Kiêng & Kỵ – Tưởng Năng Tiến

Kiêng & Kỵ – Tưởng Năng Tiến

Ở California, thỉnh thoảng, tôi vẫn nghe người dân bản xứ nói đôi câu (cũng quen quen) nhưng không hiểu rõ ý:

– We’re turning into our parents.
– We all become our mothers.

Sao kỳ vậy cà?

Sao chúng ta lại có thể trở thành phụ mẫu của mình được chớ? Thì cũng tự hỏi (thầm) thế thôi nhưng rồi lần nào cũng tặc lưỡi cho qua. Là dân tị nạn nên tôi xem Hoa Kỳ chỉ là chỗ tạm dung. Sống đỡ ngày nào hay ngày đó, chả hơi đâu mà quan tâm đến phong tục, tập quán, văn hóa và ngôn ngữ nơi đất lạ xứ người. Phải lo chuẩn bị chuyện hồi hương để xây dựng lại đất nước mình mới là điều thực sự cần thiết.

Vậy mà tui cứ ở cái xứ sở này cho mãi tới giờ luôn và đường về thì vẫn chưa có lối. Với thời gian, tự nhiên, rồi tôi hiểu ra tại sao chúng ta lại trở nên như những đấng sinh thành.

Rõ ràng, càng già tôi càng giống song thân. Hay nói theo kiểu Mỹ là tôi trở thành y như cha mẹ của mình. Má tui có cái tính rất hay kiêng. Bả kiêng đủ thứ hết trơn:

– Không cho ai dao kéo, sợ tình cảm bị chia cắt.
– Không quét nhà vào ngày mồng một tết, sợ hất tài lộc ra khỏi cửa.
– Không phơi quần áo vào ban đêm, sợ ma quỷ mặc lầm.
– Không lượm tiền rơi, sợ lỡ đụng tiền cúng cô hồn là xui tận mạng.

Ba tôi thì không thường kiêng nhưng lại rất hay kỵ. Bà chị lớn lấy chồng xa, hý hửng ôm con sơ sinh về nhà khoe là thằng cháu đích tôn vừa được ông nội đặt tên Bình. Vậy là mặt ông ngoại xa xầm, lầu bầu/lầm bầm (“hỗn láo, hỗn láo, hỗn láo”) một chập rồi gằn giọng: “Gọi nó là Bường nghe chưa!”

Ổng còn cấm tụi tui nhiều chuyện nữa. Cấm không đứa nào được nói duуệt binh, duуệt ᴠõ mà phải đổi thành dợt binh, dợt ᴠõ ᴠì kỵ húу của … Đức Tả Quân Lê Văn Duуệt!

Quan niệm sống (“có kiêng có lành”) của cả hai người được tui thừa hưởng trọn vẹn và phát huy tối đa, cùng với tuổi đời. Đám con cháu mà mở miệng nói bất bình (thay vì bất bằng) là tui tát cho phù mỏ liền tức khắc.

Gần đây, tui còn “tham khảo” sách vở để mở mang thêm kiến thức nữa nha. Trong cuốn Phong Tục Việt Nam (Khai Trí – 1969) Toan Ánh chỉ viết đôi dòng, rất sơ lược, về chuyện “kiêng khem” thôi. Việt Nam Phong Tục ( Khai Trí – 1973) của Phan Kế Bính ghi chép tỉ mỉ hơn chút xíu :

– Người trẻ tuổi kiêng tôi vôi, e chóng bạc đầu.
– Trẻ thơ, kiêng khen tốt đẹp béo đẫy, e quở quang.
– Trẻ con kiêng đội nón trong nhà, e lùn…
– Ra ngõ kiêng gặp gái, e bất lợi.
– Uống rượu kiêng úp chén và dốc ngược chai, e say rượu.
– Con hùm kiêng gọi là ông ba mươi, con rắn kiêng gọi là ông lốt, con voi kiêng gọi là ông vâm.

Duy có câu kết luận của tác giả khiến tôi… hơi bị chưng hửng, và thoáng chút ngượng ngùng:

Lạ quá! Những sự nên kiêng thế nào cho khỏi ngu dốt, kiêng thế nào cho khỏi yếu đau, kiêng thế nào cho khỏi nghèo hèn, kiêng thế nào cho khỏi nhục nhân cách, thì không mấy người tìm cách mà kiêng, đi kiêng những điều vụn vặt, những sự vu vơ, nào kiêng ngày kiêng tháng, nào kiêng đứng kiêng ngồi, nào kiêng ăn kiêng mặc, nào kiêng cười kiêng nói, kiêng cả đến ra ngõ gặp gái, kiêng cả đến sáng sớm đòi nợ, sao mà kiêng lắm điều lạ lùng làm vậy?

Phan Kế Bính từ trần hồi đầu thế kỷ XX (năm 1921) nên chắc chắn không thể nào mường tượng được rằng, sau này, xứ Việt còn có “lắm điều kiêng kỵ lạ lùng” hơn nữa. Nhà Nước bỗng “kiêng” tên nước láng giềng Trung Quốc:

  • RFA: “Trong các tập in văn kiện năm 1979, 1980, những phần liên quan đến cuộc xâm lược của Trung Quốc năm 1979, từ ‘Trung Quốc’ bị cắt bỏ, thay bằng dấu ba chấm (…).
  • BBC: “Hôm 16/2, Việt Nam diễn ra một số hoạt động kỷ niệm ‘42 năm Cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới phía bắc’ nhưng dường như nhiều tờ báo vẫn tránh đưa tên ‘Trung Quốc’ vào bài tường thuật.”

Tin tức phát đi từ những cơ quan truyền thông của nhà nước VN cũng thế, cũng … kiêng kỵ (và kiêng khem) rất kỹ :

Tuy dân chúng bị bách hại hay sát hại ở rất nhiều nơi trong hải phận của xứ sở nhưng chính phủ hiện hành không hề có bất cứ một phản ứng nào đáng kể. Phát ngôn nhân của Bộ Ngoại Giao Việt Nam luôn chỉ bầy tỏ sự quan ngại (vu vơ) thôi vì … không rõ chính xác kẻ thủ ác là ai, ngoài chi tiết rất lơ mơ là chúng thuộc …  nước ngoài!

Tình trạng này kéo dài từ nhiều thập niên qua, và đã trở nên một đề tài giễu cợt quen thuộc cho những người thích chuyện tiếu lâm. Cô giáo Thảo Dân bỡn cợt:

– Xám ơi, giặc NƯỚC NGOÀI là giặc nào nhỉ?
– Là nước lạ đó.
– Nước lạ là nước nào?
– Là nước có đường biên giới chung với Quảng Ninh.
– Nước có đường biên giới chung với Quảng Ninh nước nào?
– Là nước gây ra chiến tranh biên giới đấy thây.
– Cơ mà tên thật của nó là gì? Làm gì có thằng giặc nào không có tên?
– Bố mày còn chả dám nói tên, toàn phiếm chỉ huống hồ là quần cộc chân chì như tao. Mày hỏi gì hỏi lắm thế hả Đỏ.

Nhà văn Lao Ta đùa chơi:

Chưa biết thâm ý và viễn kiến của tướng Trần Việt Khoa đến đâu khi gọi Trung Quốc là nước ngoài. Cũng chưa biết ông gọi thế là theo chỉ đạo của ai, cấp nào. Nhưng hệ lụy của thứ sáng tạo thuộc bản quyền không thể tranh cãi của Quốc hội Việt Nam thì nhãn tiền ngay tức khắc.

Chẳng hạn, theo cách của ông Khoa, thì hàng loạt văn bản hoàn toàn có thể có những câu sau đây:

– Nước cộng hòa nhân dân Nước Ngoài. (Có thể khiến nhiều người hiểu thế giới đã đến giai đoạn đại đồng)

– Đảng cộng sản Nước Ngoài. (Dễ bị hiểu sang một hình thức mới của Quốc tế cộng sản, tổ chức đã tử vong từ lâu)

– Tình hữu nghị Việt Nam-Nước Ngoài đời đời bền vững. (Sẽ có người thắc mắc chính đáng: Chả lẽ thế giới chỉ còn hai nước?)

Ha ha, Quốc hội mình vui phết, hơn đứt xới chèo!

Vui thế nhưng vẫn có người nhất định không cười, hoặc cười không nổi:

–  Du Uyên: “Không biết từ bao chừ, ở trên báo nhà nước, cứ cái gì ‘lạ’ là nó cho thấy sự hèn hạ của rất nhiều tập thể.”
– Huy Đức: “Tầu thì lạ nhưng sự hèn hạ thì rất quen.”

Đã cam phận chư hầu thì ở nơi đâu và thời nào cũng phải thế thôi. Thế quỳ mà.

Việt Nam vốn không có Bộ Ngoại Giao mà chỉ có Đảng Ngoại Giao thôi. Gần đây, chính sách đối ngoại của Đảng còn phải lệ thuộc vào một cái Đảng (khác) nữa cơ. Rắc rối như vậy nên mới có chuyện kiêng/kỵ lôi thôi như thế!

Đây là vấn đề khá tế nhị nhưng rất ít người thông hiểu (và thông cảm) nên lắm kẻ đã lên tiếng chỉ trích việc Đảng CSVN bỏ phiếu chống lại nghị quyết đình chỉ tư cách thành viên Hội Đồng Nhân Quyền của Nga, vào hôm 7 tháng 4 vừa qua:

– G.S Nguyễn Khắc Mai– RFA: “Cái xấu mà thế giới người ta lên án, mà rõ ràng là nó xấu rồi, nó độc ác rồi… mà cũng không dám lên tiếng.”
– Blogger Hoàng Trường – VOA : “Ngoại giao phản dân làm nhục cả dân tộc lẫn quốc thể.”
– FB Thương Hồ – THOIBAO.DE : “Lần này CSVN tự làm khó mình rồi.”
– G.S Carlyle Thayer– RFA: “VN đã tự bắn vào chân mình.”

Nó biểu bắn vô đầu cũng chưa chắc đã dám cãi, chứ tay chân thì có nhằm nhò chi đâu mà um xùm dữ vậy – mấy cha!

Tưởng Năng Tiến
4/2022

Ukraine đánh thức nhân loại, trừ Cộng sản Việt nam

Ukraine đánh thức nhân loại, trừ Cộng sản Việt nam

Bởi  AdminTD

Trần Trung Đạo

21-4-2022

Cuộc chiến tranh xâm lược Ukraine của Nga đã làm thay đổi vị trí chiến lược của nhiều quốc gia trên chính trường thế giới cũng như buộc nhiều quốc gia phải thay đổi đường lối đối ngoại để thích nghi với xu hướng thời đại.

Xu hướng của thời đại ngày nay là phát triển dân chủ và hòa bình chống lại các cơ chế độc tài chuyên chính với tham vọng bành trướng.

Ngày 17-3-1948, phát biểu trước lưỡng viện quốc hội Mỹ, TT Harry Truman giải thích lý do phải “bao vây Liên Xô”. Theo tổng thống thứ 33 của Mỹ, “nguyên nhân chính là do một quốc gia đã không chỉ từ chối hợp tác để thiết lập một nền hòa bình công bằng và danh dự mà thậm chí tệ hại hơn, đã tích cực tìm cách ngăn chặn điều đó”. (Special Message to the Congress on the Threat to the Freedom of Europe, March 17, 1948, Truman Library).

Mặc dù quốc hội Mỹ lần thứ 80 do đảng Cộng Hòa chiếm đa số nhưng họ cũng đã ủng hộ TT Truman (Dân Chủ).

Ngoại trừ năm nước CS theo chủ nghĩa Lenin không Mác, phong trào CS thế giới đã qua và câu nói của TT Truman dường như cũng đã bị lãng quên đi. Nhưng không. Mới đây cũng tại quốc hội Hoa Kỳ, nhiều phát biểu gần như lập lại nguyên văn câu nói của TT Truman chỉ thay chữ Liên Xô bằng chữ Nga và kết quả đạo luật “Bảo Vệ Chủ Quyền Ukraine” ra đời. Điều thứ hai trong đoạn hai của đạo luật viết: “Sự xâm lược và ảnh hưởng có ý định thù địch của Chính phủ Liên bang Nga và các tổ chức thân cận của họ ở Ukraine là mối đe dọa đối với chủ quyền dân chủ của Ukraine”. (Defending Ukraine Sovereignty Act of 2022).

Một ngày không xa, câu nói của TT Truman cũng sẽ được nghe lần nữa tại một phiên họp khoáng đại của quốc hội Hoa Kỳ và nhóm chữ “một quốc gia” sẽ được hiểu là “Trung Quốc”.

Chính trường quốc tế là một không gian đầy sinh động. Những quan điểm “bạn và thù”, “đồng minh và đối nghịch” thay đổi theo từng hiệp định và ngay cả theo từng chọn lựa chính trị của lãnh đạo một quốc gia.

Những ai học môn sử lịch sử thế giới bậc trung học ở miền Nam trước 1975 chắc còn nhớ bài học sau đây. Ngày Chủ Nhật, 28-6-1914, Đại Quận Công Archduke Franz Ferdinand, người sẽ kế vị bác của mình để trở thành hoàng đế Đế Quốc Áo-Hung, bị một sinh viên người Bosnia Serb tên là Gavrilo Princip bắn chết tại Sarajevo. Sự kiện này được lịch sử thế giới ghi nhận như điểm khởi đầu cho Đại Chiến hay còn gọi là Thế Chiến Thứ Nhất.

Tuy nhiên, giống như hỏa diệm sơn, biến cố đó chỉ là điểm vỡ của những xung đột gây tác động dây chuyền suốt nhiều thế kỷ. Trong hai thế kỷ trước đó, nhiều liên minh quân sự được ký kết giữa các quốc gia lớn nhỏ như Liên Minh Nga-Ottoman 1700, Liên Minh Ba Nước Đức, Áo-Hung, Ý (Triple Alliance) 1882 chẳng hạn.

Vô số bài học trên thế giới cho thấy, không phải nước lớn nào cũng chiếm đoạt nước nhỏ dễ dàng. Nếu một quốc gia có được hai yếu tố (1) nội lực vững mạnh và (2) quốc tế ủng hộ quốc gia đó dù thua những trận đầu vẫn sẽ thắng trận cuối cùng quyết định.

Năm 1939, Phần Lan dân số chỉ vỏn vẹn 3.6 triệu người nhưng chiến đấu anh dũng trong Chiến Tranh Mùa Đông (Winter War) chống lại quân đội Liên Xô đông gấp trăm lần. Lòng yêu nước, yêu tự chủ và dân chủ của dân tộc Phần Lan giành được cảm tình của đa số nhân loại. Hội Quốc Liên (League of Nations) chẳng những lên án Liên Xô xâm lược Phần Lan, mà còn trục xuất Liên Xô ra khỏi tổ chức quốc tế này. Chiến Tranh Mùa Đông năm 1939 đã làm Stalin lo ngại và từ bỏ tham vọng chiếm Phần Lan lần nữa sau Thế Chiến Thứ Hai dù đã nuốt hết vùng Baltics và Đông Âu.

Chính sách đối ngoại của một quốc gia chỉ đạo cho các mục tiêu chung của quốc gia đó trong quan hệ với các quốc gia khác bằng phương tiện ngoại giao.

***

Tại Việt Nam, Phạm Minh Chính, thủ tướng CSVN, một thời gian ngắn trước khi Nga xâm lăng Ukraine đã phát biểu về chính sách đối ngoại của CSVN như sau: “Chúng ta không ‘chọn bên’ mà chọn lẽ phải, xu hướng thời đại là hòa bình, hợp tác và phát triển”. (“Chúng ta không chọn bên mà chọn lẽ phải”, Thanh Niên, 16-12-2021).

Sau khi Nga xâm lăng Ukraine cuối tháng 2-2022, CSVN vẫn giữ quan điểm “chọn lẽ phải” này.

“Lẽ phải” của ông Phạm Minh Chính phải chăng là bốn triệu người Ukraine chỉ trong vòng hai tháng đã bị Nga đẩy ra khỏi căn nhà riêng của họ để sống chen chúc và thiếu thốn trong các trại tị nạn ở Ba Lan, Romania, Hungary và các quốc gia lân cận?

“Lẽ phải” của ông Phạm Minh Chính phải chăng là hàng trăm ngàn ngôi nhà Ukraine bị thiêu rụi, nhiều thành phố Ukraine bị san bằng, nhiều ngàn người Ukraine bị bom đạn Nga giết và chôn chung trong các ngôi mộ tập thể, nhiều em bé Ukraine chưa sinh đã chết khi còn trong bụng mẹ?

