NHỮNG NGƯỜI LÍNH-Truyện ngắn

Tôi đặt hành lý vào hộc ở trên đầu rồi ngồi xuống ghế. Đây là chuyến bay dài làm tôi ước gì mình có một quyển sách hay để đọc trên phi trình. Có lẽ, tôi cũng cần chợp mắt một chút. Vừa lúc trước khi máy bay cất cánh, một nhóm 10 người lính trẻ men theo lối đi và ngồi hết vào các chỗ trống rải rác còn lại. Chẳng có gì để làm, tôi bắt đầu gợi chuyện người lính ngồi gần nhất:

– Các cậu đi tới đâu vậy?
– Petawawa. Chúng tôi sẽ ở đó hai tuần để thụ huấn một chương trình huấn luyện đặc biệt rồi sau đó sẽ bổ sung tới A Phú Hản.

Sau khi máy bay cất cánh độ một tiếng thì tiếng loa thông báo là trên máy bay có bán thức ăn nhẹ đựng trong bao giá 5 mỹ kim.
Cũng còn lâu lắm chuyến bay mới tới phía Đông nên tôi quyết định mua một bao đồ ăn để vừa ăn vừa giết thì giờ.. Khi tôi móc bóp lấy tiền thì chợt nghe một người lính hỏi bạn mình là có muốn mua thức ăn không.
– Không! Có vẻ như mắc quá đó.. Bao lunch gì mà tới 5$. Thôi tao ráng đợi tới căn cứ hẳn hay.
Và anh lính trẻ gật gù đồng ý với bạn.

Tôi đảo mắt nhìn chung quanh thì thấy mấy người lính khác cũng không có ý định mua gì cả mặc dù lúc đó cũng đã tới giờ ăn trưa rồi. Một ý nghĩ chợt đến trong đầu, tôi gọi người nữ tiếp viên tới đưa cho bà ta 50$ và nói:
– Xin bà vui lòng lấy thức ăn cho những người lính nầy.
Người tiếp viên ngạc nhiên nắm chặt lấy tay tôi, qua đôi mắt long lanh ngấn lệ vì xúc động, bà ngõ lới cám ơn tôi và nghẹn ngào:
– Con trai tôi cũng là một quân nhân đang chiến đấu tại Iraq . Nghĩa cử nầy của ông như đang dành cho nó vậy. Rồi bà xăng xái đi lấy 10 bịch đồ ăn trao cho tất cả các người lính trên tàu.
Sau đó bà dừng lại chỗ tôi hỏi:
– Thưa ông dùng gì ạ? Bò, gà rất hảo hạng.
– Xin cho tôi gà
Tôi trả lời bà ta trong một thoáng ngạc nhiên vì theo tôi biết hạng economy bây giờ chỉ có BOB thôi mà.
Người nữ tiếp viên đi về phía trước của máy bay độ một phút sau trở lại với nguyên khay thức ăn nóng hổi dành cho hành khách vé hạng nhất, bà trịnh trọng nói với tôi:
– Đây là tấm lòng tri ân nho nhỏ của những người trên chuyến bay nầy đối với ông .

Sau khi ăn xong với tâm trạng sảng khoái nhẹ nhàng, tôi bước tới phòng vệ sinh ở phía sau cùng. Trên đường đi, một người đàn ông thình lình đứng lên chận tôi lại nói:
– Tôi rất cảm phục việc ông làm, xin ông cho tôi được chia phần mà vui lòng nhận cho.
Nói xong, ông ta dúi vào tay tôi 25 mỹ kim.
Sau đó không lâu, viên phi công trưởng rời buồng lái vừa đi vừa nhìn số ghế ghi trên hộc hành lý, linh cảm khiến tôi thầm mong ông ta đừng kiếm tôi nhưng Chúa ơi! Ông ta dừng lại ngay hàng ghế của tôi rồi cười thật tươi và chìa tay ra nói:
– Tôi muốn được bắt tay ông
Cực chẳng đã, tôi mở dây an toàn đứng dậy bắt tay viên phi công trưởng.
Với giọng hân hoan, ông ta nói lớn như để mọi người cùng nghe:
– Tôi cũng đã từng là một quân nhân và cũng là phi công chiến đấu. Có một lần có người cũng mua cho tôi thức ăn. Điều đó thực sự thể hiện cả một tấm lòng tốt đẹp mà tôi không bao giờ quên.
Cả một tràng pháo tay tán thưởng vang dội làm tôi đỏ bừng mặt vì mắc cở.
Chỉ với một hành động nhỏ nhặt tầm thường của tôi mà đánh động lương tâm con người đến thế sao?
Vì chuyến bay quá dài nên có một lúc, tôi phải đi bộ về phía trước để rản gân cốt thì bỗng nhiên có một nam hành khách ngồi trên tôi độ sáu dãy đưa tay ra bắt và để lại trong tay tôi cũng 25 mỹ kim.

Bầu không khí trên chuyến bay thật nhẹ nhàng và chan hoà tình người cho tới khi máy bay hạ cánh. Tôi lấy hành lý và bắt đầu bước ra khi vừa tới cửa máy bay thì một người đàn ông chận tôi lại và nhét nhanh vào túi tôi một thứ gì đó xong ông ta vội vả bước đi mà không nói một lời. Lại thêm 25$ nữa.

Nếu tính ra, tôi chỉ chi có 50$ mà bây giờ thu lại tới 75$. Kiếm được 25$ dễ dàng đến thế sao! À ! Quên! Còn bữa ăn thiệt ngon miệng nữa chứ.

Đúng là khi ta làm việc phải thì không bao giờ lỗ lã cả.
Tôi vui vẻ bước nhanh vào cửa phi trường thì thấy mấy người lính trẻ kiểm điểm nhân số để chuẩn bị về căn cứ. Tôi tiến tới trao cho họ 75 mỹ kim và nói:
– Từ phi trường về tới trại phải khá xa. Mà bây giờ cũng đã tới giờ để dằn bụng một cái sandwich chứ. Chúa sẽ ban ơn cho các cậu.

Mười người lính trẻ trong ngày hôm đó chắc đã rời chuyến bay trong tâm trạng yêu thương và kính mến những hành khách đồng hành. Tôi hăng hái bước tới xe với lời thì thầm nguyện cầu cho tất cả sẽ được trở về trong an bình.

Những chàng trai nầy đã hy sinh tất cả cho quê hương mà tôi chỉ biếu họ có một vài phần ăn. Thật là quá ít ỏi nếu không muốn nói là chỉ trong muôn một.

Nghĩ xa hơn nữa, người cựu chiến binh đã từng đánh đổi cả cuộc đời khi viết lên chi phiếu trắng đề tên người nhận là “Hiệp Chủng Quốc” mà số tiền có thể lên đến chính sinh mạng của họ.
Đó là một vinh dự tối cao lẽ ra cả đất nước phải dành cho họ nhưng than ôi! Có nhiều người đã không cần biết tới và bỏ quên họ.

Xin Chúa ban sức mạnh và lòng can đảm cho bạn chuyển tiếp câu chuyện nầy tới bạn bè quen biết.

Riêng tôi thì đã làm xong.

From: TU-PHUNG

Hai Bờ Đại Dương (truyện ngắn)

Hai Bờ Đại Dương (truyện ngắn)

Tuấn lái xe chạy dọc đường Bolsa, qua khỏi ngã tư đường Euclid, quẹo trái vô bãi đậu xe, ngừng lại trước tiệm hoa. Tuấn bước vô tiệm, chọn mua một bó hoa và một cái vòng đeo cổ kết bằng hoa lan. Vòng hoa này, người Mỹ gọi là lei, thường được dùng để tặng cho những sinh viên để mang trên cổ trong ngày ra trường. Mua hoa xong Tuấn lái xe lên đường cao tốc 57 đi về hướng Pomona, nơi có ngôi trường đại học bách khoa California State University Pomona. Hôm nay là ngày lễ tốt nghiệp của Vũ, con trai của Tuấn.

Trời California hôm nay nắng ấm, đã bước sang mùa hè, bầu trời trong xanh không một gợn mây. Đoạn đường cao tốc này, Tuấn đã đi nhiều lần, nhưng hôm nay cảnh vật có vẻ vui tươi, có lẽ vì trong lòng Tuấn đang vui. Mười lăm năm kể từ ngày đặt chân đến Mỹ, hôm nay có lẽ là ngày vui nhất của Tuấn, vì con trai tốt nghiệp đại học. Tuấn nghĩ thầm trong lòng: hôm nay chắc Ngọc sẽ rất vui khi thấy đứa con trai yêu dấu của mình đã thành đạt.

Tuấn và Ngọc gặp nhau trong khói lửa chiến tranh. Ngày ấy Tuấn là một sĩ quan thiếu úy vừa tốt nghiệp trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt, được sung vào Sư đoàn 3 Bộ binh, đóng ở căn cứ Ái Tử thuộc tỉnh Quảng Trị vào đầu năm 1972. Quảng Trị là tỉnh thuộc địa đầu giới tuyến của cuộc chiến hai miền Nam-Bắc. Phía bắc Quảng Trị là sông Bến Hải, nơi phân chia hai miền. Mặc dù ở địa đầu giới tuyến nhưng tình hình Quảng Trị lúc đó yên tĩnh. Theo tinh thần của Hiệp định Geneve được ký kết năm 1954 thì vùng giới tuyến là vùng phi quân sự, hai bên cam kết sẽ không có những hoạt động quân sự gần vùng này. Vì vậy mà các đơn vị đóng ở đây được coi là an nhàn.

Những lần rảnh rỗi, Tuấn thường qua khu vực gần thành cổ Quàng Trị (còn gọi là thành Đinh Công Tráng) bên kia sông Thạch Hãn, nơi có phố phường đông đúc, để ăn uống, dạo chơi, và nhất là ngắm các cô nữ sinh giờ tan trường. Một lần, đang ngồi uống cafe tại một quán nhỏ bên lề đường, Tuấn nhìn thấy một cô nữ sinh mặc áo dài trắng cắp cặp đi thong thả. Cô này có mái tóc đen nhánh chảy xuống bờ vai, cặp mắt long lanh, môi xinh như cánh hoa hống, dáng người thon thả, thướt tha trong tà áo dài trắng. Vừa nhìn thấy, Tuấn đã bị thu hút bởi vẻ đẹp của cô gái. Từ hôm đó, mỗi khi có dịp, Tuấn lại ra quán ngồi đúng giờ tan trường để được ngắm người đẹp.

Tuấn cố suy nghĩ cách nào để làm quen với người đẹp, nhưng nghĩ hoài không ra. Mặc dù là quân nhân, nhưng đằng sau bộ quân phục Tuấn vẫn là một chàng thanh niên nhút nhát trước phụ nữ. Rồi một lần, một sự việc xảy ra như cơ duyên đưa đẩy.

Hôm đó ngồi ờ quán như thường lệ, Tuấn thấy bóng dáng cô nữ sinh từ xa, nhưng lần này lại có hai thanh niên lái xe gắn máy đi kè kè sát lề. Hai thanh niên này để tóc dài, mặc quần ống loe theo mốt hippy, có vẻ con nhà giàu, đang kè theo cô gái để tán tỉnh. Cô gái cỏ vẻ hơi khó chịu, nhưng vẫn cố giữ vẻ mặt bình thản, mắt nhìn thẳng và tiếp tục đi. Khi đi ngang chỗ Tuấn ngồi, chàng bất chợt đứng dậy, bước ra mé đường và nói với hai thanh niên kia: “Hai chú làm ơn để yên cho cô em của tôi được không?” Nhìn thấy Tuấn trong bộ quân phục sĩ quan, hai thanh niên kia hết hồn, rồ máy đi thẳng. Cô gái đứng lại, tần ngẩn nhìn Tuấn, cúi đầu nói lí nhí: “Dạ em cảm ơn anh.”

Tuấn gật đầu, rồi cũng không biết nói gì. Cô gái cúi đầu chào rồi đi tiếp. Tuấn đứng bâng khuâng nhìn theo cho đến khi cô gái đi khuất rồi cũng rời quán. Tự nhiên Tuấn thấy giận mình sao quá ngu ngơ, lẽ ra nên nhân cơ hội này hỏi thăm vài câu làm quen, hay ít nhất cũng hỏi tên cô gái.

Từ sau lần đó, mỗi lần đi ngang quán nhìn thấy Tuấn, cô gái hơi mĩm cười và khẽ cúi đầu chào. Tuấn cũng gật đầu đáp trả, cố làm ra vẻ bình thản, dù trong lồng ngực con tim đang đập rộn ràng reo vui. Nhưng sự việc có vẻ như chỉ giới hạn ở mức đó. Tuấn cố moi óc tìm cách nào để tiến xa hơn nữa. Cứ mỗi lần thấy cô gái từ xa, trong lòng Tuấn lại thôi thúc: “Đứng dậy đi. Đứng dậy bước ra hỏi thăm nàng vài câu đi!” Nhưng rồi cũng chỉ một nụ cười và một cái gật đầu, rồi bóng nàng lại xa khuất.

Một lần đi ngang, nàng chợt làm rớt cây viết máy mà không biết, cứ tiếp tục đi. Tuấn vội đứng dậy, lượm cây viết, rảo bước theo và nói: “Em ơi, em làm rớt cây viết.” Cô gái đứng lại, nhận cây viết từ Tuấn, mĩm miệng cười duyên dáng: “Dạ em cảm ơn anh.”

Một thoáng giây im lặng, cô gái dường như có ý chờ đợi. Tuấn thu hết can đảm, hỏi: “Em học trường nào?” Tuấn chợt thấy câu hỏi của mình hơi thừa vì trên ngực áo nàng có mang huy hiệu trường. Nhưng nàng dường như không quan tâm tới cái sự thừa thãi đó, vẫn trả lời: “Dạ em học trường Trung Học Nguyễn Hoàng.” Trường Trung Học Nguyễn Hoàng là một trong những ngôi trường khang trang nhất Quảng Trị lúc đó.

“Em học lớp mấy?” Tuấn hỏi tiếp.

“Dạ lớp mười hai.”

Cô gái nhìn cái lon thiếu úy có bông mai vàng trên cổ áo Tuấn, hỏi: “Anh ở đơn vị mô?”

“À anh thuộc Sư đoàn 3, đóng ở căn cứ Ái Tử.”

Đến đây thì Tuấn không biết hỏi gì hơn. Cái tính nhút nhát trước phụ nữ của Tuấn vẫn không thay đổi. Cô gái lại cúi chào rồi quay đi. Tuấn nhìn theo và sực nhớ là mình quên chưa hỏi tên cô gái. Còn cô thì không cần hỏi chắc cũng biết được tên Tuấn vì trên ngực áo quân nhân ai cũng có in tên.

Những lần sau đó, Tuấn đã bắt đầu dạn dĩ hơn. Mỗi khi nàng đi ngang, Tuấn đứng dậy đi theo nàng một quãng. Tuấn biết được tên nàng là Ngọc. Ngọc có ba đứa em. Ba mẹ Ngọc không giàu nhưng đủ sức nuôi các con ăn học. Ngoài giờ học Ngọc còn phụ giúp mẹ buôn bán. Biết được địa chỉ nhà Ngọc, Tuấn định bụng hôm nào sẽ đến thăm. Nhưng Tuấn chưa thực hiện được ý định đó thì một biến cố xảy ra, như một trận cuồng phong nổi lên làm đảo lộn mọi thứ.

Tuấn bật đèn báo hiệu, đổi qua làn đường bên phải, rồi thoát khỏi cao tốc. Đến đường Temple, Tuấn quẹo trái, đi một quãng nữa là tới trường. Trường nằm cạnh một trang trại nuôi ngựa của dòng họ Kellogg. Dòng họ này nổi tiếng với công ty Kellogg’s chuyên sản xuất các thức ăn chế biến từ ngũ cốc. Con đường dẫn vô trường đi ngang qua một cánh đồng rộng có những con ngựa được thả chạy rông, giống ngựa cao lớn, chân thon dài dùng để chạy đua. Ngoài ngựa, trang trại còn nuôi một số gia súc, trồng hoa và một số cây ăn trái. Sinh viên học ngành nông nghiệp của trường dùng trang trại này làm nơi thực tập.

Đến bãi đậu xe của trường, Tuấn theo bảng chỉ dẫn tìm chỗ đậu gần lối đi vào nơi cử hành lễ rồi xuống xe đi bộ. Trường rất rộng, diện tích hơn 5 cây số vuông, nếu không có bảng chỉ dẫn thỉ có thể đi lạc, mất nhiều thì giờ tìm nơi mình muốn tới. Trong trường rộn rịp sinh viên mặc áo choàng thụng, đầu đội mũ chóp vuông có gắn tua. Thân nhân, bạn bè của sinh viên cũng tới dự lễ rất đông, trên tay nhiều người cầm hoa và bong bóng. Đi qua khỏi thư viện trường là tới một cái sân cỏ rộng, có dựng khán đài. Tuấn đưa mắt tìm kiếm. Vũ đã tới trường từ sớm. Thật khó mà tìm được người thân trong cái sân rộng mênh mông có hàng ngàn người đi lại. Tuấn đành nghĩ thầm, thôi để tới lúc các sinh viên xếp hàng tiến vào nơi hành lễ thì mình sẽ đứng một chỗ canh tìm.

Trưa ngày 30-3-1972, đạn pháo kích của quân Cộng Sản dội như mưa vào Quảng Trị, mở màn cho một chiến dịch quân sự đẫm máu kéo dài sáu tháng mà Cộng Sản gọi là “Chiến dịch Xuân-Hè 1972”, quân sử Việt Nam Cộng Hòa sau này gọi là “Mùa Hè Đỏ Lửa”. Căn cứ Ái Tử là một trong những nơi đầu tiên hứng đạn pháo kích nặng nề. Các đơn vị đóng khắp Quảng Trị cũng lần lượt hứng đạn pháo kích và sau đó là những đợt tấn công liên tiếp bằng biển người. Dân chúng khắp nơi chạy loạn, gồng gánh kéo nhau vào thị xã Quảng Trị, nương nhờ sự che chở của quân đội Việt Nam Cộng Hòa. Mỗi khi có chiến sự xảy ra thì dân chúng luôn chạy tìm nơi có quân Cộng Hòa đóng để được che chở hoặc giúp phương tiện di tản.

Cuộc tấn công ở Quảng Trị là một đòn bất ngờ cho Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Hiệp định Geneve quy định rằng khu vực hai bên sông Bến Hải, lằn ranh phân chia hai miền Nam-Bắc, là vùng phi quân sự. Hai bên cam kết không tiến hành bất cứ hoạt động quân sự nào trong vòng 5 km ở mỗi bên. Phía Việt Nam Cộng Hòa luôn giữ cam kết này, vì vậy mà Sư đoàn 3 bộ binh đóng ở đây đa số là các binh sĩ ít có kinh nghiệm chiến đấu. Phía Cộng Sản thì ký kết là một chuyện, giữ lời là một chuyện hoàn toàn khác. Hơn 40 ngàn quân Cộng Sản đã vượt sông Bến Hải tấn công Quảng Trị trong những ngày đầu tiên của chiến dịch. Ngoài ra, quân Cộng Sản còn tấn công ở Kontum và Bình Long, cũng ác liệt không kém.

Tuấn cùng đồng đội của mình chiến đấu cố thủ tại căn cứ Ái Tử gần một tháng, sau đó đơn vị của Tuấn rút vào Thành cổ Ðinh Công Tráng bên kia sông Thạch Hãn. Nhân dịp này Tuấn vội vã tìm tới nhà Ngọc. Đây là lần đầu tiên Tuấn gặp ba mẹ và các em của Ngọc. Trong cơn dầu sôi lửa bỏng, sự xuất hiện của Tuấn như một ngọn nến thắp lên trong đêm đen, đem lại niềm hy vọng cho gia đình Ngọc. Trong con mắt Ngọc, Tuấn giờ là một người hùng. Còn Tuấn, suốt gần một tháng đứng dưới chiến hào chịu trận mưa bom đạn, đầu óc quay cuồng giữa sự sống và sự chết, nay nhìn thấy bóng dáng yêu kiều của Ngọc, chàng bỗng nhận ra rằng cuộc chiến đấu của mình không vô nghĩa. Chàng đang liều chết để bảo vệ cho tình yêu của mình.

Gia đình Ngọc muốn di tản về Huế nhưng chưa có phương tiện. Ngay hôm đó Tuấn liền liên lạc với các đồng đội, nhờ họ thu xếp cho gia đình Ngọc được đi chung xe với các gia đình khác. Hôm sau, gia đình Ngọc rời Quảng Trị. Trước khi đi Ngọc trao cho Tuấn một mảnh giấy ghi địa chỉ người thân ở Huế.

Ngày 1 tháng 5, chuẩn tướng Vũ Văn Giai, tư lệnh Sư đoàn 3, tuyên bố rút quân khỏi Quảng Trị. Khi nghe tin này, dân chúng đã ùn ùn chạy theo đoàn quân rút lui trên quốc lộ 1 về hướng Mỹ Chánh, tạo ra cảnh hỗn loạn, dân chúng đi lẫn với quân đội, gây khó khăn trong việc rút quân. Trong cơn hoảng loạn, một tai ương khác lại ập đến: pháo kích của Cộng quân đổ chụp lên đoàn người đang rút chạy. Cả lính và dân đều hứng đạn, chết la liệt. Những chiếc xe quân xa và xe chở thường dân bị trúng đạn bốc cháy, xác người chết và bị thương nằm rên la suốt một đoạn đường dài 10 cây số từ phía nam Quàng trị đến cầu Mỹ Chánh. Cộng Sản biết thừa có nhiều dân chúng đi lẫn với binh lính, nhưng họ không quan tâm. Đối với Cộng Sản, mạng người dân không đáng kể, chỉ có chiến thắng mới quan trọng. Trong số những cảnh thương tâm, hình ảnh gây xúc động nhất cho Tuấn là cảnh một em bé nằm trên xác người mẹ đã chết cố nút vú mẹ. Một người lính đã bế em bé lên và tiếp tục đi về phía Nam. Đoạn đường này về sau phóng viên Ngy Thanh của báo Sóng Thần khi làm phóng sự đã gọi là “Đại Lộ Kinh Hoàng”. Thành ngữ này đã ghi đậm vào ký ức của người dân miền Nam lúc đó.

Qua khỏi cầu Mỹ Chánh, tình hình an toàn hơn vì có một lữ đoàn Thủy quân Lục chiến trấn giữ nơi đây. Tuấn đi thẳng về Huế, tìm tới địa chỉ mà Ngọc đã đưa. Người nhà cho biết không có tin tức gì của gia đình Ngọc, không biết họ đang ở đâu. Trong lòng Tuấn dấy nên một nỗi lo sợ, không biết gia đình Ngọc có bị trúng đạn pháo kích trên đường chạy loạn không. Biết đâu trong số xác những người nằm trên Quốc lộ 1 có gia đình của Ngọc? Lòng Tuấn rối bời, không biết phải làm sao.

“Ba tới lâu chưa?” Tiếng của Lan làm Tuấn giật mình. Quay lại nhìn Lan, tuấn đáp: “Ba mới vừa tới, anh Vũ đâu con?” Lan đáp: “Dạ ảnh đang đứng ở gần chỗ Student Union, để con dẫn ba tới.” Tuấn đưa bó hoa cho Lan cầm, “Con giữ đi, chút nữa cuối lễ đưa cho anh.” Sáng này Lan đã đi cùng anh tới trường trước. Lan vừa học hết năm thứ hai tại trường đại học UC Irvine. Lan học ngành Biology (Sinh học). Ước muốn của Lan là sau khi tốt nghiệp cử nhân sẽ nộp đơn vào ngành y. Còn Vũ thì tốt nghiệp ngành Computer Science (Khoa Học Vi Tính).

Tuấn đi theo Lan về phía tòa nhà có hàng chữ “Student Union”. Tòa nhà này dành cho các sinh hoạt của sinh viên ngoài giờ học. Trong đó có  cafeteria bán thức ăn (giống như căn-tin ở Việt Nam), có phòng hội họp, hội trường, phòng chơi game. Hôm nay không phải ngày học nên tòa nhà đóng cửa. Vũ và một số bạn bè mặc áo thụng, đội nón chóp vuông đang đứng trên bậc tam cấp chụp hình. Tuấn bước tới, choàng vòng hoa vào cổ Vũ. Vũ ôm Tuấn, nói: “Cám ơn ba.” Tuấn vỗ vai Vũ: “Bữa nay chắc mẹ vui lắm.” Vũ nhìn Tuấn, chưa kịp nói gì thì tiếng loa vang lên, yêu cầu các sinh viên đến địa điểm tập trung để chuẩn bị tiến về khán đài. Vũ vội chào ba rồi đi theo đám bạn.

Tuấn và Lan đi tìm chỗ ngồi. Trên sân cỏ đã sắp sẵn hàng ngàn chiếc ghế, chia ra thành nhiều khu vực. Khu vực gần khán đài dành riêng cho các khách mời, giáo sư và sinh viên. Thân nhân và bạn hữu thì ngồi xa hơn phía sau. Tuấn và Lan may mắn tìm được chỗ ngồi gần lối sinh viên sẽ đi qua. Tuấn định bụng sẽ chụp mấy tấm hình lúc Vũ đi ngang. Số người đi dự quá đông nên nhiều người không có chỗ ngồi, phải đứng đàng sau. Tiếng loa vang vang, tuyên bố buổi lễ bắt đầu, một điệu nhạc vui tươi nổi lên. Đoàn người bắt đầu tiến về phía khán đài. Đi đầu là ban giám hiệu, đến các giáo sư, rồi đến các sinh viên. Đoàn người đông đến gần cả ngàn. Trường có vài chục ngàn học sinh theo học. Mỗi năm số sinh viên ra trường đến vài ngàn, vì vậy mà lễ tốt nghiệp của mỗi ngành phải chia ra nhiều giờ và ngày khác nhau.

Tuấn ở Huế được mấy ngày thì nghe tin trung tướng Ngô Quang Trưởng được bổ nhiệm làm tư lệnh Quân Đoàn I thay thế tướng Hoàng Xuân Lãm. Quân Đoàn I có nhiệm vụ trấn giữ Vùng 1 chiến thuật, bao gồm các tỉnh Quảng Trị, Thừa Thiên, Quảng Nam, Quảng Tín và Quãng Ngãi. Điều đó có nghĩa là tướng Trưởng sẽ là người có trách nhiệm điều quân đánh chiếm lại Quảng Trị.

Lệnh ban ra: tất cả binh sĩ đang ở Huế phải lập tức trình diện để được tái phối trí. Sư đoàn 3 của Tuấn là đơn vị trực thuộc Quân đoàn I, nhưng vì binh sĩ đã bị phân tán nên phải rút về Đà Nẵng để tổ chức lại. Tuấn không đi theo sư đoàn mà ở lại Huế trình diện và được bổ sung vào một đơn vị tại chỗ, chuẩn bị tham gia vào cuộc chiến tái chiếm lại Quảng Trị.

Ngày 28 tháng 6, 1972, Quân lực Việt Nam Cộng hòa bắt đầu cuộc Hành Quân Lam Sơn 72 tái chiếm lại Quảng Trị với các đơn vị chủ lực của Thủy Quân Lục Chiến và Biệt Kích Dù. Quân Cộng Sản cũng quyết tâm giữ Quảng Trị nên đã điều động nhiều sư đoàn bộ đội vượt sông Bến Hải sang tăng viện. Cuộc chiến ác liệt kéo dài 81 ngày đêm. Đến ngày 16 tháng 9, quân Cộng Hòa chiếm lại được cổ thành Quảng Trị. Kể từ trận chiến Tết Mậu Thân 1968 đến nay, đây là trận chiến ác liệt nhất, với con số thương vong mỗi bên hàng chục ngàn binh sĩ, chưa tính tới thường dân. Tuy chiếm lại được cổ thành Quảng Trị, nhưng vùng đất bên kia sông Thạch Hãn trở ra sông Bến Hải vẫn do phe Cộng Sản chiếm giữ.

