Có Một Người – Truyện ngắn

Câu chuyện tưởng chừng như một đoạn phim hay, hoặc một đoạn văn hư cấu hấp dẫn của một nhà viết tiểu thuyết. Nhưng không. Đây là một chuyện thật I00%. Cả nước Pháp, từ trí thức đến bình dân, đều biết. Trong nước, ngoài nước – đều biết.

Có Một Người

Bị tình phụ, vợ bỏ theo trai – theo một thằng nhóc tì 15 tuổi, học trò của mình và tuổi đáng con mình – bỏ lại mái ấm gia đình hạnh phúc với ba con và một ông chồng có địa vị, hiền lành đứng đắn, rất mực yêu vợ, thương con. Trước cảnh ngộ đau lòng vợ bỏ ông ra đi theo tình nhân mới mà ông không một lời oán trách, cũng không lên tiếng phàn nàn ồn ào, nói xấu vợ minh như thường tình thiên hạ mà âm thầm, lặng lẽ chịu đựng, nhẫn nhục hy sinh cho vợ được hạnh phúc trọn vẹn trong tình yêu mới. Sự nhẫn nhục phi thường nầy đã làm nên tên tuổi ông. Thói thường, người ta hay có cái nhìn hướng ngoại, nhìn người khác mà phê phán, nhưng ít ai quay lại nhìn chính mình để tìm hiểu khuyết điểm của minh. “Người nầy” khác hẳn người khác, quay lại nhìn mình trước tiên, tìm xem minh có những khuyết điểm gì? Có phải vì mãi lo sự nghiệp mà lơ là, thiếu sự âu yếm thương yêu, thiếu sự chăm sóc chiều chuộng vợ để vợ mình phải đi tìm tình yêu mới. Nghĩ là lỗi tại minh nên ông tự sửa làm một người chồng thật tốt, khắc phục mọi khuyết điểm, để mong vợ trở về sống hạnh phúc với ba con. Nhưng vô vọng.

Alfred de Musset & George Sand

Những cuộc tình éo le, ngang trái nầy không phải chỉ “CÓ MỘT NGƯỜI” mà dẫy đầy trong văn học Pháp cũng như Việt Nam. Lấy một thí dụ điển hình: * Alfred de Musset: Đêm tháng năm (Nuit de Mai) – đêm đau đớn nhứt đời ông vì nữ sĩ Amantine Aurore Lucile Dupin (tức George Sand) đã từ giả ông sau những ngày tận hưởng hạnh phúc lãng mạn, yêu đương nồng cháy, tắm nắng thi ca, lặn hụp trong biển tình ân ái. Trên đời có gì đau khổ hơn bị người yêu cắm sừng trên đầu, rồi ôm cầm sang thuyền khác. Nhà thơ Alfred de Musset thể chất vốn yếu đuối,“tiên thiên bất túc”, đau khổ rên rỉ khóc than như điên dại, loạng choạng bước đi trong bóng đêm tháng năm (Nuit de Mai) – đêm của sự đau khổ chia ly pha lẫn với nỗi buồn cô độc, của nước mắt khổ đau rơi xuống cõi lòng tan nát và những ngày hạnh phúc yêu đương đã xa rồi và bị thay thế bằng sự trống vắng cô đơn đang dày xéo tâm hồn.

Đang đau khổ cùng tột, bỗng có tiếng gọi từ cõi xa xăm vọng lại như tiếng gọi thiêng liêng của người chị an ủi vỗ về, tiếng thì thầm tình tự của người yêu chia sẻ: Hãy đứng dậy, gào thét lên tiếng kêu tuyệt vọng! Đừng làm con đà điểu gục đầu rên rỉ khóc than. Không gì làm chúng ta vĩ đại bằng sự đau khổ. “Rien ne nous si grands qu’une douleur” Đó là tiếng gọi của nàng Muse (Nàng thơ) đã giúp chàng thi sĩ đang ở trạng thái cùng cực của sự đau khổ mà đứng dậy dựa vào đau khổ để biến nó thành những câu thơ bất hủ:
Les plus désespérés sont les chants les plus beaux
J’en sais d’immortels qui sont de purs sanglots
(Alfred de Musset)

Và ngày nay thơ không chỉ giúp cho nhà thơ vượt qua nỗi khổ đau khi bị tình phụ như Alfred de Musset hay dằng dặc buồn thương tiếc nuối như T.T Kh, yêu thầm trộm nhớ như Félix Arvers – mà thơ ngày nay từ 45-54 trở về sau): “Thơ là chiếc nạng vững chắc cho người già, là chỗ dựa cho người thất thế, từ đó đứng lên làm lại cuộc đời” (Nguyễn mộng Giác giới thiệu Tạp chí Khoa Hữu). Phùng Quán cũng lên tiếng “Có những phút ngã lòng, ta hãy vịn câu thơ mà đứng dậy”. Và từ đó, những nhà thi sĩ, trong những giây phút ngã lòng, hoặc khi bị thất thế, bị tù ngục, đều lấy câu thơ làm chiếc nạng hay dựa vào câu thơ mà đứng dậy như Trần Dần, Hoàng Cầm, Nguyễn chí Thiện, Phùng Cung, Phùng Quán v.v…

Hãy trở về “Có một Người” – dù trên đầu đã mọc lên cái sừng to tướng, dù trái tim còn ri rỉ máu nhưng vẫn âm thầm. im lặng chịu đựng với sự nhẫn nhục phi thường. Vết thương lòng hằn sâu tận xương tủy nhưng ông lấy sự nhẫn nhục làm phương châm, nên sau khi ly dị bà Brigitte, ông rời Amiens và chọn cách sống ẩn dật tại một vùng ngoại ô Paris và ít xuất hiện dù là những buổi tiệc gia đình với các con (Web Hoa xương rồng).

(Tổng Thống Emmanuel Macron và vợ: Bà Brigitte Trogneux)

Ngày lễ đăng quang vị Tổng Thống đẹp trai, tài năng, trẻ tuổi nhất nước Pháp với 21 phát súng thần công, với trên 500 quan khách tham dự gồm những nhân vật tâm tiếng như cựu Tổng Thống Francois Hollande, Tổng Thống Nicolas Sarkozy và các nhà tai mắt đại diện cho tầng lớp dân chúng Pháp. Tổng Thống E. Macron không muốn làm ồn ào tốn hao công quỷ mà chỉ thực hiện các thủ tục thật giản dị tại điện Élysée. Dù vậy, cũng không thể thiếu những cuộc duyệt binh trong khuôn viên điện Elysée, đội quân nhạc cử hành bản “La Marseillaise” hùng hồn vang dội một góc trời. Đây là ngày toàn dân Pháp reo hò ăn mừng có vị Tổng Thống mới tài năng trẻ tuổi nhứt nước Pháp. Tổng Thống E. Macron đọc một bài diễn văn ngắn gọn, đầy ấn tượng, chào mừng các quan khách và dân chúng với chương trình ông sẽ làm cho dân nước Pháp.

Trong khi nhiều thành phố dân chúng tổ chức reo mừng, lễ đăng quang rộn ràng lời chúc tụng, nhạc quốc ca hùng hồn vang dội một góc trời thì “CÓ MỘT NGƯỜI” buồn ủ rũ, viết một lá thơ “Thơ cuối ngày gửi em Brigitte”. Bài thơ hay, lời lẽ cảm động, gây một ấn tượng sâu sắc, một rung động cảm thương cho số phần người chồng cũ của bà Brigitte:

(Ông André-Louis-Auzière – một banquier tại Amiens Pháp
chồng cũ của bà Brigitte Trogneux)

Đây là lá thơ cuối ngày gửi em Brigitte:

“Cả thế giới hồi hộp theo dõi những gì đang diễn ra tại điện Elysée. Anh phải đóng cửa ngồi một mình trong ngôi nhà ngoại vi thành phố. Vậy mà tiếng tivi vẫn cứ vang lên trong từng căn phòng nhỏ. Người Pháp đang đón chào Macron – vị Tổng Thống trẻ trung nhất lịch sử nước mình.

Chắc là em không còn tâm trí nào để nghĩ đến anh
Cái tên André – Louis đã bị xóa rất lâu rồi trong bộ nhớ
Nhưng anh không thể quên Trogneux tóc vàng một thuở
Những thanh chocolate vùng «Rua » đâu dịu ngọt bằng nàng
Anh nhớ lại những buổi chiều anh phải lang thang
Chạy khắp mọi nẻo đường Paris để tìm cho con hộp thuốc
Chỉ mười năm với ba đứa con có được
Ba đứa con – minh chứng cho tình yêu chúng ta – đẹp hơn cả thiên thần
Anh không ngờ chuyện bắt đầu từ một ngày em đòi ly thân
Rồi em nhất quyết kêu anh ra tòa bằng cái đơn ly dị
“Không thực sự hạnh phúc”- em tự nhiên nói thế
Cuối cùng anh phải chiều em thôi
Vì anh biết em đã tìm thấy một phương trời
Cứ như Newton bất ngờ tìm ra định luật quả táo rơi
Em ngỡ ngàng tìm ra một chàng trai kém minh hai con giáp
Cũng chẳng có gì bất thường (nhất là nước Pháp )

Song gia đình của chúng ta thì lại giống bao gia đình kia tất thảy ở trên đời
Em đã có một mái nhà, một mái ấm đó thôi
Dù ai đó cao siêu Là hoàng tử, là nhà vua, hay Chúa Trời đi nữa
Em nên nhớ chữ Thủy Chung là muôn đời muôn thuở
“Công chúa lấy thằng bán than”, cũng theo nó lên rừng
Có thể em đang mơ một sự nghiệp lẫy lừng
Tổng Thống với Đệ Nhất Phu Nhân tâm đầu ý hợp

Hai mốt phát đại bác vang trời, em choáng ngợp
Tiếng khóc trẻ thơ năm xưa mới đúng nghĩa gia đình
Thật buồn trong giây phút nầy chỉ anh nghĩ đến anh
Nhưng bỗng thấy ấm lòng
Khi Sébastien, Laurence, Tiphani vừa nhắn tin cho bố
“ Chúng con yêu bố ngàn lần,
Bố hãy tin điều này bố nhớ
Lát nữa, tan cuộc tại điện Elysée, chúng con sẽ về nhà
Cuộc sống sẽ thực sự bắt đầu với bốn bố con ta”
(André- Louis- Auzière)

Nhân vật chính trong khúc phim nầy là cặp Emmanuel Macron và Brigitte Trogneux. Họ đã sánh bước vinh quang vào điện Elysée, trước sự reo hò nồng nhiệt của dân chúng ủng hộ vị tân Tổng Thống trẻ tuổi, tài năng của nền Cộng Hòa nước Pháp. Có một người đứng sau cuộc tình nầy đang đau khổ cực kỳ nhưng lặng lẽ âm thầm chịu đựng, hy sinh với một sự nhẫn nhục phi thường. “Có Một Người”, Người ấy là ai?

Một gia đình hạnh phúc:

Tại Amiens – một thị trấn ở phía Bắc nước Pháp – có một gia đình trí thức: Cha trước làm nghề kiểm toán nhà nước, người con theo học ngành Ngân Hàng. Sau khi tốt nghiệp Đại Học, người con làm việc rất giỏi trong ngành Ngân Hàng .Về sau trở thành một banquier: Chủ nhà băng tại Amiens. Có địa vị xã hội, có tiền bạc, đời sống sung túc. Tháng sáu 1974 (Juin 1074) Người nầy thành hôn với Brigitte – một cô giáo dạy văn và Latinh tại một trường Trung học cơ sở. Brigitte con nhà khá giả, sản xuất bánh kẹo và chocolate nổi tiếng. “Người ấy” hết sức thương yêu chiều chuộng vợ khiến cho người xung quanh ngưỡng mộ. Brigitte rất hạnh phúc dưới một mái ấm gia đình, với chồng có địa vị, giàu có, hiền lành, thương yêu vợ rất mực và ba đứa con ra đời là một mối dây ràng buộc cặp vợ chồng thêm gắn bó. Lúc đó, Brigitte chỉ biết có mái ấm gia đình sung túc, chồng thương yêu, con ngoan ngoãn . Niềm hạnh phúc mà biết bao người khát khao thèm muốn.`

Người ấy là ai ? Xin xem tấm hình đám cưới dưới đây:

Hình đám cưới “NGƯỜI ẤY” với cô giáo Brigitte Trogneux. (Người có mang vòng tròn đỏ trên đầu)

Nhưng,
Đời có lắm sự bất ngờ…

Brigitte là người thích văn chương và kịch nghệ. Kéo dài lê thê nhịp sống đơn điệu, buồn chán, Brigitte bèn gợi ý với chồng lập một câu lạc bộ nghiên cứu văn chương và kịch nghệ. Người chồng bao giờ cũng tôn trọng ý của vợ và ủng hộ việc làm nầy. Bây giờ Brigitte thấy cuộc đời có ý nghĩa hơn, việc làm đáp lại sở thích của mình.

Bất ngờ xuất hiện một chàng trai 15 tuổi tại lớp học của cô giáo Brigitte. Chàng trai mà Laurence, con gái của Brigitte, khen là một chàng trai tuyệt vời am hiểu tường tận mọi việc. Còn cô giáo Brigitte choáng ngợp trước sự thông minh của Macron. Bà nói: Macron có lối tư duy mà tôi chưa từng thấy trước đây. Mọi ngày thứ sáu, chúng tôi dành nhiều thì giờ để xây dựng các vở kịch. Nhưng chỉ là cái cớ để chúng tôi gần gũi nhau. Một người bạn của Macron tiết lộ: “Cô giáo bị quyến rũ bởi tài viết lách của cậu ấy”.

Con người kỳ lạ hành xử cũng rất lạ kỳ. Con gái tuổi xuân hơ hớ không lấy mà lại lấy bà già đáng tuổi mẹ minh, lại là người có chồng ba con. Cuộc tình đôi đũa lệch, được đánh giá là “vượt mọi định kiến của gia đình và xã hội”. Cuộc tình trái cựa gà, tréo cẳng ngổng nầy lại là cuộc tình của một con người phi thường, xuất chúng, thông minh tuyệt đỉnh. Cặp Emmanuel Macron và Brigitte Trogneux sánh vai cùng nhau vinh quang bước vào điện Elysée trước sự reo hò nồng nhiệt của dân chúng chào mừng vị tân Tổng Thống tài năng, trẻ tuổi nhứt của nền Cọng Hòa Pháp.

Trong khi 21 phát súng thần công nổ rền trời, tiếng hoan hô dậy đất, đội quân nhạc cử hành bản quốc ca “ La Marseillaise” hùng hồn, cuộc diễn hành trong khuôn viên điện Élyseé, đoàn vệ binh hiên ngang rầm rập nhịp bước theo điệu kèn trống quân hành uy nghi hùng dũng, thì “CÓ MỘT NGƯỜI” đứng đàng sau cuộc hôn nhân Emmanuell-Brigitte, ôm một nỗi đau khổ nhìn cảnh vợ phản bộ, bỏ minh theo tình nhân mà nước mắt tuông rơi, trái tim tan nát…Nhưng “Người ấy” không bao giờ tức tối, mắng chửi, làm ồn ào mất mặt hay nói xấu vợ minh trước mặt người khác. Ông tập trung vào sự nuôi dưỡng và giáo dục ba con. Sau đó, “Người ấy” là một người đàn ông đích thực. Ông không bao giờ làm phiền cuộc sống của Brigitte. Sau khi ly hôn, ông lo cho con cái ăn học và chuyển hết tài sản cho con, ông đến vùng ngoại ô Paris sống ẩn dật và tránh gặp Brigitte, kể cả những buổi tiệc gia đình với các con.

Cuộc tình huyền thoại Macron-Brigitte được loan truyền khắp thế giới nhưng không nghe ai nhắc đến “MỘT NGƯỜI” – mặc dầu người ấy về tư cách, sự hy sinh, đức nhẫn nhục ít người sánh được, Thói đời là thế. Phù thịnh chớ ai phù suy! Thiên hạ Đông Tây, Tư bản, Cộng Sản đều thế cả.

Con người đáng kính ấy qua đời tháng 12 năm 2019. Tang lễ ông được tổ chức trong vòng bí mật. Mãi đến ngày 7 tháng 10 2020, con gái ông Tipun Ozier mới thông báo tin cha minh đã qua đời. Trong một tweet, cô viết: “Cha tôi đã qua đời. vào ngày 24/12/2019. Ông ấy đã được chôn cất trong sự bảo vệ quyền riêng tư nghiêm ngặt nhất. Tôi rất ngưỡng mộ cha tôi. Ông nói rằng ông không muốn làm phiền quá nhiều sau khi mình qua đời. Vì vậy, chúng tôi phải tôn trọng ý muốn của ông.Theo tạp chí Tatler của Anh Quốc, trò chuyện với Paris Match, một những đứa con gái của “Người ấy” và Brigitte nói: “Tôi rất ngưỡng mộ cha tôi là người không thích lề thói, luôn coi trọng sự ẩn danh hơn bất cứ thứ gì. Ông phải được tôn trọng”. Ý tưởng nầy rất phù hợp với sự xa rời mọi người và chuyển sang Paris vùng ngoại ô sống ẩn dật cho đến khi qua đời.

Người nầy không bao giờ khuấy động chuyên phản bội của vợ. Ông chọn cách xa rời thế giới theo cách riêng tư của minh là sống ẩn dật với lòng vị tha và sự nhẫn nhục phi thường.

Đánh giá một con người, không phải chỉ sự thành công nổi tiếng mà còn tư cách, sự nhẫn nhục, lòng hy sinh cao cả, âm thầm chịu đựng, lấy sự nhẫn nhục làm phương châm, lòng vị tha làm tình thương, suốt đời không thay đổi. Con người đó không đáng cho đời ngưỡng mộ hay sao? Cũng như người chiến sĩ cả hai miền Nam Bắc ngoài mặt trận bắn giết nhau thành công thì ai hưởng? Người lính được hưởng gi? Người lính chỉ biết hy sinh ngoài mặt trận, ở hậu phương vợ con đói rách, cơm chan nước mắt hay bị bắt làm con tin, để chồng minh đi xẻ dọc Trường Sơn, đánh cho đến người Việt Nam cuối cùng.

Tuy nhiên còn có một người đời sau nhắc đến và vinh danh họ là thi sĩ Đằng Phương (tức Giáo sư Nguyễn ngọc Huy): Họ là những chiến sĩ xông pha dưới làn tên mũi đạn: Tuy công nghiệp không ghi trong sử sách Tuy bảng vàng bia đá chẳng đề tên Tuy mồ hoang xiêu lạc dưới trời quên Không ai đến khấn nguyền dân lễ vật Nhưng máu của họ đã len vào mạch đất Thịt cùng xương trộn lẫn với non sông Và anh hồn chung với tấm tinh trung Đã hòa hợp làm linh hồn giống Việt. Đằng Phương

“NGƯỜI ẤY” suy nghĩ cho sâu xa, quả là con người đáng cho đời tôn vinh và ngưỡng mộ như một người chiến sĩ ngoài mặt trận, như cái Dũng của một người anh hùng trước nghịch cảnh.

“NGƯỜI ẤY” là người có vòng tròn đỏ trên đầu ngày cưới vợ là cô giáo Brigitte Trogneux. Và người ấy chính là André- Louis- Auzière.

“NGƯỜI ẤY” chính là người bị vợ phản bội mà không một lời oán trách, không làm phiền vợ, luôn luôn một lòng vị tha, bao dung để vợ được sống trọn với tình yêu mới. Trên đời rất ít người vượt qua cảnh ngộ đau lòng nầy, để hành xử được như ông André.

Câu chuyện tình ly kỳ nầy được kết thúc nơi đây. Cặp Macron-Brigitte vinh quang sánh bước vào điện E1ysée – còn ông André chôn chặt nỗi hận lòng dưới ba tấc đất và hành xử với lòng vi tha hiếm có, chọn cách sống ẩn dật ở ngoại thành Paris cho đến khi qua đời. Còn Brigitte khi trở thành Đệ Nhất Phu Nhân thì không còn nhớ gì đến chuyện quá khứ.

Người đời mặc tình phê phán và chọn lựa. Nhưng đừng quên, khi đứng bên ngoài để phê phán thì dễ dàng hơn khi chính bản thân mình đối diện với nghịch cảnh./.

Những ngày bệnh tật cuối thu năm 2022.
Lê Quốc

Ghi chú: 

Tạm thời xin hiểu bức thơ cuối ngày gửi em Brigitte là của ông André -Louis- Auzière trước khi có nhận xét của nhà biên khảo nổi tiếng và uy tín là Ông Trần Việt Long (Cao học 8, Học Viện QGHC). Sự nhận xét của nhà biên khảo xuất sắc nầy, người viết rất đồng ý nhứt là không có bản tiếng Pháp mà chính người viết đã khổ công đi tìm bản tiếng Pháp nhưng không hề có trên các diễn đàn tiếng Pháp và Việt. Như vậy, ông André không viết được tiếng Việt và cũng không thể nhờ người dịch ra tiếng Việt nếu không có bảng tiếng Pháp.

