giờ sáng hôm sau, ngày thứ Bảy, chúng tôi
cùng đến văn phòng làm việc của ông Abdel Wahed ở toà án. Có mặt trong phòng
còn có các ông Abdo và Mohammad al-Ghazi. Ông Al-Ghazi tỏ vẻ lo lắng. Ông nói
với tôi: “ Chiếu theo luật Yemen, rất khó cho cháu làm đơn thưa kiện chồng và
cha cháu.”. Giống như nhiều trẻ em sinh ra trong làng quê ở Yemen, tôi không có
giấy khai sinh, và tôi lại quá nhỏ để làm đơn khởi tố, hay thưa kiện. Một hợp
đồng đã được chấp thuận, và ký kết bởi những người đàn ông lớn tuổi trong gia
đình tôi. Theo tập quán của Yemen, hợp đồng như thế là hợp pháp, và có gía trị.

Ông Mohammad al-Ghazi bàn với các vị thẩm phán đồng sự:
“Ngay lúc này, chúng ta phải hành động thật nhanh. Tôi đề nghị chúng ta tạm
thời bắt giam chồng và cha của em Nujood. Nếu chúng ta muốn che chở cho em bé
gái này, chúng ta phải tạm giam hai người đàn ông đó lại, không cho họ được tự
do.”.

Bỏ tù cha tôi! Trời đất! Liệu rằng Aba có tha thứ cho tôi
cái tội tầy đình này hay không? Lòng tôi chan chứa tủi nhục, và cảm thấy mình
tội lỗi vô cùng.

Ba ngày sau đó, tôi có mặt ngoài toà án hầu như suốt cả
ngày, hy vọng sẽ tìm ra được một giải pháp mầu nhiệm nào đó. Tôi sẽ còn phải ra
toà bao nhiêu lần nữa, Chánh án Abdo từng báo trước cho tôi biết rằng vụ kiện
của tôi hết sức dị thường, đặc biệt. Nhưng không hiểu các vị quan toà sẽ xử trí
ra sao khi họ đối đầu với trường hợp như thế này.

Tôi học hỏi và tìm được câu trả lời từ bà luật sư Shada.
Người ta đồn rằng bà Shada là một nữ luật sư giỏi nhất xứ Yemen, bà chiến đấu
hết mình để bảo vệ quyền lợi của người phụ nữ. Bà là một phụ nữ đẹp, đứng cạnh
bà, tôi ngửi thấy mùi hoa lài thơm ngát. Ngay khi vừa gặp bà lần đầu, tôi đã
thích bà. Bà không mang lưới che mặt. Bà hay mặc tấm áo dài bằng luạ màu đen,
và vấn trên đầu một khăn choàng nhiều mầu.

Khi đến gặp tôi lần đầu, tôi thấy bà tỏ ra hết sức xúc
động, và thương cảm cho tôi. Bà nói: “Trời đất ơi! Cháu còn bé quá.”. Ngay sau
đó bà lật cuốn sổ ghi hẹn của bà, và bà liên tục gọi cho gia đình, bạn bè, và
đồng nghiệp để sửa lại lịch trình làm việc vô cùng bận rộn của bà. Bà nói với
những người này nhiều lần: “Tôi vừa mới nhận bào chữa cho một vụ hết sức quan
trọng..”.

Cuối cùng, bà nói nhỏ bên tai tôi: “ Nujood, em yên trí,
tôi sẽ không bỏ rơi em đâu.”. Tôi càm thấy an toan khi ở cạnh bà. Bà biết dùng
chữ thật đúng để nói về hoàn cảnh của tôi. Âm thanh dịu dàng trong lời ăn tiếng
nói của bà làm tôi thoài mái, yên lòng.

 

Vụ Ly Dị Được Chấp Thuận

Ngày trọng đại đến sớm hơn sự mong đợi của tôi. Rất nhiều người đến dự phiên toà nhờ chiến dịch quảng bá cuả bà luật sư Shada . Tôi chưa bao giờ thấy nhiều máy chụp ảnh, và máy thu hình  như vậy. Đằng sau tấm khăn choàng đầu mầu đen, mồ hôi đổ ra ướt đẫm trên người tôi.

Nhưng tự trong đáy lòng tôi, tôi cảm thấy lạnh căm vì lo sợ, và có nhiều toan tính trong đầu. Tôi ngồi yên, không nhúc nhích. Không biết kết qủa vụ án ly dị sẽ như thế nào? Nếu hắn chỉ trả là không đồng ý cho tôi ly dị thì tôi sẽ ra làm sao? Lỡ hắn cả gan lên tiếng hăm doạ các ông quan toà thì hậu quả như thế nào?

Lo thầm trong bụng, người tôi phát lạnh run: Tôi trông thấy
cha tôi và con ác qủi  xuất hiện. Họ được hai người lính hộ tống đi ra
trước toà. Hai tù nhân trông có vẻ tức giận lắm, tên ác qủi cúi đầu nhìn xuống
đất, rồi đột nhiên hắn ngẩng mặt lên, quay lại nhìn bà luật sư Shada. Hắn mỉa
mai nói: “Coi bộ mày hãnh diện quá hả?” .

Bà Shada tỉnh bơ, không chớp mắt. Cái nhìn của bà cho thấy
bà sẵn sàng thách thức tên này. Tôi học được ở bà nhiều bài học quí báu.

Bà nói nhỏ với tôi: “Đừng thèm nghe hắn nói.”.

Tim tôi đập mạnh. Khi ngước mắt nhìn lên, tôi chợt bắt gặp
tia nhìn của Aba, cha tôi. Trông ông có vẻ tức giận, buồn phiền nhiều lắm. Ông
từng nói với tôi về hai chữ “Danh Dự”. Nhìn vào mặt ông lúc này tôi mới hiểu ý
nghĩa của cái từ phức tạp này. Tôi có thể đọc được trong ánh mắt của ông vừa
tức giận vừa xấu hổ. Tôi giận ông lắm, nhưng tôi cũng không khỏi ân hận dùm cho
ông. Sự kính trọng của người khác dành cho ông rất  quan trọng ở vùng này.

Bây giờ đến lượt quan toà Abdo lên tiếng:

“Ở đây chúng ta có một vụ kiện giữa một cô gái bị ép buộc
phải lập gia đình, không có sự ưng thuận của cô. Sau khi hợp đồng hôn nhân được
ký kết cô không biết, cô gái bị cưỡng bách đem đến sống ở tỉnh Hajja. Ở đây, cô
bị chồng hãm hiếp, vùi dập khi cô chưa đến tuổi dậy thì, và không sẵn sàng cho
chuyện sinh lý. Người chồng đó còn đánh đập, và sỉ nhục cô ta. Cô ra toà hôm
nay để xin toà án cho phép cô được ly dị.” .

Giây phút quan trọng sắp xảy ra khi bản án cho kẻ có tội
được tuyên đọc.

Quan toà phải gõ cái búa bằng gỗ  lên bàn vài lần để
vãn hồi trật tự, yên lặng.

Ông nói với con quái vật mà tôi thù ghét: “Hãy lắng nghe
cho kỹ những gì tôi sắp nói: Anh lập gia đình với một cô gái cách nay hai
tháng. Anh ngủ với cô ta, anh đánh cô ta. Có đúng hay không?”

Tên ác qủi chớp mắt hai ba lần, rồi hắn trả lời: “Không.
Điều đó không đúng. Cô ta và cha của cô chấp thuận cuộc hôn nhân này.”.

Tôi nắm vạt áo bà Shada, kéo mạnh, và nói:

“Nó nói láo.”.

Quan toà quay sang cha tôi và hỏi: “Ông có đồng ý về vụ hôn
nhân này hay không?”.

“Vâng, tôi đồng ý.”

“Con gái của ông bao nhiêu tuổi?”

“Con gái tôi 13 tuổi.”

Mười ba ư? Chưa hề có ai nói tôi 13 tuổi. Tôi vặn vẹo hai
bàn tay vào nhau để trấn an lòng mình.

“Tôi gả con đi lâý chồng đế nó không bị người khác bắt trộm
đem đi.”.

Tôi chẳng hiểu cha tôi muốn nói cái gì. Câu trả lời của ông
rất mơ hồ và khó hiểu, và những câu hỏi sau đó của quan toà càng lúc càng thêm
phức tạp. Người ta bắt đầu to tiếng với nhau. Kẻ bị truy tố lên tiếng biện
minh. Tiếng ồn ào trong phòng xử ngày càng to hơn, trong lúc tim tôi đập loạn
xạ, dồn dập.

Ông chánh án ra hiệu cho chúng tôi đi theo ông sang một
phòng khác, tránh sự bàn tán của công chúng. Ông quan toà hỏi: “Faez Ali
Thamer, anh có làm tình với cô gái trong đêm tân hôn hay không. Trả lời cho tôi
rõ có hay không?”

Tôi nín thở nghe hắn trả lời. “Thưa có”, hắn thú nhận,
“nhưng tôi đã làm rất nhẹ nhàng với cô ta. Tôi rất cận thận. Tôi không hề đánh
cô ta.”

Câu trả lời của hắn như một cái tát thật mạnh vào mặt tôi.
Nó làm tôi nhớ lại những đau đớn, tủi hờn tôi phải chịu đựng.

“Điều đó là sai, không đúng.”, Tôi hét lên cho thỏa cơn tức giận.

Mọi người quay lại nhìn vào tôi. Nhưng chính tôi cũng phải
ngạc nhiên không ngờ mình nóng giận đến thế. Sau đó, mọi việc diễn tiến mau
chóng, thông suốt. Thằng ác quỉ nói rằng cha tôi đã phản bội, không giữ đúng
lời hứa, khi ông không nói thật tuổi của tôi. Đến lúc đó thì Aba, cha tôi lại
nổi giận, khai toạc hết ra là thằng qủi nó hứa với cha tôi nó sẽ đợi chờ, không
đụng vào người tôi cho đến khi tôi khôn lớn. Thằng ác qủi tuyên bố rằng nó sẵn
sàng chấp nhận cho tôi ly dị với một điều kiện là cha tôi phải hoàn trả số tiền
mua đứa con gái về làm vợ. Và lúc đó, cha tôi bèn quật ngược lại. Ông nói rằng
hắn chưa hề trả cho cha tôi một món tiền nào cả. Đôi bên cãi nhau như những kẻ
buôn bán ở ngoài chợ: Trả hồi nào? Trả ở đâu? Trả bao nhiêu?

Cuối cùng, tôi được quan toà cứu thoát bằng án lệnh ông ban ra.

Ông tuyên bố: “Toà án cho phép ly dị.”

 

Tái bút:

Vụ ly dị của tôi đã làm thay đổi đời tôi. Mỗi khi tôi đi ra ngoài đường phố, nhiều phụ nữ, chị em bạn gái níu áo tôi hỏi thăm, và chúc mừng tôi đã thắng kiện. Lúc gần đây, tôi đã rời khỏi nhà chú tôi, trở về sống với cha mẹ tôi. Tất cả chúng tôi đều tìm cách quên đi những chuyện bất hạnh xảy ra cho tôi.

Cách đây vài tuần, những cơn ác mộng của tôi không còn nữa. Thay vào đó, tôi mơ đến một ngày được cắp sách đến trường đi học lại. Sau này, khi lớn lên, tôi sẽ học trở thành một luật sư, giống như bà Shada, để bênh vực những em gái khác nhỏ bé như tôi.

Ghi chú thêm: Cuốn sách về câu truyện có thật của em Nujood được phát hành, và bán rất thành công. Do đó, kết quả thu về đã giúp em và cả gia đình thoát khỏi cuộc sống nghèo túng. Bây giờ gia đình em đã mua được một căn nhà ở Sana để sống, và có lợi tức vững chắc. Một người bạn và cũng là cố vấn cho gia đình tiết lộ rằng em Nujood bây giờ trở thành một thiếu nữ 15 tuổi, em phải chật vật sửa đổi cách ứng sử vì em quá nổi tiếng. Em đang cố trau dồi Anh Ngữ, và muốn du học ở nước ngoài.

Tháng Tư năm 2009, quốc hội nước Yemen nâng tuồi thành hôn luật định của các em gái lên 17 tuổi, nhưng qua ngày hôm sau, đạo luật này bị tiêu hủy. Hiện nay, nước Yemen đang rơi vào cuộc khủng hoảng chính trị, và đàn ông có thể lấy vợ nhỏ tuổi bao nhiêu cũng được.

Tóm lược cuốn tự truyện của Nujood Ali, cùng với sự phụ giúp của Delphie Minoui

Nguyễn Minh Tâm dịch
theo Reader’s Digest

Cảm Nghiệm Sống

Tu Tại Gia

“Thứ nhất thời tu tại gia
Thứ nhì tu chợ, thứ ba tu… dòng” (2)
(Mượn ý  Ca dao)