Còn về phần tướng Vũ Văn Giai, ông ta bị cách chức Tư lệnh Sư đoàn 3 và bị đưa ra tòa án binh vì tội để mất Quảng Trị. Lẽ ra nếu tướng Giai cố gắng tổ chức phòng thủ cổ thành Quảng Trị thì có thể giữ được, nhưng ông ta đã vội vàng cho lệnh rút quân, dù có lệnh của Quân Đoàn I là phải cố thủ Quảng Trị. Khi tuyên bố rút khỏi Quảng Trị, ông ta đã hứa với thuộc cấp là sẽ cùng anh em binh sĩ đi đường bộ, nhưng rốt cuộc ông ta cùng bộ tư lệnh sư đoàn lên trực thăng bay thẳng về Đà Nẵng, khiến đoàn quân rút lui như rắn mắt đầu, hứng chịu thảm cảnh trên Quốc Lộ 1. Tướng Giai bị lãnh án 5 năm tù.

Giữa lúc này, có tin đồn Hoa Kỳ sắp rút hết quân khỏi Việt Nam. Người Mỹ đã mệt mỏi vì cuộc chiến. Dân Mỹ đã chán ngán chiến tranh và không muốn con em của mình phải chết trên một đất nước xa lạ. Kể từ năm 1970, quân đội Hoa Kỳ đã bắt đầu rút bớt quân khỏi Việt Nam. Cho đến cuối năm 1972, số lính Mỹ chỉ còn lại khoảng gần 30 ngàn người. Trong cuộc Hành Quân Lam Sơn, Hoa Kỳ chỉ yểm trợ pháo binh và không quân, các cuộc chiến trực tiếp trên bộ đều do các đơn vị của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đảm trách. Lý do người Mỹ chưa thể rút hết quân khỏi Việt Nam là vì còn mấy trăm tù binh Mỹ đang bị giam giữ ở miền Bắc. Những người này là các phi công lái máy bay ném bom bị bắn rơi. Người Mỹ muốn ký một thỏa hiệp với Cộng Sản miền Bắc để họ trao trả tù binh, đổi lại Mỹ sẽ rút hết quân khỏi miền Nam.

Chiến dịch chấm dứt, Tuấn trở lại Huế thì được người nhà của Ngọc cho hay gia đình Ngọc đã đi thắng đến Đà Nẵng trong cuộc di tản. Tuấn vội vàng xin cấp trên cho trở về Sư đoàn 3 đang đóng ở Đà Nẵng. Cấp trên đồng ý, vậy là Tuấn đi ngay tới Đà Nẵng. Tuy biết là gia đình Ngọc về được Đà Nẵng, nhưng Tuấn không biết có ai nằm lại trên đường không, vì vậy mà trên đường đi Tuấn luôn thấy bồn chồn lo lắng.

Lần theo địa chỉ, Tuấn tới trước một căn nhà trong hẻm, bấm chuông. Trong nhà thấp thoáng một người con gái đi ra, dáng dấp quen thuộc. Trong lòng Tuấn hồi hộp. Cửa mở, Ngọc xuất hiện, nhìn Tuấn ngỡ ngàng. Vẫn dáng dấp yêu kiều ấy, vẫn mái tóc dài tha thướt, nhưng Ngọc gầy và trông mệt mỏi. Nàng như cánh hoa đang bị cơn gió lốc chiến tranh cuốn đi. Tuấn thấy lòng dâng lên một niềm thương yêu không bờ bến. Chàng muốn ôm ghì nàng vào lòng, nhưng không dám. Tuấn thu hết can đảm, nắm lấy tay Ngọc. Bàn tay thon nhỏ, ấm mềm của Ngọc nằm gọn trong lòng bàn tay sắt thép của người lính trận vừa trở về từ vùng máu lửa. Bốn mắt nhìn nhau, chan chứa ân tình. Khóe mắt của Ngọc long lanh giọt lệ.

Trước khi chiến sự xảy ra, Ngọc chỉ còn mấy tháng nữa là hoàn tất trung học, nhưng đành phải bỏ dở. Thời chiến tranh, học đến lớp 12 đã là một cố gắng vượt bực rồi, nay còn phải phụ giúp gia đình ổn định lại cuộc sống và giúp các em đi học trở lại, Ngọc đành thôi học. Mấy tháng sau, vào đầu năm 1973, Tuấn và Ngọc thành hôn. Ba má Tuấn từ Sài Gòn đáp máy bay của hãng hàng không Air Vietnam ra Đà Nẵng dự đám cưới.

Lúc này một sự kiện chính trị quan trọng xảy ra: Hiệp Định Hòa Bình Paris (Paris Peace Accords). Theo hiệp định này thì Hoa Kỳ đồng ý rút hết quân khỏi Việt Nam, đổi lại, phía Cộng Sản trao trả hết tù binh Hoa Kỳ và cam kết không dùng vũ lực để tấn công miền Nam. Tháng Ba năm đó, người lính Mỹ cuối cùng rời khỏi Việt Nam. Tuy gọi là hiệp định hòa bình, nhưng nó không đem lại hòa bình như tên gọi. Phía Cộng Sản không bao giờ ngừng tấn công, cuộc chiến vẫn tiếp diễn. Với việc rút quân của người Mỹ, cuộc chiến giờ đây chính thức là cuộc nội chiến giữa hai miền Nam-Bắc.

Hè năm 1974, con trai đầu lòng là Vũ ra đời. Thời gian này cuộc sống của hai vợ chồng Tuấn tạm thời bình yên. Ngoài những chuyến công vụ, Tuấn không phải rời xa Ngọc.

Cho tới đầu năm 1975, một cơn bão thời cuộc lại nổi lên, và lẩn này nó đảo lộn tất cả.

Tuấn và Lan dõi mắt nhìn đoàn người đi qua, cố tìm Vũ. Khi thấy Vũ trong đoàn người, Tuấn đưa máy ảnh lên, bấm liên tiếp mấy cái. Vũ nhìn thấy ba và em, tươi cười vẫy tay. Đoàn người lần lượt đến các dãy ghế, ngồi theo thứ tự được sắp đặt trước. Sau khi tất cả đã ngồi vào ghế, các nghi thức bắt đầu. Đầu tiên là một nhóm các em Boy Scouts (Hướng Đạo Sinh) rước lá cờ Hoa Kỳ lên khán đài. Sau khi cắm cây cờ vào giá, lễ chào quốc kỳ và hát quốc ca bắt đầu. Không giống như nhiều nước khác, quốc ca Hoa Kỳ chỉ do một người hát. Ai muốn thì cứ hát theo, nhưng chỉ có một người cầm microphone hát đơn ca là chính.

Sau nghi thức chào cờ là phần phát biểu của thầy hiệu trưởng, một vài giáo chức và khách mời danh dự. Các bài diễn văn thường rất ngắn, chỉ chừng 3-5 phút. Người Mỹ rất thực tế, họ biết thừa rằng ít ai muốn nghe những bài diễn văn dài lê thê. Diễn văn càng dài thì khán giả càng ít muốn nghe, vì vậy ai cũng phát biểu ngắn gọn. Tiếp đó là phần phát biểu của sinh viên thủ khoa và một vài sinh viên có thành tích hoạt động nổi bật. Rồi đến phần phát bằng ban khen cho một số giáo sư và sinh viên. Cuối cùng là phần xướng danh các sinh viên và từng người sẽ lần được bước lên khán đài để được bắt tay, chụp hình và trao một tấm giấy tượng trưng cho bằng tốt nghiệp. Đây là phần chính của buổi lễ, là giây phút mong đợi của tất cả các sinh viên.

Đầu tháng 3, 1975, quân Cộng Sản mở chiến dịch tấn công Tây Nguyên và Huế-Đà Nẵng. Chiến cuộc lần này cũng quy mô và ác liệt không kém cuộc chiến năm 1972. Ngọc và gia đình lại một lần nữa phải chạy trốn chiến tranh. Gia đình di tản về Sài Gòn. Tuấn ở lại cùng đơn vị chiến đấu. Đến ngày 29 tháng 3 thì Đà Nẵng rơi vào tay quân Cộng Sản. Tuấn cùng đơn vị rút về Sài Gòn.

Người dân Sài Gòn lúc này sống trong hoảng loạn, lo sợ. Những ai có phương tiện rời Việt Nam được thì họ bắt đầu nhốn nháo thu xếp để ra đi. Người Mỹ bắt đầu di tản những ai trước kia đã từng làm việc với quân đội Mỹ, họ sợ những người này ở lại sẽ gặp nguy hiểm nếu quân Cộng Sản chiếm được Sài Gòn. Chính cuộc di tản này đã gây thêm tâm trạng hoang mang trong dân chúng. Tình hình biến chuyển xấu đi rất nhanh. Ngày 21 tháng 4, tổng thống Nguyễn Văn Thiệu từ chức, trao quyền lại cho phó tổng thống Trần Văn Hương. Bảy ngày sau, Trần Văn Hương từ chức, trao quyền lại cho đại tướng Dương Văn Minh. Những ngày này, dân chúng tìm mọt cách để rời khỏi Việt Nam. Trước cổng tòa đại sứ Mỹ tràn ngập người muốn vào để được trực thăng di chuyển ra Đệ thất Hạm đội ngoài khơi Thái Bình Dương. Nhiều người không thuộc diện được Hoa Kỳ chọn lựa nhưng họ vẫn chen lấn, cố vào cho được tòa đại sứ, vì họ biết rằng một khi vào được bên trong thì sẽ được bốc đi. Người Mỹ không bỏ rơi bất cứ ai đang ở trong tầm tay của họ. Bến Bạch Đằng cũng tràn ngập người chen nhau lên các con tàu. Nhiều người chạy xuống tận Vũng Tàu tìm ghe đi.

Hai ngày sau, Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng, yêu cầu quân lực Việt Nam Cộng Hòa buông vũ khí. Đó là ngày định mệnh 30 tháng 4, 1975.

Lời tuyên bố đầu hàng của Dương Văn Minh làm Tuấn và các đồng đội bàng hoàng. Nhiều người gục đầu xuống khóc. Chỉ mới hai tháng trước đây, không ai nghĩ rằng chế độ Việt Nam Cộng Hòa có thể sụp đổ nhanh chóng như vậy. Quân đội còn đó, vũ khí còn đó, lòng dân còn đang mong mỏi quân đội lật ngược tình thế, nhưng giới lãnh đạo lại hèn nhát, người thì từ chức, bỏ chạy, kẻ thì vội vàng tuyên bố đầu hàng. Cho tới giờ phút đó, chưa một đơn vị nào của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa phất cở trắng, kể cả những đơn vị bị vây khốn nguy cấp, mà kẻ lãnh đạo cao nhất đã tuyên bố đầu hàng! Một vài đồng đội của Tuấn đã tự sát vì không muốn sống trong sự nhục nhã. Tuấn không đủ can đảm tự sát vì chàng không muốn Ngọc và đứa con trai của mình phải sống bơ vơ. Chàng cởi bỏ quân phục, trở về cùng Ngọc.

Những ngày sau đó, Tuấn hỏi dò tin tức của các bạn đồng đội, có người bỏ về quê, có người đã di tản ra Đệ Thất Hạm Đội của Hoa Kỳ ở ngoài khơi Thái Bình Dương. Đau xót nhất là tin tức về những sĩ quan, binh lính đã tự sát, trong đó có năm vị tướng: Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam, Thiếu Tướng Phạm Văn Phú, Thiếu Tướng Lê Văn Hưng, Chuẩn Tướng Trần Văn Hai va Chuẩn Tướng Lê Nguyên Vỹ. Ngoài ra còn nhiều sĩ quan cấp tá, cấp úy, hạ sĩ quan và binh lính, không thể kể hết.

Các sinh viên lần lượt xếp hàng hai bên hông khán đài. Khi được xướng danh, từng người bước lên sân khấu, bắt tay hiệu trường, giáo sư trưởng khoa, và một vài giáo chức khác, rồi nhận tấm giấy cuốn tròn, tượng trưng cho bằng tốt nghiệp (bằng tốt nghiệp chính thức sẽ được gởi về nhà sau). Tuấn mở tập sách nhỏ được phát cho mọi người dự lễ, trong sách này có in chương trình lễ và danh sách các sinh viên được xướng danh theo thứ tự. Vừa nghe xướng danh, vừa rà danh sách để xem khi nào đến lượt Vũ.

Khi đến lượt Vũ bước lên khán đài, Tuấn giơ máy ảnh lên chụp. Chụp cho có lệ, chứ ở khoảng cách xa như vậy, khi lên hình khó nhận ra mặt mũi ai. Nhà trường có thuê một công ty chụp hình, có các thợ đứng gần sân khấu chụp từng người. Mỗi sinh viên khi nhận bằng chính thức sẽ được nhận kèm một tấm hình lúc đứng trên khán đài.

Sau khi tất cả các sinh viên đã được xướng danh, một giáo chức lên đọc bài diễn văn bế mạc. Sau bài diễn văn, vị hiệu trưởng long trọng tuyên bố: các sinh viên giờ có thể gạt cái tua trên mũ từ bên phải qua bên trái. Đây là nghi thức đánh dấu giây phút các sinh viên đã chính thức tốt nghiệp.

Màn cuối cùng, cũng là màn vui nhất, là các sinh viên cởi mũ tung lên trời. Tiếng reo hò, vỗ tay vang dậy. Tung mũ xong, mạnh ai nấy chạy đi tìm nhặt lại, nhiều người lẫn lộn mũ của nhau, không khí vui nhộn. Rồi nhạc nổi lên, đoàn sinh viên lần lượt rời ghế, xếp hàng đi ngược hướng lúc nãy. Khi các sinh viên đã rời khu vực hành lễ, mọi người đứng dậy, đi tìm con em của mình.

Sau ngày 30 tháng 4, Tuấn hạn chế ra đường, chỉ ở nhà với Ngọc. Mở TV lên coi thấy cảnh bộ đội được dân chúng Sài Gòn chào đón với những bó hoa và khuôn mặt hớn hở, Tuấn biết đó là những cảnh được dàn dựng. Nhưng Tuấn không quan tâm mấy đến điều này, điều Tuấn quan tâm là: chính quyền mới sẽ đối xử ra sao với những quân nhân như Tuấn?

Mấy tuần sau, có thông báo của chính quyền mới tuyên bố khoan hồng cho những quân nhân của chế độ “ngụy quyền”—danh từ họ dùng để gọi chế độ cũ. Họ kêu gọi những binh lính và sĩ quan cấp thấp ra trình diện để được “học tập cải tạo tư tưởng”. Một số người ra trình diện, nhiều người lo sợ vẫn trốn tránh. Những người này được tập trung học tập trong vài ngày rồi ra về. Sau đó, chính quyền lại kêu gọi những người chưa được học tập phải ra trình diện. Lần này số người ra trình diện đông hơn, cũng được học tập rồi về. Đến giữa tháng Sáu, có lệnh tất cả các sĩ quan từ cấp úy trở lên đều phải trình diện và đem theo vật dụng “đủ dùng trong 10 ngày”. Tuấn ra trình diện. Đúng lúc đó, Ngọc có dấu hiệu mang thai.

Lần này, số người ra trình diện rất đông, vì ai cũng nghĩ, đi học tập 10 ngày thì không có gì phải trốn tránh. Nhưng có ai ngờ đâu, đó là một cái bẫy. Chính quyền chỉ dặn đem đồ đủ dùng 10 ngày, chứ không hề nói là đi học tập 10 ngày. Hàng trăm ngàn người bị lùa vào các trại tập trung, vài tháng sau chuyển ra Bắc trong nhiều đợt. Những người tù cải tạo bị lùa xuống tàu, nhốt dưới hầm như nhốt súc vật, một số người chết ngộp trong hầm. Đến Hải Phòng, họ bị nhét vào các toa xe lửa, loại toa không có ghế ngồi thường dùng để chở hàng hóa hay súc vật, tiếp tục di chuyển. Đích đến là vùng đồi núi Hoàng Liên Sơn lạnh lẽo heo hút.

Ấn tượng đầu tiên của Tuấn khi đặt chân lên miền Bắc là quang cảnh khốn khó, nghèo nàn, không như miền Nam trù phú, sung túc. Tuấn chợt thấy một cảm giác chua xót. Xưa nay trong lịch sử, người giàu có sung túc mới đi giải phóng kẻ nghèo khổ, chứ có bao giờ kẻ nghèo khổ lại đi “giải phóng” người giàu có bao giờ. Càng nghĩ, Tuấn càng cảm thấy buồn, điều đó có nghĩa là miền Nam rồi đây cũng sẽ rơi vào cảnh nghèo khổ như miền Bắc.

Khi tới phà Ô Lâu để qua Yên Bái thì mọi người xuống tàu để qua phà. Một đám đông dân chúng đứng chờ sẵn. Họ ném đá vào đoàn người tù và chửi bới: “Quân Mỹ-Ngụy ăn thịt người.” Tuy không ai bị thương nhưng sự việc này gây tác động tâm lý rất nặng cho đoàn tù. Về sau khi vào các trại cải tạo, nói chuyện với nhiều người, Tuấn mới biết hầu như ai cũng trải qua cảnh đó. Trong những lần hiếm hoi tiếp xúc với người dân miền Bắc, Tuấn được biết rằng người miền Bắc luôn được tuyên truyền rằng người miền Nam sống khổ cực dưới sự kềm kẹp của Mỹ-Ngụy, rằng quân Mỹ-Ngụy tàn ác lắm, ăn cả thịt người. Tuấn đoán rằng đó nguyên nhân của các cuộc ném đá. Tuy nhiên, sự việc này xảy ra cho hầu hết những chuyến xe chở tù cải tạo khiến Tuấn không thể cho đó là sự ngẫu nhiên, mà chắc nó phải có sự sắp đặt của chính quyền. Đây có lẽ là một cách để phủ đầu bọn tù cải tạo, cho họ biết rằng từ đây họ chỉ là những tên tội phạm, và đã là tội phạm thì không được đối xử như con người.

Những năm tháng tù đày trong các trại cải tạo trên vùng rừng núi Hoàng Liên Sơn, ăn uống thiếu thốn, lao động cực nhọc. Hàng ngày bọn Tuấn phải đi làm các công việc đồng áng hoặc lên rừng chặt cây, tối về bị nhốt vào các căn nhà trại chật chội, hôi thối. Mặc dù làm việc đồng áng quanh năm, nhưng hoa màu thu hoạch được phần lớn chở đi đâu hết, người tù chỉ ăn toàn khoai sắn, chỉ những ngày lễ, tết mới được ăn cơm, cái đói luôn dày vò. Nhiều người tự “cải thiện” bẳng cách dấu diếm những củ khoai, củ sắn hoặc ếch, nhái, rắn bắt được trong lúc đi lao động để đem vể trại lén nấu ăn. Nhưng khi về trại bị khám xét, nếu bị bắt được thì họ sẽ bị cán bộ đánh bằng báng súng. Trong trại hầu như không có thuốc men gì. Ai bị bệnh chỉ được phát cho một loại thuốc duy nhất: xuyên tâm liên. Ngoại trừ những người bị bệnh nằm liệt không đi được, ai bệnh mà còn đi được thì vẫn phải đi lao động. Nhiều người tù đã gục ngã, bỏ xác nơi vùng rừng núi Hoàng Liên Sơn. Thỉnh thoảng có người trốn trại, nếu bị bắt lại thì hoặc là bị xử tử, hoặc là bị đánh bằng báng súng đến ngất xỉu rồi bị giam vào hầm đá.

Trong những năm tháng đen tối đó, tình yêu của của Ngọc là nguồn động lực giúp Tuấn vượt qua tất cả. Những lá thư, những gói quà của Ngọc chắt chiu gởi từ miền Nam ra, là minh chứng cho lòng chung thủy và tình yêu của nàng. Ngọc đã hạ sinh Lan, đứa con gái mà Tuấn chưa hề được gặp mặt. Sau bốn năm ở trong trại, một ngày nọ Tuấn được thông báo: có người ra thăm nuôi. Tuấn đoán ngay đó là Ngọc.

Tuấn và Lan rời ghế, đi tìm Vũ. Đang loanh quanh giữa đám đông thì có người vỗ vai, Tuấn quay lại nhìn thì thấy Hiệp, một người bạn lớn tuổi hơn Tuấn. Anh ta hỏi: “Con mày học ở đây à?” Tuấn gật đầu: “Ừ, hôm nay cháu nó tốt nghiệp. Còn anh, cũng có con học ở đây à?” Hiệp lắc đầu: “Không, hôm tay tao đi vì đứa cháu.”

Hiệp và Tuấn quen nhau trong trại cải tạo. Câu chuyện của Hiệp cũng khá ly kỳ. Hiệp là sĩ quan hải quân. Vào những ngày Sài Gòn đang hấp hối, Hiệp đang ở trên chiến hạm gần đảo Phú Quốc. Khi nghe tin Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng, người hạm trưởng ra lệnh cho tàu chạy thẳng ra phía Đệ Thất Hạm Đội Hoa Kỳ ở Thái Bình Dương. Hải quân Hoa Kỳ đã hướng dẫn tàu đi đến đảo Guam, nơi có căn cứ quân sự của Hoa Kỳ. Trên đảo lúc này có hàng trăm ngàn người Việt đã được di tản đến đây. Trong những tháng kế tiếp, phần lớn những người này đã được đưa vào Hoa Kỳ định cư, duy còn lại hơn một ngàn người không chịu đi mà muốn quay lại Việt Nam, trong số đó có Hiệp. Mặc cho các đồng hương và các sĩ quan Hoa Kỳ cố gắng thuyết phục, những người này nhất quyết quay về. Nhiều người trong số họ đã ra đi bất đắc dĩ, như trường hợp của Hiệp, vợ con của họ còn bị kẹt lại ở Việt Nam nên họ muốn quay về, bất kể số phận sẽ ra sao.

Cao Ủy Tị Nạn Liên Hiệp Quốc đã phải đứng ra dàn xếp cho chuyến hồi hương này. Họ liên lạc với chính quyền Cộng Sản Việt Nam nhưng không nhận được câu trả lời dứt khoát, trong khi đó những người muốn hồi hương thì biểu tình, tuyệt thực, đòi về gấp. Cuối cùng hải quân Hoa Kỳ phải sắp xếp cho họ quay về trên chiếc tàu Việt Nam Thương Tín. Đây là chiếc tàu sắt vận tải lớn đã chở hơn 600 người Việt di tản vào ngày 30 tháng Tư từ Sài Gòn đến đảo Guam. Tàu được sữa chữa và trang bị các tiện nghi đầy đủ cho đoàn người hồi hương. Tàu cũng được cung cấp lương thực và nhiên liệu dư thừa, để trong trường hợp những người hồi hương đổi ý thì họ có thể quay trở lại Guam. Trung Tá Hải Quân Trần Đình Trụ được chỉ định làm thuyền trưởng. Tàu rời Guam ngày 16 tháng 10, 1975, đem theo hơn 1600 người, trong đó có nhiều sĩ quan Việt Nam Cộng Hòa.

Lần đầu tiên gặp lại Ngọc sau 4 năm xa cách, Tuấn cố giữ vẻ mặt bình tĩnh. Chàng không muốn Ngọc lo nghĩ nhiều về mình. Khi đối diện với Ngọc, Tuấn không kềm được nỗi niềm thương xót. Ngọc vẫn đẹp như xưa, nhưng nhan sắc giờ phảng phất một màn sương u tối. Mái tóc dài giờ đã cắt ngắn, môi như cánh hồng phai, mắt đượm vẻ buồn. Phần Tuấn, chàng trai trẻ lính chiến dạn dày sương gió xưa kia giờ là một tên tù gầy gò, má hóp, mắt trũng sâu, da thâm đen. Cũng như lần gặp gỡ trước ở Đà Nẵng, tay trong tay, bốn mắt nhìn nhau, nhưng lần này trong lòng hai người là những cơn bão, nước mắt muốn tràn mi nhưng bị kềm giữ. Trước những đôi mắt dò xét của các cán bộ trại, Tuấn không muốn bộc lộ cảm xúc của mình.

Cuộc gặp gỡ diễn ra vài giờ trong phòng thăm nuôi, có sự hiện diện của cán bộ. Hai người chỉ thầm thì trao đổi, không dám nói những điều nhạy cảm, cấm kỵ. Ngọc chỉ đi một mình vì hai con còn nhỏ. Khi chia tay, Tuấn nói với Ngọc: “Em ra thăm anh lần này là đủ rồi, không cần đi thăm nữa đâu. Em cứ ở nhà lo cho con là anh vui rồi.”

Năm 1981, Tuấn được thả về sau 6 năm bị giam giữ.

Ngày đoàn tụ gia đình, lòng Tuấn vui buồn lẫn lộn. Vui vì được về với gia đình, buồn vì thời thế đổi thay. Tuấn giờ đây thành một tên “ngụy” bị chính quyền mới coi như một công dân hạng bét. Không những vậy, các con của Tuấn, cũng như con cái của hàng triệu quân nhân của chế độ cũ, bị đối xử phân biệt. Cái lý lịch “gia đình ngụy” không bao giờ gột rửa được.

Tuấn đã từng đọc lịch sử Hoa Kỳ, biết rằng sau năm 1865, khi cuộc nội chiến Nam-Bắc chấm dứt, chính quyền Hoa Kỳ đã áp dụng chính sách hòa giải dân tộc. Không có những trại tù cải tạo, không phân biệt đối xử với gia đình, con cái những người trong quân đội miền Nam, không có những từ ngữ khinh miệt, gọi chế độ cũ là “ngụy”. Chỉ trong vòng một thập niên, nước Mỹ gần như xóa bỏ mọi vết tích chiến tranh, dân tộc đoàn kết, đất nước phát triển.

Điều làm Tuấn lo sợ hơn hết là các thế hệ thanh thiếu niên bị nhồi nhét vào đầu những điều dối trá, sai lệch về chế độ cũ, về những gì cha anh họ đã chiến đấu để bảo vệ. Tuấn đã được xem phim “Mùa Gió Chướng”, một cuốn phim được sản xuất sau năm 1975. Cuốn phim này hoàn toàn xuyên tạc hình ảnh người lính Việt Nam Cộng Hòa và chế độ miền Nam cũ. Trong phim còn có cảnh một cán bộ nằm vùng Cộng Sản bị chính quyền miền Nam bắt và chôn sống, một điều không hề xảy ra trong chế độ cũ. Đối với Tuấn, con đường duy nhất mà Tuấn phải chọn lựa cho cá nhân và gia đình là vượt biên, thoát khỏi chế độ này.

Khi chiếc tàu Việt Nam Thương Tín về đến Vũng Tàu thì nó không được cập bến mà phải neo đậu ngoài khơi. Hôm sau, chính quyền ra lệnh cho tàu hướng về phía Nha Trang. Khi cập bến ở Nha Trang, tất cả mọi người sau khi bị khám xét và tịch thu gần hết đồ đạt, bị đưa thẳng vào nơi giam giữ. Sau đó họ bị thẩm vấn liên tục trong nhiều tháng. Nhiều người đã hối hận vì quyết định sai lầm của mình. Vài tháng sau họ được phân chia ra từng nhóm. Một số phụ nữ và trẻ em được thả về, một số bị đưa vào các trại giam. Khoảng một phần ba trong số họ là sĩ quan Việt Nam Cộng Hòa, số này đã bị đưa vào các trại cải tạo. Đa số bị giam từ 5 đến 10 năm. Trung Tá Trần Đình Trụ bị giam 13 năm. Hiệp bị giam cùng trại với Tuấn.