“NẾU CÓ KIẾP SAU…! ANH SẼ KHÔNG BAO GIỜ YÊU EM…!”

(Đinh Trực sưu tầm)

Anh là một chàng sinh viên nghèo…!

Làm thêm vất vả để kiếm thêm tiền trang trải học phí. Em là tiểu thư cành vàng lá ngọc con nhà giàu có khá giả, gia đình có tới mấy osin.

Lần đầu tiên về quê đến cây quế, rau lang…., và cả ngò gai, em cũng không phân biệt được.

Anh gặp em lần đầu tiên trong ngày khai giảng. Em đứng đó vui cười với đám bạn, mải mê làm đổ ly sữa lên váy trắng… Ngượng ngùng, anh đưa em áo khoác che vết loang. Giây phút ấy em mãi không quên anh…!

Bốn năm học đại học, em muốn giúp anh nhiều lắm, muốn cuộc sống anh đỡ vất vả vì phải vừa học vừa làm. Đưa tiền cho anh. Anh đâu có nhận, anh nói anh không làm được cho em thì thôi…

Tốt nghiệp, đáng lẽ chia tay, chỉ là tình yêu thời đại học thôi mà…!

Nhưng em đã quyết định theo anh…!

Gia đình em phản đối quyết liệt, nhưng em vẫn chọn cho mình người đàn ông của cả cuộc đời…!

Nên vợ nên chồng, về quê sống trong căn nhà lụp xụp của mẹ anh. Rồi em mang thai, nhiều khi trái gió trở trời người đau ê ẩm, đau bắp chân…!

Anh thương em, mùa đông cũng như hè đi làm kiếm thêm tiền nuôi vợ…!

Thế rồi trong một tai nạn xe, anh liệt đôi chân. Nằm một chỗ ở nhà, tất cả mọi việc đều trông cậy vào em. Ba mẹ em nghe tin… xót dạ, thương yêu đến đón em về nhưng em từ chối…!

Chữa bệnh cho anh, em bán hết mọi thứ trong nhà, cuối cùng chiếc nhẫn cưới ba phân vàng 18 kara cũng hết…

Ba mẹ em thấy con gái khổ nhiều, lại cho tiền.

Cứ thế cuộc sống nghèo ở một vùng quê cứ lặng lẽ đau buồn trôi qua…!

Em làm giáo viên, anh nằm nhà viết sách. Em đã trút bỏ hình ảnh lá ngọc cành vàng năm nào để trở thành người vợ đảm đang. Đi chợ đã biết trả giá từng ngàn, quần áo bình thường, cân đo đong đếm còn tốt hơn những người phụ nữ khác vì em có học hành…

Bác sĩ bảo chồng em không còn đi được nữa, nhưng em không tin, hàng ngày vẫn bóp chân cho anh, hi vọng một phép màu, kì tích sẽ đến…!

Ngày ấy, em nghe có một bác sĩ châm cứu rất giỏi. Em chở anh lên xe, đường dài hơn 20 cây số, đưa anh đi châm cứu hai ngày một lần không kể ngày nắng ngày mưa, ngày lạnh ngày nóng

Anh nhìn em khóc: “Nếu còn có kiếp sau, anh sẽ không bao giờ yêu em nữa, em quá khổ vì anh..!”

Một năm sau phép màu đến thật sự, chân anh hồi phục cũng là lúc anh nhận được giải thưởng Quốc tế từ những cuốn sách anh viết. Không ai nghĩ sẽ có ngày hôm nay…!

Rồi họ mời sang Pháp thuyết trình ba năm, anh do dự, em nói: “Anh phải đi, cơ hội không đến hai lần đâu anh…!”.

Nhìn lại quãng đời, em đâu còn trẻ đẹp như xưa… Chồng, con, vất vả, thân hình gầy gò ốm yếu…!

Pháp là đất nước của tình yêu, nhiều người nói anh đi sẽ không trở lại. Em chỉ mỉm cười đáp lại: “Em và anh đã trải qua bao nhiêu sóng gió, nếu vì một việc thế này em không sợ mất anh…!”.

Ba năm sau anh về, không báo trước, muốn dành cho em một sự bất ngờ. Nhưng vừa xuống xe anh đến nhà…, đã thấy em đứng đó. Anh hỏi sao biết anh về mà ra đón, em trả lời:

-“Em chờ ở đây mỗi ngày, chỉ cần là xe lạ chạy ngang, em hi vọng nó dừng lại, em không bỏ qua chuyến nào…!”.

Anh nhìn vợ rồi khóc mà nói: “Nếu còn có kiếp sau, anh sẽ không bao giờ yêu em, tình yêu của em làm anh đau lắm, đau lắm, tình yêu của em đã khiến em chịu quá nhiều khổ đau…!”

Em đáp trả lời anh: “Tình yêu luôn luôn là khổ đau cay đắng. Tình yêu như một bông hoa sen, hoa sen đẹp nhưng nó có cái nhụy sen, hạt sen rất đắng. Nếu còn có kiếp sau, em sẽ vẫn muốn được yêu anh…!”.

From: TU-PHUNG

Lối đi — truyện ngắn của Nguyễn Tầm Thường

Nguyễn Tầm Thường

Lá thu về nhuộm đỏ ối cánh rừng nhỏ. Mây trắng lãng đãng bay về cuối nẻo trời xa. Người thanh niên ngồi ở ven đồi, trầm tư. Chàng đến đây khi sương thu chớm về. Những ngày đầu tiên trên đất lạ là những ngày lênh đênh nhất đối với chàng. Lo âu cho tương lai. nhớ thương quá khứ. Hiện tại thì vất vả. Gia đình chàng ở lại bên kia. Ra đi một mình. Chỉ riêng có giấc mơ mà chàng đang ấp ủ là người bạn song hành. Nhưng giấc mơ chẳng nuôi được chàng, mà chàng lại phải âu lo vì giấc mơ.

Mùa thu đó chàng vào chủng viện, tiếp tục con đường lý tưởng. Nhưng dòng thời gian không êm đềm như chàng mộng tưởng. Những weekend lặng lẽ, nhìn hành lang dài trống vắng mà chàng thấy như nỗi vắng trong tâm tư chàng. Sương sa, gió lạnh dần dần thấm vào hồn. Những cánh mây tím cũng theo mùa thu về bắt đầu mang nỗi hắt hiu trên từng lời kinh. Những giờ nguyện của chàng bắt đầu mệt mỏi, có nghĩ ngợi mông lung.

Cuối năm học đó, Đức Giám mục địa phận sai chàng về một xứ đạo nhỏ để tập làm quen với đời sống mục vụ. Chính trong mùa hè này, câu chuyện đã xẩy ra.

Nhận được thư Đức Giám mục báo tin đi giúp xứ mùa hè là một ngày u ám trong đời. Chàng không muốn đi thực tập mục vụ, nhưng muốn đi làm. Chàng cần tiền. Tiền đã dầy vò chàng không biết bao nhiêu đêm trằn trọc. Chàng luôn nghĩ đến tiền. Nhưng là sinh viên thần học, nên đức cha muốn chàng đi thực tập mục vụ để chuẩn bị cho cuộc sống linh mục. Khi nhận được thư đức cha là giấc mộng đi làm sụp đổ, kéo theo giấc mơ về tiền. Khi người ta không thực hiện được giấc mơ thì người ta lại càng nghĩ về nó. Nghĩ về nó mà không thực hiện được thì người ta sống trong một thứ ngục tù tâm hồn. Ðó là vây khổn của oán trách, của tiếc xót, của bất bình.

Ở nhà trường, mỗi tháng chàng nhận được hai mươi dollars của địa phận gởi, gọi là tiền túi. Thủa ban đầu, chàng cho là đủ, không thắc mắc, băn khoăn. Nhiều tháng hãy còn dư. Nhưng dần dà, có những cơn gió so sánh bay về. Chàng so sánh chàng với người khác. Tôi cũng có bàn tay, cũng có khối óc, sao cam nhận mỗi tháng hai chục… và chàng thấy mình nghèo! nhận mỗi tháng hai mươi đồng đó là dấu hiệu của sự khiêm nhường, dâng hiến, và sống đơn giản vì lý tưởng hay là cam chịu đời sống tầm thường? Chàng tự hỏi, rồi, những làn sóng tự ái bắt đầu gieo trên biển lặng. Người thanh niên trở nên trầm mặc, băn khoăn.

Xã hội nói về tiền. Giá trị con người cũng được đánh giá bằng tiền. Những kẽ nứt của tâm hồn bắt đầu mở rộng. Chàng thấy mình xót xa, và thực sự thấy mình nghèo. Nghèo vì tiền và nghèo cả tâm hồn. Khuôn mặt chàng không còn bình an, tâm hồn chàng không còn muốn bay bổng cho một lý tưởng. Buổi chiều cầu kinh nào cũng phủ đọng sương mù ẩm mốc. Lý tưởng là gì? Có ai cần lý tưởng nữa đâu? Chàng tự hỏi, rồi thấy con đường của chàng bước vào là cô đơn đằng trước mặt. Là mất mát, thua thiệt.

Chàng nói với lòng mình, là thanh niên như bao người khác tại sao tôi không làm ra tiền? Chàng sống giữa hai thách đố mà thách đố nào cũng lớn lao: tiền và không có tiền. Không tiền có phải là kém hơn người khác? Có phải vì tôi thiếu khả năng? Không tiền có phải là điều dại? Tự ái, như những cơn mưa nặng hạt mưa xuống đời người thanh niên. Tiền làm chàng nhớ về những người thân ở bên kia bờ biển mặn. Tiền làm chàng mơ ước một đời sống tiện nghi. Tôi có nên tiếp tục con đường tôi đang đi? Tôi có nên đem khả năng của mình vào cuộc thử sức của xã hội hôm nay? Mệt mỏi. Sóng gió đi về. Chàng muốn đặt lại lý tưởng cho cuộc sống.

Chính vì thế mà những ngày đầu mùa hè ở nhà xứ năm ấy là những ngày u ám và lặng lẽ nhất đối với chàng, chàng quay quắt suy tư. Cõi lòng hoang vắng, đìu hiu. Cũng có đôi lúc thầm lặng, chàng hỏi lại lòng mình, ngày xưa tôi đâu quá bận tâm về tiền, sao bây giờ tôi phải thao thức quá như vậy? Trong những lúc thinh lặng ấy, những lúc tỉ tê hỏi lại cõi lòng, những lúc tìm đường về thâm sâu của trái tim, chàng dần dà nhìn ra cái nghèo chua xót: Nghèo của một tâm hồn. Chàng băn khoăn tự hỏi: Khi tâm hồn nghèo thì kéo theo bao nhiêu cái nghèo khác?

Cái cao cả mà Thiên-Chúa đã làm, không phải là sống tước vị Thiên Chúa trong Thiên Chúa, nhưng là sống tước vị Thiên Chúa nơi con người. Chúa đã đem cái nghèo trở thành mùa xuân bất tận. Chàng biết vậy, nhưng đường đi của niềm tin thì siêu bạo quá. Niềm tin là giã từ tất cả. Là buông tay ra cho mình chìm xuống, lặng lẽ. Trong những tháng ngày giằng co muộn phiền thì câu chuyện xẩy đến:

Cũng như những thứ sáu khác trong tuần, hôm đó chàng mang Mình Thánh cho một bà già trong xứ đạo. Trời đã về tối. Chàng thích đi bộ để nhìn cỏ cây, để nghĩ về mình, về người. Trời chưa tối lắm nhưng phố xá đã lên đèn.

Từ nhà xứ đến nhà bà, chàng phải đi ngang qua phố, đây là một con phố nhỏ ở miệt quê rồi vào đường Broadway, Broadway là con đường lý tưởng nhất của thành phố. Ðường rộng và đẹp, có chiều đi, chiều về. Giữa hai chiều là hàng cây anh đào rợp mầu hồng khi mùa hoa nở. Chàng đi chậm rãi trên con đường ấy, nguyện mong cho đời nhẹ bớt ưu tư. Trên đường đi, có kẻ đi ngược, có người về xuôi, nhưng có ai đâu biết rằng trong túi áo chàng có Mình Thánh Chúa. Trời tối hơn. Ðèn của phố xá cũng sáng hơn. Mây tím về cuối cánh đồng, cũng là màu u uẩn của cõi lòng người thanh niên. Ðèn đường chẳng thắp sáng được linh hồn. Tâm tư chàng giăng mắc với những lựa chọn mà bên nào cũng có xót xa. Ở hay đi? Giã từ lý tưởng hay tiếp tục? Ðời linh mục là gì? Niềm vui, đau khổ? Làm sao tôi biết chắc được đây là lý tưởng mà Chúa muốn tôi đi vào? Trung thành, gian nan? Mệt mỏi. Mong thêm một chút ánh sáng cho bớt suy tư. Chàng nhìn trời cao. Chúa xa quá. Im lặng qúa. Im lặng quá. Chỉ mình chàng trên đường. Chàng mong một chút sương mai cho mảnh đất khô đỡ cằn cỗi. Chàng ước ao một lời nói rõ hơn, mạnh hơn để chàng bớt gian nan với những nghĩ ngợi. Nhưng trời cao vẫn cao. Ðêm về nhiều hơn.

* * *

Bên bụi hồng, đứa bé gái đang chạy tung tăng, cô bé đứng lại, giơ tay vẫy chàng. Bàn tay thiên thần. Nụ cười bình an. Ðôi mắt hồn nhiên như vì sao trời. Cô bé giơ tay vẫy vẫy. Những ngón tay mũm mĩm, đơn sơ. Nụ cười tươi như một búp phong lan đang hé mở. Cô bé lại tiếp tục chạy, những bước chân sáo vui tung tăng trên thảm cỏ xanh mịn. Hạnh phúc nở hoa theo từng bước chân vô tư. Cô bé đang vui. Và chắc hẳn thiên đàng cũng đang vui lắm. Người vỗ về trong tim. Cô bé vấp ngã. Bàn tay non vụng về để hạnh phúc vượt theo chiếc bong bóng đỏ bay cao. Chiếc bong bóng từ từ xa dần, lên cao, lên cao. Cô bé đứng nhìn ngẩn ngơ, tiếc nuối. Nghe như mùa xuân lắng đọng. Những viên ngọc nhỏ lăn dần trên má. Bé khóc.

Cô bé là cánh hoa bạch huệ tỏa hương hạnh phúc. Khi tung tăng với chiếc bong bóng, mỗi ngón tay nhỏ là một chiếc đũa tiên có phép mầu rải niềm vui trên từng cọng cỏ ngoan hiền. Bước chân bé đã làm cho chàng những giây phút thảnh thơi. Chiếc ca yêu thương của khu vườn. Bé đã cho chàng những giây phút thảnh thơi. Chiếc bong bóng bay cao. Xa tít. Xa tít. Buồn như chú mèo nhỏ, bé lững thững vào nhà. Qua vuông cửa sổ, chàng thấy ánh đèn. Nơi ấy, có tình yêu, có hơi thở.

Mầu vàng của khóm tulips với mầu trắng ngà của con đường trải đá cuội, hòa vào mầu cỏ non xanh, làm cho căn nhà thêm êm đềm, như một lời cầu chúc hạnh phúc cho những bước chân nào đặt tới. Giàn hoa hồng nở đỏ thẵm trên vuông cửa sổ. cạnh bụi hồng là những giây hoa tím nhỏ đang leo trên tường đá. Tất cả nhắc nhở đến sự săn sóc của một bàn tay biết nghệ thuật. Mầu đỏ thẫm của bụi hồng làm cho căn nhà có vẻ đài các, nhưng lại hoà chung một thứ buồn dịu dàng, mồ hôi của sắc hoa mầu tím thầm lặng. Lối kiến trúc của căn nhà nói lên sự giầu có của người làm chủ.

Cách nhau một hàng rào gỗ thấp mà bên kia là giầu sang, và ở đây, chàng đứng một mình như thân phận Lazaro nghèo khổ. Chàng thấy nghèo là một chua xót. Cái nghèo làm người ta mất giá. Không ai muốn làm bạn với người nghèo. Có tiền thì có quyền thế. Có quyền thế thì có điạ vị. Nghèo là một cõi vắng lặng lẽ. Nghèo thì bị coi thường, có khi còn bị khinh rẻ. Tiền như một thứ đánh giá thành công của một người. Chàng tiếp tục nghĩ: Nếu Chúa Kitô là một Ceasar giầu có thì đâu có bị xua đuổi, có khi còn có lắm người theo. Có tiền thì được kính nể. Tiền là tiêu chuẩn xác định tài năng. Chàng thấy không tiền là một nỗi chua xót.

Cô bé chẳng ra sân chơi nữa. Chắc bé đang phụng phịu kể cho má nghe về chiếc bong bóng đã bay xa. Người thanh niên để tình cảm của mình nhẹ nhàng đi về một miền cô đơn. Trong căn nhà đó, có hơi thở, có tình yêu, có tiếng khóc, có tiếng cười, có những gì là căn bản nhất mà Chúa đã dựng nên trong thân xác, linh hồn chàng. Chàng lại tự hỏi, đời sống linh mục là gì? Tôi cũng như bao nhiêu người khác sao tôi lại không thể có một tình yêu riêng tư? Người thiếu nữ nào mà đáng lẽ cùng tôi chia sẽ yêu thương? “Nàng là xương là thịt ngươi, bởi đó, ngươi sẽ bỏ cha mẹ mình mà khăng khít với nàng.” (Gen. 2:23-24) Lời Kinh-Thánh thủa xưa vẫn vang lên như một lệnh truyền thôi thúc trong chàng, chảy theo từng dòng thời gian trong cuộc sống, nhắc nhở về “một phần đời” của chàng. Nàng là ai, ở đâu? Tên nàng là gì? Ðó chỉ là huyền thoại hay là thực thể? Vì sao tôi không thể có nàng? Trong căn nhà ấy, có nụ cười trẻ thơ, có tiếng gọi ba, có tiếng gọi má, sao không thể là tôi? Máu tôi vẫn đỏ theo từng nhịp tim đập, vì sao tôi chẳng thể bao giờ được nghe tiếng ba, được gọi tiếng con. Chàng ngước nhìn trời cao. Trời vẫn lặng lẽ, vô tư. Chàng muốn vẫy gọi niềm tin. Chàng muốn nghe niềm tin đáp trả.

Không biết người thanh niên đã để hồn mình xuôi về nẻo đơn độc ấy, để lòng mình chìm vào những dòng tư tưởng ấy bao lâu, nhưng chắc hẳn là lâu lắm. Khi chàng vô tình đưa tay lên ngực thì chợt nhớ ra chiếc hộp đựng Mình Thánh còn đó. Lãng quên đưa chàng về một chút hối hận, ngỡ ngàng. Chàng úp tay trên chiếc hộp, tự hỏi. Cả bầu trời cao ở nơi đây. Cả niềm tin mà tôi đang đi tìm ở nơi đây. Có thật là niềm tin? Có thật là trời cao? Chàng mở chiếc hộp nhỏ. Những tấm bánh trắng vẫn im lặng, âm thầm.

Ngày xưa tà thần đã nói với Đức Kitô: Nếu ngươi bái thờ ta, ta sẽ cho ngươi tất cả vinh quang của trần gian (Luca 4:6-8). Người thanh niên nhìn tấm bánh thầm nghĩ, nếu hôm nay, cũng lời ấy nói với tôi: “Nếu ngươi đổi tấm bánh này cho ta, ta sẽ cho ngươi tất cả những gì ngươi đang mơ ước.” Vùng trán mang vết nhăn. Người thanh niên bối rối. Chàng không trả lời được. Có được một số tiền đã là thành công. Dệt được ước mơ là một niềm vui lớn. Giờ đây, chàng phải đối diện với câu hỏi mà chàng không bao giờ ngờ. Nếu có ai cho chàng những ước mơ chàng đang mơ ước, chàng có bằng lòng đổi tấm bánh này không. Tấm bánh nhỏ bé quá, yếu đuối quá. Dáng chàng ưu tư, chàng hỏi lại lòng: Ðây có là cả bầu trời cao? Ðây có là Thiên Chúa của vũ trụ? Người thanh niên xót xa cho mình vì chàng không đủ niềm tin để xác nhận. Chàng tin rằng Ngài là Thiên Chúa đó. Nhưng tình yêu của chàng quá nghèo nàn nên không nuôi nổi niềm tin. Chàng lặng nhìn tấm bánh trên tay mà như chàng ứa lệ. Nỗi cô đơn về mênh mông. Chàng thấy lạc lõng. Suối nguồn đã đang cạn khô. Chàng lại nhìn trời cao. Trời cao vẫn im lặng. Chàng cúi đầu xót thương mình. Vì sao trời cao không đáp trả? Trong sự im lặng ấy, dường như có tiếng nói với người thanh niên: “Nếu ngươi mất Ta trong cõi lòng ngươi thì ngươi phải trở về trái tim của mình, Vì chỉ nơi ấy ngươi mới tìm lại được Ta, mới có tiếng đáp trả mà thôi.”

