NHỮNG HÌNH ẢNH ĐẸP – Tiểu Tử

Tiểu Tử

Anh tôi nằm bịnh viện Saint Camille đã được mười bữa. Chiều hôm qua, ảnh gọi điện thoại về nhà, nói: «Thằng tây nằm chung phòng ra nhà thương rồi, ngày mai chủ nhựt, mầy vô đây anh em mình nói chuyện chơi». Nghe giọng ảnh “có thần” nên tôi vui vẻ trả lời: «Dạ! Mai em vô. Vợ con em đi Mỹ, chớ không thì em cũng chở tụi nó vô thăm anh». Tôi nghe ảnh cười khịt:  «Một mình mầy cũng đủ cho tao vui rồi…».

Phòng anh tôi là loại phòng hai giường ở lầu ba. Ông già người Pháp cỡ hơn tám mươi tuổi nằm chung phòng với anh tôi rất khó tánh. Ổng không thích có nhiều ánh sáng vào phòng nên volet cửa sổ lúc nào cũng chỉ hé lên một chút thôi. Thấy ổng quá già lại hay gắt gỏng nên mấy cô y tá cũng nhân nhượng, chỉ kéo volet lên cao trước giờ bác sĩ trưởng đi thăm bịnh nhân, rồi lại hạ thấp xuống, sau đó! Mỗi lần tôi vào thăm anh tôi, mặc dầu chúng tôi nói chuyện nho nhỏ với nhau, ổng cũng lăn qua trở lại thở dài. Có khi còn lấy gối bịt lỗ tai nữa!

Anh tôi nói: «Tao chưa bao giờ nghe nó… tằng hắng với tao một tiếng!» .

Ông Tây đó xuất viện, chắc anh tôi nghe… nhẹ lắm nên mới vội vã gọi tôi vào chơi, để nói chuyện mà không cần giữ gìn ý tứ gì hết!

Hôm nay, volet cửa sổ được kéo lên hết nên để lộ trời cao lồng lộng và phòng đầy ánh sáng… Thấy tôi, anh tôi vui vẻ nói: «Mừng quá! Hổm rày, cứ làm thinh, bực mình thấy mụ nội! Bữa nay, tụi mình nói chuyện tự do, cho nó đã!».

Tôi nhìn anh tôi mà thấy thương: mới ngoài sáu mươi mà đã già xọm. Bao nhiêu năm tù đày của VC đã ăn mòn cơ thể của ảnh đến nỗi từ khi ảnh qua Pháp sum họp với vợ chồng tôi, ảnh cứ bịnh lên bịnh xuống hoài. Cũng may là ảnh không có vợ con nên không có những cái lo của người có gánh nặng gia đình. Và cũng may là ảnh chỉ có một mình tôi là em đã có cuộc sống ổn định nên ảnh không phải cưu mang một đứa em nào khác.

Hai anh em tôi nói chuyện vui vẻ một lúc, bỗng anh tôi nhìn trời qua khuôn kiếng cửa sổ rồi nói: «Trời đẹp quá, Cu!».

Tôi còn đang ngẩn ngơ không biết ảnh nói với ai thì ảnh cười khịt khịt: «Mầy quên mầy hồi nhỏ tên là Cu hả? ».

Tôi bật cười: cả một trời dĩ vãng bỗng hiện về rất rõ, với những hình ảnh thuở nhỏ ở nhà quê, có bà mẹ một mình trồng rau trồng cải nuôi hai thằng con, đứa lớn tên Hai đứa nhỏ tên Cu… Tôi nhìn anh tôi mà nghe rưng rức ở trong lòng. Tôi “Dạ” như cái máy! Anh tôi nói: «Bác sĩ nói anh ra ngoài chút chút được».

Tôi lại “Dạ” nhưng vẫn còn thấy tôi đang ở quê tôi, ở trong cái nhà tranh vách đất có giàn bầu vắt lên mái tranh che sàng nước nằm bên góc bếp… Tôi nói “Vậy hả anh” mà vẫn còn đứng trong vườn rau của mẹ với mấy cây mít cây ổi cây xoài, vẫn còn nhìn cái giếng có cây cần vọt để kéo nước và cái gàu đeo lủng lẳng ở đầu cây sào dài… Tôi chỉ giật mình dạ lớn khi nghe anh tôi gọi: «Cu! Ê … Cu!».

Ảnh nhìn tôi, mỉm cười: «Tao muốn mầy đưa tao đi một vòng».

Tôi “Dạ” rồi vội vã bước ra cửa. Ảnh ngạc nhiên: «Đi đâu vậy?». Tôi trả lời: «Em đi lấy cái xe lăn!».

Ảnh bật cười: «Không cần xe lăn xe liếc gì hết. Mầy lại đây, tao chỉ cho».

Ảnh tằng hắng mấy tiếng rồi nói tiếp: «Mầy đỡ tao dậy cạnh giường. Đọ… Mầy xây lưng lại thụt sát vô cạnh giường ở giữa hai chân tao nè. Đọ… Rồi mầy rùn người xuống cho tao ôm cổ mầy. Mẹ… Mầy ăn thứ gì mà mầy lớn con quá hổng biết! Rồi! Tao ôm chắc rồi! Bây giờ, mầy choàng hai tay ôm hai bắp vế của tao đây, vừa xóc nhẹ để lấy trớn vừa đứng lên. Đọ… Như vậy, người mình gọi là ‘cõng’. Ở xứ nầy, tao chưa thấy ai cõng ai hết. Có lẽ người ta không biết cõng, mầy à!».

Tôi cõng anh tôi, nhẹ hều. Ảnh nói: «Hồi nhỏ, tao cõng mầy mòn lưng, mầy đâu có biết!».

Một xúc động bỗng dâng tràn lên cổ, tôi vừa nuốt xuống vừa siết chặt hai chân anh tôi như muốn ôm lấy hết con người của ảnh để cám ơn, cái con người đang nằm trên lưng tôi đây, cái người anh đã hy sinh suốt cuộc đời không chịu lập gia đình chỉ vì muốn nuôi thằng em ăn học cho đến nơi đến chốn! Ảnh đã cõng tôi trong thời tuổi nhỏ, về sau, ảnh vẫn tiếp tục cõng tôi – dù dưới hình thức khác – cho đến ngày tôi thành nhân ra đời. Biết bao giờ tôi cõng lại anh tôi suốt hai mươi mấy năm trời như vậy?

Chúng tôi ra hành lang. Gặp một cô y tá, cô ta vội nói: «Để tôi lấy cho ông một chiếc xe lăn!».

Tôi lắc đầu: «Khỏi cần! Cám ơn cô! Anh tôi muốn tôi cõng như vầy».

Cô ta mỉm cười bỏ đi, vừa đi vừa nhìn lại, vẻ ngạc nhiên. Anh tôi nói: «Mầy thấy không? Ở xứ nầy, người ta không biết cõng là gì!».

Thật vậy, đi dài dài theo hành lang, gặp ai cũng bị nhìn với một nụ cười như muốn nói “Làm gì ngộ vậy há!” Tiếng của anh tôi vẫn đều đều nho nhỏ bên tai: «Hồi đó, năm mầy ba tuổi là năm mầy bịnh hoài nên mầy cứ nhề nhệ nhề nhệ đeo theo má đòi ẵm. Chiều nào má cũng nói “Hai! Mầy cõng thằng Cu đi hàng xóm cho má nấu cơm coi!” Vậy là dầu tao đang tưới rau tao cũng quăng đó, cõng mầy đi vòng vòng. Hồi đó, lúc nào mầy cũng ở truồng, còn tao, dầu đã hơn mười tuổi, nhưng lúc nào cũng ở trần, chỉ khi nào đi học mới máng lên mình cái áo sơ-mi. Thành ra, khi cõng mầy tao thương ở cái chỗ là nghe con cu của mầy mềm mềm nằm gọn trên da lưng tao. Nhiều khi thương quá, tao xoay người lại hun mầy trơ trất làm mầy nhột mầy cười đưa mấy cái răng non nhỏ như hột gạo! Mầy coi! Vậy mà đã hơn năm mươi năm rồi chớ bộ!».

Tôi im lặng nghe anh tôi kể mà trong đầu thấy như đang nhìn ngay trước mắt cảnh thằng anh cõng thằng em đi quanh quanh để người mẹ rảnh tay lo nấu bữa cơm chiều… … Đẹp quá! Anh tôi lại nói: “Thiệt ra, tao đâu có cõng mầy đi đâu xa. Đi lòn lòn qua mấy liếp rau mấy bờ mía rồi qua lò bánh tráng của dì Sáu Lộc. Đứng xớ rớ một chút là dì Sáu hay chị Hai Huê con của dỉ cho một cái bánh tráng nướng thơm phức”.

Ngừng một chút, anh tôi hỏi:

“Mầy còn nhớ chị Hai Huê không?”

Tôi đáp: “Dạ có. Hồi đó, chỉ ra sư phạm rồi dạy tụi em ở tiểu học”.

Anh tôi tằng hắng: “Ờ! Chỉ đó! Má khen chỉ lắm, nói: con nhỏ dễ thương, đi làm có lương mà chỉ sắm có hai cái áo dài, hỏi nó thì nó nói nó để dành tiền cất một cái quán cho má nó ra bán bì bún ít cực hơn là xay bột tráng bánh”.

Đến đây thì tôi nhớ rõ cái quán của dì Sáu Lộc: Quán nhỏ nằm cạnh cây gõ trước lò bánh tráng. Bì bún ngon có tiếng. Có điều là dì Sáu không bán rượu đế mà cũng không cho khách hàng mang rượu đế đến quán! Dân nhậu phàn nàn thì dì Sáu nói: «Tôi ghét thứ đó lắm! Cũng tại ba cái đế đó mà ông nhà tôi ba ngù té xuống bàu chết không ai hay!».

Cái quán đó về sau giao cho vợ chồng cô cháu gái của dì Sáu trong nom và được cất rộng ra thành tiệm cà phê, người ta gọi là tiệm “Cây Gõ”…

Ở cuối hành lang bịnh viện là khuôn kiếng rộng. Nhìn xuống dưới thấy nắng đầy… Cây cỏ được cắt xén sạch sẽ đẹp mắt. Tia nước tưới vườn tự động quét qua quét lại coi mát rượi. Anh tôi im lặng nhìn một lúc rồi nói: «Hồi đó, chiều nào đi học về, tao cũng phải đi tưới vườn rau. Mới có mười tuổi mà tao mạnh lắm! Cái gàu nước lớn như vậy mà tao xách chạy bon bon. Phải nói là nhờ có cây cần vọt tao mới kéo nổi cái gàu ra khỏi giếng, chớ nếu kéo bằng sợi dây dừa thì chắc tao chịu thua».

Có lẽ sợ tôi quên nên anh tôi tả cây cần vọt. Tôi vẫn để ảnh nói vì tôi thấy ảnh đang sung sướng với những hình ảnh đẹp của quê hương, cái quê hương ngàn trùng xa cách… Tiếng của anh tôi vẫn đều đều bên tai: «Cần vọt là hai cây tre lớn bằng bắp chân đóng dính chắc vào nhau bằng những thanh ngang coi giống như một cái thang. Chân cái thang đó được chôn đứng cách giếng độ hai ba thước. Trên đầu có một cốt tròn xỏ qua hai thân tre. Bắc dính chắc trên cái cốt đó là một thân tre dài, đầu to là đầu nặng nằm đụng đất, đầu nhỏ chỉ lên trời coi giống như một đòn bẩy hay một cái đu nhún lên hạ xuống của trẻ con. Đó là cái cần. Trên đầu cần là một cây sào bằng tầm vông dài xuống gần miệng giếng, đầu dưới của sào có cái móc để móc cái gàu. Muốn lấy nước, người ta kéo cây sào thòng gàu xuống giếng đợi gàu đầy nước là kéo gàu lên, cây cần làm đòn bẩy giúp cho người kéo nước không phải ráng sức. Hay quá!»