Có lần Tuấn hỏi Hiệp: “Anh đã tới đảo Guam rồi, sao không đi Mỹ phứt đi, nghĩ sao mà lại đòi quay về?” Hiệp trầm ngâm nói: “Lúc đó vợ con tao còn ở Việt Nam, không biết sống chết ra sao, tao không nỡ bỏ đi. Vả lại tao nghĩ, cùng là người Việt với nhau, hết chiến tranh rồi, còn gì nữa mà thù hận nhau. Tao có ngờ đâu là có những trại cải tạo như vầy.” Tuấn vỗ vai Hiệp, nói: “Không phải chỉ có mình anh, mà có cả triệu người đã lầm.”

Phong trào vượt biên lúc đó đang rầm rộ ở miền Nam. Ai có tiền bạc, phương tiện đều tìm cách ra đi. Tuấn không có tiền để đi, chàng đang cố nghĩ cách thì nhận được tin Hiệp được ra trại. Là cựu sĩ quan hải quân, những người như Hiệp thường được các nhóm tổ chức vượt biên cho đi miễn phí vì họ cần người có kinh nghiệm đi biển để hướng dẫn tàu. Tuấn rủ Hiệp, cùng liên lạc với một nhóm tổ chức. Tuấn phải liên lạc, móc nối với những người muốn đi, chịu đóng góp vàng cho đủ số lượng yêu cầu. Hè năm 1982, Tuấn và Ngọc dắt hai con xuống tàu vượt biên cùng với gia đình Hiệp. Hiệp được chỉ định làm thuyền trưởng.

Tàu chở gẩn trăm người, đi từ Bến Tre, xuôi dòng ra cửa biển, chạy thẳng ra hài phận quốc tế rồi nhắm hướng Nam. Mục tiêu của tàu là đến Indonesia hay Malaysia. Nếu không có gì trở ngại thì khoảng 2-3 ngày sẽ đến nơi. Nhưng chạy được hơn một ngày đêm thì tàu chết máy, lênh đênh giữa đại dương.

Trong mấy ngày lênh đênh đó, thỉnh thoảng có những chiếc tàu hàng khổng lồ chạy xa xa. Bọn Tuấn ra sức vẫy, đốt lửa báo hiệu, nhưng họ vẫn chạy thẳng. Có thể họ không thấy, hoặc cũng có thể họ biết là tàu vượt biên nên lờ đi vì không muốn cưu mang. Sang đến ngày thứ ba, một chiếc tàu đánh cá giương cờ Thái Lan chạy tới. Mọi người trên tàu hồi hộp, không biết lành dữ ra sao. Ai cũng đã từng nghe kể những câu chuyện người vượt biên bị tàu đánh cá Thái Lan cướp, hãm hiếp và giết chết. Ngược lại, cũng có những người may mắn được tàu Thái Lan giúp đỡ.

Chiếc tàu Thái lượn một vòng như dò xét. Trên tàu lô nhô những thanh niên cởi trần, da ngăm đen, đầu quấn khăn rẳn, miệng cười nham nhở. Một số tên cầm mã tấu, một tên cầm súng trường. Mọi người bắt đầu lo sợ. Phụ nữ vội vã trốn xuống hầm tàu, họ lấy dầu máy bôi vào mặt cho dơ dáy, xấu xí đi. Chiếc tàu Thái cặp sát, một nhóm người nhày sang, lăm lăm mã tấu và súng. Chúng ra hiệu cho đàn ông đứng sang một phía, trẻ em và phụ nữ một phía, rồi bắt đầu lục soát tìm vàng bạc. Sau khi thu gom được một số vàng, chúng lôi gần chục người phu nữ sang tàu chúng, trong số đó có Ngọc.

Trò chuyện với Hiệp vài câu, rồi Tuấn và Lan lại đi tìm Vũ. Thấy Vũ đứng túm tụm với đám bạn để chụp hình, Lan bước tới, trao bó hoa cho Vũ, rồi mấy cha con cùng chụp hình. Nhìn Vũ hân hoan vui sướng, Tuấn thấy lòng mình cũng vui lây. Mười lăm năm từ ngày đặt chân tới Mỹ, Tuấn đã trông đợi giây phút này. Bao nhiêu tháng năm vất vả làm lụng nuôi con, hôm nay là ngày Tuấn mãn nguyện nhất.

Đám bạn của Tuấn rủ nhau ra bars liên hoan. Thấy Vũ ngần ngừ, Tuấn hiểu ý, nói: “Con cứ đi chơi với bạn. Tối nay gia đình mình sẽ cùng chung vui với nhau sau.” Vũ cúi đầu nói: “Dạ con cám ơn ba.”

Tuấn nhìn bó hoa Vũ đang ôm trên tay, rồi chợt nói: “Cho ba rút một cành nhe!” Vũ chưa kịp trả lời thì Tuấn nói luôn: “Mẹ rất thích hoa Thạch Thảo, ba muốn dành một cành cho mẹ.” Vũ nhìn Tuấn, im lặng không nói gì. Tuấn nhẹ rút một cành hoa, rồi vỗ vai Vũ: “Thôi con đi chơi với bạn đi, chiều gặp lại.” Tuấn quay qua bảo Lan: “Con đi với anh cho vui đi. Ba về trước.” Lan dạ.

Tuấn đứng nhìn Ngọc bị lôi kéo kêu khóc mà đành bất lực. Mấy ngày lênh đênh trên biển, đói khát, say sóng, bao nhiêu sức lực tiêu hao hết. Trong tay lại không một tấc sắt, không thể chống lại bọn cầm mã tấu, súng trường. Một người đàn ông nóng lòng vì vợ mình bị lôi đi, xông lại giằng co, bị chúng chém một mã tấu gục tại chỗ.

Lôi các phụ nữ sang tàu mình xong, chúng rời xa một khoàng, neo lại, rồi bắt đầu giở trò thú tính. Tiếng kêu khóc, gào thét của những người phụ nữ làm mọi người trên tàu xé lòng. Độ vài giờ sau, lại có thêm mấy chiếc tàu Thái kéo đến nữa. Chúng dùng máy vô tuyến liên lạc để thông báo cho nhau. Những tên mới đến lại tiếp tục giở trò đồi bại. Tuấn ngồi gục đầu, ôm hai con, cố tìm cách bưng tai để không nghe những tiếng kêu khóc rền rĩ, nhưng không tài nào thoát được. Lòng Tuấn tan nát như mảnh giấy bị dao đâm rách toang.

Sau một ngày đêm, chúng ném trả những người phụ nữ sang tàu lại rồi bỏ đi. Trước khi đi chúng còn dùng tàu húc vào chiếc tàu vượt biên khốn khổ mấy lần, ý như muốn đánh chìm, nhưng may mắn tàu chỉ bị sứt mẻ một bên.

Ngọc nằm mê man trong tay Tuấn, thân xác rã rời, tan nát.

Chia tay hai con xong, Tuấn lững thững đi về hướng bãi đậu xe. Chợt Tuấn đổi ý, thay vì đi thẳng ra xe, lại đi lòng vòng, thơ thẩn dạo trong khuôn viên trường. Nhìn những tòa nhà đẹp đẽ uy nghi, Tuấn chạnh nhớ lại ước mơ thởi trẻ của mình. Hồi còn đi học, Tuấn ước ao sẽ được bước chân vào trường đại học, được ngồi trong giảng đường nghe các giáo sư giảng những kiến thức cao xa. Nhưng giấc mơ đó không bao giờ thành. Chiến tranh đã làm tan biến bao nhiêu ước vọng của cả một thế hệ thanh niên thời đó. Tuấn cũng như bao nhiêu người lúc đó, đã mong ước một ngày hòa bình, một ngày quê hương không còn tiếng súng. Rồi ngày hòa bình đó cũng tới. Nó tới một cách bất ngờ, hụt hẫng, không như cách người ta mong đợi. Thay vì hạnh phúc, hòa hợp,  nó đem lại bao điều cay đắng, chia rẽ.

Tuấn lái xe theo đường cũ quay về. Thoát khỏi cao tốc, Tuấn không về nhà mà chạy thẳng ra hướng biển. Tuấn theo đường Magnolia về hướng nam, chạy chửng 15 phút là tới biển. Tìm chỗ đậu xe xong, Tuấn cầm cành hoa, băng qua bãi cát trắng, rồi thong thả đi bộ dọc bờ biển.

Biển hôm nay trong xanh hiền hòa, sóng rì rầm. Tuấn tìm một đụn cát, ngồi xuống, nhìn ra xa xăm. Bên kia bờ đại dương là quê hương, nơi Tuấn và Ngọc đã rời bỏ để đi tìm tự do. Ngọc đã không đến được bờ bến nơi nàng mong muốn. Nàng đã nằm lại dưới lòng đại dương. Khi chiếc tàu hàng của Hoa Kỳ phát hiện ra tàu của Tuấn và ra tay cứu vớt thì Ngọc đã tắt thở. Nàng không chịu đựng được nỗi đau thân xác và sự ô nhục. Nàng và người đàn ông bị chém chết đã được thủy táng.

Đôi khi Tuấn tự hỏi lòng, nếu ngày đó Tuấn không dẫn gia đình đi vượt biên, chấp nhận ở lại sống với chế độ mới, thì sẽ ra sao? Ngọc sẽ sống, sẽ vẫn còn bên Tuấn. Nhưng đổi lại, các con Tuấn sẽ bị nhổi nhét những điều dối trá, sẽ học những bài học lịch sử bị bóp méo, xuyên tạc. Chúng sẽ hiểu sai lạc về chế độ miền Nam cũ, chế độ mà cha anh của chúng đã chiến đấu, hy sinh để bảo vệ, nhưng thất bại. Chúng sẽ luôn bị đối xử như những công dân hạng bét. Cái lý lịch con cái “ngụy” sẽ không bao giờ được bỏ qua. Thời phong kiến có luật tru di tam tộc, một người phạm tội cả ba họ bị hành hình. Dưới chế độ mới, dù không bị hành hình nhưng cái lý lịch ba đời nó đeo bám người ta suốt đời. Cái chết của Ngọc là cái giá phải trả để đánh đổi cho tương lai các con. Nếu không ra đi, các con Tuấn đã không có ngày hôm nay.

Tuấn đến sát mé nước, ngắt từng cánh hoa ném xuống biển. Hoa bập bềnh theo sóng trôi đi. Không biết những cánh hoa này có trôi được ra đại dương, về phía bờ bên kia, đến nơi Ngọc đang nằm lại không. Ngọc rất yêu hoa Thạch Thảo, những cánh hoa màu tím, giống như màu trời lúc hoàng hôn. Tuấn chợt nhớ bài hát “Mùa Thu Chết” của Phạm Duy, bài hát có nhắc đến hoa Thạch Thảo:

Ta ngắt đi một cụm hoa Thạch Thảo
Em nhớ cho: Mùa Thu đã chết rồi!

Em nhớ cho,
Đôi chúng ta sẽ chẳng còn nhìn nhau nữa!
Trên cõi đời này, trên cõi đời này
Từ nay mãi mãi không thấy nhau

Em nhớ cho, rằng ta vẫn chờ em
Vẫn chờ em, vẫn chờ em…

Tuấn cởi giày, lội xuống nước, vung tay ném cành hoa ra xa. Cành hoa dập dềnh một lát rồi trôi đi. Sóng biển mơn man dưới chân. Tuấn hơi cúi người, thì thầm với sóng: “Anh và em không còn thấy nhau trên cõi đời này nữa, nhưng anh vẫn chờ em. Anh chờ gặp lại em ở thế giới bên kia.”

(Hết)

***

Viết tặng những ai đã từng trải qua hành trình tìm tự do.
Xin thắp nén hương lòng cho những người đã nằm lại dưới lòng đại dương.
(Bản thân người viết cũng có người thân nằm lại.)

Tháng Tư, 2023
Vương Hoàng Minh

(blogger Người Vá Trời)

 

Thưa bà Marie Curie, bà ở đâu?

Tạp bút

Pierre & Marie Curie trong phòng thí nghiệm.

Bà luôn ở cùng chúng ta, vì trong đời sống này có ai mà không một lần đi chụp quang tuyến X? Đi chữa một cái răng đau, nhổ răng khôn. Đi chụp phổi, đi soi bao tử fribroscopie, hay đơn giản nhất là té ngã, cũng phải đi cà nhắc tới imagerie médicale rọi tia X-quang xem xương bị tổn thương ra làm sao. Đơn giản mà là vậy, bác sĩ đâu có chữa bệnh lơ mơ, phải thấy rõ, thì đó là chúng ta sống và nhiều lúc phải nương tựa vào những tìm kiếm và phát minh của bà, không có bài bản chụp quang tuyến cuộc đời gắn liền với bệnh e gặp nhiều khó khăn.

Ở nước Ba Lan, quê hương hào hiệp, nơi sinh ra nhà bác học vĩ đại Marie Curie, người đã mang, đã tìm thấy và ứng dụng Uranium vào kỹ nghệ khoa học, để tìm bệnh và chữa bệnh cho nhân loại. Radium hôm nay rất thịnh hành ở khắp mọi nơi. Suốt cuộc đời bà, bà đã bỏ ra nhiều năm ròng rã nung quặng. Bà đi tiếp theo công trình nghiên cứu của hai nhà vật lý học, một người Pháp là giáo sư Henri Becquerel, một người Đức là giáo sư Rontgen, hai vị đưa ra đề tài về « tia phóng xạ và năng lượng của phóng xạ. » Bà giầu nghị lực bắt tay vào việc tìm kiếm, nhìn thấy và sử dụng Uranium.

Suốt 4 năm ròng rã nung chẩy các quặng hóa học nghi là có chất phóng xạ, bà có lần khoe với chồng: Em đang tìm nó, chưa tìm ra nó, và em đã đặt cho nó, và em đã đặt cho các chất có thể tự phát ra tia phóng xạ có cường độ như nhau là năng lượng phóng xạ.

Đúng vậy sau mấy năm ròng rã nung nấu quặng Uranium để tìm ra phóng xạ mạnh hơn là Uranium thuần chất. Tháng 7 năm 1898, bà tìm ra nguyên tố mới Uranium, với lòng gắn bó yêu quê hương, bà gọi nó là Polorium, mạnh hơn Uranium. Tháng 12 năm 1898, bà tìm thấy Radium mạnh gấp 100 lần Polraium.

Tháng 6 năm 1903 bà trình luận án đặc biệt tiến sĩ xuất sắc về tính năng của phóng xạ. Bà Marie Curie cần cù suốt đời, vừa tìm kiếm khoa học, vừa lo cho gia đình con cái, vừa dậy học… Bà làm rất nhiều việc lợi ích cho đời. Bà có một hình ảnh đẹp, đẹp rực rỡ của tuổi thơ là cái nổi trội gắn bó với quê hương chôn nhau cắt rốn Ba Lan, vừa cũng cho chúng ta hiểu tại sao.

Tại sao ngày nay người xứ sở Ba Lan tích cực giúp đỡ, đóng góp ân tình với đồng minh Ukraine chống lại bạo lực của Nga. Vì cả hai nước đó có chung một kẻ thù Moscou từ rất xa xưa. Thù lắm! Trở lại, lại nói về Marie Curie, bà ra đời tháng 11 năm 1867, ở thủ đô Varsava trong một gia đình trung lưu, hơi hạn hẹp vì cha mẹ đều đi dậy học. Quê hương Ba Lan của bà lúc ấy đang bị nước Nga đô hộ, các trường học Ba Lan bị Nga kiềm tỏa, đồng hóa, bị bắt buộc họ phải học và dậy học bằng tiếng Nga. Sau đệ I thế chiến, tới năm 1918, đất đai lãnh thổ Âu Châu được chia lại, Ba Lan mới thoát khỏi sự cai trị của Nga hoàng. Ngày đó, các nhân vật Nga sang cai trị thuộc địa, hay các nhân vật Ba Lan làm tay sai cho chính phủ Nga đều phải gọi kính cẩn như thế đó: Bệ Hạ!

Các em học sinh tiểu học và các cấp khác, đặc biệt trường tiểu học của các em vào lớp tuổi Manie (tên thời thơ ấu của bà Marie Curie) đều phải học thuộc lòng lịch sử của Moscou. Các em phải trả lời lưu loát khi có thanh tra người Nga tới thăm và tra vấn về sử học, như phải kể đủ tên thứ tự các vị vua.

Mania nhanh nhẹn kể: “Catherine II, Paul I, Alexander I, Nicolas I, Alexander II”. Cô giáo và cô hiệu trưởng đổ mồ hôi hột khi Manie bị tra vấn. Nghe xong học sinh bé bỏng của mình trả lời lưu loát, cả hai cô đều thở phào nhẹ nhõm, họ vừa thương hại vừa cám ơn Manie. Tất cả họ vừa thoát một lần bị kỷ luật.

Nhưng cô giáo, cô hiệu trưởng, ngay cả viên thanh tra, họ nào biết một câu chuyện riêng tư của Mania và một cô bạn rất thân, ngồi cạnh và cùng lớp với Mania, tên gọi Kachia, Kachia và Mania học cùng lớp tiểu học, mỗi ngày hai cô bé ríu rít rủ nhau cùng đi học và cùng về học. Trên đường đến trường, cả hai luôn phải băng ngang một công viên rộng mát thoáng đẹp, trong lối vào cổng công viên, phía trong là một đài tưởng niệm, xây cất công phu, trên đó, người Nga ghi khắc các viên chức Nga đến đây đầu tiên, có công đặt nền tảng đô hộ, và cả tên vài ba người bản xứ phục vụ hợp tác với phía Nga, đó là những kẻ xâm chiếm và những kẻ phản quốc, Mania giải nghĩa như vậy, rõ ràng như vậy cho Kachia hiểu. Rồi mỗi buổi đi học về ngay ngang tấm bia đá kỷ niệm đó, hai cô học trò bé bỏng, lượm đầy một túi áo sỏi, dừng chân trước bức tường kỷ niệm, hai đứa lần lượt lấy sỏi trong túi chọi vào tên từng người, từng đứa, và quy định mỗi người bao năm tù. Hết túi sỏi, kết án đầy đủ mọi cái tên, hai đứa rủ nhau vui vẻ về nhà. Hôm đấy, Mania bảo Kachia là xử án tụi nó xong, mình khỏe ru hả. Chiều nay ăn xúp ngon hơn nhe!

Có lần trời mưa sỏi ướt nhép không lượm được, thì hai đứa thi nhau nhổ bọt lên đài kỷ niệm. Một lần mưa lớn quá, vội, quên, về tới nhà Mania, thì Kachia quay đầu chạy ngược trở lại, sau đó, Mania hỏi bạn làm rơi rớt gì ư? — Không, không rơi gì cả, mà tại hồi nãy vội quá và khô cổ quên nhổ lên tụi nó, giờ làm bù! Mania chạy đi kiếm rồi đưa nguyên một chai nước cho bạn. Hai đứa cười, nhìn nhau đồng ý, hẹn ngày mai nhé.

Trong máu thịt, ngay thuở ấu thơ, Kachia và Mania đã hiểu sâu sắc tình yêu quê hương, yêu tổ quốc, yêu đồng bào. Với những khái niệm từ ấu thơ là thế, người dân Ba Lan mặc nhiên như có một bản năng bẩm sinh ghét, thù ghét kẻ ngoại xâm Nga Hoàng ngày xưa và bây giờ là Putin.

Mania, lúc nhỏ được gọi ở nhà như thế vì gia đình muốn nhắc nhở khi ấu thơ, bà rất giống Đức Mẹ Maria. Gặp hoàn cảnh sa sút của gia đình, từ lúc cộng quân Nga tràn tới, cha bà bị đuổi trường đuổi dậy. Mẹ bà mất luôn chức hiệu trưởng trường nữ, gia đình họ sống rất cơ cực, mẹ sau đó bị bệnh nặng và qua đời. Bà mồ côi mẹ từ lúc mới 10 tuổi. Cảnh nghèo túng và nỗi buồn tuổi thơ hun đúc cho Mania tính chuyên cần, bền bỉ vươn lên trong việc học hành và nghiên cứu khoa học về sau. Trước mắt Mania chỉ có con đường đó thôi. Cộng với lòng ham học hỏi là lòng nhân ái và tính yêu thích tìm tòi những khám phá mới lạ. Học xong bậc trung học, thấy chị gái Blonia muốn đi học y khoa, bà đi làm gia sư kèm trẻ em ở tư gia nuôi chị học trước, bốn năm năm sau chị thành tài, bà ra khỏi quê, hướng về Paris, chủ tâm vào đại học Sorbonne học Toán và Vật lý rồi tiến vào công trình khảo sát khoa học. Bắt đầu về Sorbonne, lịch học tập của Mania dầy đặc, vừa phải học thêm Pháp văn để vượt qua ải ngoại ngữ, vừa đọc sách bù đắp lỗ hổng về tri thức, vừa phải cố gắng chuyên chú theo kịp các bài ở giảng đường.

Mania phải vượt qua mọi khó khăn đó cho đến lúc bà cần một phòng thí nghiệm đầy đủ hơn cho riêng mình, anh chị và bạn đã giới thiệu cho bà gặp ông Pierre Curie. Họ yêu nhau trong tình yêu khám phá khoa học, và bà thành thân với ông. Bà mang tên Marie Curie từ đó. Ông Pierre đã đứng ngoài phòng thí nghiệm, theo dõi cô sinh viên Ba Lan rất khả ái, thành thạo trong mọi thao tác kỹ thuật, nàng chịu khó miệt mài, giầu sức sáng tạo. Bà kém ông 8 tuổi, bà sống chung với ông được 11 năm, thì sinh được hai cô con gái. Mặc dù sau khi sinh nở, bận nuôi con, nhưng bà vẫn chuyên cần đến phòng thí nghiệm ngồi khoắng quặng tổng hợp, dù gió rét hay tuyết rơi, bà vẫn đốt củi, hong nóng nồi gang, đổ chất hắc ín là tổng hợp kim loại có chất Uranium vào chảo. Bà nắm thanh sắt dài, cố sức khuấy đều chất tạp trong chảo, củi cháy đỏ, phải thỉnh thoảng đưa thêm than vào lò để tăng đủ độ nóng. Tạp chất từ từ chẩy nhão, rồi sôi, nổi bong bóng, bà vẫn luôn tay khuấy đều chất hồ nhão màu đen ấy lâu và lâu cho đậm đặc, dù tay bị phỏng nhiều lần, dù thay khăn lót tay nhiều lần. Đợi khi tạp chất đen đậm đặc, khói bay mù mịt làm cay mắt, bà dùng vá sắt múc chất lỏng nóng bỏng đó đổ vào từng lọ lớn, nhiều lọ, rồi bê lọ lên để trên từng cao trong phòng cho chúng lắng xuống. Tiếp đó, lại đổ lượt tạp chất, lại nấu, khuấy sôi đều cho đậm đặc, lại múc ra và bê cất lên cao. Cứ thế bà đã nấu trong 4 năm 8 tấm quặng, sau cùng tinh luyện ra được 1 décigramme Radium.

Làm việc nặng nhọc, cơ thể đau nhức, tay bị phỏng nhiều chỗ, chân sưng phồng. Nhưng bên cạnh công việc, tối về, vẫn chăm sóc chồng, con, và may vá áo quần cho con. Phòng khách nhà bà chỉ có hai ghế ngồi. Hỏi tại sao ít ghế thế, bà bảo để cho khách đến rồi khách đi mau lẹ vì bà còn bận nung quặng. Trong khi đó, ông Pierre vẫn đi dậy học, khi có đôi chút thì giờ rảnh, ông ghé xuống giúp bà cho bà nghỉ mệt. Ông hơi buồn vì thấy bà cực nhọc, mệt mỏi, sa sút. Ông đề nghị bà nghỉ ngơi một vài ngày, hay tốt hơn là một vài tuần lễ. Bà khoát tay từ chối, có một lần, một lần duy nhất trong đời, bà gắt gỏng với ông: « Em chẳng thấy mệt mỏi gì đâu. Em không thích bỏ cuộc giữa đường. Chỉ những người chí bạc tài hèn mới làm như vậy…»

Rồi một lần vào buổi tối, lo cho con cái ăn uống xong, sắp đi ngủ, thì bà nắm chặt tay ông nói rằng: « Anh ơi, em có cảm giác có tiếng đang gọi em ». « Cái phòng thí nghiệm nó gọi em chứ gì. » « Đúng thế, hay chúng ta trở lại đó xem sao ». « Chúng ta mới rời nơi đó khoảng 2 giờ đồng hồ, chớ có lâu lắc gì, nhưng thôi, em muốn thì chúng ta đến xem, mới đó, chắc có đứa con cưng đang ra đời ». Và họ cùng đến nơi. « Pierre, coi kìa, coi kìa!» Cả hai sung sướng nhìn thấy những tia sáng huỳnh quang hơi màu xanh lục đang lấp lánh trong các lọ thủy tinh để trên các kệ bàn cũ kỹ, ánh sáng huyền bí ấy quét lên các máy móc cửa phòng thí nghiệm và cả 4 bức tường xung quanh. Căn phòng bình dị của bà sáng lên như một cung điện pha lê trong truyện cổ tích huyền diệu. Cả hai người, đắm chìm trong hạnh phúc thành công, họ không nói lên lời mà cùng đẫm nước mắt, cùng với chất Radium đang tỏa sáng lấp lánh, lấp lánh.

***

Việc phát hiện ra Radium mở ra thời đại nguyên tử, có năng lượng nguyên tử, loài người mới đi vào vũ trụ. Chất Radium áp dụng trong kỹ nghệ không ngừng, ngoài ra nó còn mang hạnh phúc đến cho con người, dùng trong y khoa, chống lại bệnh ung thư. Sau hai lần nhận giải Nobel, bà mang số tiền gửi cho các quỹ mở nhà thương, tu bổ bệnh viện cũ và trang trải học phí cho các sinh viên nghèo.

Sau 11 năm chung sống với ông, ngày 19 thang 4 năm 1906, Pierre mất bất ngờ vì tai nạn xe, bà đã gục xuống vì đau buồn, nhưng rồi bà lại can đảm đứng lên, bà đi lấy một tấm hình của bà ngày còn trẻ mà ông thích nhất, đặt tấm hình ây lên ngực thi thể chồng và nói: « Đây cô sinh viên thông minh, anh đã đến và yêu cô ấy, nay hãy để cô ấy theo anh về nơi lạnh giá, anh sẽ cảm thấy hạnh phúc… »

Tai nạn khủng khiếp của Pierre Curie làm chấn động mọi người. Chính phủ Pháp và trường đại học đến chia buồn và kính tặng gia đình bà một số tiền lớn, nhưng bà từ chối, xin để cho các sinh viên nghèo. Trường đề nghị bà làm giáo sư vật lý kiêm giám đốc phòng thí nghiệm lý hóa Paris. Hai tuần lễ sau, bà ổn định tư tưởng, bình thản bước lên bục giảng của giảng đường, giảng tiếp những bài học mà Pierre Curie đang dậy nửa chừng. Các phóng viên và học giả đến nghe xem bà bắt đầu như thế nào, họ ngạc hiên thấy bà điềm nhiên mở lời: « Chúng ta học tiếp bài về điện và vật chất… » Buổi giảng đầu tiên thành công mỹ mãn, có sinh viên rơi nước mắt xuống bài vở.

Nhưng bà không ngủ say trước những lời khen ngợi, bà vẫn say mê với công việc, với bổn phận và dù có lúc thương nhớ Pierre vô cùng, bà lại tự nhủ: Gánh có nặng thêm, đường dù có gian truân hơn, mình vẫn tiếp tục đi, đi cho các con, đi cho tương lai hậu thế, đi cho cuộc đời.