Có ba người cùng tôn giáo, một là nhà truyền giáo, một là tài xế lái xe đò và
một nông dân có vợ và 10 con. Ba người đều thâm niên 40 năm chức nghiệp, đã qua
đời trùng hợp cùng giờ, cùng một ngày và cùng được lên trình diện Chúa để xin
vào thiên đàng. Ba người cùng tới cửa một lúc nên Thánh Phê-rô mới nói: Các anh
đều đến cùng một lúc, hãy tự nhường nhịn nhau, vậy anh nào muốn vào trước?
Nhà Truyền Giáo nói:
“Hai anh dành cho tôi vào trước được không?” Bác tài và anh nông dân
kính nể vị lãnh đạo tinh thần, chẳc hẳn người có nhiều công lao, nên đồng thanh
cất tiếng cùng một lúc: chúng tôi xin nhường ngài vào trước.
Nhà truyền giáo rất lấy làm hãnh diện thấy mình được nhường, cúi đầu chào thánh Phê-rô và chững chạc tiến vào cửa Thiên Cung quỳ trước Thiên Nhan tâu:
– Tấu lạy Chúa, con là nhà truyền giáo làm việc thay thế các Tông Đồ, suốt 40 năm chuyên lo rao giảng Lời Chúa nhân từ cho giáo dân, xin cho con được vào Thiên Đàng trước.
Chúa ngắm Nhà Truyền Giáo một cách rất trừu mến, xuất khẩu thành thơ, Ngài
phán:
  1. Bốn mươi năm dạy dỗ Lời Cha
Con giảng giáo dân ngủ gật gà
Đâu hiểu Phúc Âm mà áp dụng
Ra ngoài tạm nghỉ, đợi chờ ta.
Nhà truyền giáo lủi thủi lui ra, bác tài xế nói với anh nông dân: “Chú nhường cho tớ vào trước nhé vì tớ thường   chở chú đi đây… đó đó.” Anh nông dân gật đầu
chấp nhận vào sau chót.
1) Tu dòng không dễ bị cám dỗ – vì một trong những điều hứa là sống đời khó nghèo
. . . người nghèo đến ngay giữa chợ không người chào hỏi “bần nhân đáo thị
vô nhân vấn
” nên ai thèm cám dỗ. . .(đây chỉ là quan niệm cá nhân của kẻ
viết bài này thôi.)
Bác tài nhanh nhảu cũng cúi đầu chào thánh Phê-rô, rồi tiến vào cửa Thiên Cung quỳ xuống, ngẩng mặt lên chiêm ngưỡng Chúa và tâu:
– Tấu lạy Chúa: Con làm tài xế lái xe đò, suốt 40 năm con phục vụ đồng bào,
chuyên chở vợ đi thăm chồng, con đi thăm cha, đem tình thương yêu đến với mọi
người. Thỉnh xin Chúa cho con được vào Thiên Đàng sớm.
Chúa nhìn anh tài xế, Ngài mỉm cười: Ừ, kể ra con cũng có nhiều công to đáng được thưởng, tuy nhiên con tạm ra ngoài nghỉ, chờ Cha xem kỹ lại một số hồ sơ vừa trình lên thưa con, kiện tụng vì bị thương dập mũi, trầy trán. . . gì đó mà Cha chưa kịp xem hết; cũng xuất khẩu thành thơ, Ngài phán:
  1. Xe đò chuyên chở khách đi xa
Thăm viếng chồng, cha cũng tuyệt mà
Đáng thưởng Thiên Đàng nhờ lái giỏi!
Mỗi lần con thắng . . . chúng kêu Ta!”
Bác tài xế cũng chưa được vào, phải lui ra và ngồi chờ.
Đến lượt anh nông dân, anh rụt rè sợ sệt vì nghĩ bụng hai người có công lớn như vậy mà chưa được vào. Còn mình chỉ có cày sâu cuốc bẫm trồng trọt để nuôi vợ, nuôi con, đâu có công lao gì…làm sao vào nổi Thiên Đàng, nên rất hồi hộp lo âu..! Anh trịnh trọng cúi đầu chào thánh Phê-rô và nhỏ nhẹ thưa; bẩm ngài, con được phép và chưa? Thánh Phê-rô gật đầu và  nói:
– Con hãy vào trình diện Chúa đi.
Anh nông dân rụt rè tiến vào, còn cách cửa thiên cung cả trăm bộ anh đã qùy xuống và di chuyển bằng hai đầu gối, gần đến cửa anh cúi rạp đầu khúm núm tâu:
– Bẩm lạy Cha nhân từ: Con là một nông dân dốt nát, nghèo hèn, bốn mươi năm chỉ biết, cày sâu cuốc bẫm, trồng trọt để nuôi vợ và 10 đứa con, bữa tối còn phải phụ bà xã rửa chén, cuối tuần còn phải lau nhà nữa. Xin Cha rộng lòng thương cho con được nương náu dưới mái nhà yêu mến của Cha là sung sướng lắm rồi. Con xin tình nguyện làm bất cứ việc gì con cũng xin vâng theo…!
– Chúa nhìn anh nông dân trừu mến Ngài phán: Con quả thực có công lớn, vì:
– Làm chồng chiều vợ tuyệt vời thay
Nhịn nhục khôn ngoan đáng bậc thày!
Chỉ bốn mươi năm con chịu… nổi
Thiên Đàng, Cha thưởng bước vô ngay.
Qua câu chuyện dí dỏm trên, cho phép ta suy luận. Bất cứ ở trong địa vị nào dù quan trọng hay không quan trọng, mỗi người chúng ta đều là một Tông Đồ của Thiên Chúa. Sự khiêm tốn hoàn thành sứ vụ của mình, không phân biệt dù lớn hay nhỏ đều có là giá trị, chứ không phải giá trị ở chức vụ. “. . . sau khi đã làm tất cả những
gì theo lệnh phải làm, thì hãy nói: Chúng tôi là những đầy tớ vô dụng, chúng tôi chỉ làm việc bổn phận đấy thôi.(
Lc 17,10)
Chúng ta có yêu thương nhau, chúng ta mới biết nhường nhịn nhau. Vì có “khôn ngoan” mới biết nhịn nhục. Vì sự nhịn nhục và tha thứ sẽ làm cho tình yêu được bền vững, gia đình hòa thuận, mà gia đình chính là nền tảng của xã hội; là một giáo xứ nhỏ trong những giáo xứ của Giáo Hội. Quả thực xứng đáng là bậc
thày vậy!
Cảm  Tác
Thiên Đàng, nhà của Chúa Trời
Là nơi quê thật tuyệt vời, Ngài ban
Cho ai trách nhiệm chu toàn
Yêu thương chân lý, khôn ngoan thực hành.
Bần cùng hay bậc trâm anh
Tề gia khéo léo, mới rành trị dân.
Trần gian Thiên Ý vâng tuân
Đời đời hạnh phúc hồng ân chan hòa.
Ngày về Thiên Quốc hoan ca
Thiên Thần mở cửa, Chúa Cha chúc lành.
Hoài Việt Nguyễn Vĩnh Tường
1-Trích trong Thiên Nga Thoát Nam của tác giả.
– dongcong.net
Anh chị Thụ & Mai gởi

Ông Cha Và Ổ Chứa Nô Lệ Tình Dục

Ông Cha Và Ổ Chứa Nô Lệ Tình Dục

(01/04/2013)

Vietbao.com

Tác giả : Nguyễn Kim Dục

Tác giả sinh năm 1938, cựu sĩ quan an ninh quân đội, sang Mỹ
theo diện H.O. vào năm 1990, hiện đã về hưu và an cư tại Westminster. Ông tham
dự Viết Về Nước Mỹ từ năm 2008 và đã góp nhiều bài viết giá trị. Bài mới sau
đây mang tựa đề “Tu thành Linh Mục nhưng không thích làm “cha”
thiên hạ.” Công việc ông Cha này chọn là cải trang đi vào các động mãi
dâm, những ổ chứa, ổ buôn người, giúp giải cứu những nạn nhân bị buộc làm nô lệ
lệ tình dục.

Một hôm vợ tôi đi đâu về liệng ra 2 vé đi tham dự buổi tiệc gây quỹ tổ chức tại
nhà hàng Paracell. Tôi hỏi:

– Ai đứng ra gây quỹ?

– Một ông Cha.

– Cha nào?

– Em không biết tên.

– Hay nhỉ?

– Em chỉ biết có một Cha đứng ra tổ chức để gây quỹ cho tổ chức cứu giúp những
nạn nhân bán vào các động làm nô lệ tình dục ở các nước Đông Nam Á.

Vợ chồng chúng tôi thấy ai dù Thầy hay Cha đứng ra tổ chức đều rất sốt sắng
tham dự.

Hôm đó vào ngày cuối tuần, chúng tôi đến đúng giờ mà sao thiên hạ tham dự đông
thế, tìm mãi mới có chỗ đậu xe. Buổi tiệc hôm nay không thấy quảng cáo trên
đài, trên báo mà sao thiên hạ bảo nhau đi đông thế. Chúng tôi vào trong thì các
bàn đã đông đủ mọi người chờ giờ khai mạc.

Chả thấy ai giới thiệu tự nhiên nhìn thấy ông Cha xuất hiện trên sân khấu cầm
micro tự giới thiệu linh mục Nguyễn-Bá-Thông, vợ tôi khèo vai tôi nói cha này
đấy làm tôi cũng phì cười. Cha còn trẻ khoảng 36, 37 tuổi là cùng. Cha xưng
“Con” với mọi người tham dự một cách tự nhiên.

Cha cho biết hôm nay tổ chức của Cha với Website onebodyvillage.com phối hợp
với Hopetoday.com tổ chức bữa tiệc gây quỹ để giúp cho những người con gái và
trẻ em bị bán vào các động mãi dâm ở vùng Đông Nam Á. Tổ chức này đã âm thầm
hoạt động từ năm 1998 và đã cứu được biết bao nhiêu người kể cả trẻ em từ các
động mãi dâm không phải cứu họ ra rồi để mặc họ muốn sống làm sao thì sống mà
lập ra những làng nhỏ để họ sống, trong đó dạy học, huấn nghệ hầu có một nghề
tự nuôi sống bản thân để sau này không quay về con đường cũ. Tổ chức đã thành
lập nhiều làng ở Singapore, Campuchia và ở Việt Nam. Những nạn nhân được cứu ra
thường mắc những bệnh xã hội được các bác sĩ ở bên Hoa Kỳ về bên ấy chữa bệnh
như bác sĩ Nguyễn Thanh Tâm mà họ âm thầm đóng góp cả công và của. Thật đáng
quí thay. Công việc của họ không bao giờ thấy họ lên đài tuyên bố này nọ.

Cha nói đưa ra những dẫn chứng lôi cuốn người nghe, mọi người chăm chú nghe cha
nói quên cả ăn, cuối cùng Cha nói thôi bây giờ con xin mời quý ông bà, cô bác
ăn đi đã chứ con chiếu những thước phim hay slide những cảnh con đã chứng kiến
thì quý vô bác ăn mất ngon. Cha liền báo nhà hàng đem đồ ăn ra. Đồ ăn đem lên
hết món này đến món khác ăn mệt nghỉ, tôi thấy nhà hàng cho ăn hậu hĩnh quá
liền ghé tai vợ tôi nói nhỏ “Mình mua có $25 một vé mà cho ăn như vầy thì
hết mẹ nó rồi còn đâu mà đóng góp gây quỹ.” Vợ tôi nói: “Anh đi kiếm
một cái bao thơ mình bỏ tiền vào đấy, ngoài phong bì đề dấu tên rồi đưa cho ban
tổ chức.” Tôi hỏi “Bao nhiêu?”  Vợ tôi dơ một ngón tay. Tôi
biết tôi phải làm gì rồi.

Trong lúc mọi người ăn tiệc có ca sĩ Tâm Đoan lên hát giúp vui 2 bài với sự
điều hành của cô Christine Sa sôi động, làm cho thực khách vui theo ngoài ra
cũng có một số thực khách lên giúp vui nữa,  đó là những người có tấm lòng
đáng quí.

Sau khi ăn xong, Cha lại lên bục nói cha nói chứ không giảng giáo lý, Cha nói
những trường hợp mà cha đã trải qua trong các ổ mãi dâm cha phải thay tên đổi
họ để trà trộn trong nơi chốn đó có khi giả làm người ngoại quốc như người
Singapore để nghe những người gái VN nói chuyện với nhau vì đâu họ ra nông nỗi
này. Phải vào tận hang ổ mới tìm ra đầu mối để đưa những tên đầu sỏ ra tòa.
Công việc của Cha làm rất là nguy hiểm mất mạng như chơi nhưng Cha có niềm tin
có ơn trên cứu giúp nên đã vượt qua mọi khó khăn nguy hiểm.

Sau đó Cha đã cho chiếu những thước phim chiếu những cảnh những em bé 5, 6 tuổi
bị bán vào các ổ mãi dâm bị hành xác như thế nào. 5, 6 tuổi biết cái gì? Để làm
vật vui chơi cho những kẻ bịnh hoạn. Nhìn những cảnh ấy không ai cầm được nước
mắt! Mọi người theo dõi trên màn ảnh cảnh tượng xảy ra như trong phim do một
đạo diễn tài ba dàn dựng không ngờ ngoài đời lại có những cảnh xót xa, đau đớn,
đốn mạt cùng cực như thế. Cả hội trường mấy trăm người im phăng phắc không một
tiếng động nhưng thỉnh thoảng cũng có tiếng nấc của một vài người không cầm
được lòng. Mặc dầu, buổi tiệc đã tàn từ lâu nhưng không ai muốn bỏ ra về trên
bục Cha vẫn nói, nói những điều mà Cha đã trải qua trong các động, phải cải
trang nhiều cách để không bị lộ một nhà tu đi trụy lạc nhưng cũng không tránh
khỏi những trận đòn thừa sống thiếu chết của những đường dây buôn bán người vì
chúng cho rằng người này không phải tay chơi thứ thiệt mà vào để lấy tin tức.

Sau đó có bác sĩ Thanh Tâm lên trình bày công tác y tế ở các làng mà tổ chức đã
thành lập ở Việt Nam, Campuchia, Lào và Singapore. Họ đã đến các trại chữa bệnh
cho các nạn nhân đã được cứu thoát ra từ các động, xây dựng họ có cuộc sống
lành mạnh để không trở về con đường cũ. Bác sĩ Thanh Tâm là chủ tịch  Hội
Đồng Quản Trị mà cha Thông là một trong chín thành viên.

Nói chung buổi tiệc gây quỹ rất thành công đã trình bày cho mọi người tham dự
biết được việc làm của tổ chức mà lâu nay ít ai được biết.

Buổi tiệc gây quỹ chỉ chấm dứt khi nhà hàng cho biết đến giờ đóng cửa, mọi
người ra về với tâm hồn nặng trĩu, thương cảm những nỗi bất hạnh của những
người con gái bị bán vào những đường dây làm nô lệ tình dục. Mình may mắn được
sống ở Mỹ có cuộc sống bình yên quá, đâu có biết các nơi trên thế giới còn có
những cảnh đáng thương như vừa rồi đã được cha Nguyễn Bá Thông cho biết chính
Cha suốt mười mấy năm nay đã lăn lộn vào sanh ra tử để cứu vớt những người lâm
vào hoàn cảnh bi đát. Cha, hay quá! Tôi tự nhủ bữa nào phải “phỏng
vấn” Cha mới được. Nói phỏng vấn cho oai chứ mình có phải nhà báo, nhà
truyền thông đâu mà đi phỏng vấn! Nhưng mà nhất định phải gặp Cha, nghe cha trò
truyện thêm.

Mấy ngày sau, tôi vào website và tìm ra được số phone của Cha Thông là số phone
này (706) 825-3032 nhưng liêc lạc mấy lần không được phúc đáp, chỉ nghe lời
nhắn là để lại tên và số phone sẽ gọi lại sau. Đợi mãi cũng không thấy Cha gọi
lại, cũng hơi thất vọng rồi cũng quên đi. Bẵng đi một thời gian hơi lâu vào một
ngày đẹp trời Cha gọi lại, ôi thật là sung sướng nỗi vui đến không sao kể xiết.
Cha cho biết mới ở Campuchia về. À, thì ra lúc mình gọi Cha ở nước ngoài làm
sao trả lời được.

– Thưa Cha, Cha đừng xin con với con tội chết.

– Chú là hàng Cha, hàng Chú con nhỏ tuổi phải xưng con mới phải phép.

– Thưa Cha con có đi tham dự buổi tiệc gây quỹ của cha ở nhà hàng Paracell, con
thấy việc làm của Cha con thích quá, con muốn viết một bài báo về Cha, Cha có
đồng ý không?

– Công việc của con cũng chưa được phổ biến lắm, nếu chú viết thì con cảm ơn
lắm.

– Thế bây giờ Cha có rảnh không, con muốn biết đôi điều về Cha.

– Rảnh, chú cứ hỏi.