Dù với tiêu chuẩn đạo đức nào, hành động của Nga đối với Ukraine là hành động xâm lược trắng trợn và bản thân Putin theo tinh thần của Geneva Convention và nội dung “8 vi phạm” được LHQ nêu ra là một tội phạm chiến tranh.

Nhưng CSVN đã gạt qua bên mọi phản ứng từ phía người dân, mọi giá trị, tiêu chí đạo đức căn bản, mọi công pháp quốc tế và viễn ảnh một Việt Nam bị cô lập theo Nga chỉ để lấy lòng quan thầy Trung Cộng (TC).

CSVN rập khuôn theo cách bỏ phiếu của TC còn trơ trẽn hơn so với cách Tajikistan, Uzbekistan, Kazakhstan, Kyrgyzstan đối xử với Nga.

Dù trong cùng một tổ chức – Tổ Chức Liên Minh An Ninh Tập Thể (Collective Security Treaty Organization ) do Nga chế ngự, bốn quốc gia cận biên giới này đã không ủng hộ Putin trong quyết nghị LHQ ngày 2-3-2022. Đó là những cái tát vào mặt Putin kiêu ngạo. Ít ra lãnh đạo bốn nước nhỏ này còn có chút ý thức về chủ quyền đất nước dù sự nghiệp chính trị và cả sinh mạng cá nhân của họ nằm trong tay Putin. Hành động vắng mặt tại buổi bỏ phiếu ngày 2-3-2022 của Turkmenistan, Uzbekistan và Azerbaijan là một cách phản đối mà Putin chưa bao giờ nghĩ tới.

Công bằng mà nói, không phải 141 quốc gia lên án Nga đều vì Ukraine. Không ít trong số họ nhận thấy đây là cơ hội tốt để hội nhập vào khối dân chủ tự do. Argentina, Saudi Arabia, Thổ Nhĩ Kỳ, Chile tham gia phe Đồng Minh chỉ hơn hai tháng trước khi Thế Chiến Thứ Hai chấm dứt nhưng vẫn được xem là quốc gia Đồng Minh và hãnh diện là thành viên sáng lập ra Liên Hiệp Quốc.

Chọn trường hợp Kampuchea láng giềng để phân tích cái khôn của Hun Sen và cái dại của đảng CSVN. Kampuchea ngày nay thừa hưởng gia tài chính trị hai mặt (Flip-flop politics) của Norodom Sihanouk để lại, nên cũng đã chọn cách bỏ phiếu hai mặt. Sihanouk đi với bất cứ ai kể cả tên diệt chủng Pol Pot, miễn là giữ được chiếc ngai vàng.

Hun Sen chọn bỏ phiếu ủng hộ Ukraine “đòi Nga rút ngay lập tức, hoàn toàn và vô điều kiện tất cả các lực lượng quân sự của mình khỏi lãnh thổ Ukraine trong các biên giới được quốc tế công nhận” trong nghị quyết quan trọng của Đại Hội Đồng LHQ ngày 2-3-2022 nhưng chọn bỏ phiếu trắng trong nghị quyết ít quan trọng hơn, loại Nga ra khỏi Hội Đồng Nhân Quyền LHQ ngày 7-4-2022.

Với chọn lựa khôn khéo này, Hun Sen muốn nói lớn cho Mỹ nghe rằng (1) Kampuchea không tham khảo Tập Cận Bình trước khi bỏ phiếu, (2) Kampuchea chưa quên vai trò chính yếu của Mỹ trong công cuộc phục hồi Kampuchea sau thời kỳ Pol Pot diệt chủng, (3) Kampuchea nhận thấy vai trò mới của Mỹ trong bàn cờ chính trị thế giới, nhất là Á châu và muốn có một sự cân đối trong mặt trận ngoại giao trong thời gian tới.

Chính phủ Mỹ chắc chắn đã lưu ý quan điểm đối ngoại của Kampuchea nổi bật trong khối các nước Đông Nam Á. Sau cuộc bầu phiếu, hai tòa đại sứ Pháp và Mỹ công bố lời cám ơn lãnh đạo Kampuchea đã có lập trường cứng rắn chống lại hành động xâm lược Ukraine của Nga.

Không có thù vặt trong chính trị. Quan hệ giữa hai quốc gia không chỉ đặt cơ sở trên quyền lợi chung mà còn trên quan điểm của mỗi quốc gia trước một vấn đề chung.

Cùng một mối quan tâm, chính sách đối ngoại của Ấn Độ vừa qua đã làm ba quốc gia còn lại lo lắng cho tương lai của Đối Thoại An Ninh Bốn Bên (Quadrilateral Security Dialogue, QUAD) và sẽ ảnh hưởng đến quan hệ Mỹ – Ấn sau này.

Điều này thể hiện ngay trong tổng kết phiên họp của QUAD ngày 3-3-2022 vừa qua. Phiên họp diễn ra khá nhạt nhẽo so với hai phiên họp năm 2020 đầy phấn khởi với hàng loạt mục tiêu từ Covid-19 đến tự do và an ninh hải hành. Lần này, mặc dù phiên họp ở cấp nguyên thủ quốc gia không có một chương trình nào cụ thể ngoài việc cứu trợ nhân đạo cho Ukraine. QUAD được thành lập với ý định bao vây TC nhưng với chính sách hàng hai của Ấn Độ, với ngân sách dành cho quốc phòng chỉ 1% GDP (47 tỷ dollar) của Nhật Bản và quốc gia nhỏ (21 triệu dân) như Úc còn khá lâu mới dựng nổi một hàng rào ở Ấn Độ – Thái Bình Dương.

Đây không phải lần đầu. Sự lo ngại của Mỹ trước chính sách đối ngoại tả khuynh của Ấn phản ảnh trong thái độ của Mỹ trước xung đột giữa Ấn và Trung Cộng năm 1967 cũng như giữa Ấn và Pakistan năm 1971. Năm 1967, Mỹ đứng ngoài và trong xung đột năm 1971 Mỹ ủng hộ Pakistan. Sau sự sụp đổ của Liên Xô, các nhà làm chính sách đối ngoại Mỹ muốn lôi kéo Ấn, một nước dân chủ, về phe tự do trong cuộc đấu tranh lâu dài nhằm cô lập TC. Đây là lối đi đúng nhưng đường còn dài.

Để biện minh cho chính sách đối ngoại rập khuôn TC, các lãnh đạo CSVN biện hộ rằng, cách bỏ phiếu của họ là biểu hiện thái độ trung lập trong xung đột Nga-Ukraine.

Trung lập là gì? Trích từ các văn bản của LHQ: “Tính trung lập – được định nghĩa là tình trạng pháp lý phát sinh từ việc một quốc gia không tham gia vào một cuộc chiến giữa các quốc gia khác”. Cũng theo tuyên bố của LHQ về tính trung lập: “Trước tình hình căng thẳng chính trị và khủng hoảng leo thang, điều hết sức quan trọng là phải giữ vững các nguyên tắc chủ quyền và bình đẳng của các quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ, quyền tự quyết, không can thiệp vào công việc nội bộ của bất kỳ quốc gia nào cũng như bảo vệ, thúc đẩy, khuyến khích giải quyết các tranh chấp quốc tế bằng các biện pháp hòa bình sao cho hòa bình và an ninh quốc tế không bị đe dọa”. (United Nations, International Day of Neutrality, 12 December).

Nhưng trung lập không có nghĩa chỉ tuyên bố “tôi đứng ngoài” là xong, mà còn phải được các cường quốc nằm trong quỹ đạo xung đột công nhận.

Khi Đệ nhị Thế Chiến vừa bùng nổ, hàng loạt quốc gia như Estonia, Ireland, Latvia, Lithuania, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Thụy Điển,Thụy Sỹ v.v… tuyên bố trung lập. Tuy nhiên, không phải quốc gia nào tuyên bố trung lập cũng tránh được tai họa chiến tranh. Hitler tấn công các nước “trung lập” Na Uy, Đan Mạch, Bỉ, Hòa Lan và Stalin, lúc đó là đồng minh của Hilter, thu gọn ba nước “trung lập” nhỏ vùng Baltics chỉ trong vài ngày.

Lịch sử các cuộc xung đột quân sự trong thế kỷ qua cho thấy, mục đích tối hậu của giới lãnh đạo một quốc gia khi tuyên bố trung lập là để bảo vệ sự “bình đẳng chủ quyền của các quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ, quyền tự quyết”.

Gần nửa thế kỷ từ ngày cưỡng chiếm miền Nam năm 1975, đảng CSVN bảo vệ được gì về chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ theo đúng định nghĩa trung lập của LHQ? Câu trả lời không chỉ là con số không mà là một số âm to lớn.

Không cần phải là một nhà nghiên cứu địa lý hay theo dõi chính trị hàng ngày, trong thời đại internet này, chỉ cần vào google gõ từng tên đảo Việt Nam như Gạc Ma, Đá Xu Bi, Đá Ga Ven, Đá Tư Nghĩa, Đá Chữ Thập, Đá Châu Viên, Đá Vành Khăn, sẽ thấy đó là những căn cứ quân sự TC hiện đại đầy đủ các phương tiện chiến tranh từ phi trường với nhiều phi cơ chiến đấu, trang bị hỏa tiễn tầm xa có thể đạt tới Hà Nội, Huế, Đà Nẵng, Sài Gòn trong một vài chục giây.

Những địa danh Vành Khăn, Tư Nghĩa, Gạc Ma v.v… chỉ còn trong các diễn văn, nghị quyết. Những quần đảo Việt Nam được nhắc tới trong thơ, trong nhạc đang còn sờ sờ trước mặt mà nghe xa xôi như từ thời Bắc thuộc vọng về.

“Trung lập” của CSVN đặt nền tảng trong chính sách gọi là “bốn không” được xác định trong Sách trắng Quốc phòng Việt Nam 2019: “Việt Nam chủ trương không tham gia liên minh quân sự; không liên kết với nước này để chống nước kia; không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự hoặc sử dụng lãnh thổ Việt Nam để chống lại nước khác; không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế”. (Sách trắng Quốc phòng Việt Nam 2019)

Trung Cộng muốn gì ở CSVN? Một điều mà những ai theo dõi quan hệ giữa CSVN và TC đều biết TC muốn CSVN (1) hoàn toàn lệ thuộc vào Trung Cộng về chế độ chính trị và (2) không được tách rời khỏi chiến lược an ninh châu Á của Trung Cộng.

Cách hành xử của các lãnh đạo đảng CSVN cho thấy họ đang nghiêm chỉnh thỏa mãn các yêu sách đó của TC bằng tài nguyên và xương máu của nhiều đời dân tộc Việt.

Tại sao cần phải “ba không” hay “bốn không”?

Hội nghị quốc tế nào, cường quốc nào chính thức tuyên bố chấp nhận nguyên tắc “bốn không” của CSVN?

Không một quốc gia nào trong số các quốc gia tranh chấp chủ quyền các đảo trên Biển Đông đưa ra những nguyên tắc đối ngoại một chiều và bị động như CSVN.

Sau đây là nguyên tắc đối ngoại chỉ đạo của Cộng hòa Philippines, từng đưa TC ra tòa án quốc tế và thắng, được ghi trong Điều II Mục 7 của Hiến pháp Philippines năm 1987: “Cộng hòa Philippines theo đuổi một chính sách đối ngoại độc lập. Trong quan hệ với các quốc gia khác, điều quan hệ tối thượng sẽ là chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ, lợi ích quốc gia và quyền tự quyết”.

Khẳng định của Philippines rất linh động, uyển chuyển, rõ ràng và tổng quát thích hợp cho mọi hoàn cảnh, mọi đối tác với đồng minh và cả kẻ thù.

CSVN cũng có thể nói một cách công khai như vậy nhưng nếu nói như Philippines các lãnh đạo đảng lại lo TC hiểu sai lòng dạ của họ.

Chiến tranh là tai họa không tránh khỏi. Đại đa số nhân loại, nhất là dân tộc Việt Nam, không muốn chiến tranh nhưng ngày nào trái đất còn chia ra những biên giới, ngày đó nhân loại còn có chiến tranh.

Người viết hình dung Tập Cận Bình vừa dán lên tường trong phòng làm việc của ông ta lời dặn dò cho các thế hệ lãnh đạo TC tương lai rút ra từ cuộc chiến Nga xâm lược Ukraine: “Nếu phải trừng phạt Việt Nam lần nữa nhớ đừng đổ bộ mà hãy tận dụng tối đa mọi hỏa lực từ xa”.

Với kỹ thuật chiến tranh hiện có, TC thừa khả năng “trừng phạt CSVN” bằng hải lực và không lực từ Hải Nam, Hoàng Sa, các căn cứ quân sự trên đảo Chữ Thập, Xu Bi, Vành Khăn, từ hạm đội Nam Hải mà không cần phải đổ nửa triệu quân như 1979.

Nếu tình huống đó xảy ra, ai sẽ cứu Việt Nam? Trả lời theo lối bình dân là “chẳng có ma nào cứu”.

Lãnh đạo CSVN thường “nổ” cái gì cũng nhất. Đúng, một người không thể đứng thứ hai nếu chỉ chạy đua với chính mình, thi đua với chính mình, cạnh tranh với chính mình.

Về kinh tế, những quốc gia cựu CS thoát ra được và tự do phát triển, kể cả Mông Cổ, đều bỏ xa CSVN. GPD tính theo đầu người của Mông Cổ tăng gấp 10 lần kể từ cuộc bầu cử tự do chính thức 1993.

Nhưng những gì người dân Mông Cổ và các nước cựu CS có được, không chỉ là lợi tức kinh tế, tài chánh mà là quyền được bầu cử, ứng cử, tự do phát biểu, tự do đi lại, tự do tôn giáo, quyền biểu tình, quyền phê bình lãnh đạo mà không bị ai bắt bỏ tù và rất nhiều quyền khác mà người dân Việt Nam không có.

Giữa các cuộc chiến tranh, ngoài việc lo cải tiến và hiện đại hóa bộ máy quốc phòng, các nhà tư tưởng của mỗi quốc gia luôn cố gắng nghĩ ra một con đường đất nước sẽ phải đi qua, các thế hệ trẻ tập trung dùi mài kinh sử của nước mình và của thế giới để qua đó phát họa những chính sách dài hạn, ngắn hạn thích nghi cho đất nước.

Tư tưởng vô cùng quan trọng và phải đi trước. John Adams, tổng thống thứ hai của Mỹ viết thư cho Thomas Jefferson, tổng thống thứ ba của Mỹ ngày 24-8-1815 “Cuộc Cách mạng đã ở trong ý thức của người dân, và điều này đã có hiệu quả, từ năm 1760 đến năm 1775, trong vòng mười lăm năm trước khi một giọt máu đổ xuống tại Lexington“. (Exhibition, Creating the United States, The Library of Congress).

Những lời phát biểu của Phạm Minh Chính cho thấy, sau 47 năm, Việt Nam vẫn còn là một nước với những tư tưởng lỗi thời, già nua và lạc hậu đã được nhân loại xếp vào ngăn tủ. Bộ Lenin toàn tập cũ, bìa cứng, in năm 1974 được bán ở Mỹ với giá rất cao vì đó là sách xưa dành cho các nhà sưu tập, thế nhưng tại Việt Nam, chủ nghĩa Mác-Lê trên danh nghĩa vẫn còn là cây kim chỉ nam cho đất nước đi lùi.

Việt Nam sắp bắt các mạng xã hội gỡ nội dung không mong muốn trong vòng 24 giờ (VOA)

Việt Nam sắp bắt các mạng xã hội gỡ nội dung không mong muốn trong vòng 24 giờ

20/04/2022

Việt Nam là một trong những thị trường có lợi nhuận cao nhất của Facebook   

Việt Nam đang chuẩn bị đưa ra các quy định mới yêu cầu các công ty mạng xã hội gỡ bỏ nội dung mà họ cho là bất hợp pháp trong vòng 24 giờ, ba người nắm rõ về vấn đề này nói với Reuters với điều kiện ẩn danh.

Những quy định sửa đổi này sẽ càng củng cố Việt Nam thành một trong những chế độ khắt khe nhất thế giới đối với mạng xã hội và tăng cường sự kiểm soát của Đảng Cộng sản cầm quyền trong lúc chính quyền đàn áp các hoạt động ‘chống phá nhà nước’.

Khung thời gian 24 giờ để gỡ bỏ ‘nội dung và dịch vụ bất hợp pháp’ sẽ không có thời gian ân hạn, trong khi các ‘buổi phát trực tiếp bất hợp pháp’ phải bị chặn trong vòng ba giờ. Nếu không tuân thủ, các mạng xã hội có thể sẽ bị cấm ở Việt Nam.