Tôi nói đẩy đưa, cố ý để cho anh tôi nghỉ: «Dạ. Em còn nhớ cây cần vọt chớ! Hồi em lớn lên, em vẫn phụ anh tưới rau cho má, anh quên sao? Em còn nhớ hồi đó phần của em là lo tưới và châm sóc giàn bầu của má”.

Ảnh cười khịt khịt: “Ờ… giàn bầu. Trái dài lòng thòng, đi ngang phải cúi đầu để tránh…”

Rồi giọng của ảnh như vui lên: “Bầu luộc là món mà tụi mình ăn hằng ngày, mầy nhớ không? Bữa cơm nào cũng có bầu luộc, mẻ cá kho và một tô nước luộc bầu. Nước luộc bầu không có con tôm con tép gì hết, chỉ có chút muối, chút tiêu và mấy cọng hành… vậy mà tụi mình chia nhau húp ngon lành, hén Cu!”.

Tôi bồi hồi nhớ lại cảnh anh em tôi húp nước luộc bầu, nhứt là cái cử chỉ của anh tôi khi ảnh đưa tô sành mẻ miệng, xây chỗ miệng tô còn lành, nói: “Húp ở đây nè, Cu!”. Cha ơi…! Sao mà nó đẹp!

Thấy gần trưa, tôi cõng anh tôi đi lần về phòng. Bỗng ảnh nói: “Ý! Má kêu kìa!”.

Rồi ảnh nghẻo đầu buông thõng hai tay! Tôi đang hốt hoảng chưa biết phải làm sao thì gặp ông bác sĩ trưởng trong thang máy bước ra. Tôi vội vã gọi: “Bác sĩ! Bác sĩ! Ông coi dùm coi! Anh tôi bị gì rồi!”.

Bác sĩ rờ đầu rờ cổ anh tôi rồi lôi tôi chạy lại phòng trực y tá. Bác sĩ hướng vào trong nói “Cứu cấp”. Mấy cô y tá phóng ra đỡ anh tôi qua giường sắt có bánh xe rồi đẩy nhanh về phòng, theo sau là xe dụng cụ thuốc men. Vào phòng, một cô y tá đẩy nhẹ tôi ra ngoài, nói:  “Ông đừng vào. Cảm phiền đứng đợi ở đây.” Rồi đóng cửa lại. Tôi tỳ người vào tường, nhìn quanh bối rối: hành lang trống trơn bỗng như rộng mênh mông…

Một lúc lâu sau mấy cô y tá mở cửa đẩy giường đẩy xe ra, nói chuyện tỉnh bơ. Đi sau cùng là bác sĩ trưởng. Ổng vỗ vai tôi, nói: “Không có gì hết! Chỉ bị xúc động mạnh thôi. Ông vào được rồi.”.

Tôi nói “Cám ơn” rồi thở dài nhè nhẹ như vừa trút một gánh nặng. Nhìn thấy tôi bước vào, anh tôi mỉm cười, mắt ảnh ngời sáng, nhưng ảnh vừa đưa tay ra dấu vừa nói: “Thôi! Mầy về đi! Để tao ngủ một chút”.

Nói xong, ảnh nhắm mắt mà trên môi vẫn còn nguyên nụ cười. Tôi biết: ảnh đang đi vào giấc ngủ với những hình ảnh đẹp!

Tôi bước ra, đóng nhẹ cửa lại. Hành lang dài tung hút. Chắc cũng đến giờ cho bịnh nhân ăn nên phảng phất có mùi đồ ăn. Tôi bỗng nghe thèm vị ngọt của nước luộc bầu mà anh em tôi chia nhau húp năm chục năm về trước, bây giờ sao vẫn còn nhớ. Và lạ thiệt! Nước luộc bầu quá tầm thường như vậy mà sao cũng mang đầy mùi vị của quê hương?

Tôi nuốt nước miếng…

Tiểu Tử

From: Tu-Phung

CÁCH MẠNG MUÔN NĂM.

Linh Cao

Thật lòng mà nói, biểu hiện của Cộng sản ngày nay so với ngày xưa đã được Tây hóa lên rất nhiều,nhưng hình như bản chất vẫn còn là Cộng sản.

Thái Bá Tân

Trích truyện ngắn (NHỮNG NGƯỜI ĐÀN BÀ TẮM) của Thiết Ngưng (chủ tịch hội nhà văn Trung Quốc) về cách mạng văn hóa Mao ít.

… Một ngày mùa thu năm 1966, Khiêu mới là học sinh lớp 1, được dự đại hội phê đấu rất ồn ào náo loạn diễn ra ở sân trường

Cứ từng đợt từng đợt học sinh lại giơ cánh tay non nớt, từng đợt từng đợt hô rất mạnh mẽ những khẩu hiệu như: “đả đảo con đĩ Đường Tân Tân” là cô giáo của trường, dạy toán bậc trung học phổ thông. Khiêu còn nghe những bạn nam bàn luận ở phía sau, chẳng nhẽ cô giáo ấy lại là một con đĩ sao?

Cô giáo Tân bị mấy nữ học sinh dẫn lên sân khấu, trước ngực viết mấy hàng chữ bằng mực đen: “Tôi là một con đĩ”… dòng chữ làm Khiêu ghê người, trong ý niệm của cô bé, con đĩ không chỉ là xấu xa mà còn là xấu xa nhất trong những người xấu xa, xấu hơn cả địa chủ, nhà tư bản. Khiêu nghĩ không hiểu một người lớn lại tự nhận “tôi là một con đĩ” nhỉ ?

Cô giáo Tân chừng 30 tuổi, da trắng, người gầy, quá gầy và trắng, cắt tóc ngắn và sống mũi cao, trông như một cây tăm… Cô đúng là một cây tăm mà không phải là cây dương liễu, bởi trông cô mảnh mai nhưng cứng rắn, cô như cây tăm cắm trên mặt bàn, mấy nữ học sinh lớp trên cứ xô đẩy nhưng cô vẫn không chịu quì mà cũng không cúi đầu… Khiêu có phần đồng tình với cô giáo Tân bởi cô đẹp. Đẹp, chỉ thế thôi.

… chợt có một phụ nữ trạc tuổi trung niên mặc áo cánh xẻ tà mầu mỡ gà lên sân khấu, xỉa xói vào cô giáo Tân:

– “Gọi mày là con đĩ oan ức lắm à? tao hỏi mày, mày đã lấy chồng chưa? Mày chưa bao giờ lấy chồng, mày chưa lấy chồng mà đã có con, thế thì mày ngủ với ai? khai thật ra”.

Tiếng hô khẩu hiệu lại vang lên:

“Mụ Tân phải khai ra! không khai thì thầy giáo và học sinh cách mạng sẽ không tha!”…

Một học sinh nam lớn tuổi đi vòng ra phía sau cô giáo Tân đạp mạnh vào khuỷu chân cô giáo, cô giáo “hự” lên một tiếng rồi ngã quỵ xuống. Cả sân trường hoan hô, vậy là cái cô giáo chết cũng không chịu quỳ đã bị bọn học sinh lớn khuất phục. Đại hội phê đấu tiếp tục, mấy giáo viên trẻ thay nhau lên phát biểu, chỉ trích gay gắt cô giáo Tân đã giấu giếm chuyện quan trọng trong cuộc sống riêng, lừa dối để được đồng nghiệp tin tưởng, nhà trường tín nhiệm, học sinh tin yêu. Các em học sinh hãy nghĩ xem, một sự việc ghê tởm biết chừng nào, một phụ nữ suy đồi về đạo đức, tác phong xấu xa như thế mà có thể là cô giáo… Tiếng hô khẩu hiệu lại vang lên: – “Mụ Tân phải cút khỏi trường, không cút thì những người kế tục sự nghiệp cách mạng của nhà trường sẽ không tha!”… “còn nữa, hàng xóm của mụ còn phản ánh, ở trường mụ Tân giả bộ giản dị, ở nhà thì sống theo lối sống của giai cấp tư sản, mụ nuôi mèo, đối với mèo còn tốt hơn đối với người, có hôm mụ ta dám ngồi ngoài sân ôm con mèo, hôn hít nó! trời đất ơi, hôn mèo!”

Cả sân trường cười ồ lên, tiếp theo là khẩu hiệu tỏ ra phẫn nộ hơn: “đả đảo con đĩ Tân Tân”

Những cái xấu của cô giáo Tân càng nói càng nhiều, chỉ bắt cô quỳ nghe khẩu hiệu thôi thì chưa đủ. Nhất là khuôn mặt gầy, trắng trẻo kia tỏ vẻ đối địch, nhất định không nói điều gì càng làm cho những người trên sân khấu thêm phần nộ khí xung thiên. Một học sinh nam lớn tuổi gí ngay chiếc giầy lính hắn đang đi vào mặt cô giáo và nói:

– “Mèo của giai cấp tư sản mày còn hôn, chẳng nhẽ mày không hôn giầy của giai cấp vô sản hay sao!”

Hắn vừa nói vừa gí giày vào mặt cô giáo. Một nữ sinh đến gần ấn đầu cô giáo xuống, bắt cô áp miệng vào chiếc giày của thằng kia; rất nhiều cái chân cùng giơ ra, bắt cô giáo phải áp miệng vào những chiếc giầy đầy bụi bẩn.

Cả sân trường sôi sục, trên sân khấu người đứng lố nhố. Học sinh ngồi dưới cũng không trật tự nữa, chúng xô đẩy, có đứa trèo lên ghế, có đứa chen nháo nhào lên sân khấu để xem cho rõ…

Bỗng có mùi thối, không hiểu ai đã đem đến 1 ca phân. Chỉ nghe có tiếng nói:

– “Quá lắm, mụ Tân không chịu hôn giầy của chúng ta, mồm mụ chỉ xứng đáng ăn cứt! Đúng, đúng… bắt mụ phải khai thành thật , không khai phải ăn cứt!”

Phân xuất hiện làm cả sân trường trật tự trở lại, mùi thối làm mọi người ngơ ngác. Đúng là phân được đựng vào ca uống nước đưa lên sân khấu đã kích thích dây thần kinh sâu nhất trong cơ thể con người. Sức uy hiếp của phân đã lên đài như thế.

Những người chen đến sát sân khấu bỗng lùi lại, những người đứng trên ghế ngồi cả xuống. Giống như một vở diễn, bắt đầu mở màn người xem còn nhốn nháo, khi vở diễn đến hồi gay cấn thì mọi người cùng chăm chú thưởng thức. Bắt cô giáo ăn phân có thể là hồi gay cấn của đại hội phê đấu này.

Ca phân đặt trước mặt cô giáo Tân, chỉ cách cô chừng 1 mét. Vẫn khuôn mặt trắng trẻo. Mọi người chờ cô khai báo thành thật, vì cớ gì mà không nói…

Trái tim Khiêu như có ai bóp chặt, nó cứ mong cho cô giáo nói ngay ra, như thế cô giáo không phải ăn phân. Nhưng nhiều người không nghĩ như Khiêu, bon họ không muốn cô giáo khai báo. Khi mọi người phải lựa chọn khai báo và ăn phân thì bọn họ muốn không phải là thấy người kia khai báo, mà muốn thấy người đó ăn phân.

Cô giáo không nói mà cũng không chịu ăn. Lúc này có 1 một thằng học sinh lớn đến nói với cô giáo Tân:

– “Nếu mụ không chịu khai báo, không chịu ăn cứt thì chúng ta còn có cách khác, lẽ nào quần chúng cách mạng lại chịu thua con đĩ này, chúng ta điệu đứa con gái của mụ lên đây cho mọi người thấy, cho mọi người trông thấy đứa con gái của mụ, bằng chứng cho hành động đĩ thõa tội lỗi của mụ ta”.