– Trước hết Cha cho con biết một ít về thân thế của Cha.

– Bố là Sĩ Quan QLVNCH huấn luyện nhảy dù, cấp bậc Trung Tá. Mẹ nữ quân nhân.
Khi Sài Gòn mất vào tay Cộng sản thì bố mẹ đi vào tù trong lúc mẹ con mang thai
con mới một tháng. Ở tù được 8 tháng gần đến ngày sinh, thấy mẹ con ốm yếu,
kiệt sức sắp chết thì họ cho ra về để sanh. Bố con có nhắn ra nếu con gái thì
đặt tên là… và con trai đặt tên là Nguyễn Bá Thông nên bây giờ tên con là
Nguyễn Bá Thông dù đã vào quốc tịch Mỹ nhưng không đổi tên.

– Lúc sanh Cha ra chắc mẹ Cha gặp khó khăn lắm phải không?

– Dạ thưa đúng, sau này con được biết là mẹ con ở trong tù thiếu ăn nên kiệt
sức tưởng là chết ở trong trại nên Cộng sản phải cho mẹ ra ngoài nếu có chết
thì cũng đỡ mang tiếng. Mẹ con sanh con ra èo uột khó nuôi tưởng chết vì thiếu
sữa mẹ con phải ăn bobo thay sữa nên tướng con nhỏ thó không giống như cha con
tướng to lớn.

– Vâng con đã thấy Cha ở trên sân khấu, tướng nhỏ con, mặt búng ra sữa, dáng
thư sinh mà đã khoác áo Cha. Rồi sau đó thế nào, thưa Cha?

– Mẹ con con sống lây lất nay chỗ này, mai chỗ kia. Ba con đi tù sau mười mấy
năm mới được ra, sau đó có chương trình HO gia đình con đã được đi Mỹ. Vào Mỹ
05/02/93 HO15 và đến Chicago Illinois lúc đó con được 16 tuổi, học trung học.
Sau đại học 2 năm người bạn gái khuyên con đi tu, con nghe theo ghi tên vào
trường dòng đến ngày 5/6/2004 con được thụ phong linh mục và làm Phó Sứ cho 3
Giáo Sư các con chiên đoàn là người Mỹ. Con là người Á Châu đầu tiên và duy
nhất địa phận Savannah ở Georgia. Hiện giờ người bạn Mỹ hồi xưa khuyên con đi
tu đã ra bác sĩ sống gần bố mẹ con và săn sóc 2 cụ.

– Thưa Cha, Cha đã học ra Linh Mục sao không làm Mục Vụ mà lại tìm con đường
gai gốc mà đi?

– Ở VN con có thời gian sống trong nghèo đói nên con thông cảm nỗi bất hạnh của
những người cùng cảnh ngộ. Sang đến Mỹ khi thời gian học trung học con đến cùng
bạn bè vào ngày thứ 6 mỗi tuần nấu ăn cho người vô gia cư. Từ năm 1999, con
cùng các bạn đồng chí hướng về Campuchia sống với trẻ bụi đời mới phát hiện ra
có những tổ chức buôn bán trẻ em để làm nô lệ tình dục. Từ đó con bàn với anh
em làm sao cứu giúp những người đó ra khỏi các động. Cũng năm đó thay vì con đã
học y khoa một năm rồi con xin vào học trường dòng để con có rộng thì giờ theo
đuổi mục đích của con.

– Tổ chức của Cha đã cứu giúp được bao nhiêu người giải thoát ra từ các động?

– Ngày hôm nay có 583 em, cộng thêm 128 em trước đó nữa, số này chia ra làm mô
hình gia đình cứ từ 7 đến 12 em làm một nhóm rồi có bác sĩ đến chữa bệnh cho họ
và dạy cho họ một nghề thích nghi với năng khiếu của họ sau này ra khỏi trại có
1 nghề nuôi thân, không tìm đi vào đường cũ nữa. Tổ chức của con không có cứu
giúp họ ra rồi bỏ mặc họ sống ra sao thì ra mà còn giúp họ tìm một cuộc sống
mới. Các mô hình này rải đều khắp các nước Đông Nam Á không cứ ở VN.

– Việc cha ra vào VN, chính quyền sở tại có gây khó dễ cho Cha trong việc đi
đứng?

– Họ có nói thẳng với Cha vào VN không được làm chính trị, chỉ làm công tác
nhân đạo thôi.

– Cha làm công việc này có nguy hiểm không?

– Cá nhân bị các chính phủ bắt 14 lần và bị đánh thừa sống bán chết, có lần đổ
máu tai và một lần gẫy xương sườn bên trái. Đến năm 2008, tổ chức của con mới
ra công khai và có budget 150 ngàn của tư nhân. Tổ chức có mấy trăm anh em chỉ
mình con ra mặt vì nghĩ họ còn có gia đình, còn con không vướng bận gì nên con
chấp nhận mọi hiểm nguy.

– Động cơ nào thúc đẩy cha vào con đường này?

– Cũng do bốn câu thơ của cụ Phan Bội Châu

– Cha có thể cho biết bốn câu thơ như thế nào?

– “Sống tưởng công danh không tưởng nước

Sống lo phú quí chẳng lo đời

Sống mà như thế đừng nên sống

Sống tủi làm chi đứng chật trời.”

(Bốn câu thơ trên Cha đọc chỉ một lần tôi ghi vội không biết có đúng không, nếu
sai xin bỏ qua cho)

– Thưa Cha, gia đình có mỗi một người con mà Cha đi tu các cụ có phản đối
không?

– Không những không phản đối mà còn khuyến khích nữa.

– Ngoài ra có ai phản đối cha không?

– Có hôm nọ trên đài phát thanh ở Houston phỏng vấn con về tổ chức của con, sau
đó đài có cho thính giả gọi vào thì có một người gọi vào chửi con, nói xin lỗi
chú :”Đ.M Cha không đi giảng mà làm chuyện ruồi bu.” Con bị gọi 2 lần
bị chửi.

– Tội nghiệp Cha quá. Xin ơn trên phò trợ Cha. Con cảm ơn Cha nhiều đã dành ít
thì giờ cho con.

– Chào chú khi nào cần chú cứ gọi cho con.

– Kính Cha.

Nguyễn Kim Dục

Nguồn: Việt Báo

 

Chuyện tình không bao giờ tiết lộ

Chuyện tình không bao giờ tiết lộ

Hình như trên cõi đời này, ai cũng thương
Cố Thi sỉ Bùi Gíang, nếu không nói là nể nữa, nhất là giới sinh viên. Xin  một phút tưởng niệm.

“Trước mộ ông trước giờ hạ huyệt, Kim Cương nhẹ nhàng thủ thỉ : “Thưa Bùi Giáng! Đời ông là một đời giang hồ, nhưng mọi người vẫn mến thương ông, chắc ông cũng mãn nguyện rồi. Riêng tôi có 3 điều cảm ơn ông. Thứ nhất, ông đã để lại một sự nghiệp thơ cho đời. Thứ hai, cảm ơn mối tình 40 năm ông dành tặng tôi, tới giờ tôi có thể nói đó là mối tình lớn, ông là người yêu tôi chung thủy nhất, lâu dài nhất. Thứ
ba, cảm ơn vì ông đã cho tôi một bài học, rằng dù điên hay tỉnh, giàu hay
nghèo, già hay trẻ, trong lòng mỗi người cũng phải có một mối tình để sống”.
Nhưng chắc gì Bùi Giáng đã chịu xa lìa Kim Cương. Ông còn một lời nhắn nhủ viết trong cuốn sổ tay tại nhà Kim Cương:
“Kiếp sau gặp lại nhau, anh Bùi Giáng chỉ mong được Kim Cương chấp thuận cho phép anh Bùi được làm đầy tớ trung thành tuyệt đối của Kim Cương”.
Và:
Vô ngần tao ngộ đầu tiên

Em bao giờ biết anh phiền ưu sao
Yêu em từ những kiếp nào
Về sau cũng niệm nguyên màu ban sơ.”

Chuyện tình không bao giờ tiết lộ
Cõi đời một kiếp yêu em

Dẫu là bỏ cuộc, mộng tìm dáng xưa

Bùi Giáng (1926-1998): là nhà thơ, dịch giả và là nhà nghiên cứu văn học của Việt Nam. Các bút danh khác của ông là : Trung niên thi sĩ, Thi sĩ đười ươi,
Brigitte Giáng, Giáng Moroe, Bùi Bán Dùi, Bùi Bàn Dúi, Bùi Tồn Lưu, Bùi Tồn Lê,
Bùi Bê Bối, Bùi Văn Chiêu Lỳ…
Ông nổi tiếng từ năm 1962 với tập thơ Mưa Nguồn.
Kỳ nữ Kim Cương : chiếm một vị trí đặc biệt trong cuộc đời, trong tâm hồn
và trong sáng tác của Bùi Giáng. Trong tâm hồn ông, Kim Cương là “đệ nhất mỹ
nhân” trong thiên hạ. Ông yêu Kim Cương bằng một tình yêu lạ lùng nhất thế
gian. Chỉ có thể nói đó là một tình yêu bất tử. Đã có rất nhiều giai thoại xung
quanh mối tình kỳ bí này.
Đối với Kim Cương, tuy là mối tình đơn phương từ phía Bùi Giáng, nhưng nữ nghệ sĩ này đã rất trân trọng tình yêu của ông, một sự trân trọng vô cùng cảm động và hiếm thấy.
Nhiều năm qua, nghệ sĩ Kim Cương có những lý do riêng nên đã
không lên tiếng một cách chính thức. Lần đầu tiên, bà tiết lộ với báo
chí một số sự thật về thiên tình sử này, vì đã đến lúc bà không còn lý do
để tiếp tục im lặng…
Có lẽ trong cuộc đời của thi sĩ Bùi Giáng, ngoài chuyện văn chương ra thì chuyện tình đơn phương của ông với Kim Cương là nổi bật nhất, kỳ lạ nhất, và cũng cảm động nhất.
Kim Cương còn giữ rất nhiều bài thơ của ông viết tặng riêng bà, cả hình ảnh nữa, nhưng từ lâu bà từ chối mọi lời yêu cầu của các tờ báo, nhà xuất bản xin được phát hành, đặc biệt sau khi Bùi Giáng qua đời nhiều đơn vị còn đặt vấn đề “mua” những tấm ảnh, tập thơ đó. Bà nói : “Tôi không muốn đem tình cảm của Bùi Giáng ra đánh bóng tên tuổi của mình hoặc làm gì đó có dấu ấn kinh doanh. Dù tôi không yêu ông, nhưng tôi trân trọng  tình yêu của ông. Tuy nhiên, bây giờ sau loạt bài của báo TN, tôi thấy đây không còn là chuyện riêng tư nữa, mà Bùi Giáng là một sự kiện văn học
chung và nếu không lên tiếng thì có những thêu dệt không đẹp cho Bùi Giáng, vì vậy tôi chỉ muốn nói rõ một vài sự thật để người ta hiểu ông đúng hơn”.
Kim Cương biết Bùi Giáng lúc bà khoảng 19 tuổi, còn theo đoàn cải lương của má Bảy Nam nhưng Kim Cương đã được mệnh danh là “kỳ nữ”. Thật ra, ông chú ý đến bà trong một đám cưới của đôi bạn Hạnh – Thùy. Sau đám cưới, một hôm Thùy bảo Kim Cương : “Có một ông giáo sư Đại học Văn khoa, đi học ở Đức về, ái mộ chị lắm, muốn đến nhà thăm chị”.
Kim Cương trả lời : “Ừ, thì mời ổng tới”.
Hóa ra là Bùi Giáng, lúc ấy đang dạy học, cũng áo quần tươm tất chứ chưa có “điên điên” như sau này. Bùi Giáng lui tới, mời Kim Cương lên xe đạp ông chở đi chơi, rồi cả cầu hôn, nhưng bà đều né tránh. Bởi sau vài lần tiếp xúc, bà thấy ở ông toát lên cái gì đó “kỳ kỳ”, bất bình thường, nên bà sợ. Đeo đuổi mãi không được, Bùi Giáng thở dài nói : “Thôi, chắc cô không ưng tôi vì tôi lớn tuổi hơn cô (Bùi Giáng lớn hơn Kim Cương mười mấy tuổi), vậy cô hứa với tôi là sẽ ưng thằng cháu của tôi nhé. Nó trẻ, lại đẹp trai, học giỏi”. Kim Cương ngần ngừ : “Thưa anh, chuyện tình cảm đâu có
nói trước được. Tôi không dám hứa hẹn gì đâu, để chừng nào gặp nhau hẵng
tính…”. Ý bà muốn hoãn binh. Nhưng Bùi Giáng đã đùng đùng dắt cháu tới.
Trời ơi, hóa ra đó là thằng nhỏ mới… 8 tuổi. Kim Cương hết hồn. Thôi rồi ! Ổng đúng là không bình thường !
Từ đó, mỗi năm Bùi Giáng mỗi bệnh  nặng hơn. Ông không có vợ con, suốt ngày đi lang thang ngoài đường, hò hét, rồi cứ địa chỉ nhà Kim Cương mà tới. Thằng bé Toro con của Kim Cương lúc ấy khoảng 5 tuổi, thường trố mắt ra nhìn ông, và hỏi : “Mẹ ơi, sao bác này giống cái xe hoa quá ?”. Tư duy trẻ con thật ngộ nghĩnh, nhưng lại rất chính xác. Thì trên người Bùi Giáng có đủ thứ : nào hộp lon treo lủng lẳng, nào lá cờ giắt sau lưng, nào nhánh cây, vòng hoa trên đầu… cả một nải chuối đeo thường xuyên trên cổ. Không mở cửa cho ông vào là ông la hét, đập cửa, chửi um sùm, ném đá nữa, khiến hàng xóm náo động. Nhưng riết rồi quen, mỗi lần ông tới nhà Kim Cương ai nấy đều cười. Má Bảy Nam ở trên lầu chỉ cần nghe la rùm beng, đập cửa ầm ầm, là hỏi : “Bùi Giáng phải không ?”.
Nhiều lần ông say khướt, nằm ịch xuống gốc cây trước nhà Kim Cương, mọi người phải khiêng vào. Bà lắc đầu : “Sợ ổng chết. Tướng tá vầy có thể chết bất cứ lúc nào. Nhưng khiêng vô rồi cũng sợ rủi ổng chết trong nhà mình. Mà điều, không nỡ bỏ ổng lăn lóc ngoài đường, thấy tội quá”.
Nhưng điều hay nhất là mỗi khi vô nhà Kim Cương ông lại sáng tác thơ để tặng bà. Tiện tay xé bất cứ tờ giấy, tờ lịch nào là ông viết ào vô đó. Nguồn thơ yêu cứ tuôn trào như suối, không vơi cạn theo năm tháng. Về sau, khi ông “quậy” quá thì Kim Cương nghĩ ra cách, không mở cửa, mà lòn một cuốn sổ ra khe cửa cho ông viết thơ. Ông hí hoáy một hồi, rồi vui vẻ bước đi.
Suốt 40 năm, cả chục cuốn sổ tay đã đầy ắp chữ của ông, chỉ riêng tặng “Nương tử Kim Cương”. Bà trân trọng gìn giữ trong ngăn tủ. Những vần thơ yêu với nét chữ ngả nghiêng chệnh choạng nhưng hồn nhiên say đắm lạ kỳ.
Kính thưa nương tử Kim Cương

Tấm lòng rộng mở phi thường bấy nay
Ngàn năm điêu đứng đọa đày
Thiên thu sử lịch cau mày về sau
Thưa em đời mộng dạt dào
Tình yêu vô tận yêu đào vô biên
Kể từ tao ngộ đầu tiên
Kim Cương vô tận, thuyền quyên vô cùng
Bốn mươi năm đã lẫy lừng
Âm thầm tưởng niệm lạ lùng giai nhân
Trái tim thiết thạch vô ngần
Từ tam thu tới tử phần hôm nay
Kể từ sử lịch xa xuôi
Bất ngờ một bận bùi ngùi yêu em
Lang thang vạn dặm độc hành
Cẩm nang bỏ cuộc đời mình trao em.