* * *

Có nỗi cay ở mắt. Chàng thấy hồn mình chứa chan. Hình ảnh ông già làm chàng bối rối. Trong tim chàng, có an ủi đi trên xót xa, có ngọt ngào chen lẫn đớn đau. Nuối tiếc. Ngại ngùng. Mênh mông. Sám hối. Một thứ tình cảm bâng khuâng giữa tình trời và tình đất. Ông già đã theo chàng ra tới tận cổng. Ðôi tay gầy, lạnh lẽo, nắm chặt lấy tay chàng biết ơn. Ðã bao lần trong đời, chàng bắt tay người này, kẻ kia. Cái bắt tay nào ấm tình, cái nào xã giao. Ánh mắt nào chân thành, lời nói nào đãi khách, điều đó, ai mà chả nhận thấy. Hai tay run run cầm chặt lấy tay chàng. Người thanh niên biết ở trong bàn tay ấy gởi chàng lời cám ơn thành thật. Lời nói không thể che kín được nỗi lòng và nỗi lòng không cần ngôn ngữ để diễn tả. Ông run run xúc động: “We need you.” Ông chỉ nói với người thanh niên vỏn vẹn như thế thôi, trước khi chia tay.

Khi chàng tới nơi thì bà đã ngồi trên xe lăn, đợi sẵn ở phòng khách. Nghe bấm chuông, ông ra mở cửa. Chào chàng kính cẩn, thái độ của những người già miền quê đối với một linh mục. Căn nhà vắng lặng, chỉ có hai ông bà. Bà đã bị tê liệt từ mười bẩy năm nay. Xe lăn là quê hương duy nhất. Những mạch máu mầu xanh nổi gầy guộc trên đôi tay cố gắng giơ lên làm dấu thánh giá. Giây phút thiêng liêng nhất. Bà kính cẩn cúi đầu chịu Mình Thánh Chúa. Ông đứng bên cạnh, chắp tay. Ðôi mắt chẳng còn nhìn rõ được, không nuốt được, phải ăn bằng đồ lỏng, khó khăn. Người con gái lớn đã ly dị, đấy là niềm đau đớn vô cùng đối với bà. Hai người con trai khác ở rất xa. Ông tâm sự với chàng là tâm trí bà chỉ nhớ tới các con. Bà nguyện cầu và lo âu cho phần rỗi của chúng. Ðời sống hôn nhân ngoài Giáo-Hội của người con gái đã ly dị làm bà khổ sở, buồn phiền.

Ðã hơn mười năm nay bà chẳng có thể tới nhà thờ được. Ðó là một quê hương mà bà cứ nhắc tới hoài. Ông nói với chàng rằng chỉ còn Chúa là nguồn vui và an ủi nhất của cả hai người. Mỗi Chúa Nhật đầu tháng, nỗi háo hức của bà là được chịu Mình Thánh. Có một mình cha sở, lại phải lo cho nhà thương, thêm viện dưỡng lão, nên ngài chỉ đến thăm bà một tháng một lần. Khi biết được mùa hè này có một chủng sinh về giúp xứ, và bà có thể nhận Mình Thánh hàng tuần, ông nói, đấy là niềm ước ao của ông . Trên khuôn mặt già nua mừng rỡ, ông không hỏi tên chàng. Ông không cần biết chàng từ đâu đến, dù chàng khác màu da, không cùng ngôn ngữ. Ông chỉ ôm lấy tay chàng mà nói: We are happy to have you here. We need more priests. Ông không cần biết chàng thánh thiện hay tội lỗi. Ông không cần biết chàng tài năng hay vụng về. Trong niềm tin ấy, ông chỉ biết chàng là người mang Chúa cho ông. Ðiều ấy càng làm người thanh niên nghĩ ngợi hơn về lý tưởng của chàng.

Chàng ra về với tâm hồn bùi ngùi. Tôi là ai? Vì sao họ cần tôi? Ðời sống linh mục là gì? Vì sao bàn tay linh mục có thể chúc phúc bình an? Những câu hỏi ấy lại đưa chàng về một thế giới thần thánh, mà câu trả lời không hoàn toàn đến từ trời cao. Ði tìm câu trả lời là cuộc hội ngộ giữa đất và trời. Giữa yếu đuối và cao thượng. Giữa mênh mông và mảnh đất chật hẹp. Giữa từ bỏ và lên đường. Ðối diện câu hỏi là một khắc khoải, không thể giải quyết được tự lòng người. Nhưng con người có tự do và lựa chọn. Chàng không nói, nhưng dường như trong thâm sâu của trái tim, có lời kinh như một ánh sáng nhỏ đang cố ngoi lên:

Lạy Chúa nếu chẳng có con cộng tác thì công trình cứu chuộc của Chúa có bị thiệt thòi không? Con nghĩ là có. Chẳng phải vì công lệnh của con, nhưng vì nhiệm vụ mà Cha trao phó cho con, con đã không thi hành. “Làm sao họ tin nếu họ không biết về Ngài, Làm sao họ biết nếu không có ai rao giảng cho họ.” (Rom.10:14)

Nếu con không đến đây thì ai là người đem niềm vui cho hai ông bà? Cha có gởi gắm sứ mạng ấy ở nơi con không? Cũng trong chiều nay, còn biết bao tâm hồn khác cô đơn, đang đợi một bàn tay chúc bình an, đang chờ bước chân đem Tin Mừng đi tới. Họ sẽ chờ đến bao giờ nếu người mà Cha sai tới đã không muốn đi? Những giây đàng bằng vàng ròng của Salomon đã chẳng ru khúc yêu thương được cho dân của người. Những ly rượu nồng của David cũng chẳng cho dân ngài một giấc ngủ yên. Chính là những ngày rong ruổi trên con đường Galilee của đám mười hai tông đồ. Trong huyền nhiệm thân thể của Cha, thì khi con đem niềm vui cho tha nhân là con đem cho chính con. Nếu chiều nay mà con không bước tới thì căn nhà sẽ vắng lặng làm sao. Vì sao Cha đã gọi con? Ðôi tay con vụng về chẳng xây nổi giấc mơ của mình mà sao Cha lại cho con ôm cả vũ trụ? Trên bàn tay yếu đuối ấy, sao Cha lại cho con quyền năng trọng đại? Làm sao con hiểu thấu. Đấy chỉ là ân sủng mà thôi, Cha ơi. Chàng giã từ hai ông bà với tâm trạng vấn vương. Có đau thương của một tâm hồn yếu đuối. Nhưng cũng có ơn tha thứ của trời cao. Có nỗi chua cay của một niềm tin mong manh. Nhưng cũng có lời an ủi của một kẻ hiểu đam mê của xác thân chàng. Chàng thấy cõi lòng chứa chan. Chàng muốn dâng một lời cầu mà chẳng biết cầu cho ai, cầu như thế nào. Trời vẫn cao mênh mông, dường như mênh mông hơn nữa. Những vì sao vẫn lấp lánh. Chiếc hộp đựng Mình Thánh đang ở trong túi áo. Ðây có là cả bầu trời? Ðây có là cả biển rộng thứ tha và yêu thương? Tôi là ai mà dám đi song hành với Thượng đế của nhân loại? Chàng hỏi nhỏ cõi lòng, và trong lặng lẽ, chàng nghe từ con tim, có tiếng người đáp trả.

Chàng muốn đi thật xa với Người, muốn về một cõi đời bát ngát bình yên với Người. Muốn xóa đi những giấc mơ chỉ làm chàng thêm khổ đau. Nhưng chàng nghe thấy tiếng nói: Không, con không thuộc về trần gian nhưng Cha không đem con ra khỏi thế gian. Và người thanh niên hiểu là Ngài ban cho chàng đủ ánh sáng để đi, nhưng Ngài cũng để chàng đủ tối tăm cho niềm tin của chàng phải đặt trọn vào Ngài. Chàng bỗng lo âu về những ngày sắp tới, về những tiếng gọi của giầu sang và địa vị. Chàng muốn ngài đem chàng ra khỏi những yếu đuối của chàng để đi với Ngài về một cõi xa. Nhưng ngài lại nói: Ơn thánh của Cha thì đủ cho con.

Những gì người thanh niên hỏi thì Ngài trả lời. Những gì chàng thắc mắc, băn khoăn thì Ngài đáp trả. Không phải ở bầu trời cao mà là âm thầm trong chính hồn chàng. Như xương thịt chàng là Ngài lo âu cho chàng trước khi chàng biết lo âu cho mình. Ngài bảo chàng cứ đi, và chàng thấy mùa xuân về, bát ngát, mênh mang. Chàng thấy như một bông hoa Quỳnh, trắng nõn, đang nhè nhẹ nở nụ trong sương đêm. Chàng nghe như hoa cỏ đang hồi sinh, và trong tim chàng, có dòng suối mát vỗ về. Chàng cảm thấy trên đường chàng đi, có vắng vẻ nhưng không đơn côi. Chàng cũng cảm nghiệm người chàng yêu ở trong tim chàng chứ chàng khôg phải kiếm tìm. Chàng nhủ thầm, tôi nghèo khổ khi tôi tìm kiếm, nhưng khi tôi ở trong vũ trụ và vũ trụ ở trong tôi thì tôi còn gì nữa mà để tìm kiếm đâu. Rồi chàng đã đi lang thang hết con đường này sang đường khác. Ngài cũng đi với chàng.

Chàng cứ hỏi, và ngài cứ trả lời. Ngài bảo rằng linh mục nghĩa là Kitô, đấng được xức dầu và đóng đinh. Ý nghĩa của linh mục càng thâm sâu khi càng vất vả, gian nan. Ánh nến Phục Sinh càng sáng khi máu tử nạn càng hồng.

Ngài không bảo chàng rằng đường chàng đi sẽ phủ đầy hoa hồng, nhưng chàng có thể làm cho hoa hồng nở trên đường chàng đi.

* * *

Ðêm ấy, người thanh niên cứ lang thang khắp đường. Khi về đến phố thì xuất ciné cũng vừa tan. Chàng nhìn đám người, nguyện cầu và mong ước cho từng người được bình an. Giã từ rạp cinée, chàng đi về phía những quán bar đang sực khói thuốc và men bia, chàng nguyện cầu cho mọi người tìm được niềm vui chân thật. Những cô gái đang bước lẻ loi trên đường. Biết đâu, đêm nay có những tiếng khóc thầm lặng, có những nỗi cô đơn dầy đặc. Chàng nguyện cầu cho tình yêu đi về trên những mảnh hồn đơn côi ấy. Ðêm nay, trong một góc tối nào đó, đang có những toan tính âm mưu. Chàng xin Chúa ban ánh sáng phục sinh. Cũng có lẽ đêm nay, trong căn nhà nào đó, có tiếng khóc than, có những quầng mắt thâm sâu. Có những tâm hồn lạc lõng đang tìm lãng quên bằng men đời say đổ. Có những quãng đời đang không biết đi về đâu. Có những tan nát, chia ly. Có những đổ vỡ lặng lẽ mà vô cùng xót thương. Có những dòng nước mắt tuyệt vọng. Cứ thế, chàng bước đi trên phố và xin Ngài chúc lành cho thành phố đã về đêm.

 
“Cha không chờ con hiến dâng trọn vẹn rồi mới yêu con. Chính vì tình thương của Cha mà con có thể đi tới.”

Chàng đã kiệu Mình Thánh Chúa đi trên biết bao con đường. Chẳng ai biết cả. Chỉ riêng chàng. Ðã nhiều lần trong đời, chàng đi rước, nhưng chỉ đêm đó, một đêm kiệu Mình Thánh mà chàng gần Ngài nhất. Ở một góc công viên, người thanh niên vuốt mặt, nhìn trời cao, chàng thấy hồn chàng nhẹ nhàng như đang đi trong cõi mùa xuân. Trong cõi lòng, chàng thấy một bầu trời rộng và có một cánh chim đang bay lên cao, tự do, bát ngát. Chàng thấy những giải nắng hồng rực rỡ. Nghe như vũ trụ có gió xuân nhè nhẹ đi về. Êm đềm. Những cơn mưa buồn đã theo mây đen trôi dần về biển xa. Chàng muốn giơ tay bắt giữ những giây phút thiêng liêng. Một cành lá dường như đang nẩy màu xanh hy vọng. Nhưng chợt nhớ về quá khứ, trong quá khứ đã nhiều lúc chàng xa Ngài. Bởi đó, chàng băn khoăn về tương lai. Nào chàng có biết chắc được những ngày sắp tới. Nào chàng có biết chắc cánh chim kia sẽ tiếp tục bay cao, hay lại quay về, bỏ khoảng trời mênh mông. Nào chàng có biết chắc những cành cây hy vọng kia sẽ thêm xanh hay sẽ khô dần. Người thanh niên cúi mặt sợ hãi những đám mây đen. Vì bao lần trong quá khứ, mây bay đi nhưng mây lại bay về. Trời hồng sáng rồi mưa tuôn lại làm dập dềnh khóm hạnh phúc chưa kịp trổ bông. Chàng nhìn tương lai mà không trọn vui được hiện tại. Nhưng chàng nghe dường như có tiếng Ngài nói:

– Cha không chờ con hiến dâng trọn vẹn rồi mới yêu con. Chính vì tình thương của Cha mà con có thể đi tới.

Chàng cũng nghe như Ngài nói nữa:

– Cha không chờ con thánh thiện rồi Cha mới thương con, nhưng chính vì tình thương của Cha mà Cha dìu con đi lên từ tội lỗi.

Khi về đến nhà xứ thì đã quá nửa đêm. Và hình như chàng vẫn nghe thấy âm vang từ rất xa, âm thầm mà mãnh liệt:

– Ðường con đi sẽ không phủ đầy hoa hồng. Nhưng con có thể làm cho hoa hồng nở trên đường con đi.

Lm Nguyễn Tầm Thường, SJ,
Trích “Tiếng gọi phía bên trong”
From: Le Ngoc Bich& KimBang Nguyen

Ngày mở tay-Cao Gia An, SJ

(Trích nhật ký của một linh mục trẻ)
Cao Gia An, SJ
(Roma)

Con ngoảnh đầu nhìn lại. Sau lưng mình chẳng có ai…

Sân nhà thờ ngập nắng. Gió lùa lồng lộng. Những dây cờ đủ màu sắc rung lên phần phật trong gió. Bên ngoài cổng nhà thờ là con đường chính của xứ đạo. Bên kia con đường là màu xanh ngút ngàn của vườn cây đang vào mùa đơm hoa kết trái.

Tiếng chiêng tiếng trống được gióng lên. Những hồi kèn ngân vang giục giã. Đoàn đồng tế bắt đầu di chuyển về phía trước. Vậy là con bước theo…

Lòng con vừa rộn ràng vừa xao xuyến. Cảm giác bồi hồi thật khó tả.Trong những ngày tháng tuổi thơ, đã rất nhiều lần con được tham dự Thánh lễ có đoàn đồng tế. Bầu khí trang trọng của những Thánh lễ ấy đã lưu lại trong lòng con nhiều dấu ấn sâu đậm. Con còn nhớ rất rõ, lần đầu tiên mình được tham dự Thánh lễ có thật nhiều Cha là vào ngày Thứ Năm Tuần Thánh. Năm đó con vừa tròn 6 tuổi. Ba dẫn con đi tham dự Thánh lễ Truyền Dầu ở nhà thờ Chánh Tòa của Giáo phận.

Bầu khí hôm ấy thật linh thiêng và long trọng. Một đoàn linh mục đồng tế với phẩm phục áo lụa màu vàng, như một dòng chảy liên tục kéo dài từ cổng vào đến tận bậc thềm của nhà thờ. Con với ba đứng lẫn trong đoàn người dự lễ. Ba chỉ cho con các Cha mà ba quen biết. Có một số Cha đã từng ghé thăm nhà mình.

Khi đến với gia đình mình, các Cha bình dân dung dị và khác lắm. Giờ mặc phẩm phục linh mục, đứng trong hàng đồng tế, nhìn ai cũng nghiêm trang và thánh thiện vô cùng. Khi chỉ cho con các Cha ngày xưa học cùng lớp với mình, giọng ba tự nhiên như chùng xuống. Con biết, ước mơ về đời tu là một ước mơ dang dở nhưng chưa bao giờ lịm tắt trong lòng ba. Chỉ vì những đổi thay của thời cuộc. Chỉ vì sinh ra vào thời buổi khó khăn…

Ba về làm nông dân cuốc đất. Để đêm đêm, ba gởi gắm ước mơ dang dở ấy vào những câu chuyện kể ru con vào giấc ngủ. Những câu chuyện luôn bắt đầu như thế này: “Hồi xưa, lúc ba còn ở Chủng viện…”. Những câu chuyện kể của ba đã gieo vào lòng con những hạt giống đầu tiên của ước mơ sống ơn gọi dâng hiến.

Trong Thánh lễ Truyền Dầu năm ấy, con có cảm giác như những hạt mầm ơn gọi đã bắt đầu cựa mình vươn dậy trong con. Con nghe lòng mình cháy bỏng ước mơ sẽ là người viết tiếp những trang còn dang dở trong ước mơ của ba. Con ước lớn lên mình sẽ được đứng trong hàng đồng tế, sẽ được mặc phẩm phục linh mục, sẽ không phải chỉ là người đứng xem lễ từ bên ngoài, nhưng là người cử hành Thánh lễ.

Ước mơ ấy thầm kín nhưng mãnh liệt, cứ âm thầm mà lớn lên trong lòng con.

Hôm nay ước mơ ấy thành sự thật. Con bước đi trong đoàn đồng tế. Nhưng con lại không nghĩ rằng lần đầu tiên mình xuất hiện thì sau lưng mình chẳng có ai. Chưa bao giờ con phải sống cái cảm giác sau lưng mình không còn ai, nhất là trong bầu khí thiêng liêng này. Một đoàn rước kéo dài, nhưng mọi người đều đứng ở phía trước. Con là người đứng ở cuối cùng.

Hôm nay con là nhân vật chính.  Con thấy như toàn bộ sức nặng của cả hai hàng người đều được đặt trên đôi vai mình. Mọi người bước đi như một dòng chảy, cứ tự nhiên tiến về bàn thờ. Con thấy mình bị hút vào dòng chảy ấy. Bỏ lại khoảng trời sau lưng. Bỏ lại con đường đầy nắng và gió. Vậy là con bước về phía trước, theo đoàn rước tiến vào nhà thờ.

* * *

Trong đoàn rước có rất nhiều người con quen biết. Đúng hơn, đó là những người thân thiết nhất của con. Đi ngay phía trước con là cha Bề Trên, người đã nhận con vào làm ứng sinh trong nhà Dòng từ mười lăm năm về trước. Kế bên ngài là người mà con trân trọng gọi là Cha Bố, người đã hết lòng nâng đỡ con trong quãng đời sinh viên, và trong suốt khoảng thời gian đầu tiên khi con mới chập chững tìm hiểu ơn gọi. Phía trước nữa là các Cha trong đoàn đồng tế, đa số là những người thân thiết với con và gia đình, những người bạn, người anh, người cha của con.

Ngay trước đoàn đồng tế là ba má. Má hôm nay mặc một chiếc áo dài màu sậm, rất ra dáng của một bà cố. Ba thì diện một bộ đồ vest, nhìn sang và đẹp quá chừng! Con biết, cả ba và má đều rất hạnh phúc trong giây phút này. Cả hai đang sống rất sốt sắng tâm tình của người dâng con trong Đền Thánh. Vậy là cuối cùng, những hy sinh và những giọt mồ hôi của má cũng được Chúa đền đáp xứng đáng. Vậy là cuối cùng, ba cũng được đứng trong hàng đồng tế, cách mấy Cha mang phẩm phục linh mục chỉ một chút chứ có bao nhiêu!

Khi con bước theo đoàn người tiến vào lòng nhà thờ, đi vào giữa hai hàng người, tự nhiên lòng con trào dâng một niềm an ủi thật khó diễn tả. Ấm áp và hạnh phúc vô cùng. Con không còn cảm thấy lạ lẫm và e sợ nữa. Con cũng không còn thấy cô đơn vì sau lưng mình chẳng còn ai nữa. Lòng con như tan ra và bay vút lên hòa theo tiếng hát của cả cộng đoàn. Hóa ra đây đâu phải là Thánh lễ của riêng con. Hóa ra ơn gọi này đâu phải là chuyện của cá nhân con. Hóa ra con có được ngày hôm nay đâu phải chỉ nhờ công sức cố gắng và khả năng của chính mình. Đúng hơn, hôm nay con dâng Thánh lễ của mọi người. Hôm nay mọi người dâng con lên Chúa như hoa quả kết tinh từ biết bao hy sinh, bao mồ hôi nước mắt, bao ý nguyện âm thầm, bao lời kinh tha thiết. Hóa ra trong thiên chức linh mục của con mọi người đều có phần cả.

Vậy là con mạnh dạn bước lên cung thánh. Cúi mình thật sâu hôn bàn thờ, con mỉm cười hạnh phúc và thầm thỉ đọc lời tâm nguyện là châm ngôn đời linh mục của con: Hinneni. Lạy Chúa, con đây! Hinneni là một từ Do Thái. Từ ấy đã đánh động con ngay từ buổi đầu tiên khi con bắt đầu làm quen với ngôn ngữ này.