Cô giáo Tân không còn giữ nổi bình tĩnh nữa. Khiêu thấy cô lê bằng đầu gối đến trước ca phân, cô không chờ cho tiếng hò hét đinh tai nhức óc của bọn người kia tắt đi mà đi đến quyết định dứt khoát, để lại cho Khiêu một ấn tượng suốt đời không thể quên. Cô giáo quì gối bưng ca phân lên, nhìn vào trong ca một lúc, rồi trước mặt mọi người, đưa lên ăn…

Khiêu về nhà, việc đầu tiên là đánh răng súc miệng, tưởng như phải dùng hết ống kem đánh răng. Đánh răng làm Khiêu nôn ọe, nôn ọe rồi lại đánh răng. Đánh răng xong, Khiêu đưa nhẹ cái bàn chải vào họng cho nôn thốc nôn tháo. Khiêu nôn ra thức ăn, cuối cùng là nước nhờn. Nôn xong lại đánh răng, hai tay bịt mũi bịt miệng, bịt thật chặt, hà hơi thật mạnh. Rồi Khiêu cũng yên tâm trong miệng mình sạch sẽ, sạch như kem đánh răng. Khiêu lấy khăn lau miệng, lau đi lau lại, miệng đỏ lên, bật cả máu, đau cả miệng… Khiêu ở trong nhà vệ sinh rất lâu…

(Coppy từ: Lê Tích).

Tình chị em – Truyện ngắn

Mỗi ngày một câu chuyện thú vị

Tôi sinh ra tại một vùng quê hẻo lánh. Ngày qua ngày, cha mẹ tôi phải ra sức cày cấy trên mảnh ruộng khô cằn để nuôi hai chị em tôi ăn học. Một ngày kia tôi lén ăn cắp mười lăm đồng trong ngăn kéo của cha để mua một chiếc khăn tay mà những đứa con gái trong làng đều có. Cha tôi phát hiện, ông lấy chiếc roi tre treo trên vách xuống, bắt hai chị em tôi quỳ trước mặt và hỏi rằng ai đã lấy cắp. Vì sợ hãi, tôi đã không dám đứng lên nhận lỗi. Cha tức giận định đánh cả hai chị em, ông đưa chiếc roi lên. Em níu tay cha lại và nói:

– Thưa cha, con trót dại…

Em nói loanh quanh, không giải thích được đã dùng số tiền ấy vào việc gì. Cha giận đến tái mặt nghĩ rằng em đã ăn chơi lêu lổng và quất liên hồi chiếc roi dài vào lưng em cho đến khi cha gần như không thở được nữa. Đêm ấy, mẹ và tôi đã dỗ dành em. Nhìn thân hình đầy những lằn roi của em, tôi oà khóc. Em vội vàng nói:

– Chị ơi đừng khóc, kẻo cha nghe thấy cha sẽ đánh đòn chị đấy!

Năm ấy em vừa lên 8 và tôi 11 tuổi.

Năm em tôi được tuyển thẳng vào trường trung học thì tôi cũng trúng tuyển vào đại học. Chưa kịp vui với niềm mơ ước được chạm vào cánh cửa đại học thì tôi đã đối diện với nỗi lo lắng về học phí. Cha mẹ tôi không đủ tiền để cho hai chị em ăn học cùng một lúc. Em tôi quyết định bỏ học nhưng cha mẹ và cả tôi đều không đồng ý. Tôi nói:

– Em cần phải tiếp tục đi học để tìm cách thoát ra khỏi cảnh nghèo khó sau này. Chính chị mới là người không nên tiếp tục vào đại học.

Nhưng em đã bỏ nhà ra đi với vài bộ quần áo cũ và một ít muối mè trong chiếc túi xách nhỏ. Em đã lén đến bên giường tôi và để lại một mảnh giấy nhỏ bên gối tôi với lời nhắn nhủ: “Chị ơi, được vào đại học không phải là điều dễ dàng. Em sẽ tìm việc làm để gởi tiền về cho chị.”.

Tôi trào nước mắt, chẳng nói lên lời. Năm ấy em mới 17 và tôi tròn 20.

Với số tiền ba tôi vay được trong làng cộng với số tiền gởi về của em, cuối cùng tôi cũng học xong năm thứ 3 đại học. Một hôm đang ngồi học trong phòng, một đứa bạn chạy vào gọi tôi và nói:

– Có người cùng làng đợi cậu ngoài kia.

Tôi chạy ra và thấy em đứng từ xa, quần áo lấm lem dầu nhớt. Tôi hỏi em:

– Sao em không nói với bạn của chị, em là em trai chị chứ?

Em cười đáp lại:

-Em sợ mọi người sẽ cười chị khi nhìn thấy bộ dạng nhếch nhác của em.

Tôi lặng người, nước mắt tuôn trào.

Em mỉm cười, đôi mắt ánh lên lấp lánh. Em đưa tay vào túi áo lấy ra một chiếc kẹp tóc hình con bướm và nói:

– Em thấy mọi cô gái đều cài nó trên tóc, vì thế em mua tặng chị!

Tôi không kìm được niềm xúc động, ôm chầm lấy em nức nở. Năm ấy tôi đã 23 và em mới 20.

Khi lần đầu tôi đưa bạn trai về nhà ra mắt cha mẹ, mọi thứ trong nhà đều rất sạch sẽ và ngăn nắp, ngay cả miếng cửa sổ bị bể cũng đã được lắp lại. Mẹ cho tôi biết trong khi dọn dẹp và thay khung cửa sổ, em đã bị miếng kính đâm vào tay chảy máu.

Tôi chạy vào tìm em. Nhìn vết thương trên tay em, tôi cảm thấy như có hàng ngàn mũi kim đâm vào tim mình. Tôi lấy thuốc và bông băng để băng lại vết thương cho em. Em cười:

– Em không muốn anh ấy chê nhà mình nghèo khổ!

Năm ấy em 23 và tôi 26.

Sau khi lập gia đình, tôi về sống với chồng ở thành phố. Vài năm sau, chồng tôi trở thành giám đốc của một xí nghiệp. Vợ chồng tôi muốn đưa em vào làm nhưng em từ chối vì sợ mọi người sẽ xì xầm bàn tán những lời không hay về chồng tôi.

30 tuổi, em lập gia đình với một cô gái trong thôn.

Năm tôi 40, cuộc hôn nhân tưởng chừng như mỹ mãn của tôi bị đỗ vỡ vì sự xuất hiện của một người đàn bà khác. Em vứt hết chuyện gia đình đến chăm lo cho các con tôi, vực tôi dậy sau những đắng cay nghiệt ngã. Rồi một ngày cả hai chúng tôi đều già nua, tóc bạc gần hết mái đầu. Em ngồi bên tôi nhắc lại chuyện xưa: Ngày ấy, chị em tôi mỗi ngày phải lội bộ hơn hai tiếng mới có thể đến trường. Một hôm, em làm mất chiếc giày. Một phần sợ cha đánh em, một phần biết mẹ không có tiền mua giày mới, tôi đã nhường cho em đôi giày của mình. Và cứ thế, mỗi ngày hơn bốn tiếng đi-về, chân tôi phồng rộp lên và rướm máu vì những viên đá nhọn trên mặt đường nóng bỏng. Từ đó em hứa với lòng phải chăm sóc và đối xử với tôi thật tốt.

Nước mắt tôi chợt ứa ra vì hạnh phúc. Năm ấy em chỉ vừa lên 5!

Phải nói rằng: Tình cảm chị em chúng tôi là quá cao đẹp, quá thiêng liêng! Chính nhờ tình cảm đẹp đẽ đó đã nâng đỡ tôi trong cuộc sống, nhất là trong những khi khó khăn gấp khúc của đời người! Tôi ước gì có một ngày gọi là NGÀY ANH CHỊ EM, cũng là để mọi người biết trân trọng và bảo vệ tình cảm đẹp đẽ này.

(Nguồn và ảnh sưu tầm)

Câu chuyện về cây thánh giá

Lê Vi

Trong Sổ Tử thành phố Paris, thủ đô nước Pháp, người ta đọc thấy: Ông Gustave Busset, qua đời ngày 18 tháng 4 năm 1834.

Người quá cố không có con cái nhưng để lại một số gia sản đáng giá. Đám tang ông, chỉ có vài bà con xa đến tham dự. Ngay tại nghĩa trang, họ bắt đầu tranh giành gia tài. Sau cùng, họ quyết định đem bán đấu giá tất cả đồ đạc, lấy tiền chia đều nhau.

Ngày bán đấu giá, nhiều người cùng khu phố với ông Gustave Busset kéo nhau đến mua đồ, trong đó có chàng họa sĩ trẻ tên Pierre Piront.

Anh Pierre Piront rất nghèo. Anh chỉ có tấm nệm rơm để ngủ. Từ lâu anh mơ ước chiếc giường êm nên để dành được 100 quan. Hôm nay dịp may đến. Anh mua cái giường của ông Gustave với giá 75 quan. Như vậy anh vẫn còn 25 quan. Khi anh lên nhận chiếc giường thì cùng lúc ấy, ủy viên bán đấu giá cúi xuống đất, nhặt lên Cây Thánh Giá nặng, bám đầy bùn đất dơ bẩn. Với giọng khàn khàn ông cất tiếng la to:

– Ai trả bao nhiêu để mua vật này?

Trong phòng im lặng như tờ. Bỗng vang lên tiếng nói chế nhạo:

– Không trả xu nào hết!

Mọi người cười rộ, ngầm đồng ý với tiếng nói.

Chàng họa sĩ trẻ Pierre Piront cảm thấy kinh ngạc trước thái độ vô thần hỗn xược của người đồng hương. Bằng một giọng run run vì cảm động, anh nói:

– Tôi xin trả 25 quan. Rất tiếc tôi chỉ có thế. Nếu có nhiều tiền, hẳn tôi sẽ trả với giá cao hơn!

Trước lời lẽ can đảm, đám đông lại ào ào chế nhạo. Một người đàn bà cao tuổi, chỉ ngón tay vào anh Pierre và nói:

– Nó là tên ngu đần nhất trong tất cả các tên ngu đần!

Tức khắc, mọi người trong phòng cùng nói lớn:

– Hoan hô bà già nói đúng!

Tiếp tục thủ tục đấu giá, ủy viên đứng bán nói:

– 25 quan cho lần đầu tiên… lần thứ hai… lần thứ ba… Chấm dứt!

Không ai đấu giá. Thế là Cây Thánh Giá thuộc về anh Pierre Piront với giá 25 quan. Anh cảm động tiến lên nhận Cây Thánh Giá với trọn lòng kính cẩn yêu mến. Xong, anh ôm Thánh Giá rời phòng, trước các cặp mắt và lời nói chế diễu của mọi người hiện diện.

Về đến nhà, việc làm đầu tiên là vội vàng chùi rửa Cây Thánh Giá. Vừa lau, anh vừa âu yếm nói chuyện với Đức Chúa GIÊSU KITÔ, Đấng bị xúc phạm. Nhưng anh Pierre ngạc nhiên biết bao, khi vừa lau chùi xong, anh khám phá tên khắc bên dưới chân Thánh Giá. Với kính lúp, anh đọc:

– BENVENUTO CELLINI

Đây là tên của một thợ kim hoàn nổi tiếng người Ý. Lòng tràn đầy niềm vui, anh tiếp tục lau chùi thật kỹ lưỡng. Càng lau, càng chùi, anh càng khám phá ra Cây Thánh Giá và tượng Đức Chúa GIÊSU KITÔ bằng vàng ròng.

Anh Pierre Piront không còn bình tĩnh nữa. Anh lấy khăn bọc kỹ Cây Thánh Giá rồi chạy như bay tới tiệm kim hoàn gần đó. Anh nhờ chủ tiệm đánh giá cho phẩm vật của anh. Sau khi xem xét cẩn thận, chủ tiệm đánh giá toàn Cây Thánh Giá là 60.000 đồng vàng.