Các công ty mạng xã hội cũng đã được thông báo rằng các nội dung có hại cho an ninh quốc gia phải được gỡ xuống ngay lập tức, theo các nguồn tin ẩn danh nói với Reuters.

Hiện tại, các nền tảng mạng xã hội thường có vài ngày để xử lý các yêu cầu từ chính phủ Việt Nam, các nguồn tin cho biết.

Các quy định sửa đổi này, vốn vẫn chưa được công bố, dự kiến sẽ được Thủ tướng Phạm Minh Chính ký vào tháng tới và có hiệu lực từ tháng Bảy.

Các nguồn tin nói chuyện với Reuters không muốn được nêu danh tính do sự nhạy cảm của vấn đề. Các Bộ Ngoại giao và Bộ Thông tin-Truyền thông Việt Nam đã không phản hồi yêu cầu bình luận của Reuters.

TikTok, do hãng ByteDance của Trung Quốc sở hữu, sẽ tiếp tục tuân thủ luật pháp hiện hành của chính quyền sở tại để đảm bảo TikTok vẫn là không gian an toàn cho thể hiện sáng tạo, đại diện TikTok tại Việt Nam Nguyễn Lâm Thanh nói với Reuters. Ông Thanh cho biết TikTok sẽ gỡ bỏ những nội dung vi phạm nguyên tắc của họ.

Việt Nam với dân số 98 triệu người nằm trong số 10 thị trường hàng đầu của Facebook với số lượng người dùng vào khoảng từ 60 đến 70 triệu, theo dữ liệu của công ty năm 2021.

Việt Nam đem đến doanh thu hàng năm khoảng 1 tỷ đô la cho Facebook. Thị trường này đem lại lợi nhuận cao hơn nhiều so với các thị trường châu Âu, theo các nguồn tin nắm rõ vấn đề.

YouTube có 60 triệu người dùng tại Việt Nam và TikTok có 20 triệu, theo ước tính của chính phủ năm 2021.

Nhưng thị trường Việt Nam đặt ra những vấn đề nan giải về đạo đức. Đảng Cộng sản Việt Nam gần như không cho phép chỉ trích và các tòa án ở nước này đã tuyên những án tù dài hạn đối với những nhà bất đồng chính kiến và các nhà hoạt động do những lời chỉ trích chính quyền của họ trên Facebook và YouTube.

Hồi năm 2020, Facebook đã đồng ý đẩy mạnh kiểm duyệt đáng kể các nội dung ‘chống nhà nước’ sau khi giới chức Việt Nam làm chậm lượng truy cập và đe dọa đóng cửa Facebook hoàn toàn, các đại diện Facebook từng nói với Reuters.

Facebook cho biết vào thời điểm đó họ đã ‘miễn cưỡng tuân thủ yêu cầu của chính phủ’ là ‘hạn chế truy cập vào các nội dung mà họ cho là bất hợp pháp’.

Những thay đổi quy định này xuất phát từ sự bất mãn của chính quyền Việt Nam với tỷ lệ gỡ bài hiện tại theo yêu cầu của chính quyền, các nguồn tin ẩn danh cho biết.

Theo dữ liệu từ Bộ Thông tin và Truyền thông, trong quý đầu tiên của năm 2022, Facebook đã tuân thủ 90% yêu cầu gỡ bài của chính phủ, Alphabet tuân thủ 93% và TikTok tuân thủ 73%.

Các nguồn tin cho biết ngoài loại bỏ các nội dung ‘bất hợp pháp’, Chính phủ Việt Nam còn muốn các mạng xã hội thay đổi thuật toán để hạn chế các nội dung gợi ý về tình dục, cờ bạc và buôn bán các loại thuốc và thuốc bổ không theo quy định.

Chính phủ cũng muốn gỡ tài khoản của những nhân vật nổi tiếng mà họ cho là đang sử dụng ảnh hưởng để bán hàng không phù hợp, nhục mạ người khác và thúc đẩy các hoạt động từ thiện giả mạo.

Các công ty mạng xã hội sẽ gặp khó trong việc tuân thủ quy định gỡ bài trong vòng 24 giờ, các nguồn tin cho biết thêm.

Họ nói rằng trong khi những vi phạm rõ ràng về nguyên tắc của riêng họ về mô tả bạo lực cực đoan có thể được xử lý rất nhanh, các yêu cầu khác mất nhiều thời gian hơn để đánh giá và việc tìm kiếm nhân viên đủ năng lực là một thách thức.

Sài Gòn Một Thời Để Yêu Và Một Đời Để Nhớ (Phần 2)

Sài Gòn Một Thời Để Yêu Và Một Đời Để Nhớ (Phần 2)

Tác giả Lê Phương Lan,

 

Tôi yêu nhất bài “Dòng An Giang” với điệu valse dìu dặt như sóng nước.

Thủ đô của miền Nam tự do thuở ấy đã được ngợi ca rằng “Sài Gòn đẹp lắm Sài gòn ơi! Sài Gòn ơi!”; bên cạnh đó còn có bài “Đường Về Sài Thành”. Và trong bài “Ghé Bến Sài Gòn” nhạc sĩ Văn Phụng đã ân cần mời gọi:

“Cùng nhau đi tới Sài Gòn, thủ đô yêu dấu nước Nam tự do…

Người ơi! Sài Gòn chốn đây là ‘ngọc viễn đông’ vốn đã lừng danh!”

Và giòng nhạc trữ tình thời bấy giờ đã ghi nhận các tài năng lớn với những cung bậc du dương trong lời nhạc thanh tao như Vũ Thành, Dương Thiệu Tước, Cung Tiến, Hoàng Trọng, Nguyễn Hiền, Văn Phụng, Phạm Đình Chương. Vườn hoa âm nhạc càng nở rộ trong mảnh đất trù phú để rồi tiếp theo sau này với vô số tên tuổi như Lam Phương, Anh Bằng, Lê Dinh, Trúc Phương, Hoàng Nguyên, Phạm Trọng Cầu, Lê Trọng Nguyễn, Thu Hồ, Hồ Đình Phương, Lan Đài, Hoàng thi Thơ, Tuấn Khanh, Châu Kỳ, Hoài Linh, Minh Kỳ, Mạnh Phát, Lê Dinh, Nhật Bằng, Nhật Ngân, Thanh Sơn, Song Ngọc, Y Vân … làm nên một di sản “nhạc vàng” bất tử mặc cho “bên thắng cuộc” với lòng hẹp hòi, thiển cận đã và đang ra sức cấm cản, chôn vùi.

Về nhạc sĩ Pham Duy, ông đã may mắn chạy vào được miền Nam để xây dựng cho các con ông cũng được vinh hoa trong lãnh vực ca hát. Bản thân ông được tự do sáng tác những tác phẩm lớn được người dân miền Nam yêu thích. Ông đã tránh được số phận nghiệt ngã của các thi sĩ như Hoàng Cầm, Hữu Loan, Phùng Quán, Trần Dần đã uất hận:

“Bút tôi ai cướp mất rồi!

Tôi sẽ dùng dao khắc văn trên đá”;

số phận của nhạc sĩ tài hoa Văn Cao suốt ngày thơ thẩn ngoài đường! Nhưng nếu như ánh đèn đã lôi cuốn những con thiêu thân thế nào thì danh lợi là một thử thách dường như không thể cưỡng lại được đã đốt cháy tiết tháo nhiều người nghệ sĩ đã một thời được ái mộ. May ra chỉ còn lại hai danh ca Thanh Thúy và Hoàng Oanh.

Song song với giai đoạn nở rộ của nền tân nhạc phong phú, đó cũng là thời hoàng kim của nền điện ảnh, kịch nghệ, sân khấu cải lương, một đặc trưng của Sài Gòn hoa lệ với các đoàn hát lớn như Kim Chung, Kim Chưởng, Thanh Minh Thanh Nga, Dạ Lý Hương, Hương Mùa Thu vang bóng một thời. Tự do trong sáng tác đã khiến người nghệ sĩ thoải mái diễn đạt trọn vẹn cảm xúc của mình qua những tác phẩm qua bao năm tháng vẫn còn lưu trữ trong ký ức của người thưởng thức. Thanh bình, no ấm khiến người dân yên lòng trong sinh kế nên đã thoải mái tham dự các sinh hoạt văn nghệ, giải trí.

Trong lãnh vực nghệ thuật tôi yêu hình ảnh thanh tú của danh cầm Phùng Phúc Trân với mái tóc dài tha thướt, bàn tay dìu dặt, lả lướt trên cây violon mảnh mai trên vai đã làm say mê khán thính giả. Ngoài ra, tôi còn ngưỡng mộ các bức tranh đôi khi chỉ tưởng như những nét vẽ phác họa thể hiện bút pháp rất độc đáo của nữ họa sĩ Bé Ký cũng được giới thưởng ngoạn rất yêu thích. Trong sinh hoạt thể thao, các danh thủ bóng bàn như Lê Văn Tiết, Nguyễn Văn Inh, Mai Văn Hòa đã làm rạng danh Việt Nam Cộng Hòa tại Nhật.

Nhưng vàng son nhất là nền túc cầu. Đội banh Việt Nam Cộng Hòa đã chiến thắng Do thái 2-0 trong khuôn khổ vòng loại Olympic 1964. Cũng trong vòng loại thế Vận Hội 1968, đội banh VNCH đã hạ Phillipines 10-0. Vẻ vang nhất là thành tích vô địch giải Merdeka 1966 tại Mã Lai với 12 nước Á châu tham dự đem vinh dự cho đội banh VNCH với các danh thủ: Tam Lang, Nguyễn Văn Rạng, Đỗ Thới Vinh, Lâm Hồng Châu …

Thế hệ cha anh chúng tôi với nhiệt tâm lo cho thế hệ đi sau đã xây dựng tại miền Nam một nền giáo dục tiến bộ, rất nhân bản. Vào lớp học, ngay trên tấm bảng đen trước mặt các học sinh chúng tôi là hàng chữ: “Tiên học lễ, hậu học văn”. Các sách Quốc Văn Giáo Khoa Thư, Luân Lý Giáo Khoa Thư đã dạy chúng tôi những bài luân lý căn bản làm nền tảng đạo đức của con người với “nhân, nghĩa, lễ, trí, tín”.

Sách Công Dân Giáo Dục dạy chúng tôi sống với lương tâm và nghĩa vụ xây dựng đất nước của một người công dân. Những lời ca dao thể hiện tình yêu lứa đôi, tình yêu quê hương mộc mạc, nhưng chân thành, tha thiết. Các câu tục ngữ ngắn gọn, những câu châm ngôn, các sách học làm người đều dạy chúng tôi sống lương thiện “Đói cho sạch, rách cho thơm”.

Những câu chuyện ngụ ngôn của Lafontaine được cụ Nguyễn Văn Vĩnh chuyển dịch lời Việt rất dễ nhớ, dễ thuộc là những bài học xử thế rất thiết thực. Bên cạnh đó là cả một dòng văn học tuổi thơ trong sáng của các tờ báo như tờ Tuổi Hoa với sự cộng tác của nhà văn Quyên Di, thày giáo Hoàng Đăng Cấp, Họa sĩ Vivi. Tạ ơn các thày cô giáo đáng kính trọng. Cám ơn nền giáo dục đã giúp chúng tôi không đánh mất nhân cách khi bị chính quyền cộng sản sau khi chiếm miền Nam quyết dồn chúng tôi vào “tử lộ”. Chính nhờ nền giáo dục này trong đau thương nét sáng ngời của viên ngọc tình người càng tỏa sáng.

Sau ngày mất nước, gia đình chúng tôi sống trong sự giúp đỡ, che chở của bà con hàng xóm con hẻm 54 đường Thánh Mẫu, Chí Hòa. Cũng thế, trong lớp 9 tôi làm giáo viên chủ nhiệm tại trung học Đắc Lộ, các em nam sinh (Hạnh, Bình, Sơn) đã tự động đến giúp đóng lại trần nhà và mái tôn đã bị hư hại. Em Hoa sau mỗi buổi học phải đẩy xe xê ri đi bán rong đã đem đến cho tôi chén cơm với nửa trái trứng vịt kho mặn. Hai chị em Kim Anh, Kim Nhật và Nhung đã đến giúp tôi cán bột mì làm bánh quai vạc để đi tiếp tế.

Nhưng như một định mệnh! Thời thái bình thịnh trị của miền Nam đã không còn khi thành phố Sài gòn nhiễu loạn với các cuộc xuống đường đã bị Việt cộng trà trộn, kích động; khi người Mỹ đã đạo diễn cho các tướng lãnh phản bội lật đổ nền Đệ I Cộng Hòa! Và nền Đệ II Cộng Hòa ra đời sau các cuộc đảo chánh, chỉnh lý! Nhiều khuôn mặt chính khách, tướng tá thay phiên xuất hiện trên sân khấu chính trị!

Hết Nguyễn Khánh “râu dê” lại đến Nguyễn Cao Kỳ “râu kẽm”. Miền Nam trong sáng giờ đã bị khuấy động để trở thành vũng nước đục cho các tay gián điệp cộng sản nằm vùng thả câu! Cũng may là vẫn còn các tướng sạch “Nhất Thắng, nhì Chinh, tam Thanh, tứ Trưởng” và biết bao chiến sĩ VNCH trong các quân binh chủng, các chiến sĩ Cảnh Sát Quốc Gia đã chiến đấu can trường trên mọi mặt trận, chống cự cho đến ngày đồng minh đã thực sự rời bỏ chúng ta!

Sau cái chết của hai anh em tổng thống Diệm, từ 1963 trở về sau chiến tranh đã bước vào thành phố. Máu đã đổ do đặc công Việt cộng đặt chất nổ tại nhà hàng Mỹ Cảnh, khách sạn Caravel, tòa đại sứ Mỹ; do các đạn pháo kích bừa bãi từ “dàn phóng” đôi lúc chỉ là các thanh tre gác vào nhau từ vùng ven đô gây bao cảnh tang tóc cho những người dân vô tội, khiến nhiều gia đình lo sợ phải xây hầm trú ẩn bằng bao cát. Việt Cộng còn ra tay ám sát nhà báo Từ Chung và giáo sư Nguyễn Văn Bông! Trong giai đoạn nhiễu nhương ấy bố tôi quyết định về hưu sớm để bước ra khỏi những tranh dành chức tước, quyền lực. Ông dùng tâm trí để làm việc với cơ quan JUSPAO (Joint United States Public Affairs Office) một cơ quan thuộc nghành thông tin của chính phủ Mỹ tại Sài gòn.

Khi đó gia đình tôi từ cư xá Sĩ Quan Chí Hòa đã dọn đến một căn nhà mái tôn nhỏ ở khu rừng cao su cũ đường Nguyễn Văn Thoại. Anh em chúng tôi có một căn gác chật hẹp mà chỉ đến buổi chiều mới leo lên chống cánh cửa sổ lên cho thoáng mát để có thể ngồi học bài và đi ngủ được. Từ đấy tôi đã biết yêu những cơn mưa về đêm vừa xóa tan cái nóng bức, vừa dạo nhạc nền đi vào giấc ngủ.

Khi tôi còn theo học tại trường trung học Đắc Lộ ở ngã tư Bảy Hiền thì buổi sáng thường là đi bộ mất khoảng nửa tiếng để đến trường. Khi ra về leo lên các xe Lam ba bánh. Nhưng sau đó tôi cũng vẫn phải lội bộ khá xa từ ngã ba Ông Tạ để về đến nhà. Tôi còn cách khác để về là vẫy loại xe đò nhỏ mang tên Cửu Hiệp chạy tuyến đường Hóc Môn- Chợ Lớn qua đường Nguyễn Văn Thoại dẫn vào con hẻm gần nhà tôi hơn. Một hôm xe chật ních bạn hàng với quang gánh treo đầy hai bên cửa xe, thúng mủng trái cây chất đầy trên mui. Tôi “hiên ngang” một tay bám chặt song sắt ở cửa xe, tay kia nắm cặp táp và nón lá, tà áo dài trắng tung bay phất phới! Về nhà kể lại bị mẹ mắng cho một trận và bị cấm không cho tái diễn màn “Tarzan đu dây” ấy nữa!