“Quyền lực” của Kim Cương đối với Bùi Giáng
Phải nói là Kim Cương có “quyền lực” rất lớn đối với Bùi Giáng. Cứ nghe tên bà là ông trở lại ngoan ngoãn như một đứa trẻ con. Một lần, ông làm “chim bay cò bay” giữa phố, gây ách tắc giao thông, công an tới lôi ông vào cũng không được. Tình cờ có ông nhà báo trông thấy, thế là anh ta rỉ tai ông : “Kim Cương nhắn ông tới nhà kìa !”. Lập tức ông riu ríu đi theo nhà báo.
Ông còn “ái mộ” bà theo kiểu “kinh khủng” của ông. Người ta ái mộ thì xin chữ ký, xin hình, còn ông thì xin… quần. Ông tới nhà nằng nặc đòi bà cho ông cái quần. Bà lấy quần của cậu Toro nay đã lớn cỡ ông mặc vừa. Ông giãy nảy không chịu, đòi cái quần của Kim Cương mới được. Bà bực quá, đưa thiệt. Lập tức ông mặc vô và rồi không chịu thay ra. Tắm xong, mặc lại. Tỉnh bơ.
Và sau này khi ông ở nhờ nhà anh Hoài – cháu gọi ông bằng bác họ – tại Gò Vấp, thì cũng chỉ Kim Cương là người phụ nữ duy nhất được ông cho phép bước vào nhà. Nhiều lần, các bạn thơ nữ có ghé thăm ông, nhưng vừa mới nghe cháu vô báo tin là ông đã la hét om sòm, đuổi họ như đuổi tà : “Chỉ có tiên nữ Kim Cương mới được bước tới đây. Đi ra ! Đi ra hết !”.
Nghệ sĩ Kim Cương nói : “Tôi rất trân trọng tài năng của ông, nhưng phải nói thật là ông điên nặng, nhưng là cái điên trí tuệ, nói ra nhiều câu cực kỳ sâu sắc”. Thỉnh thoảng, khi ông hơi tỉnh thì Kim Cương cũng ngồi bàn chuyện thơ văn với ông cho ông vui. Những lúc ấy, ông gọi bà bằng “cô” đàng hoàng chứ không “nương tử”, không “Hằng Nga” gì hết. Nhưng có một lần, ông làm bà hết hồn. Hai người bàn luận đến Kiều, bà đọc mấy câu lỡ có sai một chút, ông liền đập bàn, la hét, nhảy dựng lên : “Tại sao Kiều mà cô nói sai như vậy ? Câu vậy mà cô nói là của Kiều hả ?”. Thấy ông trợn mắt  giận dữ, bà cứ ngỡ ông sắp bóp cổ mình tới nơi. Bà quên mất rằng ông cũng yêu Kiều say đắm như yêu bà
Có một chuyện nhỏ, nhưng cảm động. Kim Cương nói rằng Bùi Giáng có đóng phim gì nữa đó, chắc đóng vai phụ nho nhỏ thôi. Kim Cương nhớ khi ông lãnh tiền thù lao, liền mua hai trái xoài đem tới cho bà. Rất dễ thương.
Kim Cương bùi ngùi nhớ lại : “Suốt 40 năm, ông đối với tôi như một người yêu đơn phương, thì ngược lại, tôi đối với ông như chỗ dựa tinh thần, bất cứ lúc nào nghe ông đau ốm hay bị công an bắt, bị người ta đánh là tôi có mặt”. Bởi đơn giản, trong đầu Bùi Giáng chỉ có một số điện thoại duy nhất, một địa chỉ duy nhất, đó là địa chỉ và số điện thoại của Kim Cương. Nhiều lần ông đứng giữa đường dang tay la hét, làm kẹt xe, công an tới bắt, hỏi cách gì ông cũng chỉ nói một câu : “Người thân cuả tôi là
Kim Cương, ở số… Hoàng Diệu, điện thoại 844…”. Thế là công an réo gọi Kim
Cương. Bà đi lãnh ông ra. Chuyện đó xảy ra không biết bao nhiêu lần. Có khi ông
bị té, bị thương, người ta chở vô bệnh viện, ông cũng chỉ “khai báo” y như
vậy.
Bệnh viện lại réo bà. Bà lại đến. Hoặc những lúc ông lên cơn, có khi vô quậy cả đám cưới nhà người ta, bị người ta đánh, bà lại đến đưa ông về. Có lần, ông xuất hiện trước nhà bà với tóc tai mặt mũi đầy máu vì mới bị ai đó đánh, bà hoảng hốt gọi xích lô cho ông đi cấp cứu. Ông không chịu : “Chừng nào cô đi với tôi thì tôi mới đi”. Ừ, thì đi. Kim Cương gọi chiếc xích lô chở ông, vừa ngồi xe ông vừa nói vung vít, mặc cho Kim Cương chịu trận.
Và như thường lệ, trong cơn điên điên tỉnh tỉnh, ông lại tiếp tục làm thơ yêu qua cuốn sổ nhỏ nhét vào khe cửa nhà bà :
Yêu nhau từ bấy tới nay

Xiết bao tâm sự từ ngày qua đêm
Thưa em nương tử dịu mềm
Bốn mươi năm lẻ êm đềm vô biên
Đầu tiên tiên nữ Kim Cương
Cuối cùng muôn một phi thường Cương Kim
Cúi đầu bái tạ tình em
Về sau vĩnh viễn êm đềm thương nhau

Làm thơ tiếp tục yêu em

Ồ Kim Cương ạ êm đềm vô song
Kể từ lịch kiếp long đong
Anh điêu tàn tới thong dong bây giờ

Bùi Giáng về ở nhà của anh Hoài vào khoảng năm 1978, thì đến khoảng 1992 đã hơi tỉnh tỉnh. Nhà thơ Trụ Vũ thường ghé chơi với ông. Một lần Trụ Vũ bảo : “Kim Cương hẹn ngày mai lên thăm anh”. Thế là suốt đêm ông không ngủ. Sáng dậy, ông đi tới đi lui, đứng ngồi không yên, và càu nhàu : “Cái thằng Trụ Vũ, chừng nào lên thì lên, nhắn nhe làm chi cho người ta sốt ruột”.
Anh Hoài còn tiết lộ ông phải giả vờ  uống một tí rượu để đóng vai “say”, như thế khi Kim Cương lên thăm ông mới có cớ đi ngả nghiêng cho Kim Cương dìu đỡ. Nhưng có lần uống mãi, uống mãi, rồi say thật lúc nào chả biết, khi Kim Cương đến nơi thì ông đã… ngủ khò. Một bữa, Kim Cương đến nhà, tặng ông đóa hoa hồng. Ông sung sướng quá. Kim Cương  về rồi, ông hỏi anh Hoài : “Làm sao giữ được hoa tươi mãi hè ?”. “Ba ngày là nó héo thôi bác ơi!”. “Trời ơi, của Kim Cương tặng tao, phải giữ hoài chớ bây !”. “Con có cách. Đem hoa trút ngược xuống thì sẽ giữ giùm bác được vài tháng”. Đúng là giữ được vài tháng, đến khi hoa đã khô nát ông mới đành lòng chia tay.
Gần 60 tuổi, ông tới nhà bà với đôi mắt nheo nheo không nhìn thấy rõ. Bà dắt ông đi mua cặp kính lão. Nhưng chỉ một tháng sau, ông xuất hiện với một bên tròng kính bị bể vì người ta đánh. Bà dỗ ngọt : “Tôi mua cho anh kính mới nghen”. Ông lắc đầu: “Thôi cô, nhìn đời bằng một con mắt đủ rồi”.
Kể ra, đâu chỉ có Bùi Giáng kiên nhẫn và thủy chung với kỳ nữ Kim Cương, mà chính Kim Cương cũng đã đáp lại mối tình đơn phương của Bùi Giáng một cách chân thành và kiên nhẫn, thủy chung suốt 40 năm, gần giống một người chị, một người mẹ. Cho nên, có người nói với bà :  “Chắc kiếp trước Bùi Giáng mắc nợ bà!”. Bà đáp vui trở lại: “Hổng biết ổng mắc nợ tui hay tui mắc nợ ổng!”. Những lúc tỉnh táo, ông nói: “Cô nhơn hậu lắm cô mới chịu nói chuyện với tôi tới giờ này!”. Nhân đó bạn bè hỏi: “Kim Cương có cái gì mà anh thương dữ vậy ?”. Ông đáp : “Lúc tôi gặp cô trong đám cưới của Hạnh – Thùy, cô mặc cái áo dài lụa trắng, tôi thấy hào quang tỏa tỏa ra, tới bây giờ vẫn còn tỏa”.
15 ngày trước khi chết, Bùi Giáng đến nhà Kim Cương để lại mấy câu thơ như báo trước điềm chia ly:
Thương yêu có lẽ như là

Nghi ngờ nhau mãi vẫn là Kim Cương
Ta đi đau xiết vui buồn
Một mình ở lại muôn trùng em yêu.

Rồi ông té, chấn thương sọ não, chở vào Bệnh viện Chợ Rẫy. Người đầu tiên gia đình gọi đến là Kim Cương. Kim Cương nói: “Lần đầu tiên tôi thấy Bùi Giáng sạch sẽ. Đầu cạo sạch, không còn mớ tóc bù xù nữa. Và quần áo bệnh viện thì trắng bong. Cho nên tôi nhìn ổng không ra, cứ chạy đôn chạy đáo khắp các phòng tìm ổng”. Những đứa cháu xin bà cho ý kiến. Bà đồng ý để bác sĩ phẫu thuật cho ông dù chỉ còn 1% hy vọng.

Nhưng rồi Bùi Giáng đã ra đi.

Ba lời cảm tạ của Kim Cương
Trước mộ ông trước giờ hạ huyệt, Kim Cương nhẹ nhàng thủ thỉ : “Thưa Bùi Giáng! Đời ông là một đời giang hồ, nhưng mọi người vẫn mến thương ông, chắc ông cũng mãn nguyện rồi. Riêng tôi có 3 điều cảm ơn ông. Thứ nhất, ông đã để lại một sự nghiệp thơ cho đời. Thứ hai, cảm ơn mối tình 40 năm ông dành tặng tôi, tới giờ tôi có thể nói đó là mối tình lớn, ông là người yêu tôi chung thủy nhất, lâu dài nhất. Thứ ba, cảm ơn vì ông đã cho tôi một bài học, rằng dù điên hay tỉnh, giàu hay nghèo, già hay trẻ, trong lòng mỗi người cũng phải có một mối tình để sống”.
Nhưng chắc gì Bùi Giáng đã chịu xa lìa Kim Cương. Ông còn một lời nhắn nhủ viết trong cuốn sổ tay tại nhà Kim Cương:
“Kiếp sau gặp lại nhau, anh Bùi Giáng chỉ mong được Kim Cương chấp thuận cho phép anh Bùi được làm đầy tớ trung thành tuyệt đối của Kim Cương”.
Và:
Vô ngần tao ngộ đầu tiên

Em bao giờ biết anh phiền ưu sao
Yêu em từ những kiếp nào
Về sau cũng niệm nguyên màu ban sơ.

(Source: Blog NguyenTrongTao)
Anh Nguyễn v Thập gởi

Bởi yêu thương là điều không đơn giản

Bởi yêu thương là điều không đơn giản

‘Chúng ta sẽ luôn bên nhau, không xa rời’.

Năm 7 tuổi, cậu đi học về tình cờ thấy một cô bé đứng khóc run rẩy vì trước mặt
là con chó hung dữ đang gầm gừ. Không chần chừ, cậu vớ lấy cây sao nhét

bên hông cặp, chạy đến đánh đuổi con vật rồi cùng cô bé nọ chạy thoát.

Được một đoạn, cả hai dừng lại thở…

“Cám ơn cậu nha!” Cô bé lau nước mắt nói.

“Không có gì. Lần sau cậu đừng đi đường đó nữa. Chó dữ lắm”. Cậu dặn dò.

“Nhưng đường về nhà mình chỉ có thể đi qua đó thôi”.

Nghe vậy, cậu nhóc đắn do hồi lâu rồi bảo:

“Hay là đến chiều, cậu đứng chờ mình ở đầu đường khi nãy mình sẽ giúp cậu về nhà”.

“Thiệt hả? Tuyệt quá! Thế chúng ta làm bạn nhé!”.

Cậu cười tươi, gật đầu.

Năm 10 tuổi, cậu nhóc và cô bé đã là đôi bạn thân. Một hôm, cô bé mang sổ liên lạc về khoe bố mẹ vì đạt thành tích cao. Nhưng không may, bố mẹ lại đang cãi nhau. Trong lúc nóng giận, họ đã ném cuốn sổ đi và la mắng con.

Cô bé bật khóc, chạy ra khỏi nhà đến tìm cậu bạn.

Cậu nhóc không ngừng an ủi, chọc cười cô bé.

“Cám ơn cậu vì đã luôn bên mình.” Cô bé nói khẽ.

“Bất kể khi nào cậu cần, mình sẽ luôn bên cạnh!” Cậu tuyên bố.

“Vậy… chúng ta hãy hứa sẽ luôn bên nhau, không xa rời!”.

Lời đề nghị của cô bé vừa dứt, cậu nhóc đồng ý liền: “Ừ, hứa!”.

Năm 14 tuổi, cả hai dần có tình cảm với nhau. Ngày nọ, cô bé bị đám bạn trai cùng lớp bắt nạt. May thay cậu nhóc thấy và lập tức chạy đến bảo vệ cô. Vì chúng quá đông nên cậu bị đập một trận tơi bời.

“Xin lỗi, vì mình mà cậu ra thế này.” Cô bé vừa băng bó vết thương cho cậu vừa khóc.