Cùng lúc, chủ tiệm xin chàng họa sĩ trẻ tuổi cho phép ông đăng tải trên báo chí câu chuyện khám phá bất ngờ, độc nhất vô nhị.

Câu chuyện đến tai vua Louis-Philippe I (1830-1848). Nhà vua cho gọi anh Pierre Piront đến và ca ngợi lòng dũng cảm, dám tuyên xưng Đức Tin Công Giáo của anh.

Nhà vua cũng cho mở cuộc điều tra, để biết tại sao Cây Thánh Giá quý báu lại lọt vào tay cụ già Gustave Busset. Qua cuộc điều tra, người ta biết:

– Vào năm 1531, vua Francois I nhờ nhà kim hoàn Benvenuto Cellini làm Cây Thánh Giá bằng vàng ròng. Sau đó, tác phẩm nghệ thuật tôn giáo được trưng bày tại điện Versailles. Khi cuộc cách mạng Pháp 1789 xảy ra, dân chúng tràn vào đập phá và ăn cắp của cải vật dụng trong điện Versailles. Có lẽ Cây Thánh Giá bị ăn cắp và bị bán đi với giá thật rẻ.

Sau cuộc điều tra, vua Louis-Philippe I mua lại Cây Thánh Giá với giá 60.000 đồng vàng và truyền gọi anh Pierre Piront vào làm việc trong hoàng cung. Nhờ cơ may, anh trau dồi, phát triển và tận dụng khả năng nghệ thuật của mình.

Để ghi nhớ biến cố ấy, anh Pierre Piront vẽ bức họa “Cây Thánh Giá bán đấu giá”. Bức họa là một tuyệt tác, tháp tùng anh theo anh và an ủi anh ở giây phút cuối đời.

(Albert Pfleger, ”FIORETTI DE LA VIERGE MARIE”, Mambré Editeur, Paris 1992, trang 79-81)

Người dịch câu chuyện cảm động nầy là Sr Jean Berchmans Minh Nguyệt, chị Năm của Ngọc Hải SB74, Sr cũng là em của Đức Ông Giuse M. Trần Thanh Phong (RIP)

from FB Võ Đình Thuần SB74

(Nguồn: radiovatican)

Fb Le Van Quy

ÔNG TƯ – Truyện ngắn

Tôi Là Tôi – TRANG VĂN CHƯƠNG MIỀN NAM

ÔNG TƯ

Gia đình ông Tư hồi đó giàu lắm. Vợ chồng ông có cái xưởng rất lớn dưới khu bến Bình Đông với mấy trăm công nhân. Ông có hai căn nhà lớn kề nhau trên đường Công Lý, tiền bạc của cải ông gởi ngân hàng mà tiền lời mỗi tháng có thể mua được cả căn nhà nhỏ. Người thân ông Tư thì chẳng còn ai. Cha mẹ, anh em của ông Tư mất hết cùng mấy chục người hàng xóm nơi làng quê của ông sau một trận đánh lớn ở vùng đó. Hai vợ chồng ông Tư luôn giúp đở đóng góp các trại tế bần, các hội đoàn thiện nguyện. Cuộc sống gia đình ông Tư càng thêm hạnh phúc khi vợ ông sanh cho ông một cậu quý tử…

Rồi 30-4-1975 đến. Cái xưởng của ông được nhà nước tiếp quản, tiền bạc trong ngân hàng mất trắng. Ông loay hoay với hoàn cảnh mới, các đồ trang sức của hai vợ chồng và vật dụng có giá trị trong nhà được đắp đổi qua ngày. Mấy năm sau gia đình ông được liệt vào danh sách “tư sản mại bản”. Hai căn nhà và tài sản được sung vào công quỷ. Gia đình ông được đưa đi vùng kinh tế mới…

Một năm sau bổng nhiên mọi người thấy ông Tư quay về khu phố cũ với với bộ dạng tã tơi, ánh mắt vô hồn. Ông đứng nhìn hai căn nhà cũ rồi cười… có lúc ông cười sặc sụa, lúc cười vang thành tiếng, lúc thì cười khùng khục trong họng. Đêm xuống, mọi người thấy ông Tư ngồi bên mái hiên trước nhà cũ mà khóc. Ai thấy cũng đau lòng. Ông lang thang quanh khu phố nhưng ông không còn nhận ra ai là người quen nữa. Mọi người quý mến ông vì lúc đương thời ông hay giúp đỡ bà con lối xóm. Nay mọi người chung tay người cái áo cái quần, người bữa cơm, người tắm giặt… để đùm bọc ông. Có những lúc ông tĩnh táo, ông ngồi trầm ngâm và kể. Cả đời hai vợ chồng chưa làm việc gì nặng nhọc, bây giờ được đưa lên vùng kinh tế mới, phải tự khai hoang, dựng nhà. Vì thay đổi đột ngột nên không thích nghi kịp, sức khoẻ sa sút, vợ và con ông bị sốt rét mà qua đời…

Mấy ngày qua không thấy ông Tư quanh khu phố nữa. Sáng nay mọi người nhận được tin tìm thấy xác ông dưới kênh Nhiêu Lộc ngay cầu Công Lý…

H.D


 

CHUYỆN TÌNH MỘT GIÁM MỤC – “Áo cưới màu hồng”

Võ Ngọc Ánh

CHUYỆN TÌNH MỘT GIÁM MỤC

“Áo cưới màu hồng.

Hôm nay lướt FB, thấy tấm hình của một người đàn ông trung niên, mặc tu phục của một Giám Mục (vừa được tấn phong gần đây), chụp với một người phụ nữ cũng còn xuân, mặc áo màu hồng, làm cho Mười Lúa có một cái cảm xúc hết sức lạ kỳ, nên bật máy lên viết. Không viết liền, để nay mai sẽ quên mất, hay không còn hứng thú để viết nữa. Đây mới là lý do chính cho bài viết dài dòng chuyện tình LM này.

Ở VN, trước 75, nhà văn Lệ Hằng tung ra quyển “Tóc Mây”, kể chuyện tình của một LM với một cô sinh viên, làm cho xã hội miền Nam một thời rất ồn ào, và dĩ nhiên sách in không đủ bán, tác giả vừa nổi tiếng vừa phát tài! Người ta bàn tán, bình phẩm, khen, chống, ủng hộ, tẩy chay,… lung tung phèng lên! Nên nhớ, đây chỉ là một quyển tiểu thuyết chớ không phải chuyện có thiệt.

Ở Mỹ, bộ phim truyền hình “The thorn bird”, được chiếu 4 ngày từ 27 đến 30 tháng 3, năm 1983, cũng làm cho xã hội Mỹ ồn ào dữ lắm. Đây là bộ phim dựa theo cuốn tiểu thuyết cùng tên của nhà văn người Úc, xuất bản năm 1977. Sách bán như tôm tươi, và phim cũng thành công ngoài sức tưởng tượng. Dĩ nhiên, cả hai đều là chuyện giả tưởng!

Chuyện tiểu thuyết, chuyện phim ai muốn nghĩ sao thì nghĩ và ai muốn tin hay hỏng tin cũng không sao cả. Nói tóm lại là nhà sản xuất kinh doanh kiếm tiền, còn người thưởng thức thuần tuý là bỏ tiền ra mua một sở thích – sở thích đọc sách hay sở thích xem phim. Đơn giản chỉ có vậy.

Tui không phải nhà văn, cũng không là đạo diễn, nên muốn cạnh tranh với họ là chuyện “đội đá vá trời”. Tui chỉ muốn viết, muốn kể lại những chuyện tình có thiệt, tui biết rõ, không thêm mắm muối, theo cách kể nhà quê của mình. Chuyện của tui có thật, và là những chuyện tình đẹp như chuyện thần tiên! Còn chuyện mấy cha “phá rào”, ăn vụng,… ai muốn viết thì viết, tui không thấy hứng thú.

Câu chuyện sau đây Mười Lúa lấy thông tin từ một sư huynh đồng môn, những thông tin rất đáng tin cậy, vì anh và nhân vật chính sống trong cùng một họ đạo. Những nhân vật chính trong chuyện, tui đều biết, có quen hết. Sư huynh tui vẫn còn sống và bài viết của anh về nhân vật chính vẫn còn trên FB. Ai muốn đọc IB tui gởi cho đọc chơi.

Có một chú bé nhà quê, quê dữ lắm, quê hơn Mười Lúa, con nhà nông dĩ nhiên, ở miệt Chương Thiện (gần U minh rồi), nhưng rất rất rất thông minh và hiếu học. Thời Tiểu học, vừa đi học vừa bán bánh lá dừa giúp mẹ. Một hôm ế hàng, ngồi buồn thiu trước cửa nhà Xứ, thì ông cha Sở ra hỏi thăm rồi mua hết thúng bánh, cho các Thày và các sơ trong nhà xứ. Thời đó VC tịch thu Đại Chủng Viện, nên các Thày phải “sơ tán”, phải “chạy giặc”, về các họ đạo để chờ thời, và học chui. Thúng bánh lá dừa chẳng là cao lương mỹ vị gì, nhưng cũng no bụng các thày trong những ngày ăn độn, và nhứt là cậu bé mừng vui như trở cờ trong bụng. Cậu rất có cảm tình với cha sở, bắt đầu quí mến ngài và các Thày kể từ hôm đó. Hình ảnh chiếc áo chùng đen đã ghi nhẹ vào lòng chú bé nhà quê kia rồi!

Chú bé đã học hết chữ nghĩa trường làng, phải “du học” sang họ đạo khác mới có lớp cao hơn, bằng cách ngày ngày chống xuồng qua cái lung mênh mông, làm Mười Lúa cũng nhớ cái thời mình phải đi “du học”, và học với Bà Út. Lớn lên trong chốn đồng ruộng, cậu bé cũng đã từng đi chăn trâu, như Mười Lúa, có điều coi bộ nhà ML còn khá hơn cậu bé này một bậc, vì cậu chăn trâu mướn, còn ML chăn trâu nhà.

Sau bao gian nan vất vả, bi giờ cậu đã là một thanh niên khoẻ mạnh, đẹp trai, và đậu đầu bảng vào trường ĐH Cần Thơ. Một tương lai tươi sáng đang hé mở, chờ đợi. Nhiều cô bắt đầu để ý chàng trai trẻ, trong đó có một cô thôn nữ xinh đẹp, đạo hạnh, nết na, lại là con của một “đại gia” miền sông nước. Cậu đáp lại tình yêu ấy, và họ yêu nhau tha thiết, hẹn thề khi công thành danh toại, vinh qui bái tổ, thì “kiệu anh đi trước, võng nàng theo sau” về dinh! Một mái ấm gia đình, một tương lai tươi đẹp đang chờ họ một cách hiển nhiên. Đó là một ước mơ, một viễn ảnh tươi đẹp mà bất cứ đôi trái gái nào cũng mong chờ. Cha mẹ hai bên cũng không có lý do gì mà không tác hợp cho đôi trai tài gái sắc. Đàng trai đã mang lễ vật xin cưới, trong đó có một xấp vải màu hồng dùng để may áo cưới cô dâu.

Tình cờ chàng biết được Giáo Phận đang tuyển sinh vào các lớp dự tu (Lúc này VC trả lại Đại Chủng Viện, cho nhận tu sinh, nhưng rất giới hạn, cho nên muốn được nhận, phải qua các lớp dự tu khá gắt gao). Bấy lâu nay chỉ lo học hành, lo hoạch định cho tương lai, quên bẵng hình bóng chiếc áo dòng của cha Sở ngày xưa, thì dường như ước muốn làm LM bỗng trổi dậy.