Hai năm cuối của bậc trung học thì tôi đã có chiếc xe đạp Peugoet nhỏ xinh để đi học tại trung học Nguyễn Bá Tòng. Cho đến khi lên đại học thì tôi đã có được chiếc Honda PC mảnh mai để di chuyển. Hình ảnh các nữ sinh yêu kiều và người phụ nữ tại Sài gòn và trên khắp các thành phố của miền Nam tự do đã làm chất liệu cho biết bao thi văn, ca nhạc tiêu biểu như

“Áo Lụa Hà Đông,

Phượng Hồng,

Ngày Xưa Hoàng Thị,

Giáng Ngọc,

Cô Nữ Sinh Đồng Khánh,

Tà Áo Tím,

Tiếng Hát Học Trò,

Tà Áo Trinh Nguyên,

Tà áo Đêm Nô En,

Trưng Vương

Khung Trời Mùa Thu…”

Tuy đời sống gia đình có chật vật khó khăn nhưng vẫn là chuỗi ngày vui vẻ, hạnh phúc. Sau bữa cơm chiều, cả nhà quây quần quanh chiếc TV trắng đen 17inches mà bố tôi đã nhờ người bạn Mỹ mua ở trong PX để nghe nữ xướng ngôn viên thanh lịch Mai Liên đọc tin tức, thưởng thức các chương trình tân nhạc, cải lương, thoại kịch.

Mẹ tôi lại thích giọng nói rất rõ ràng, đanh thép của cô Hồng Quế, xướng ngôn viên của chương trình Xây dựng Nông Thôn. Tối đến mở radio nghe Dạ Lan “thỏ thẻ” với các anh chiến sĩ VNCH.

Khi chiến tranh leo thang và người Mỹ quân nhân cũng như dân sự xuất hiện đông hơn thì bộ mặt thành phố đã có nhiều thay đổi. Dưới thời Đệ Nhất Cộng Hòa với chủ trương bảo vệ thuần phong mỹ tục, ngăn chặn các tệ nạn xã hội “tứ đổ tường” (cờ bạc, rượu chè, hút sách, trai gái), tổng thống Ngô Đình Diệm trước tiên đã dẹp sòng bạc Đại Thế Giới tại Chợ Lớn cũng như giới hạn việc mở các vũ trường.

Tuy nhiên, sau khi ông Diệm mất thì cường độ chiến tranh gia tăng trên các mặt trận đã tỷ lệ thuận với dòng người đổ về thủ đô sinh sống và với những sinh hoạt về đêm. Dù lệnh giới nghiêm đã được ban hành, những phòng trà ca nhạc, hộp đêm, vũ trường đã thi nhau xuất hiện. Đó là thời kỳ huy hoàng nhất của nền tân nhạc Việt Nam với sự nở rộ của các ban nhạc trẻ và các ca sĩ trên truyền thanh, truyền hình, dĩa nhạc, phòng trà. Tôi yêu giọng ca cao vút, trong trẻo của Kim Tước, Mai Hương, Quỳnh Giao; giọng “mũi” mang chút ngậm ngùi của Lệ Thanh; giọng ca liêu trai của Thanh Thúy; giọng ca mềm mại, luyến láy nhẹ như hơi thở của Hà Thanh; giọng tròn trịa trong từng nốt nhạc cũng như lời ca của Hoàng Oanh; giọng cao, ấm, vang vọng của Lệ Thu; và giọng trầm ấm, sang trọng của Duy Trác.

Thời gian đó cũng là giai đoạn ghi dấu ấn đậm nét nhất trong cuộc đời tôi với Sài Gòn. Trong độ tuổi mơ mộng nhất tâm hồn tôi đã ngập tràn những cung bậc và ca từ rất mới, rất diễm lệ, đầy cảm xúc rung động của Phạm Mạnh Cương, Nguyễn Ánh 9, Vũ Đức Nghiêm, Từ Công Phụng, Ngô Thụy Miên, Vũ Thành An, Trường Sa, Trịnh Công Sơn (với người nhạc sĩ này hầu hết nhạc của ông tôi rất yêu thích, nhưng có bất công hay không khi những người trai đất nước đang hy sinh trong lửa đạn để cho ông được yên thân viết lên những bài hát phản chiến tiếp tay làm suy sụp chế độ của miền Nam tự do?)

Trong các loại nhạc thì những bài ca về người lính VNCH mới thực sự là loại nhạc thời trang thời bấy giờ. Tôi cũng đâu tránh khỏi những ảnh hưởng của những bài hát quá lãng mạng ấy khi đường phố Sài Gòn dập dìu những tà áo tung bay bên cạnh các bộ quân phục oai hùng! Và thế là trong tập nhạc của tôi đầy ắp những bài hát của các tác giả Trúc Phương, Anh Thy, Nguyễn Văn Đông. Nhưng nhiều nhất và gây ảnh hưởng sâu đậm nhất chính là nhạc của Trần Thiện Thanh. Một cựu quân nhân sống tại Hoa Kỳ đã viết rằng: “Dân nhà binh chúng ta phải biết cám ơn Nhật Trường vì nhờ ông mà chúng ta mới lấy được vợ!”

Thật vậy! Qua thi văn, ca nhạc, đời lính đầy gian khổ, hiểm nguy, bất trắc nên càng dễ thương cảm, mến phục! Tình yêu với lính vì mong manh, ly biệt nên lại càng lãng mạn! Người lính với nét ngang tàng, “phong sương” trong bộ áo trận đã khiến người đẹp trai thì xem ra đẹp trai hơn, người trung bình hay xấu trai cũng trở nên “dễ coi” hơn!

Trong khung trời hoa mộng đó “người ấy” đến với tôi trong những ngày lửa khói Tết Mậu Thân. Trông chàng cũng khá “phong sương” với nước da ngăm đen trong bộ đồ rằn ri Cảnh Sát Dã Chiến. Qua nét ngang bướng, tôi tìm thấy nơi anh lòng cương trực và chân tình! Tôi bị chú ý vì cách làm quen lạ đời! Những ngày mới biết nhau chàng rủ tôi đi xem người chết được đưa về nhà xác nghĩa địa Chí Hòa! Điểm hẹn đầu tiên là “kinh nước đen” của trại chăn nuôi gần ngã tư Bảy Hiền! Sau kỳ nghỉ phép kéo dài lâu hơn do chiến sự Tết Mậu Thân chàng phải trở lại trung tâm huấn luyện CSDC Đà Lạt. Thế là tính văn chương thi phú trong tôi được dịp trổ tài qua những tờ thư peulure qua lại. Rồi tình yêu đã đi nhẹ vào đời!

Một năm sau chàng được đổi trở về Sài Gòn. Lúc đầu chiếc xe PC của tôi được chàng dùng để đi làm, để đưa đón tôi đi học và đi chơi. Sau đó chiếc Lambretta đỏ trắng được thay thế cho đến khi chàng đã có xe Jeep riêng để đi làm. Tôi yêu thích cảm giác nồng nàn, ấm áp khi ngồi vững vàng trên yên xe Lambretta. Một tay cầm tà áo dài, tay kia là vòng ôm rất êm ái!

Chúng tôi cũng có những con đường kỷ niệm: đường Cường Để chạy ngang qua Đại Học Văn Khoa của tôi cuối đường là tu viện cổ kính, thanh tịnh của các nữ tu dòng kín mà tôi thường ghé vào để cầu nguyện. Nhưng “con đường tình ta đi” được tôi chọn là đường Tú Xương. Con đường ngắn thôi nhưng rất yên tĩnh, sạch đẹp với hai hàng cây dài bóng mát. Trong những buổi hẹn hò hai đứa thường chở nhau vòng vòng quanh thành phố. Thỉnh thoảng ghé vào thưởng thức những món ăn hợp túi tiền lúc bấy giờ: nghêu, ốc hấp ở vỉa hè Nguyễn Tri Phương, xe bò viên Cao Thắng và vài lần tại quán bò bẩy món Ánh Hồng đường Nguyễn Minh Chiếu.

Chúng tôi chọn ngày đầu năm 1971 để làm đám cưới nên ngoài bạn bè, họ hàng hai bên nhà thờ còn chật ních giáo dân tham dự thánh lễ đầu năm trong tiếng chuông rộn rã của nhà thờ “Ba Chuông” ngã tư Huỳnh Quang Tiên, Trương Minh Ký. Chúng tôi đã cùng “dắt dìu về căn nhà mới” tại đường Võ Tánh, gần phi trường Tân sơn Nhất.” Căn nhà màu tím” do hai đứa ngẫu nhiên pha màu và sơn “phết”. Chiến cuộc ngày càng tăng không cho chúng tôi có những giây phút hạnh phúc trọn vẹn. Anh thường xuyên vắng nhà do các cuộc hành quân ven đô và những cuộc biểu tình trong thành phố.

30 tháng 4, 1975!

Sài gòn thất thủ! Mẹ tôi bị mảnh đạn pháo kích khi Việt cộng bắn vào phi trường Tân Sơn Nhất làm mất hẳn chân phải! Bố tôi, chồng tôi, anh tôi lần lượt đi tù. Các cột trụ chính trong gia đình đã bị đốn ngã! Chị em tôi ngơ ngác, thất thần như hàng triệu người dân Sài Gòn lúc bấy giờ. Chồng tôi bị bắt trước khi có lệnh tập trung cải tạo. Tôi đạp xe đi tìm tin tức chồng trong thành phố để mưa lệ trong lòng tuôn theo lời thơ của Trần Dần:

“Tôi đi không thấy phố, không thấy nhà!

Chỉ thấy mưa sa trên nền cờ đỏ!”.

Không lâu sau tôi chỉ được nhìn thấy anh qua làn nước mắt sau hàng rào kẽm gai tại chi cuộc cảnh sát quận 10. Rồi ba năm sau mới được tin anh bị giam tại khám Chí Hòa. Nhưng từ đó trở về sau những lần thăm gặp trong bảy năm ở Chí Hòa cộng với sáu năm tại trại kiên giam trừng giới A20 Xuân Phước, những hiểm nguy, cực nhọc cũng như nỗi uất hận không được thăm gặp tôi phải nuốt nước mắt vào trong để chỉ khóc một mình trên đường về, hay trong những đêm dài đơn lẻ sau một ngày chống chọi với cuộc sống khắc nghiệt!

“Thần giao cách cảm” đã làm tôi thấm nỗi xót xa của thân phận người trai trẻ mà những đọa đày thân xác cũng đau đớn như nỗi bất lực trước cảnh khổ của những người thân yêu. Nỗi đau đã được thi sĩ Yên Ba diễn tả thật não lòng:

Dìu nhau vượt suối ưu phiền.

Anh non tay chống cho thuyền em chao.

Thương thì thôi! Xót xa nhau!

Cho nhau trọn kiếp, kiếp sau anh đền!”

Vì thế, qua những lá thư nồng nàn gửi cho chồng mà chắc chắn đã bị đọc trước, tôi muốn chứng tỏ cho họ hiểu rằng không gì có thể tiêu diệt nổi tình cảm thiêng liêng của con người!

30 tháng 4, 1975!

Ngày đại họa của dân tộc Việt Nam! Dân tộc chúng ta thật bất hạnh đã không có được cái bắt tay như hai tướng Grant và tướng Lee của dân tộc Hoa Kỳ sau cuộc chiến tranh Nam Bắc! Với người cộng sản Việt Nam thì những ai không chấp nhận hay không còn con tim và khối óc để tin theo chủ nghĩa cộng sản phi lý, phi nhân thì đều bị xem là “những thế lực thù địch”! Chủ nghĩa cộng sản vô thần là phi lý vì việc xây dựng con người “đạo đức xã hội chủ nghĩa”chỉ là lường gạt, hoang tưởng.

Thay vào đó nó chỉ tạo nên một tầng lớp thống trị kết thành một đảng cướp gian manh ăn chơi xa xỉ với những của nổi trong nước; của chìm đã được con cháu, người thân tín đem ra “thả neo” tại ngoại quốc. Để khi quốc biến thì nỗi thống khổ để lại cho người dân lành.

Chủ nghĩa này phi nhân vì nó phản bội lại truyền thống đạo đức của dân tộc. Người Việt chúng ta luôn tin tưởng vào thần thánh, luôn tin rằng sống sao có đức có nhân vì “hoàng thiên hữu nhãn”. Ngay cả các bậc những anh hùng liệt nữ cũng được tôn thờ:

“Chết như Hưng Đạo hồn thành thánh.

Chết tựa Trưng Vương phách hóa thần”.

Với chủ thuyết vô thần con người không còn e ngại làm những chuyện táng tận lương tâm, dễ sống đến tận cùng của sự sa đọa! Có đau lòng không khi thành tích của Việt Nam bây giờ là nước đứng đầu về mức tiêu thụ bia rượu và tỷ lệ thanh nữ, phụ nữ phá thai tại Đông Nam Á.

“Hòn ngọc Viễn Đông” ngày nào giờ đây là khoảng không gian đặc quánh bụi bậm & khí thải. Chỉ một cơn mưa nhỏ đã trở thành “hồ chứa mưa” hôi hám! Lương tâm đâu rồi khi đang xẩy ra cuộc “tàn sát tập thể” do ngộ độc thực phẩm?!

Trong bài “Rác Của Một Thời” tác giả đã cho rằng: “Sau 46 năm, chứng kiến sự bất toàn và bất nhất trong việc lãnh đạo đất nước, người dân Việt Nam nói chung đã kiên nhẫn chấp nhận những sai lầm của họ lúc ban đầu. Nhưng thật không có gì tàn nhẫn hơn khi lợi dụng sự khổ đau của con người Việt Nam đang vọng về một tương lai tốt đẹp hơn, rồi mị dân, dẫn dắt họ đi về những lý lẽ bao biện, những thói sống lạc lối với nền văn minh và luật pháp.”

Sự mất mát của nền văn hóa Đàng Trong dưới thời các chúa Nguyễn khai phá mở mang mảnh đất trù phú từ Thuận Hóa đến tận các đồng bằng sông Cửu Long. Một mạch sống văn hóa phong phú của miền Nam đã bị đứt đoạn, tàn phá. Sự tàn phá thành phố Sài gòn không phải chỉ trong phạm vi đất đai và môi trường sống mà xót xa nhất là trong lãnh vực văn hóa. Việt cộng khi vào đến Sài Gòn đã lấy khuôn mẫu từ đám Hồng Vệ Binh của họ Mao dùng đoàn thanh niên cộng sản trong chiến dịch thanh toán “văn hóa đồi trụy” đã đốt phá tiêu hủy trong hỗn loạn cả một di sản văn hóa của dân tộc!

Viết về Sài Gòn là một đề tài mênh mang trong đó mỗi người viết sẽ tìm thấy một góc quen thuộc của mình trong đó. Khi trân trọng quá khứ tôi muốn “ôn cố tri tân” để hướng về tương lai. Khi những điều thiện hảo của Sài Gòn xưa được nói lên, hy vọng những tàn phá do Việt cộng gây ra sẽ được đối chiếu.

Còn bao lâu nữa mới lấy lại được giang sơn gấm vóc? Còn bao lâu nữa để Việt Nam thoát khỏi nguy cơ đang trở thành một Tây Tạng thứ hai?

Dân chủ, dân quyền đã được nhiều quốc gia lựa chọn: dân chủ đã vực dậy nước Mỹ sau cuộc nội chiến; nước Do Thái sau cuộc tàn sát diệt chủng của Đức Quốc xã; nước Nhật tơi tả sau hai quả bom nguyên tử; nước Đức sau khi thống nhất Đông và Tây Đức. Nhìn chung quanh dân chủ đã đem lại phú cường cho Nam Hàn và Singapore. Gần đây nhất là Myamar.

Còn nhớ chăng câu lời nói của cụ Trần Văn Hương khi trao quyền tổng thống lại cho Dương Văn Minh: “Mình phải tự cứu mình trước khi bạn cứu mình, trước khi trời cứu mình!”

Tác giả Lê Phương Lan,

Sài Gòn Một Thời Để Yêu Và Một Đời Để Nhớ (Phần 1)

Van Pham

Sài Gòn Một Thời Để Yêu Và Một Đời Để Nhớ (Phần 1)

Tác giả Lê Phương Lan,

Chỉ còn 10 ngày nữa là đến thời điểm 46 năm cộng quân tấn chiếm miền Nam với mỹ từ “giải phóng”. Cái giải phóng đó đã không hề mang lại điều gì tốt đẹp hơn. Nhưng lại mang những điều tồi tệ, bỉ ổi cho đất nước, khiến mọi người hồi tưởng lại qúa khứ. Để mong ước một thời hoa mộng đầy ắp tình người thủa nào trở lại.