Khi đã vào tuổi 50, bà qua vương quốc Anh, Thụy Điển, trở về quê hương Varsava, đi nhiều nơi và viện nghiên cứu Radium được thành lập làm trung tâm nghiên cứu khoa học, chữa trị ung bướu. Bà từng phát biểu ở mỗi quốc gia bà đặt chân đến: “Bất cứ ai cũng không nên làm giầu từ chất Radium. Nó là một nguyên tố thuộc về tất cả mọi người trên thế giới. Chinh vì thế đó mà Pierre và tôi từ bỏ ý nghĩ về độc quyền chất Radium”.

Năm 54 tuổi, bà được tổng thống Winson chào đón thân tình, tổng thống gọi Marie Curie là hóa thân của trí tuệ. Thành phố New York vào tháng 5 năm 1921 hoa nở rực rỡ, người dân ở đây ăn mặc đẹp đẽ, hát, múa chào đón “bà mẹ, vị ân nhân của loài người”. Người ta bảo là lòng quý mến nhiệt tình của người dân Mỹ dành cho bà nhiều hơn hẳn nhiều nguyên thủ quốc gia đã đến đó trước bà.

Einstein cũng vậy, ông từng nói là “Trong những người nổi tiếng, chỉ có Marie Curie là người duy nhất không thay đổi trước danh lợi”.

Mười năm sau ngày Pierre Curie mất, tháng 2 năm 1916, trận chiến khốc liệt diễn ra ở Pháp quê hương chồng cũng là quê hương thứ hai của bà. Cũng tháng 2  đó Marie Curie từ bỏ tạm thời phòng thí nghiệm và giảng đường. Bà đến miền Verdun, nơi 270000 binh sĩ Đức đang mở cuộc tấn công vào nước Pháp. Bà đã ngày đêm hiện diện ở chiến trường, di chuyển theo xe cứu thương, bà luôn tay luôn mắt điều chỉnh dòng điện, tự chụp hình các vết thương trong bóng tối, cứu sống từng thương bệnh binh đang cận kề sống chết. 20 chiếc xe cấp cứu và 200 trạm chiếu X-quang được dựng lên, được di chuyển làm việc không ngừng của bà Marie Curie đã mang lại sự sống cho hàng triệu chiến sĩ.

Ngày hôm nay, trong thế kỷ này, năm 2023, chiến cuộc do Nga áp đặt đang bùng lên dữ dội tàn phá Ukraine, chiến cuộc Đông Âu vẫn đang là dầu sôi lửa bỏng. Kẻ bắn giết cứ bắn giết, người đi cứu thương vẫn tiếp tục đi cứu thương, mỗi người đều chăm chú vào nhiệm vụ của mình. Những dòng xe, những bệnh viện dã chiến di chuyển ở Bakhmut, Kherson, Zaporizhia hay Mariopul… nối đuôi nhau như hoảng hốt, vội vã và kiên trì chạy đua với tử thần, với bom đạn hỏa tiển để cứu các thương binh cả bên này lẫn bên kia.

Người ta có lúc tự hỏi có bà Marie Curie trong đoàn y tế cứu thương đó không? Có, hẳn là có, bà ở đó, hiện diện làm việc và chỉ đạo sáng suốt vì X-quang là con đẻ của bà mà!

Bà là ai? Nhà bác học vĩ đại! Có thể là hiện thân của Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp Maria! Có thể là hóa thân của Bồ Tát Quán Thế Âm Cứu Khổ Cứu Nạn!

Đoàn xe cứu thương của bà Marie Curie đã nối đuôi nhau vùn vụt đi xa, xa rồi, chẳng đặng đừng, họ bỏ lại đó, bỏ lại chiến trường những xác thây binh sĩ nằm la liệt. Ai lượm? Ai thu dọn ? Ai cho họ những nấm mồ? Chẳng chóng thì chầy, sẽ có đoàn người đi lượm, đi liệm và đi chôn xác người chết trận. Họ chết không toàn thây, văng vãi, tung tóe, ngổn ngang… vì vũ khí ngày nay văn minh quá độ.

Là như thế, là những tấm lòng vị tha, nhân ái luôn ở cạnh chúng ta, ở trong cuộc đời này!

Chúc Thanh

(Paris, 10-04-2023)

From:  Long Nguyen

Tôi từng có một thời niên thiếu như thế

(Giai Đoạn 1959-1975).

Tôi sinh ra và lớn lên tại Biên Hòa, một thành phố hiền hòa nằm bên cạnh dòng sông Đồng Nai thơ mộng.

Nhà tôi ở gần bệnh viện Phạm Hữu Chí (nay là bệnh viện Đồng Nai) – một nhà thương thí nơi chuyên chữa bệnh miễn phí cho mọi người, nơi đây không hề phân biệt người có tiền hoặc không, không hề từ chốι chữa bệnh cho người dân dù phí tổn cao như thế nào. Mọi người bệnh đều được đối xử bình đẳng như nhau.Tôi nhớ có một lần bị đạp phải gai nhọn trong lòng bàn chân, bị mưng mủ, đau nhức kinh кhủnɢ, mẹ tôi đưa tôi vào bệnh viện này, các y tá & bác sĩ, tiếp chúng tôi một cách ân cần tử tế, với thái độ tôn trọng người bệnh mà không hề hách dịch hay gợi ý vòi tiền hoặc quà cáp từ người nhà của tôi. Trên tường bệnh viện, tôi không hề thấy có khẩu hiệu “Lương y như từ mẫu” nào cả, nhưng thái độ cư xử hòa nhã của nhân viên y tế ở đây không khác chi là mẹ hiền. Ngoài  cổng bệnh viện có một bảng hiệu cấm bóp kèn cho các loại  xe cộ để không ảnhhưởng đến người bệnh.

Ngày xưa, thời niên thiếu của tôi đã từng có một hệ thống y tế do dân vì dân như vậy.

Phía đối diện bệnh viện là hội đồng xã Bình Trước, có lần tôi theo mẹ vào văn phòng xã để nhờ xác nhận giấy tờ, văn phòng lúc ấy đông người nhưng trật tự, người trước người sau không hề ồn ào. Trên tường có bảng hiệu nhắc nhở “Xin giữ yên lặng” hoặc “Xin vui lòng vắn tắt & rõ ràng”.

Cô chú công chức tiếp người dân một cách niềm nở tôn trọng, biết lắng nghe, giải quyết công việc nhanh chóng, không hề to tiếng, hạch sách hay vòi vĩnh phong bì từ người dân.

Khi đến tuổi làm thẻ căn cước, tôi vào ty cảnh sát Biên Hòa để chụp hình, lăn tay. Mọi người trật tự. Các anh cảnh sát ở đây rất hiền hòa, lịch sự và ân cần hướng dẫn mọi người, không hề hạch sách quấy nhiễu, quát nạt hay vòi vĩnh gây phiền hà cho người dân.

Ty cảnh sát Biên Hòa

Ngày xưa, thời niên thiếu của tôi đã từng có một hệ thống hành chính gọn nhẹ, phục vụ người dân hữu hiệu và lịch sự như vậy, chứ không phải “hành” dân là chính.

Ngày xưa, tôi đã từng biết về một xã hội mang đầy tình nhân văn qua cách cư xử của mọi người:

Tôi còn nhớ khi cha tôi mất vào năm 1973, khi  xe tang đưa linh cửu ông đến nơi an nghỉ sau cùng, ngồi trên  xe tang tôi quan sát thấy các anh cảnh sát, quân cảnh đang làm nhiệm vụ trên các giao lộ, khi gặp  xe tang đi ngang qua, các anh đứng nghiêm chào theo nghi thức quân cách. Và một điều ngạc nhiên lý thú khác là tôi thấy những người dân mà gia đình tôi không quen biết, khi họ đi  xe gắn máy hoặc  xe đạp vượt qua  xe tang, không ai bảo ai, họ đều giở nón cúi đầu chào tiễn biệt cha tôi. Hình ảnh này đã cho tôi một dấu ấn và cảm xúc thật mạnh mẽ. Sau này tìm hiểu, tôi mới biết đó là lề thói ứng xử thông thường của mọi người để tỏ lòng tôn trọng đối với người đã khuất.

Vào thời ấy, mỗi khi ngồi học bài khuya, đến 10 giờ, tôi thường nghe từ radio hoặc TV nhắc nhở mọi người nên điều chỉnh âm thanh vừa đủ nghe để không phiền lòng hàng xóm.

Tôi còn nhớ mỗi sáng thứ hai chúng tôi làm lễ chào cờ ở trường tiểu học Nguyễn Du, khi quốc kỳ được kéo lên trong tiếng quốc ca vang lên của toàn thể học sinh, tôi thấy phía bên ngoài  cổng trường: chú xích lô dừng  xe lại, những người bộ hành đi ngang dừng lại và bà bán hàng rong cũng bỏ quang gánh, tất cả tự giác đứng nghiêm chỉnh hướng về quốc kỳ cùng hát quốc ca cho đến khi lễ chào cờ kết thúc. Ý thức công dân của người dân miền nam Việt Nam thời ấy là như thế.

Khi có dịp đi Saigon,tôi để ý thấy tại các giao  lộ, các loại  xe  lộ đều tự giác dừng lại khi đèn đỏ cho dù không có cảnh sát. Lúc ấy, không hề có chuyện vượt đèn đỏ chạy bạt mạng khi không có người kiểm soát. Trong giao tế, cảm ơn và xin lỗi là câu nói thường xuyên của người dân thời ấy.

Ngày xưa thời niên thiếu của tôi đã từng có một xã hội tuy còn nhiều bất cập nhưng rất là văn minh và có được một nền dân trí cao như vậy.

Ngày xưa, tôi đã từng thụ hưởng một nền giáo dục nhân bản, dân tộc và khai phóng. Nền giáo dục này đã dạy tôi làm người trước khi dạy tôi học thức

Năm 1966, tôi vào học lớp năm (nay là lớp một) tại trường tiểu học Nguyễn Du, trên tường của lớp học vỡ lòng này có một câu cách ngôn “Tiên học lễ hậu học văn” treo cố định suốt cả một năm học. Sau này lớn lên, tôi mới hiểu đó là tiêu chuẩn căn bản của nền giáo dục VNCH.

Tôi đã từng có những thầy cô ở bậc tiểu học tận tâm giảng dạy cho tôi những bài học rèn luyện nhân cách qua sách giáo khoa như: Em tập tính tốt, Các bài tập đọc, sử ký, địa lý, khoa học thường thức, những bài học thuộc lòng từ quốc văn giáo khoa thư, Gia huấn ca, Nhị thập tứ hiếu, Tâm hồn cao thượng … Các giáo trình này đề cao các giá trị lịch sử, dân tộc, tự chủ, nghệ thuật,văn hóa … để rèn luyện cho học sinh giỏi về kiến thức tổng quát và có tấm lòng nhân hậu yêu nước thương nòi, có lòng biết ơn mọi người trong xã hội.

Bậc tiểu học, hàng tuần thầy cô giáo đều viết lên bảng câu cách ngôn của tuần từ các ca dao tục ngữ ẩn chứa triết lý tình thương để in sâu vào tâm khảm của học sinh. Hàng tháng thầy cô thiết lập bảng danh dự để xếp hạng học sinh theo điểm số. Ngày ấy phẩm chất học sinh được phân loại rõ ràng chính xác chứ không hề có tình trạng nhà trường chạy theo thành tích với tỷ lệ 100% học sinh giỏi không có yếu kém!

Năm 1970, tôi vào trường Trung học công lập Ngô Quyền sau một kỳ thi tuyển sinh đệ thất (nay là lớp 6) đầy gay go nhưng cũng rất công bằng. Ở bậc trung học, tôi đã có những vị giáo sư tận tâm truyền đạt cho tôi kiến thức tổng quát, ý thức công dân và dạy cho chúng tôi về Công pháp quốc tế, Tam quyền phân lập, về giá trị của một xã hội tự do, dân chủ. Khi học lớp 9, chúng tôi đã được thầy luyện cho kỹ năng thuyết trình trước đám đông, tập tính phản biện và biết phân tích, so sánh đối chiếu, biết tranh luận trước những vấn đề mà chúng tôi không đồng ý, chứ không phải răm rắp cúi đầu nghe theo một chiều từ người khác như bầy cừu mà không dám phản kháng.

Ngày xưa Biên Hòa quê tôi có nhà sách Huỳnh Hiệp bán đủ mọi thể loại sách rất đa dạng phong phú từ nhiều tác giả khác nhau, từ nhiều quan điểm khác nhau, không có vùng cấm. Ở nơi ấy, không cần mua sách, nhưng tôi có thể tự do thoải mái đọc “cọp” tất cả các loại sách mình ưa thích mà không bị trở ngại nào. Chúng tôi thường gọi nhà sách này là thư viện tri thức cho học sinh nghèo.

Thời niên thiếu đã đem lại cho tôi nhiều kỷ niệm tuyệt vời và tự hào về một xã hội tươi đẹp mà tôi đã từng sống. Nhưng một thời hoa mộng ấy đã thật sự kết thúc một cách oan nghiệt vào cuối tháng 4 năm 1975 khi tôi 16 tuổi.

Giờ đây, khi thời gian qua nhanh tuổi đờι đã xế, trí nhớ đôi lúc cũng còn lẫn  lộn, nhưng quên gì thì quên, tôi không thể nào quên được những năm tháng được sống trong một xã hội hiền lương tốt đẹp, dù ở trong thời kỳ chιến tranh khốc liệt nhất. Tôi không thể nào quên được ngày xưa tôi đã từng có một thời niên thiếu như thế. Tôi cũng sẽ kể lại cho con tôi là tôi đã từng sống trong một nước Việt Nam Cộng Hòa văn minh và nhân bản như thế trong quá khứ, mà thế hệ con cháu tôi ngày nay không thể nào tìm lại được các giá trị ấy ngay trên chính quê hương của tôi.

Hiep Phan

From: Truong Le

HOA XƯƠNG RỒNG TRÊN CÁT-Truyện ngắn

Long Tran-Những câu chuyện thú vị-Ncctv.net

Cuộc đời là con đường hai chiều! Nếu ở chiều này: có rất nhiều người rời bỏ nước Mỹ (không thích, ghét bỏ, theo gia đình, công việc , về hưu…) thì ở chiều ngược lại cũng có rất nhiều người mong muốn được đến Mỹ sống!

Dù bị chê bai này nọ…. thực tế cho thấy số người muốn vào Mỹ sống vẫn nhiều hơn số người muốn bỏ đi! Tại sao??? Giấc mơ Mỹ là gì? Kính mời quí vị đọc bài:

HOA XƯƠNG RỒNG TRÊN CÁT !!!!

Năm 2000, đến Mỹ, định cư ở thành phố Sioux City, bang IOWA, hai lúa nhận ra nhiều người thích đến Mỹ vì đơn giản là ở đây có rất nhiều việc làm….

Các lò mỗ heo, bò gà… thiếu lao động trầm trọng vì người Mỹ chính gốc họ không thích làm công việc đơn điệu và tẻ nhạt lập đi lập lại… trên dây chuyền nhà máy giết mổ!!!

Vì vậy, người Việt mới qua không biết tiếng Anh, ngay các cụ ông cụ bà U 70 muốn đi làm thì chỉ cần ghi tên đăng ký! Họ khuyến khích thưởng cho công nhân đang làm giới thiệu người mới vô, nếu người đó chịu làm việc quá 3 tháng (thời gian thử thách) thì người đem vô được thưởng 1000 đô Mỹ tiền cò!!!

Mèn đét ơi! Lúc ở VN mới qua năm 2000 , một ngàn đồng là số tiền rất lớn, nhất là gởi về VN giúp gia đình thì… nó mát cái bụng lắm!

Sau khi phỏng vấn (có phiên dịch viên người Việt, họ sẽ bố trí công việc tuỳ theo sức khỏe và khả năng! Có người lùn 1.4 m họ đặt cái ghế thấp đứng! Mạnh khỏe trẻ thì làm việc nặng (kéo thịt, cắt thịt) … lương cao hơn người già yếu: bỏ thịt vào túi ni lông hay dán nhãn….

Lương tối thiểu khi đó khoảng 6 đô một giờ nhưng thực tế người làm được trả cao hơn!

Thích làm thêm tăng ca trả gấp 1.5 hay 2 lần tuỳ theo ngày cuối tuần hay làm thêm do luật qui định!!

Vì thành phố Sioux City nhỏ nên hầu như ai cũng biết ai! Không có xe, không biết lái xe thì có người cho đi nhờ!!!!

Vì vậy dù không biết tiếng, không bằng cấp , già cả ốm yếu…. mà cứ thích làm thì sẽ có tiền!!!! Muốn làm sức nào có việc sức đó! Có người ngày làm 16 tiếng cũng OK salem!!!! Mấy người này dư tiền nhiều vì giá nhà cửa ở IOWA khá thấp… nhất là se phòng thì càng rẻ hơn… Tuần có khi làm 6 đến 7 ngày, mỗi ngày 16 tiếng… thì cuối tuần được nghỉ là rất thèm ngủ nên không hề tiêu xài…. Làm bao nhiêu dư bấy nhiêu!!! Niềm vui sống và hạnh phúc duy nhất là gọi điện thoại về VN ngày cuối tuần, được nghe người thân nói, thấy người thân mua nhà sắm xe hay điện thoại mới…!!!

– Ba ơi, bác ơi, cô ơi, chú ơi anh ơi… Sao không mua cái máy tính hay iPad để nghe tiếng…. và liên lạc

– Dạ ! Em bên này đâu có thì giờ đâu! Rảnh là ngủ bù!!!

Nghiên cứu của Mỹ cho thấy 80 phần trăm con cái của những người nghèo khổ không biết tiếng Anh không bằng cấp đến Mỹ (thế hệ I) sau 10 đến 20 năm sẽ có cuộc sống trung lưu! Tại sao???

Thế hệ 1.5 (con cái họ thấy cha mẹ khổ cực nên cố gắng vừa làm vừa học). Giáo dục công lập từ lớp 1 đến 12 là bắt buộc và miễn phí. Vào đại học thì có thể vay tiền đi học rồi ra trường làm trả dần… Có sức nào học sức đó… Phần lớn sau một thời gian con cái những người di dân nghèo khổ đó sẽ trở thành kỹ sư, bác sĩ, dược sĩ hay những công nhân có tay nghề cao, hoặc có cơ sở buôn bán kinh doanh… như nhà hàng, tiệm nail…và họ không làm các công việc nặng nhọc như cha mẹ họ nữa!!! Khi người di dân thế hệ I về hưu, không ít gia đình có nhiều con cái rất thành đạt… Và họ ngắm nhìn cháu của họ , thế hệ di dân thứ hai, hội nhập hoàn toàn nói tiếng Anh, lái xe, ăn uống sinh hoạt giống như người Mỹ!!! Họ an nhiên hưởng thụ tuổi già, du lịch và vui vầy với con cháu mà không phải lo ai lên ai xuống ai sẽ là củi bị ném vô lò!!!

Túm lại: Nếu ai đó ở VN có mức sống trên trung bình, có nhà cửa xe cộ, có tài xế, có ô sin … mà muốn qua Mỹ sống để hưởng thụ thì… sẽ te tua và thất vọng!!

Tại sao? Vì ở Mỹ cỡ Bill Gates còn phải tự lái xe!

Nói một cách khác, nước Mỹ sẽ là thiên đường, là miền đất hứa cho những ai có khát vọng, muốn dấn thân và sống cho một mục đích cao hơn xa hơn , cho tương lai con cháu , cho người thân, cho khoa học, cho nhân loại…) và sẽ là địa ngục cho những ai đang có cuộc sống sung sướng người hầu kẻ hạ ở quê nhà mà muốn đến Mỹ hưởng thụ và làm le…

Vì sao! Ở Mỹ tổng thống cũng như dân thường, bình đẳng trước pháp luật!! Chạy xe sang, đeo vàng hay hột xoàn to, đồng hồ đắt tiền… ở Mỹ chẳng ai thèm dòm! Có khi làm mồi cho trộm cướp!

I can you, I van you! Nếu you có tiền, có địa vị và muốn hưởng thụ cho bản thân thì ở VN sướng hơn!!! Đừng qua Mỹ ở mà hối hận!!! Xạo chết liền!

PS: Không phải ai đến Mỹ cũng thành công!

Sòng bài khắp nơi, cần sa, súng ống được phép mua bán tự do…. Có người sa vào cờ bạc hút xách làm gia đình tan nát… Con cái chán đời… bỏ học ra đường theo băng đảng… bắn giết nhau tù tội… cũng không ít! Đó là mặt trái của một xã hội quá tự do!!! Phần lớn là do duyên nghiệp của mỗi người!!!

Chẳng ai bắt buộc mình vào sòng bài hay hút cần sa hết! Hai lúa yếu nên không dám ra gió! Tránh thiệt xa, không chơi không thử cho nó lành!!!

Tôi viết đến đây mắt tôi rơi lệ vì em, bông hoa xương rồng trên cát của tôi ơi!!

Bị cha bỏ rơi từ nhỏ, mẹ nghiện cờ bạc làm chuyện phi pháp vào tù ra khám như cơm bữa!!!

Cuộc đời em là một chuỗi ngày theo mẹ ở ít bữa sau đó vào trại mồ côi khi mẹ vào tù!!’

Mẹ đi đâu đem em theo đó!!!

Chao ôi!!

Còn cha

Chân con gót đỏ như son!

Một mai cha chết gót con đen sì! (Ca dao)

Còn mẹ, mẹ thương tiếc mẹ bù chì!

Mẹ mê cờ bạc… còn gì cho con??!!

Kỳ lạ thay, bạn đọc quí mến của tôi ơi, cậu bé như cây xương rồng trên cát…trong sa mạc, có một sức sống và lòng hướng thiện mãnh liệt!Khi lớn lên cậu viết thư cho mẹ trong tù:

“ Mẹ vô vàn yêu thương của con!

Xin mẹ hãy tha thứ cho con khi con từ chối đi theo mẹ hết nhà tù này đến nhà tù khác để được gần mẹ! Mặc dù con rất thèm một mái ấm, khao khát được mẹ ôm hôn nhưng con sẽ không theo mẹ nữa !!!

Con sẽ ở một trại tế bần cố định để tập trung vừa làm vừa học!!! Con sẽ không đi vào vết xe đổ của mẹ! Khi nào mẹ thay đổi hay có dịp thì đến thăm con”!

Như một phép màu của Thượng Đế, từ nhà tế bần ra em cố gắng vừa làm vừa học!!! Tinh thần vượt khó của em làm các giáo sư của Đại Học Harvard xúc động, họ cấp cho em học bổng!!!!

Hôm tốt nghiệp thì người mẹ cũng được ra tù và đến tham dự! Hai mẹ con ôm nhau khóc làm nhiều người khác cũng rơi lệ!!!!

Người mẹ được đứa con cảm hoá hoàn lương và ôm cháu nội, đưa cháu nội đi học…

Em ơi, Đời hai lúa cũng trải qua bao cay đắng nhọc nhằn nhưng chưa đến nỗi như em! Cho tôi được cúi đầu bái phục em vì em là tấm gương sáng cho bao người khác và tôi học hỏi !!!

Giấc mơ Mỹ là gì? Là nơi mà tất cả mọi người, bất kể nguồn gốc màu da (như hoa xương rồng trên cát là một ví dụ) có quyền, có rất nhiều cơ hội và có sự bình đẳng về cơ hội để tiền thân! Và quan trọng nhất là được tự do theo đuổi những khát vọng đời mình để biến nó thành sự thật!

60 NĂM VỤ ĐÁNH GHEN TÀN BẠO TẠI SÀI GÒN

Trúc Giang

Khoảng 8g tối ngày 17-7-1963, một phụ nữ vừa bước ra khỏi nhà, tiến về chiếc taxi chờ sẵn, thì bỗng nhiên một người đàn ông xuất hiện, tay bưng một ca axit tạt vào mặt người phụ nữ. Cô thét lên trong đau đớn: “Chết tôi rồi!. Cứu tôi với”, rồi ôm mặt ngã quỵ. Một người đàn ông chạy đến bế cô lên chiếc taxi, chạy vào Bệnh viện Sài Gòn cấp cứu, sau đó được chuyển đến Bệnh viện Đồn Đất (Grall) vào lúc 2g sáng hôm sau.

Cái tin vũ nữ Cẩm Nhung bị tạt axit gây xôn xao trong giới thượng lưu thường lui tới các vũ trường. Báo chí đăng tấm hình rất xinh đẹp của Cẩm Nhung, đã gây xúc động và thương tiếc của người Sài Gòn.

Cẩm Nhung sinh năm 1940 tại Hà Nội. Năm 15 tuổi theo gia đình di cư vào Nam. Vào Sài Gòn ít năm, khi cuộc sống vừa ổn định, thì người cha mất vì bệnh. Gia đình còn lại ba người phụ nữ: bà mẹ, bà vú và Cẩm Nhung. Không đủ điều kiện tiếp tục học, Cẩm Nhung bỏ học, đi học khiêu vũ. Cô gái 17 tuổi có cái nhan sắc trời cho, nói chung là rất đẹp và hấp dẫn. Cô theo học khiêu vũ ở một lớp dạy tư, do hai nhạc sĩ-vũ sư Nguyễn Tình và Nguyễn Thống phụ trách. Hai nhạc sĩ nổi tiếng về ngón đàn Hạ uy cầm (Hawaiian guitar), đã từng đào tạo hàng chục vũ nữ cho các vũ trường thời đó.

Nhờ có sắc đẹp hấp dẫn, với năng khiếu xuất sắc, Cẩm Nhung nổi bật trong nghệ thuật khiêu vũ. Vũ sư Nguyễn Tình nói với người “tài pán” Marie Sang: “Đôi chân của nó, thân hình gợi cảm của nó, rồi đây sẽ có cả khối đàn ông ngã rạp dưới chân nó mà chết cho coi”. “Tài pán” là người quản lý vũ nữ ở vũ trường, còn gọi là “cai gà”. Khách đi solo muốn nhảy với vũ nữ đều phải do người cai gà đó sắp xếp. Phải mua ticket thời đó là 20$. Mỗi ticket chỉ nhảy được một vài bản mà thôi. Muốn bao thầu cả đêm thì phải mua trọn gói chừng 15 ticket. Năm 19 tuổi, Cẩm Nhung trở thành vũ nữ chuyên nghiệp, được mệnh danh là “Nữ hoàng vũ trường”. Khách sành điệu cùng vũ nữ rời vũ trường này đến một vũ trường khác, vừa khiêu vũ thoải mái vừa giữ được tiếng tăm về đức hạnh của vũ nữ, vừa giữ được địa vị trung lập để câu những khách nhảy khác.

Tại vũ trường Kim Sơn, đường Tự Do, Cẩm Nhung phải lòng một khách nhảy hào hoa, dân chơi có tiếng tại các vũ trường, đó là Trung tá công binh Trần Ngọc Thức. Việc ông Thức cặp kè với Cẩm Nhung đến tai bà vợ là Lâm Thị Nguyệt, biệt danh là Bà Năm Rado, vì bà chuyên bán đồng hồ Thụy Sĩ hiệu Rado, rất giàu có. Máu Hoạn Thư nổi lên. Bà Nguyệt thuê hai người tạt axit vào mặt Cẩm Nhung với giá hai lượng vàng.

Bà Ngô Đình Nhu vào cuộc

Vụ đánh ghen diễn ra trong khi bà Ngô Đình Nhu – Trần Lệ Xuân, đang ở nước ngoài. Nghe được tin, bà vô cùng tức giận. Ngay sau khi về nước, bà đến Bệnh viện Đồn Đất thăm Cẩm Nhung. Ban đầu cô được cho nằm ở khu dành cho thường dân, ai vào thăm cũng được. Bạn bè Cẩm Nhung vận động, gom góp tiền, thuê luật sư kiện thủ phạm.