Chuyện lớn rồi! Bên tình cho em, bên tình cho Chúa, rồi phải ăn nói làm sao với người yêu, với gia đình mình, và gia đình nàng? Phụ bạc người yêu cho dù là vì lý tưởng cao cả, cũng là một hành động khó được chấp nhận! Đính hôn rồi huỷ hôn là làm “mất duyên” con gái ngườii ta, nếu không muốn nói là làm nhục “đàng gái”! Rối như tơ vò. Cầu nguyện xin Chúa soi sáng cho mình biết lựa lời thuyết phục người yêu, thuyết phục gia đình hai bên để không ai bị tổn thương.

Biết được ý định của chàng, dĩ nhiên nàng bị sốc. Tình là cái chi chi mà nó mãnh liệt tới mức khi thất tình, bất kể đàn ông hay đàn bà, đều có thể “mua bao thuốc chuột uống cho rồi đời”! Cũng may, cô gái con nhà đạo hạnh, biết người yêu không phải phụ bạc, mà hy sinh tình riêng cho tình Chúa, cho lý tưởng phục vụ tha nhân, nên sau cùng nàng cũng chịu thua, “giành” không lại Chúa!

Rồi chàng được nhận vào Đại Chủng Viện và nàng cũng lên xe hoa theo chồng vài năm sau đó. Ngày cưới của nàng, chú bé chống xuồng ngày xưa được phép Bề Trên về tham dự đám cưới của người yêu, để chúc phúc cho họ.

Ngày trọng đại của chú bé chống xuồng cũng đến. Cha mẹ, anh em, bà con dòng họ của chú và cả gia đình “cha mẹ vợ hụt” cũng có mặt đông đủ đê tham dự lễ truyền chức LM cho chàng. Ít có người biết hay để ý đến chiếc áo màu hồng nàng đang mặc. Chỉ có chàng, nàng, và gia dình hai họ mới biết, đó là chiếc áo cưới chàng tặng nàng năm xưa! Một hội ngộ kỳ thú, cảm động vô cùng! Một tình yêu không giống một mối tình nào trên đời này cả!

Hôm nay tôi đăng tấm hình người phụ nữ trung niên, lặn lội ngàn dặm từ Mỹ về tham dự lễ tấn phong Giám Mục. Giám Mục là chàng. Người phụ nữ đứng kề bên là nàng. Cũng một chiếc áo màu hồng. Chỉ có người trong cuộc mới biết ý nghĩa của chiếc áo màu hồng. Chỉ có ai biết chuyện mới rơi lệ, mới cảm kích cho một cuộc tình có cái kết đẹp như chuyện thần thoại! Họ không tay trong tay như đôi tình nhân, như một cặp vợ chồng hạnh phúc, nhưng họ là biểu tượng của một tình yêu hoàn toàn vượt qua tình yêu trai gái.

Trái tim của họ là một cặp tim đẹp nhứt, là hy lễ cao quý nhứt đời, dâng lên Đấng Toàn Năng. Đây là bức hình đẹp nhứt, ý nghĩa nhứt mà nàng post lên FB với một ghi chú đơn giản: “Hôm any về quê hương về tham dự lễ truyền chức Đức Giám Mục….” Nàng trân trọng gọi chàng là “Đức Giám Mục” như bao nhiêu giáo dân xưng hô với một vị chủ chăn.

Ý Chúa nhiệm mầu! Không có ơn Chúa giúp, chắc gì có ai qua nổi cái ải tình tình yêu trai gái! Hãy dâng lời cảm tạ Chúa. Hãy cùng cầu nguyện cho Đức Tân Giám Mục, luôn là một chủ chăn như lòng Chúa mong muốn. Xin Chúa chúc lành cho người con gái mặc chiếc áo màu hồng, không phải trong ngày cưới, mà là ngày dâng hiến người yêu của mình cho Chúa. Amen.

Peter C. Tran”

Copy từ FB Duc Thang Nguyen

NỢ TÌNH!-Truyện ngắn

Chau Trieu is with Kim Dao Lam

 NỢ TÌNH!

Trong tất cả các món nợ, nợ tình là món nợ đau đớn và dai dẳng nhất, đôi khi mất cả cuộc đời, người ta trả mãi vẫn không xong!

Tôi có một người bạn, cô ấy xinh đẹp và tài giỏi, có một mái ấm gia đình, chồng yêu thương vợ nhưng… hạnh phúc cô đang có chưa bao giờ là trọn vẹn, bởi:

Không thể biện hộ với bất cứ lý do gì, cô ấy cũng xem bản thân là “liên đới” và phải chịu trách nhiệm trước cái chết của một người, là mối tình đầu của cô ấy!

Ngày ấy, họ yêu nhau tha thiết, là một mối tình thơ đúng nghĩa. Thuở ấy, nhà cô và anh đều nghèo, anh đành phải bỏ học sớm để đi làm phụ giúp cha mẹ. Còn cô, cô may mắn được tiếp tục chuyện học hành, anh dù không giúp gì được nhiều cho cô nhưng luôn bên cạnh động viên cô mỗi ngày. Mỗi khi cô thức đêm học bài là anh cũng thao thức theo, cô đứng trên căn gác ọp ẹp nhìn xuống phía trước nhà là thấy anh đang đứng đó, tay huơ huơ cái bánh bao còn nóng hổi hay bịch cà phê để giúp cô tỉnh táo. Họ đã yêu nhau say đắm, thuần khiết và dìu đỡ nhau từng bước qua khó khăn của cái thủa hàn vi thiếu thốn trăm bề. Rồi cô vào đại học, anh vẫn tận tụy như một con ong chăm chỉ chăm sóc cho cô mỗi ngày cho tới khi:

Cô ra trường với tấm bằng loại giỏi, biết bao cơ hội nghề nghiệp chào mời, bao chàng trai khá giả săn đón và gia đình cô đã cấm cản họ tiếp tục đến với nhau. Đau đớn thay, cô cũng thay lòng!

Họ nói lời chia tay nhau trong một chiều mưa tầm tã. Cô xin anh hãy tha thứ cho cô, cô cần tương lai, cần sự nghiệp, cần một người chồng có chức vị theo ý gia đình… Còn anh, anh vẫn cặm cụi đi làm trên chiếc xe đạp cũ, lương ba cọc ba đồng, rồi chui rúc trong một căn nhà nhỏ với 9 anh chị em, gia đình cô không cam tâm để cô làm dâu nhà ấy!…

Anh đã ngồi lặng yên, đôi mắt ráo hoảnh, đôi bàn tay xiết chặt và đôi môi mím lại. Không nói một lời, anh lấy xe phóng như tên bay dưới làn mưa nặng trĩu. Chỉ ít tiếng sau, tin sét đánh dội về:

Anh ra đi trong một tai nạn, người ta bảo miệng anh nồng nặc mùi rượu, là thứ nước đắng anh chưa từng uống một lần trong đời, anh chỉ nếm một lần duy nhất và là lần cuối cùng, mãi mãi!…

Cô tưởng chừng đã chết đi sống lại hàng trăm lần bên mộ anh. Nỗi đau và sự dày vò như giết cô lần mòn. Cô đã không thể tự tha thứ cho mình, là lỗi lầm của cô, vì sự bạc tình của cô mà người ấy ra đi không nhắm mắt!

#101 hình ảnh chia tay buồn lãng mạn tiễn đưa cuộc tình tan vỡ ...

Nhưng may mắn cô đã gặp được người chồng trong hiện tại, ông ấy hơn cô khá nhiều tuổi, ông thấu hiểu được nỗi giằng xé, sự ân hận cô phải mang vác trong trái tim và trong suốt cuộc đời còn lại… Thế nên, ông yêu cô bằng tất cả tình thương, lòng bao dung và từ ái. Ông giúp cô sống trở lại bình thường nhưng “Món nợ tình” cô đã trót vay thì mãi mãi không thể trả được!

Và kế tiếp là câu chuyện của chị tôi, chị cũng “Nợ tình” nhưng lại là trong một hoàn cảnh hoàn toàn khác!

Chị chia tay mối tình đầu vì hiểu lầm và tự ái. Chính xác hơn, chị đã đánh mất tình yêu thật sự của đời mình để rồi…những gì xảy ra kế tiếp chỉ là: “Người xa xăm quá tôi buồn lắm, trong một ngày vui pháo nhuộm đường!…”

Chị đã gật đầu đại, lấy một người “Môn đăng hộ đối” theo sự thúc giục của gia đình, vì thời ấy, con gái 25 tuổi chưa chồng là đã “ế” lắm. Mấy chục năm bên cạnh chồng, chị chưa hề biết đến cảm giác bằng lòng, yêu đương và hạnh phúc bởi cái “tình yêu” trong chị đã “chết” theo mối tình đầu. Chị cứ sống vật vờ bên cạnh chồng, cảm nhận cái “ái ân” lạt lẽo của chính mình bố thí cho người ta. Và thật tội nghiệp chồng chị, dù ông có cố gắng thế nào thì chị cũng nhất quyết không mở lòng. Và thế là mấy chục năm làm vợ làm mẹ, chị chỉ đau đáu, khao khát một điều duy nhất, đó là “Tự do”!

Ly hôn là gì? Khái niệm Ly hôn?

Và chị đã quyết định ly hôn chồng khi 2 con đã lớn. Chị và chồng đã ôm nhau khóc trong ngày từ giã. Chị khóc xin lỗi anh, chị dù cảm động trước tấm lòng của người ấy bao năm qua đã kiên nhẫn, khổ nhục vì chị nhưng trái tim có lý lẽ riêng của nó, chị không yêu nên cuộc sống chung luôn là gượng gạo và đày ải bản thân mình. Còn anh, anh khóc vì bế tắc, anh thừa nhận mình đã thua cuộc, mấy chục năm qua anh đã cố níu giữ một trái tim chưa bao giờ là của mình. Anh đã hy vọng, hy vọng rồi tuyệt vọng, anh phải cay đắng thừa nhận: anh mãi mãi là người đến sau!

Và chị xem như đã “Nợ tình” anh! Mấy chục năm qua người chồng ấy đã sống bên cạnh chị như bên cạnh một cái xác không hồn. Anh không đáng để bị chị đối xử tàn nhẫn như thế, và chị khao khát phải bù đắp cho anh, phải trả món nợ tình đó bằng một thứ, là thứ chị đang có!

Và chị đã sang tên cho anh căn biệt thự bên bờ hồ, nó hoàn toàn là tài sản riêng của chị khó nhọc gầy dựng nên. Rồi có ai ở đời này giống như chị: chị gán gép, làm mai người bạn thân của mình cho anh, tổ chức đám cưới cho họ và xem như chị đã “hoàn tất” công việc trọng đại của đời mình: “gả vợ cho chồng”!

Vậy đấy, như tôi đã nói ở trên: nợ tiền nợ bạc thì có thể trả bất cứ lúc nào, thật dễ dàng và sòng phẳng để “xóa nợ” nhưng nợ tình thì chưa chắc. Nợ tình có thể khiến người ta đeo mang cả cuộc đời, làm khổ sầu lòng nhau và biết đâu món nợ đó sẽ đeo đuổi bạn không chỉ ở kiếp này mà còn mãi tận đến ngàn sau: vô lượng kiếp!

Và tôi, tôi cũng đang mắc nợ, là món “Nợ tình” hay nợ “Ân tình” mà sao lại làm nát tan tim người và cũng làm khổ lụy cả đời tôi!…

Bạch Cúc


 

Nụ Cười Đầu Tuần: CHUYỆN BẠN TÂY SANG VN

Thanh Lan-Những câu chuyện Nhân Văn

CHUYỆN BẠN TÂY SANG VN

Một sinh viên Việt Nam du học ở châu Âu dẫn bạn Tây về VN chơi. Đi bằng xe máy, đưa cho bạn Tây cái mũ bằng nhựa mỏng dính nói đội vào, bạn Tây nói :

– Tao có mũ vải rồi.

– Không được, cái này gọi là mũ bảo hiểm nghĩa là bảo vệ cái đầu , theo luật giao thông, nếu không đội mũ này mày sẽ bị phạt.

– Nhưng cái mũ này làm sao có tác dụng bảo vệ ?