“Có gì đâu, mình ổn. Cậu bị hiếp đáp, dĩ nhiên mình phải bảo vệ.” Dù rất đau nhưng cậu cứ cười lớn.

Im lặng một lúc, cô bé khẽ cất tiếng:

“Thế, chúng ta tiếp tục lời hứa sẽ luôn bên nhau, không xa rời nha?”

Mặt đột nhiên đỏ ửng nhưng cậu vẫn đáp:
“Ừm, hứa!”

Năm 18 tuổi, hai người học cùng trường.
Vào ngày sinh nhật mình, cậu đã bất ngờ hôn cô.

“Cậu thích không?” Cậu ngập ngừng hỏi.

“Mình chờ nụ hôn này lâu lắm rồi”.
Cô bẽn lẽn nói.

“Chúng ta sẽ luôn bên nhau, không xa rời!”. Cậu nắm tay cô, dịu dàng lặp lại lời hứa.

Cô không đáp chỉ mỉm cười gật đầu.

Năm 23 tuổi, anh cầu hôn cô. Một lễ cưới hạnh phúc diễn ra trong thánh đường. Khi Cha đọc lời thể xong, cả hai cùng đồng thanh.

“Con đồng ý.”

Lúc đeo nhẫn cưới vào tay cô, anh hỏi: “Sẽ luôn bên nhau, không xa rời?”

Cô nở nụ cười thật tươi, trả lời:
“Vâng, em hứa!”

Năm 25 tuổi, khi đã là vợ chồng được hai năm, ngày nọ, cô hẹn anh ra và trao lại nhẫn cưới.

“Mình chia tay anh nhé”. Cô chậm rãi bảo.

“Tại sao?” Anh vô cùng kinh ngạc.

“Em thật sự xin lỗi! Cảm giác yêu thương em dành cho anh đã không còn như xưa!” Cô cúi đầu, nói thật khẽ.

Khi cô rời khỏi, chàng trai cầm nhẫn cưới trong tay, im lặng rất lâu. Sau đó, anh mỉm cười: “Tiếp tục lời hứa sẽ luôn bên nhau, không xa rời”.

Hôm ấy, chỉ còn một mình anh hứa.

Năm 26 tuổi, ly dị xong cô quen người yêu mới. Còn anh, vẫn yêu cô. Mỗi ngày, anh đều đứng từ xa quan sát cô nói chuyện vui vẻ với người con trai xa lạ.

Nhìn cô, anh thì thầm: “Sẽ luôn bên nhau, không xa rời”.

Lúc giận bạn trai, cô ngồi khóc một mình. Anh thấy liền giả làm thú bông đến tặng cô bó hoa và  chọc cười.

Trông cảnh người yêu cầm hoa, cười trở lại, trong đầu anh nghĩ: “Sẽ luôn bên nhau, không xa rời”.

Năm 30 tuổi, bạn trai đi xa, cô ở lại một mình. Và anh, biết tin mình bị bệnh nan y.

Mỗi buổi chiều, dù mưa hay nắng, anh đều trốn khỏi bệnh viện đến nơi làm việc chỉ để được nhìn cô. Dù mệt mỏi, anh vẫn âm thầm đi theo để biết rằng, cô đã về nhà an toàn.

“Sẽ luôn bên nhau, không xa rời”.
Anh luôn nói câu đó trước khi quay lưng trở về.

Bệnh trở nặng, bác sĩ bắt anh phải ở trong bệnh viện. Nhưng anh không nghe, tiếp tục ra ngoài vì biết tối nay cô sẽ dự sinh nhật một mình.

Cô ngồi tại quán cafe ăn bánh kem trong nỗi cô đơn. Và cô đã không biết, cách đó mấy chiếc bàn, anh âm thầm bên cô đón sinh nhật.

“Sẽ luôn bên nhau, không xa rời”.
Anh để dành lời hứa năm xưa làm quà cho cô.

Tối đó, anh và cô cùng về muộn.

Năm 32 tuổi, người yêu cô trở về rồi cả hai quyết định kết hôn. Về phía anh, bác sĩ lắc đầu, bảo hết hy vọng. Ngày cuối cùng, mặc cơn đau của bệnh, anh vận đồ thật đẹp đến dự đám cưới lần thứ hai của cô.

Lúc chú rể đeo nhẫn cho cô, anh nở nụ cười:

“Lời hứa sẽ luôn bên nhau, không xa rời có lẽ anh không thể thực hiện được nữa. Nhưng từ giờ, đã có người thay anh tiếp tục lời hứa đó với em!”.

Khi chúc phúc cô xong, anh rời khỏi thánh đường.

Trưa hôm ấy, người ta thấy có một chàng trai chết trong công viên. Anh ngồi trên ghế đá với vẻ mặt thanh thản.

Dù yêu theo cách nào, chúng ta đều mong muốn người mình yêu được hạnh phúc, phải không?

Nguồn: FB

Nguyễn Phi Phượng gởi

SƯỚNG và KHỔ

SƯỚNG và KHỔ

Có một đề thi dành cho các thí sinh đau khổ thuộc mọi lứa tuổi như sau: “Bạn
hãy chứng minh bạn khổ.

http://www.vncentral.com/news/wp-content/uploads/2012/05/Cuong-hiep-nguoi-minh-yeu-toi-dau-kho-tuyet-vong.jpg

 

Thí sinh thứ nhất, một người đàn ông chừng sáu mươi, chứng minh: Tôi lớn lên trong một gia đình nông dân nghèo. Bố mẹ tôi quanh năm ‘bán mặt cho đất – bán lưng cho trời’. Vì nhà nghèo nên tôi phải nghỉ học sớm để đi làm kiếm tiền mưu sinh. Nghĩ mà tủi thân!…

Thí sinh thứ hai, một phụ nữ trẻ, dẫn chứng: Tôi là người kém sức khoẻ. Từ nhỏ đã hay đau yếu. Mỗi lần trái gió trở trời là tôi lại xụt xịt. Rất khó chịu!…

Thí sinh thứ ba, một thanh niên tuổi chừng hăm mấy, viết ngay không chần chừ: Tôi chẳng có tài cán gì. Giữa đám đông bạn bè, tôi chẳng biết ca hát. Mấy đứa bạn cứ trêu chọc bảo tôi giọng ngang như cua bò. Bực tức và chán ghê!…

Thí sinh thứ tư toan đặt bút xuống viết thì khựng lại. Rồi anh suy nghĩ có vẻ rất căng thẳng. Cuối cùng, quyết định nộp giấy trắng.

Kết quả cuộc thi: Ba thí sinh đầu tiên được 1 điểm an ủi vì đã có… công viết. Còn thí sinh thứ tư thì phải lên gặp thầy để trình bày rõ lý do tại sao lại để giấy trắng.

Trong giờ sửa bài, giáo sư nhận xét chung:

+ Các bạn không được điểm cao vì bài các bạn không thể hiện được tư duy sâu sắc. Các bạn chỉ liệt kê những điều không như ý xảy ra trong cuộc đời. Ai cũng làm được như thế. Thực ra nó không đủ chứng minh rằng các bạn khổ vì góc nhìn đó quá hẹp.

Rồi giáo sư quay sang thí sinh thứ tư và hỏi:

+ Tại sao bạn để giấy trắng?

– Thưa giáo sư, thoạt đầu tôi cũng có khuynh hướng vội vàng liệt kê như các bạn kia. Nhưng tôi chợt giật mình…

+ Sao bạn lại giật mình?

– Dạ, xin cho phép tôi đứng lên trước mọi người để trình bày được dễ dàng hơn.

Thế rồi cậu khập khiễng bước lên trên. Quay xuống nhìn mọi người, cậu nở một nụ cười thân thiện. Người ta thấy mặt cậu một bên bị nám đen. Cậu nói:

– Hồi tôi còn nhỏ, bố mẹ phải đi làm ngoài đồng, chỉ có chị tôi và tôi ở nhà. Một hôm, chị đang nấu cơm thì bị cháy nhà. Như quý vị thấy, tôi bị phỏng nặng, bây giờ vẫn còn dấu cháy trên mặt. Năm tôi lên bảy, bố tôi qua đời. Một buổi tôi đi học, một buổi tôi phải đi bán vé số ở khu chợ gần nhà để phụ mẹ. Cách đây ít năm, trên đường đi nhà thờ về, có một chú kia nhậu say lái xe tông vào tôi khiến chân tôi bị tật từ hồi đó. Bây giờ mỗi khi trời trở lạnh, chân tôi cũng khá đau. Gần đây, tôi thú thật là tôi yêu một
người con gái, nhưng tôi thế này thì làm sao xứng với người ta được!

Trong phòng lúc ấy có nhiều người. Giọng cậu yếu ớt nhưng ai cũng nghe rõ vì bầu khí lặng im đến lạ thường.

+ Nhưng sao bạn không viết những điều đau khổ này vào bài thi?

– Dạ không, vì tôi giật mình. Tôi giật mình khi tôi chợt nhớ lại lời của bạn tôi trong nhà thờ hôm Chúa Nhật. Anh ấy nói với mấy người nghèo khổ rằng: “Anh em thật có phúc.” Thế là tôi khựng lại để suy nghĩ.

Rồi tôi nhận ra: để chứng minh tôi thực sự khổ thì tôi phải chứng minh cho được rằng tôi không có gì để hạnh phúc.

Mọi người càng chăm chú. Vị giáo sư lên tiếng:

+ Hay! Xin lỗi bạn, tôi không phải là Kitô hữu, vậy cho tôi hỏi anh bạn gì gì đó của bạn nói như thế nào về việc may phúc khiến bạn thay đổi cách nhìn như thế?

http://img.tamtay.vn/files/photo2/2009/12/2/21/348544/4b1677ae_4d9a2289_jesus-children.jpg

– Dạ thưa giáo sư, bạn tôi tên là Giêsu. Anh ấy nói: “Mắt anh em thật có phúc vì được thấy những điều đang thấy, tai anh em thật có phúc vì được nghe những điều đang nghe. Nhiều người mong mỏi được như anh em mà không được.” (Mt 13:16-17).

Thưa giáo sư, lúc ấy tôi chợt nhìn thấy và nghe được nhiều điều may mắn trong cuộc sống của tôi.

Tôi có mẹ có chị. Nhà chúng tôi tuy chẳng kín cổng cao tường nhưng đùm bọc nhau
ấm áp. Tôi có trái tim biết rung động. Tôi có lòng quảng đại. Tôi có lương tâm. Tôi có bạn bè nói chuyện. Tôi có nhiều người cầu nguyện cho tôi. Tôi được đi học. Tôi có trí khôn để nhận ra trong cái xui có cái hên, tức là trong nghịch cảnh có ân sủng.

Ví dụ: Vì lớn lên trong cảnh khó khăn, tôi thấy mình biết cảm thương với người nghèo hơn. Vì mang tật nguyền trên mình, tôi hiểu được nỗi đau của tha nhân. Vì thấy mình giới hạn, tôi đặt niềm tin vào Chúa nhiều hơn. À, cuối tuần nào tôi cũng được cùng mẹ và chị đi Lễ với bà con chòm xóm để nghe Lời Chúa.

Vì thế tôi không thể chứng minh là tôi khổ.

nguồn: Anh Nguyễn v Thập gởi

__._,_._

Ruột Thịt Tình thân .

Ruột Thịt Tình thân .

Song Nhi

Tin chị Thơm bị chồng bỏ lan ra nhanh chóng đầu trên xóm dưới .

Có người nói tội  nghiệp chị đẹp người đẹp nết , con nhà ăn học mà số long đong .

Nhưng có người lại mừng dùm và họ coi đó như giải pháp mà ông trời giải thoát cho chị khỏi cảnh khổ .

Chị Thơm là con gái duy nhất trong ba người con của thầy giáo Thức ở xứ này .

Thời sinh tiền lúc còn sống thầy và ông chủ tiệm vàng Kim Vinh là bạn tâm giao
nối khố có nhau dù một người làm buôn bán một người theo nghiệp chử nghĩa thánh
hiền .

Ngay khi chị Thơm chỉ là trẻ thơ lúc nghe ông Vinh muốn kết thông gia cho hai gia đình càng thân hơn ,thầy giáo Thức đã đồng ý ngay.

Thơm từ nhỏ đã sáng dạ học đâu nhớ đó , thương con nên lớn lên ba chị cho chị lên ở nhờ nhà người cô ruột trên Sài Gòn để tiếp tục việc học .

Bắt đầu hiểu biết Thơm đã nhiều lần dùng dằng phản đối chuyện hứa hôn của ba chị khi ai đó đề cập đến .Xét cho cùng chị cũng không sai bởi xứ này ai mà không biết Huân con trai lớn ông chủ tiệm vàng Kim Vinh học hành thì ngu dốt nhưng ăn chơi
trăng hoa thì có tiếng .

Năm đó tự nhiên ông Vinh bị một căn bệnh lạ , chạy chữa nhiều thầy thuốc mà
bệnh có vẻ không thuyên giảm .

Khi thầy giáo Thức sang thăm ông bèn nhắc chuyện xưa và muốn tiến tới hôn nhân cho con trai mình .

Trước là được yên lòng nhắm mắt vì con nên bề gia thất do ông Vinh biết rất rõ Thơm là cô gái rất tốt .

Thêm vào cái hy vọng là biết đâu hôn lể xua đi được cái vận hạn xui xẻo đang đè ám gia đình ông
.

Năm 19 tuổi Thơm được ba mình gọi về quê và lấy chồng trong cái không khí gấp rút của đám cưới đang chuẩn bị .

Lúc đầu Thơm phản đối bằng cách bỏ ăn và khóc lóc không ngừng .

Nhưng đến khi ba chị dọa thắt cổ tự vận nếu chị dám từ hôn làm trái ngược lại lời hứa mà ông coi trọng như núi .

Đến nước đó thì Thơm hết cách đành theo ý ba mình về làm vợ Huấn.

Cứ tưởng Huấn chồng chị Thơm lấy được người vợ như chị , anh ta hẳn vui mừng mới đúng .

Nhưng vốn tính nhỏ nhen thêm vào chất gia trưởng Huấn thấy chướng mắt vì sự học vấn của vợ.

Trong khi chị vận dụng cái giỏi giang của mình để gánh vác việc nhà chồng thì Huấn sau khi tỏ rỏ đường đi lối về với cô vợ trẻ anh ta lại miệt mài với những thú vui tình ái bên ngoài
.

Từ khi sinh Thu con gái đầu lòng chị Thơm nhiều lần khuyên chồng nên để đức cho con đừng đi gạt gẫm những cô gái khác nhưng Huấn gạt bỏ ngoài tai .

Thậm chí nhiều lần còn hạ cẳng tay , thượng cẳng chân với chị khi say.

Nhất là sau khi ba chồng chị là ông Vinh qua đời thì Huấn không còn phải e dè ,

kiêng kỵ̣ ̣một ai.