Thương tặng ace tù nhân lương tâm cùng thân nhân để thấy rằng người dân miền Nam VN cũng đã trải qua đọa đày từ chế độ để hàng triệu người đã không tiếc mạng sống mà từ bỏ chế độ bất nhân ngay sau cái ngày oan nghiệt 30-4…

***

Sài Gòn Một Thời Để Yêu Và Một Đời Để Nhớ

Chúng ta đang bước vào tháng 4 của năm 2021. Nghĩa là đã 47 năm chúng ta mất miền nam tự do và thành phố Sài Gòn. Mới đây tại Houston, Texas đã có nỗ lực của đoàn làm phim đài BBC dựng lại cảnh ra đi nát lòng của người Sài gòn vào những ngày thành phố trong cơn hấp hối. Riêng tôi với trí nhớ nhỏ nhoi của mình cố gắng viết lại những kỷ niệm thật đẹp đáng ghi nhớ nhất trong quãng đời sống với thành phố thân yêu của mình.

Tôi nói giọng Bắc, giọng Hà Nội trước 1954 của bố mẹ tôi. Vì thế nên năm đầu tiên đi học tại trường Tiểu Học “Hòa Bình” bên cạnh Vương Cung Thánh Đường, khi bị đám bạn chọc quê “Bắc kỳ ăn cá rô cây” tôi ức lắm, về nhà mách mẹ. Bà cho biết rằng tôi sinh ra tại Khánh Hội, Sài Gòn vì bố tôi trong quân đội nên sau đó bố mẹ tôi trở ra Hà Nội, đến 1954 cùng đồng bào miền Bắc di cư vào lại miền Nam. Thế là tôi yên tâm trả lời với lũ bạn!

Căn nhà nơi tôi sinh ra còn được ghi lại trong tấm hình mẹ tôi còn rất trẻ mặc áo dài lụa đang bế anh tôi, tóc bà kẹp cao hai bên và được búi lỏng thả nhẹ ngang lưng. Hai mẹ con đứng ngoài hiên nhà. Trên mặt đường có một chiếc xe thổ mộ đang đậu với chú xà ích cầm cây roi ngồi ở phía trước.

Tôi yêu Sài gòn, nơi tôi sinh ra. Nơi đã cho tôi sống thời thơ ấu của “tuổi thần tiên” như lời một bài hát của nhạc sĩ Phạm Duy. Tuổi thơ ấu đó chúng tôi được sống hồn nhiên trong tình thương chan hòa của bố mẹ; trong căn nhà khang trang ngay ngã tư đường Gia Long – Tự Do bên trong bộ chỉ huy Hiến Binh Quốc Gia.

Tại căn nhà này anh em chúng tôi có thể đứng trong lan can lầu để xem các cuộc diễn hành nhân ngày lễ Hai Bà Trưng và cũng là ngày Quốc Tế Phụ Nữ của nữ sinh các trường trung học Trưng Vương, Gia Long, Lê văn Duyệt. Hình ảnh hai nữ sinh mặc áo hoàng bào lộng lẫy của hai nữ vương Trưng Trắc, Trưng Nhị uy nghi ngồi trên mình voi vẫn còn đậm nét trong tâm trí tôi. Đoàn diễn hành khởi đầu từ dinh Gia Long, rẽ vào đường Tự Do rồi hướng thẳng về Tòa Đô Chánh. Cùng với kiệu voi, xe hoa và diễn hành.

Trong ngày lễ Hai Bà Trưng – học sinh được nghỉ học – còn có tổ chức các cuộc thi nữ công gia chánh và thi trẻ em khỏe đẹp. Cho đến bây giờ tôi vẫn còn thuộc lòng bài hát thúc dục người phụ nữ Việt gánh vác công việc xã hội:

“Lời sông núi bừng vang bốn phương trời,

dục chúng ta đường phụng sự quyết tiến.

Triệu Trưng xưa đẹp gương sáng muôn đời.

Giòng máu thiêng còn đượm nồng vạn trái tim …”

Tuổi thơ của chúng tôi đã được nuôi dưỡng bởi không khí trong lành, hiền hòa của Sài Gòn xưa khi đường phố vẫn còn thưa thớt xe cộ. Khi tại các ngã tư, các bùng binh còn những anh cảnh sát hiền khô trong bộ sắc phục trắng cầm những cây côn ngắn hay giơ tay với những thao tác nhịp nhàng để chỉ đường cho xe và người đi bộ.

Sài Gòn xưa còn có những phương tiện giao thông đã hoàn toàn “cuốn theo chiều gió”. Đó là các chiếc taxi con cóc sơn màu xanh dương trắng, các xe xích lô máy di chuyển với tiếng nổ phành phạch đinh tai, những cỗ xe thổ mộ có chú ngựa hai bên mắt đã bị che kín, vừa kéo cỗ xe chạy lóc cóc vừa “vô tư” xả “chất thải” ra mặt đường và còn chiếc xe Lambretta ba bánh phun khói ào ạt nữa!

Tôi yêu tiếng chuông trầm ấm, rộn ràng của nhà thờ Đức Bà. Những buổi tan lễ Chủ Nhật gia đình tôi cùng giòng người ra về trên con đường Tự Do với hàng cây dầu cao vút hai bên đường. Trong bộ nhớ của tôi còn mãi tấm ảnh kỷ niệm những ngày hạnh phúc xa xưa: bố mẹ tôi tươi trẻ, thanh lịch, anh tôi gọn gàng trong bộ short trắng, hai chị em tôi “đồng phục” trong bộ áo đầm lính thủy trên vỉa hè sạch đẹp của đường Tự Do phía sau là nhà thờ Đức Bà.

Sau buổi lễ, chúng tôi thường được cho ăn sáng với những ổ bánh mì thơm phức tại kiosque Bưu Điện hay được dắt vào con hẻm Casino đường Pasteur để thưởng thức những tô phở ngạt ngào hương vị. Đôi khi còn được ghé vào quán Givral với mái vòm cong kiều diễm, một trong những kiến trúc đẹp người Pháp đã xây dựng tại thủ đô của miền Nam tự do, để mua cho chúng tôi mấy cái crossant “sừng trâu” hay bánh patechaud đặc biệt hương vị Pháp.

Thời đó Tổng Thống Ngô Đình Diệm đã cho đổi tên các đường phố Sài Gòn chỉ giữ lại tên các danh nhân như Pasteur, Calmet, Alexandre Rhode nhưng trong một thời gian khá lâu người Sài Gòn vẫn quen với các kiểu nói “dạo phố Bonard, bát phố Catinat”. Thương xá Charner – thương xá Nguyễn Huệ – là cửa hàng sang trọng nhất thời bấy giờ.

Con đường Nguyễn Huệ những chiều lộng gió tỏa hương thơm từ những quán bán hoa. Thật đúng chất thơ trong “Mưa Sài Gòn, mưa Hà Nội”

“khi mưa xuống lạnh mình ướt,

chung nón dìu bước thơm phố phường”

của nhạc sĩ Phạm Đình Chương. Nỗi nhớ thương về thành phố Hà Nội – một thời nghe bố tôi kể lại là đã được mệnh danh là “Tiểu Paris”- của bố mẹ tôi dường như cũng đã hòa đồng vào vẻ đẹp của Sài gòn xưa.

Tôi được thừa hưởng lòng mộ đạo của mẹ và tình yêu thơ văn, ca nhạc của bố tôi. “Thuở ban đầu” của bố mẹ tôi tại ga Hàng Cỏ (Hà Nội) đã được ông ghi lại:

“Anh nhớ mãi buổi chiều êm ả ấy.

Anh và em cùng đứng đợi tàu qua.

Thoạt mới trông lòng đã kết muôn hoa.

Máu đang chảy trong tim như ngừng lại …”

Từ bé tôi đã được nghe những giọng ca “tiền bối” qua những đĩa hát 30 hay 45 tours như: Anh Ngọc, Minh Trang, Mộc Lan, Kim Tước, Châu Hà và ban hợp ca Thăng Long với Thái Thanh, Thái Hằng, Hoài Trung, Hoài Bắc với dòng nhạc tiền chiến. Âm nhạc miền nam đã theo tôi vào đời và ở lại với tôi mãi mãi. Và cứ thế tuổi trẻ của anh em chúng tôi lớn lên trong môi trường văn học nghệ thuật đầy nhân bản, khai phóng.

Bố tôi mua về rất nhiều sách vở, tạp chí. Đến nay tôi còn nhớ nội dung một vài bài văn trong tạp chí Văn Hóa Ngày Nay của Nhất Linh. Trong vô số những tạp chí tôi còn nhớ đã được đọc là các tờ Sáng Tạo, Phổ Thông và Thời Nay. Nhà văn, nhà thơ nổi tiếng tại miền Nam thì quá nhiều. Xin ghi vào đây những tên tuổi lớn trong trí nhớ của tôi như Mai Thảo, Doãn Quốc sĩ, Võ Phiến, Thanh Nam, Thanh Tâm Tuyền, Nguyễn Mạnh Côn, Vũ Khắc Khoan, Hoàng Hải Thủy, Duyên Anh, Nguyễn Thụy Long, Trần Dạ Từ, Nhật Tiến, Đinh Hùng, Vũ Hoàng Chương, Nguyên Sa, Bùi Giáng, Nguyễn Đình Toàn, Phan Nhật Nam, Hà Huyền Chi.

Các nhà văn nữ thì có Minh Đức Hoài Trinh, Nhã Ca, Trần thị Hoàng, Túy Hồng, Nguyễn thị Thụy Vũ và Lệ Khánh, nhà thơ của các nữ sinh trung học chúng tôi. Trong các bài biên khảo tôi lại rất ưa thích hai học giả miền Nam Hồ Hữu Tường với thuật ngữ “chẳng đặng đừng” và cụ Vương Hồng Sển với cách hành văn đặc biệt “nam kỳ” của một cụ già hóm hỉnh, tinh thông Hán học cũng như Tây học.

Cùng với “khẩu vị” này về sau tôi cũng thích đọc truyện của Bình Nguyên Lộc, Sơn Nam và Lê Xuyên. Thật ra tôi cũng rất mê giọng văn mượt mà của Mai Thảo. Nhưng có lẽ vì cái gốc “nam kỳ” vả lại gia đình tôi cũng đã có một thời gian sống tại vùng sông nước Mỹ Tho nên tôi hợp với chất giọng hồn nhiên, bộc trực, hào sảng của người miền Nam chăng?

Lúc bấy giờ gia đình chúng tôi cũng là độc giả trung thành của các tờ báo Tự Do, Ngôn Luận, Chính Luận, say mê theo dõi các truyện dài của nhà văn Hoàng Hải Thủy phóng tác nhiều tác phẩm lớn ngoại quốc mà Kiều Giang là một truyện phóng tác được ông yêu thích nhất.

Với nhiệt huyết xây dựng xã hội, bố tôi sau khi du học chuyên nghiệp ngành phạm pháp học tại Paris đã xuất bản ba quyển sách: “Phạm Tội Học Yếu Lược, Thiếu Nhi Phạm Tội, và Công Cuộc Chiến Đấu Chống Kẻ Bất Lương” đầy hoài bão! Rất tiếc vì qua cuộc đổi đời kinh hoàng chúng tôi đã không còn giữ được nữa!

Trong môi trường tự do và khung cảnh thanh bình thịnh trị của nền Đệ Nhất Cộng Hòa đã nở rộ những khúc hát rộn ràng diễn tả quê hương miền Nam tươi đẹp:

“Khúc Nhạc Đồng Quê,

Trăng Thanh Bình,

Nắng Đẹp Miền Nam,

Khúc Ca Ngày Mùa,

Lối Về xóm Nhỏ,

Tôi Yêu Quê Tôi,

Dựng Một Mùa Hoa,

Ta Vui Ca Vang,

Mộng Lành,

Mùa Hợp Tấu,

Bên Bờ Đại Dương,

Khúc Hát Ân Tình v..v..”. (còn tiếp)…

Diễn tiến Từ ngày Ngày 23 đến Ngày 27 tháng Tư năm 1975

– Diễn tiến Từ ngày Ngày 23 đến Ngày 27 tháng Tư năm 1975

 

Trong khi đó, 2 biến cố quân sự quan trọng xảy ra sát nách Saigon.

* Lê Duẩn đánh điện cho Lê Đức Thọ và Văn Tiến Dũng đang đặt bản doanh ở Lộc Ninh yêu cầu gia tăng các cuộc tấn công càng mạnh càng mau trên khắp các mặt trận. Mọi chậm trể có thể đưa đến những hậu quả quân sự và chính trị trầm trọng. Theo Olivier Todd thì Lê Duẩn sợ rằng nếu chiến trường kéo dài thì áp lực chính trị quốc tế có thể can thiệp để chia cắt đất đai như hồi 1954 trước hội nghị Genève. Tuân hành chỉ thị này, Văn Tiến Dũng ra lịnh cho tất cả các lực lượng từ chiến khu C, chiến khu D, Khu Tam giác Sắt ở miền Đông, và các lực lượng ở vùng đồng bằng Cửu Long và Cà Mau chuẩn bị tổng tấn công vào Saigon và các tỉnh. Để phân công, bộ phận chính trị do Lê đức Thọ và Phạm Hùng đóng ở Lộc Ninh, còn tướng Trần văn Trà và Văn tiến Dũng lập bộ tham mưu mặt trận ở Bến Cát, sát nách Saigon.

* Để chận bước tiến của CS, Bộ Tổng Tham Mưu xin Tân TT Trần Văn Hương cho phép thả 3 trái bom CBU-55 (giao cho VN ngày 16 tháng 4) tại các địa điểm mà các đơn vị cuối cùng của SĐ 18 BB đã rút ra khỏi Xuân Lộc đêm hôm trước. Đó là loại bom có sức công phá dữ dội nhất trong các loại vũ khí của Mỹ, khi còn cách mặt đất chừng 10m thì nổ tung ra hàng trăm trái bom nhỏ hút hết tất cả dưỡng khí, giết tất cả sinh vật trong một vùng có đường kính 250 thước (Todd); theo Darcourt thì đường kính rông đến 1km, ngay cả người dưới hầm sâu. Người chết không có vết thương (vì bom không có miểng) mà chết trong tư thế tự nhiên (như đang ngồi, nằm, đứng…). Ngoài ra, phi cơ Hoa Kỳ cũng thả 6 trái bom “Daisy cutters” (Viên, tr.202) là loại bom BLU-82 dùng để khai quang các bãi đáp trực thăng (nặng 15000 cân Anh tức độ 7 tấn rưỡi) và hỏa tiển “Wild Weasel” (Con chồn hoang) trong vùng chung quanh Xuân Lộc. Tòa Bạch Ốc và CIA tuyên bố không hề được Không Lực Hoa Kỳ thông báo sự can thiệp vũ bảo trong những ngày cuối cùng nầy của chiến tranh VN. Những tài liệu giải mật sẽ giải thích hư thực về chánh sách đôi khi khó hiểu của Hoa Kỳ. 

CS lập tức trả đủa ngay sau vài giờ bị bom CBU. Sân bay Biên Hoà bị pháo kích không sử dụng được nữa, phi cơ F5A phải “di tản” về Tân Sơn Nhứt, một số khác phải về sân bay Cần Thơ.

– Ngày 23 tháng tư: Thủ tướng Nguyễn Bá Cẩn xin từ chức. TT Hương yêu cầu ông Cẩn xử lý thường vụ cho đến khi có chính phủ mới.

– Ngày 24 tháng tư: Dương văn Minh họp báo: “Tổng Thống Trần Văn Hương đã mời tôi nhận chức Thủ Tướng. Tôi từ chối vì ở cương vị nầy, tôi không thể thương thuyết với phía bên kia bởi điều kiện của phe Cách mạng là Tổng Thống Hương phải ra đi…

Ông Minh muốn đốt giai đoạn và đại sứ Pháp đã hướng dẫn ông ta chơi một ván bài nguy hiểm dựa trên niềm tin rằng ông chưa bao giờ bị phe bên kia chỉ trích và Cộng Sản sẽ thương thuyết với ông trên căn bản Hiệp định Paris 1973.” (Darcourt, p. 142).

Trong ngày nầy, đại sứ Pháp Mérillon vào dinh Độc Lập hai lần khuyên ông Hương từ chức để trao quyền cho Dương Văn Minh. Ngoài ra, tướng Trần Văn Đôn, Tổng Trưởng Quốc Phòng trong nội các Nguyễn Bá Cẩn cũng tự xưng và tự nguyện đóng vai trò trong cuộc thương thuyết với phe bên kia bên cạnh tướng Dương Văn Minh.