– Mày đúng là Tây, tao có nói để bảo vệ đâu, chỉ để khỏi bị phạt thôi.

Đi một đoạn, thấy mấy tay công an đi xe máy không đội mũ bảo hiểm, bạn Tây hỏi :

– Luật giao thông Việt Nam không áp dụng cho công an à ?

– Có áp dụng.

– Vậy sao họ không đội,họ không lo bị phạt sao ?

Cong an vi pham luat giao thong - YouTube

– Vì đó là công an, không đội cũng không bị phạt, vì công an không ai lại đi phạt công an.

Đi tiếp, thấy mấy thanh niên không đội mũ bảo hiểm đi ngang qua cảnh sát giao thông cũng không bị phạt, bạn Tây hỏi :

– Đó cũng là công an à ?

– Mày hỏi đểu à, đó là bọn trẻ trâu, nó không bị phạt vì nó nhuộm tóc vàng và khoe hình xăm ở cánh tay, nó sẵn sàng bỏ chạy khi bị thổi còi, lâu dần nó không cần bỏ chạy cũng không bị phạt.

Clip: "Quái xế” chở dàn "chân dài", lạng lách trên đường HN-Tin tức ...

– Tại sao tóc tao cũng vàng, tay tao cũng có hình xăm mà mày bắt tao đội mũ bảo hiểm ?

Bạn Việt Nam bí quá nói đại :

– Tại tóc mày chỉ có một màu vàng, bọn kia tóc nó nhuộm hai màu. Mắt mày lại xanh, mũi lõ nên không giống mấy đứa đó được.

Đến ngã tư, có đèn đỏ bạn Việt Nam vẫn đi tiếp, bạn Tây kinh ngạc hỏi :

– Mày không nhìn thấy đèn đỏ à ?

– Có.

– Vậy sao mày không dừng ?

– Mày không hiểu cái gì hết, cần phải xem xe container đằng sau nó có dừng không, nếu nó vẫn lao nhanh thì phải chạy tiếp không nó húc chết.

Kinh nghiệm lái xe gần xe công-ten-nơ, xe tải cỡ lớn

Bạn Tây ngoái lại thấy một xe container lù lù chạy đằng sau, mặt xanh lét, vừa sợ vừa khâm phục kiến thức giao thông của bạn Việt Nam. Đến ngã tư khác, gặp đèn xanh, bạn Việt Nam dừng lại không đi, bạn Tây hỏi:

– Sao đèn xanh mày lại dừng ?

– Tại phải chờ cho các nhân dân ở đường vuông góc với đường này nó vượt đèn đỏ xong đã rồi mới đi được, không nó húc chết.

Ô nhiễm không khí: Báo động nguồn phát thải từ xe máy - Xe điện Anbico

Vừa nói xong thì một nhân dân thiếu kinh nghiệm bị xe của làn vuông góc húc ngã vì liều lĩnh vượt đèn xanh. Bạn Tây lại càng khâm phục kiến thức giao thông của bạn Việt Nam.

Xe vượt đèn đỏ gây tai nạn bỏ chạy, bạn Tây gọi bạn Việt Nam đến hỗ trợ người bị nạn, đỡ người, vẫy xe ô tô để chở nạn nhân đi viện nhưng không ai hỗ trợ, cũng không ai cùng vào giúp, bạn Tây hỏi :

– Tại sao không ai cùng giúp nạn nhân như chúng ta ?

33 người chết vì tai nạn giao thông trong ngày mùng 1 tết 2014

– Tại người Việt Nam ai cũng bận.

– Người châu âu không bận sao ?

– Nhưng người Việt Nam bận hơn người châu âu, và cứu người cũng có thể gặp phiền phức, mà thôi không hỏi nữa, mày với tao chở nạn nhân vào viện bằng xe máy.

Đến quá nửa đêm mới về đến nhà. Sáu giờ sáng hôm sau, đang ngủ, bị đánh thức bởi tiếng loa phường, bạn Tây hỏi:

– Tại sao loa không thông báo muộn hơn ?

CÓ CÒN AI TIN VÀO CÁI LOA PHƯỜNG KHÔNG? (Ông Tư Sài Gòn / Saigon Nhỏ ...

– Tại muộn hơn thì mọi người đi làm, không có ai nghe.

– Vậy phát thanh sớm thì có người nghe không ?

– Cũng không có.

– Vậy tại sao phải phát thanh sớm ?

– Tại muộn hơn thì mọi người đi làm, không có ai nghe.

Sáng hôm sau , hai bạn tổ chức nấu ăn. bạn Việt Nam nấu, nhờ bạn Tây đi…đổ rác :

– Mày ra cổng, rẽ trái, đi 40 mét gặp một cái biển ghi chữ “Cấm đổ rác” thì đổ ở đó.

Đổ rác nơi bảng cấm - Báo Khánh Hòa điện tử

– Lạy Chúa, sao lại đổ rác ở chỗ cấm đổ rác ?

– Vì đó là chỗ duy nhất có thể đổ rác, cả tổ dân phố này đều ngầm quy ước đó là chỗ đổ rác.

Nấu ăn một lúc, bạn Việt Nam phát hiện ra thiếu thực phẩm, nói bạn Tây trông nhà để đi chợ, thằng Tây nói :

– Mày ở nhà, để tao thử đi chợ, tao thử đi một mình xem sao, tao muốn trải nghiệm. Mà chợ chỗ nào ?

Nơi cấm họp chợ lại đông vui nhất !!! - Baoxehoi

– Mày đi ra cổng, rẽ phải 300 mét, thấy một cái biển ghi…

– Ghi “Cấm họp chợ” phải không ?

– Đúng, mày thành người Việt Nam mất rồi. Đó, chợ ở ngay sau cái biển đó.

Ăn xong, bạn Tây muốn đi ra trạm ATM rút tiền. Bạn Việt Nam nói :

Nguyên Nhân & Cách lấy khi Bị nuốt thẻ ATM Nhanh Chóng chỉ 5 Giây!

– Chắc mày chuẩn bị muốn đi đến vùng không có máy rút tiền hả.

– Đúng, hôm trước tao rút mấy lần, có lần thì bị “nuốt thẻ”, có lần thì phải chờ gần nửa giờ chờ xong thì máy…hết tiền, nên tao muốn rút nhiều một chút đỡ phải đi rút.

– Để tao gọi taxi đi !

– Tao muốn đi xe máy, tao bắt đầu thích xe máy.

– Vậy mày cầm cái túi không quai này, ngồi sau tao chở đi rút tiền.

– Cái túi để làm gì vậy ? Đựng tiền hả ?

– Không, cái túi này không có gì, mày cứ cầm ngồi sau, cầm lỏng thôi để cho cướp giật nó giật.

Truy bắt nhóm cướp giật làm người mẹ tử vong, con gái mang thai nhập ...

– Không có quai để khi nó giật thì không bị ngã xe phải không ?

– Mày đoán như thần vậy.

– Còn tiền rút xong để đâu ?

– Mày để trong túi áo, túi quần chứ còn để đâu.

Trên đường về thì thấy một thằng ô tô biển xanh vượt qua các xe khác với tốc độ khoảng trên 100km/h ở làn đường chỉ cho ô tô chạy không quá 70km/h. Bạn Tây hỏi :

– Nó là xe ưu tiên à ?

Xe biển xanh 'vô tư' chạy ngược chiều trước cổng bệnh viện đa khoa Đông ...

– Không, như xe biển trắng thôi.

– Nhưng sao nó phóng vậy mà không bị “bắn” tốc độ, hay lái xe biển xanh nhuộm tóc vàng và xăm hình ở cánh tay ?

– Không phải, lái xe không nhuộm tóc xăm hình. Đó là xe của cơ quan nhà nước, tay sếp của cơ quan đó kiểu gì cũng quen biết bên cảnh sát giao thông, không quen trực tiếp thì quen gián tiếp. Cảnh sát giao thông có bắt thì lại phải nghe điện thoại “giải mã” rồi cũng phải thả nên thà không bắt nữa cho khỏi mất thời gian.

Trên đường đi, thấy nhiều nơi ghi “Tất cả vì dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh”. Bạn Tây hỏi:

"Tat Ca Vi Su Nghiep Dan Giau, Nuoc Manh, Xa Hoi Cong Bang… | Flickr

– Ghi vậy làm gì mày?

– Khi mày đang rất đói thì mày muốn bàn chuyện đi đâu ?

– Tất nhiên là đi ăn.

– Đó … thiếu cái gì thì nói nhiều về cái đó.

S.T.


Giải trí cuối tuần: Câu chuyện ở một bệnh viện nọ…

Bùi Quang Hiếu

Quá tải bệnh viện: Vào phòng chờ...bao giờ đến lượt?

Chuyện xảy ra ở hành lang một bệnh viện. Cô con dâu nhăn mặt nói với chồng:

– Ở nhà đủ thứ phải lo, làm sao mà vô trong đây hầu ba được? Anh nói cô Năm hay cô Bảy ở không thì chia nhau vô chăm sóc ba “.

Anh con trai chưa kịp trả lời thì có lẽ cô Năm hay cô Bảy gì đó đã cong môi phản đối:

– Tui cũng có đủ thứ chuyện để lo chứ bộ, quên tui đi”.

Một cậu con trai khác cau cau lông m … ày:

-Nói chung là ai cũng bận hết, với lại ba mắc bệnh lây nhiễm, vô hầu ba rồi lỡ bị lây thì làm sao ?Cô con dâu trưởng phán một câu:

-Thôi khỏi bàn tán gì hết, mướn người nuôi là xong chuyện.

Tất nhiên sau đó, sự việc xảy ra đúng như hoạch định của họ.

Một phụ nữ khỏe mạnh, có dáng vẻ nông dân đang nuôi một người bệnh nằm giường bên cạnh ông cụ đã chủ động đề nghị nuôi bệnh cho ông cụ luôn.

Công việc tỉ mỉ, cần sự chu đáo, từ việc cho uống sữa, uống thuốc đến thay quần áo, lau người (ông cụ đã mất hết cảm giác vệ sinh), nhưng chị vẫn làm với sự chăm chút, không để lộ bất cứ thái độ ghê tởm nào, lại còn có vẻ hiền hậu, dịu dàng như con đối với cha mẹ.

Trong lúc ấy, có lẽ yên tâm vì cha đã có người chăm sóc, đám con trai, con gái, dâu, rể hơn một chục người của ông cụ thỉnh thoảng mới lượn qua như một luồng gió nhẹ.

Tiếc thay, sự chăm chút của chị phụ nữ không kéo dài bao lâu, chỉ hơn một tuần sau là ông cụ đã qua đời.

Con cái, cháu chắt ông kéo vào mới đông chứ.

Phong tục đam ma của người khơ mú yên bái - YouTube

Họ khóc lóc khá ồn ào nhưng vẫn bình tĩnh chỉ huy việc khâm liệm ông cụ, và ở hành lang lại xảy ra một cuộc cãi vã xem người nào phải chi nhiều nhất cho đám tang…

Anh con trai trưởng cầm một xấp tiền đến trả cho chị phụ nữ đã nuôi bệnh cha mình.

Hai mắt đỏ hoe, chị trả lời:

-Tôi nuôi cụ ấy vì thấy xót xa cho cụ có lắm con nhiều cháu mà chẳng ai đoái hoài, chứ tôi có làm cái nghề này đâu mà lấy tiền.

Đám người đang khóc mếu, cãi nhau…đột nhiên im bặt.