Một lần đoàn gánh hát của ông bầu Tám Ít về đây hát , Huân đi xem và đâm ra mê
mệt Hai Như cô đào nhì của gánh .

Khác với những lần trước lần này Huấn trong mắt Hai Như là con mồi lớn nên Hai Như quyết không buông , cô xõ mũi Huân một cách nhanh chóng .

Vốn xuất thân lang bạt nên Hai Như không dể dàng gì trở thành trò chơi của Huân cô buộc Huân phải cho cô danh chính ngôn thuận khi cô có mang .

Thế là sau 9 năm ,chị Thơm đành chịu tiếng bị chồng bỏ bởi không chịu nổi sự
cay nghiệt cũng như những trận đòn thừa sống thiếu chết của Huân gần đây .

Thầy giáo Thức ba của chị cũng qua đời vài năm trước đó nên chị cũng không muốn níu kéo.

Chị đồng ý ra đi với hai bàn tay trắng không làm phiền Huân cưới vợ mới nhưng bù lại Huân phải để chị dẩn bé Thu lúc này được 5 tuổi đi theo mình .

Buồn cho phần số dang dở của mình và cũng không muốn ở lại quê nơi có nhiều kỷ niệm gợi chuyện phiền lòng chị Thơm dẫn con gái lên lại Sài Gòn .

Ban đầu chị tá túc ở nhà cô ruột như trước .

Sau đó chị mang số tiền cha mẹ ruột cho phòng thân khi xuất giá lấy chồng làm vốn mua bán .

Chị mở một sạp bán trái cây và thuê căn nhà nhỏ gần đấy cho tiện việc đi về mẹ con chị sống yên ả vui vẻ với nhau .

Dạo gần đây có một anh chàng người Mỹ thường ghé mua trái cây chổ chị .

Anh ta gây sự chú ý cho Thơm bởi anh ta nói được tiếng Việt rất rành khác với những anh chàng Mỹ lớ ngớ thỉnh thoảng vẩn ghé chổ chị mua hàng .

Anh chàng  người Mỹ John Smith ấy cũng thật bất ngờ khi thấy cô chủ hàng nói rất chuẩn thứ ngôn ngữ mẹ đẻ của mình và là một người có ăn học.

Lúc đầu chỉ là trò chuyện xã giao lâu dần họ thành bạn .

Dù hai người cách xa nhau về hình thức lẩn nơi sinh trưởng nhưng họ lại khá hợp nhau trong nhiều cách nghĩ .

Hơn một năm sau John ngỏ lời với muốn cưới Thơm làm vợ.

Phần Thơm thật sự chị dành rất nhiều cảm tình cho John nhưng chị cũng e ngại sự cách biệt và tiếng đời thường mĩa mai những người phụ nữ lấy Mỹ thời đấy nên chị còn lưỡng lự chần chừ .

Nhưng tấm chân tình của Louis khiến chị cảm động .

Hai năm từ ngày họ quen biết chị dẹp cửa hàng về làm bà Smith .

Mười mấy năm trôi qua gia đình chị Thơm có thêm một trai hai gái .

Peter được 13 tuổi , Mary 11 tuổi và Ann 9 tuổi.

Ngoài xã hội John là người khá thành công về kinh doanh nhưng khi về nhà John là người chồng có trách nhiệm .

Anh ta đối xử với Thu cũng như những đứa con khác của mình hết mực yêu thương không hề có sự phân biệt .

Gia đình họ sống đầm ấm hạnh phúc ngoài những lúc đến trường ở nhà chị Thơm vẩn gọi con bằng những cái tên tiếng Việt là Phú , My và Ái .

Khác biệt nhau về mái tóc và cả màu da nhưng bốn chị em Thu lại quấn quých hòa thuận ,luôn gắn bó bên nhau không rời .

Năm 1975 lúc này Thu đã 21 tuổi đang theo học một trường Dược ở Sài Gòn .

Một ngày chị Thơm nhận được tin Huấn chồng cũ của chị tức là ba ruột của Thu ở quê qua đời đột ngột vì một cơn đột qụy .

Đúng ra chị Thơm không muốn về bởi tình hình lúc đó có nhiều thay đổi và Huấn từ lâu không hề nhắc nhở hay đá động gì tới đứa con gái của mình là Thu .

Nhưng cuối cùng chị cũng dẩn Thu về chịu tang cho đúng phép tắc dù gì họ cũng là cha con .

Phần chị thì xem như nghĩa tử nghĩa tận đến thắp một nén hương cho phải đạo làm người , hơn nữa chị không an tâm để Thu về một mình .

Sau đám tang ngay lúc chị chuẩn bị trở về Sài Gòn thì thời thế thay đổi trong một đêm phải chờ đến cả tuần sau và bằng nhiều cách mẹ con chị mới lặn lội trở về được Sài Gòn .

Nhưng khi chị Thơm và Thu lên tới Sài Gòn thì mọi chuyện đã khác lạ hoàn toàn .

Dâu bể đổi dời chỉ trong khoảng thời gian ngắn , chị không thể vào được nhà cũ bởi chúng bị tịch thu nên chị không lấy được thông tin hay địa chỉ liên quan gì tới chồng mình ở Mỹ .

Cũng không thể hỏi thăm ai giữa cái lúc hổn loạn ấy chị dành dẩn Thu nương náu , mưa sinh ở một quận gần đó và cố gắng hết khả năng để nghe ngóng liên lạc với chồng và con của mình trong vô vọng.

Ngày xưa vì người ở quê hay kỳ thị , dè bĩu và lo cho sự an toàn của chồng vào thời còn chiến tranh .

Chị Thơm chỉ dẩn duy nhất Peter về quê ngoại chơi hai lần mà thôi .

Không cho John cùng hai con gái nhỏ về thăm quê lần nào.

Bởi má chị vẩn lên thăm gia đình chị ở Sài Gòn thường xuyên .

Do chị cũng ỷ y đâu có dè cuộc đời có những thay đổi như vậy .

Thời gian dần trôi không một tin tức nào về họ dù là sống chết .

Phần lo lắng thương nhớ con nên sức khoẻ chị Thơm mỗi ngày một kém .

Rồi chị qua đời vào một đêm mưa sau cơn bệnh trong tay vẩn còn nắm chặt tấm ảnh gia đình của mình .

Lúc lâm chung không biết có phải còn tiếc nuối hay ấm ức mắt chị mở trừng trừng khiến Thu khóc than tức tưởi khấn nguyện rằng sẽ cố gắng tìm được những đứa em và mang chúng về .

Phần John Smith vào lúc mọi người nhốn nháo rồng rắn di tản dù không muốn bỏ vợ
mình lại nhưng John không còn cách nào khác hơn đành dẩn ba người con của mình
lên máy bay về Mỹ trong nổi đau đáu lo lắng .

Khi về đến xứ sở anh ta cũng cố gắng liên lạc với vợ mình nhưng ngoài tên họ của vợ và con gái .

John chỉ biết thêm địa danh quê vợ là Xào Bân chứ không hề có thông tin gì khác .

Đường phố còn thay đổi  tên thì nói chi muốn tìm một con người giữa cái đất Sài Gòn mênh mông ấy .

Ba năm sau trên đường đi làm về John qua đời trong một tai nạn giao thông thảm khóc .

Những đứa con của anh được chuyển về sống với ông bà nội ở bang Texas.

Gia đình họ lạc nhau từ đó…

*****

Ba mươi lăm năm sau

Thu bây giờ tóc đã bạc hơn phân nữa và lên chức bà Ngoại chị lấy chồng có được
ba người con .Chồng chị là người đàn ông tốt và hiền lành .

Các con chị vẩn sống và làm việc ở Sài Gòn .

Còn chị và chồng về sống ở quê vào 5 năm trước trên mãnh đất hương hỏa của bà Ngoại chia cho mẹ chị ngày xưa , vui thú cùng vườn cây ao cá, như bao người có tuổi khác .

Cuộc sống chị êm đềm, hạnh phúc như bao gia đình an phận bình thường nhưng dù bao năm trôi qua trong lòng Thu vẩn không quên được nổi nhớ về những người em của mình .

Thỉnh thoảng nhìn những tấm ảnh cũ đã úa vàng mà chị lưu giữ như một báu vật, chị lại chảy nước mắt .

Chị khóc khi hồi tưỡng cái khoảng khắc ngày xưa đút cơm cho những đứa em của mình .

Chị nhớ rõ đứa nào thích ăn gì , tính nết ra sao .

Nhớ lúc chạy giởn trong khoảng sân nhỏ cùng nhau giờ không biết họ lưu lạc phương trời nào và có bình an không ?.

Hiểu nổi khổ tâm bao năm của chị Thu các con chị cũng giúp mẹ bằng mọi cách họ có thể .

Từ những phương tiện thông tin hiện đại đến nhờ cả đại sứ quán giúp đỡ , nhưng thông tin qúa ít ỏi và trôi qua nhiều năm nên sự tìm kiếm của họ cũng rơi vào im lặng .

Peter ,Mary và Ann hiện tại cũng đã có gia đình và con cái họ khác xưa hoàn
toàn .

Vốn Việt Ngữ của họ gần như là mất hết , ngoại trừ Mary do làm quản lý ở một hãng có nhiều người Việt nên cô còn nói được chút ít .

Nhưng ba người họ vẩn không quên người mẹ và chị của mình .

Họ về Việt Nam rất nhiều lần nhờ sự giúp đở của nhiều nơi .

Nhắn tin trên báo để tìm kiếm nhưng tất cả vẩn không có tin tức gì ,họ cũng không có nhiều manh mối để mở rộng việc tìm kiếm..

Năm 2010 Peter lúc này đã 48 tuổi nhân dịp nghĩ thường năm anh ta dẩn theo cô vợ người Mỹ của mình là Jessica về Sài Gòn du lịch .

Lần đó khi đang ngồi trên chuyến xe tham quan của một đoàn du lịch chuẩn bị đi đến điểm vui chơi theo lịch trình .

Là người vui tính Peter trò chuyện cùng anh hướng dẩn viên là ngày xưa mình được sinh ra ở Sài Gòn .

Nhắc về kỷ niệm vô tình Peter nói rằng quê ngoại ở Xào Bân bằng một thứ tiếng Việt lơ lớ.

Có một vị khách lớn tuổi trong đoàn nghe được .

Ông ta nói là ông ta biết một nơi trước kia gọi là Xẻo Bần chứ không phải là Xào Bân .

Đó là một làng nhỏ do dân địa phương tự đặt tên ấy vì có cái rạch nhỏ chảy cắt ngang qua.

Mà bây giờ không còn ai gọi là Xẻo Bần nữa họ gọi bằng tên một thị trấn khác.

Không biết có cái gì xui khiến Peter vội lấy giấy bút ra và nhờ ông ta ghi lại
chính xác nơi đó bằng cái tên hiện hành ngày nay.

Bỏ dở chuyến đi chơi Peter cùng vợ ngược về Sài Gòn tìm đến trung tâm lữ hành du lịch và ngỏ ý muốn thuê một hướng dẩn viên thông thuộc miền Tây để đi đến địa danh mà vị khách lạ cho.

Khi họ đến nơi thì gần như không còn vết tích nào giống trong ký ức của Peter .

Anh ta nhớ ngày xưa phải đi bằng thuyền nhỏ và cây cỏ hoang dại .

Còn nơi anh ta đến ngày nay là thị trấn sầm uất đông đúc xe cộ chạy xuôi ngược .

Thấy vẻ thất vọng của Peter anh hướng dẩn viên cũng không biết làm sao hơn đành cùng người tài xế chở hai vợ chồng ông khách người Mỹ đi loanh quanh cho đúng theo trình tự một chuyến tham quan .

Xe chạy dọc những con lộ nhỏ và anh hướng dẩn viên giảng giải đây là một vùng chuyên về trồng trái cây .

Chợt lúc đó chuông nhà thờ đổ hồi chuông ban trưa thông lệ .

Như có một thứ giác quan mách bảo Peter đòi được đến nơi đó .

Cả nhóm họ rời xe đi bộ trên con đường làng khi đứng trước căn nhà thờ có tuổi thọ gần cả trăm năm được xây từ thời Pháp đô hộ.

Peter gần như là không kèm được sự xúc động bởi anh ta nhận ra đây đúng là quê ngoại mình mà ngày xưa anh được mẹ dẩn về .

Qua bao nhiêu năm nhưng cũng may là cái nhà thờ ấy vẩn không thay đổi hình dáng kiến trúc cũ .

Nhất là cái vị trí nằm ngay ngã ba sông rất đặc biệt .

Peter nhớ một cách rõ ràng như vậy do có một lần khi về quê chị lớn là Thu dẩn em trai mình đến đây chơi .

Đang vui đùa chợt Peter tự nhiên bị chảy máu cam không rõ nguyên nhân khiến Thu hốt hoảng cầu cứu.

Chính một vị ma-soeur hiền lành đã kêu Peter nằm ngay xuống trước sảnh nhà thờ và ngước mặt lên ngay cho máu ngừng chảy .

Trong khi bà đặt chiếc khăn lạnh trên trán của Peter để hạ nhiệt độ.

Theo trong trí nhớ của Peter nhà bà ngoại đi bộ cách đó một đoạn nhưng hướng nào thì anh ta mơ hồ không nhớ nổi .

Vốn nhạy bén sau một hồi suy tính Peter nhờ anh hướng dẩn viên hỏi thăm những
ai nhiều tuổi từng sống nơi đó về người đàn bà có tên Ba Thơm có con gái tên
Thu .

Nhưng già trẻ không một ai biết bởi ngày trước chị ba Thơm chỉ thỉnh thoảng về thăm quê rồi đi .

Số người còn lại họ đến ở nơi đây mới độ hai , ba chục năm thì làm sau biết chuyện ngày xưa cũ .

Thêm nữa ở quê người ta thường gọi theo thứ ít ai gọi tên nên chẳng ai biết người đàn bà mà Peter muốn kiếm là ai .

Cuối cùng Peter chỉ còn cách ghi lại địa chỉ khách sạn ở Sài Gòn nơi mình trú ngụ cùng số điện thoại cá nhân đang tạm dùng trong thời gian ở Việt Nam .

Peter hứa sẽ hậu tạ cho bất cứ ai có tin tức về hai người mình đang cần tìm .

Đúng lúc kẻ ghi người viết thì có một người đàn bà đứng tuổi đi chợ về ngang do tò mò bà ta rẽ đám đông vào xem .

Khi biết rõ câu chuyện bà ta chậm rãi nói:

-Tui biết có chị kia ở cạnh nhà bà sui gái của tui .

Nghe đâu tên của chỉ là Hai Thu mà tui không nghe chỉ có anh chị em chi hết .

Chị mới về đây sống độ mấy năm thôi không biết có phải chị Thu gì mà ông ấy muốn kiếm không ?

Nhà chị ấy tuốt dưới xóm dưới đường hơi khó đi một chút.