Trong khi Mérillon tỏ vẻ lạc quan về giải pháp chánh phủ liên hiệp 3 bên: Cộng Sản, Mặt Trận và phe Lực lượng thứ ba do Dương văn Minh đại diện, thì các đảng phái, một số tướng lãnh họp ở khách sạn Palace không chấp nhận ông Minh vì cho rằng ông Minh không có sự sáng suốt chính trị trong 10 năm qua và là người thụ động, không đủ sức đương đầu với Cộng Sản. Luật sư Trần Văn Tuyên công khai chống đối Mérillon vì thái độ xấc láo và can thiệp quá đáng vào nội bộ VN: “Ông Mérillon đã dám ngạo mạn nói với tôi rằng TT Hương đã già yều bịnh hoạn phải đem vào bịnh viện để giải phẩu cho ông. Nếu ông vô bịnh viện thì bài toán sẽ được giải quyết. TT Trần Văn Hương rất phẫn uất vì thái độ khinh miệt của ông MérillonNản lòng vì những lời mỉa may ác độc và những áp lực đòi ông từ chức, vị tổng thống lớn tuổi của chúng ta dọa sẽ tự tử bằng ống thuốc cyanure mà ông luôn đeo theo trong mình.” (Darcourt, tr. 143-44).

Theo Hoàng Đống thì “CS và MTGPMN, qua đài phát thanh của họ ủng hộ Dương Văn Minh là người chủ trương hòa giải hòa hợp nên có thể nói chuyện được, và Đại sứ Pháp 4 lần khuyên Hương từ chức, nhưng vì tham quyền cố vị và ngây thơ nên Hương bỏ ngoài tay lời khuyên của đại sứ Pháp.” (tr. 362).

 Trong lúc đó, đài phát thanh Hà Nội và Giải Phóng miền Nam đồng loạt đòi TT Hương phải ra đi. Thực sự, CS không có dấu hiệu nào thương thuyết với bất cứ ai và chuẩn bị tấn công Saigon.

Điều nầy cũng được xác nhận trong VNCH, 10 ngày cuối cùng” của Trần Đông Phong là chính TT Trần Văn Hương đã cử tướng Phan Hòa Hiệp đại diện cho chính phủ liên lạc với đại diện của CS trong Ủy Ban Liên Hợp 4 bên vận động với CS một cuộc thương thuyết, nhưng CS đã bác bỏ mọi hình thức thương thuyết và đòi Miền Nam phải đầu hàng vô điều kiện (Phong, tr. 252-253).

– Ngày 25 tháng tư: Hôm nay, TT Hương lại tiếp đại sứ Mérillon và đại sứ Martin, cả hai đều cố thuyết phục TT Hương nên cấp tốc đưa ra một giải pháp khả dĩ mở đường thương thuyết với những người “cách mạng” (nguyên văn: les révolutionnaires). “Giải pháp nầy đòi hỏi sự từchức của ông và giao quyền lại” cho một nhóm người nào đó “mà phía bên kia chấp nhận.”  (Darcourt, p. 145).

Ông Hương từ chối và nói với Martin: “Nếu tôi phải làm Pétain của VN thì ít ra tôi phải đóng vai trò ấy trong danh dự và đúng phẩm giá” – Si je dois être le Pétain du VN, je le serai au moins dans l’honneur et la dignité (Todd, p.324). Ông Hương muốn hành sử theo đúng hiến pháp và câu hỏi căn bản là ông Minh có được Hà nội thực sựchấp nhận hay không, TT Hương yêu cầu Martin thăm dò qua đại sứ Ba Lan.

Sau khi từ chức, ông Thiệu ngày ngày đi đi lại lại qua các phòng trong dinh Độc Lập (tuy ông từ chức nhưng ông vẫn còn ở trong dinh), nghĩ đến cuộc phục hận. Ông Nguyễn Văn Kiểu, anh ông và cả em họ ông, Hoàng Đức Nhã đều khuyên ông nên ra đi, nhưng ông từ chối vì ông nghĩ là ông còn có một vai trò. Không chịu được cảnh nầy, bà Thiệu đã rời Saigon sáng 24 đi Bangkok trên một chuyến bay thương mại (Snepp, tr. 334).

TT Hương cũng muốn ông Thiệu ra khỏi nước vì sự có mặt của ông Thiệu tạo khó khăn cho ông (hay cho ý kiến) nên nhờ Martin can thiệp. Martin cũng không muốn ông Thiệu bị ám sát càng rắc rối hơn nên Martin tổ chức cho ông Thiệu rời khỏi nước. (theo Snepp, tr. 334, Trần Văn Đôn cũng khuyên TT Thiệu trưa ngày 25 là nên ra đi vì Nguyễn Cao Kỳ sẽ tổ chức ám sát).

Lúc 20 giở rưởi, Polgar và tướng Timmes đón ông Thiệu ở nhà ông Khiêm trong BộTổng Tham Mưu. Đoàn xe 3 chiếc gồm ông Thiệu, Khiêm và hơn 10 người khác. Martin đợi sẵn ở phi cơ để tiển đưa.

Dù buồn thảm và cam chịu số phận, ông Thiệu đi thủng thẳng, cố giữ phong độ. Ông quay lại cám ơn ông Martin. Với giọng xúc động, Martin đáp lễ: Thưa Tổng Thống, đó là điều tối thiểu tôi có thể làm. Xin tạm biệt và chúc Ngài may mắn.” (Nguyễn tiến Hưng, tr. 392 và Todd, tr. 339).

Phi cơ trực chỉ Đài Loan (và sau đó ông và gia đình sang tị nạn ở Anh Quốc cho đến thập niên 1980 mới sang Hoa Kỳ).

Theo Hoàng Đống: Ngày 22-4, Thiệu và Khiêm được Mỹ đưa ra phi trường Tân sơn Nhất bay qua Đài Loan. Trước đó 20 ngày, gia đình, của cải của hai vị nầy đã được an toàn chuyển ra ngoại quốc. (tr. 360).

Nhiều tài liệu Anh Pháp nói đến 16 tấn hàng hóa. Theo Lý Quý Chung, thân cận của tướng Minh, ông Thiệu trốn chạy. (Chung, tr. 362).

Cùng một sự kiện, 4 tác giả thuật lại bốn cách khác nhau.

Thiệu rời khỏi nước yên ổn, Martin thở phào. Ông lên xe đến dự cuộc tiếp tân ở toà đại sứ Ba Lan.

Sau đây là câu chuyện giọng nhát gừng giữa 2 ông đại sứ:

– Martin: Cộng Sản Bắc Việt có chấp nhận Dương Văn Minh không?

– Fijalkowski (đại sứ Ba Lan): Sẽ hỏi Hà Nội. Nhưng có câu hỏi của Hà Nội: Tại sao hàng không mẫu hạm Mỹ lảng vảng ngoài khơi hải phận VN.

– Martin: phải hỏi lại Hà Nội của các anh, tại sao có dàn hỏa tiển gần Saigon. Hà Nội có muốn gây khó khăn cho Hoa kỳ trong công cuộc di tản không? (Todd, tr. 340).

Về dư luận ông Thiệu ra đi với 16 tấn vàng, Snepp, nhân viên CIA tường thuật rất rõ (tr. 296)

Một tháng trước, Thiệu đã gởi qua Đài Loan và Canada một phần lớn tài sản và bàn ghế bằng tàu thủy. Nhưng tài sản của quốc gia, 16 tấn vàng trị giá 220 triệu mỹ kim, tượng trưng cho một phần lớn kho bạc của Saigon cũng sẽ đi ra nước ngoài (à expatrier). Lúc đầu, ông Thiệu dự tính gởi lén lút số vàng này vô Ngân hàng Thanh Toán Quốc Tế Bâle (Banque des règlements internationaux de Bâle) ở Thụy Sĩ, nơi mà chánh phủ đã có gởi một số vàng bảo đảm trị giá 5 triệu. Ông Thiệu nói với các cộng sự viên là gởi vàng để mua trang bị cho quân đội. Nhưng vài ngày trước khi gởi, tình báo Mỹ biết được nên tin tung ra trên báo chí, hảng hàng không mà ông Thiệu đã thương thuyết hợp đồng rút lui. Để giải tỏa mọi nghi ngờ, đại sứ Martin buộc ông Thiệu gởi số vàng nầy ở Federal Reserve Bank of New York, ông Thiệu phải đồng ý. Ngày 16 tháng 4, Martin xin Washington một chuyến bay đặc biệt, có bảo hiểm để chở số vàng nầy đi New York. Nhưng Không Lực Mỹ cũng như Ngân Hàng không chấp nhận bảo hiểm chuyên chở một món hàng trị giá quá lớn như vậy từ một nước đang có chiến tranh. Câu chuyện đang dằng co thì 2 ngày sau, ngày 18 tháng tư, 16 sư đoàn Cộng Sản đang hướng về Saigon, chuyện chở vàng bị quên đi và 16 tấn vàng vẫn ngủ yên trong Ngân Hàng Quốc Gia.

– Đến ngày 25 tháng tư, sau khi giải quyết vấn đề bảo hiểm, vàng được đưa lên phi cơ để chở đi New York, nhưng giờ chót bị Phó Thủ Tướng kiêm Tổng Trưởng Kinh tế Nguyễn Văn Hảo (nội các Nguyễn Bá Cẩn) chận lại nói là theo lịnh của TT Hương chờ cho tân nội các được thành lập. Số vàng nầy vẫn còn nằm trong phi cơ đậu ở phi trường khi quân CS tiến chiếm Saigon. Cũng theo Snepp, tuy không hẳn là theo CS, Nguyễn Văn Hảo đã được CS móc nối hồi đầu tháng tư là sẽ được chế độ mới đối xử tốt nếu bảo vệ kho bạc VNCH.” (Snepp. tr. 328).

Chuyện ông Thiệu muốn tẩu tán vàng là một tin đồn, nhưng chuyện vàng bị các lãnh tụ đỏ sau nầy bu vào đục khoét là chuyện thực!

– Ngày 26 tháng tư: Lúc 10 giờ sáng, TT Hương đến hợp với lưỡng viện Quốc hội để được báo cáo tình hình quân sự và quyết định người thay thế ông Hương. Có 183 trên 219 người đến tham dự (Darcourt) nhưng theo Lý quý Chung thì chỉ có 136 vì nhiều người đã chuồn ra nước ngoài.  (Lý Qúy Chung, tr. 366).

Trong diễn văn, ông Hương không gọi đích danh Dương Văn Minh mà gọi là “người ấy” (cette personne):

“Trước hết tôi đã đề nghị với người ấy chức vụ Thủ Tướng với đầy đủ quyền hành. Ông ta đã từ chối. Tôi đã phải mời ông ta đến gặp tôi tại dinh Độc Lập, ông ta cũng từ chối. Với thiện chí muốn giải quyết vấn đề, tôi không kể nghi thức và mặc dầu tuổi già sức yếu, tôi phải chấp nhận đến nhà một người bạn chung để gặp người ấy. Tôi đề nghị với người ấy chức vụ Phó Tổng Thống, nhưng một lần nữa, chẳng những người ấy từ chối mà còn nói với tôi là: Phải có tất cả không thì thôi, có nghĩa là chỉ có Tổng Thống. Tôi lưu ý làm như vậy là vi hiến, ông ta trả lời rằng: đó không phải là việc của ông ta. Sau đó tôi có đặt cho ông ta một câu hỏi: Có gì bảo đảm là phía bên kia chấp thuận thương thuyết với ông thì ông ta trả lời ngắn gọn là: Tôi đã nhận được từ phía bên kia những cam kết cần thiết để làm tròn vai trò. 

Mặc dù tôi nhấn mạnh nhưng ông ấy không có thêm một lời giải thích nào khác ngoài những lời úp mở mà tôi không tin vào những lời đó. Tôi sẽ không bao giờ muốn chịu trách nhiệm về việc trao quyền một cách bất hợp hiến, vì vậy, hôm nay, tôi yêu cầu quý vị hãy trao quyền hành pháp lại cho người ấy bằng lá phiếu hợp pháp của lưỡng viện Quốc hội. Đó là phương thức duy nhất vừa để cứu Saigon khỏi bị một thảm họa mà không làm mất thể diện của quốc gia và chế độ.”

Tuy nhiên,theo bài viết của GS Nguyễn Ngọc An, cựu Tổng Trưởng Thông Tin Chiêu hồi trong nội các Trần Văn Hương ghi âm lại, đăng trong Đặc San Pétrus Ký 1966, thì T/T Trần Văn Hương đề cập đích danh tên Dương Văn Minh: 

“… Với ý nghĩa đó, nghĩa là ý nghĩ thương thuyết, tôi đã ra công dò xét tìm bên này, tìm bên nọ, hỏi thăm dò ý kiến mọi nơi. Tới bữa nay cũng nói với quý vị là tôi có dịp đã gặp được Đại tướng Dương Văn Minh, bởi vì theo lời một số người, thì Đại tướng Dương Văn Minh có đủ điều kiện làm việc này. Trong các cuộc gặp gỡ, trong một tư thất của một người bạn chung – bởi vì họp mặt tôi muốn tránh tiếng trước, không thể mời Đại tướng đến Dinh Độc Lập nói chuyện. Một mặt tôi cũng không thể tự mình tới nhà Đại tướng mà nói chuyện. Cho nên chúng tôi đã cùng nhau đến nhà một người bạn chung.

– Sau khi nói chuyện, tôi nói rằng: ‘Theo dư luận, một số người nói rằng Anh – xin lỗi, bởi vì giữa Đại tướng với tôi cũng còn cái thâm tình nhiều – người ta bảo rằng Anh có đủ điều kiện để thương thuyết, vậy thì xin Anh vì nước nhà, mọi tỵ hiềm qua, mọi chuyện không tốt đẹp đã xảy ra, xin Anh vui lòng xóa bỏ để cùng nhau chung lưng dựng nước. Xin Anh chấp nhận cái ghế Thủ tướng để đứng ra thương thuyết với phía bên kia.’ Đại tướng, lẽ cố nhiên đối với tôi lúc nào cũng giữ thái độchẳng những là người bạn thân mà giữ cả thái độ, xin lỗi, như thể một người học trò của tôi vậy, mặc dù Đại tướng không phải là học trò của tôi, Đại tướng nói: ‘Thầy đã hy sinh đến mức này, thôi xin thầy ráng hy sinh một bước nữa mà thầy trao trọn quyền cho tôi.’ Nghĩa là trao cái uyền tổng thống cho Đại tướng…” 

Nếu bài viết của Nguyễn Ngọc An là trung thực, sự khác biệt các tài liệu ngoại ngữ viết về VN lại còn phát xuất bởi sự diễn dịch và phiên dịch của tác giả ngoại quốc và tác giả người Việt. 

Sau khi TT Hương rời trụ sở Thượng Viện, cuộc thảo luận kéo dài từ 14 giờ đến 22 giờ mà kết quả là đi đến một quyết nghị lửng lơ: Quốc Hội nhìn nhận TT Hương có đầy đủ tư cách để chọn người thay thế ông. Người nầy sẽ được ủy nhiệm để xúc tiến cuộc thương thuyết. Tên của Dương Văn Minh không được ghi trong bản quyết nghị này (Darcourt, p. 151).

Nhưng theo Lý Quý Chung, trong Hồi ký của ông thì hoàn toàn khác: Cuộc biểu quyết truất quyền ông Hương và trao quyền cho ông Minh được thực hiện với số phiếu gần như tuyệt đối 147/151 vào lúc 20giờ 54… Tôi nhớ rất rõ không khí tại trụ sở Thượng Viện trước và sau biểu quyết. Kẻ thì chán nản như người sắp chết đuối là các dân biểu nghị sĩ thuộc phe Thiệu, còn những người phe Dương Văn Minh thì hấp tấp, vội vã như sợ không bắt kịp cơ hội cuối cùng.” (LQC, tr. 367, 368). 

Theo ông Đôn, cũng trong Hồi Ký thì Đa số nghị sĩ dân biểu nghiêng về biện pháp trao quyền cho ông Hương chỉ định Thủ Tướng toàn quyền vì cho rằng ông Minh xem thường Quốc Hội.” và sau đó ông Hương gọi điện thoại với ông và nói: “Tôi sẽ chỉ định anh làm Thủ tướng.” (Đôn, tr. 468, 469).

Trong khi lưỡng viện Quốc Hội đang họp, lúc 12 giờ, Võ đông Giang, đại diện cho Mặt Trận trong Ủy Hội Kiểm soát ở Camps Davis (Tân Sơn Nhứt) tuyên bố: Đạo quân chúng tôi tiếp tục tiến công, không có ngưng bắn.

– Ngày 27 tháng tư:

*4 giờ sáng, nhiều tràng hỏa tiển bắn vào Saigon: thiệt hại: 9 người chết, 36 bị thương, những đám cháy nhà cửa và hảng xưởng khiến 2000 người không nơi cư trú.