Cái tiếng Do Thái lạ lắm, cho phép ghép nhiều thành tố vào với nhau để lập nên một từ có nghĩa. Hinne là một từ phổ thông, được dùng chỉ như một từ đệm để thêm một chút sắc thái nào đó cho câu, chứ thật ra tự từ ấy chẳng có ý nghĩa gì.

Trong những bài học đầu tiên của con ở bộ môn chú giải Kinh Thánh, có Cha giáo sư còn khuyên: Mỗi khi gặp từ này thì nên làm lơ nó đi, khỏi mất công đọc và dịch. Nói chung, tự bản chất, hinne là một từ không mang nhiều sắc thái văn chương và rất ít giá trị diễn nghĩa. Chẳng hạn, sau khi ông A-đam và ba E-va ăn trái cấm, khi Chúa gọi ông: “A-đam, ngươi ở đâu?”, A-đam chỉ có thể đáp bâng quơ theo kiểu hinne, hinne…

Thế nhưng khi được gắn thêm tiếp vĩ ngữ -ni để thành hinneni, từ này có một ý nghĩa hoàn toàn khác. Hinneni là lời đáp trả tích cực của những người được Thiên Chúa gọi. Như lời của Áp-ra-ham thưa với Đức Chúa khi Chúa gọi ông và mời ông dâng hiến con mình là I-sa-ac (St 22,1).

Như lời của Mô-sê trước bụi gai bốc cháy (Xh 3,4). Như lời đáp nhanh nhảu của cậu bé Sa-mu-en giữa đêm trường trong Đền Thánh của Thiên Chúa (1Sam 3,4). Như lời đáp của I-sa-ia ở khởi đầu ơn gọi ngôn sứ của mình (Is 6,8). Lời thưa “Xin Vâng” của Đức Maria khi được dịch sang tiếng Do Thái cũngsẽ là Hinneni.

Ngày hôm nay con liều lắm nên mới dám cất lời, hòa vào vô số những cung giọng đã vang lên dọc suốt dòng lịch sử cứu độ, để đáp lại tiếng gọi của Thiên Chúa. Tiếng Do Thái còn dạy con rằng, âm nhấn của toàn chữ này nằm ở cuối cùng.-ni có nghĩa là “tôi”, là “con”, ở ngôi thứ nhất số ít. Chính “cái đuôi” này mang lại ý nghĩa và sức nặng cho toàn chữ. Chính việc đặt trọn vẹn con người của mình vào lời đáp trả mới làm nên ý nghĩa trọn vẹn của một ơn gọi. Bằng không, tất cả chỉ là một lời đáp hinne bâng quơ…

* * *

“Thánh lễ mở tay” của con diễn ra trong một ngôi nhà thờ ọp ẹp, bốn bề trống trơn. Thật ra, đó chỉ là một căn nhà tạm được dựng lên trong thời gian chờ đợi xây nhà thờ. Từ trên cung thánh nhìn xuống, con nhìn thấy những cây cột gỗ được chắp vá tạm bợ. Mái tôn thấp và cũ. Trần nhà thờ không che đậy và không trang trí. Bốn bên nhà thờ không hề có vách. Sân nhà thờ là nền đất. Mọi thứ hãy còn ngổn ngang và bề bộn…

Nhưng con dám chắc, nếu dâng lễ mở tay trong một ngôi nhà thờ khang trang và hoành tráng, có lẽ tâm tình của con sẽ không được sốt mến và đẹp như ở đây, vào lúc này. Con là đứa con đầu tiên của giáo xứ này được làm linh mục. Mọi người mừng với con, như mừng một mầm xanh sớm mọc lên trên vùng đất nghèo và cỗi cằn của sa mạc. Mầm xanh là dấu hiệu hữu hình của ân sủng, là dấu chỉ của việc được Thiên Chúa ghé mắt đoái thương. Mầm xanh báo hiệu một mùa sống mới.

Vậy là mọi sự chỉ mới khởi đầu.

From: Le Ngoc Bich & KimBằngNguyễn 

Dành riêng – Cao Gia An, SJ

 Cao Gia An, SJ

Đã có lúc hắn nghĩ rằng bi kịch cuộc đời nằm ở chỗ hắn thích đi tu từ nhỏ. Cả nhà ai cũng biết và thích cái ý thích của hắn. Thế là tự nhiên hắn trở thành kẻ được dành riêng. Đi đâu, làm gì, ở đâu, với ai, hắn đều được chăm sóc đặc biệt. Ai cũng ra sức vun đắp, để xây dựng hắn thành một ông Cha tương lai.

Muốn làm ông Cha thì không được ngủ nướng. Sáng sớm, vừa nghe tiếng chuông đồng hồ là hắn phải lồm cồm bò dậy, dù trong lòng còn vô cùng tiếc nuối cái giường êm và cái mền ấm.

Muốn làm ông Cha thì phải tập đĩnh đạc và đạo mạo chứ không có cái kiểu chạy nhảy ồn ào lung tung. Vậy nên hắn thường chỉ có thể thèm thuồng đứng từ xa nhìn đám bạn tung tăng hò hét.

Muốn làm ông Cha thì phải để ý lời ăn tiếng nói. Chỉ cần lỡ lời dùng một vài câu tiếng lóng học được đâu đó từ đám bạn bè, là hắn bị cả nhà bủa vây chỉnh đốn cho tới nơi tới chốn.

Muốn làm ông Cha thì phải siêng năng đi lễ đọc kinh và cầu nguyện. Ông Cha đâu chỉ có làm lễ mỗi tuần một lần vào ngày Chúa nhật. Ngày nào ông Cha cũng phải làm lễ. Vậy nên hắn phải tập thói quen ngày nào cũng đến nhà thờ. Chỉ cần hắn nhơm nhớm lân la với mấy cái lý do đại loại như: hôm nay trời mưa quá! Hay, hôm nay con mệt quá!… là ngay lập tức hàng trăm cái lý do khác dồn dập đổ vào hắn: ông Cha thì không làm biếng, ông Cha thì không được đổ thừa lý do này lý do kia, ông Cha thì phải đạo đức thánh thiện…

Từ ngày công khai bày tỏ ý định thích đi tu, hai cái lỗ tai của hắn cứ đầy lên với bao nhiêu là điều mà “ông Cha thì phải” và “ông Cha thì không được”. Đã có lúc mệt quá, hắn giơ hai tay lên, kêu: Trời ơi, chỉ là muốn đi tu thôi mà, phải khổ vậy sao!

Kêu thì kêu vậy thôi, chứ thực lòng hắn vẫn thích đi tu lắm, thích làm ông Cha lắm. Chỉ cần nghĩ tới chuyện lớn lên được mang trên mình cái áo dòng đen, một tay ôm quyển Sách Thánh, một tay cầm xâu chuỗi Mân Côi, đi qua đi lại ngoài hiên nhà thờ… là tâm hồn hắn đã mê mẩn.

Con nít thì luôn có khả năng hy sinh nhiều thứ để đạt được điều làm mình mê mẩn. Chẳng hạn, để mua được một quyển truyện tranh mà mình thích, con nít có thể hy sinh làm nhiều chuyện lắm, như là sẵn sàng hy sinh nhịn ănn sáng hàng tuần để tiết kiệm tiền, hoặc sẵn sàng hy sinh đội mưa đội nắng đi mò cua bắt ốc ngoài đồng.

Vì mê mẩn với ước mơ được làm ông Cha, hắn sẵn sàng hy sinh nhiều niềm vui bình thường của một đứa con nít để bắt đầu tập sống cuộc đời được dành riêng của một người đi tu. Hắn tập sống như một ông Cha, trước khi tự đặt cho mình những câu hỏi khó trả lời, đại loại như: liệu Chúa có chọn mình không? Hay, liệu Chúa có muốn dành riêng mình không? Những câu hỏi đó, sau này, lớn lên, khi được học đôi chút về điều gọi là phân định ơn gọi, mới làm cho hắn đau đầu và trằn trọc mất ngủ.

Nhưng càng lớn hắn càng khám phá ra rằng muốn sống như một người được dành riêng thật chẳng dễ tí nào.

Người được dành riêng là người mất rất nhiều những cái chung.

Bước vào thời sinh viên, hắn bắt đầu nộp đơn vào nhà Dòng để xin tìm hiểu ơn gọi. Hắn được gởi ở trong một nhà xứ gần trường, thay vì được ở chung trong ký túc xá với bạn bè. Bạn bè ai cũng khen hắn điềm đạm và có cốt cách. Chỉ có hắn mới biết cái giá của việc gọi là điềm đạm và cốt cách ấy là hắn chẳng thể nào tham gia vào mấy cái trò quậy phá nhố nhăng mà vui rầm trời của bọn bạn bè cùng lớp. Chỉ có hắn hiểu cái cảm giác tiếc ngẩn ngơ khi không được vui tới bến với bạn bè trong những đêm hội hè lửa trại. Chỉ có hắn mới là người phải sống những nghịch lý của kẻ được dành riêng giữa một đám đông bạn bè. Chỉ có hắn mới phải cảm nếm tính tạm bợ và vay mượn của những niềm vui rất đỗi bình dị đời thường…

Những ngày cuối tuần, bạn bè được nghỉ ngơi, mọi người rủ nhau đi vui vẻ tiệc tùng và hát Karaoke. Hắn thì một mình đạp xe đạp về nhà Dòng để tiếp tục chiến đấu với bao nhiêu là những môn học khác, như nhân bản, tâm lý đời tu, trưởng thành tâm cảm, vân vân và vân vân. Con đường hắn đi về nhà Dòng mỗi cuối tuần bao giờ cũng là con đường ngược gió. Gió từ bên ngoài và gió nổi lên cả từ bên trong lòng hắn. Hắn vui và vẫn nuôi rất nhiều thao thức với hành trình dành riêng mà hắn đang đi. Nhưng thỉnh thoảng hắn cũng dừng lại, tự làm cho mình đau đầu với rất nhiều câu hỏi, kiểu như: Ủa, mình đang đi đâu, đang làm gì vậy ta? Ủa, sao mình phải khác người vậy ta? Ủa, con đường phía trước sẽ dẫn mình tới đâu đây ta? Liệu mình còn đi tiếp trên con đường này được bao lâu nữa vậy ta?…

Sống như người được dành riêng, hắn phải kỹ lắm. Không chỉ trong cách sống hay trong lời ăn tiếng nói, hắn phải kỹ ngay cả trong ánh nhìn và trong tư tưởng của mình nữa. Có nhiều ánh mắt đọng lại nơi hắn hơi lâu. Hắn biết chứ, vì hắn không phải là người gỗ. Chuyện đó cũng bình thường đối với những người ở tuổi của hắn thôi. Những ánh mắt sâu thăm thẳm và buồn vời vợi cứ lần lượt đặt vào hắn, rồi trượt đi. Hắn để cho trượt đi. Vì hắn biết, chỉ cần để cho hai ánh mắt gặp nhau, dừng lại với nhau hơi lâu một chút thôi, chắn hắn sẽ chìm mất trong cái thăm thẳm và buồn vời vợi ấy… Trong giờ hồi tâm mỗi tối, hắn cứ tự dặn mình phải tập nghiêm túc và trong sáng hơn trong ánh nhìn, trong những tư tưởng vơ vẩn mà mình cưu mang. Tại hắn được dành riêng.

Ngày đầu tiên chính thức được đặt chân vào nhà Dòng, hắn đã đứng tần ngần trước tấm biển thông báo: “Khu vực dành riêng, xin miễn vào”. Chỉ là tần ngần một chút vậy thôi, rồi hắn hùng dũng đẩy cửa bước vào. Bởi hắn biết, đó là khu vực dành cho hắn, cho những cuộc đời được dành riêng. Hắn thấy lòng mình hạnh phúc gì đâu!

Có một lần hắn có bạn đến thăm. Hắn gặp lại ánh mắt thăm thẳm và buồn vời vợi đã trượt qua đời hắn ngày xưa. Ánh mắt ấy giờ đã đặt vào một người khác, người được bạn giới thiệu là bạn của bạn. Hắn và họ nói chuyện với nhau, vẫn gần gũi và thân thương như ngày nào. Kết thúc cuộc viếng thăm, người ta chở nhau hòa mình vào phố thị. Hắn một mình quay bước vào lại nhà Dòng, về lại với căn phòng riêng của hắn, về lại với nhịp sống đều đặn của đời tu, về lại với cuộc đời của người đã được dành riêng…

Nhà Dòng của hắn nằm gần bên rìa của phố thị. Âm thanh của thành phố không quá gần cũng không quá xa so với nhịp sống tĩnh lặng của hắn. Mỗi lần đêm xuống, đèn lên, hắn rút lui đời mình vào một khoảng tĩnh lặng và thanh vắng. Tối, sau khi với tay tắt ngọn đèn đọc sách, căn phòng nhỏ của hắn trở nên rộng thênh thang, tan vào màn đêm không biên giới. Đó là lúc hắn cảm nghiệm rất rõ cuộc đời được dành riêng của mình. Ngoài kia, rất nhiều những âm thanh vọng vang từ đường phố: tiếng cười nói, tiếng xe cộ, tiếng nhạc xập xình… Trong này, chỉ một mình hắn lặng lẽ. Giữa những phồn hoa đô hội của cuộc sống, một ranh giới rất rõ ràng được dựng lên cho hắn, trong đêm.

Sáng sớm, hắn thức dậy khi cả thành phố hãy còn ngủ vùi, khi đất trời còn mờ tối và sương đêm còn bãng lãng. Khi những ánh nắng đầu tiên vừa ló rạng, hắn ngẩng đầu nhìn lên, hướng lòng mình lên, để cho cả cuộc đời mình được dọi sáng và sưởi ấm trong ánh nắng ban mai tinh khiết.

Tự nhiên hắn thấy cuộc đời mình đẹp.

Hắn thấy diễm phúc vì mình sống hạnh phúc cuộc đời của người được dành riêng.

Hắn thấy mình may mắn lắm, vì thích đi tu từ hồi còn nhỏ…

【Cao Gia An, S.J, Tập Truyện Ngắn “Bên Ngoài Cổng Nhà Thờ” – 2019

From: Le Ngoc Bich & KimBang Nguyen

CHUYỆN TÌNH HUỆ – SANG- Truyện Ngắn

Thuha T. Tran

Tiểu thuyết hóa chuyện tình?!

CHUYỆN TÌNH HUỆ – SANG

– Nguồn Hồng Thúy-

Nhìn họ, ai cũng nghĩ: Là 2 MẸ CON. Đâu thể nào tin: Họ là VỢ CHỒNG.

35 năm trước, Sang chỉ hơn 20 tuổi, đạp xích lô kiếm sống. Còn Huệ, gần 40 tuổi, bán trái cây ở chợ. Huệ thường nhờ Sang phụ chở trái cây. Thế rồi, giữa họ nảy sinh tình yêu lúc nào không hay. Một ngày, Sang nói với Huệ:

– Em muốn lấy chị làm vợ…

Huệ lắc đầu! Huệ sợ miệng đời, sợ mai kia Huệ già, Sang còn trẻ, sẽ bỏ Huệ mà đi. Nhưng rồi bằng sự chân thành sâu thẳm, Sang đã được Huệ gật đầu – họ cùng nắm tay nhau.

Sang làm đủ thứ công việc để lo cho vợ và 2 con. Sang đạp xích lô, bốc vác, phụ hồ… rồi làm bảo vệ, có nhiêu tiền kiếm được, Sang đưa hết cho vợ, khi cần gì thì chỉ xin lại vài chục ngàn.

Sang không cho vợ làm gì cả, chỉ ở nhà lo cho con vì Sang biết sức khỏe vợ mình không tốt. Chuyện lớn nhỏ, Sang gánh vác cả.

35 năm sau!

Cô hỏi ổng buồn không, có muốn đi lấy vợ khác trẻ hơn không? Ổng nói, có đi trước ổng thì ổng sẽ ở vậy, nếu có kiếp sau vẫn đi tìm cô để cưới làm vợ.

Đôi vợ chồng Huệ – Sang sống trong 1 phòng trọ nhỏ, xập xệ ở huyện Nhà Bè. Hai con có gia đình ra ở riêng, cũng vất vả trăm bề, không thể lo cho cha mẹ được gì.

Gần 35 năm gắn bó cuộc đời với nhau. Giờ đây, Huệ đã 73 tuổi, tóc bạc trắng, răng đã rụng, nhăn nheo, móm mém… Còn Sang, cách đây 5 tháng, khi đang đi làm bảo vệ thì bị choáng, gần như ngấ:t xỉu.

Đưa vào cấp cứu trong Bệnh viện, Bác sĩ nói bị chèn ép tủy cổ 4 đốt, 2 chân gần như không bước được nữa, chỉ định mổ – chi phí 26 TRIỆU ĐỒNG. Hai vợ chồng làm gì có số tiền ấy, Huệ đành xin cho chồng ra viện. Bác sĩ nói nếu về, có nguy cơ bị liệt, không có cách nào cứu chữa.

Đành chịu, Sang khóc trong bế tắc:

– Tui thành tàn phế rồi, bà đi đâu thì đi đi cho khỏe.

Người vợ 73 tuổi ấy đâu đành lòng, khi ông khỏe mạnh, ông nuôi tui, chăm sóc tui 35 năm qua, giờ sống chế:t gì cũng phải có nhau. Thế là, mỗi ngày lo ăn uống, tắm rửa xong cho chồng, Huệ đi lang thang lượm ve chai, có khi 10 -11h đêm mới về tới nhà. Số tiền ấy, Huệ để dành phần lớn mua thuốc giảm đau cho chồng.

Huệ 73 tuổi – Còn Sang 56 tuổi! Cứ ngỡ, cuộc sống của đôi vợ chồng lệch tuổi ấy sẽ trôi qua trong bế tắc, trong đớn đau và thiếu thốn trăm bề… Nhưng, một ngày kia, có người cho Huệ số điện thoại của Hồng Thúy: Hãy điện về đó nhờ giúp đỡ!

Mấy ngày trước, mình nhận được điện thoại của cô, cô vừa khóc vừa trình bày hoàn cảnh và xin đến để cứu chồng mình. Thúy hứa sẽ đến sớm nhất…

Chiều qua, Thúy, Tâm và Trung tìm về huyện Nhà Bè, tìm về với căn phòng trọ nhỏ xíu, ngổn ngang. Chú nằm đó, thở khó, cô loay hoay lau mồ hôi cho chú đỡ mệt. Thấy mình đến… 2 vợ chồng òa khóc – Ông được cứu rồi ông ơi! Cô nhìn chồng da diết, nói như thế đó.

Sáng nay, mình lại phân công Trung chạy xe xuống Nhà Bè chở cô chú lên Bệnh viện Nguyễn Tri Phương, làm thủ tục nhập viện, gửi bác sĩ để lo vẹn tròn cho chú. Ứng trước 1 ít nộp viện phí cho chú, hy vọng sau đó có ai giúp cô chú được 30 TRIỆU đồng để đóng chi phí ca mổ và còn 1 ít thì sẽ dành chăm sóc hậu phẫu…

– Tui mà khỏe lại, tui không cho bà đi lượm ve chai nữa,

– Tui khỏe lại, đi làm mua đồ ngon cho bà ăn…

… Ừ, rồi Sang sẽ khỏe lại, Huệ tin là như thế!

Sang 56 – Huệ đã 73 tuổi, móm mém. Cười mà khóe mắt cay. Ánh mắt dành cho nhau da diết đến tột cùng

Nguồn: Hồng Thúy

Thằng Ngụy Con – Tác giả: Ngô Viết Trọng

Tác giả: Ngô Viết Trọng

Nguồn: Chim Về Núi Nhạn

Khi bị chuyển về khám đường Bà Rịa, tôi bị nhốt vào một căn phòng rất nhỏ. Trong phòng ấy đã có sẵn một người: ông Đoàn. Cửa phòng là một bửng sắt khá dày, bị sét rỉ toàn bộ, chứng tỏ nó đã khá lâu đời. Sét rỉ đã xoi tấm cửa này thủng nhiều lỗ cỡ đầu ngón tay. Đặc biệt có một lỗ dưới cùng rộng có thể thò lọt cả bàn tay. Những lỗ đó đã cho chúng tôi chút ánh sáng trong căn phòng ít khi được mở này.

Một hôm tôi đang rầu rĩ bỗng nghe nhiều giọng nữ xôn xao bên ngoài. Tôi chạy lại cửa dán mắt vào mấy lỗ thủng. Thì ra phòng tù nữ ở gần phòng tôi được cho ra tắm giặt. Thật là một cảnh sinh hoạt rộn ràng. Tiếng gàu thau chạm nhau rổn rảng, tiếng người thúc giục nhau, chen lấn cãi cọ nhau ỏm tỏi. Họ giặt đồ, tắm rửa, chải tóc, phơi quần áo….trông ai cũng làm việc với vẻ gấp rút. Người quá đông mà chỉ có hai cái giếng, thì giờ cho phép lại giới hạn, nên họ sợ hết phần…

Tôi bỗng giật mình khi thấy một thằng nhỏ từ trong hiên nhảy ra. Nó chạy vụt lại phía hai con vịt xiêm đang rỉa lông cho nhau trước cửa phòng tôi làm chúng hoảng hốt bay xa một đoạn. Một người đàn bà gọi với:

– Không được nghịch, mẹ đánh đấy!