Sau khi nghe anh thông dịch nói lại , không bỏ sót một tia hy vọng vào , Peter
vội khẩn khoản bà ấy giúp mình.

Họ chọn ra giải pháp cả nhóm sẽ ngồi ở quán cafe đầu chợ .

Trước là chờ gặp người tên Thu mà người đàn bà ấy vừa nói .

Sau là uống ít nước và nghĩ ngơi tạm bởi vì nhóm họ điều thấm mệt sau hàng nữa ngày trời đi tới đi lui.

Người đàn bà kia thì lên một chiếc xe honda ôm đã được Peter trả tiền tới nhà chị Thu và nhắn chị ấy có người cần gặp ngồi chờ nơi quán nước trước cổng chợ.

Buổi xế trưa , sau bữa cơm chị Thu đang cho mấy con gà ăn trước sân như thường
nhật chợt có tiếng xe honda dừng trước cửa.

Khi nghe nói có ông tóc vàng mắt xanh cần gặp một người tên Thu .

Trước sống ở Sài Gòn và cở bằng độ tuổi của chị vì có chuyện cần , chị hai Thu đã luống cuống tay chân , buông luôn cái thau đựng cơm nguội xuống sân nhà .

Chị không kịp cám ơn người đàn bà tốt bụng mà vội chạy vào lấy cái nón lá và lên tiếng gọi ông chồng mình đang lui cui sau vườn.

Tay chị run rẩy đến nổi không thay nổi cái áo bà ba nên chị mặc nó tròng đôi vào cái áo đang bận .

Chị lập cập không giấu được vẻ hồi hộp của mình khi ngồi lên chiếc xe do chồng mình nổ máy chờ sẳn chạy vội ra chợ.

Ở quán cafe mọi người không dấu được ánh mắt tò mò trước hai vị khách ngoại
quốc đang ngồi chờ như ngóng trông ai đó.

Xe ngừng trước quán chị Thu bươn bả đi vào , đám đông khẽ nhích ra nhường lối cho chị .

Nãy giờ đi ngoài trời chói nắng nên chị lột vội cái nón lá quẳng vô góc để nhìn cho rõ , Peter cũng vội vã đứng lên .

Không cần phải nói hay hỏi han điều gì chỉ cần nhìn mặt Peter chị Thu đã biết đó chính là em trai của mình bởi Peter giống cha anh ta John Simth thuở xưa như tạc .

Chị Thu khóc ngất nói trong tiếng nấc :

-Em ơi ….Phú ơi ….

Cơn xúc động dâng lên cao độ khiến chị Thu loạng choạng như muốn ngất .

Peter vội đở lấy chị mình dìu chị ngồi xuống ghế anh ta cũng khóc khi nhìn gương mặt của chị Thu với những đường nét của mẹ mình ngày xưa.

Nhoài người tới ôm lấy người chị của mình Peter lắp bắp bằng một thứ tiếng Việt ngọng nghịu :

-Chị … chị Hai … Phú nè …chị chị Hai

Tiếng chị Thu miếu máo ngắt quãng từng chập :

-Mẹ mong chờ mấy em biết bao nhiêu… hu..hu …mẹ mất rồi em ơi .

Trong khi Jessica vợ của Peter nhẹ đưa cánh tay vỗ vỗ lên lưng chồng mình như
sẻ chia dù cô không hiểu chuyện gì đang xảy ra cũng như người đàn bà kia nói gì
.

Thì chồng chị hai Thu biết rõ câu chuyện hơn do vợ mình thường kể nên anh cố giấu đi vẻ xúc động bằng cách nói như phân bua:

-Em của vợ tui , chị em ruột ấy thất lạc mấy chục năm rồi không tin tức chi
hết.

Nhìn thấy một ông ngoại quốc cao lớn nắm chặt tay một người đàn bà Việt Nam mãnh
mai miệng chỉ lắp bắp được vài chữ ”chị ơi..”.Một số người trong quán hôm ấy
khẽ lén lau đi giọt nước mắt vừa ứa ra.

*****

Một buổi tối của hai tháng sau .

Nhà chị Thu đèn đuốt mở sáng choang nhiều người đi tới đi lui .

Mấy bà chị thì nhỏ to dưới bếp bên cạnh nồi cháo gà và vài món ăn nhẹ .

Họ lo không biết những ông bà người Mỹ ở nhà trên có ăn được những món ăn Việt Nam không và nêm nếm như vậy có vừa khẩu vị của họ chưa .

Vài người trẻ trong xóm ngồi ngoài mấy cái ghế tre trước hiên của nhà chị Thu .

Đôi ba ông cụ bà cụ lớn tuổi một chút ngồi trong phòng khách cùng chị hai Thu , Peter , Mary và Ann.

Họ tới mừng cho chị khi nghe được tin chị em trùng phùng sau bao năm và tò mò chờ nghe câu truyện có phần hơi ly kỳ của họ .

Bốn chị em của chị Thu ngồi trên bộ di văng nói chuyện với nhau .

Mary còn nói được chút ít tiếng Việt , Peter và thì nhớ được một vài câu xã giao ngọng nghịu .

Riêng Ann thì không nhớ một câu nào , cả ba người họ phải nói qua người phiên dịch đang ngồi trên cái ghế nhỏ cạnh đó .

Chị Hai Thu đưa khăn lên lau nước mắt khi nghe Peter kể sau khi ba chết họ về sống cùng ông bà ở nơi mới .

Đi học Peter hay bị bọn trẻ chọc ghẹo kỳ thị vì là con lai .

Khiến cậu ta đánh nhau đến nổi chút nữa thì bị đuổi học.

Chị lại cười khi Mary nói lúc về Mỹ muốn ăn trứng ấp thảo với cháo trắng như ngày xưa mẹ nấu ở Việt Nam nhưng đành chịu vì không biết cái trứng đó tên là gì.

Bao nhiêu năm Mary luôn cảm thấy tủi thân và không vui khi ai đó hỏi về nguồn cội bởi Mary không biết trả lời họ ra sau.

Ra vẻ ái ngại Ann nhìn họ rồi khẽ nói ,qua người thông dịch rằng :

” Lúc đầu khi nhìn những tấm ảnh cũ ố vàng ngày xưa và nghe anh Peter thông
báo tìm được chị và nhắn thu xếp về gặp nhau .

Cô được một vài người khuyên nên cẩn thận để tránh sự nhầm lẩn thậm chí biết đâu chừng đó là sự giả trá , lường gạt .

Vì khi đi cô là người nhỏ tuổi nhất rồi sống ở môi trường không có người Việt nên ký ức về chị trong cô không còn được rõ nét như hai anh chị mình .

Nên cô thật sự có phần dè dặt ,không tin lắm nhưng trên đường về đây khi ghé qua quán ăn tạm ở dọc đường , chị hai Thu đã ngăn cô lại khi cô định ăn một bát súp.

Chị ấy nói rằng súp đó được nấu bằng tôm mà chị biết rõ Ann từ nhỏ đã dị ứng với đồ biển. Rồi chị nhờ người thông dịch hỏi giúp chị vết sẹo trên đùi Ann có biến mất theo
thời gian không hay là to hơn .

Ann cố ý hỏi vặn lại vết sẹo gì ? Chị Hai Thu nói ngày trước Ann từng bị té vào chậu hoa sau vườn nhà nên đùi có một vết thẹo khá dài , chính chị đã băng lại giúp cô .

Ann đưa khăn giấy chậm nước mắt bằng vẻ bối rối , xúc động cô ngỏ lời xin lổi chị mình vì những nghi ngờ trước đó .

Bởi bây giờ cô đã tin chị thật sự là chị Hai của cô ngày xưa.

Ann hứa với chị khi về Mỹ sẽ cố gắng học thêm ít tiếng Việt để có thể trực tiếp nói chuyện với chị mà không cần phiên dịch .”

*****

Sáng hôm sau khi tia nắng bình minh vừa hiện ra ở chân trời , gió dìu dịu mùi sương sớm .

Trước ngôi mộ của dì Ba Thơm nơi phần đất hương hỏa giữa đồng .

Bốn mái đầu rấm rức khóc và cuối lặng thật lâu .

Trong mùi hương trầm và những bó hoa thơm lan tỏa lãng bãng , tiếng chị hai Thu nghèn nghẹn khấn :

-Má …con dẩn mấy em đến thăm má .Xin má linh thiêng phù hộ độ trị cho chị em
con và xin má an lòng yên nghĩ.

Một ngày cuối chiều ở sân bay , khi tiếng loa thông báo nhắc nhở tên ba vị
khách còn lại của chuyến bay về Mỹ nhanh chóng ra cửa khởi hành .

Vòng tay của chị em họ lại vội vã ôm lấy nhau giữa khóc – cười họ hứa sẽ quay lại sớm vào một ngày nào đó cùng gia đình của mình .

Mary vội nói cùng chị bằng cái âm chưa chuẩn và quơ tay như minh họa cho lời nói:

-Em biết Việt Nam gọi ngày chết là đám giỗ rồi .

Đám giỗ má vào mùng 9 sau tết Việt Nam.

Tụi em sẽ về vào ngày đó hằng năm .

Chị Hai yên tâm giữ sức khoẻ .

Mắt chị Hai Thu vẩn còn đỏ và đầy nước nhưng miệng chị cười tươi .

Chị đưa cánh tay lên lưu luyến vẩy theo dáng những đứa em của mình đang khuất dần sau cánh cửa kiếng
.

Có một dịp tình cờ nào đó sau tết âm lịch trong cái không khí hãy còn Xuân .

Bạn chợt ngang qua một thị trấn nhỏ xinh đẹp thuộc một tỉnh miền Tây đồng bằng sông Cửu Long .

Đi tới cái xóm nhỏ mà địa danh ngày xưa gọi là Xẻo Bần vô tình bạn nhìn thấy một nhóm người trên đường làng hay trong cái quán Phở ở chợ .

Nhóm người đó trung niên có , trẻ có , tây ta lẩn lộn .

Đôi khi cô gái trẻ tóc vàng mắt xanh cao lớn đang cố trọ trẹ học câu tiếng việt từ một cô Việt Nam cũng còn khá trẻ .

Rồi cũng có lắm lúc cô gái Việt Nam nói những câu Anh Ngữ để giải thích sự việc gì đó cho cô gái kia .

Thỉnh thoảng hai người trung niên lại nói tiếng Việt bằng một âm điệu chưa chuẩn lắm làm bà chị của họ bật cười.

Bạn đừng lấy làm ngạc nhiên bởi đó chính là đại gia đình của chị em họ và

con cái thuộc thế hệ kế .

Những người họ khác biệt nhau về ngôn ngữ , chủng tộc , tập quán và ở cách xa nhau nửa quả địa cầu , hàng chục giờ bay .

Nhưng họ có chung một thứ ,đó chính là dòng máu chảy trong huyết quản của họ có sự hiện diện của cái gọi là Ruột Thịt Tình Thân .

Cuối cùng thì tất cả các dòng sông điều trở về biển như một quy luật muôn
đời ….

Song Nhi

Anh Nguyễn Đình Hữu gởi

QUÀ TẶNG GIÁNG SINH CHO MẸ

QUÀ TẶNG GIÁNG SINH CHO MẸ

Andy ngồi trên tuyết, cậu bé thấy lạnh hơn từng giây một. Andy không đi ủng – thứ mà người ta vẫn thường đi trên tuyết vào mùa đông. Cậu bé không thích ủng và dù
sao cậu bé vẫn không có ủng cơ mà. Đôi giày vải, mỏng dính, mòn vẹt mà Andy
đang mang đã có vài lỗ thủng và chúng không thể làm được việc là giữ ấm cho đôi
chân cậu bé.

Andy đã ngồi trên tuyết thật là lâu rồi. Và dù cố đến mấy, cậu bé vẫn không thể
nghĩ ra được món quà Giáng sinh cho Mẹ. Cậu bé buồn bã lắc đầu ” Vô ích
thôi, dù rằng mình có nghĩ ra món quà gì, mình cũng không có tiền mà .”

Từ khi bố Andy mất 3 năm về trước, gia đình cậu bé suy sụp nặng nề. Ban đêm Mẹ
cậu làm việc ở bệnh viện, nhưng với đồng lương ít ỏi chỉ đủ mấy mẹ con sống tạm
qua ngày. Chúng còn nhỏ lắm, chẳng biết có nghĩ ra món quà gì để tặng Mẹ hay
không. Thật không công bằng, bây giờ đã là chiều tối đêm Giáng sinh mà cậu bé
vẫn ngồi đây, chẳng thể nghĩ được điều gì cả.

Chú chùi những giọt nước mắt, Andy đứng dậy đi xuống phố – nơi có rất nhiều cửa
hàng. Cuộc sống thật khó khăn khi mà cậu bé mới 6 tuổi và không có bố, đặc biệt
là khi mà người ta cần một người đàn ông để tâm sự. Andy đi từng cửa hàng này
sang cửa hàng khác, nhìn vào từng cửa sổ rực rỡ một. Mọi thứ đều đẹp và ngoài
khả năng của cậu. Trời đã bắt đầu tối, Andy buồn bã định quay về nhà thì bỗng
nhiên cậu bé nhìn thấy một vật gì đó ánh lên trong tuyết. Andy cúi xuống: 1
đồng xu nhỏ bóng loáng dưới đất. Hẳn chưa ai có cảm giác được giàu có như là
Andy cảm thấy vào lúc ấy.

Khi Andy nắm chặt “kho tàng mới nhặt được ” của mình, cậu bé cảm thấy như có hơi ấm chạy qua cơ thể, và cậu mạnh dạn bước vào cửa hàng đầu tiên, niềm hân hoan của
Andy ngay lập tức bị đóng băng lại khi từng nhân viên bán hàng bảo với cậu rằng
chẳng thể làm gi với đồng xu nhỏ xíu đó. Cậu bé đi ra, nhìn thấy một cửa hàng
hoa, Andy liều đứng lại xếp hàng

Khi người chủ cửa hàng hỏi Andy cần gì, cậu bé đưa một đồng u và e dè hỏi liệu
mình có thể mua được 1 bông hoa tặng Mẹ trong đêm Giáng sinh với đồng xu nhỏ
xíu này không, người chủ cửa hàng nhìn Andy, đặt tay lên vai cậu bé và nói
:” Đợi một chút, con trai, để ta xem có thể làm gì cho con.”

Khi đứng chờ, Andy ngắm những bông hoa tuyệt đẹp và cậu đã hiểu vì sao Mẹ cậu
cũng như bao người phụ nữ khác lại thích hoa đến thế.

Tiếng đóng cửa sớm khi người khách cuối cùng rời khỏi cửa hàng đã đưa cậu quay
về với hiện thực. Còn lại một mình trong cửa hàng, Andy bắt đầu cảm thấy cô đơn
và hoảng sợ. Bỗng người chủ cửa hàng lại đi ra.