Rồi từng người một lẻn ra ngoài…

FB To Hanh

Nguyễn Phương Nhu

Tô cháo huyết -Tiểu Tử  

Tiểu Tử      

Xe cháo huyết của bà xẩm đó nằm trên vỉa hè phía đối diện với rạp hát Casino Đakao, gần trụ đèn xanh đèn đỏ. Thành ra khi đi về hướng Gia Định, gặp đèn đỏ, ngừng xe lại là thấy nó ngay ở bên tay mặt.
Hồi mới “giải phóng”, còn chút đỉnh tiền, chiều đi làm về tôi hay tấp vô đó “làm” một tô cháo huyết có kèm theo một dĩa giò-cháo-quẩy cắt khoanh. Không biết có phải tại vì buổi trưa ăn không đủ no thành ra chiều nghe đói sớm hay sao, mà lúc nào tôi cũng thấy cháo huyết của bà xẩm đó thật là ngon! Cháo nấu nhừ, huyết cắt vuông thành từng miếng vừa vặn nhỏ để được nằm gọn trong lòng cái muỗng sành. Múc một muỗng vừa có cháo vừa có huyết đưa lên môi thổi cho bớt nóng trước khi cho vào miệng, mà nghe thơm phức làm chảy nước miếng. Còn giò-cháo-quẩy cho vào cháo, dù đã được cắt khoanh, nhưng vẫn giử nguyên cái giòn của nó. Cái “béo” của giò-cháo-quẩy làm cho cái “bùi” của cháo càng thêm đậm đà, và cái “giòn” của giò-cháo-quẩy thì thật “ăn rơ” với cái mềm mềm cứng cứng của huyết. Ngon không chê được!

tochaohuyet4
Bà xẩm gọi tôi bằng “thầy Hai”. Sau “giải phóng”, từ ngữ cũng đã được đổi thay – cho nó hạp với… tác phong cách mạng – không còn gọi “ông A, bà B” gì nữa. Không còn xưng hô “thầy X, cô Y” gì nữa. Mọi giai tầng xã hội đều được xóa bỏ, mọi chênh lệch tuổi tác hầu như được sang bằng. Trong… “xã giao thường thức”, để gọi nhau, người ta chỉ còn dùng có hai từ “anh” và “chị”, vừa ngắn gọn lại vừa… bình đẳng nữa! Thành ra thấy được xử dụng rất thoải mái và… xả láng! (Một hôm, một thằng bé cỡ tuổi cháu tôi đã gọi tôi bằng “anh”… ngon lành! Có lẽ trong lòng nó cũng khoái được trịch thượng như vậy. Bởi vì nó biết “thằng chả không làm gì mình được” ! Đổi đời… sướng ở chỗ đó!).
Vậy mà bà xẩm vẫn gọi tôi bằng “thầy Hai”, thản nhiên không ngượng nghịu gì hết! Có lẽ tại thói quen. Cũng như tôi vẫn gọi bả bằng “thím xẩm” chớ không là… “chị xẩm” với tiếng “chị” rất… thời trang từ ngữ!
Mặc dù bây giờ người ta hay nghi ngờ, dè dặt, bà xẩm, đối với tôi, vẫn nói chuyện một cách thật tình cởi mở:
– Tôi nhớ hồi trước thím đâu có cái xe cháo huyết này.
– Thầy Hai nói đúng đó. Hồi trước là cái tiệm. Nó nằm sau lưng tôi nè. Hồi đó buôn bán khá lắm, thầy Hai à. Tiệm có bốn năm cái bàn lận.
– Tôi biết mà. Hồi đó, lâu lâu tôi có chở vợ con lại đây ăn. Tôi ở bên Gia Định, gần xịt hè.
– Ủa! Mà hồi đó thầy làm việc ở đâu vậy?
– Tôi làm trong ngân hàng ở Chợ Cũ. Lái xe đi về trên đường này nên mới biết tiệm của thím đó chớ.
– Giải phóng rồi thầy cũng còn làm việc ở sở cũ hả?
– Đâu có! Mấy ổng đổi tôi xuống làm việc ở nhà máy ve chai Khánh Hội.
– Cha… Xa quá há! Đạp xe chắc mệt hả thầy Hai? Bây giờ ai cũng đi xe đạp hết trọi.
– Rồi cũng quen hà. Ủa? Mà tại sao thím dẹp tiệm đi?
– Thời buổi khó khăn mà thầy Hai. Giữ chi cái tiệm cho họ để ý. Làm ăn nhỏ nhỏ thôi. Như thiên hạ vậy mà.
– Rồi mấy đứa con thím đâu? Tôi nhớ hồi đó trong tiệm có mấy đứa…
– Đi hết rồi. Đi trước giải phóng.
– Sao thím không đi?
– Thầy Hai nghĩ coi. Tôi già rồi. Không biết tiếng, không biết chữ. Đi đâu? Còn mồ mả chồng tôi, mồ mả ông già bà già ở đây mà đi đâu? Còn thầy? Sao thầy không đi?
– Tôi kẹt!
Lâu lâu ăn cháo huyết của bà xẩm được một thời gian thì Nhà Nước đổi tiền. Tôi… trở tay không kịp. Vậy là kẹt cứng. Có khi cả tháng không dư được một đồng. Lấy gì ăn cháo huyết?
Để tránh… thấy hàng cháo huyết, mới đầu tôi thay đổi lộ trình. Tôi đi ngã cầu sắt, vòng qua chợ Bà Chiểu, xa hơn, hôi hơn (vì đi ngang chợ) và mệt hơn. Được mấy tuần, tôi bỗng nảy ra một sáng kiến (Nhà Nước đã chẳng dạy: “Ta phải luôn luôn phát huy sáng kiến” à?). Đó là vẫn đạp xe theo lộ trình cũ. Nhưng khi đến cách đèn xanh đèn đỏ độ vài chục thước, tôi rà thắng, mắt nhìn đèn ở đằng xa. Nếu là đèn đỏ, tôi bóp thắng ngừng ngay, đợi. Nếu là đèn xanh, tôi cắm đầu phóng nhanh đi tuốt. Thật là… thích thú. Tôi phục… tôi quá chừng!
Chiều hôm đó, đi làm về, mặc dù bụng đói meo, tôi vẫn áp dụng sáng kiến “canh đèn để vọt” kể trên. Nhưng không hiểu sao đèn đang xang bỗng bật đỏ ngang không qua đèn vàng, khi tôi chỉ còn cách nó có vài thước. Nếu tôi… nhắm mắt chạy luôn, chắc cũng không sao. Đằng này, “bản năng” của một người công dân tốt trong tôi… bóp thắng. Xe đạp lết bánh một khúc rồi ngừng ngay trước xe cháo huyết!
Tôi chống chân chờ, mắt nhìn đèn đâm đâm. Bỗng tôi nghe tiếng bà xẩm, giọng niềm nỡ:
– Thầy Hai! Thầy Hai à! Trời ơi sao đâu mất vậy? Vô ăn cháo đi!
Tôi làm bộ giật mình rồi nhìn về phía bả, mỉm cười cho… lấy có:
– Thím mạnh hả?
Giọng của bà xẩm trở nên ân cần:
– Vô ăn cháo đi thầy Hai. Lâu quá mà…
– Tôi không có tiền! (Tôi đã nói như vậy – dám nói như vậy – một cách thẳng thừng và không chút ngượng nghịu!).
– Không có sao! Vô ăn đi! Chừng nào trả cũng được. Mình quen mà… Thầy Hai!
Tôi lại nhìn đèn đỏ. Sao nó không xanh cho rồi, để tôi có cớ mà hối hả đạp đi, tránh được cái mùi thơm hấp dẫn của cháo huyết và tránh được lời mời rất thân tình của bà xẩm. Đèn vẫn đỏ! Như… cố tình đỏ lâu để tôi có thời gian “đấu tranh tư tưởng”: một bên là “cái đói”, kéo thêm “cái thèm”, còn một bên là “cái xấu hổ” của một người chưa quen ăn chịu.
Tiếng bà xẩm vang lên:
– Thầy Hai đừng ngại mà… Vô ăn đi rồi mai mốt trả. Không có sao!
Lần này, “cái đói” cộng thêm “cái thèm” đã thắng. Tôi nuốt nước miếng bước xuống xe đạp thì đèn bật xanh. Nhưng trễ rồi. Thằng người hạ cấp trong tôi không còn đếm xỉa gì đến đèn xanh đèn đỏ. Nó chỉ còn thấy có tô cháo huyết! Nó dẫn xe đạp lên lề khóa xe cẩn thận rồi nó bước lại ngồi lên ghế đẩu trước mặt bà xẩm. Nó còn mỉm cười chào bả một cách rất tự nhiên, không có vẻ gì của một người sắp sửa ăn chịu. Bà xẩm hỏi:
– Sao lâu quá không thấy thầy Hai vậy?
Nó trả lời… gọn ơ:
– Tôi mắc về dưới tỉnh.
– Bà con ở dưới cũng mạnh hết hả?
– Dạ, mạnh.
Bà xẩm múc cháo, rắc tiêu, rồi đẩy tô cháo đến trước mặt nó:
– Thầy Hai cứ ăn đi. Chừng nào có tiền trả cũng được, đừng lo!
Nó nuốt nước miếng, cầm muỗng múc cháo lên đổ cháo xuống cho mau nguội mà mắt sáng rỡ, mũi hít từng hơi mùi thơm mời mọc.
Giọng bà xẩm ôn tồn:
– Thời buổi bây giờ, đâu phải ai cũng còn tiền đâu thầy Hai. Hồi trước, làm ăn dễ, có đồng ra đồng vô. Bây giờ, càng ngày càng khó khăn, ai cũng chăm bẵm hết.
Ngừng một chút rồi tiếp:
– Chỗ quen biết, tôi nói thiệt. Thầy Hai cứ tới ăn tự nhiên, đừng ngại. Chừng nào thầy Hai trả cũng được hết. Mình với nhau mà… Phải thông cảm với nhau chớ! Thầy Hai hiểu tôi không?
Đến đây, bỗng thằng người hạ cấp trong tôi biến đâu mất! Để lại tôi ngượng nghịu cúi đầu nhìn tô cháo, chỉ nói lí-nhí được có mấy tiếng “Cám ơn thím. Dạ…”, rồi nín thinh. Tô cháo trước mắt tôi bỗng như to hơn, đầy hơn, đậm đà hơn… Bởi vì tôi thấy nó phải như vậy mới tương xứng với lòng tốt của bà xẩm. Và lần này, tôi có cảm tưởng như tôi ăn tô cháo đó chẳng bao giờ cho hết!
Tôi cúi đầu húp được vài muỗng thì bà xẩm đẩy tới một dĩa giò-cháo-quẩy. Tôi vội xua tay:
– Không! Không! Tôi không ăn giò-cháo-quẩy đâu thím!
– Không phải đâu. Đây là tôi cho thầy Hai mà! Không tính tiền!


Tôi ngước lên nhìn bà xẩm, dò xét. Bả nhìn tôi, hiền hòa, gật đầu nhè nhẹ như để nói “Thiệt mà! Ăn đi!”. Miếng cháo tôi đang nuốt bỗng nghe như bị nghẹn ngang ở cổ họng, làm tôi ứa nước mắt… Tôi không dám nhìn bà xẩm nữa. Tôi nhìn tôi đang cúi đầu húp từng muỗng cháo, trịnh trọng như trong đời tôi lần đầu tiên tôi được ăn món này, món cháo huyết đậm tình người của bà xẩm Đakao…

tieutu_sign

Nguồn: Tu-Phung

HAI XU MUỐI-Truyện ngắn

TRANG VĂN CHƯƠNG MIỀN NAM

Lê Vũ  

HAI XU MUỐI

Xưa có một cô gái mồ côi cha mẹ, không ai nuôi. Cô phải đi ăn xin ngoài chợ. Tối lấy chiếu quấn nằm ngủ. Một hôm nghe nói Rằm Tháng Bảy cúng dường Tam Bảo có phước lắm, cô tự nghĩ làm sao mình tạo phước để khỏi nghèo khổ nữa.

Hôm đó xin được có hai xu, cô muốn cúng cái gì mà chư Tăng trong chùa đều hưởng được hết. Nghĩ vậy cô mua hai xu muối, đem vô chùa năn nỉ vị nấu cơm: “Con xin được có hai xu để mua muối, xin được cúng hết chư Tăng trong chùa, mong người giúp cho”.