12 giờ: TT Hương gởi văn thư hỏa tốc cho Chủ tịch Thượng Viện: Theo hiến pháp Quốc Hội phải ra quyết nghị người thay thế tôi rõ ràng.

15 giờ: “Đại sứ Pháp điện thoại cho tôi [Đôn] biết: 6 giờ chiều nầy nếu không có gì thay đổi thì Hà Nội sẽ pháo kích vào Saigon bằng súng cối 130 ly có tầm bắn xa 30 km.” (TVĐôn, tr. 471). 

* 19 giờ:Trước khi dân biểu nghị sĩ bắt đầu thảo luận, tướng Trần Văn Đôn, xử lý thường vụ Tổng Trưởng Quốc phòng (nội các NBCẩn) thuyết trình tình hình quân sự: 

14 sư đoàn Bắc Việt được trang bị võ khí hùng hậu đang bao vây Saigon. Biệt kích và đặc công đã xâm nhập vòng đai. Không quân của ta đã hành quân liên tục từ nhiều ngày qua nên các phi công và phi cơ đã quá sức chịu đựng, ngoài ra còn bị thiệt hại khá nặng bởi phòng không của địch. Căn cứ Không quân Biên Hòa gần như đã bị tê liệt vì pháo lực của CS. Trong vài ngày, cũng có thể trong vài giờ, có thể Saigon sẽ bị tàn phá bởi đạn pháo 130 ly tầm xa của CS. Nhứt định ta phải thương thuyết với họ để ngưng bắn càng sớm càng tốt.”

Các dân biểu nghị sĩ la ó, phản đối tướng Đôn: Đồ hèn nhát, chủ bại, bị bán đứng rồi, Tướng phòng ngủ. Tướng Đôn và các quân nhân tháp tùng rời phòng hợp trong nhục nhã (Darcourt, p. 154).

Hồi ký của tướng Đôn không đề cập gì đến sự kiện nầy.

Sau 4 giờ thảo luận sôi nổi, Quốc Hội biểu quyết chấp thuận cử tướng Minh thay thế TT Hương trong chức vụ Tổng Thống. (120 phiếu thuận, 32 phiếu chống, 20 phiếu trắng theo Darcourt; 136 phiếu thuận, 2 phiếu trắng theo Todd).

Trong lúc đó, chuyến máy bay do Polgar tổ chức chở Nguyễn Bá Cẩn, Nguyễn Khắc Bình, Hoàng Đức Nhã và một số nhân vật đi Phi luật Tân. 

Quốc Hội biểu quyết chấp thuận cử tướng Minh thay thế TT Hương trong chức vụ Tổng Thống. (AP Photo/Errington).

20 giờ, con đường nối liền Saigon-Biên Hòa bị cắt đứt, 700 quân nhân của Sư đoàn 18 bị mất liên lạc và quốc lộ số 4 nối với miền Tây cũng bị gián đoạn ở nhiều nơi. Saigon trở nên cô lập như một hòn đảo.

Trong khi đó, cuộc di tản tuy chậm, nhưng diễn tiến trong trật tự. Đến 12 giờ trưa ngày 27 đã có 35 245 người đã được Mỹ bốc đi. Các tòa đại sứ, trừ tòa đại sứ Pháp, cũng bắt đầu đóng cửa và di tản nhân viên bằng đường hàng không. 

– Ngày 27 tháng tư cũng là ngày Bắc Việt đổi ý về chiến lược. Theo đại sứ Martin, tuy là hồi tháng ba, ông đã có tin tình báo là Hà Nội đã quyết định đi tới một chiến thắng hoàn toàn bằng quân sự, nhưng những tin tức khác tử Mặt Trận giải phóng ở Paris cũng cho biết là họ cũng muốn có một giải pháp chính trị, và Martin cũng suy luận là CS dùng giải pháp chính trị để có thể tiếp tục được viện trợ của quốc tế khi chiến tranh chấm dứt. Nhưng không hiểu vì lý do gì, theo Martin thì đêm 27 tháng 4, CS đã dứt khoát chọn chỉ giải pháp quân sự (Martin Graham. Vietnamese evacuation: testimony of Ambassador Graham Martin. International relations, January 27, 1976, p. 609, trích dẫn bởi Nguyển Tiến Hưng, tr. 391).

Cựu Tư lệnh Cảnh sát Biển và bốn tướng bị bắt vì tham ô tài sản

Đài Á Châu Tự Do 

Cựu Tư lệnh Cảnh sát Biển Việt Nam, trung tướng Nguyễn Văn Sơn, cùng bốn tướng và hai sĩ quan thuộc lực lượng này bị khởi tố và bị bắt với cáo buộc ‘tham ô tài sản’ theo khoản 4, Điều 353 Bộ Luật Hình sự.

Tin do truyền thông Nhà nước loan đi ngày 18/4 dẫn quyết định của Cơ quan Điều tra Hình sự thuộc Bộ Quốc Phòng Việt Nam từ hôm 13/4 vừa qua.

Tin cho biết Cơ quan Điều tra Hình sự thuộc Bộ Quốc phòng đã thay đổi biện pháp ngăn chặn, thực hiện lệnh bắt tạm giam đối với cựu tư lệnh Cảnh sát biển, trung tướng Nguyễn Văn Sơn và cựu Chính ủy,

trung tướng Hoàng Văn Đồng về tội danh vừa nêu.

Trước đó, ông Nguyễn Văn Sơn và ông Hoàng Văn Đồng bị Cơ quan điều tra hình sự Bộ Quốc phòng khởi tố bị can, ra lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú.

Các tướng tá khác cũng bị khởi tố và bị bắt tạm giam gồm thiếu tướng Phạm Kim Hậu, cựu Phó tư lệnh kiêm Tham mưu trưởng; thiếu tướng Bùi Trung Dũng, cựu Phó tư lệnh; thiếu tướng Doãn Bảo Quyết, cựu Phó chính ủy kiêm chủ nhiệm chính trị; đại tá Nguyễn Văn Hưng, cựu Phó tư lệnh và thượng tá Bùi Văn Hòe, Phó trưởng phòng tài chính cùng về tội danh trên.

NGÀY NÀY NĂM TRƯỚC… Cô Hạnh

Van Pham

NGÀY NÀY NĂM TRƯỚC…

Cô Hạnh

Tôi từng có dịp găp cô Nguyễn Thuý Hạnh cách đây khá nhiều năm, khi tôi mới bắt đầu bào chữa cho những người bất đồng chính kiến.

Ban đầu, tôi gọi cô là chị giống như những người khác; sau đó cô đề nghị, đừng gọi là chị, gọi là cô đi, cháu chỉ ngang tuổi của con cô thôi. Và từ đó, tôi đổi cách xưng hô với cô Hạnh.

Cô Hạnh là người hiền lành, nhẹ nhàng nhưng ẩn sau dáng vẻ yếu mềm là sự mạnh mẽ, kiên định. Mấy năm trước, cô nói với tôi, khi nào cô bị bắt, cháu bảo vệ cô nhé. Chỉ cần 1 luật sư cho đỡ tốn tiền. Tôi cười trừ cho qua và nói người ta bắt cô làm gì chứ…

Nhưng rồi cô Hạnh bị bắt thật. Trước khi bị bắt khoảng 1 tuần, cô có qua văn phòng tôi ký giấy mời luật sư để tôi giúp cô yêu cầu gỡ phong tỏa tài khoản ngân hàng; đồng thời cô cũng ký luôn giấy mời luật sư phòng khi cô gặp chuyện bất ngờ; không biết có phải vì cô có linh cảm gì trước hay không.

Chỉ sau khi tôi ký đơn yêu cầu và gửi đi mấy ngày, người ta bắt cô Hạnh. Không biết có phải tại tôi, tại yêu cầu của tôi mà cô ấy bị bắt đi nhanh hơn không nữa. Hôm cô Hạnh tới văn phòng, tôi có nói là sắp tới cháu sẽ giảm bớt các vụ án “nhạy cảm” để tập trung vào làm kinh tế vì sau mấy năm làm án này, khách hàng khác sợ cháu bỏ đi hết; có khách thân thiết lạy sống lạy chết là thôi làm án chính trị đi để giúp đỡ họ và làm giàu…; tuy nhiên, nếu cô bị bắt thật, cháu sẽ có mặt ngay.

Dù rằng luôn nhắc nhở mình, không để cảm xúc lấn át. Tình cảm và trách nhiệm của người luật sư phải là rất rõ ràng, không được đánh đồng. Thế nhưng, tôi cảm nhận sự ấm áp, chân tình từ cô Hạnh. Tôi không nói ra nhưng trong tâm tôi, tôi coi cô như mẹ tôi vậy. Tôi nghĩ rằng, người như cô ấy không đáng bị bắt, không nên bị bắt, cô ấy không nguy hiểm tới mức như người ta đồn đoán, suy diễn. Có vẻ như đang khan hiếm dần những người muốn bắt, cần bắt nên rồi đây, có lúc phải bắt “ép”, kiểu như ta đi hái trái non.

Việc bắt cô Hạnh càng làm cho người ta nhìn thấy rõ, làm việc tốt trong xã hội này không phải là chuyện dễ, nhất là khi mà việc đó không thuận theo ý chí của những người cầm quyền. Ranh giới giữa người tốt và người vi phạm pháp luật rất mong manh và người ta có thể “xử lý” bất kỳ lúc nào họ muốn.

Dân trí hiện nay không còn kém như xưa. Người dân hiểu hết nhưng chỉ vì an phận, vì hèn nên họ không dám lên tiếng mà thôi. Đa số những người bất đồng chính kiến, họ không sợ tù tội như những ông quan chức tham lam, họ chỉ sợ họ hèn hoặc họ không được thể hiện suy nghĩ của mình tại toà chứ không sợ số năm tù mà mình sẽ bị tuyên.

Thế nên, để giảm thiểu sự mâu thuẫn trong xã hội, đã đến lúc nhà nước này cần thẳng thắn nhìn nhận vấn đề, thẳng thắn đối thoại, lắng nghe phản biện từ người dân thay vì tìm cách ngăn cản, đấu tố hay bắt bớ họ, đúng như tinh thần mà tân thủ tướng Phạm Minh Chính đã phát biểu trong phiên họp Chính phủ đầu tiên ngày 15/4/2021, sau khi Quốc hội kiện toàn nhân sự.

Và cũng đã đến lúc cần định nghĩa đúng từ “an ninh quốc gia” trong Bộ luật Hình sự để tránh trường hợp hiểu và áp dụng các quy định của pháp luật một tuỳ nghi tới mức tuỳ tiện..

Shared từ FB Tuan Ngo

Bắt Facebooker Đặng Như Quỳnh vì ‘đưa tin chưa kiểm chứng về chứng khoán’

Bắt Facebooker Đặng Như Quỳnh vì ‘đưa tin chưa kiểm chứng về chứng khoán’

April 14, 2022

HÀ NỘI, Việt Nam (NV) – Ông Đặng Như Quỳnh, 42 tuổi, một trong những Facebooker nổi bật tại Việt Nam, bị Bộ Công An CSVN bắt với cáo buộc “lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của nhà nước, tổ chức, cá nhân” theo Điều 331 Bộ Luật Hình Sự.

Ông này bị cáo buộc đăng tải thông tin “chưa kiểm chứng” gây ảnh hưởng tiêu cực đến thị trường tài chính, chứng khoán.

Ông Đặng Như Quỳnh từng bị công an triệu tập hồi năm 2020 với cáo buộc “đưa tin sai sự thật về tình hình dịch COVID-19.” (Hình: VNExpress)

Theo báo VNExpress, hành vi của ông Quỳnh bị cho là “trực tiếp xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức” và “có dấu hiệu tác động ảnh hưởng tiêu cực đến thị trường tài chính, chứng khoán của nhà nước.”

“Quỳnh được biết đến là Facebooker có lượng lớn người theo dõi. Những ngày qua, Quỳnh thường đăng các bài viết bị cáo buộc là có nội dung mập mờ liên quan vụ án tại tập đoàn FLC và Tân Hoàng Minh. Các thông tin này sau đó được chia sẻ nhiều,” VNExpress cho biết thêm.

Theo giới quan sát, vụ bắt ông Quỳnh liên quan đến một bài đăng gần đây trên trang cá nhân của ông này ám chỉ rằng ông Nguyễn Văn Tuấn, tự Tuấn “Mượt,” tổng giám đốc tập đoàn Gelex, sắp “mất quyền đọc lệnh,” tương tự các “đại gia” Trịnh Văn Quyết, Đỗ Anh Dũng vừa bị bắt.

Sau bài đăng của ông Quỳnh, một bản tin của báo Zing hôm 12 Tháng Tư viết: “Gần đây, nhiều nhà đầu tư liên tục bán tháo cổ phiếu của Gelex. CEO Gelex Nguyễn Văn Tuấn cho biết có nhiều tin đồn về doanh nghiệp và khẳng định sai sự thật.”

Báo này dẫn một văn bản do ông Tuấn công bố để trấn an nhà đầu tư: “Một số cá nhân đã lợi dụng sự việc một số lãnh đạo doanh nghiệp lớn bị bắt để đăng tải những thông tin thất thiệt, chưa kiểm chứng cho rằng cơ quan chức năng sẽ tiếp tục khởi tố và xử lý những cá nhân, doanh nghiệp khác, chủ yếu trên lĩnh vực tài chính, ngân hàng, chứng khoán, bất động sản.”

“Chúng tôi kịch liệt phản đối những hành vi đưa tin không đúng sự thật, chưa được kiểm chứng gây mất an ninh, an toàn thị trường,” văn bản này viết thêm.

Trang cá nhân của ông Đặng Như Quỳnh có hơn 300,000 lượt follow. (Hình: Người Lao Động)

Vụ bắt ông Quỳnh diễn ra chỉ ba ngày sau khi báo VietNamPlus cho hay ông Phạm Minh Chính, thủ tướng, “yêu cầu xử lý nghiêm các hành vi vi phạm pháp luật, đặc biệt là các hành vi đưa tin thất thiệt, không chính xác, gây mất an ninh, an toàn thị trường chứng khoán, trái phiếu doanh nghiệp.”

Hồi Tháng Ba, 2020, ông Quỳnh từng bị Cục An Ninh Mạng và Phòng, Chống Tội Phạm Sử Dụng Công Nghệ Cao triệu tập với cáo buộc đăng gần 300 bài viết chưa được kiểm chứng, sai sự thật về dịch COVID-19 tại nhiều địa phương. (N.H.K) 

Bê bối chuyến bay giải cứu: Thứ trưởng Ngoại giao Tô Anh Dũng bị bắt

Bê bối chuyến bay giải cứu: Thứ trưởng Ngoại giao Tô Anh Dũng bị bắt

14/04/2022

Thứ trưởng Ngoại giao VN Tô Anh Dũng (ảnh lớn) bị bắt hôm 14/4/2022 vì tội “nhận hối lộ”.

Một thứ trưởng Bộ Ngoại giao Việt Nam bị bắt giữ hôm 14/4 liên quan đến vụ bê bối đưa, nhận hối lộ để thực hiện các chuyến bay giải cứu, cổng thông tin điện tử của chính phủ Việt Nam cho hay.

Trang Thông tin Chính phủ công bố rằng Thứ trưởng Ngoại giao Tô Anh Dũng, 58 tuổi, vừa bị bắt về tội “nhận hối lộ” cùng với hai bị can khác, gồm một nam chuyên viên 41 tuổi thuộc Bộ Y tế và một cựu nam cán bộ công an 43 tuổi từng làm việc ở Cục Quản lý Xuất nhập cảnh. Công an đã tiến hành khám xét nơi ở của cả 3 bị can nêu trên.

Trước đó, như VOA đã đưa tin, hồi cuối tháng 1, nhà chức trách Việt Nam bắt 4 quan chức cũng tại Bộ Ngoại giao, gồm nữ Cục trưởng Cục Lãnh sự Nguyễn Thị Hương Lan, 48 tuổi; một cục phó, một chánh văn phòng và một phó phòng của cục này, về tội “nhận hối lộ” liên quan đến các chuyến bay đưa người Việt về nước trong đại dịch, thường được gọi là “chuyến bay giải cứu”.

Sau đó, vào cuối tháng 3, công an bắt thêm một nữ giám đốc một công ty dịch vụ hàng không về tội “đưa hối lộ”.

Vụ việc tại Cục Lãnh sự xảy ra trong bối cảnh đại dịch COVID-19 dẫn đến các nước đóng cửa biên giới với nhau từ đầu năm 2020. Do đó, các công dân Việt Nam phải bỏ ra chi phí cao gấp 5 đến 8 lần so với trước đại dịch để có thể bay về nước trên các chuyến bay do nhà nước Việt Nam đứng sau.