Trước mắt cậu bé là 12 bông hồng đỏ thắm, cuống dài, lá xanh cùng với những
bông hoa gì đó trắng, nhỏ li ti, được bọc thành một bó có dây nơ màu bạc. Tim
Andy ngừng một nhịp khi ông chủ cửa hàng đặt bó hoa vào một chiếc hộp trắng và
bảo: “Tất cả là một đồng xu, con trai.”

Andy chậm chạp đặt đồng xu vào tay ông chủ cửa hàng. Không thể là thật được!
Không ai bán cho cậu cái gì với một đồng xu đâu ! Nhận thấy sự băn khoăn trên
mặt cậu bé, ông chủ cửa hàng giải thích: ” May mắn là ta có mấy bông hoa
bán với giá một đồng xu một bó. Con trai có thích không ? ”

Lần này thì Andy không ngần ngại nữa. Ra khỏi cửa hàng, Andy nghe thấy tiếng
ông chủ nói với theo :” Giáng sinh vui vẻ, con trai .”

Khi ông chủ cửa hàng quay vào trong nhà, vợ ông hỏi :”ông vừa nói chuyện và đem hoa cho ai thế ?” Nhìn qua cửa sổ và chớp chớp mắt để ngăn không cho nước mắt trào ra, ông chủ cửa hàng khẽ nói :” Một điều thật lạ lùng đã xảy ra. Sáng nay, khi
tôi chuẩn bị mở cửa hàng, tôi có cảm giác như ai đang mách bảo mình để sang bên
cạnh 12 bông hoa hồng thật đẹp vì đó sẽ là món quà đặc biệt. Tôi đã nghĩ là
mình đã tưởng tượng ra, thế nhưng tôi vẫn cứ để 12 bông hồng ra một chỗ. Và
ngay lúc nãy, một cậu bé vào cửa hàng và muốn mua hoa để chúc Giáng sinh cho Mẹ
chỉ với 1 đồng xu. Nhìn vào cậu bé, tôi thấy tôi của nhiều năm về trước. Tôi đã
là một đứa trẻ nghèo khổ không biết mua gì cho Mẹ vào đêm Giáng sinh.

Một người qua đường đã cho tôi 10 dolla không vì lý do gì. Khi tôi nhìn thấy
cậu bé tối hôm nay, tôi biết người đã mách bảo tôi là ai….

Tối Giáng sinh ấy, cả gia đình người chủ cửa hàng hoa và cả gia đình Andy nữa,
không ai cảm thấy lạnh chút nào….

Lequangchac sưu tầm

Phan Thiết đêm 22/12/2012

Chị Nguyễn Kim Bằng gởi

ĐÊM LẠNH

ĐÊM LẠNH

MINH DIỆN

* Ông Dương gọi điện thoại mời tôi về quê, chứng kiến lễ khánh thành cây cầu do công ty của ông ấy tài trợ.

– Anh có thể mang theo một tay quay phim? – Ông Dương nói.

– Chúng tôi đi nhờ xe của anh được chứ?

– Được! Nhưng một mình anh thôi!

– Thế còn cậu quay phim?

– Bảo nó đi xe đò! – Dương trả lời với một giọng khô khan, lạnh lùng.

Tôi vẫn biết ông Dương chẳng bao giờ cho nhân viên cấp dưới, hoặc những người địa vị thấp kém hơn mình ngồi vào chiếc xe Mercedes 500 sang trọng.

– Thôi được! Tôi sẽ nói cậu quay phim đi Honda.

Tôi vội vàng mặc quần áo và chạy đến văn phòng công ty Ánh Dương, nơi ông Dương đang làm Tổng giám đốc, sau khi động viên anh quay phim chịu khó đi xe đò hoặc xe
máy.

– Không sao! – Anh quay phim nói – Cháu quá biết tính ông Dương.

Chiếc Mercedes đen bóng đang đậu dưới sân tòa nhà mười một tầng, trụ sở công ty Ánh Dương. Trước kia,  đây là ngôi biệt thự rất đẹp và vững chắc, xây theo kiểu Pháp. Những người tiền nhiệm ông Dương đã từng làm việc dưới tầng hầm ngôi biệt thự giữa những ngày bom B52 của Mỹ rải thảm Thủ Đô. Cách đây hai năm, ông Dương đã cho đập ngôi biệt thự, rồi xây tòa nhà này. Nghe nói chi phí hết hơn ba chục tỷ đồng, nhưng chất lượng không tốt lắm, vì bị rút ruột chia chác nhau, trong đó ông Dương “ăn” phần lớn.

– Chào nhà báo ! – Ông Dương chào tôi khi từ thang máy bước ra,  chìa bàn tay múp míp cho tôi bắt. Ông mặc comple màu sữa, thắt cà-vạt đỏ tươi. Nhìn khuôn mặt bầu bầu và mái tóc mới nhuộm đen nhánh đố ai biết ông đã bước sang tuổi năm mươi chín.

Người lái xe của ông Dương cũng ăn mặc tươm tất. Anh ta tên Hà, đồng hương với vợ ông Dương. Nhờ phục vụ sếp tận tình, lại là đồng hương với vợ sếp nên Hà đã được đề
bạt thêm chức phó phòng hành chính.

– Thưa sếp, đi được chưa ạ?

Hà khúm núm hỏi sếp. Ông Dương xem đồng hồ thấy ba giờ kém mười phút, gật đầu. Một qui định bắt buộc do vợ ông Dương đặt ra là đi kém về hơn. Hằng ngày ông Dương đến cơ quan cũng như những chuyến đi công tác, đều xuất phát lúc kém, về lúc hơn. Hai ngày trước vợ ông Dương và cậu con trai về quê trước chuẩn bị buổi lễ khánh
thành cầu, họ cũng khởi hành lúc ba giờ kém mười…

Hà xách chiếc Sam-so-nai của ông Dương để vào cốp rồi mở cửa xe cho sếp. Dương chỉ chiếc ghế cạnh tài xế cho tôi. Có lẽ Dương sợ tôi không hiểu qui củ nên làm như
vậy. Thực ra tôi cũng biết sự sắp xếp thứ bậc trên dưới trong chiếc xe loại VIP
này. Ghế phía sau người lái là chỗ ngồi của sếp, không ai được đặt đít ngồi ké…

Chiếc xe ra khỏi Hà Nội và lướt êm trên quốc lộ số một. Đang giữa mùa đông lạnh khủng khiếp. Ngồi trong xe nhìn ra, dưới bầu trời xám ngắt, những dáng người liêu xiêu mờ mịt trong mưa phùn gió bấc.

Chiếc xe Mercedes 500 ấm áp và êm ái rộng thênh thang, chỉ có ba người. Ông Dương ngả đầu vào ghế da mơ màng nghe tiếng nhạc du dương. Tôi cảm thấy thương hại anh
quay phim, giờ này đang chen chúc trong xe đò hoặc tự lái xe máy giữa mưa rét.
Anh ta cũng đã biết ông Dương, chẳng bao giờ cho ai địa vị thấp kém đi nhờ xe.
Nói chung, ông ta chẳng thân thiện và muốn giúp đỡ ai bao giờ. Có chăng chỉ là
đóng kịch để phục vụ cho lợi ích của ông ta thôi.

Ngay từ hồi Dương còn rất trẻ, đã là một con người khôn ngoan, ích kỷ và tàn nhẫn. Lúc mới về công ty, Dương tỏ ra rất hiền lành, chăm chỉ và tìm mọi cách lấy lòng ông Tổng giám đốc Đinh. Nhờ vậy Dương được xếp vào diện cơ cấu cán bộ lãnh đạo, được đề bạt rất nhanh. Nhưng mới nhận chức Tổng giám đốc thay ông Đinh buổi sáng, buổi chiều Dưong đã mời ông già khốn khổ ấy ra khỏi căn phòng mà ông tự nguyện nhường cho Dư.

Còn một việc tàn nhẫn và thực dụng hơn mà Dưong đã làm lúc còn trẻ: Dưong yêu cô gái đồng hương, là sinh viên đại học. Cô gái xinh xắn, hiền lành, thông minh và yêu Dưong chân thành. Hai người đã chuẩn bị làm lễ cưới. Nhưng trong một chuyến công tác ở Kiên Giang, tình cờ Dưong gặp Trù, một cô gái dong dỏng cao, có đôi mắt sắc sảo, xấu  hơn người yêu Dưong nhưng  đang là một nhân viên hải quan có tiền. Thế là chỉ sau một tuần tìm hiểu, Dưong đã cùng Trù ra Hà Nội tổ chức đám cưới. Cô người yêu cũ toan tự tử, Dương quỳ xuống xin cô tha thứ. Cô sinh viên bỏ về quê mang theo cái thai, kết quả của mối tình đầu. Cô không tiếc và không muốn nhìn mặt một kẻ tính toán thực dụng đầy ích kỷ.

Tất nhiên đó không phải là chuyện bê bối duy nhất của  Dương. Những vi-la, biệt thự,
trang trại và của cải mà Dưong có từ khi làm Tổng giám đốc công ty Ánh Dương đã
nói lên điều đó.

Hà châm thuốc hút và mở cửa kính phía trước, ông Dư làu bàu:

– Đóng cửa lại! Không thấy lạnh à?

Vừa nói Dương vừa lấy dầu gió xoa bụng, xoa ngực. Tôi cố nín cười vì thói quen kiêng kỵ quá đáng của Dương. Dương kiêng nắng kiêng  gió như đàn bà đẻ kiêng cữ!.
Lúc nào cũng kè kè đủ thứ thuốc. Chả trách có lần Phó tổng giám đốc Ngọc đã
nói: “Tay Dương muốn sống trăm tuổi và dứt khoát không chịu về hưu sáu mươi
tuổi. Hắn muốn húp nước cả cặn!”. Có lẽ Ngọc nói đúng vì Dương đang chạy chiếc
ghế Phó chủ tịch Hội doanh nhân – một tổ chức phi chính phủ có tiếng, có miếng,
lại có thể ngồi đến già.

Dương đã mua mấy cái bắng và mấy cái giải thưởng để lấy tiếng. Hôm nay về quê cắt băng khánh thành chiếc cầu cũng không ngoài mục đích đó.

Trời sập tối. Mưa mỗi lúc một dày hạt. Con đường nhợp nhòa mờ mịt trước ánh đèn pha sũng nước. Vợ Dương gọi điện thoại hỏi chồng đã tới đâu? Ông Dương trả lời:

– Anh đã qua thành phố Vinh. Còn hơn cục cây nữa sẽ tới nơi!Thằng Xuân nhà mình có đó không?

– Nó đi chơi với bạn rồi.

Ông Dương cúp máy, khoe với tôi:

– Thằng Xuân con tôi sau kỳ nghỉ này sẽ quay lại Luân Đôn bảo vệ luận án tiến sĩ đấy.

– Thế à!

– Nó rất thông minh và có bản lĩnh…

– Vâng!

– Con gái ông thứ trưởng Màu rất yêu nó.

– Thế ư? Tôi biết cô bé ấy rất đẹp và ông thứ trưởng Màu rất giàu.
Tương lai ông ta sẽ lên bộ trưởng.

– Đúng vậy!

Bỗng phía trước thấp thoáng bóng người. Hà hãm xe lại. Một người đàn ông đứng giữa đường vẫy tay rối rít. Tôi bấm kính xuống, hỏi:

– Chuyện gì vậy bác?

Người đi đường áp gương mặt ướt sũng vào cửa xe. Đó là một ông già ốm nhom đang run lên bần bật:

– Có người bị tai nạn, xin quý ông chở giúp vô bệnh viện cấp cứu.

– Bác kiếm xe khác. – Hà từ chối.

– Trời mưa rét, không có xe…

– Đợi một chút sẽ có xe!

– Không đợi được nữa mô. Không cầm máu kịp, anh ta chết mất.

Dù đã biết tính ông Dương, nhưng trong tình huống hiểm nghèo của người bị tai nạn giữa đêm mưa rét, đường vắng, tôi năn nỉ ông Dương:

– Giúp người ta một chút anh Dương?

– Không được! – Ông Dương dứt khoát.

Chiếc xe vọt đi bỏ lại ông già chới với…

Gần một giờ sau chúng tôi về đến làng Cẩm, quê ông Dương. Dù mưa gió, rét mướt họ hàng, cán bộ địa phương cùng dân làng vẫn tập trung đón ông Dương. Nhưng ông có vẻ không vui vì vắng mặt cậu con trai yêu. Ông càng sốt ruột hơn khi gọi điện thoại di động cho con không có tín hiệu trả lời.

– Nó đi đâu bằng xe gì? Đến nhà ai? – Ông Dương sẵng giọng hạch hỏi vợ.

– Bằng xe Honda. Đi Vinh!

– Sao không đi ôtô?

– Nó thích thế! Mà sao anh lại quát nhỉ? – Vợ Dương đanh mặt.

Một nửa sự nghiệp của Dương do người đàn bà này tạo nên. Bà ta khi còn trẻ đã hiến
thân  cho cấp trên của Dương đề đồi lấy cấp chức cho Dương.  Bây giờ từ miếng ăn, giấc ngủ và giờ giấc đi lại của Dương  do bà ta chỉ đạo. Trước mặt vợ, Dương luôn dịu dàng, nín thinh, dù thực tế chỉ là diễn kịch. Ông ta ra lệnh cho Hà chạy xe hơi ra Vinh tìm đón con trai.

Hà đi được lúc lâu gọi điện về, báo tin cậu con trai ông bà Dương bị tai nạn giao thông. Bà Dương ngất xỉu.

Không còn thời gian và phương tiện để lựa chọn, anh quay phim sốt sắng lấy chiếc honda chở ông Dương và tôi đến bệnh viện.

Cậu con trai ông Dương lên thành phố Vinh chơi bằng xe honda, được tin bố về quê, anh ta vội phóng xe  đón bố. Vì trời tối, mưa rét nên lao xe xuống vực…

Trước phòng cấp cứu tôi nhìn thấy ông già vẫy tay chặn xe chúng tôi xin đi nhờ mấy giờ trước. Ông chỉ là người tình cờ qua đường gặp người thanh niên rơi xuống vực. Ông già cũng nhận ra chúng tôi, những kẻ đã từ chối không cho ông đưa người bị nạn lên xe. Ông nói với chúng tôi, giọng buồn buồn:

– Cậu ấy chết do mất nhiều máu! Giá lúc ấy các ông cho đi nhờ… đâu đến nỗi!

Ông Dương bước đi loạng choạng, rồi ông ngã dúi vào chiếc xe Mercedes bóng loáng đậu cạnh bức tường bệnh viện. Da ông nhợt nhạt, lưng còng hẳn xuống và mặt xọm đi, như ông lão tám mươi. Ông ôm mặt rú lên khủng khiếp:

– Con ơi!!!…

Tôi đỡ ông Duơng vào xe. Ông run rẩy…

M.D

Anh Nguyễn v. Thập gởi