Thằng nhỏ đứng lại. Qua giây phút hoảng hốt, đôi vịt lại tiếp tục rỉa lông cho nhau. Thăng nhỏ khoảng chừng ba bốn tuổi, trắng trẻo, kháu khỉnh làm sao! Tại sao nó lại lọt vào chốn tù ngục này? Nó làm sao chịu được cảnh thiếu ăn, thiếu bạn bè, thèm khát đủ thứ, ngày ngày ru rú trong một căn phòng chật hẹp với không khí ngột ngạt, hôi hám ấy? Tâm tính nó sẽ ra sao về sau?

Thằng nhỏ có vẻ khoái đôi vịt xiêm lắm. Nó đang say sưa ngắm chúng thì mẹ nó gọi trở về phòng. Nó vừa đi vừa ngoái cổ nhìn lui làm mẹ nó phải giục mấy lần. Tôi quay lại hỏi ông Đoàn:

– Bên phòng nữ có một thằng nhỏ dễ thương quá! Vì sao nó phải vô trong này ông biết không?

Ông Đoàn nói:

– Nghe đâu cha nó là một viên thiếu tá đã đi Mỹ còn mẹ nó là một nhân viên Thiên Nga. Khi tôi vô đây đã thấy có nó rồi! Lúc đó nó mới biết đi lẫm đẫm.

Tôi tức cười thốt lên:

– Sau này có thể nó phải ghi vào lý lịch: Mới một tuổi tôi đã phải sống trong khám đường…

Mấy hôm nay tôi chỉ được phát mỗi ngày hai vắt nhỏ bột sắn xay chia làm hai bữa với một ít canh cải bẹ xanh mặn chát. Không hiểu thằng nhỏ có được phát tiêu chuẩn khẩu phần không hay phải ăn vào phần của mẹ nó? Tôi nói:

– Thằng nhỏ mặc sức mà thèm đường thèm sữa!

Ông Đoàn cười:

– Ông khỏi lo! Mấy ngày thăm nuôi nó được cán bộ thả đi lung tung, người ta cho nhiều quà lắm. Ngay tại phòng nó lại có rất nhiều người đã từng làm mẹ, làm chị, chẳng ai nỡ để một đứa nhỏ dễ thương như thế đói đâu! Tôi đã từng thấy một con chó mẹ nằm cho mấy con mèo con bị mất mẹ bú. Thiên tính thương trẻ của các bà làm mẹ hẳn còn cao hơn nhiều!

Tôi cảm thán:

– Vậy sao? Hoá ra nó lại sướng hơn lũ con tôi! Tôi có ba thằng con, thằng út có lẽ cũng cỡ tuổi nó. Khi tôi đi tù nó mới vừa đúng một tuổi, chưa biết đứng. Trước kia mình đâu biết dành dụm lo xa, khi vào tù tôi chẳng có chút gì để lại cho vợ con cả. Nghĩ đến cảnh một người đàn bà chân yếu tay mềm phải chạy vạy để nuôi sống ba đứa con giữa lúc này tôi đau ruột lắm Nhưng ăn năn cũng muộn mất rồi!

Mấy hôm sau phòng tù nữ lại được mở cho ra tắm giặt. Thằng nhỏ sau khi tắm rửa xong lại chạy sang trước phòng tôi. Không thấy đôi vịt, nó ngồi vào bậc thềm lưng dựa vào cửa phòng. Tôi thò ngón tay ra lỗ thủng chọt vào lưng nó một cái. Nó giật mình nhỏm dậy quay lại:

– Hết hồn!

Tôi lấy làm thú vị khi nghe một thằng tí hon lại dùng cái tiếng “hết hồn” có vẻ người lớn đó. Biết tôi đùa, thằng nhỏ lại ngồi xuống chỗ cũ. Tôi hỏi:

– Cháu tên gỉ?

– “Ngụy con”!

Tôi ngạc nhiên hỏi lại:

– Chú hỏi cháu tên là gì?

– “Ngụy con”!

– Ai đặt tên ấy cho cháu?

– Mấy chú cán bộ!

– Thế mẹ cháu không đặt tên cho cháu à?

– Có, mẹ cháu đặt tên “con”, mấy chú cán bộ thì kêu “ngụy con” rồi các cô dì trong phòng cũng kêu cháu là “ngụy con”!

Trời đất ơi! Cái tên này có thể tạo một ấn tượng khó đoán khi thằng nhỏ khôn lớn! Tôi định hỏi vài câu nữa nhưng nó đã bị mẹ nó gọi về phòng.

Rồi ngày thăm nuôi đến – ngày đó coi như ngày Tết của khám đường. Các phòng giam đông người đều được mở cửa suốt thời gian cho thăm để người ta tiện đưa đồ thăm cũng như dẫn dắt những người được gặp mặt người thân ra vào. Những người được ra gặp người thân phải mặc đồ lành sạch. Ai không có phải đi mượn đồ của người khác. Vì vậy, ngày thăm nuôi tù vẫn ăn mặc sáng sủa khác hẳn ngày thường. Các cán bộ cũng dẹp bớt cái vẻ nghiêm khắc hàng ngày để hồ hởi thưởng thức những hơi khói thơm… Những người không được thăm cũng vui hơn vì ít nhất cửa phòng mở họ cũng hưởng được chút ánh sáng và không khí dễ thở. Họ cũng có thể hưởng ké được chút quà tươi hoặc sớt được phần ăn tiêu chuẩn của những người được thăm không dùng tới. Những phòng ít người phần nhiều đang bị kỷ luật, ít được thăm, cửa đóng im ỉm, nhưng ít nhất ngày đó họ cũng yên trí không bị cán bộ quấy rầy. Nói chung, trong ngày thăm nuôi, bất cứ ai đang sống tại khám đường cũng chia được ít nhiều niềm vui, dù chỉ là niềm vui tạm bợ giữa một hoàn cảnh bất hạnh. Kẻ hưởng được hạnh phúc thật sự hoạ chăng chỉ có một người: “thằng ngụy con”!

Trong lúc cán bộ và tù trật tự bận rộn mang đồ thăm hoặc dẫn tù đi gặp người thân thì thằng nhỏ tung tăng chạy hết phòng này đến phòng khác. Nó rất khôn, cứ gặp cán bộ lại cất giọng lảnh lót “chào cán bộ” thật dễ thương. Vì thế không ai la rầy, cản trở nó cả. Tôi nghĩ chính thằng nhỏ là một nhân tố làm giảm bớt vẻ ngăn cách giữa cán bộ và tù. Đến đâu nó cũng được tiếp đón nồng hậu, quà cứ nườm nượp vào tay nó. Bao nhiêu lần nó sung sướng ôm đầy quà trên tay: bánh tráng, cốm bắp, kẹo…về giao cho mẹ nó. Trông nét mặt hớn hở của nó vào những lúc ấy ai mà chẳng vui lây!

Rồi một tháng trôi qua, lại đến kỳ thăm nuôi. Hôm ấy trời mưa lâm râm và có gió hiu hắt. Tôi lại dán mắt trước cửa hưởng ké niềm vui của mọi người. Thằng nhỏ lại thả sức tung tăng đi nhận quà. Thấy trời hơi lạnh, lại sợ con bị ướt nên mẹ nó đã cẩn thận bận thêm cho nó một cái áo mưa bằng nylon khá gọn. Lần ấy, có lẽ vì quà tặng hơi nhiều, thằng nhỏ lại không biết sợ lạnh, nó cởi cái áo mưa làm đồ đựng. Khi nó đang ôm bọc quà hí hửng chạy về phòng thì gặp Sơn, một cán bộ nghiêm khắc nhất khám đường. Gã tươi cười đón nó lại:

– “Ngụy con” có nhiều quà quá, chia cho chú với nào!

Thằng nhỏ lính quýnh giẫm vào chỗ đất trơn, té oạch một cái làm quà văng lung tung. Sơn cúi xuống lượm giùm. Xong, gã vờ bốc lấy một gói giấy, bảo:

– Gói này cho chú xin nghe!

Thằng nhỏ tưởng thật hoảng hốt:

– Không được đâu! Gói này không được đưa cho cán bộ coi!

Nghe thằng nhỏ nói hơi lạ tai, Sơn nghi ngờ mở cái gói ra xem. Gã bỗng trừng mắt đạp vào ngực thằng nhỏ một cái ngã ngửa. Thằng nhỏ nằm lặng một hồi mới khóc ra tiếng. Ai nấy chới với chưa hiểu chuyện gì thì nghe tiếng Sơn nạt lớn:

– Đ.M. đồ cái giống nguỵ ra khác, chưa ráo máu đầu đã học phản động!

Quay lại phía anh tù trật tự, Sơn hét:

– Bắt nó quỳ dưới cột lưới bóng rổ!

Lập tức thằng nhỏ bị lôi dậy, kéo đi. Liền đó Sơn dẫn một anh tù trật tự khác đến phòng B5. Gã đứng trước cửa hoạnh hoẹ hỏi chuyện. Lát sau một anh tù vừa mới được thăm nuôi hồi sáng bước ra khỏi phòng. Sơn bắt anh tù đứng nghiêm rồi tha hồ đấm đá. Anh tù nhiều lần bị ngã nhưng Sơn lại bắt đứng lên để đấm đá tiếp. Trong chốc lát anh tù đã xác xơ, rục rã. Nhưng Sơn vẫn chưa tha, gã còng cắp cánh tay anh ta lại rồi sai người đưa vào phòng kỷ luật.

Trời vẫn mưa lâm râm, gió vẫn hiu hắt. Thằng nhỏ vẫn quỳ dước chân cột lướí bóng rổ. Sơn vẫn tiếp tục ra vào kiểm soát việc thăm nuôi.

Quá nóng ruột, người mẹ phải liều vói mặt ra khỏi phòng van xin chéo véo. Nhưng Sơn cứ phớt lờ, cả giờ sau gã mới chịu cho thằng nhỏ về phòng. Người nó lạnh như cục nước đá, run lập cập, nói không thành tiếng….

Buổi tối, khi đưa cơm vào phòng tôi, Sơn cảnh cáo:

– Các anh coi chừng, chớ lợi dụng “thằng ngụy con” để thông tin tức với nhau! Dù là chỉ hỏi thăm sức khoẻ tôi cũng trị trắng máu ra!

Giờ thì tôi đã hiểu là anh bạn tù ở phòng B5 đã phạm nội quy của khám đường. Về sau tôi được biết rỏ hơn là anh này đã gởi quà với mấy lời nhắn cho một người quen ở phòng tù nữ. Vụ trừng phạt ấy cứ lởn vởn ở trong đầu tôi suốt đêm. Tội nghiệp thằng nhỏ đã bị đòn lại phải chịu đựng ướt lạnh suốt mấy giờ.

Hôm sau, khoảng tôi đã phải thức giấc bởi tiếng kêu cứu từ phòng tù nữ:

– Báo cáo cán bộ A5 có người bệnh nặng!

Tôi giật mình: biết đâu lại là thằng nhỏ? Tiếng từ phòng trực hỏi lại:

– Nặng bao nhiêu ký?

Tiếng kêu cứu từ phòng nữ có vẻ khẩn thiết hơn:

– Báo cáo cán bộ, phòng A5 có người sắp chết!

– Nghe rồi, đợi đó giải quyết!

Chừng nửa giờ sau tôi nghe có người nói chuyện ồn ào trước sân. Có lẽ cán bộ y tế đã đến. Rồi cả khám đường yên ắng trở lại. Gần sáng tôi lại bị ông Đoàn đánh thức:

– Ông nghe gì không?

Tôi lắng tai để nghe. Trời ơi, rõ là tiếng kêu khóc thảm thiết của một người đàn bà:

– Con ơi con, sao nỡ bỏ mẹ mà đi như thế con ơi! Con tôi chưa đầy ba tuổi đã biết gì đâu mà phản động, đau đớn lắm trời ơi!…

Tôi giật mình thở dài: Trời ơi, thằng nguỵ con!

Liền đó tôi nghe tiếng nạt nộ:

– Để con bị sưng phổi không chiụ lo báo cáo sớm, bây giờ không để người ta chôn cất còn khóc gào đổ thừa cho ai?

Tiếp đó tôi lại nghe nhiều tiếng nấc nghẹn ngào…

NGÔ VIẾT TRỌNG. 

From: T. Nguyen

Người Đưa Thư -Truyện ngắn- Nguyên Nhung

 
Nguyên Nhung

Thời gian mới định cư ở Hoa Kỳ, khi đến cư ngụ khu chung cư nhiều người Việt tôi đã thấy ông ta! Đó là người đưa thư, có bộ râu hung hung xồm xoàm viền quanh miệng, khiến thoạt nhìn người ta thấy ông có nét một ông già Santa Claus mỗi mùa Giáng-sinh!!! Nụ cười hiền, đôi mắt xanh mông mênh màu biển, ông là người đều đặn mang niềm vui cho đám cư dân sống ở chung cư, đa số mới từ Việt-Nam sang, thường ngóng những cánh thư ở quê nhà!

Ông ta trạc độ ngoài năm mươi, dáng dấp khỏe mạnh, khó đoán tuổi cho chính xác vì bộ râu xồm xoàm đó! Mỗi buổi chiều, khi chiếc xe của Bưu-Điện chạy vào con dốc đầy ổ gà, nơi đặt mấy thùng thư đã thấy có người đứng đợi. Đa số là người già, không biết làm gì cho hết ngày, đi lấy thư cũng là một cái thú!!! Ông ta bỏ thư vào từng hộp thư của mỗi nhà trong xóm, xong lái xe đi, không quên giơ tay vẫy mấy đứa trẻ đang chơi đùa trên khoảng sân trống.

Mãi cho đến một hôm, trời mùa đông lại mưa tầm tã, tôi thấy người đưa thư ngừng xe trước cửa căn chung cư, rồi chạy ào vào hiên gõ cửa, đưa cho tôi một lá thư. Lá thư của người bạn học từ Việt-Nam gửi sang, đề trúng tên người gửi và địa chỉ “zip-code”, nhưng thiếu số nhà của căn chung cư, không hiểu sao ông ta lại biết là của tôi. Chính vì thế mà tôi biết ông đọc được tiếng Việt, lại còn quen cả tên của người nhận thư, rồi vì sợ thư không đến tay người nhận, thay vì trả lại cho Bưu-Điện, ông mang thư đến thẳng nhà tôi!

Hôm ấy trời bão rớt, mưa suốt từ sáng đến chiều chưa ngớt, bầu trời xám xịt khiến mùa Đông càng có vẻ rét mướt. Tôi cảm động nhận lá thư từ tay ông, nhìn ông ướt át trong chiếc áo mưa màu vàng, những bụi mưa còn đọng trên mái tóc đã ngả bạc với bộ râu hung hung viền quanh miệng. Ông hỏi, bằng tiếng Việt:

“Xin lỗi, có phải tên cô không?”

Tôi ngạc nhiên, vì lần đầu nghe ông ta nói tiếng Việt, chực nhớ lại bà con trong khu chung cư, gặp nhau ngoài thùng thư vẫn hay nói chuyện này nọ về xứ Mỹ và người Mỹ, có lẽ ông đã nghe được cả. Tôi nhận đúng là tên mình, rất cảm kích vì tấm lòng của người đưa thư. Ái ngại khi thấy mưa vẫn như trút nước, rặng cây ven đường như mờ mịt đi dưới màn mưa trắng xóa. Tôi hỏi ông, bằng tiếng Anh:

“Ông có vội lắm không? Mời ông vào nhà chơi, mưa lớn quá!”

Ông nheo đôi mắt xanh nhìn trời, cười hiền hậu, nói một câu thành ngữ tiếng Anh:

“It’s raining. . . cats and dogs…”

Đoạn ông ta nói bằng tiếng Việt:

” Mưa lớn quá, giống như mưa ở Việt-Nam!”

Tôi mở to mắt nhìn ông thán phục:

“Ông nói tiếng Việt giỏi quá, ông học ở đâu vậy?”

Người đưa thư giơ tay vuốt những giọt mưa trên tóc, trên mặt, giọng thoáng một niềm vui, thật xa vời:

“Từ Việt-Nam. Tôi đã từng ở Việt-Nam, cách đây ba mươi năm. Việt-Nam luôn ở trong trái tim tôi!”

Tôi mỉm cười, một câu xã giao mà người Mỹ nào cũng học qua, nhưng sao ở người đàn ông này, tôi không thấy sự giả dối! Một lần nữa, tôi mời ông vào nhà, không khách sáo, trước khi bước vào căn phòng ấm, ông tháo đôi giày để ngoài cửa, giọng dí dỏm:

“Người Việt thường cởi giày trước khi vào nhà, có phải vậy không?”

Ngạc nhiên vì câu hỏi của ông, một người Mỹ hiểu cả thói quen của người Việt, thật là hiếm, như vậy ông ta chắc phải tha thiết với xứ sở của tôi nhiều lắm, tự nhiên tôi thấy có cảm tình với ông! Như hai người đồng hương đã lâu không gặp nhau, ông thổ lộ:

“Tôi nhớ Việt-Nam nhiều lắm, nhớ ‘người’ Việt-Nam lắm!!!”

“Người Việt-Nam” ở đây thì nhiều lắm, sao ông lại nói câu ấy với nhiều cảm xúc trong ánh mắt mà tôi có thể nhìn được. Rồi đưa mắt nhìn khắp căn phòng được bài trí theo kiểu Á-Đông, ông dừng lại một bức tranh trên tường vẽ cảnh mùa Xuân, con ngõ nhỏ với hai hàng mai nở vàng thật đẹp.

Ông thảng thốt reo lên, giọng lơ lớ:

“Đấy có phải là hoa mai?”

Tôi gật đầu, cảm phục một người Mỹ biết nhiều về xứ sở của mình:
“Ồ! Ông cũng biết hoa mai? Nó là loại hoa biểu-tượng cho mùa Xuân ở quê-hương tôi, và chỉ nở vào mùa Xuân!”

Ông gật đầu, đôi mắt xanh thoáng một nét bâng khuâng, nhìn theo những sợi mưa nghiêng nghiêng đan nhau trong khung trời mờ tối:

“Tôi biết, vì cô ấy tên Mai, Mai là tên người yêu của tôi, cô học-trò bé nhỏ!”

Hình như ông xúc động, yên lặng để dấu đi nỗi buồn. Tôi cũng ngạc nhiên không ít, khi khám phá ra mối tình của người đưa thư, một mối tình có lẽ rất đẹp mấy chục năm trước vẫn ấp ủ trong trái tim ông, từ những ngày trẻ tuổi!

Buổi chiều mưa hôm đó, một chiều mưa trên xứ người, nghe câu chuyện tình của người đưa thư, tự nhiên tôi cảm thấy dâng lên trong lòng một nỗi buồn rất Việt-Nam, cả cái không-khí lãng-đãng một chút ngậm-ngùi theo từng giọt mưa rớt xuống hàng hiên ẩm-ướt! Trong khi chờ mưa ngớt hạt, người đưa thư bồi-hồi kể tôi nghe chuyện tình của ông ba mươi năm trước…

***

David sinh trưởng ở Sacramento, thủ phủ của tiểu bang California. Vùng đất phì nhiêu màu mỡ có rất nhiều cánh đồng trồng rau và trái cây, đủ cung cấp cho hầu hết các tiểu bang của Hoa-Kỳ. Sinh ra trong một gia đình đông anh em, cả nhà sống trong một trang trại trồng hoa quả vùng ngoại ô, David có bản chất một người đồng quê rất hiền lành và thật thà, yêu thiên nhiên!

Học hết Trung Học, David rời gia đình đến Nam Cali để tiếp tục việc học. Sau bốn năm Đại Học, vốn bản tính hiền lành, thích làm việc thiện, David tình nguyện sang Việt-Nam làm công tác giáo dục và thiện nguyện! Do đấy, chàng có một thời gian dài đến gần bốn năm phục vụ trong các trung tâm Việt Mỹ, dạy tiếng Anh cho những người Việt trẻ tuổi!

Lúc ấy David còn trẻ lắm, mới hai mươi hai tuổi. Trước khi sang Việt-Nam, chàng được học tiếng Việt sáu tháng, cho nên lúc đến Việt-Nam chàng đã bập bẹ nói được những câu xã giao thông thường với người bản xứ.! Năm David tới Việt-Nam, chiến tranh đang thời kỳ leo thang, nhưng ở thành phố tương đối người dân vẫn sống trong yên bình, chưa nhìn thấy bao nhiêu sự đe dọa của chiến tranh.

David chỉ ở Sài-Gòn một thời gian ngắn, sau đó được đưa về Cần Thơ. Chính nơi này, thành phố thơ mộng ven bờ sông Hậu, đã khiến David lúc quay về Mỹ, mang theo một vết thương lòng!

David đã có dịp đi lại mấy lần trên nẻo đường mang nhiều sắc thái miền Tây Nam Phần, đó là quốc lộ 4.