Một hôm, có một khách thăm, kề vào tai Cẩm Nhung nói nhỏ: “Muốn yên thân thì hãy câm miệng, nếu làm lớn chuyện thì “bà” sẽ giết chết cô”. Sau đó bà vú báo cáo với ban giám đốc bệnh viện. Nghe được tin đó, bà Nhu đề nghị cho Cẩm Nhung vào nằm ở khu chăm sóc đặc biệt, ai vào thăm phải có sự chấp thuận của bệnh viện.

Với tư cách là người lãnh đạo Phong trào Liên đới Phụ nữ Việt Nam, bênh vực quyền lợi và sự bình đẳng của phụ nữ, bà Trần Lệ Xuân thúc đẩy điều tra và lập hồ sơ đưa ra tòa. Sau đó, bà đề nghị đóng cửa các vũ trường, vì cho đó là nơi ăn chơi sa đọa, làm tan nát nhiều gia đình.

Phiên tòa xét xử

Vào tháng 10-1963, tòa kết án Lâm Thị Nguyệt, vợ của Trung tá Trần Ngọc Thức, và người đàn ông tạt axit, mỗi người 20 năm tù. Một người đàn ông liên hệ 15 năm. Ông trung tá bị cho giải ngũ, sau 1975, bị đi tù cải tạo ở Trại Z.30C, Hàm Tân.

Sau khi bị tạt axit, dung nhan kiều diễm của Cẩm Nhung bị hủy hoại hoàn toàn. Do sự vận động của bà Nhu, cô được đưa qua Nhật chữa trị, hy vọng phục hồi gương mặt như trước kia song bác sĩ bó tay. Hơn hai tháng sau, khi Cẩm Nhung về nước thì nền Đệ nhất Cộng hòa đã sụp đổ. Bà Nhu sống lưu vong ở nước ngoài. Người vũ nữ nổi tiếng một thời đã biến mất trong các sinh hoạt ở Sài Gòn. Những biến cố chính trị dồn dập, khiến cho việc đánh ghen rơi vào quên lãng và chìm vào quá khứ.

Đi ăn mày khắp nơi

Từ địa vị của một “nữ hoàng” sống trên đỉnh cao danh vọng, rực rỡ dưới ánh đèn màu và điệu nhạc, các công tử phong lưu bay bướm đa tình và các thương gia giàu sụ săn đón, thì bỗng nhiên trở thành thân tàn ma dại, ngậm đắng nuốt cay cho số phận hẩm hiu, Cẩm Nhung lao vào con đường đập phá, rượu chè, nghiện ngập, sa đọa… Năm 1964 người mẹ qua đời. Cẩm Nhung sống với bà vú. Tiền bạc, nữ trang lần lượt từng bước ra đi. Cô bán căn nhà 200 lượng vàng và cùng với bà vú ra ở thuê nhà trọ. Bà vú qua đời, Cẩm Nhung tật nguyền, không nghề nghiệp, không nơi nương tựa, nên chỉ có con đường là đi ăn xin.

Trước Tết năm 1969, người ăn mày xuất hiện ở chợ Bến Thành. Mặt mày dị dạng, đeo trên ngực tấm hình chụp chung với người tình là ông trung tá, cô lê bước trên các con đường Sài Gòn, trên hành lang của thương xá Tax rồi đến chợ Bà Chiểu, Bình Tây…và sau cùng về miền Tây, ở bến phà Mỹ Thuận, Vĩnh Long.

Thời gian này ở Sài Gòn xuất hiện bản nhạc “Bài Ca Cho Người Kỹ Nữ” của hai nhạc sĩ Nhật Ngân và Duy Trung. Các tác giả viết bài hát này vì xót thương số phận của cô vũ nữ Cẩm Nhung. Bài hát có đoạn:

“Ta tiếc cho em trong cuộc đời làm người

Ta xót xa thay em là một cánh hoa rơi

Loài người vô tình giẫm nát thân em

Loài người vô tình giày xéo thân em

Loài người vô tình giết chết đời em…”

Nhà thơ Nguyên Sa nói về Cẩm Nhung

Trong hồi ký “Đời 1998”, Nguyên Sa thuật lại nhiều lần ông và nhà văn Mai Thảo đến nhà chở Cẩm Nhung đi vũ trường Arc en Ciel, ăn kem và hóng mát ở Bến Bạch Đằng. Lần sau cùng ông gặp Cẩm Nhung như sau:

“Lần chót tôi gặp lại người phụ nữ ấy, Mai Thảo dừng xe có phần gấp gáp, không có nét bay bướm nào. Anh đang phóng nhanh bỗng thắng lại, tấp xe vào lề, đậu xe bên phía tay mặt đường Pasteur. Mai Thảo ra khỏi xe không một lời giải thích. Tôi không hỏi, xuống theo ngay, linh cảm có chuyện gì khác lạ. Chúng tôi băng qua con lộ xe chạy một chiều vun vút. Mai Thảo dừng lại trước một người hành khất, một người phụ nữ, móc trong túi ra một nắm giấy bạc, anh chuyển sang tay kia, để tìm kiếm thêm. Tôi không nhận ra người hành khất là ai, chỉ thấy mặt loang lổ những vết cháy nổi lên, những mảng thịt nửa đỏ nửa tím sậm, dị dạng, hai mắt vết cháy càng rõ, lòng trắng và lòng đen bị hủy hoại lổn nhổn.

Bạn tôi bỏ nắm tiền vào chậu bằng nhôm, những tờ giấy chạm vào tay người đàn bà hành khất, dường như nàng biết ngay người cho tiền là ai, ai có thể cho nàng nhiều tờ giấy bạc như thế. Nàng ngẩng mặt lên gọi “anh”, Mai Thảo vỗ nhẹ vào bàn tay nàng, có tiếng nói an ủi bằng xúc giác, không có âm thanh nào được phát lên.

Tôi muốn nói lên tên người đàn bà hành khất. Tôi chưa kịp nói thì Mai Thảo kéo tôi băng qua đường. Tôi ngồi vào trong xe, nói lên ngay tên nàng. Mai Thảo gật đầu. Cẩm Nhung. Tên người vũ nữ thường thay quần áo sau tấm bình phong, mỗi lần Mai Thảo và tôi đến đón nàng đi làm, hay đi ăn, đi ra Pointe des Blagueurs (Bến Bạch Đằng) hóng mát. Cẩm Nhung bị tạt axit trong một trận đòn ghen có sức mạnh của tiền hô hậu ủng, có sự tàn bạo mới của thế kỷ khoa học.Tôi nhìn bạn tôi ngậm ngùi:

– Cẩm Nhung!

Mai Thảo nhìn về phía trước mặt, như nói một mình, rất khẽ:

– Nhung đấy!” (Nguyên Sa)

Cẩm Nhung qua đời

Sau nhiều năm bôn ba khắp các tỉnh miền Tây Nam Bộ, bà ẩn mình sống trong cô đơn, những năm cuối đời ở vùng đất thuộc chùa Tam Bảo, Hà Tiên. Một “đồng nghiệp” bán vé số thuật lại như sau: “Bà dáng người cao ráo, gương mặt đầy những vết sẹo lồi lõm. Đôi mắt mù, có một bên lồi ra. Lúc mới đến, bà dắt theo một bé trai, nhưng vài năm sau thì không thấy nó nữa. Bà sống khép kín. Đơn độc. Có một lần nói chuyện với bà, nghe giọng nói lơ lớ, tôi biết bà ở miền Bắc.

Sống một mình. Ban ngày đến trước cổng chùa bán vé số. Ở đó, nhiều người đi lễ Phật, động lòng trắc ẩn, giàu lòng nhân ái, mua nhiều vé số để giúp những người già mù lòa, bạc phận.

Một hôm, vào đầu năm 2013, nhiều ngày không thấy bà ra bán vé số, mọi người vào phòng thì thấy bà đã chết tự bao giờ. Những người đồng cảnh ngộ, quyên góp mua một chiếc áo quan rẻ tiền để tẩn liệm. Trong mớ hành lý của bà, có một tấm hình khổ lớn đã cũ, có nhiều chỗ bong tróc. Trong hình, một thiếu nữ đôi mươi, rất đẹp, bên cạnh người đàn ông đẹp trai, dáng người lịch lãm. Đã hơn 50 năm qua, không ngờ người thiếu nữ tuyệt đẹp trong hình, bây giờ lại ở bên cạnh những người nghèo khổ như chúng tôi. Và khi từ giã cõi đời cũng chính chúng tôi tiễn bà đi. Bà ra đi, tài sản không có gì. Không một người thân tiễn bà, chỉ có những mảnh đời bất hạnh, vất vưởng như chúng tôi, đưa bà về chín suối”. Bà 73 tuổi.

T.G

Fb Le Van Quy

Chị tôi bên bến sông – Diệu Phúc-Truyện ngắn

Diệu Phúc

Năm tôi lên bốn, chị đã lên mười. Người ta nói chị mãi là đứa trẻ bốn tuổi. Tôi không hiểu vì sao lại thế. Có lẽ vì chị chẳng khôn hơn tôi được bao nhiêu và mẹ lúc nào cũng phải săn sóc chị giống hệt tôi. Lên bảy tuổi, tôi bắt đầu thấy chán ghét chị. Sao chị lại khù khờ như thế, để bạn bè trong lớp trêu chọc rằng tôi có người chị điên, chị tàn. Mỗi lần đi học về ngang nhà tôi, bọn thằng Ân, thằng Tuấn lại hát to:

Bống tàn ăn quả dưa gang

Ăn nhầm lựu đạn nổ toang cả nhà.

Tôi nghe mà tức lộn ruột, chỉ muốn lấy đá ném cho chúng một trận.

Bống là tên chị tôi. Mẹ tôi kể, năm chị bốn tuổi thì bị chó dại cắn, sau bao nhiêu thuốc thang cứu chữa chị vẫn mê man. Hơn nửa tháng sau, chị tỉnh dậy, khỏe mạnh. Nhưng mẹ chưa kịp vui thì nhận ra chị không còn bình thường như trước nữa. Bác sĩ bảo thần kinh của chị bị ảnh hưởng, chậm phát triển trí tuệ nhưng mẹ không tin, nói đúng hơn là mẹ chưa thể chấp nhận được chuyện đó. Tháng tháng đôi lần, mẹ dẫn chị lên chùa khấn vái, cầu trời khấn Phật để chị được bình an vô sự. Chẳng biết trời có thấu, Phật có hay, nhưng chị tôi không biết thêm được gì nữa. Chị tôi mãi bốn tuổi là như thế. Khi tôi bắt đầu hiểu chuyện, tôi thương chị nhiều hơn. Những lời trêu chọc của đám bạn, tôi nghe dần rồi cũng thành quen.

Nhà văn trẻ Diệu Phúc ở Đà Nẵng

Năm tôi mười một tuổi, một hôm chị hái trộm xoài nhà người ta, bị đuổi đánh, rách cả vạt áo. Họ chửi: “Điên! Điên cái ngữ gì mà khôn thế!” Tôi nghe thấy liền vội chạy nhanh về nhà. Chị bị mẹ mắng, ngồi thu mình sau hè, thấy tôi, chị xòe tay đưa ra quả xoài xanh. Tôi nghẹn ngào ôm lấy chị, hai hàng nước mắt trào ra.

Tôi vào trường cấp hai, đi học cách nhà bốn cây số. Tôi học giỏi, có nhiều bạn, nhưng thân với Hưng và Ngọc hơn cả. Một lần, đám bạn cùng lớp kéo nhau về nhà tôi. Mẹ tôi bẻ ngô nấu một nồi to tướng. Nhà tôi lụp xụp, nền đất, nuôi nhiều gà vịt, chúng ị ra khắp sân. Mấy đứa bạn đi cùng khó chịu ra mặt, chúng tụ tập ở gốc cây mít ngoài ngõ, không chịu vào nhà vì nhìn thấy chị tôi thẫn thờ đi trong sân. Đến lúc ngô chín, chúng bỏ về gần hết vì thấy nhà tôi bẩn, chị tôi điên, chúng không dám ăn ngô vì sợ lây bệnh. Thằng Hưng, bạn thân nhất của tôi, bàn tay siết chặt giận dữ: “Một lũ khốn nạn”. Ngọc thì không nói gì, lẳng lặng lấy một bắp ngô đưa cho chị tôi. Chiều hôm đó, nhà tôi ăn ngô thay cơm. Thằng Hưng và cái Ngọc mang về một ít. Số còn lại, mẹ tôi mang biếu hàng xóm. Từ đó, ngoài Hưng và Ngọc ra, tôi không bao giờ dẫn thêm đứa bạn nào về nhà nữa.

Lên cấp ba, tôi, Hưng và Ngọc mỗi đứa mỗi lớp. Cả ba đứa đều nguyện vọng thi vào trường Sư phạm nhưng Hưng theo khối A, Ngọc khối D, còn tôi khối B. Ngoài giờ học thêm toán cùng nhau vào buổi tối, chúng tôi ít có thời gian gặp nhau. Dẫu vậy, tình bạn của chúng tôi vẫn bền chặt, keo sơn.

Mùa hè, trời nắng như đổ lửa, chị tôi có lẽ vì thế mà bệnh nặng thêm. Chị hay ôm đầu, tự đập vào tường rồi lại rì rầm những tiếng nghe không rõ. Chị nói suốt ngày đêm. Tôi thương chị nhưng cũng có chút bực dọc vì không thể tập trung học được. Lắm khi, tôi lại ngửa mặt lên trời, muốn hỏi trời cao, chúng tôi, những kẻ sống một đời thiện lương, đến con kiến cũng không nỡ giết, sao ông trời lại nhẫn tâm với chị như vậy.

Cả nhà bị chó dại cắn, 2 cha con tử vong

Vào đại học, Hưng ngỏ lời yêu tôi. Tôi bối rối tìm cách hoãn binh. Tình cảm của Hưng bao năm qua không phải tôi không biết. Tôi cũng không phải sắt đá đến nỗi không biết rung động. Nhìn mẹ tôi ngày một già đi, tôi ao ước gặp được một người chân thành và chấp nhận được chị tôi để tôi có thể đưa mẹ và chị về sống cùng. Hưng yêu tôi nhưng cậu có đồng cảm với những trăn trở của tôi hay không, tôi không chắc.

Một hôm, Ngọc bảo tôi đến trung tâm bảo trợ xã hội nuôi dạy trẻ mồ côi, người khuyết tật của thành phố cùng cô ấy. Ngọc chỉ một cậu bé, nói với tôi:

– Đó là Khang. Nó bị thiểu năng trí tuệ. Lúc mười tuổi được đưa vào đây, hiểu biết của nó như một đứa trẻ sáu tuổi. Được các thầy cô ở đây dạy bảo, mỗi năm, nó lại thêm một tuổi, nó sống ở đây bốn năm rồi. Giờ thì đã khá hơn.

Ngọc lại chỉ tay về phía một cô gái khác:

– Chị ấy là Bảo Trâm. Chị ấy bị tai nạn, bố mẹ mất cả, đi lại khó khăn nhưng học rất giỏi, đang học năm thứ ba trường Cao đẳng đấy.

Ngọc bảo rằng cô ấy đã tìm hiểu rất kĩ nơi này. Có rất nhiều người khuyết tật đã trưởng thành từ nơi này và khuyên tôi nên đưa chị vào đây. Tôi hiểu sự chân thành của Ngọc và đằng sau ấy có thể là sự quan tâm tế nhị của Hưng dành cho tôi vì cả ba chúng tôi vẫn thân thiết với nhau.

Nhưng suy đi tính lại, khi bàn bạc, mẹ tôi cương quyết không cho chị vào trung tâm bảo trợ xã hội. Mẹ bảo, chị được mẹ sinh ra thế nào thì sẽ ở với mẹ thế ấy. Nhìn chị sống như một đứa con mồ côi mẹ không đành lòng. Tôi cũng không đành lòng. Chị chỉ như một đứa trẻ, nếu không có mẹ và tôi ở cạnh, không biết chị sẽ thế nào, liệu có được ăn no, có được tắm rửa sạch sẽ, hay lại bị người khác bắt nạt, thậm chí đánh đập vì sự khù khờ của mình.

Rồi chị vẫn ở với chúng tôi như ngày nào và mẹ nhận thêm việc nấu ăn cho đoàn công nhân ở công trường. Buổi sáng, mẹ nấu luôn cả phần cơm trưa cho chị rồi đi làm, chiều muộn mẹ mới về. Còn tôi, sau khi nhận làm gia sư cho một cậu học trò lớp chín và một cô bé lớp bảy, tôi có thể tự trang trải chi phí sinh hoạt của mình. Cuộc sống của ba mẹ con tôi khá hơn. Tối tối, bên chiếc ti vi, chị ngồi trong lòng mẹ xem phim. Tôi mải mê với sách vở. Cuộc sống thanh đạm nhưng thật bình yên.

Một dạo, chị tôi bỗng lười ăn, mỗi bữa chỉ lưng bát cơm. Được mấy hôm, chị bảo không muốn ăn nữa. Mẹ tôi mua cho chị lọ nước yến hay hộp sữa nhưng uống vào chị nôn ra hết. Mẹ tôi mặt tái xanh đưa chị đến bệnh viện. Người ta khám cho chị rồi bác sĩ bảo, chị đang mang thai. Cái thai đã được mười một tuần tuổi. Cái tin như một cú sét đánh ngang tai. Mẹ tôi sững sờ, run rẩy, chân như muốn khuỵu xuống. Mẹ trừng mắt nhìn chị, cố kìm giận dữ nhưng vẫn gằn lên từng tiếng: “Là ai? Từ khi nào?”. Chị run sợ, nép mình vào chân tường, ngồi co ro như chú cún con bị ướt mưa. Mẹ hết dỗ ngọt lại đến dọa nạt, nhưng tra hỏi kiểu gì chị cũng không nói. Rồi mẹ bắt đầu khóc. Mẹ gào lên như một đứa trẻ. Mẹ trách ông trời, mẹ trách cuộc đời, rồi lại tự trách mình. Lòng tôi đau như cắt. Tôi hận ông trời, hận cuộc đời này và hận cả bản thân mình. Giá mà tôi ở bên chị nhiều hơn, quan tâm đến chị nhiều hơn thì đâu đến nông nỗi.

Sau một đêm thức trắng, mẹ ngậm ngùi nói những lời dứt khoát: “Bỏ cái thai đi. Đã không biết bố đứa bé là ai, nó lại điên điên khùng khùng như vậy, làm sao nuôi được con. Đẻ ra chỉ tổ làm tội con mà thôi. Đời nó khổ quá rồi, đừng để phải khổ thêm nữa”. Tôi chưa hết bàng hoàng thì chị tôi đã lao đến ôm chân mẹ, nấc lên từng tiếng một: “Không! Không! Con của Bống. Không được bỏ. Bống nuôi con”. Mẹ dỗ dành chị, rồi lại chuyển sang la mắng nhưng không lay chuyển được ý muốn của chị. Chị muốn có con. Lúc này, chị không còn là một đứa trẻ nữa.

Mẹ tôi tâm hướng Phật, đâu muốn tạo nghiệp nhưng đời chị khổ quá, mẹ tôi xót xa. Hai ngày chị bỏ ăn, chống đối. Nhìn thấy sự thay đổi của chị, mẹ cũng phải suy nghĩ lại. Ừ thì đầu óc nó như một đứa trẻ nhưng nó cũng đã gần ba mươi. Cái đầu nó không theo kịp tuổi, nhưng trái tim nó, biết đâu, lại theo kịp. Thôi đành, con dại cái mang. Ngày qua ngày, mẹ chăm chút chị nhiều hơn. Hàng xóm tiếng xì xào bán tán nhưng mẹ và chị mặc kệ. Chị hay nhìn xuống cái bụng bầu của mình, áp tay vào đó, đôi mắt lim dim như thể cảm nhận được nó – đứa bé ấy. Những lúc thế này, nhìn chị chẳng có vẻ gì là điên cả.

Rồi cũng đến ngày mãn nguyệt khai hoa, chị tôi sinh một bé trai kháu khỉnh. Mẹ tôi ẵm đứa bé, đặt vào lòng chị, bày chị cách cho con bú. Ngày đêm mẹ không rời chị nửa bước, sợ chị ngủ quên lúc cho bú, sẽ đè ngộp con. Căn phòng nhỏ tôi hay ngồi học, mẹ kê thêm chiếc giường cho mẹ con chị một chốn riêng tư trong thời gian ở cữ. Xóm giềng, cô bác, người ta cũng dần cảm thông, vừa mừng, vừa thương cho chị. Họ hay biếu chị khi chục trứng gà, khi đôi lốc sữa để chị bồi dưỡng. Không giống như cách chị chơi với con búp bê ngày trước, với đứa bé, chị nâng niu nó một cách kì lạ. Mỗi lúc nó cười, trên gương mặt chị toát lên vẻ rạng rỡ, dịu dàng. Đứa bé dường như biết thương mẹ, nó ít quấy khóc và bú nhiều, ngày càng phổng phao trông thấy. Mẹ tôi đặt tên nó là Minh, mong sao nó có một tương lai tươi sáng.

Thấy cảnh nhà cửa chật hẹp, lại thêm một đứa trẻ, mẹ tôi dành dụm xây thêm một gian nhà ngang dành riêng cho mẹ con chị. Tuy gọi là nhà riêng nhưng chị vẫn ăn cùng cả nhà, chỉ có buổi tối mẹ con chị mới về phòng để ngủ.

Rồi một thời gian, tôi thấy chị rạng rỡ hơn, chị chăm lo cho đứa bé tốt hơn và trên khuôn mặt người đàn bà nửa điên dại dường như có một niềm vui giấu kín. Tôi thấy chị dần trở nên sạch sẽ, gọn gàng. Một linh cảm trong tôi lớn dần.

Một buổi tối, tôi thức dậy giữa đêm. Mẹ tôi khó ngủ nên gần sáng bà mới ngon giấc. Cảm giác một điều gì đó rất lạ, tôi nhè nhẹ mở cửa, bước sang bên nhà ngang. Dưới ánh trăng mờ sáng, qua cánh cửa sổ khép hờ tôi nhìn thấy chị tôi và một người đàn ông đang quấn chặt vào nhau. Những âm thanh rên rỉ và tiếng da thịt chạm vào nhau khiến tôi đỏ mặt. Nhưng chị không giống bị người ta cưỡng bức, chị cũng hòa quyện, đung đưa theo hắn. Không lẽ đó là bố đứa trẻ? Tôi đứng chôn chân, nhìn hai bóng đen hòa quyện dưới ánh trăng.

Cả đêm hôm ấy, tôi không sao ngủ được. Mỗi lần nhắm mắt lại, hình ảnh hai cái bóng mờ ảo quấn quýt vào nhau lại hiện ra. Tôi không biết có nên nói với mẹ chuyện này hay không. Nhìn những thay đổi gần đây của chị, tôi biết, chị đang yêu. Chị sạch sẽ, ít nói những câu vô nghĩa hơn. Người điên, họ vẫn có thể yêu chứ, bởi vì họ cũng có trái tim. Nhưng tôi lo lắng, không biết chị có bị người ta lợi dụng hay không. Dù sao, về bản chất chị vẫn là một kẻ điên. Trên đời này, có người đàn ông nào lại ngu ngốc đi yêu một kẻ điên dại chứ? Tôi quyết định im lặng, tự đi tìm cho mình một câu trả lời.

Đúng như tôi linh tính, hôm sau, hắn lại đến. Hắn cúi xuống thơm nhẹ má đứa bé đang say giấc. Rồi hắn mò sang nằm bên cạnh chị, ôm ấp, vuốt ve. Nhìn cách hắn mơn trớn chị, tôi tựa hồ như đang có kiến bò khắp người. Một cảm giác rất lạ dâng lên khiến tôi hoang hoải, mất phương hướng. Tôi dám khẳng định hắn chính là cha của bé Minh. Nhưng vì sao hắn không đến nhận? Hắn có thật sự yêu chị tôi? Hắn xấu hổ khi yêu một kẻ điên hay hắn tìm đến chị chỉ để thỏa mãn dục vọng? Lòng tôi giằng xé giữa bao ngổn ngang. Tôi quyết định nếu có lần nữa sẽ ra mặt, gặp hắn để làm rõ mọi chuyện.

Khi ánh trăng lên đến đầu ngọn tre, một bóng đàn ông lẻn vào. Tôi toan gõ cửa thì linh cảm có người đang đứng ngay sau lưng. Bất giác, tôi quay lại. “Mẹ!” Tôi kêu lên, bàng hoàng. Nghe có tiếng người, hắn lao vọt ra khỏi cửa, bỏ chạy. Nhờ ánh trăng chiếu rọi, tôi nhận ra bóng hắn xiêu vẹo, khập khiễng. Một bên chân hình như bị thọt. Chị đứng ngây dại giữa màn đêm tối đen. Mẹ tôi tra hỏi dữ dội: “Là ai, đấy là thằng nào?” Cuối cùng, chị cũng nhận, hắn chính là cha của bé Minh. Ngày đó, chị đang tắm ở sau chòi, hắn vô tình đi ngang qua khi cả nhà đều đi vắng. Hắn chiếm đoạt chị. Một lần đó rồi thôi và chị có bầu. Nhưng sau khi chị sinh bé Minh, hắn đã quay trở lại, mang trứng, mang sữa, mang bánh trái cho chị. Và rồi, đêm đêm, hắn lại đến, để sống giây phút được làm chồng, làm cha lén lút.

Mẹ tôi chửi chị ghê lắm:

– Mày làm thế mà không biết tởm à, mày có biết nó là ai không, là gã thọt chuyên mò hến ven sông. Thằng ấy cũng dở người nên không ai lấy.

Chị khóc, tóc chị rũ rượi:

– Nhưng anh ấy là bố đứa bé. Anh ấy thương con. Cả xóm này không ai yêu con cả, chỉ có anh ấy thôi.

Còn những cảnh nghèo - YouTube

Mẹ tôi dẫn chị ra bờ sông, bế theo đứa bé, dẫn đến cái nhà tạm bợ của người đàn ông kia. Khi nhìn thấy mẹ tôi và đứa bé, anh ta bỗng trèo tót lên ngọn một cây. Hành động ấy càng làm mẹ tôi điên tiết.

– Này, cái thẳng dở người kia, mày có chịu xuống đây nói chuyện cho tử tế không hả?

Nghe mẹ tôi mắng, hắn biết mẹ tôi đã biết mọi chuyện, sợ bị bắt đền, càng ở tít trên cây không chịu xuống. Mẹ tôi giận lắm, nổi đóa lên:

– Mày mà không chịu xuống đây, tao lấy dao chặt gốc cho mày chết luôn.

Chị tôi tưởng mẹ làm thật, ngăn mẹ lại:

– Mẹ để con khuyên anh ấy.

Chị bế con, đứng dưới gốc cây, nước mắt lã chã:

– Anh xuống đi. Anh mà không chịu xuống, em bế con nhảy xuống sông luôn.

Rồi chị dịu dàng đưa tay vẫy vẫy. Thằng bé con cũng làm theo mẹ, cái tay bé xíu đung đưa. Người đàn ông ngượng ngùng, tụt xuống, rồi chạy lại bên chị, ôm đứa bé, hôn hít rối rít.

Mẹ tôi bảo:

– Chúng mày đã nhận nhau, dù điên dại thì cũng phải ở nơi tử tế. Cái lều ven sông này không hợp. Đứa trẻ cần có bố.