Vị ấy liền bỏ nắm muối của cô vào nồi canh to, thế là chư Tăng đều được hưởng đầy đủ. Bẵng đi một thời gian dài, cô cũng không còn nhớ chuyện cúng muối nữa.

Lần lần lớn khôn, cô càng xinh đẹp lạ thường. Khi đó trong triều đình nhà Vua muốn chọn người làm vợ Thái Tử nhưng thấy mỹ nhân nào Thái Tử cũng từ chối. Vua ra lệnh cho các quan tìm người nào Thái Tử vừa ý sẽ được trọng thưởng.

Bấy giờ một ông quan đi ngang vùng đó, thấy trên trời có vầng mây đỏ, ông nghĩ nơi đây chắc có dị nhân phước lớn.

Giờ trưa, trên đường trở về, ông thấy cô bé khoảng 16 tuổi đang trùm chiếu ngủ. Ông đến gần nhìn, bất chợt cô bé thức dậy tốc chiếu ra. Thấy người con gái đẹp đẽ lạ thường lại sống đầu đường xó chợ như vậy, ông tội nghiệp đem về nuôi. Cô được cho ăn mặc dạy dỗ đàng hoàng, tới năm cô 18 tuổi ông dẫn đến trình nhà Vua.

Vua gọi Thái Tử lại, vừa thấy cô bé Thái Tử đẹp lòng ngay. Cô được Đông Cung Thái Tử cưới làm vợ.

Khi Vua băng hà, Thái Tử lên ngôi vua và cô bé trở thành Hoàng Hậu.

Khi làm Hoàng Hậu cô cứ nghĩ, không biết mình đã làm gì mà được phước thế này. Chừng ấy mới nhớ chắc do việc cúng muối năm xưa mà ra.

Một hôm, Hoàng Hậu sắm đủ thứ vật dụng sang trọng truyền chở vô ngôi chùa ngày xưa.

Nhưng lúc trước chỉ với hai xu muối của cô bé ăn xin, mà thầy trụ trì nói bữa nay có đại thí chủ đến cúng dường, bảo chư Tăng đánh chiêng trống đón.

Bây giờ Hoàng Hậu đem nhiều tài vật đến nhưng thầy trụ trì không đánh chuông trống đón.

Lấy làm lạ, Hoàng Hậu gặp thầy trụ trì hỏi

“Thưa Thầy, ngày xưa con là đứa ăn mày, chỉ cúng dường có hai xu muối mà nghe chuông trống đánh rình rang.

Ngày nay, con là Hoàng Hậu cúng cả xe trân bảo mà không nghe chuông trống gì hết?”.

Thầy đáp:

“Ngày xưa hai đồng xu rất quý vì đó là mạng sống của con. Muốn cúng chùa con phải nhịn đói, nên hai xu ấy lớn vô cùng.

Ngày nay con là Hoàng Hậu, của cải đầy xe nhưng đó là của dân chớ đâu phải của con. Lấy của người làm phước cho mình thì đâu có gì quan trọng.”

FB Võ Hữu Nhậm

VuLe Bt ( Bài & Ảnh)

CON RUỒI-Truyện ngắn

Con ruồi nhỏ, nhỏ xíu. Vậy mà cái nhỏ xíu đó đôi khi lại là nguyên nhân của những việc tày đình

Rất có thể hai vợ chồng đâm đơn ra tòa ly dị nhau chỉ bởi một con ruồi. Ai mà lường trước được những việc thần kỳ đó!

Tôi ốm.

Điều đó vẫn thỉnh thoảng xảy ra cho những người khỏe mạnh. Và vợ tôi pha cho tôi một ly sữa. Tôi nốc một hơi cạn đến nửa ly và phát hiện ra trong ly có một con ruồi. Con ruồi đen bập bềnh trong ly sữa trắng, “đẹp” kinh khủng!

Thế là mọi chuyện bắt đầu.

Tôi vốn rất kỵ ruồi, cũng như gián, chuột, nói chung là kỵ tất thảy các thứ dơ bẩn đó. Tối đang nằm mà nghe tiếng chuột bò sột soạt trong bếp là tôi không tài nào nhắm mắt được. Thế nào tôi cũng vùng dậy lùng sục, đuổi đánh cho kỳ được. Bằng không thì cứ gọi là thức trắng đêm.

Vậy mà bây giờ, một trong những thứ tôi sợ nhất lại nhảy tót vào ly sữa tôi đang uống, và đã uống, nói trắng ra là nhảy tót vào mồm tôi. Biết đâu ngoài con ruồi chết tiệt trong ly kia, tôi lại chẳng đã nuốt một con khác vào bụng. Mới nghĩ đến đó, tôi đã phát nôn.

Thấy tôi khạc nhổ luôn mồm, vợ tôi bước lại, lo lắng hỏi:

– Sao vậy anh?

Tôi hất đầu về phía ly sữa đặt trên bàn:

– Có người chết trôi kia kìa!

Vợ tôi cầm ly sữa lên:

– Chết rồi! Ở đâu vậy cà?

– Còn ở đâu ra nữa! – Tôi nhấm nhẳng – Chứ không phải em nhặt con ruồi bỏ vào ly cho anh à!

Vợ tôi nhăn mặt:

– Anh đừng có nói oan cho em! Chắc là nó mới sa vào!

– Hừ, mới sa hay sa từ hồi nào, có trời mà biết!

Vì tôi đang ốm nên vợ tôi không muốn cãi cọ, cô ta nhận lỗi:

– Chắc là do em bất cẩn. Thôi để em pha cho anh ly khác.

Tôi vẫn chưa nguôi giận:

– Em có pha ly khác thì anh cũng đã nuốt con ruồi vào bụng rồi!

Vợ tôi trố mắt:

– Nó còn trong ly kia mà!

– Nhưng mà có tới hai con lận. Anh uống một con rồi.

– Anh thấy sao anh còn uống?

– Ai mà thấy!

– Không thấy sao anh biết có hai con?

Tôi tặc lưỡi:

– Sao lại không biết? Uống vô khỏi cổ họng, nghe nó cộm cộm là biết liền.

Vợ tôi bán tính bán nghi. Nhưng vì tôi đang ốm, một lần nữa cô ta sẵn sàng nhận khuyết điểm:

– Thôi, lỗi là do em bất cẩn! Để em…

Tôi là tôi chúa ghét cái kiểu nhận lỗi dễ dàng như vậy. Do đó, tôi nóng nảy cắt ngang:

– Hừ, bất cẩn, bất cẩn! Sao mà em cứ bất cẩn cả đời vậy?

Vợ tôi giật mình:

– Anh bảo sao? Em làm gì mà anh gọi là bất cẩn cả đời?

– Chứ không phải sao?

– Không phải!

À, lại còn bướng bỉnh! Tôi nheo mắt:

– Chứ hôm trước ai ủi cháy cái quần của anh?

– Thì có làm phải có sai sót chứ? Anh giỏi sao anh chẳng ủi lấy mà cứ đùn cho em!

– Ái chà chà, cô nói với chồng cô bằng cái giọng như thế hả? Cô nói với người ốm như thế hả?

Cô bảo tôi lười chảy thây chứ gì? Cô so sánh tôi với khúc gỗ phải không? Ái chà chà…

Thấy tôi kết tội ghê quá, vợ tôi hoang mang:

– Em đâu có nói vậy!

– Không nói thì cũng như nói! Cô tưởng cô giỏi lắm phỏng? Thế tháng vừa rồi ai làm cháy một lúc hai cái bóng đèn, tháng trước nữa ai phơi quần áo bị đánh cắp mà không hay? Cô trả lời xem!

Vợ tôi nhún vai:

– Anh lôi những chuyện cổ tích ấy ra làm gì? Hừ, anh làm như anh không bất cẩn bao giờ vậy! Anh có muốn tôi kể ra không? Tháng trước ai mở vòi nước quên tắt để cho nước chảy ngập nhà? Anh hay tôi? Rồi trước đó nữa, ai làm mất chìa khóa tủ, phải cạy cửa ra mới lấy được đồ đạc?

Tôi khoát tay:

– Nhưng đó là những chuyện nhỏ nhặt! Còn cô, năm ngoái cô lấy mấy triệu cho bạn bè mượn bị nó gạt mất, sao cô không kể luôn ra?

– Chứ còn anh, sao anh không kể chuyện anh đi coi đá gà bị mất xe? Rồi năm ngoái, ai nhậu xỉn bị giật mất điện thoại?

Cứ như thế, như có ma xui quỉ khiến, hai vợ chồng thi nhau lôi tuột những chuyện đời xửa đời xưa của nhau ra và thay nhau lên án đối phương, không làm sao dừng lại được. Tôi quên phắt là tôi đang ốm. Vợ tôi cũng vậy. Chúng tôi mải mê vận dụng trí nhớ vào việc lùng sục những khuyết điểm tầng tầng lớp lớp của nhau. Và thật lạ lùng, có những chuyện tưởng đã chìm lấp từ lâu dưới bụi thời gian, tưởng không tài nào nhớ nổi, thế mà bây giờ chúng lại hiện về rõ mồn một và chen nhau tuôn ra cửa miệng. Từ việc tôi ngủ quên tắt tv đến việc vợ tôi mua phải cá ươn, từ việc tôi bỏ đi chơi ba ngày liền không về nhà đến việc vợ tôi đi dự sinh nhật bạn đến mười hai giờ khuya v.v…, chúng tôi thẳng tay quậy đục ngầu quá khứ của nhau và vẽ lên trước mặt mình một bức tranh khủng khiếp về đối tượng.

Trời ơi! Thế mà trước nay tôi vẫn sống chung với con người tệ hại đó! Thật không thể tưởng tượng nổi! Tôi cay đắng nhủ thầm và bùng dậy quyết tâm phá vỡ cuộc sống đen tối đó. Tôi đập tay xuống bàn, kết thúc cuộc tranh cãi:

– Thôi, tra khảo hành hạ nhau thế đủ rồi! Tóm lại là tôi hiểu rằng tôi không thể sống chung với cô được nữa! Tôi ngán đến tận cổ rồi!

Vợ tôi lạnh lùng:

– Tùy anh!

Câu đáp cộc lốc của vợ không khác gì dầu đổ vào lửa. Tôi nghiến răng:

– Được rồi! Cô chờ đấy! Tôi làm đơn xin ly hôn ngay bây giờ!

Tôi lập tức ngồi vào bàn và bắt đầu viết đơn. Ngòi bút chạy nhoáng nhoàng trên giấy với tốc độ 100km/giờ.

Viết và ký tên mình xong, tôi đẩy tờ đơn đến trước mặt vợ. Cô ta cầm bút ký rẹt một cái, thậm chí không thèm liếc qua xem tờ đơn viết những gì.

Thế là xong! Tôi tặc lưỡi và thở ra, không hiểu là thở phào hay thở dài. Cuộc đời cứ như xi-nê-ma, nhưng biết làm thế nào được!

Ký tên xong, vợ tôi đứng lên và cầm lấy ly sữa.

– Cô định làm gì đấy?

– Đem đổ đi chứ làm gì!

– Không được! Để ly sữa đấy cho tôi! Tôi phải vớt con ruồi ra, gói lại, đem đến tòa án làm bằng cớ!

Đặt ly sữa xuống bàn, vợ tôi lẳng lặng đi vào phòng ngủ, đóng sập cửa lại. Trong khi đó, tôi hì hục lấy muỗng vớt con ruồi ra.

Tôi ngắm con ruồi nằm bẹp dí trên đầu muỗng và có cảm giác là lạ. Tôi đưa con ruồi lên sát mắt, lấy tay khảy nhẹ và điếng hồn nhận ra đó là một mẩu lá trà.

From: TU-PHUNG