Những cánh đồng lúa bát ngát, những vườn cây xanh, những mái tranh nghèo khuất sau hàng dừa rủ bóng trên giòng sông đục ngầu phù sa, lắc lẻo nhịp cầu tre bắc ngang sông rạch. Chàng thích nhất những chuyến phà qua sông Hậu-Giang, nhất là khi chiều về, vài cọng hoa lục bình màu tím lênh đênh trên sóng nước. Phong cảnh Việt-Nam thật lạ lẫm, mới mẻ nhưng gần gụi biết bao, không hiểu sao khi nhìn thấy miền đồng bằng sông Cửu-Long lần đầu tiên, David đã cảm thấy yêu mến vùng đồng bằng, êm ả như vùng quê nơi chàng sinh trưởng, dù mỗi nơi đều có nét khác biệt nhau!

Vì là nhân viên dân sự, David may mắn chỉ ở thành phố, không đối diện với chiến tranh như những người lính Hoa-Kỳ tham chiến ở Việt-Nam, và cũng không hề giao tiếp với giai cấp phụ nữ bám theo đoàn quân viễn chinh! Cho nên, những ngày dạy học tại Trung Tâm Việt Mỹ, David thật thơ ngây khi lần đầu tiên trong đời, chàng đã trao trái tim mình cho cô bé Việt-Nam, Mai là một cô học trò rất chăm chỉ, ngoan hiền trong lớp học căn bản của Trung Tâm này!!!

Mai đẹp lắm, ít là dưới mắt của David, một vẻ đẹp Á-Đông rất ưa nhìn. Mái tóc đen mượt, đôi mắt đen láy như hai hạt nhãn, nét ngây thơ dịu dàng của cô con gái Á-Đông khiến con tim chàng trai Mỹ mới biết yêu lần đầu, đã thổn thức vì nhớ thương! Như câu ca dao Việt-Nam, “Yêu ai yêu cả đường đi lối về”, David cũng yêu cái mênh mông của dòng sông Cửu-Long, yêu hàng dừa lơi lả nơi bến sông, nhìn những đợt sóng nhấp nhô vào những buổi hoàng hôn, David tưởng như nó chuyên chở bao nhiêu tình tự dân tộc, hiền hòa, vui tươi và đầy thiện cảm! Mỗi buổi sáng, David say sưa ngắm nhìn những tà áo trắng bay bay như những cánh bướm, trên chiếc xe đạp thong thả của đám nữ sinh mỗi buổi đến trường. Cả thành phố dậy lên sức sống, người ta đi lại đông đảo, đàn bà xách giỏ đi chợ, vài chiếc xe chất đầy rau quả, những đứa trẻ con ngoan ngoãn đi học với nhau, chiến tranh hình như chưa hiện diện nơi đây. David có được những tháng ngày thật tuyệt vời với công việc của mình, một biệt thự xinh đẹp tọa lạc trên con đường trung tâm thành phố.

Năm ấy Mai độ mười bảy tuổi, tư chất thông minh cộng thêm nét ngây thơ của cô bé mới lớn, đã chinh phục trái tim ông thầy trẻ tuổi. Cách biểu lộ tình cảm của mỗi dân tộc có khác nhau, David không hề dấu diếm tình yêu của mình với cô gái trẻ, trong khi Mai cố tình né tránh, dù nàng rất có cảm tình với ông thầy vừa đẹp trai, lại rất hiền hậu nữa! Sau nhiều lớp ở Trung tâm Việt Mỹ, Mai là một học sinh xuất sắc được chọn là người phụ giáo cho những lớp học vỡ lòng, trong thời gian này hai người cùng làm việc chung, David càng thấy gần gũi nàng hơn!!!

Với bản tính thẳng thắn của người Mỹ, David tỏ tình và đề cập với Mai về chuyện hôn nhân, chàng nghĩ nó rất đơn giản như bao cuộc hôn nhân trên xứ sở chàng. Nhưng điều làm cho David đớn đau hơn cả, không ngờ Mai đã từ chối kết hôn với chàng, nguyên nhân chỉ giản dị là không cùng chủng tộc, cha mẹ nàng coi đấy là điều không thể chấp nhận, dù David là một chàng trai học thức! David không hiểu tại sao Mai không quyết định được chuyện hôn nhân của mình, dù rằng Mai cũng cảm thấy mình yêu thương chàng trai Mỹ tóc vàng, mắt xanh hiền lành ấy!!! David thắc mắc thì Mai chỉ im lặng thở dài, rồi cho chàng biết những gia đình Việt-Nam bảo thủ, không bao giờ chấp nhận chuyện con cái kết hôn với người ngoại quốc!

Sống ở Việt-Nam khá lâu, ăn những món ăn Việt-Nam, học được cách cư xử của người Việt, David hoàn toàn chấp nhận tất cả những đòi hỏi theo phong tục, tập quán người Việt; nhưng vẫn bị từ chối! Thật sự chàng không thể nào hiểu nổi dân tộc này, trong cái thân thiện bên ngoài hình như họ vẫn dấu kín những thành kiến bí ẩn, có lẽ đã ăn sâu vào gốc rễ trong tâm hồn họ. Không lấy được Mai, nhiều lúc thất vọng đến chán chường, David còn muốn tìm cái chết để quên đi hình bóng diễm kiều của cô gái Việt!

Cuối cùng, bị khủng hoảng tinh thần, David không thể tiếp tục làm việc, với ý nghĩ một ngày nào đó Mai thuộc về người khác!!! David được hồi hương trước thời gian ấn định, lúc chia tay, lần cuối cùng gặp nhau, Mai đã khóc và nói với chàng:

“Nếu không được kết-hôn với anh, em sẽ không bao giờ lấy ai nữa!”

***
Câu chuyện tình của người đưa thư tưởng đến đấy là hết, bất ngờ David hỏi tôi:

“Tại sao dân-tộc cô lại có cái nhìn khe-khắt như thế? Một tình yêu khác chủng-tộc có phải là điều tội-lỗi?”

Tôi bối rối nhìn ông, không làm sao cắt nghĩa cho ông hiểu. Đúng, tình yêu tự nó đâu có gì tội lỗi, nhưng dưới con mắt lệch lạc của những người có nhiều thành kiến, họ vẫn không chấp nhận! David lại nói tiếp:

“Ba mươi năm nay tôi vẫn không quên điều đó, vẫn tìm-tòi văn-hóa Việt, và tôi hiểu tại sao dân-tộc Việt-Nam không tiến lên được! Trong một vấn-đề giản-dị đó, họ đã không có cái nhìn rộng-rãi, thì những vấn-đề lớn hơn, họ cũng khó mà thay-đổi!!!”

Tôi thở dài nói với David:

“Tôi nghĩ không chỉ người Việt-Nam chúng tôi mới có quan-niệm thiển cận như thế, ngay những người Mỹ, cũng đâu có thích con cái họ lấy một người không cùng sắc-tộc với mình! Hơn nữa người Việt-Nam lấy chữ hiếu làm đầu, cho nên ít khi chống đối lại Cha Mẹ, và họ chấp nhận điều ấy như là một thứ định-mệnh đã đặt để, ông thông-cảm cho! Nhưng thưa ông, đấy chỉ là những suy-nghĩ của thời-gian đó, bây giờ mọi điều đã thay-đổi!!!”
Giọng David đều đều như tiếng mưa rơi ngoài hiên, ông nói:

“Cô có biết tôi đã đau-khổ biết bao nhiêu khi không lấy được Mai, tôi đâm ác-cảm với tất cả người Việt vì lối suy-nghĩ của họ! Khi về nước, lâu lắm tôi vẫn không quên được người con gái ấy, rồi lại nhớ đến câu nói cuối cùng của Mai nói với tôi, tôi không nghĩ rằng Mai đã thực-hiện được. Khi đất nước cô bị rơi vào tay Cộng-Sản, tôi vẫn hy-vọng là sẽ gặp Mai trong đám người Việt di-tản sang Hoa-Kỳ, nếu cô ấy chưa lấy ai thì trên xứ sở này, không ai cấm cản Mai kết-hôn với tôi cả!!!”.

Tôi ngắt lời David:

“Ông có gặp lại cô ta không?”

David gật đầu, đôi mắt xanh chợt buồn, để rồi lại toát ra một tia nhìn ấm áp:

“Có, tôi đã gặp lại Mai, nhưng bấy giờ tôi là người dừng lại, vì Mai đã là một nữ tu đang săn-sóc cho đám trẻ mồ-côi đem từ Việt-Nam sang! Lần này tôi thực sự cảm thấy mình không có quyền theo đuổi con người cao-quý đó! Mai đã hy-sinh tình yêu, tuổi xuân để phục-vụ cho một nghĩa-vụ cao cả hơn, đấy là tình nhân-loại! Tôi vẫn yêu Mai, nhưng không có quyền giữ lấy nàng làm của riêng, khi nhìn thấy bản-chất cao đẹp trong tâm-hồn nàng!!!”

Giọng ông ta chợt bùi ngùi:

“Đồng thời, tôi cũng hiểu được ý-nghĩa lời nói của Mai, khi đã khóc và nói với tôi câu nói cuối cùng trước khi chia tay nhau! Nàng là người con gái Việt-Nam thuần- túy có những suy-nghĩ theo tính-cách của dân-tộc nàng! Nhưng trong tình yêu, tôi hiểu nàng cũng yêu tôi, thích-hợp với đời sống và việc làm của tôi, nhưng vẫn không dám chống đối lại Cha Mẹ! Để rồi cuối cùng, cô đã chọn con đường ấy; con đường phục-vụ cho tha-nhân!!!”

Đôi mắt xanh buồn buồn của người đưa thư lại hướng về bức tranh có những bông mai vàng óng ả treo trên tường, thật dịu dàng ông nói tiếp:
“Từ đấy, tôi muốn mình cũng như Mai, làm một điều gì đem lại niềm vui cho mọi người, dù rất nhỏ nhoi! Nếu không hỏi cô, có lẽ lá thư này sẽ bị trả lại cho người gửi, bạn cô mất đi một niềm hy-vọng, và ngay cả cô cũng mất niềm vui được đọc một lá thư! Bao nhiêu năm rồi tôi có nhiều cơ-hội để tìm một việc làm tốt hơn, nhưng tôi vẫn vui thích với nghề-nghiệp hiện-tại, khi nghĩ mình đã đem đến cho mọi người những gì họ chờ đợi, nhất là trong những mùa Lễ, Tết! Tôi cũng hiểu rằng từ miền đất xa-xăm nghèo khổ kia, họ đã phải tiết-kiệm như thế nào mới có đủ tiền để gửi một lá thư cho người phương xa!!!”

Tôi cảm động nghe ông ta nói, tự thấy xấu hổ với mình khi chính tôi có lúc đã rất hững hờ với những lá thư từ bên nhà gửi sang, cũng chỉ vì sợ phải giúp đỡ! Ngược giòng thời gian, tôi như nhìn thấy mình trong quá khứ, trong lúc cùng cực vẫn trông chờ một niềm hy vọng, vậy tại sao tôi lại không có được tấm lòng như người đưa thư này! Lúc ấy, nhìn đôi mắt xanh của ông ta, chòm râu hung hung viền quanh mặt, trông ông hiền hậu và dễ thương như ông già Noel đem niềm vui cho trẻ con mỗi mùa Giáng-Sinh!

Tôi nói với ông rất thành thật:

“Tôi cám ơn ông, một người Mỹ rất có tình với quê- hương tôi, dân-tộc tôi! Dù trước kia ông đã bị đau-khổ vì sự suy-nghĩ của họ!!!”

Mưa đã ngớt, chưa tới sáu giờ mà trời mùa Đông đã tối xầm lại. David đứng dậy, ông còn phải trở về Bưu điện, đem theo những lá thư người trong chung cư nhờ ông gửi giùm. Ông chào tôi rồi mang đôi giày vào chân, mỉm cười nhìn những bóng đèn màu chớp tắt trên cây Giáng-Sinh ở góc phòng. Tôi nhìn theo người đưa thư bước ra đường, lòng dâng lên một niềm ấm áp cho dù đang là mùa Đông ở xứ người! Câu chuyện của David đã làm tôi suy nghĩ. Tình yêu muôn thuở vẫn chỉ là Tình yêu, nhưng vượt lên trên đó, nó có một sứ mệnh thật cao cả khi người ta nhìn ra cái đẹp của nó, và sống với cái đẹp của tình yêu!!!

Giờ này, ở một nơi nào đó trên đất Mỹ, Mai, cô gái Việt-Nam năm xưa, có lẽ nay đã đứng tuổi, vẫn hăng say phục vụ tha nhân trong lãnh vực của cô! Không biết cô có hiểu rằng, chính tình yêu của cô đã làm cho David, người đưa thư quen thuộc của khu chung cư, cũng đang đi con đường của người ông yêu tha thiết năm xưa, cũng với mục đích đem niềm vui đến cho mọi người! Giá tất cả thế-nhân đều nghĩ đến nhau với một tấm lòng như thế, thì có lẽ chiến-tranh đã chấm dứt từ lâu trên trái đất!!!

Nguyên Nhung

From: Do Tan Hung& KimBang Nguyen 

HỒI TƯỞNG – Nguyễn Đình Phượng Uyển

Nguyễn Đình Phượng Uyển

CON GÁI NGUYỄN ĐÌNH TOÀN

1/THUỞ BÉ

Mỗi chủ nhật, anh em tôi thường được bố mẹ chở đi chơi. Chỗ thường ghé nhất là quán kem Givral ở góc đường Tự Do và Lê Lợi. Chúng tôi được chọn món kem hay bánh ngọt mình thích, dù đó là phần mình ăn không hết. Mẹ tôi tiếc của, bảo lựa món nào hai đứa cùng ăn chung được. Thế là anh em cãi nhau loạn xị. Bố tôi chặc lưỡi “ Kệ ! Cứ để tụi nó lựa riêng đi” Mẹ tôi thở dài nhưng khỏi nói cũng biết là anh em tôi sướng đến phát rồ. Chủ nhật mà ! Nhiều khi chúng tôi còn được bố cho mấy đồng cắc để bỏ vào cái máy trong tiệm cho nó phát ra nhạc nữa. Ăn chán, các cụ dẫn chúng tôi qua công viên bên kia đường chơi , nơi có tượng một người lính mặt mũi đen sì, đầu đội nón sắt, tay cầm súng, dáng như đang tiến công. Hồi đó tôi sợ bức tượng này vì gương mặt rằn ri của người lính và vì nó to quá khổ so với đứa bé năm sáu tuổi như tôi. Bức tượng làm tôi nghĩ đến ông khổng lồ chuyên đi bắt con nít về ăn thịt trong truyện Cậu Bé Tí Hon.

Có khi chúng tôi được đi xem phim chưởng hay phim trẻ con nữa. Đến giờ tóc đã đổi màu, tôi vẫn còn nhớ cảnh Bạch Tuyết nằm chết trong hòm kính trong suốt rắc đầy hoa, xung quanh là Bảy chú lùn khóc tỉ tê hay chiếc áo đầm rực rỡ màu vàng Mặt Trời, lấp lánh màu trắng Mặt Trăng và lung linh màu xanh Biển của Công Chúa Da Lừa… Tôi mơ được gặp các diễn viên đó ngoài đời và mơ mình sẽ có những bộ váy đắt tiền ấy. Tối nằm ôm gối, tôi còn ước được nắm tay các chàng Hoàng Tử khôi ngô tuấn tú trong phim, rồi nhắm tít mắt lại cười rúc rích.

Saigon khi ấy, trước khi vào phim chính, người ta hay chiếu phim thời sự. Vài lần tôi nhìn thấy Bố mình trên màn ảnh trong khúc phim này. Số là ông được lãnh Giải Nhất Văn Học Nghệ thuật Toàn quốc của chính phủ Việt Nam Cộng Hòa nên người ta làm phóng sự. Tôi nhớ Bố tôi mặc complet đen, tóc bôi keo bóng loáng, chải ngược ra sau khoe vầng trán rộng, mắt kiếng gọng sáng, lên bắt tay Tổng Thống. Mấy anh em lao xao “ Bố kìa ! Bố kìa !” cốt để khoe với người chung quanh nhưng rạp đã tắt đèn, chả ai thèm quay nhìn lũ con nít.

2/TÁC PHẨM ÔNG ĐOẠT GIẢI “Áo Mơ Phai”, miêu tả chi tiết về quang cảnh Hà Nội. Chi tiết đến từng góc phố, từng con đường, từng mùi hương…

Hà Nội qua ngòi bút của ông đẹp như tranh thế mà Cộng Sản lại BỎ TÙ ông vì tác phẩm này. Giải thưởng từ tay Tổng thống có nghĩa là bố tôi nợ máu với Việt cộng nhiều hơn ai hết thảy.

Lẽ ra họ nên cám ơn bố tôi

-đã viết về cái đẹp ở Hà Nội, trong cả một cuốn sách, hàng trăm trang giấy

-mà ngay chính họ đã từng ở đến bao nhiêu đời vẫn không ra được cuốn nào.

-Họ gọi ông là nhà văn phản động.

-Họ thù hằn ông chưa đủ, họ thù luôn cả con cái ông.

Bà hiệu trưởng trường tôi, Hồ Thị Bảnh, đôi mắt trợn lộ nhiều tròng trắng, môi đen xì và làn da tai tái, làm tôi, dù bé con, đã liên tưởng đến câu ngạn ngữ “Mắt trắng dã. Môi thâm sì. Da thiết bì.”.

Bà búi tóc củ tỏi, bọc trong miếng voan đen có kẹp tăm chặn sau gáy. Tạng bà thấp, chân vòng kiềng làm dáng đi có vẻ khập khiễng. Bà luôn mặc quần đen, loại vải khi đi đứng sẽ cọ vào nhau nghe sột soạt và mấy cái áo Bà Ba màu lạnh, có hai túi trước bụng. Giờ ra chơi hay trước giờ vào lớp, bà thường ngồi chồm hổm trước văn phòng, hai chân dạng rộng, một cánh tay thả lỏng trên một đầu gối, tay kia chống cằm, cùi chỏ đặt trên gối bên kia, lia mắt vào đám học trò. Trông bà ngồ ngộ so với các giáo viên khác vì họ luôn mặc đồ Tây, có cô giáo còn mặc áo dài đi dạy vào thứ hai đầu tuần, dù phải đạp xe hơn chục cây số.

Bà nói với học trò và phụ huynh trong trường rằng chị em tôi thuộc “Thành phần gia đình phản động, không nên quen biết.” Bà còn cài cắm ăng ten trong lớp để rình mò tôi.

Thời đó, đầu năm, trường bán rẻ hay phát cho học trò loại tập vở đen sì. Tập năm trước còn mấy trang chưa viết, tôi xé ra , đóng lại thành cuốn tập mới. Nếu có một quyển tập trắng, tôi kẻ thêm hai ba dòng ngoài lề để viết cho đỡ hao giấy và thường dành nó cho môn học hay thầy cô nào mình thích nhất.

Khi biết bà Hồ Thị Bảnh dạy môn Chính Trị lớp mình, tôi nói bâng quơ với chúng bạn “Tui sẽ dùng cuốn tập đen nhất, xấu nhất để học môn bả.” Vài ngày sau, trong giờ chào cờ, bà nói trước cả trường “ Có em nói không thích học giờ chính trị của tôi, sẽ dùng cuốn tập xấu nhất để viết bài” Tôi run như cầy sấy. Lời bà nói làm tôi giống như kẻ phản động – dám ghét môn chính trị – Tôi sợ bị đuổi học, bạn bè sẽ nghĩ tôi hư đốn, học dở hay phá phách. Tôi sợ bị làm nhục trước cả trường.Cũng may thầy cô giáo bộ môn thường dành cho tôi một mối quan tâm đặc biệt, không rõ vì thấy tôi chăm chỉ hay vì tôi là con của một nhà văn- bị cho là phản động.

Tôi thích đi học và tôi cũng sợ đi học. Trẻ con nào có thể chống đỡ với những đòn thù như thế?

3/PHẦN THƯỞNG VĂN HỌC của ông có một tấm huy chương hình tròn, mạ vàng ông để lăn lóc trong hộc tủ bàn làm việc. Theo thời gian, lớp mạ vàng tróc hết chỉ còn lộ màu đồng đen xỉn. Có lần bố tôi cầm nó lên bảo “ May mà nó bằng đồng nên còn. Nó bằng vàng thật thì mình đã ăn hết từ lâu.” Ý ông là đã bán nó đi kiếm tiền mua thức ăn vào cái thời gạo châu củi quế.

Một lần công an thành phố, quận, xã, đổ mấy xe hơi lính lác đến khám nhà. Chắc họ muốn tìm những bài hát do ông sáng tác để bỏ tù ông.