Rồi mẹ nhìn người đàn ông kia, quyết liệt:

– Còn mày, mày đã là cha đứa bé, phải có trách nhiệm với mẹ con nó. Mau sửa soạn, gói ghém đồ đạc về đó ở cùng mẹ con nó. Có mắm ăn mắm, có muối ăn muối. Một ngày vợ chồng, nghìn năm ân nghĩa, huống chi chúng mày…

Mẹ tôi bỏ dở câu nói. Chẳng biết hắn có hiểu được không, nhưng hắn chạy nhanh vào nhà, lấy mấy bộ quần áo cho vào cái túi, hớn hở đứng nép bên chị tôi, rồi lủi thủi theo mẹ về nhà.

Từ ngày có hắn về, chị tôi vui vẻ, nói cười nhiều hơn. Những lúc ở cạnh bé Minh và người đàn ông kia, trông chị chẳng điên, hắn cũng chẳng dở. Chiều chiều, chị tôi lại bế con ra ngõ, đợi hắn đi cào hến dưới sông về. Từ phía xa, người đàn ông mồ hôi nhễ nhại nhưng gương mặt tươi tỉnh chạy vội về phía hai mẹ con. Thấy cảnh ấy, tôi lại nhớ đến Hưng, thầm nghĩ, có lẽ đã đến lúc tôi phải chuẩn bị cho hạnh phúc của riêng mình rồi. Và mỗi khi ráng chiều tắt hẳn, cả nhà tôi lại quây quần bên mâm cơm. Ngôi nhà như sáng hơn bởi có bóng dáng đàn ông và tiếng bi bô con trẻ./.

DIỆU PHÚC

https://vanhocsaigon.com/truyen-ngan-cua-dieu-phuc-chi-toi-ben-ben-song/

BÀI VIẾT RẤT HAY VỀ NƯỚC MỸ CỦA TÁC GIẢ NGÔ ĐÌNH CHÂU (Việt Báo)

Một ghi nhận hay về nước Mỹ của 1 người chân chất làm nghề móng tay:

Tác giả đã nhận giải Danh Dự Viết Về Nước Mỹ 2015. Ông sinh năm 1952, dân Sài gòn, cựu sinh viên Văn Khoa, cựu Sĩ quan Quân đội Miền Nam, một trung đội trưởng tác chiến. Hồi cuối cuộc chiến, chàng là một thương binh và buổi sáng ngày 1 tháng Năm 1975, bị đuổi ra khỏi quân y viện… Bài viết mới của tác giả không kể chuyện xảy ra trên đất Mỹ, nhưng là một hồi ức sống thực về cuộc chiến còn trong tâm tưởng biết bao người ở Mỹ.

Gia đình tôi sinh sống trên đất Mỹ được 23 năm

Gia đình tôi đến Mỹ năm 1993 đến nay 2016 đã được 23 năm, vì hoàn cảnh sinh sống chúng tôi phải di chuyển qua nhiều nơi chốn, thế nên biết thêm được nhiều điều về nước Mỹ.

Thoạt đầu đến Mỹ chúng tôi cư ngụ tại thành phố Hawthorne – nam Cali vì do bà chị giúp đở sponsor cho. Ở đây chúng tôi share phòng với nhà chị, vợ chồng con cái dồn vào một phòng nhỏ tí thật bất tiện rồi dần dà cũng quen. Ở Hawthorne, vợ chồng tôi đi đến trường chuyên dạy nghề nail để học lấy cái bằng. Rồi kể từ năm 1995 chúng tôi sinh sống bằng nghề này, một nghề duy nhất cho đến bây giờ.

Cali là nơi sinh sống lý tưởng cho người Việt Nam khí hậu mát mẻ quanh năm như Đà Lạt. Ở VN có món ngon gì thì Cali cũng có đủ, có khi còn ngon tuyệt hơn nữa vả lại thực phẩm được kiểm tra rất nghiêm ngặt nên không sợ độc hại như bên nhà. Ra đường gặp toàn người Việt đi đâu cũng nói tiếng Việt thoải mái, sống trên đất Mỹ mà hoàn cảnh sống gần như VN.

Chỉ kẹt một điều nghề Nail ở Cali bị cạnh tranh rất dữ, nên giá “bèo” hơn các Tiểu bang khác nhiều lắm nhất là so với các Tiểu bang miền Bắc. Thứ hai nhà cửa Cali lại rất mắc mỏ, có người ví von bán một căn nhà ở Cali đem tiền qua Tiểu bang khác mua được hai căn nhà. Vợ chồng tôi lúc đó đã trung niên e rằng khó lòng mua nổi một căn nhà cho dù trả góp.

Sau 4 năm ở Cali vợ chồng con cái lại đùm túm qua Tiểu bang khác, về thành phồ Joliet thuộc TB Illinois, một thành phố nhỏ gần Chicago cách đó khoảng 1 giờ lái xe. Chúng tôi đến Joliet vào mùa đông thấy tuyết bay đầy trời mà lòng kinh hãi. Tất cả cảnh vật đều phủ một màu trắng toát và lạnh kinh hồn. Cảm nghĩ đầu tiên của tôi về Joliet đây là nơi chốn không thể sống lâu dài được, chỉ sống tạm bợ để kiếm tiền rồi chuồn thẳng.

Có lẽ hầu hết người VN đều rất sợ lạnh đồng thời lại rất sợ cái khung cảnh u buồn của mùa đông, cảnh buồn người có vui đâu bao giờ, bầu trời âm u màu chì kéo dài suốt 6 tháng khiến người ta cảm thấy chán chường, không còn cảm thấy muốn sống háo hức nữa cho dù nơi đây chúng tôi kiếm rất nhiều tiền. Sau 5 năm, chờ cho con gái học xong lớp 12 chúng tôi quyết định đi về miền nắng ấm tiểu bang Florida. Ngày đi, bao nhiều đồ đạc sắm sửa tạm bợ vất đi hết chỉ mang theo quần áo và đồ dùng cần thiết.

Xong xuôi, chúng tôi lên xe bấm 3 hồi còi dài để giã từ Joliet, giã từ vùng tuyết trắng lạnh lùng. Sau đó giong ruổi qua một quãng đường dài 1200 miles để đến Jacksonville – Florida.

Tôi chọn Jacksonville vì muốn trốn cái lạnh cái buồn nơi miền Bắc và xuôi nam để hưởng nắng ấm mặt trời quanh năm. Ngoài ra, ở đây tôi còn có một người bạn rất thân từ hồi Trung học, muốn gần gủi bạn bè cho vui. Té ra không phải vậy chúng tội bận rộn tíu tít với công việc, đâu có thời gian mà gặp gỡ nhau nhiều. Lâu lâu tiệc tùng họp mặt uống vài chai bia và tán gẫu dăm ba câu chuyện, rồi chia tay ai về nhà nấy.

Chúng tôi ở Jacksonville thấm thoát được 13 năm một thời gian khá dài cho một nơi chốn. Trước nay chưa khi nào chúng tôi ở một chổ lâu đến như vậy. Hàng năm vào ngày Labor Day chúng tôi thường hay kéo xuống Tampa, thăm gia đình người em trai của tôi cách đó 4 giờ lái xe.

Có một lần không biết nghĩ sao, em tôi nói:” Khi nào anh chị về hưu, xuống đây mua một ngôi nhà, có mảnh vườn bao quanh, tha hồ mà trồng trọt vui với tuổi già. Tampa khí hậu nóng ẩm quanh năm, trồng cây gì cũng được.” Nghe nói như thế, giống như mọt tia chớp lóe lên trong đầu tôi:” nếu có thú vui này, sao không về Tampa sinh sống, càng sớm càng tốt !” Ở Jacksonville, mùa đông đôi khi lạnh dưới không độ C, trồng cây gì cũng chết, ngoại trừ cam bưởi.

Thế rồi một lần nữa và có lẽ lần cuối cùng, chúng tôi quyết định dời về Tampa. Sau đó, chúng tôi tiến hành hai công việc, mua ngay một căn nhà tại Tampa và sau đó bán căn nhà tại Jacksonville. Công việc mua bán không đơn giản, cũng may em dâu tôi làm nghề địa ốc, nên mọi chuyện rồi cũng suôn sẻ. Đồng thời đóng cửa tiệm Nail gọi người đến cho hết đồ đạc.

Rồi ngày dọn nhà cũng đã đến, công việc dọn nhà lần này nhọc nhằn hơn hai lần trước. Bởi lẽ các lần trước, chúng tôi chủ trương sống tạm bợ nên không sắm sửa gì nhiều bây giờ ngổn ngang trăm thứ. Suốt một tuần lễ, cả nhà tập trung cao độ đóng gói đồ đạc vào các thùng giấy, rồi bưng bê ra gara chất đống chờ người đến bốc dỡ. Có chuyện khôi hài khi dọn nhà, ngày nào vợ chồng cũng cãi nhau, ông muốn vất hết những đồ không dùng đến, còn bà thì cứ ôm theo hết, nhất quyết không buông bỏ. Có người ví von rằng, một lần cháy nhà bằng hai lần dọn nhà, để nhằm nói lên nỗi nhọc nhằn khiếp đảm của việc dọn nhà. Cho đến nỗi, có người dọn nhà chỉ một vài lần là đủ tởn, thề không bao giờ dọn nữa, trong đó có tôi.

Tampa nằm ở khoảng giữa và thuộc bên bờ Tây của Florida, nó nằm trên một vịnh nhỏ có tên là Tampa Bay, vịnh này thông ra vịnh Mexico khổng lồ. Tampa có dân số trên 1 triệu người, đứng hàng thứ 3 tại Florida, sau Miami và Orlando. Tuy có dân số cao nhưng diện tích lại nhỏ hơn các thành phố khác cho nên dân cư cảm thấy đông đúc hơn, luôn luôn lúc nào cũng thấy xe cộ chạy dày đặc trên đường. Thời tiết Tampa có bốn mùa rõ rệt, mùa Thu cũng quét lá mệt nghỉ, mùa Đông cũng hơi hơi lạnh khoảng 50 độ F (khoảng 10 độ C) mùa Hè nóng hừng hực trên 90 độ F (32 độC).

Căn nhà ở Tampa của chúng tôi đã trên 30 tuổi, nhà nhỏ chỉ có 1,100 sqf (khoảng 100 mét vuông), cũng có 3 phòng ngủ và 2 phòng tắm, giá mua là 129K. Căn nhà sơn 2 màu xanh trắng, mặt ngó thẳng ra hướng Đông, đúng cái hướng mà các Thầy Tử vi khuyên tôi nên chọn cho hạp tuổi, không biết có đúng như vậy không, thôi thì có kiêng thì có lành. Trước và sau nhà có 2 cây sồi (oak) cổ thụ tỏa bóng mát trông thật đẹp, nhưng ngặt một điều là không trồng trọt gì được dưới tàn cây của chúng. Cây sồi được coi là tài sản cảu Florida, tỉa nhánh mé cành thì không sao, còn muốn đốn bỏ phải xin phép.

Khi dọn nhà đi thì chứa đồ đạc ở trong thùng, khi đến chổ mới thì dỡ đồ đạc ra để xếp vào các nơi, cả nhà xúm lại làm suốt ngày, khoảng 2 tuần sau thì tạm ổn. Đến cuối tháng, có bửa nghe điện thoại reo, tôi nhấc lên thì được biết có người chủ tiệm Nail được bạn bè giới thiệu bèn gọi đến mời vợ chồng tôi đi làm. Thế là yên phận sống trong căn nhà mới.

Bước ra mảnh vườn, chủ trước họ trồng cây kiểng um tùm trông phát ớn. Tôi kêu một anh Mể tới dọn dẹp, anh chàng này ngơ ngác không biết nói tiếng Anh, muốn bàn công việc phải nói qua điện thoại với vợ hắn. Anh Mể ra giá tiền công là 500 đô, tôi chẳng biết gì nên cứ gật đầu bừa cho xong. Trước nay tôi có nghe nói đàn ông Mể có sức khỏe kinh người, bây giờ khi tận mắt chứng kiến cái cảnh anh Mể này làm việc mà kinh sợ, sợ anh ta ngã lăn ra chết bất tử. Anh ta làm việc dưới trời nắng như đổ lửa và ghê gớm ở chổ, suốt từ sáng tới chiều anh ta chớ hề nghỉ tay. Tới trưa tôi chạy đi mua cho anh một cái bánh hamburger, anh ta nhai nhồm nhàm xong nốc cạn lon Coca, rồi hì hục làm tiếp. Anh ta cứ làm như thế suốt 3 ngày trời, khuôn mặt bình thản, không than vắn thở dài gì hết, mọi chuyện đều bình thường đối với anh ta. Thiệt đáng nể.

Dọn dẹp mảnh vườn xong, tôi chưa biết chỗ nào bán cây ăn trái để mua về nhà trồng. Thời may con gái có người bạn giới thiệu cho Khu Chợ Trời bên thành phố St Petersburg. Nằm kề cận Tampa có 2 thành phố vệ tinh là St. Petersburg và Clearwater. Cả ba tạo thành một hình tam giác, từ nhà đi qua hai nơi này khoảng nửa tiếng.

Theo sự hiểu biết của tôi, thành phố St. Petersburg gọi tắt là St. Pete. (phe ta kêu là Săn Pí) tuy nhỏ hơn Tampa, nhưng không hiểu sao người Việt lại quần tụ đông hơn, chợ búa và nhà hàng Việt Nam đông hơn bên Tampa. Chợ tuy nhỏ cũng có bán đủ thứ hàng, cũng có quày thịt cá tươi sống, cũng có đủ các loại to go như bún mì phở… còn các loại ăn chơi thì ê hề. Nhà hàng VN cũng nho nhỏ, có nhiều nơi cũng có thức ăn ngon nổi tiếng. Tóm lại sinh hoạt của người Việt nơi St. Pete khá nhộn nhịp.

Từ Tampa qua St. Pete phải chạy qua cây cầu Howard dài 6 dặm, cây cầu rất đẹp, đẹp ở chỗ cầu chạy sát mặt biển, khiến ta có cảm giác sóng biển đang vờn bên má mình, đến giữa thì cầu nhô lên cao cho tàu thuyền qua lại. Sáng sớm chúng tôi chạy qua cây cầu này, rồi nhìn qua hai bên, mặt biển lặng im xanh ngắt và trải rộng mênh mông tới chân trời, có những chiếc thuyền rẽ sóng ở xa xa, đã tạo nên một khung cảnh kỳ thú tuyệt đẹp. Từ đó mỗi sáng sớm Chủ nhật, chúng tôi đi qua cây cầu để đến Chợ Trời, chưa bỏ qua một lần nào hết.

Khu Chợ Trời (Flea Market) St. Pete, nằm trên một khu đất rộng, khung cảnh nhộn nhịp bát nháo như bất cứ Khu Chợ Trời nào khác, tuy nhiên mọi nơi đều sạch sẽ, không hề thấy ai xả rác. Những người bán hàng, họ dựng lều hoặc che dù san sát nhau, người người đi lại tấp nập. Vợ chồng tôi khi lần đầu tiên đến đây, chỉ đi dạo một vòng là trong lòng bỗng nhiên cảm thấy vui thích lắm.

Theo tôi, Chợ Trời St. Pete là một nét văn hóa đặc sắc của vùng vịnh Tampa. Sau này khi có bạn bè đến thăm viếng, chúng tôi đều đưa đi thăm Chợ Trời và mọi người đều rất thích thú, kể cả người từ VN qua. Tôi thấy người mua kẻ bán ở đây rất đông người Việt và kỳ lạ một điều, những người Việt hiện diện tại đây đều có gốc gác từ miệt Đồng bằng sông Cửu Long, không hề thấy ai nói giọng Bắc giọng Trung ( hay là có nói mà tôi chưa gặp) Phần lớn những người này lại xuất thân từ vùng đồng quê chứ không ai xuất thân từ thành phố, cho nên giọng nói của họ nghe quê rặc và rất thiệt thà chơn chất, nói sao bán vậy, chứ không hề nói thách một tiếng nào.

Tôi hỏi cô bán hàng trái cây: “Nhãn này giá bao nhiêu tiền một pound vậy cô?” Cô cười đáp: “Dạ, 3 đồng “gửi” một pound”. Tôi nói giỡn: “Sao mắc vậy?” Cô ta cười lỏn lẻn: “Em bán “ghẻ ghề” mà anh chê mắc !” Tôi cười lớn: “Cha! cái giọng này sao nghe giống dân Rạch giá quá vậy ta?” Cô ta cũng cười theo: ” Dạ đúng vậy, em quê Giồng Riềng- Rạch Giá đây anh”.

Có một số người Việt lớn tuổi ở St. Pete không xin đi làm hãng được, bèn ở nhà trồng rau, nuôi gà vịt rồi mang ra chợ trời bán. Nhà cửa ở vùng này rất cũ kĩ và nhỏ xíu, nhưng được cái là có đất khá rộng chung quanh nhà, cho nên thoải mái trồng trọt. Ngoài những thứ thường thấy như rau cải, bầu bí, khổ qua… người ta còn thấy bày bán ở đây những thứ khó tìm như: rau càng cua, bông so đủa, bông điên điển, cọng bồn bồn, rau nhút, rau muống nước (loại rau này tôi chưa từng thấy ở những nơi khác)… Có nhà nuôi gà vịt “đi bộ”, hay ấp trứng vịt lộn cũng mang ra chợ bán. Trái cây thì tràn ngập các loại trái cây VN, vùng đất này trồng mãng cầu, nhãn, thanh long rất tốt, ngoài ra còn có ổi xá lị, trái li ki ma, mít, xoài…

Xoài ở St. Pete có loại trái mập ú, trông ô dề xấu xí, nhưng khi ăn thì có mùi vị thơm ngon, hột lại nhỏ xíu, rất đặc sắc. Vú sữa cũng có, nhưng trái nhỏ tí như trái chanh, ai cũng chê chẳng thấy ai mua. Hầu hết các loại cây trái VN đều trồng được ở vùng này, ngoại trừ sầu riêng, chôm chôm và măng cụt.

Chúng tôi đi dạo qua khu bán cây ăn trái. Anh chủ khu này tên Sang, khoảng 40 tuổi người quê Bạc Liêu, hiện làm chủ một nông trại khoảng 20 acres (acre – mẫu Anh, cở 4000 mét vuông). Anh Sang chuyên nghề ghép cây ăn trái. Mấy cây nhãn, bưởi, cam, quít… cây thấp lè tè mà trái treo lúc lỉu trông thật “đã” mắt. Anh chàng này bán cây nổi tiếng khắp vùng Tampa. Những cây ăn trái của Sang thuộc loại hàng “độc”. Anh ta có những loại xoài mà không chỗ nào có được, như một loại xoài lạ, khi trái còn xanh thì chua tê lưỡi, nhưng khi chín thì thơm ngon không thể tả, và lạ lùng không biết làm sao anh ta cũng có xoài cát Hòa Lộc của Mỹ Tho. Có loài mận VN, khi còn non trái có màu xanh, khi chín tới có màu hồng đào, cắn vào miệng nghe dòn tan ngọt lịm. Anh ta có đủ thứ cây ăn trái khác như hồng dòn, hồng mềm, cây bơ quả nhỏ mà béo ngậy, quít đường Cần thơ, bưởi Biên Hòa… tất cả đã được anh ta tuyển chọn công phu nên mua cây của anh ta chúng tôi đều rất yên tâm về chất lượng.

Đi dọc dài, người đi lại nhộn nhịp vui chưa từng thấy. Ngoài người Việt, còn có một sắc dân đặc biệt khác cũng chiếm số đông ở đây, đó là người H’mong, xuất phát từ vùng núi non của nước Lào ( lạ nhỉ ! không hiểu sao họ lại ở đây) Trong khi người Việt nói chuyện với nhau huyên thuyên bằng tiếng Việt, thì người H’mong cũng không kém ồn ào bằng tiếng nước họ.

Chỗ kia, có một anh người Việt chở nguyên một xe truck dừa xiêm đổ xuống một đống lớn, ai thích trái nào anh ta sẽ chặt dừa, xong cắm ống hút vào đưa cho khách, khách vừa đi vừa uống trông rất vui. Nơi khác người ta xúm xít quanh một cái bàn, chờ mua gỏi Thái Lan của hai vợ chồng người Thái, gỏi làm bằng đu đủ bào, cà pháo tươi, đậu phọng rang, trộn với nước chanh và mắm ba khía, mùi vị ngon khá lạ. Có người Việt kia đi chày tôm ngoài sông rồi đem ra chợ bán, tôm chứa trong thùng cooler, nghe anh ta rao hàng, tôm nhỏ giá 2 đô rưởi, tôm lớn 7 đô một pound. Có chỗ bán cá, bán hoa lan, bán nước mía tươi ép tại chỗ… Tất cả đã tạo nên một bức tranh hết sức sinh động và hấp dẫn của Chợ Trời St. Pete.

Lần hồi, tôi khuân về nhà lũ khủ các loại cây ăn trái, mỗi thứ một cây: xoài, nhãn, bơ, trái vải, quít đường, bưởi… rồi chạy ra chợ mua mấy bao phân bón vào gốc. Hàng ngày tôi ra vườn tưới tắm cho cây, cây lớn lên như thổi, đâm chồi ra lá xum xuê, một thời gian ngắn sau cây ra hoa kết trái, trái nhỏ tí trông dễ thương làm sao.

Trồng cây là một thú vui thanh tao, bởi vì không phải là mong tới ngày ăn quả, mà vì một niềm vui khác, khi trong lòng cảm thấy có một sợi dây tương thông thân ái với cây trái trong vườn nhà. “Cám ơn hoa đã vì ta nở. Thế giới vui từ mỗi lẻ loi”. (Tô Thùy Yên)

Thành phố vệ tinh thứ hai của Tampa là Clearwater, một thành phố du lịch, nhà cửa mắc mỏ nên dân Việt ít người dám sống ở đây. Con đường dẫn vào thành phố tuyệt đẹp cũng có một cây cầu dài khác chạy sát mặt biển băng qua vịnh Tampa, trên đường có những lối rẽ cho ai muốn câu cá thì ghé vào. Hai bên đường có trồng hai hàng cây cọ trông rất thơ mộng, con đường chạy thẳng ra vịnh Mexico. Ngày cuối tuần, người ta ở các nơi kéo đến tắm biển đông nghịt như ở Nha trang bên quê nhà. Lúc đầu chúng tôi cũng ngại ngần chuyện tắm biển, nhưng sau đó thấy người người thản nhiên xuống tắm, đủ sắc dân, đủ dạng người, đủ lứa tuổi… nên chúng tôi cũng kéo xuống tắm cho vui. Té ra biển ở đây rất tuyệt, nước biển trong xanh và phẳng lì chứ không hề có sóng dữ, nước biển lại ấm áp, chứ không lạnh cóng như biển Cali. Khi đã tắm được một lần là coi như vượt qua rào cản ngại ngùng, từ đó cứ dăm ba tuần chúng tôi lại kéo đi tắm biển, rất khoan khoái và thư giản.

Tôi về Tampa đến nay đã được gần hai năm. Không biết có phải vì đất trời phong thủy vận hợp với mình hay sao, mà từ khi về đây tôi thấy trong người sảng khoái lắm.

Đêm về, lên giường là ngủ một mạch đến sáng, điều này trước kia chưa hề có nơi tôi. Trong thời gian ở Jacksonville vì nặng nợ cơm áo gạo tiền, đêm đến tôi trằn trọc mãi thuốc ngủ lúc nào cũng thủ trên đầu giường, cho nên có thời gian dài tôi mang bệnh anxiety (bịnh lo sợ). Tôi cũng có đọc nhiều bài viết khuyên người ta nên biết buông sả khi lớn tuổi, phải tu đạo này hay theo đạo nọ, theo vị Thầy này hay theo vị thiền sư kia. Nhưng theo tôi tất cả chỉ là vô ích, khi người ta chưa tìm được một hoàn cảnh sống thích hợp thì khó mà tìm được sự an lạc trong đời thường. Đêm về tôi lắng nghe toàn thân, nghe nỗi sung sướng khoan khoái lan tỏa khắp người mình, hình như Thiên đường ở ngay trong lòng mình chứ không phải đâu xa xôi. Cám ơn Nước Mỹ, đã tạo cho tôi điều kiện tìm thấy hạnh phúc đích thực ngay trong đời thường.

Tôi lại nghĩ lan man sang chuyện khác. Trên cõi đời này có hàng triệu triệu người mong ước được đến sinh sống trên đất Mỹ. Đồng thời cũng có triệu triệu người căm ghét nước Mỹ. Tôi còn nhớ biến cố 911 khủng bố tấn công nước Mỹ, phần lớn loài người đều sững sờ kinh ngạc và biểu lộ lòng thương xót đến nước Mỹ. Nhưng không phải là tất cả, trong những giờ phút đầu tiên của biến cố, người Palestine đã đổ ra đường hò reo mừng rỡ cho thắng lợi của những người tử vì đạo. Có một phái đoàn báo chí một nước Á Châu lúc đó được mời đến thăm viếng Mỹ. Khi biến cố xảy ra họ đang đứng trong Trung tâm Báo chí, và đã có thái độ hân hoan vui mừng trong khi đất nước này đang chìm trong đau khổ. Ngay lập tức họ đã bị trục xuất ra khỏi nước Mỹ và vĩnh viễn những con người này không bao giờ được phép đặt chân đến Mỹ. Vui mừng trước nỗi đau của đồng loại là hành vi man rợ, cho nên họ rất xứng đáng nhận lãnh hình phạt này. Nước Mỹ không hề đụng chạm đến đất nước họ, chỉ vì nước Mỹ giàu mạnh hơn, và dân Mỹ sống sung sướng hơn dân nước họ, chỉ đơn giản vậy thôi. Nhà văn NNN đã viết một câu rất hay:”… Có những người không chịu nỗi sự thành công của người khác. Bởi vì họ cứ coi sự thành công của người khác là sự thất bại của chính mình.”

Người Việt cũng vậy, có rất nhiều người mê Mỹ và cũng có rất nhiều người ghét Mỹ. Từ sau biến cố 1975 người Việt đã tìm mọi cách để đến Mỹ. Sau khi phong trào vượt biên chấm dứt người ta tiếp tuc ra đi bằng nhiều cách, hợp pháp hay bất hợp pháp. Hợp pháp là đi theo con đường bảo lãnh thân nhân, cha mẹ, vợ con, hôn thê, hôn phu và sau này thêm diện đầu tư. Bất hợp pháp bằng cách du học du lịch rồi ở lại luôn, hay tìm cách kết hôn giả với người có quốc tịch. Giả thử có người mất vài chục ngàn đô cho công việc bất hợp pháp này, thì suy cho cùng họ còn quá lời. Cái lời trước mắt là con cái được hấp thụ một nền giáo dục ưu tú nhất thế giới, nếu còn ở trong nước mà muốn cho con đến Mỹ du học hàng năm phải tốn khoảng 20 ngàn đô.

Còn nữa, món lời lớn nhất không thể tính bằng tiền bởi vì nó vô giá, đó là được sống trong môi trường xã hội quá lý tưởng, mà người Mỹ đã cố công gầy dựng từ hồi mới lập quốc cho đến bây giờ.

Một xã hội nề nếp, tất cả mọi đường lối chính sách đều rất minh bạch. Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật, không có giai cấp nào, một thế lực hay đảng phái nào được đứng ngoài và đứng trên pháp luật. Mọi người sinh ra đời đều được tôn trọng như nhau, đều có cùng một cơ hội tiến thân như nhau. Cho nên nếu anh nghèo, anh thất bại, anh học hành ngu dốt, là do anh chứ không phải do lỗi của xã hội, không hề có cảnh con quan thì được làm quan, con sãi ở chùa thì quét lá đa. Một xã hội có tính ưu việt vượt trội quá xa những xã hội khác, tôi không dám kể ra đây nhiều nữa sợ nhiều người chạnh lòng.