Bộ Ngoại giao Việt Nam công bố thông tin hồi tháng 12/2021 là bộ này và các cơ quan liên quan đã thực hiện “800 chuyến bay, đưa gần 200.000 công dân Việt Nam từ hơn 60 quốc gia và vùng lãnh thổ về nước”.

Sau khi vụ bê bối đưa, nhận hối lộ liên quan đến các chuyến bay giải cứu vỡ lở ra, theo quan sát của VOA, nhiều người nêu ước tính trên mạng xã hội rằng nếu mỗi công dân phải hối lộ từ 1.000-2.000 đô la cho những người có quyền dàn xếp các chuyến bay, tổng số tiền hối lộ lên tới 200-400 triệu đô la. Số tiền này tương đương với khoảng từ 4 nghìn 600 tỷ đồng đến 9 nghìn 200 tỷ đồng.

Vụ việc đã gây chấn động và căm phẫn trong dư luận Việt Nam về tình trạng có những kẻ lợi dụng dịch bệnh để trục lợi từ người dân khốn khó.

Thông tin Chính phủ nói hôm 14/4 rằng ngoài 8 bị can đã bị bắt cho đến nay, Cơ quan An ninh điều tra Bộ Công an vẫn đang điều tra mở rộng vụ án để xử lý nghiêm minh theo quy định của pháp luật.

Trước đó ít ngày, Phát ngôn viên Bộ Công an Việt Nam, ông Tô Ân Xô, nói với báo giới hôm 4/4 rằng bộ này mở rộng điều tra về vụ bê bối vì “các đối tượng hoạt động tinh vi, đông người, và trong thời gian dài”.

httpv://www.youtube.com/watch?v=laED2vvaEZI

Bê bối chuyến bay ‘giải cứu’: Thứ trưởng Ngoại giao Tô Anh Dũng bị bắt | VOA

Cơ quan công an yêu cầu tạm phong toả tài sản của ông Trịnh Văn Quyết và gia đình

BBC News Tiếng Việt

ơ ô ê ầ ạ ỏ à ả ủ ô ị ă ế à đì

 Mọi tài sản của doanh nhân Trịnh Văn Quyết, ông chủ tập đoàn FLC và hãng hàng không Bamboo Airways, vừa bị cơ quan cảnh sát điều tra Bộ Công an đề nghị các địa phương tạm ngưng giao dịch, dù dưới hình thức chuyển nhượng, mua bán, cho tặng hay cầm cố, thế chấp.

Ngoài ra, có 8 ngân hàng được yêu cầu cung cấp sao kê các tài khoản ngân hàng của ông Quyết và một số người liên quan, cơ quan công an nói hôm 14/4.

Việc tạm thời phong tỏa tài sản, theo phía công an, là nhằm phục vụ điều tra vụ án “thao túng thị trường chứng khoán” liên quan tới việc ông Quyết hôm 10/1 bán một lượng lớn cổ phiếu FLC ra thị trường mà không thông báo.

Ngoài ông Trịnh Văn Quyết, vợ và hai em gái ông cũng bị áp dụng các biện pháp tương tự.

Ông Quyết bị bắt tạm giam từ hôm 29/3.

Lệnh bắt tạm giam và khởi tố chủ tịch FLC được đưa ra quá nhanh và bất ngờ, khiến hàng nghìn người đang nắm cổ phiếu thuộc hệ sinh thái FLC hoảng loạn.

Vào giờ mở cửa giao dịch hôm 30/3, nhóm cổ phiếu này tiếp tục giảm sâu sau những phiên mất giá trước đó do có đồn đoán về việc ông Quyết có thể bị bắt.

(Hình của Bamboo Airways: Ông Trịnh Văn Quyết)

Như chỉ mới hôm qua – ký ức 30 tháng Tư 

Như một lớp áo mỏng che những vết thương vĩnh viễn không lành…

Như chỉ mới hôm qua – ký ức 30 tháng Tư 

Đan Viên

Những gì được kể trong bài viết này không chỉ là thảm kịch sau ngày “giải phóng”, mà phải nói đó là sự thảm khốc của BI KỊCH HẬU CHIẾN, khi mà dù tiếng súng đã ngưng nhưng những viên đạn vô hình vẫn “bắn giết” và “tử hình” không biết bao nhiêu nạn nhân. Các cuộc “thảm sát” sau 1975, không đầy xác người như những trận giao tranh ác liệt thời chiến, nhưng đã gieo rắc nỗi thống khổ cho hàng triệu gia đình và làm mất đi tuổi thơ của vô số đứa trẻ, như tác giả trong bài viết. Ký ức đối với những tâm hồn non nớt trước những gì chứng kiến sau ngày 30 Tháng Tư không chỉ là quá khứ. Nó là những vết thương vĩnh viễn không lành…

Bài viết này đã đoạt giải ba cuộc thi Như chỉ mới hôm qua – Ký ức 30-4 do Saigon Nhỏ tổ chức vào năm 2021. Xin mời đọc lại…

_________

Trong suốt nhiều năm tôi luôn nhớ về dĩa cơm gạo trắng ở chợ Ái Nghĩa hồi tôi 10 tuổi khi má dẫn đi thăm ba ở trại An Điềm. Trên tôi còn có bốn ông anh chẳng hiểu sao năm đó má lại dẫn mình tôi đi thăm ba. Tôi cũng là đứa con duy nhất trong bảy đứa được đi thăm ba trong suốt thời gian ba ở trại.

Đây là ba của tôi sao?

Trong trí nhớ của tôi, từ làng tôi phải đi bộ xuống Túy Loan rồi bắt xe đò lên Ái Nghĩa. Ở Ái Nghĩa đi qua sông bằng cano rồi mới đi tiếp bằng đường bộ. Ngủ lại đêm trên mấy sạp chợ Hà Nha. Sáng hôm sau tiếp tục đi bộ lên trại. Khi lên tới trại dưới má tôi cùng những gia đình thăm nuôi khác ngồi đợi được gọi tên, rồi lại đi bộ tiếp lên một khu trại khác, rồi lại đợi. Tôi chưa hết say xe, căng thẳng, sợ hãi. Mọi thứ đều có vẻ đe dọa. Rồi cũng tới lượt má tôi được gọi tên. Má dẫn tôi vô một dãy nhà dài.

Một dãy bàn bằng tre dài ngoằng theo gian nhà. Một tấm phên dựng chắn giữa bàn cao quá đầu người ngồi, cứ khoảng một mét lại chừa một ô nhỏ đủ nhìn thấy mặt người đối diện. Ở đó tôi thấy những người đàn bà ngồi vào trước những ô được chỉ. Phía bên kia cũng là người ngồi nhưng tôi không thấy hết được. Má cũng có một ô, giữ tôi đứng kế bên. Tôi nghe tiếng khóc nghẹn của đàn ông đàn bà… Tôi từng biết kiểu khóc này. Những đêm khuya tôi thường nghe má khóc vậy khi chợt tỉnh ngủ. Má biểu tôi nhìn vô ô vuông đó. Bên kia là gương mặt một người đàn ông lạ hoắc, ốm yếu, răng rụng rất nhiều. Tôi hoảng sợ.

Má biểu tôi, thưa ba đi. Tôi làm theo như cái máy. Sao người này lại là ba tôi? Chỗ ngồi của má là đầu dãy. Một cán bộ đang đứng ở đó quan sát mọi người. Có tiếng má tôi năn nỉ xin cho tôi được bước qua phía bên kia cho ba ôm tôi. Người cán bộ hơi chần chừ rồi cũng cho. Nhưng lúc đó tôi sợ, má giục mấy lần tôi mới rụt rè bước qua. Ba ôm tôi khóc không thành tiếng. Tôi sợ, không thấy quen thuộc với người mình vừa gọi ba. Người ba gầy xơ xác, bộ quần áo gần giống như kiểu pijama nhưng dày cộm, màu xám xám hay xanh gì đó. Một thứ mùi không chút thân thuộc, một nhân dáng xa lạ. Tôi gồng cứng người, sợ hãi.

Nhưng rồi tôi bắt đầu khóc khi hết cuộc thăm nuôi. Tôi khóc tức tưởi. Má chắc bận để tâm đâu đó nên chẳng thèm dỗ, chẳng thèm hỏi. Tôi tự khóc, tự nín. Khóc tức tưởi rồi nấc ư ử, rồi thôi. Tôi không biết vì sao mình khóc. Nhóm người cùng đi với má cũng trở ra. Họ thì thầm trò chuyện với nhau. Trẻ con im thin thít. Đi bộ xuống lại con đường cũ. Đến chợ Hà Nha, trời vẫn chưa tối hẳn nhưng về giờ này hết chuyến sang sông, người lớn quyết định ở lại sạp chợ một đêm nữa, sáng mai mới bắt xe về. Những người đàn bà chọn cái sạp lớn nhất để ngồi cùng và trò chuyện. Họ vẫn tiếp tục với giọng điệu cà rì cà rầm.

Những câu chuyện nghe như ác mộng

Trong số họ có người đã quen nhau từ lần thăm nuôi trước. Có người mới đi lần đầu. Có ba bốn đứa nhỏ cỡ tôi và lớn hơn. Má chỉ tôi leo lên cái sạp nhỏ kế bên. Đêm đó, trong giấc ngủ bị ngắt quãng mấy lần, tôi thấy một giấc mơ kinh hoàng. Giật mình mở mắt thấy vẫn đang ở trong câu chuyện của người lớn. Thì ra không phải mơ. Tôi nằm kế bên nghe người lớn kể chuyện rồi buồn ngủ thiếp đi, tỉnh dậy vẫn những người đàn bà ngồi đó kể chuyện. Họ không ngủ. Mấy lần như vậy cho tới khi trời sáng.

Đọng lại trong tôi là hình ảnh bà vợ ông tá nào đó bị cọp ăn khi đi thăm chồng mà đi lạc qua đường mòn trong núi, chỉ còn lại cái đầu rũ rượi tóc lăn bên vệ đường. Vùng Ba Khe nổi tiếng có cọp dữ. Họ còn kể có gia đình bản địa phước đức khi cọp vô tới tận sân nhà, cha mẹ đi làm chỉ có ba đứa trẻ ở nhà, chúng sợ quá trùm cái mền lại rồi vì sợ mà cứ kéo qua kéo lại cái mền. Con cọp đứng nhìn một hồi rồi bỏ đi. Những chuyện khác tôi chẳng hiểu gì nên cũng không nhớ rõ được.

Sáng hôm sau, má đón xe đò về lại Ái Nghĩa. Cả buổi không được ăn gì. Đêm hôm trước cũng chỉ có cái bánh sắn nhỏ (bột sắn khô nhồi rồi làm thành những cái bánh, luộc trong nước sôi cho đến khi bánh nổi là chín; món ăn thường trực của nhà tôi những năm sau 1975). Tôi đói quay quắt mà không dám kêu. Má dẫn tôi vô chợ Ái Nghĩa.

Tới trước hàng cơm trong chợ, má mua một dĩa cơm trắng, xin chan chút nước thịt, hai mẹ con cùng ăn. Đó là lần đầu tiên trong đời tôi biết được trong chợ có hàng bán cơm. Dĩa cơm trắng trưa hôm đó cho đến tận bây giờ, với tôi, vẫn là cực phẩm nhân gian. Tôi chưa được ăn cơm trắng suốt mấy tháng rồi, toàn sắn với khoai. Hạt gạo Ái Nghĩa trắng muốt, thơm lừng, cũng không giống cơm tôi nấu khi nhà có gạo. Không còn sợ hãi, không có con cọp núi ăn thịt người, chỉ có dĩa cơm trắng và tôi.

Năm đó ba ở trại An Điềm được gần ba năm…

Những mộng mị kinh hoàng thỉnh thoảng vẫn trở lại với tôi. Cũng từ lần đi thăm ba về, tôi mắc chứng bị bóng đè. Nhiều lần ngộp trong những giấc mơ kỳ lạ khác. Và kể từ chuyến đi đó, mọi ký ức của tôi về ba, về gia đình mình trong bảy năm đầu đời bị xóa sạch, cho đến tận bây giờ. Không chỉ về ba, mà tất cả những gì của bảy năm đã bị khóa chặt, chôn vùi đâu đó, trừ một chuyện – chuyện duy nhất mà tôi nhớ, nhưng thật ra cái tôi còn nhớ cũng chỉ là cảm giác, không một nhân dáng rõ ràng nào.

Làm cách nào để thôi nghĩ về tháng Tư?

Trước khi Đà Nẵng thất thủ, má may cho tụi tôi những cái quần bằng vải gì dày như nhung, có hai lớp; mấy cái túi ở giữa hai lớp quần, má may cả nắp túi có nút gài. Má chuẩn bị cho mỗi cái quần một ít vàng, là tư trang của má, cùng với mảnh giấy ghi rõ tên cha mẹ, địa chỉ. Một đêm, ba đã dẫn cả nhà chạy ra biển. Má mặc cho tôi cái quần hai lớp má may vội đó. Tôi nhớ cảm giác nặng nề, nhột nhạt của cái quần kỳ cục. Tôi nhớ mùi biển đặc quánh đêm đó. Nhớ nỗi sợ hãi của tôi giữa những lời thì thầm của ba má. Nhưng rồi ba dẫn cả nhà về lại, cho tới cái đêm người ta đập cửa nhà lúc rạng sáng bắt ba dẫn đi…

Một ký ức duy nhất cho bảy năm. Bây giờ ở tuổi ngoài 50, không biết tôi có cơ hội nào lấy lại bảy năm thơ dại của mình, để biết mình đã từng có gì, để khớp được tâm trí tôi với lời kể của ba má, anh em. Tôi cũng muốn một lần đi lại con đường ngày ấy mà không có nỗi sợ hãi nào… Từ lúc đi thăm ba về tôi thường lấy mấy tấm hình còn sót lại của gia đình so sánh người đàn ông trung niên đẹp đẽ với ông già tôi gặp ở trại An Điềm. Làm gì có chuyện chỉ mấy năm mà có thể biến đổi một con người thành như vậy? Tôi hoài nghi, tôi cố lôi trong ký ức của mình ra hình hài người đàn ông trong bức ảnh. Nhưng hoàn toàn trống rỗng…

… Thêm mấy năm nữa ba được ra trại. Má tôi làm ở đồng sau, nghe có người bà con chạy vô kêu hình như là ba tôi về. Má quýnh quáng lao ra con đường cái xuyên qua làng. Ba tôi. Đúng là ba tôi. Nhiều người đã như tôi, không nhận ra ba. Con Út khóc thét khi ba đưa tay về phía nó. Ngày ba đi, nó chưa đầy ba tuổi. Đứa em kế tôi cũng sợ hãi nép vào người má. Nhiều tiếng khóc khác, của người lớn, sửng sốt và thương cảm. Ai đó đã chạy vội về nhà đong cho má tôi mấy lon gạo. Ai đó đã chạy ra vườn hái bông đu đủ đực và mấy trái non xuống cắt sẵn cho má (thứ mà má sau đó đã nấu để ba ăn giải rừng thiêng nước độc). Mọi người cứ hỗn loạn như vậy. Chỉ có tôi là… bình thường. Thậm chí ngay lúc đó tôi còn thấy mình vênh mặt lên vì không sợ ba – người ba duy nhất mà tôi nhớ được.

Sau này, từ trong những câu chuyện của gia đình tôi, câu chuyện của những gia đình khác đồng cảnh ngộ mà tôi đọc được, nỗi thống khổ sau 1975 có rất nhiều điểm chung, có rất nhiều thấu hiểu. Trong khi ông bà, cha mẹ chúng tôi trải qua những hỗn loạn đau thương của nước mất nhà tan thì chúng tôi – những đứa con của “ngụy quân-ngụy quyền” – trải qua những đau thương kiểu khác. Đà Nẵng, Kho Đạn, An Điềm, trại cải tạo, phóng thích, trình diện, lý lịch, đại học, hợp tác xã…, với tôi, những từ ngữ này mang một thứ âm thanh khác.

Mấy chục năm rồi, trời Tháng Tư vẫn nhuốm màu ký ức thê lương. Thời gian và cuộc sống thường nhật, đôi khi chỉ như một lớp áo mỏng che đậy những vết thương vĩnh viễn không lành. Quá nhiều thứ đã mất. Quá nhiều tổn thương tiếp nối cho đến tận bây giờ. Có thứ vẫn còn phong kín thì làm cách nào để thôi nghĩ về tháng Tư…

WA, 4-2021