Thời điểm ấy, bài “ Nước mắt cho Sài Gòn” – Sài Gòn ơi ! Ta mất người như người đã mất tên….- đã được phổ biến trên đài VOA và BBC dưới tựa đề “Sài Gòn niềm nhớ không tên” – Bài hát được đưa ra nước ngoài, do một người quen biết, ông cụ tập cho hát và bảo anh nhớ nằm lòng vài ngày trước khi anh đi vượt biên. Lời ca, anh nhớ chữ được chữ mất. Nhạc, nhiều chỗ không đúng. Còn cái tựa, anh quên mất tiêu nên nó được biết đến với một cái tên khác. Mấy bài mới, ông viết ra giấy. Khi nào thuộc thì đốt đi. Không rõ lần đó họ có lục được bài nhạc nào của ông không nhưng họ có chở đi nhiều thùng sách vở, giấy tờ.

Vào thời điểm này, Hội Văn Bút Quốc Tế thỉnh thoảng có gửi mấy thùng thuốc tây cho nhà tôi và một số văn nghệ sĩ khác để cứu đói. Khi ra bưu điện lãnh hàng, mẹ tôi và các bác thường chào hỏi nhau.

Đã không còn đường sống, có người cho mình cái ăn, Việt Cộng cũng không bằng lòng. Họ lùng sục xem bố tôi làm gì? Quen biết ai ? Mấy tấm hình khách khứa đến chơi nhà bị họ lấy hết. Họ bơi móc từng cuốn sách , từng khe giường. Hộc tủ riêng của tôi để mấy cuốn nhật ký, viết lăng nhăng tình cảm thuở mới lớn mà tôi rất sợ người nhà đọc được, họ cũng chọc mắt vào, trước mặt tôi. Tôi vừa xấu hổ vừa tức giận khi cái góc riêng tư nhất của mình bị xâm phạm, vừa hãi hùng nhìn cảnh nhà “Ào ào như sôi”. Họ lấy mất tấm huy chương của ông trong lần khám nhà đó. Cụ tôi vốn đã gầy còm, nhìn ông lọt thỏm trong đám công an, an ninh với súng ống, biên bản, tra khảo mà thương.

Chúng không bắt ông nhưng các bác nhà văn bạn ông bị bắt rất nhiều trong cái ngày định mệnh ấy. Người lạ tránh xa gia đình tôi vì sợ liên lụy. Người quen truyền tai nhau, rằng bố tôi bắt tay với Việt cộng nên tránh được họa ở tù.

Hôm sau và nhiều hôm sau nữa, cả nhà căng mắt chờ một cuộc càn quét kế tiếp. Một tiếng xe chạy từ xa cũng làm mọi người nghe ngóng xem nó có đỗ xịch trước nhà mình không. Những tiếng nói lao xao của người qua đường cũng làm mình sợ đứng tim. Trời về đêm càng căng thẳng hơn khi nghe tiếng chó sủa. Gia đình sống trong tâm trạng sớm muộn gì họ cũng đến lần nữa.

4/BỐ MẸ TÔI ĐI ĐỊNH CƯ Ở MỸ

Một chàng Việt kiều trẻ về nước, ra Bắc chơi, vô chợ lạc xoong mua đồ cổ. Anh nhìn thấy một mảnh đồng tròn có khắc chữ “ Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu – VNCH” .Tò mò giở lên xem, anh đọc được hàng chữ “ Giải Nhất Văn Học Nghệ thuật– Ông Nguyễn Đình Toàn” Thế là anh mua về chơi rồi post lên mạng hình ảnh món đồ cùng câu chuyện vì sao anh có nó trong tay.

Trời xui đất khiến thế nào, Bố tôi đọc được mấy dòng chữ ấy. Ông tự giới thiệu và xin được chuộc lại tấm huy chương. Anh đến nhà, trò chuyện rồi gửi tặng lại ông cụ món đồ anh vớ được trong mớ lạc xoong rồi nói: ‘” Coi như cháu trao giải thưởng cho bác lần thứ hai.’”

Ly kỳ! Một vật đã mất đi cả hai ba chục năm, lưu lạc từ trong Nam ra ngoài Bắc, vượt trùng dương đến tận Hợp chủng quốc Hoa kỳ để rơi trở lại chính tay chủ nhân của nó. “Của Caesar , trả lại cho Caesar.”

Buồn, vì họ đã đối xử với một nhà văn và tác phẩm của ông như đống ve chai dép mủ.

Khi đã lớn và đi làm, tôi gặp lại bà hiệu trưởng thù hằn tôi năm xưa ngoài chợ. Vẫn “ Mắt trắng dã. Môi thâm sì. Da thiết bì.” với búi tóc củ tỏi có cài kẹp tăm sau gáy. Chả biết bà có thấy xấu hổ với tôi, đứa con nít bà rắp tâm hãm hại? Nó vẫn còn sống và sống rất đàng hoàng, sạch sẽ.

Các ông chủ và các đồng chí của bà sau này đã đến tận cái “Gia đình phản động” bà miệt thị khi xưa, không phải một lần mà là ba lần để xin ông cho in lại tác phẩm. Cả ba lần đều bị ông từ chối. Ông bảo “ Các anh bắt tôi còn được, huống hồ gì in sách của tôi, nhưng đã xin phép thì tôi không cho. Bằng không, ghi rõ ngoài đầu trang “Tác giả đã bị bỏ tù vì cuốn sách này.”

Lần mới nhất, năm 2016, người của nhà sách Phương Nam đến tư gia của ông bên Mỹ, lập lại lời yêu cầu. Ông bảo “ Nếu muốn, các anh phải công khai xin lỗi tôi ”. Ông chả lạ gì họ. Lúc cần thì năn nỉ ỉ ôi. Dăm ba bữa lại trở mặt cấm in hay lại thóa mạ ông.

Họ nói tại ngày xưa, cấp dưới làm sai chứ họ không chủ trương như thế, sao ông cứ làm khó làm dễ họ. Ha ! Hóa ra bà Bảnh hiệu trưởng đã cố ý làm sai chủ trương của xếp bà.

Giả dụ như giờ đây, tôi thấy bà bị chiên trong chảo dầu sôi dưới bảy tầng Địa ngục tôi có thích không?

-Không, tôi thấy sợ.

Giả dụ như tôi thấy con cháu bà thất học, bưng rổ bánh mì đi rảo bán ngoài đường như anh chị em tôi ngày xưa tôi có thỏa mãn không?

-Không, tôi thấy tội.

Chuyện người lớn sao bắt con nít gánh chịu ?

Vả lại, “Lấy oán báo oán….” để làm gì ?

Hiện, tôi đi dạy Việt ngữ thiện nguyện đã hơn chục năm. Con cái người miền Bắc hay người miền Nam đều được tôi quan tâm như nhau. “Trẻ em như búp trên cành”, chúng sợ từ con sâu cái kiến, nỡ nào để chúng hứng chịu mưa bão, như mình ngày xưa.

-Đất ngọt, cây sẽ sai hoa, trĩu quả.

-Đất chua, hoa chột, trái còi.

Nếu phải thù ghét Việt cộng, tôi nghĩ tôi có đủ tư cách để thù ghét họ hơn ai hết thảy

-nhưng tôi không chọn điều ấy.

Chuyện qua rồi. Thù hằn chỉ làm chính mình nhớ lại và khổ sở ,quằn quại.

-Khổ thế chưa đủ sao ?

-Quằn quại thế chưa đủ sao?

Phải sống đến nửa đời người, tôi mới biết cách giúp cho tâm mình thanh thản bằng việc

-bỏ qua

-quên đi

-và tiến về phía trước.

Cảm nhận đầy đủ và quý hóa những gì mình đang có trong tay, cho nó nhẹ nhàng và ít đau bệnh.

Thế thôi !

NGUYỄN ĐÌNH PHƯỢNG UYỂN

From: Helen Hương Nguyễn

Đừng lấy của người khác mà giúp người nghèo vì đó là ăn cắp

Giáo xứ Cần Giờ – DCCT

Đừng lấy của người khác mà giúp người nghèo vì đó là ăn cắp

Một hôm, khi Thánh Phanxico Assisi đang cùng đi với một người bạn đồng hành qua miền Apulia, đến gần thành Bari thì thấy giữa đường có một cái túi lớn, loại túi người ta quen gọi là fonda ( bao vải dài dùng để đựng tiền, đeo quanh bụng ) có vẻ như chứa đầy những đồng tiền kim loại.

Anh bạn đồng hành chỉ cho người nghèo của Chúa Kitô thấy và thúc giục ngài nhặt lấy túi tiền để phân phát cho kẻ khó. Người của Chúa từ chối, tuyên bố rằng cái túi tiền mà họ vừa thấy là một trò lừa đảo của ma quỉ và anh bạn đồng hành của mình đang đề nghị một việc tội lỗi chứ không phải là một việc công đức, vì đây là lấy của người khác mà đem cho.

Họ bỏ nơi ấy và vội vã đi cho hết chặng đường đã bắt đầu. Nhưng người bạn đường vẫn còn thắc mắc; anh ta bị một thứ trắc ẩn hão huyền đánh lừa và trách cứ người của Chúa như thể ngài không quan tâm giúp đỡ sự túng thiếu của người nghèo.

Con người hiền lành ấy đồng ý quay trở lại, không phải để làm theo ý người anh em, nhưng để vạch trần cạm bẫy của ma quỉ. Ngài trở lại chỗ có túi đựng tiền với người bạn đồng hành, có một thanh niên vừa qua đường tới đó cùng theo. Ngài cầu nguyện, rồi truyền cho người bạn cầm túi tiền lên.

Anh này bỗng hãi sợ, chân tay tê cứng, trong lòng mơ hồ cảm thấy có một âm mưu đen tối của ma quỉ. Tuy nhiên, do lệnh truyền của thánh đức vâng lời, anh ta gạt qua nỗi e ngại, đưa tay định cầm lấy cái túi, thì này, một con rắn lớn chui ra khỏi túi, rồi thình lình biến mất cùng với cái túi. Nhờ đó người anh em thấy rõ đây đúng là trò lường gạt của ma quỉ.

Sau khi sự xảo quyệt và dối trá của kẻ thù bị lộ rõ, đấng thánh nói với người bạn đồng hành: “Này anh, tiền bạc đối với các tôi tớ Chúa cũng chẳng khác gì quỉ dữ hay rắn độc.”

Truyện ngắn…Bên thắng cuộc” “Việt Nam yêu dấu”

“Chú bộ đội ơi! Tiếc quá, hòa bình rồi, không còn chiến tranh để lớn lên cháu được giết kẻ thù như các chú..”

Đó là lời của một đứa trẻ được phát đi trên đài phát thanh từ Hà Nội vào một buổi sáng sớm qua cái loa của trại giam những người “bên thua cuộc” ở giữa rừng Hoàng liên Sơn miền bắc.

Một viên gạch thẻ xây nhà, đánh thẳng vào giữa mặt một tên tù trẻ hình sự miền bắc, khiến hắn đổ gục xuống, nằm bất tỉnh trên đường đất mòn cỏ úa, giữa một đám người đứng vây quanh mà, qua nét mặt, diễn tả sự thành quả của họ như thể là một chiến công lớn trong một “trận chiến” rượt đuổi, vây bắt  kẻ địch… vì nó… đã nhổ trộm một gốc khoai mì..

Ở nhà trường, trong lớp học ở miền bắc, thầy, cô giáo dạy học trò làm tính nhân như sau: “Một quả lựu đạn giết được 5 người, vậy 2 quả giết được bao nhiêu?”

Ở miền nam, thầy, cô lại dạy rằng: “Một trái cam ngọt chia cho 4 em, vậy 2 trái cam ngọt chia được bao nhiêu em?”

Nhân chi sơ, tính bản thiện”. Đứa trẻ lớn lên, thiện, ác do kết quả giáo dục của nhà trường, dạy dỗ của cha, mẹ và hoàn cảnh sinh hoạt của xã hội.

Bà mẹ Mạnh Tử, xưa kia dạy con đã phải 3 lần dọn nhà: Lần đầu ở cạnh nhà một đồ tể. Hàng ngày bà thấy con mình thường hay cầm dao giả giết heo như người hàng xóm, sợ quá, bà bèn dọn nhà đến một nơi khác. Ở nơi mới này, bà lại thấy con mình cùng đám trẻ hàng xóm giả làm người nhà đòn, chôn khóc người chết. Hóa ra người hàng xóm làm nghề chôn cất. Bà thấy không được, vội dọn đến ở cạnh một trường học. Những ngày sau, bà thấy con mình đòi mua sách, vở, rồi cắp sách, cầm bút giả đi học như những đứa học trò kia. Bà thấy yên tâm, vui mừng, thầm nghĩ: Đây là nơi ở cuối cùng…

Sau này Mạnh Tử trở thành thánh hiền.

Người Việt miền nam tự do và người Việt miền bắc cộng sản thiện, ác khác nhau chính do từ lớn lên trong những môi trường: giáo dục của nhà trường, dạy bảo của gia đình và sinh hoạt của xã hội v.v….

Mới đây, ông giáo sư tiến sĩ Nguyễn hưng Quốc dạy ở đại học Úc có đề cập đến những cái “chết trên quê hương Việt Nam” qua tựa đề: “tại sao người ta tàn nhẫn đến vậy?” Trong đó, ông liệt kê những sự chém giết hung ác, hỗn loạn trong xã hội Việt Nam ngày nay. Cuối bài ông kết luận: “tại Việt Nam bây giờ, bất cứ điều gì cũng dẫn đến cái chết oan nghiệt”.

Một điều chắc chắn rằng chủ trương: “trồng cây mười năm, trồng người trăm năm” của “bác” Hồ, mọi người lớn, bé miền bắc trước kia và, người Việt Nam trong nước bây giờ đều biết.

Như vậy thì rõ ràng kết quả của những con toán nhân qua quả lựu đạn ở nhà trường dẫn đến đứa trẻ than phiền vì hòa bình rồi, không còn kẻ thù để nó giết, chính là kết quả tất yếu của một nền giáo dục… kỹ thuật “trồng người”.

Tại một trại giam những người bên “thua cuộc” ở núi rừng miền bắc, một ông trung úy “tháng ba gẫy súng” đi lạc trong rừng, bị người dân vây vít, hò hét, gậy gộc đánh tới chết, trói tay, trói chân, đòn tre dài xuyên qua, “hồ hởi” khiêng xác đến vứt trước cổng trại. Được bộ đội ân cần cám ơn vì đã lập công giết kẻ trốn trại !!..

Một tên bộ đội tài xế xe molotova, thú tính nổi dậy, âm thầm, lặng lẽ, trèo nhẹ lên xe, nổ máy, vội vã lùi xe, cán chết một bệnh nhân bên “thua cuộc” đang lao động trị liệu nhổ cỏ ở sau xe… Nét mặt lạnh lùng, cười đểu… “lỡ”!…

Tại một đồn điền cà phê ở Ban mê Thuột, chủ nhân là người Hà Nội lùa chó giết người như sau:

3 người đàn bà, 1 già, 2 trẻ, lẻn qua hàng rào vào nhặt mót những hột cà phê sau khi đồn điền đã thu hoạch xong. Chủ đồn điền lẳng lặng thả 2 con chó bẹc-giê ra rượt cắn.Vì sức yếu, bà già không kịp trèo lên cây như 2 cô gái trẻ kia, bị 2 con chó xé xác!!.. Chủ vườn lạnh máu đi mở cũi thả thêm 2 con chó nữa, buông nhẹ một câu: “cho mày chết”!..

Chưa hết: Vợ chồng người em giết chết vợ, chồng anh ruột chỉ vì con mèo của mình qua ăn vụng nồi cá, bị anh ruột đánh chết !!..

2 “cẩu tặc” bị đánh chết vì trộm một con chó !!…

Chê nước mía bán không ngọt bị chủ đuổi theo đánh chết….

Khách nhậu ngồi bàn bên kia, mắt bị lé… Nghĩ hắn nhìn trộm người yêu của mình… đâm chết!!…

Nghiện ngập, túng tiền, dẫn người tình vào khách sạn, sau khi ân ái, giết chết, lấy tiền, lấy vàng, lấy điện thoại di động, lấy xe, đi cầm…

Cướp giật dây chuyền bằng cách chém đứt bàn tay cho chắc ăn… v.v…. Nhiều lắm, kể ra đây không hết… Nói theo kiểu văn chương của người Hà Nội là: “lấy nước biển đông làm mực, lấy lá rừng làm giấy” cũng không đủ để viết hết cảnh chém giết trong xã hội của “bên thắng cuộc” hiện nay…..

Karl Marx, ông tổ của chủ nghĩa duy vật nói rằng: “trong lao động, có phát minh”. Ông Hồ và người Hà Nội lập đền thờ ông và học trò ông Marx như Stalin,Lenin v.v… Dựng ra một trường học lớn có tên là: “viện triết học Marx”, bắt cả nước miền Bắc học tập.

Bắt nguồn từ “trong lao động, có phát minh” đó, cho nên, mới đầu giết người bằng gậy gộc, giáo, mác thô sơ, sau tiến lên đến súng đạn, mã tấu, rồi tinh vi hơn nữa là dao, kéo, cắt cổ, lọc xương, bỏ vào bao bố phi tang… Dã man hơn thời thượng cổ!!

Miền Nam Việt Nam xưa kia, đàn bà đi đánh ghen chỉ xẩy ra có một lần độc nhất tạt át-xít đối thủ là vũ nữ, mà cả vợ lẫn chồng bị mất chức, vào tù… Nạn nhân được gửi đi Nhật để chữa trị. Vũ trường trên cả nước bị đóng cửa…

Ngày nay, đất nước của “bác” và của “đảng”, đàn bà đánh ghen, không chỉ tạt ác-xít, mà nạn nhân còn bị lột trần truồng giữa phố, được công an can thiệp bằng câu: “đó là chuyện riêng”!.. Đúng ý nghĩa: “dân làm chủ”.!.!.. 

Giã từ quê hương mà:“Chân bước đi, mặt còn ngoảnh lại, từ cái mái nhà, cái thềm nhà, cái lối đi, cho đến bụi cây, đám cỏ, cái gì cũng làm cho tôi quyến luyến khác thường..”Đó là lời của bài chính tả trong quốc văn giáo khoa thư mà tôi đã học khi còn bé ở lớp 3 trường làng…

Hơn 70 năm qua rồi, tôi vẫn còn xúc động, vấn vương hình ảnh và cõi lòng lưu luyến của kẻ ra đi trong bài chính tả đó…

Thê thảm thay, ngày 30/4/1975, ngày miền Nam được “bên thắng cuộc” “giải phóng”, cả triệu người kinh hoàng, hoảng hốt bỏ chạy, không một ai dám quay đầu nhìn lại quê hương!…. Không vấn vương, không lưu luyến, không hề mang chút tâm sự của kẻ xa nhà nhung nhớ như ở trong bài chính tả kia.

Bây giờ, hơn 46 năm qua, quê hương rách nát, quê hương bệnh hoạn, quê hương phồn vinh giả tạo, quê hương như trái dưa hấu xanh vỏ, nhưng lòng đỏ đã rữa nát… quê hương vô phương cứu chữa !!..

Lỗ Trí Thâm

Viết ở Thủ Đô Tỵ nạn Cộng Sản

Tết Tha Hương – Việt Phương 

Việt Phương 

Hình minh họa

“Chú ơi, đánh giày đi chú.”

Tôi quay lại. Trời ơi, chú bé ốm như con mèo ướt.  “Trời mưa. Ai lại đánh giày?”

Chú bé nói giữa hai hàm răng run cầm cập: “Thế nên từ sáng đến giờ cháu chưa đánh được đôi nào cả.”

Tôi kéo chiếc ghế ra. Thân thiện nói: “Cháu ngồi xuống đây cho đỡ lạnh.”

Chú bé ôm hộp đánh giày khúm núm. Tôi giục hai ba lần chú mới dám khẽ kê mông, ngồi xuống. “Cháu uống sữa đậu nành nóng nghe?”

Chú bé sáng mắt lên. Nhưng chú lại lắc đầu. Tôi biết chú đang đói. Cố ép: “Cháu uống sữa đậu nành, ăn xong cái bánh pâté chaud là chú sẽ để cho cháu đánh giày.”

Chú bé mở đôi mắt tròn xoe nhìn tôi như không tin, lắc đầu:   “Cháu không dám đâu.”

Tôi cười: “Chú đãi cháu mà.”

Chú bé vẫn ngần ngại. Tôi vẫy tay kêu người hầu bàn. Chú bé khẽ dò hỏi: “Thế chú có cho cháu đánh giày không?”

Tôi đùa: “Cháu đánh xong, chú ra ngoài mưa, bùn bắn. Lại như không!”

Mặt chú bé lại tái đi. Nỗi thất vọng chực tràn những giọt nước mắt quanh khoé. Tôi vội trấn an: “Chú đùa thôi.”

Chú bé hăng hái ngồi thụp xuống đất cởi giày tôi ra. Tôi cản: “Từ từ. Chú không chạy đâu.”

Trong lúc đó, người hầu bàn bưng ly sữa đậu nành bốc khói cùng đĩa bánh đến. Tôi nghe chú bé nén nước bọt đánh ực trong cuống họng. Tôi kéo tay chú: “Cháu ngồi lên ghế, ăn đi.”

Chú bé tự nhiên ăn uống một cách ngon lành. Tôi châm thuốc nhìn ra bầu trời trước mặt.