Có người Việt chưa hề đặt chân đến nước Mỹ ngày nào, nhưng cũng ghét nước Mỹ thậm tệ. Hàng ngày họ xem phim ảnh, thời sự tin tức, họ thấy những cảnh bạo lực ghê rợn cướp của giết người hay sexy khêu gợi, hay mấy vụ cảnh sát bắn chết người da đen… xem riết rồi họ đâm ra ghê tởm nước Mỹ, và còn cho rằng những người Việt qua tới Mỹ rồi đi làm những chuyện xấu xa, là do:” Quít trồng ở Giang Nam thì ngọt, mang trồng ở Giang Bắc thì chua…” đúng là dạng người ếch ngồi đáy giếng.

Có người cứ mở miệng ra là chửi Mỹ như tạo ra cho mình một style lạ, hay chứng tỏ ta đây cũng có một thời “chống Mỹ cứu nước” nhưng thật ra không phải vậy, họ nói một đằng làm một nẻo. Đây là một trường hợp điển hình, hãy nghe nghệ sĩ Kim Tuyến nhận xét về nghệ sĩ Bạch Tuyết: “BT thù ghét nước Mỹ nhưng tại sao lại thích đi Mỹ. Cho con học ở Mỹ rồi lại lấy vợ Mỹ. Phải chăng BT muốn tìm một bãi đáp an toàn sau này ở Mỹ…”

Trong cộng đồng người Việt tại Mỹ có một hạng người không giống ai. Nếu họ là người homeless, hay cuộc đời gặp toàn thất bại thì không có gì đáng nói. Đàng này họ sống trên đất Mỹ đã vài chục năm, làm ăn sinh sống khá thành đạt cũng có của ăn của để, con cái học hành thành tài. Vậy mà hễ cứ có dịp là họ chửi Mỹ, nào là làm ra bao nhiêu tiền, bảo hiểm và sở thuế ăn hết, chủ tư bản bóc lột đến tận xương tủy (câu này sao nghe quen quen!) Có người thấy vậy chướng mắt bèn nói móc họng: “Nếu ông thấy sống ở Mỹ có quá nhiều điều không ưng ý, thì ông nên về Việt Nam sinh sống để khỏi vướng mắt đến những điều này.” Lặng thinh! không nghe câu trả lời, những người này rất xứng đáng mang cái tên là “ăn cháo đá bát”.

Suy cho cùng, để cảm nhận thật sự nước Mỹ phải có thời gian để cho cái “chất Mỹ” nó ngấm vào người. Chứ còn chỉ đi du lịch hay thăm thân nhân vài ba tháng, hay được bảo lãnh qua Mỹ sống vài năm, thì thật tình chưa biết gì nhiều về nước Mỹ. Những người đó cảm thấy nước Mỹ sao chán ngắt, vừa buồn hiu vừa lạnh lùng. Đi đâu cảnh vật cũng từa tựa như nhau, giống y như câu thơ của Nguyên Sa:” Trời trên đất khách buồn vô hạn. Trăng rất quen mà vẫn chẳng quen.”. Thời giờ lúc nào cũng eo hẹp, cặp mắt cứ láo liên ngó đồng hồ. Không hề có cảnh sáng cà phê cà pháo cả tiếng đồng hồ, chiều lai rai bia bọt, kiếm người tán gẫu không phải dễ. Cái xứ gì mà người ta phải ôm đồm đủ thứ nợ: nợ nhà, nợ xe, nợ thuế, nợ bảo hiểm, nợ thẻ tín dụng… Cho nên có rất nhiều người Việt qua Mỹ một thời gian rồi lại quay về cố quốc.

Muốn cái “chất Mỹ” nó ngấm vào người theo tôi nghĩ cũng phải mất cỡ 5 năm. Khi nào người ta thấy nỗi nhớ nhà nó dịu lại, nhìn cảnh vật chung quanh không còn thấy buồn như trước. Vào mùa Đông trời chớm lạnh ra đường thản nhiên vận áo T shirt, điều đó có nghĩa là không còn sợ lạnh như những năm tháng đầu đến Mỹ. Ra đường gặp ai bất kể lạ hay quen đều gật đầu chào:” Hello! How are you doing”. Nói chuyện với người Mỹ không còn dùng body language nữa. Ăn uống không còn thuần túy: bún bò Huế, hủ tíu, mì phở… mà còn thích hamburger, hog dog, pizza, sushi, pasta… Khi nào cảm thấy vui với cái vui của nước Mỹ và buồn với cái buồn của người Mỹ, là coi như không còn có thái độ bàng quang như trước kia, là biết con người mình đã đổi khác.

Cuối cùng một điều quan trọng nhất, là khi ta quay về cố quốc, lòng chợt bàng hoàng thảng thốt, đất nước không còn giống như trong tâm tưởng nữa rồi, mọi chuyện đời đều đã thay đổi… và một ý nghĩa buồn rầu nẩy ra là mong sao sớm trở về nước Mỹ. Như ai đó đã nói một câu như là chân lý: “Nước Mỹ không phải là Thiên đường, nhưng là một nơi đáng sống nhất trên cõi đời này”.

Ngô Đình Châu

Chuyện đáng suy gẫm

CÂU CHUYỆN THỨ NHẤT

Bố đang sửa xe, con trai cầm mảng đá vẽ lên vỏ xe. Bố nhìn thấy, giận quá, văng cái kìm sắt đánh vào tay con. Con phải nhập viện, gãy xương ngón tay. Con nhẹ nhàng nói với bố:
– Bố ơi, sẽ nhanh khỏi thôi, bố đừng lo nhé.
Bố cảm thấy vô cùng ân hận, đùng đùng chạy về nhà định đập nát xe ô tô của mình. Đập vào mắt bố là dòng chữ mà lúc nãy con đang viết dở: “Bố ơi, con yêu bố!”

Lời bàn:

Có rất nhiều việc nếu ta nghĩ kỹ hơn một chút rồi mới quyết định thì sẽ tốt hơn nhiều.

CÂU CHUYỆN THỨ HAI

Trên thảo nguyên có hai mẹ con nhà sư tử. Sư tử con hỏi mẹ:
– Mẹ ơi, hạnh phúc ở đâu?
Mẹ bảo:
– Hạnh phúc ở đuôi con đấy.
Sư tử con ngây ngô cứ gắng sức đuổi theo đuôi mình, mà mãi không thể bắt được.
Sư tử mẹ nhìn con cười hiền hậu nói:
– Ngốc ạ, không cần phải đuổi theo hạnh phúc. Chỉ cần con ngẩng cao đầu hướng về phía trước, thì hạnh phúc sẽ mãi mãi đuổi theo con.

Lời bàn:

Nhiều khi ta không phải cố gắng đuổi theo thứ gì đó, cứ ngẩng cao đầu mà bước tiếp, thành công và hạnh phúc sẽ đuổi theo.

CHUYỆN THỨ BA

Con không nuôi được mẹ già, định cõng mẹ lên núi để mẹ lại đó. Buổi chiều tối, con nói với mẹ sẽ đưa mẹ lên núi dạo chơi. Mẹ phấn khởi trèo lên lưng con. Cả đường con chỉ nghĩ đến việc sẽ trèo lên thật cao rồi bỏ mẹ ở đó. Đến khi phát hiện ra mẹ đang âm thầm rắc hạt đậu xuống đường, con đã rất tức giận quát:
– Mẹ rắc hạt đậu làm gì hả?
Cuối cùng, mẹ đã trả lời một câu khiến đứa con khóc đẫm nước mắt:
– Con ngốc của mẹ, mẹ sợ tý nữa con đi về một mình sẽ bị lạc đường.

Lời bàn:

Mẹ hiền không bao giờ từ bỏ ta mà luôn tha thứ cho ta

Phan Sinh Trần

Đường Đời – Lm. Nguyễn Tầm Thường, S.J

Lm. Nguyễn Tầm Thường, S.J

Tôi sống trong cuộc đời nhưng tôi có riêng đường đời của tôi.  Mới hôm nào bố mẹ nhìn bầy con chung quanh mâm cơm chiều.  Chỗ nào cũng là gần gũi yêu thương, từ nhà ra sân, từ ngõ đi vào.

Dòng sông lớn lên âm thầm rẽ nhánh.  Tôi đi theo tiếng gọi của đời tôi.  Lũ em lần lượt bước vào ngõ quanh của mỗi đứa.  Bây giờ đã là xa cách.  Trong cuộc đời, nhưng mỗi đứa có riêng đường đời của mình.

Kinh Thánh kể, sau khi dâng lễ ở Jerusalem về, Mẹ Maria lạc mất Chúa.  Mẹ hối hả đi tìm: “Cha con và mẹ phải đau khổ đi tìm con.”  Chúa thưa lại: “Mẹ tìm con làm chi, vì con phải ở nơi nhà Cha con” (Lc 2, 48-49).  Trong cuộc đời, Chúa có đường Chúa phải đi.  Mẹ Maria có lối của Mẹ.

Mỗi người có một cuộc sống riêng nên không đường của ai giống đường của ai.  Tuy vậy, chỉ có một người gọi, đó là Chúa.  Và cũng chỉ có một tiếng gọi, đó là tiếng gọi về Nhà Cha.  Chỉ có một thứ tiếng gọi và do một người gọi, thì đường đi có khác, vẫn ở trong toàn thể.  Ở trong toàn thể thì có liên hệ và ảnh hưởng.  Với ý nghĩa đó, cuộc sống đức tin của người này liên quan đến cuộc sống của người kia.  Lối về Nhà Cha phải đi riêng đường của mình.  Ðiều ấy có nghĩa là đi một mình.  Ði một mình trong hàm ý là tự mình đi chứ không phải là đi lẻ loi.

Chúa Giêsu lên đường về Jerusalem để chịu tử nạn.  Theo tiếng gọi, Phêrô cũng lên đường với Ngài.  Nhưng trên đường đi, Phêrô gợi ý cho Chúa bỏ cuộc (Mc 8,31-33).  Làm gì có Phục Sinh nếu Chúa Giêsu nghe lời Phêrô chối từ Thập Giá.  Từ bỏ con đường của mình phải đi là đánh mất bản tính của mình.  Nếu Chúa cũng chỉ là Chúa khi Chúa đi con đường của Chúa thì đấy phải là định luật không thể thay thế cho tôi.  Tôi sẽ chẳng còn là tôi nếu chối từ con đường của mình.

*****

Mỗi người có một con đường, vì sao họ lại không đi được đường của họ?

Trên đường đời, cả hai: đau khổ và hạnh phúc, đều là những tiếng gọi dỗ dành làm tôi lạc lối.  Ðau khổ dẫn tới lẩn tránh đường đi.

Phêrô đã âm thầm cảm nghiệm được một khúc đời khốn khó nếu để Chúa về Jerusalem tử nạn.  Ðau đớn thường dẫn đến chạy trốn.  Trên đường đi, có những quãng đời rộn rã tiếng cười như ngày Chúa long trọng vào thánh thánh: “Dân chúng rất đông đảo, trải áo choàng trên đường, nhóm khác chặt cây mà lót lối đi.  Kẻ trước, người theo sau tung hô rằng: Hosanna, con vua David.  Vạn tuế Ðấng nhân danh Chúa mà đến.  Hosanna trên chốn trời cao” (Mt 21,8-9).  Tưng bừng là thế đó, nhưng lại không hiểu những ngày hắt hiu: “Hồn Ta buồn quá đỗi, muốn chết được.  Các ngươi hãy ở lại mà thức với Ta.”   Ðã chẳng ai thức với Chúa trong giờ phút lẻ loi nhất ấy: “Simon, ngươi ngủ sao? Ngươi không thể thức với Ta được một giờ ư?” (Mc 14,34-37).  Có những ngã tư đông đúc, cũng có những ngõ vắng dẫn vào cô tịch đìu hiu.  Ngõ vắng ấy là ngại ngùng.  Cô tịch đìu hiu kia là đau khổ.  “Ai bỏ tất cả mà theo Ta sẽ được gấp trăm” (Mc 10,28-30).  “Ai muốn theo Ta hãy vác thập giá mà theo Ta” (Mc 8,34).  Lời ban đầu là quãng đường đẹp hứa hẹn đầy mộng ước.  Lời kế tiếp là khúc vắng dẫn vào đìu hiu, cô tịch.

Chúa không về Jerusalem để chết vĩnh viễn trên thập giá, mà là để đón nhận phục sinh vì hoàn tất thánh ý của Chúa Cha.  Bởi đó, đường về Nhà Cha thì Nhà Cha mới là cùng đích.  Nhưng cô tịch đìu hiu, những ngõ vắng nếu có trên đường đi, tôi phải chấp nhận.  Chối từ phương tiện là chối từ cùng đích.  Ðường của Gioan Tẩy Giả là “mọi thác ghềnh sẽ được lấp đầy, đồi cao sẽ hạ thấp, nơi cong queo nên ngay thẳng” (Lc 3,4-6), để dọn đường cho Ðấng Cứu Thế đến.  Chấp nhận đường của mình.  Gioan đã phải đi những quãng đường rất vắng vẻ, rất đìu hiu trong ngục tối vì dám làm chứng cho sự thật.  (Mc 6,17-28).

Trời sa mạc rộng quá.  Gioan cất tiếng kêu.  Tiếng kêu trong sa mạc thì thấm vào đâu.  Nhưng lối đi của Gioan là thế.  Sứ mạng của sứ ngôn là lên tiếng.  Không thể để cái hoang vu của sa mạc làm nản lòng.  Dù không có ai nghe, người sứ ngôn vẫn phải cất tiếng.  Chối từ lên tiếng là đánh mất bản tính làm sứ ngôn của mình.  Bản tính đó hệ tại là người sứ ngôn có lên tiếng hay không chứ không hệ tại người nghe chối từ hay chấp nhận.

Gian nan làm người ta muốn chối từ con đường của mình thế nào thì hạnh phúc giả cũng làm người ta lạc lối như thế.

Ảo ảnh hạnh phúc dễ đưa lầm đường.

Vì đường đời đi trong cuộc đời, nên có lúc người khác đi cùng với tôi.  Ði cùng không có nghĩa là đi con đường của nhau.  Ðường tôi đi vẫn là của riêng tôi, nên dù không ai đi cùng, tôi vẫn phải đi.  Những lúc trên đường vắng ấy, một quán hạnh phúc bên ngã rẽ dễ mời tôi tắt lối quẹo ngang.  Sau những ngày ăn chay trong sa mạc, Chúa đói.  Ma quỷ đã đến cám dỗ Ngài: “Nếu ngươi là con Thiên Chúa, thì hãy truyền cho viên đá này thành bánh” (Mc 4,3).  Luôn luôn có lời ngọt ngào bảo tôi chối bỏ con đường của tôi.

Trong hôn nhân, biết bao đổ vỡ đã đến từ những bóng mát hạnh phúc ở bên cạnh.  Trong đời tu, biết bao trống trải đã ủ xuống hồn vì những lời gọi không chính đáng.  Mỗi người có một lối đi.  Vì cùng đi trong cuộc đời, nên sẽ thấy có người bước tới, có người quay về, có người tắt ngang.  Ðiều ấy dễ gây xôn xao.  Có người lấy bóng hạnh phúc của kẻ khác làm của mình, vì thế họ chẳng bao giờ tìm được hạnh phúc thật.  Có người lại lôi kéo kẻ khác vào con đường của họ.  Làm như thế, ngỡ là yêu thương, nhưng thật ra, họ đã tàn tật hóa con đường của nhau phải đi.  Nâng đỡ nhau trên đường đi không bao giờ có nghĩa là đi con đường của kẻ khác.  Yêu thương là để kẻ khác đi trên con đường của họ.

Nguy hiểm trên đường đi là sự lừa dối lương tâm của chính mình. Khi người ta gian lận nhiều lần, thì dần dà sẽ thành thói quen, nhưng thành thói quen không có nghĩa là được phép.

Cứ đi lại nhiều lần trên bãi hoang, thì tự nhiên sẽ thành đường đi, nhưng thành đường đi không có nghĩa đấy là chính lộ.

*****

Lạy Chúa, hôm nay con muốn nói với Chúa về nỗi lòng của con đã thấy gì trên đường con đi.  Trên đường đi, con thấy có nhiều quán trọ.  Có quán cho con bóng mát.  Có quán bảo con đừng đi.  Mệt nhọc làm con muốn dừng nghỉ.  Chống đối, hiểu lầm, ghen tỵ, kết án làm con muốn bỏ cuộc.  Và dường như, nếu con càng dừng nghỉ thì con càng ngại đi.  Nếu con càng làm quen với lười biếng thì con càng ngại ngùng trở về con đường Chúa muốn con sống.  Rồi, đường đi cứ thế mà chậm thêm.  Và, cũng trên đường đi, sao có nhiều quãng đường thật xấu, gồ ghề như quãng đường Chúa đi xưa.
Hình ảnh đồi sọ làm con tính toán lưỡng lự.  Có những quãng đường sao mà tối tăm làm con hồ nghi không biết có phải là đường thật không.  Ðây là lúc con phân vân không biết thánh ý Chúa ở đâu.  Và cũng là những lúc con bị cám dỗ nghi ngờ ơn gọi Chúa đã ban.  Ði trọn tiếng gọi của mình theo Phúc Âm không dễ vì có nhiều hình ảnh đánh lừa con.  Có phải vì thế mà Chúa đã dặn: “Ðường dễ dãi sẽ dẫn đến hư đi” (Mt 7,13-14).

Hôm nay, có điều con cũng muốn thưa với Chúa là dù được an ủi hay chịu đựng âm u của những ngày nặng nề, con vẫn nghe thấy tiếng Chúa khuyến khích con đi con đường của riêng con.  Tuy có khó khăn nhưng con vẫn tin ở trước mặt là một bình minh rất đẹp.  Ðiều ấy làm con vững tâm.

*****

Trong lịch sử lầm đường, chối bỏ lối đi của mình bao giờ cũng có mặt của Satan.  Khi Phêrô ngăn cản Chúa đừng chịu chết.  Chúa mắng: “Satan hãy cút khỏi sau Ta vì đây không phải là đường lối của Thiên Chúa” (Mt 8,31-33).

Phúc Âm thánh Luca nói về Giuđa như sau: “Satan nhập vào hắn, và y đi thương lượng với các thượng tế để làm sao nộp Ngài cho họ” (Lc 22,3-4).

Trong sa mạc, kẻ cám dỗ Chúa đừng đi con đường của Chúa cũng là Satan (Mt 4,1-11).

Ngày xưa trong vườn địa đàng, Adong, Evà đã không đi được con đường của mình cũng vì lời ma quỷ lừa gạt.  Lịch sử lầm đường là lịch sử có mặt của Satan.  Ðiều ấy cho tôi tin chắc rằng khi tôi không muốn đi con đường của mình, tôi phải cẩn thận vì tiếng nói của thần dữ rất tinh vi.

Nói về hành động Giuđa đi lạc lối, Phúc Âm thánh Gioan kết luận: “Lập tức hắn đi ra và trời đã tối” (Gn 13, 30).  Khi nói trời đã tối, Gioan không có ý viết một bài văn chương tả cảnh hoàng hôn.  Bằng ngôn ngữ thần học, rất sâu sắc, Gioan muốn nói khi con người chối bỏ ơn gọi của mình để Satan đổi hướng đời mình phải đi, đấy là lúc “người ta yêu mến bóng tối hơn sự sáng” (Ga 3,19).

Không đi đường mình phải đi, chìm vào bóng tối thì tôi tìm thấy gì trong vùng đất ấy?

Trời đã tối, tiếng than ngắn ngủi mà thăm thẳm như nỗi tuyệt vọng mịt mù, buông xuống che kín một đời người.  Lời thánh Gioan nhắn nhủ nghe buồn như tiếng thở dài, nhẹ mà rất sâu: “Ai đi trong tối tăm thì chẳng biết mình đi đâu” (Ga 12,35).

*****

Lạy Chúa, con đường đời của riêng con.  Chối bỏ con đường của mình là lừa dối chính mình và tránh mặt Chúa, kẻ đang đợi chờ con ở đầu đường bên kia.

Lm. Nguyễn Tầm Thường, S.J

From: Le Ngoc Bich & KimBang Nguyen

Chuyện sủ nhi-Truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư

Tiếu-Lâm  XHCN

Nguyễn Ngọc Tư, nhà văn trẻ (SN 1976 tại Cà Mau) hiện sống và làm việc ở Cà Mau. Tập truyện ngắn “Cánh Đồng Bất Tận” của cô đã gây ấn tượng đến người đọc! “Sủ Nhi” hay “Sửu Nhi”? Hiện nay trong nước có từ “sửu nhi” được những người có máu tiếu lâm dịch từ chữ “trẻ trâu” (bọn trẻ chăn trâu) để gọi lớp thanh niên mới lớn ít học, hoang đàng, lỳ lợm, và hay quậy phá              

TTO – Sủ Nhi đi làm ở Viện chữ Nhà nước chưa được nửa năm đã nhận 69 bằng khen, nghe nói còn sắp được cất nhắc lên làm viện phó trong vòng 3 tháng tới, nhằm vào kỷ lục viện phó trẻ tuổi nhứt châu Á – Thái Bình Dương.

Chuyện thăng tiến nhanh tuyệt đối chẳng phải vì Sủ Nhi là cháu ruột của viện trưởng, con trai của tỉnh trưởng, em vợ của phó bộ trưởng, mà hoàn toàn bởi tài năng xuất chúng của nó. Má nó, quá tự hào về thằng con đã phải đi thẩm mỹ viện nhiều lần, để thu gom cánh mũi lại, vì mũi phồng quá mức, bởi sự nở không ngừng.

Cả nhà Sủ Nhi hạnh phúc thì đương nhiên rồi, nhưng nhiều khi tự vả vô mặt mình, bởi tưởng đang mơ.

Ai mà dè được thằng nhỏ đã từng nhấn nước chết mèo, vặt trụi lông đuôi chó, cho gà nuốt dây thun, nhái tướng đi của bà Bốn Cụt bán vé số, chạy xe tạt nước cống vào người đi đường, cái thằng mà thiên hạ xúm nói “Cái đồ vô cảm đó chừng lớn lên chỉ có nước đi phá làng phá xóm…”, giờ lên tivi nhận giải công chức ưu tú trong lãnh vực cứu thua.

Chính Sủ Nhi cũng không thể tin được, bởi lưu ban suốt hồi phổ thông, và mảnh bằng đại học cũng do mua chợ đen mà có. Ngay hồi đầu năm thôi, nó mần thử phó giám đốc một bệnh viện, đã bị người ta vây đánh khi ưu tiên xếp lịch mổ bướu thịt cho một yếu nhơn, trong khi chục ca bịnh nặng ngàn cân treo chỉ đang chờ, với lý do “làm đúng qui trình”.

Vụ đó báo chí làm rùm beng teng xeng lên, khui luôn chuyện có lần nó bút phê vô bệnh án “Chết vì tắt thở”. May nhờ ba má nó dàn xếp kịp, nhưng nhờ vậy mà ông bác ở Viện chữ Nhà nước phát hiện ra nhân tài ngay trong nhà mình.

Sủ Nhi chính thức bước vô tòa lầu bự chà bá lửa, gia nhập vào đội quân gần một trăm viện sĩ, những người gần như cả đời gom não để sáng tạo ra những cụm từ, những câu chữ mang tính Nhà nước cao.

Thằng Sủ Nhi từng thắc mắc tính Nhà nước là tính gì, thì ông bác nói khó mà định nghĩa được. Sủ Nhi càng thấy khoái tỉ, bởi những thứ không có định nghĩa thì mông lung, nó làm sai bét cũng chẳng ai bắt bẻ. Nó linh cảm mình mà mần viện sĩ viện đó thì như xe cọp xoáy nòng, Ferrari đổ đầy xăng.

Vào buổi sáng đầu tiên nhận việc, Sủ Nhi nhận được đơn đặt hàng bên Sở Bảo Vệ, nhân viên của họ tung cước một tiếp viên trên máy bay, gái đó nằm vạ đòi xin lỗi. Và Sủ Nhi phán luôn khỏi cần nghĩ chi lâu: “Cứ nói mình duỗi cẳng cho máu chảy đều, là êm ru bà rù hết!”.

Nhưng Sủ Nhi khẳng định tên tuổi phải từ vụ gỡ bàn thua trông thấy cho Sở Cầu đường bởi cây cầu mới xây đã sập, nó phán:“Do biến động bất ngờ của dòng chảy cùng với độ lún khó lường của lòng sông”. Không học một ngày nào, nhưng thằng nhỏ nắm bắt nghề rất nhanh, bí quyết ở chỗ chữ phải có độ mông lung cao, và phải vô cùng linh hoạt.

Như khẩu quyết thần thánh của ông bác viện trưởng truyền lại, chữ của viện này phải như nước chảy không ai bẻ được, chữ phải như bóng không ai bắt được.

Một viện sĩ giỏi thì biết thay chữ “tụt hậu” bằng phát triển chậm nhưng mà chắc, cái đó Sủ Nhi phần năng khiếu từ trong máu, phần được ông bác viện trưởng truyền chiêu, nên nó cũng sáng tạo hơn người.

Sở Đi Lại để xảy ra bộn tai nạn xe cộ, Sủ Nhi cho mấy chữ:“Số lượng tai nạn trong khuôn khổ cho phép”. Chỉ nhiêu đó thôi mà phần thưởng của Sở không bị cắt xíu nào. Cũng vậy, Sở Sức Khỏe tai qua nạn khỏi sau 1 năm bệnh dịch tràn lan, chỉ bởi một câu của Sủ Nhi tháo cũi sổ lồng: “Tuy dịch bệnh xảy ra nhưng vẫn trong tầm kiểm soát”.

Tiếng tăm Sủ Nhi lên cao, Viện chữ Nhà nước càng được trọng vọng. Hôm kỷ niệm 80 năm lập viện, người ta khẳng định lần nữa sự đóng góp vô cùng bự của từng viện sĩ, giúp cho thiên hạ tránh được đại loạn, bởi mỗi tế bào não ưu việt của họ đã sản sinh ra bao cụm chữ lay động lòng người, xoa dịu vết thương, hàn gắn nỗi đau, như: “Lỗi do cơ chế”, “Sai sót trong thiện chí”, “Khuyết điểm mang tính khách quan cao”.

Viện trưởng, người góp phần sáng tạo ra những cụm từ mang tính mỹ cảm ngút trời ấy, vốn đau đáu lo lớp hậu sinh chưa có ai xứng đáng để giao viện lại, may phát hiện ra thằng cháu mình, cảm thấy ưng bụng vô cùng. Nhưng không phải là không chạnh lòng, khi mỗi lễ Tết về, khách nườm nượp đổ về phòng thằng cháu, nhằm bày tỏ lòng biết ơn, nhờ nó mà ghế ai cũng vững như bàn.

Ngoi lên cao, kẻ ghen ăn tức ở cũng nhiều. Có lần thằng Sủ Nhi bị họ bắt quả tang đang chơi xếp hình với chục ngoài mỹ nữ, ai cũng nghĩ phen này nó chết chắc, nhưng thế nào mà lỗi cuối cùng là do “Chưa được chừng mực trong công tác gần gũi quần chúng”.

Cũng năm đó, Sủ Nhi say rượu lái xe vô đường ngược chiều bị chụp hình đăng báo, trong bản kiểm điểm đầy nước mắt, nó kêu mình “Xác định phương hướng chưa được sâu sắc”.

Chỉ duy nhất một lần Sủ Nhi phải chịu thua, khi có một em ngắn ngủn tới nhà mang theo một que hai vạch bắt đền nó. Dù chữ nó có ảo diệu cỡ nào, kiểu như “Rút chậm một nhịp so với thời đại”, thì cuối cùng nó cũng bị em Ngắn nhốt vô tờ hôn thú, chỉ bằng một câu trần trụi hơn: “Tía tui là vụ trưởng, cưng tính sao thì tính!”. Sủ Nhi còn biết tính gì, đầu hàng vô điều kiện.