Bên kia đường là chợ Đà- Lạt, người người co ro trong những chiếc áo mưa tơi. Những cô bán hoa ngồi héo mặt trong góc khuất chờ mưa tạnh. Những bà bán trái cây buồn rầu nhìn ông đi qua, bà đi lại; có bà tỉ mỉ lau bóng những trái táo nhập cảng như sợ nước mưa sẽ làm mẹt trái cây chóng thối. Bà bán bún ngồi ủ rũ khều mấy cục than trong lò ra, vì sợ lửa lớn sẽ chóng làm cạn nồi nước lèo. Những người bán rau tranh thủ ngồi nhặt những chiếc lá héo bên ngoài.

Trời Đà Lạt buồn rầu đón thêm một cái Tết lạnh lùng. Không khí như đặc lại bởi cơn mưa cứ nhỏ hạt lê thê. Chợ búa như khép kín với nỗi buồn muôn thuở. Tôi đã nghe những người chung quanh than vãn suốt hai ngày qua. Lạ, Tết đến rồi sao ông trời chẳng cười giùm cho một chút, ông khóc sụt sùi hoài thì dân chúng làm sao mà dám cười?

Tôi nhìn qua khu Hòa Bình. Xe cộ thưa thớt, đường phố đắm chìm trong mưa. Phố Đà Lạt nhỏ, trời mưa khiến những con đường chảy nước ràn rụa, làm tăng vẻ rét mướt. Tôi nhìn lại, chú bé đã uống cạn ly sữa nóng.

Gợi chuyện:

“Ba mẹ cháu đâu? Sao để cháu ra làm thế này?”

“Bố mẹ cháu ngoài Bắc.”

“Như vậy cháu ở với ai?”

“Cháu ở với chúng bạn.”

“Cháu không có bà con gì trong Nam sao?’

“Không. Ngoài Bắc đói lắm, chúng cháu mới rủ nhau vào đây kiếm ăn!”

“Cháu bao nhiêu tuổi rồi hả?’

“Mười hai.”

“Mười hai? Nhìn cháu như mới lên bảy, tám là cùng.”

“Đói quá làm sao mà nhớn được chú?”

Chú bé cười sau câu nói, nhe hàm răng cáu vàng. À, thì ra chú bé cũng biết đùa.

Tôi hỏi tiếp:

“Cháu vào đây bao lâu rồi?”

“Hai năm.”

“Vậy cháu bỏ nhà vào Nam lúc cháu mới mười tuổi?”

Chú bé cãi:  “Cháu không bỏ nhà đi. Bố mẹ cháu cho phép.”

Tôi cười thành tiếng:  “Ừ, thì ba mẹ cháu cho phép. Cháu đi một mình?”

“Không. Cháu đi cùng chúng bạn.”

“Vậy mấy bạn đâu rồi?”

“Chúng cháu chia nhau đi làm. Đêm đến mới gặp.”

“Tối về cháu ở đâu?”

Đứa bé đưa tay chỉ. Tôi bật lên âm thanh hơi lớn, khiến một vài cái đầu trong quán quay lại nhìn:  “Trong chợ?”

Đứa bé gật đầu. Tôi nghĩ, trời lạnh như thế này, rồi chặc lưỡi:  “Tại sao ba mẹ cháu lại để cho tụi cháu đi như vậy?”

“Bố mẹ chúng cháu nuôi chúng cháu không nổi.”  Chú bé thản nhiên trả lời.

Tôi bần thần nhìn đứa bé còi cọc trong chiếc áo “sida” bằng nỉ rộng thùng thình. Chiếc áo vượt không biết bao nhiêu đất trời, từ những người hảo tâm bên Tây, bên Mỹ, về Việt-Nam được hân hạnh khoe mình trên những sạp đồ cũ ngoài chợ trời, với cái tên đầy vẻ“thời thượng” – sida – Tôi biết nếu chủ nhân cũ của nó nghe được chắc chẳng bao giờ dám mang áo quần đi cho.

Lạ, đầu óc tôi khi không lại đảo một vòng quanh thế giới. Tôi nhìn lại mình, nhìn lại chú bé bên cạnh đang kín đáo thè chiếc lưỡi nhỏ liếm vành môi còn đọng lại chút sữa.

Tôi hỏi. Cháu uống thêm ly nữa nhé. Trong khi bàn tay như thói quen kêu người chạy bàn thêm một lần nữa, không để ý đến sự phản đối yếu ớt của chú bé.

Tôi bỗng buồn. Tại sao tôi lại trở về Việt-Nam để thấy lòng mình buồn hơn bao giờ hết? Tôi chợt nghĩ đến những đứa cháu tôi bên Mỹ. Những đứa con nít ở Mỹ mới sung sướng làm sao! Buổi sáng, mẹ chúng phải năn nỉ chúng uống từng hớp sữa trước khi đến trường. Chiều về, lại dán mắt vào TV, hoặc những chiếc máy vi tính. Những trò chơi điện tử, chúng chơi chưa qua một ngày, đã chán!!!

Chú bé rụt rè đặt ly sữa thứ hai xuống bàn. Xong, hăng hái ngồi xuống đất gỡ dây giày tôi ra. Tôi lại kéo chú ngồi dậy, cười:  “Chú có một đề nghị.”

“Gì cơ?”

“Trời mưa, chú đi chơi không được. Cháu làm việc cũng không được. Bây giờ, cháu ngồi nói chuyện với chú, coi như là làm việc với chú. Được không?”

“Thế đôi giày của chú?”

“Chú không cần cháu đánh giày cho chú đâu.”

“Sao cơ?”   Chú bé có vẻ hốt hoảng.

Tôi trấn an:  “Chú trả tiền cho cháu đàng hoàng mà. Đừng lo!”

Tôi hỏi thăm về chú bé, về công việc mưu sinh hàng ngày. Chú bé nói mới thông thạo làm sao. Tôi yêu quá tiếng Việt được nói ra lưu loát từ cửa miệng của một em bé. Đã lâu lắm rồi, tôi chưa có dịp nghe em bé Việt-Nam nói chuyện một cách mạch lạc. Ở Mỹ, tôi đã quen với những tràng tiếng Mỹ xen với những câu tiếng Việt ngô nghê của mấy đứa cháu khi bị ba mẹ lườm mắt, ý không được nói tiếng Mỹ ở nhà.

Chú bé quay qua hỏi tôi:  “Chú về thăm gia đình hở?”

“Chú có đi đâu mà về?”  Tôi nheo mắt trêu.

Chú bé cười, ra vẻ hiểu biết:  “Nhìn chú, cháu biết chú là người nước ngoài rồi.”

“Sao biết?”

Chú bé thân thiện hơn:  “Không sao cả. Biết là biết.”

“Chú cũng là người Việt mình mà?”

“Chú khác với những người Việt ở đây. Chú là Việt kiều!”

“Chú thấy có khác gì đâu?”

“Tại chú không thấy. Nhưng cháu thấy!”

Tôi đổi sang chuyện khác, nói vu vơ:  “Tết năm nay hoa anh đào bị tàn hết vì mưa?”

“Vâng!”  Chú bé vội vã nói tiếp:  “Nhưng cháu thấy hoa đào ở ngoài cháu đẹp hơn nhiều.”

“Phải!”

Chú bé reo lên: “Chú cũng thấy nữa sao?”

“Chú chưa ra Bắc lần nào, nhưng chú thấy trên phim ảnh.”

“Ở ngoải cũng có phim ngoài Bắc nữa sao?”

Tôi bật cười vì khi không chú bé lại nói giọng Nam:  “Phải, ở ngoải cũng có. Chú thấy những cành hoa đào thật đẹp ngoài Bắc.”

“Đẹp mà làm gì hở chú? Nhà cháu không bao giờ ăn Tết bằng hoa đào.”

“Ai lại ăn Tết bằng hoa đào?”

Chú bé không hiểu tôi đùa. Nghiêm giọng:  “Thật đấy chú. Đắt lắm chú ạ. Có cành cả bạc triệu cơ đấy. Chỉ có nhà giàu mới sắm hoa đào ăn Tết!”

“Thế Tết cháu không về, ba mẹ có mong không?”

“Tiền đâu mà về chú. Cháu để dành tiền vé xe lửa gửi về cho bố mẹ còn hơn!”

“Cháu nhớ nhà không?”

“Cháu nhớ lắm chú. Cháu nhớ cái Hà nữa cơ. Cái Hà em cháu còn bé mà ngoan lắm, giúp được việc cho mẹ cháu lắm!”

Tôi cao giọng, vui lây với chú bé đôi mắt cứ nhấp nháy khi nhắc đến đứa em gái:

“Cái Hà giúp được việc gì nào?”

“Cái Hà giúp mẹ cháu đi nhặt lúa rơi.”

“Thế ba mẹ cháu làm gì?”

“Bố mẹ cháu làm nông. Nhưng bây giờ cũng ít ruộng để làm rồi.”

“Sao vậy?”

“Người ta lấy ruộng để xây nhà hết.”

“Thế hả?”  Rồi tôi trầm ngâm.

Chú bé hỏi:  “Chú cũng về quê ăn Tết à?”

Tôi thở dài:  “Chú không có quê. Chú không còn ai thân ở Việt-Nam cả!”

“Thế chú về làm gì? Ở ngoải sướng hơn. Cháu nghe nói bển cũng có bánh tét, bánh chưng, có… đủ thứ. Đâu cần phải về!”

Tôi cười xòa:  “Chú đâu thèm bánh tét, bánh chưng,… Thế cháu thèm bánh tét, bánh chưng lắm phải không?”

Tôi bật cười hồn nhiên. Khi không, nói chuyện với chú bé một hồi, chú bé lại giả giọng Nam, tôi lại lái qua giọng Bắc.

Chú bé le lưỡi:  “Cháu thèm bánh chưng. Mà đắt lắm chú ơi. Nhưng cháu nhất định sẽ ăn nó vào Tết năm nay!”

Chú bé nói chữ  “nhất định” nghe ra thật cương quyết. Tôi thấy bồi hồi. Ước mơ và mục tiêu của em bé nghèo Việt- Nam chỉ đơn giản như thế sao?”

Tôi khỏa lấp:  “Tại sao lại nhất định?”

Chú bé cắt nghĩa:  “Này nhé. Chúng cháu gửi tiền về nhà. Còn dư, chúng cháu góp lại mua được những hai chiếc bánh chưng lận!”

Tôi cười: “Mấy đứa mà những hai chiếc lận?”

“Lẽ ra là mười đứa. Nhưng hai đứa xuống Phan-Rang nhảy tàu về quê, còn lại tám đứa. Cháu tính rồi, mỗi đứa được một phần tư cái. Cháu mong cái Hà năm nay cũng được ăn bánh chưng như cháu!”

Tôi quay mặt nhìn xuống lòng đường. Nước cuồn cuộn dưới chân. Vài chiếc xe hơi đời mới chạy ngạo nghễ bắn bùn vào khách bên đường, để lại những tiếng chửi rủa tục tằn. Chú bé tò mò nhìn tôi. Chắc chú chẳng hiểu tại sao mắt tôi lại ngầu đục?

Trở về Đà Lạt lần này, tôi muốn ăn Tết với gia đình người bạn thân thời trung học một cách bất ngờ. Nhưng dự định của tôi tiêu tan! Bao nhiêu năm rồi, nếu lòng tôi không thay đổi, chưa chắc người khác đã không đổi thay như tôi. Bây giờ tôi mới biết, hoàn cảnh và môi trường sống khác nhau đã khiến con người ta khó thể gần gũi nhau được. Bạn bè ngày xưa từng mặc áo lẫn nhau, bây giờ nhìn lại mới thấy thời gian đã làm thay đổi nhiều quá! Không có gì tồn tại mãi!

Tôi lần mò đến con dốc cũ, chẳng buồn biết nó có bị thay tên hay chưa? Đà Lạt không có những thay đổi lớn lao, ngoài khí trời hình như không còn lạnh như năm nào.

Căn nhà cũng như xưa,  không được sửa sang, trông già nua quá thể, giàn hoa giấy cũ đã bị chết khô tự bao giờ! Và, cánh cửa gỗ nứt nẻ không buồn sơn phết lại. Tôi gõ cửa. Người đàn ông yếu đuối, tóc lưa thưa bạc phếch, mở cửa nhìn tôi bằng đôi mắt mệt mỏi.

Tôi lễ phép:  “Thưa bác có Thuần ở nhà không ạ?”

Người đàn ông ngạc nhiên, cau mày nhìn tôi một thoáng rồi bảo tôi vào nhà ngồi chờ.

Một lúc khá lâu, cũng người đàn ông ấy chậm rãi bước ra, vỗ vào vai tôi:   “Thằng Thuần không có ở nhà con à.”

Chưa kịp che giấu nỗi thất vọng hiện ra trên khuôn mặt tôi, thì người đàn ông lại đánh đét vào đầu tôi, la lớn, giọng Huế đặc sệt:  Tuân ‘tồ’!! ‘Mi không nhận ra tau hỉ?”

Bây giờ thì đến phiên tôi ngạc nhiên:  “Sao bác lại biết tên tục của cháu?”

Người đàn ông đấm mạnh vào vai tôi: “Bác cái mả cha mi! Tau là Thuần đây, khỉ à!!!”

Tôi há hốc miệng:  “Trời ơi! Mày… mày giống ba mày quá!”

“Mi lại nói móc tau đó hỉ? Con khỉ, nói tau già thì nói đại đi! Bày đặt!!!”

Tôi ngượng ngùng:  “Mấy chục năm rồi mày à. Nói thật, tao không nhận ra mày! Chỉ thấy có nét giống ông cụ nên tao tưởng là bác trai chứ???”

Thuần cười móm mém:  “Tau hiểu. Đời sống khó khăn. Mau già lắm!”

Tôi nheo mắt cười. Thuần đổi giọng:  “Về hồi nào vậy?”

“Một tuần rồi. Tao mới lên Đà Lạt ngày hôm qua! Ở Mỹ hàng năm có tổ chức sinh hoạt cựu học sinh, anh em vẫn thường nhắc tới mày!!!”

Thuần lơ đãng: “Thế à!”

Tôi nhìn vào mắt Thuần, đục ngầu màu khói thuốc. Thuần già đến nỗi tôi không thể nào tưởng tượng ra được! Ngày còn đi học, Thuần chăm chút hình hài lắm! Sau một cuộc thất tình, Thuần bỏ ngang năm thứ hai Luật khoa, đi lính!!!

Sau đó chúng tôi ít gặp nhau, nhưng vẫn thường xuyên liên lạc. Năm 1979, tôi vượt biên, nghe đâu Thuần vẫn còn bị học tập cải tạo.

Thuần mang đầy mặc cảm, tự ái! Thuần ăn nói nhiều khi rất cay độc với người, và cả chính mình!

Tôi thân với Thuần vì học cùng lớp thời trung học, lớn lên trong một thành phố. Xong tú tài hai, chúng tôi cùng xuống Sài-Gòn ghi danh vào trường Luật, ở chung phòng trọ.

Khi ra đi, tôi mang theo rất nhiều kỷ niệm thời thơ trẻ cùng Thuần. Trở về, tôi có rất nhiều điều muốn nói với anh, nhưng khuôn mặt Thuần lạnh căm, không bày tỏ một chút xúc cảm, làm tôi thấy thất lạc!

Thuần hất hàm:

“Ở khách sạn hả? Đúng rồi, Việt kiều phải vậy chứ? Ở nhà rách chắc không quen!”

Tôi nhăn nhó: “Mày nói nghe nhột quá!”

Thuần đổi đề tài: “Hai bác và mấy đứa em mi bên đó vẫn khỏe chứ?”

“Ba mẹ tao đã qua đời. Mấy đứa em vẫn khoẻ.”

Thuần chặc lưỡi: “Ba mạ tau cũng vậy. À! Ngôi nhà của gia đình mi nhà nước cấp cho cán bộ cao cấp, họ sửa lại thành biệt thự đẹp lắm. Mi tới đó chưa?”

“Tao định thăm mày xong tao qua đó coi cho biết.”

“Ừ ngôi biệt thự đó bây giờ không rẻ đâu. Phải rồi, nghe nói mi vừa ly dị?”

Tôi thở nhẹ: “Năm năm rồi.”

Thuần đùa: “Tin tức đi chậm, nhưng chính xác! Mấy cháu?”

“Một. Ở với mẹ nó.”

“Về đây kiếm vợ hả?”

“Mẹ. Mày đừng có đùa. Tao già rồi!”

“Mi còn “sữa” chán. Lúc xưa ai cũng kêu mi là “tồ” vì lớn con nhất đám. Không ngờ bây giờ trông mi “sữa” nhất đám!”

Tôi đùa: “Bộ mấy cô thích “sữa ông già” như tao lắm sao?”

“Sữa gì cũng thích. Sữa Hà-Lan, sữa Con Chim, sữa Ông Già, sữa quá đát (date)… miễn là hàng ngoại!”

Tôi cười lớn:  “Ông cũng còn giễu như lúc xưa!”

Thuần cũng há miệng cười thành tiếng, không thèm che đậy chiếc răng cửa đã rụng:  “Giễu để mà sống chứ!”

“Bộ liệt tao vào thứ hàng ngoại thiệt sao?”

Thuần nhìn tôi từ đầu đến chân:  “Mi là hàng ngoại một trăm phần trăm!”

Tôi chưa kịp mở miệng. Thuần lại tiếp:  “Áo da của Mỹ, áo thun của Mỹ quần bò của Mỹ. Cả đôi giày cũng Made in USA tuốt! Thế mà không phải là hàng ngoại một trăm phần trăm à???”

Tôi thấp giọng:  “Đừng giễu nữa. Tao là người Việt-Nam một trăm phần trăm!”

“À! Điều này chỉ có mi biết! Ra đường ai nói mi là người Việt-Nam đâu. Họ bảo mi là Việt…. kiều!!!”

Tôi xua tay đổi đề tài: “Mày càng nói càng đi xa vấn đề. Bà xã đâu? Con mày ra sao?”

Thuần thở dài:  “Tau cứ bịnh lên bịnh xuống, nên bả phải lo chạy gạo! Tụi con tau lớn hết trơn rồi. Chúng nó cũng sống trôi nổi lềnh bềnh như tau! Chỉ có đứa út là dính vào vợ chồng tau, trôi được khúc nào hay khúc đó.”

Tôi nén tiếng thở dài.

Tôi đứng dậy cáo từ. Thuận tay, tôi xoa đầu cậu bé đang khép nép bên khung cửa, tôi nghĩ là con út của Thuần.  Tôi khéo léo nhét vào túi áo cháu ít tiền. Rồi đi!

Nhìn gia cảnh Thuần, tôi hiểu nó túng thiếu lắm! Năm cùng tháng tận!!! Không có một bình hoa trên bàn thờ. Ngay cả ly nước trà cháu mang cho tôi uống cũng rất loãng. Tôi hiểu bạn tôi lắm. Nhưng tôi không biết chia sẻ bằng cách nào. Bạn tôi tự ái rất cao!!!

Thành phố bắt đầu lên đèn. Cơn mưa còn chút bụi nước bay lất phất qua những ngọn đèn đường trên cao.

Chú bé níu áo tôi:  “Chú thật không muốn đánh giày hả?”

Tôi giật mình nhìn chú bé, thương hại:  “Chú không đánh. Hôm nay là bao nhiêu rồi nhỉ?”

“Hai chín Tết!”

“Sao không thấy chợ Tết hả cháu?”

“Mưa quá. Người ta nhóm chợ bên trong!!!”

“Thế làm sao cháu ngủ?”

“Đợi đêm đến chúng cháu mới lẻn vào!”

Tôi xoa đầu đứa bé:   “Chúng ta kiếm cái gì ăn không?”

“Cháu không dám đâu!!!”

Tôi đùa:  “Dám một chút đi mà!”

Đứa bé cương quyết:  “Cháu thật không dám!”

Tôi móc tiền cho chú bé. Số tiền nhỏ lắm đối với tôi, nhưng có thể là cả ước mơ của chú bé! Cho chú bé và các bạn tha hồ ăn bánh chưng năm nay.

Chú bé tròn mắt nhìn tôi, ngần ngại. Tôi dúi tiền vào tay chú. Chú cầm lấy, miệng lí nhí cảm ơn – hình như hai tiếng cảm ơn rất khó nói đối với chú – rồi, chú vùng chạy. Hộp đồ nghề đánh giày lắc lư một bên. Cứ chạy dăm ba bước, là chú bé dừng lại, ngoái đầu nhìn tôi. Có thể chú đang sợ tôi đổi ý, đòi tiền lại chăng?

Tôi đưa bàn tay lên vẫy, bỗng thấy hụt hẫng vô cùng. Tôi nhìn theo cho đến khi chiếc bóng nhỏ bé kia lẫn trong màn sương.

Đêm hai chín Tết. Không biết đêm mai tôi đón giao thừa ở đâu? Ngay trong khách sạn, một mình? Không biết Tết năm nay đến với tôi là năm thứ mấy mươi tha hương? Riêng chú bé thì hẳn tôi đã biết mấy năm chú tha hương rồi!!!

Việt Phương