Ông Trời như thấu hiểu nỗi đau của nó khi có cô vợ ngắn quá cỡ, nên đền bù xứng đáng. Năm sau, Sủ Nhi một bước lên viện trưởng, bởi ai cũng thấy không cất nhắc nó sớm, là có tội với non sông!

 NGUYỄN NGỌC TƯ

From: Phan Sinh Trần

Một thời chinh chiến – Quan Dương-Truyện hay cuối tuần

 Nguồn từ Bùi bảo Sơn

Tháng 10/70 tôi theo đại đội di chuyển về chi khu Buôn Hô. Khi làn bụi đỏ mịt mù vừa lắng xuống, thị trấn Buôn Hô hiện ra trước mắt làm tôi chới với . Thị trấn gì đâu mà chỉ có một nhúm nhà tole thấp lè tè nằm phơi mình dưới nắng, xa hơn tí nữa là những dãy nhà sàn của người thiểu số . Còn đang ngơ ngác thì bị pháo kích. Nghe tiếng đạn bay sèn xẹt trên đầu tôi hoảng hồn nhảy đại xuống một chiếc hố cá nhân ngồi núp. Mấy người lính thuộc quyền đứng phía trên cười ngất, tôi ngạc nhiên hỏi lý do cười, họ bảo :

– Tiếng đạn đi như thế nó không rớt trúng mình đâu, chuẩn úy đừng sợ

Quả như thế thật. Trái đạn rơi cách xa chi khu hơn nửa cây số. Nhưng tiếng sợ làm tôi bị chạm tự ái. Dù gì tôi cũng là cấp chỉ huy. Thế là tôi bèn nhảy phóc lên đứng hiên ngang tỏ vẻ mình ngon lành . Một tiếng khác bay vèo tới , nghe tiếng riu ríu trên đầu tôi ngước cổ lên nhìn . Nhưng đám lính lần này nhanh hơn con sóc . Thoáng một cái họ đã ở dưới hầm chiến đấu gọn gàng . Một bàn tay kéo tôi té nhào theo .

– Chuẩn úy ơi khi nào tiếng đạn bay nghe kin kít như đàn bà nghiến răng đánh ghen thì lo mà chui vào hầm ngay vì nó sẽ rớt rất gần mình đó .

Chưa kịp quay qua cự nự nghe nói thế tôi bèn im . Quả đạn rớt ngay vòng rào . Bụi đất cát đá bay phủ đầy trên miệng hầm . Tôi nghe rõ tiếng loảng xoảng của mảnh đạn chém vào mái tole của chi khu . Một mảnh đạn nhỏ bay sượt ngang gò má, tôi nghe ran rát như bị móng tay ai cào. Thế là còn đang chân ướt chân ráo mùi mực thư sinh chưa kịp phai, tôi đã lãnh thẹo . Đúng là lãng xẹt. Bài học đầu tiên của chiến trường đã dạy cho tôi nhiều kinh nghiệm đáng giá sau này. Hôm nhận trung đội, đứng trước 23 người lính thuộc quyền xì xào mặt ông chuẩn úy này còn búng chảy ra sữa chắc mới rời vú mẹ quả chẳng sai . Nhưng thực sự vết thương trên mặt tôi không chảy ra sữa mà chảy ra máu . Đó là những giọt máu đầu tiên tôi đã đổ ra trong đời quân ngũ . Khi bị chảy máu người đầu tiên tôi nghĩ đến là má tôi . Má giờ này ở Ninh Hòa chắc không biết thằng con đang trở thành người lớn. Bây giờ mỗi khi soi gương nhìn vết sẹo theo thời gian cộng thêm da mặt xếp ly nên chỉ còn thấy lờ mờ , lòng tôi sống lại cảm giác nao nao. Vết sẹo vẫn còn đây nhưng người cũ đâu hết rồi? Nhớ những đồng đội thuở nào mà sau này đã gắn bó cùng tôi suốt mấy năm trời ròng rã .

Tôi ra đơn vị nửa năm sau là đến tết . Để mong muốn có một cái tết yên lành, thiếu tá chi khu trưởng quyết định đưa hai khẩu pháo 105 ly trú đóng trên một ngọn đồi cách quận lỵ 14 cây số . Tôi có nhiệm vụ phải dẫn trung đội theo làm vòng đai. Lần này thì thực sự chơi với khỉ vì chung quanh là rừng núi bạt ngàn không có một bóng dáng người dân. Lúc mới đến Buôn Hô chê lên chê xuống, giờ lên nằm cố thủ đỉnh đèo Kati mới thấy hết dám chê ỏng chê eo. Buôn Hô coi vậy mà dù sao cũng còn có vài ba cô gái Thượng đen đúa chọc đỡ ghiền. Những sợi lông tơ trên mép giờ đã biến thành râu mọc khiêm nhường hai chùm ở hai bên . Dưới chóp mũi là những sợi lông lờ mờ lưa thưa giống như quẹt lọ nghẹ. Nhưng không để râu thì không thể được vì đám lính thuộc quyền chê là con nít. Rừng rú có ma nào thèm nhìn thành ra tôi quyết định không cạo. Chính quyết định này mà về sau hàm râu đúng là hại bạn khi tôi gặp Luận .

Nằm trên đỉnh Kati thét rồi rồi cũng có ngày tôi theo chiếc xe dodge đại đội về thị trấn để nhận tiếp tế. Việc đầu tiên khi về đến Buôn Hô lủi vô chợ để kiếm một ly cà phê vớ uống cho ấm lòng chiến sĩ (cà phê vớ là cà phê được người Thượng đựng trong chiếc vớ bỏ vào ấm nước nấu sôi lên xong chế ra ly chứ không dùng phin vì có phin đâu mà dùng). Đang nhấp nháp thì chợt tôi trông thấy một cô gái người kinh. Giữa một rừng người Thượng đen đủi, bóng dáng cô gái nổi lên như một vì sao giữa đêm tối trời. Cô gái bán mấy món hàng tạp hóa lặt vặt được bày trải trên một tấm ni lông. Chẳng có món nào để tôi có thể tìm cớ mua được. Nhưng cơ hội ngàn năm một thuở dễ gì tôi bỏ qua . Thế là tôi bèn mò tới ngồi chồm hổm trước mặt cô chủ. Dọ hỏi tên họ thì được biết tên Linh 18 tuổi . Thấy tướng tá của tôi râu ria không cạo, câu chào đầu tiên là : chào chú . Tôi thì bước vào tuổi 21 . Cách biệt nhau chỉ khoảng ba tuổi bị gọi bằng chú hơi ức . Tôi bèn mua một hộp dao lam. Linh hỏi chi vậy. Tôi đáp phen này thề quyết xuống tóc cạo râu để không bị gọi bằng chú. Đêm đó về đồn tôi cạo râu nhẵn thín . Mặt mũi lâu ngày được “ giải phóng “ nhẹ nhõm hẳn ra. Đám lính thấy thế tủm tỉm cười . Sau khi cạo râu xuống trình diện Linh, tưởng được xuống cấp anh ai dè Linh vẫn gọi bằng chú. Lần này lại kèm theo tiếng cháu khi xưng hô cho chắc ăn để phân định rõ ràng vai vế .

Mùa mưa bụi đất đỏ biến thành bùn nhão nhẹt theo bám gót giày nặng trịch. Lớp bùn thật lì lợm bám chặt đến nỗi phải dùng lưỡi lê nạy mới ra. Tôi cũng lì không kém. Dựa vào vai vế người lớn, tôi hiên ngang xuống chợ la cà. Bao nhiêu tiền lương mua hết cái này cái nọ đến độ Linh không còn hàng để bán :

– Mua hàng chỉ là cái cớ, tiền lính đâu có bao nhiêu chú nên để dành uống cà phê. Có rãnh thì xuống ngồi chơi với cháu cũng được không có sao đâu

Linh gọi tôi bằng chú, tôi không có lý do để xưng anh . Nhưng chú đứng cạnh cháu trông thiệt xứng đôi vừa cặp . Tuy thế tôi vẫn không thể xác định được rõ ràng tình cảm của tôi dành cho Linh là thứ tình cảm gì? Hình như tôi thương mến Linh bằng một thứ tình thân thiết ruột rà như anh với em. Chắc có lẽ hai đứa tôi cùng là người kinh, cùng xa quê, vì thời thế phải lưu dạt lên tận miền cao heo hút nên cần thiết nương tựa vào nhau .

Hè đến, tôi gặp Luận. Luận là cháu ruột Linh, gọi Linh bằng cô và chỉ thua Linh có một tuổi ( nghĩa là thua tôi 4 tuổi). Luận học ở Ban Mê Thuột nghỉ hè lên Buôn Hô thăm cô . Lần này thì tôi thực sự bị tiếng sét ái tình đánh trúng . Khi thấy Luận ngồi với Linh tôi mơ hồ dường như cô bé này tôi đã gặp ở đâu đây . Hồn tôi xính quýnh . Luận gọi Linh bằng cô nên suy ra gọi tôi bằng ông cho lễ phép ( vì tôi tụ trì ở vai vế chú của cô) . Xưng hô tréo cẳng ngỗng như vầy thì làm sao mà cua ? Rõ ràng bước đầu không thuận lợi. Nhưng sét đã đánh trúng rồi cho dẫu chết cháy, ông cháu gì tôi cũng phải liều mạng nhào vô .

Luận có một cái nốt ruồi duyên trên gò má phải. Tất cả nét đẹp dịu dàng tự nó toát ra không hề có một tí make up nào dính vào . Giọng nói của Luận nhẹ nhàng như chim hót . Nhất là khi Luận nói tiếng Thượng với những người dân tộc thiểu số, nghe líu lo ríu rít . Tôi không biết tiếng Thượng, tôi không hiểu được tiếng chim, nhưng âm thanh phát ra từ hai bờ môi xinh xắn kia bảo đảm nghe du dương hơn tiếng nhạc .

(Sau này ở Mỹ mỗi sáng trước khi đi làm có con chim đứng trên ngọn cây trước nhà thức dậy líu lo thay cho lời chào ” good morning” thế nào tôi cũng đứng lại chậm năm ba phút để mà thưởng thức . Tôi đem điều này kể cho bà xã tôi nghe . Vợ tôi hỏi:

– Anh có biết tại sao con chim nó hót nghe ngọt ngào trong trẻo hay không?

– Tại sao ?

– Là vì nó không phải nấu ăn, không phải giặt đồ, không phải rửa chén, không phải clean up nhà cửa , không phải đau đầu vì cái tật làm biếng , bày đâu xả rác đó , nhất là không phải nghe những câu hỏi vớ vẩn giống như anh

(Xét ra, lý lẽ của bà xã đúng vô cùng , hèn chi được tôi tin tưởng bâu vào chức vụ thủ lãnh của mình và dám con )

Sống trên rừng núi âm u, khí hậu ẩm thấp quanh năm lính tráng đứa nào cũng phì phèo điếu thuốc. Có chuyện gì vui : chia nhau điếu thuốc . Có chuyện gì buồn : chia nhau điếu thuốc . Tiễn đồng đội ra đi : cũng là điếu thuốc thay nhang . Điếu thuốc vì thế trở nên gắn bó . Khi sống ở Mỹ hành vi duy trì hút thuốc là một hành vi bị bà xã và đám con tôi biểu tình phản đối vì nó lạc hậu có hại cho sức khỏe . Tôi ghi nhận ý kiến phản đối hợp lẽ với nếp sống văn hóa cao đó , nhưng vẫn cứng đầu làm người lạc hậu . Nghĩa là hút thuốc dài dài . Hút trường giang không được thì hút lén , bị cấm giữa đám đông thì tìm nơi nào vắng vẻ mà hút. Nghĩ cho cùng đời tôi gắn bó với điếu thuốc chừng ấy năm , chừng ấy kỷ niệm dễ gì một sớm một chiều là có thể dứt bỏ được? Quãng thời gian còn lại là bao ngày , hơi đâu lo . Số mạng đâu có phải mình muốn sao là được vậy . Có ai biết được ngày mai ?

Hồi đó đám lính tráng cùng đại đội đa số hút Ruby quân tiếp vụ hoặc Basto xanh. Chỉ riêng mình tôi là hút Pall Mall. Không phải tôi xài sang mà vì điếu thuốc Pall Mall nó dài hơn các loại thuốc thường lại thẳng thớm quấn bằng loại giấy trắng trẻo có độ dai, mỗi khi viết chữ lên đó dễ đọc, ngòi bút bi cũng khó làm rách giấy. Tiện lợi nhất là vì nó dài nên số chữ viết lên đó được nhiều hơn là viết trên điếu ngắn. Quen với Luận một thời gian, chứng tỏ lòng thành cách mấy cũng không được gọi bằng anh, tôi tức lắm . Dưới sự nhận định đầy kinh nghiệm tình trường tôi cảm nhận được rõ ràng Luận đang kín đáo lo lắng cho tôi. Những tuần bận hành quân không xuống chợ Luận nhấp nha nhấp nhổm hỏi thăm . Tình cảm của tôi dành cho Luận đâu khác gì? Không máu mủ, không bà con , mắc chi lên chức ông với cháu cho khó ăn khó nói ? Khó nói bằng lời thì phải nói bằng cách viết thư , tôi là đàn ông con trai đương nhiên phải ra tay trước . Trâu tìm cọc chứ ai đời cọc lại đi tìm trâu ? Sẵn gói Pall Mall trong túi áo tôi đánh số từ 1 đến 20 , thế là cứ trên mỗi điếu tôi nắn nót một câu thơ tống tình thiệt là lâm ly bi đát. Thực hiện xong ý định tôi cho ngay ngắn vào gói . Xét theo chiến lược, viết thư trên tờ giấy trắng gấp lại khi gửi, sợ e lộ liễu quá Luận sợ không dám cầm, không gây được yếu tố bất ngờ về phía đối phương. Trong chiến thuật yếu tố bất ngờ là yếu tố then chốt quyết định mỗi trận đánh. Dùng điếu thuốc là yếu tố bất ngờ. Tôi là dân nhà binh, nên phải áp dụng yếu tố bất ngờ đó vào trận này. Mục tiêu là Luận .

Khi tôi móc từ trong túi ra gói thuốc, Luận hỏi:

– Cái gì đây ?

– Gói thuốc

– Cháu đâu có hút thuốc , ông đưa cháu làm gì?

– Chú muốn cai thuốc nhưng vất đi thấy uổng gửi Luận cất giùm

– Ông mà cai thuốc có mà trời sập

– Trời cũng sắp sập rồi đó cô bé . Cất cho kỹ đừng cho ai thấy nhen .

Luận ngây thơ nghe tôi nói sao tin vậy đem gói thuốc cất kỹ. Còn tôi thì hồi hộp chờ kết quả . Hai ngày sau , tôi mò xuống chợ. Thấy trên môi tôi vẫn còn điếu thuốc đang phì phèo , Luận nói:

– Ông đã bảo cai thuốc sao còn ngậm cái gì thế kia ? Hay là cháu trả lại cho ông gói thuốc ông đã gửi nhé .

Tôi vội vàng xua tay. Thì ra cô bé không tò mò mở gói thuốc ra xem. Ăn gian không được thì bỏ. Tôi hì hục viết thêm lá thư thứ hai. Khi đưa cho Luận kỳ này tôi đóng khuôn mặt thểu não hơn trước (cũng không quên ma giáo hơn trước)

– Chú lục trong ba lô thấy còn sót lại một gói . Luận trót giữ gói kia thì giữ luôn gói này luôn một thể cho có đôi có cặp

– Cháu đã nói rồi. Ông mà bỏ được cháu cạo đầu đi tu liền

– Luận có biết tại sao chú ghiền thuốc lá không?

– Không

– Ý nghĩa của điếu thuốc rất đặc biệt . Nó mang một sứ mệnh . Chỉ những ai có duyên phận thì ý nghĩa đó mới hiện ra .

– Gì mà ghê gớm vậy ?

– Không tin tối nay về nhà Luận thử mở ra sẽ thấy .

– Đâu cần tối nay . Cháu mở ra liền bây giờ . Ông coi nè .

Luận rút ra một điếu , hết hồn khi thấy trên đó có những chữ viết li ti . Khẻ bật lên tiếng kêu ngạc nhiên Luận chợt hiểu ý đồ của tôi, hai gò má nàng ửng đỏ :

– Cháu sợ

Gươm đã rút ra khỏi vỏ đâu dễ gì tra vô. Tôi hỏi:

– Luận sợ gì ?

– Luận không biết .

Đang từ cách xưng hô bằng cháu, Luận hạ giọng xuống xưng tên , tôi nắm phần chắc ăn được khoảng 70%. Phần 30% còn lại chỉ cần điều động hai con mắt biểu diễn làm sao đó thật “thê thảm” khi nhìn vào đối phương, bảo đảm đối phương chạy trời không khỏi nắng. Trong khoảng thời gian vài ba cái tích tắc của đồng hồ , khi tôi chưa kịp thực hiện trò ma mảnh đó thì cảm xúc không biết xuất phát từ đâu dâng lên trong lòng tôi ào ạt. Hai con mắt rơm rớm, tôi nhìn thẳng vào Luận một cách thiết tha, cái nhìn chân thật của một người yêu một người, cái nhìn sẵn sàng xả thân. Tóm lại những gì tôi biểu hiện ra ngoài nét mặt đều phát tiết từ con tim chân thành chứ không nằm trong kế hoạch dự trù. ( lại nghiệm ra thêm một chân lý : không thể dùng lý trí để mà cãi lý lẽ với con tim ). Tôi run giọng nói với Luận :

– Những gì anh muốn nói với Luận anh đều viết trong hai gói thuốc. Anh hy vọng sau khi đọc xong Luận sẽ hiểu

Tự nhiên tôi xưng anh ngon lành. Nhưng mặc kệ bất kỳ Luận nghĩ gì, tôi quyết định sẵn dịp này xuống chức làm “anh ” chứ không thèm làm “ông ” nữa .

– Luận không biết

Lại không biết. Những tiếng “không biết” nghe sao mà dễ thương . Dễ thương ở chổ không phản đối tiếng anh khi tôi chuyển hệ và không gọi tôi bằng ông xưng cháu nghe chói tai như trước. Đảo hai con mắt một vòng chung quanh chợ thấy không có ai , tôi làm bạo nắm tay Luận , Luận sợ hãi rụt lại , nhưng sau đó để yên run rẩy. Tôi 21 Luận 17 hơn nhau có bốn tuổi , nhưng khi tỏ tình với Luận giống y như ông già đi dụ dỗ con nít . Chắc có lẽ tại vì tôi sớm lăn vào vùng sương gió nên kinh nghiệm già trước tuổi , còn Luận dù sao cũng chỉ là một bông hoa đồng nội mộc mạc đơm lên từ chốn thâm u cùng cốc. Nhưng tình cảm tôi dành cho Luận không hề giả trá, đó là tình yêu chân thật phát xuất từ trái tim.

Hôm sau tôi lại xuống núi ( tôi đóng quân trên ngọn đồi , nên khi xuống chợ gọi là xuống núi). Luận trong chiếc áo bà ba màu trắng, thấy tôi từ xa khuôn mặt Luận rạng rỡ hẳn lên

– Đọc thư anh viết chưa

– Không biết

– Nghĩ sao

– Không biết

Thuở đó chưa có câu hát ” con gái nói không là có “, nhưng tôi biết những tiếng trả lời không biết của Luận có nghĩa là có biết

– Nhưng em sợ cô Linh buồn

Tự giác xưng em ngọt xớt . Chợ miền núi tuy nhỏ bé tí tẹo nhưng vẫn có lác đác vài ba chục người dòm ngó chứ nếu không thì tiếng em ngọt ngào kia thế nào cũng bị tôi thưởng cho một chục cái hôn là ít . Sau này có một lần tôi canh vào lúc trời chạng vạng tối vắng người , tôi ôm Luận và hôn trên đôi môi đó . Khi ” bị” tôi hôn hai con mắt Luận nhắm nghiền lại . Luận chưa biết cách hôn đáp trả . Đã thế khi tôi hôn xong Luận lại còn đưa tay lên chùi hai bên mép một cách vụng về lúng túng . Cử động phũ phàng đó không làm tôi phiền lòng mà ngược lại tôi rất vui vì nó chứng tỏ lần đầu tiên đôi môi Luận được áp vào bởi đôi môi của người khác phái .

– Em là cháu của cô Linh , ở cùng chung nhà , chắc em cũng hiểu rõ tình cảm của anh dành cho Linh không giống như tình cảm của anh dành cho em phải không? Anh sẽ giải thích với Linh sau

Sau này Linh nói với tôi như một lời gửi gắm :

– Luận tuy 17 nhưng hãy còn con nít lắm, mong chú thật tình, đừng làm nó khổ

– Chú hứa

( xưng chú với người cô , xưng anh với người cháu mất cả tôn ti trật tự , nhưng ai bảo Linh gọi tôi bằng chú ráng chịu)

Luận tặng tôi một chiếc còng nhỏ đeo vào cườm tay làm bùa may mắn . Chiếc còng chỉ là một thanh đồng được uốn tròn lại . Người Rhadé dùng để tặng cho nhau biểu hiện ký thác niềm tin . Tài sản của người Thượng được định giá bởi những cái ché , những con trâu những con bò, họ dùng dao nhọn khắc lên chiếc cong một vạch mỗi khi mua được thêm một cái ché hoặc một con trâu hay bò đó. Nhìn những vạch được khắc trên chiếc cong thì biết người chủ chiếc cong giàu hay nghèo. Chiếc cong Luận tặng, tôi khắc lên đó một vạch mỗi khi tôi nhớ. Những khi nào mắc bận hành quân không xuống chợ được nghĩ đến Luận, tôi dùng lưỡi lê dồn lên nhiều vạch. Sau khi đi hành quân về tôi đem chiếc cong xuống khoe. Luận cảm động nhưng thường chống chế :

– Anh xạo ghê

– Anh xạo nhưng xạo đầy chân thành

– Xạo cũng có chân thành nữa sao

– Có chứ

– Làm sao để phân biệt ?

– Nhìn vào mắt

-Nhìn vào mắt ?

– Phải. Người xạo chân thành ánh mắt họ thẩn thờ, hai tròng đen đứng yên một chỗ

– Còn giả dối ?

– Xạo giả dối thì hai tròng đen chạy qua chạy lại không hề đứng yên .

– Xạo . Xạo Xạo

Luận cười sung sướng . Nhìn Luận cười rạng rỡ , bước phong sương của tôi tưởng chừng như muốn mỏi . Tôi muốn dừng chân . Tôi muốn có một mái ấm gia đình trong đó chỉ có tôi và Luận .

Nhưng Luận thì còn quá nhỏ . Còn tôi đang là một chiến binh , tương lai mù mịt không biết chết sống giờ nào .

Trong ba lô mỗi khi đi hành quân tôi thường bỏ vào đó một cây thuốc Pall Mall ( một cây 10 gói , một gói 20 điếu) , Mỗi lúc dừng quân tôi làm thơ trên mỗi điếu thuốc . Điếu nào câu thơ ưng ý thì tôi đánh số thứ tự để Luận còn biết đường mà đọc . Điếu nào viết dỡ thay vì vứt đi thì tôi hút .Vừa tiện vừa lợi . Vừa lãng mạn, vừa thực dụng .

Đêm 27 rạng sáng ngày 28/01/73 lợi dụng hiệp định ngừng bắn Paris vừa hiệu lực việt cộng mở một cuộc tấn công chiếm Hà Lan đánh thẳng vào Buôn Hô . Đại đội tôi tham chiến. Đại úy đại đội trưởng tử trận. Đại đội phó bị thương . Tôi tạm thời nắm quyền đại đội . Giằng co mãi đến cả tháng sau Hà Lan mới được giải tỏa. Buôn Hô đã vốn tiêu điều, khói lửa chiến tranh càng làm thêm xơ xác . Tôi trở lại tìm Luận và Linh. Dân chúng đã chạy sơ tán hầu hết . Chỉ còn sót lại một số ít người dân tộc thiểu số. Tôi không biết Luận và Linh đang ở đâu? Pleiku ? Thuần Mẫn? Ban Mê Thuột? Địa thế Buôn Hô tọa lạc trong cái lòng chảo, ngửa mình nằm trên một con đường duy nhất nối liền Ban Mê Thuột – Pleiku , còn chung quanh là rừng và núi . Đầu con đường về hướng đông là Hà Lan đang xảy ra chiến trận, chỉ còn một lối cho dân chúng chạy giặc ngược lên đó là Thuần Mẫn hoặc Pleiku . Đơn vị tôi sau khi lâm trận đang bận chỉnh đốn, tôi không thể bỏ đi . Còn Luận thì chắc chắn không biết đơn vị tôi đang di chuyển về hướng nào để liên lạc vì nguyên tắc nhà binh luôn luôn bảo mật lệnh di quân. Kế tiếp tôi được thuyên chuyển về phòng 1 tiểu khu Darlac. Lúc quen với Luận tôi nghe phong phanh nhà Luận ở đường Hai Bà Trưng . Suốt một tháng trời tôi quầng nát cả một khúc đường , nhưng bóng chim tăm cá. Rồi thì lệnh của quân đoàn 2 chỉ định tôi biệt phái qua CSQG . Tôi nhận sự vụ lệnh giã từ Ban Mê Thuột để về trình diện Bộ chỉ huy CSQG Khu 2 (Nha Trang) . Tôi được gửi đi học một khóa nghiệp vụ tại Cam Ranh. Khi mãn khoá tôi được đổi ra Bình Định.Tất cả mọi sự việc xảy ra quá nhanh với một tốc độ dồn dập làm tôi trở tay không kịp .

Trong khi tôi chưa có được nghỉ phép để trở lại Buôn Hô tìm Luận thì biến cố 30/04/75 ập đến . Thế là tôi bặt tin Luận . Xem như tôi là một kẻ phụ tình . Trước đây tôi cũng đã từng yêu và từng bị phụ tình , Khi bị bồ đá lòng tôi vô cùng đau đớn , cứ tưởng không có nỗi đau nào lớn hơn nỗi đau bị đá . Nhưng khi tôi phụ tình Luận trong lòng tôi còn đau hơn thế nữa . Phụ người cả là một ray rứt vô bờ. Tôi đâm ra thông cảm được nỗi khó khăn của những người phụ tôi . Chắc họ không vui sướng gì khi quyết định chia tay.

Chiều nay xứ người nơi cách chiến trường xưa nửa vòng trái đất, những cơn mưa đầu hạ rơi hoài không tạnh . Hai bàn tay xoáy chặt lại với nhau, tôi nhìn những mảnh vụn của gỗ cây mục từ cánh rừng trước nhà bị mưa cuốn đi trong dòng nước, rồi lẩn thẩn nghi vấn : những mảnh gỗ vụn kia sẽ trôi qua bao nhiêu ải trạm của mệnh số để ra sông trước khi tuôn về biển? Hay chỉ trôi tạm trên cõi đời này trong một cơn mưa để rồi bị vùi dập vào một ống cống hay một đường mương cống rãnh nào đó? Và nỗi nhớ có như những mảnh vụn kia trôi qua bao nhiêu phiền muộn, trôi qua bao nhiêu sóng gió của tai ương? Trong đầu óc trống trơn khô héo này bừng bừng lên cái không có. Cái không còn gì cả .

Hay chỉ là những cảm xúc thoáng ẩn hiện qua cuộc sống quá khô khốc này? Tôi chẳng tìm được ra câu giải đáp, chỉ biết rằng bỗng chiều nay chiến trường xưa mưa bay chập chùng. Bỗng chiều nay rưng rưng trong tôi nỗi nhớ .

Quan Dương

Hình chụp năm 1974

From: Phan Sinh Trần