Thánh Jeanne d’Arc

  Thánh Jeanne d’Arc

    (1412 – 1431)     
   

   Thánh Jeanne d’Arc sinh trong một gia đình nông dân đạo đức người Pháp ở ngôi làng hẻo lánh Domremy, gần tỉnh Lorraine. Cô Jeanne không biết đọc và biết viết. Khi lên 13 hoặc 14 tuổi, cô được các cảm nghiệm siêu nhiên là nghe các tiếng nói mà cô nhận ra là của Tổng Lãnh Thiên Thần Micae, Thánh Catarina ở Siena, và Thánh Margaret.

     Lúc đầu việc thị kiến chỉ có tính cách riêng tư và tổng quát. Sau đó, vào tháng Năm 1428, các tiếng nói ấy bảo cô Jeanne đến với vua nước Pháp và giúp ông ta tái chiếm lại quốc gia. Vào lúc ấy, vua nước Anh đang tìm cách xâm chiếm nước Pháp, và Công Tước ở Burgundy, là đối thủ chính của vua Pháp cũng đứng về phe Anh để nuốt dần nước Pháp.

     Sau khi trải qua các chống đối từ hàng giáo sĩ và các quan trong triều, người thiếu nữ mười bảy tuổi đã được giao cho một đạo quân mà cờ hiệu của cô có hàng chữ “Giêsu-Maria” và dấu hiệu Thiên Chúa Ba Ngôi với hai thiên thần cầm hoa huệ hai bên. Trong bộ giáp trắng và với tinh thần hăng say, cô đã khích động tinh thần yêu nước của dân Pháp và đã giải thoát thành Orleans ngày 8 tháng Năm 1429. Sau đó là một chuỗi chiến thắng mà vua Pháp có thể tiến vào Rheims để đăng quang với sự hiện diện của cô ở bên cạnh.

     Vào tháng Năm 1430, khi cố gắng giải vây Compiegne, cô bị người Burgundi bắt và bán cho Anh, trong khi đó vua Charles và nước Pháp đã bỏ mặc cô trong tay quân địch. Sau nhiều tháng tù đầy, cô bị đưa ra tòa ở Rouen dưới quyền xét xử của Peter Cauchon, Ðức Giám Mục ở Beauvais, mà ông hy vọng rằng người Anh sẽ giúp ông lên chức tổng giám mục ở Rouen. Cô bị gạn hỏi về “các tiếng nói”, về đức tin và tại sao cô lại mặc y phục đàn ông.

     Không ai có thể chối bỏ sứ mạng và sự hy sinh của cô nên tòa tìm cách bôi nhọ tên tuổi của cô với các lời cáo buộc về tội lạc giáo và việc sử dụng ma thuật. Tuy nhiên, các câu trả lời thông minh và chân thật của cô chứng tỏ một đức tin vững mạnh và một tâm hồn thanh khiết đã khiến mọi người sửng sốt.

     Sau cùng, khi cô không chịu rút lại lời khẳng định rằng chính các thánh của Thiên Chúa đã ra lệnh cho cô phải thi hành những gì trong quá khứ, cô đã bị kết án tử hình về tội lạc giáo, tội sử dụng ma thuật và bị thiêu sống ngày 30 tháng Năm 1431, và hài cốt của cô bị quăng xuống sông Seine. Lúc ấy, cô mới mười chín tuổi.

     Vào năm 1456, người mẹ và hai em của cô kháng án xin mở lại hồ sơ, mà Ðức Giáo Hoàng Callistus III đã chấp thuận. Sau cuộc điều tra của giáo hội, cô được tuyên bố là vô tội đối với các lời cáo buộc trước đây. Cô được Ðức Giáo Hoàng Bênêđíc XV phong thánh năm 1920, và được tuyên xưng là quan thầy của nước Pháp năm 1922.

   Lời Bàn

     Cuộc đời Thánh Jeanne d’Arc tiêu biểu cho sự tương phản giữa tinh tuyền và thối nát quyền lực. Không giống như các thánh cổ điển, thánh nữ không dùng sự đạo đức để phục vụ giáo hội, nhưng để giải thoát quốc gia. Thánh nữ tượng trưng cho sự đạo đức chính trị, và sự can đảm của ngài khi đáp ứng “các tiếng mời gọi” là một gương mẫu thúc giục chúng ta lắng nghe tiếng gọi của lương tâm để hy sinh tranh đấu cho các nguyện vọng chính đáng.

    Lời Trích

     Trong một phiên toà, Thánh Jeanne d’Arc tuyên bố, “Về Ðức Kitô và Giáo Hội, tôi chỉ biết đó là một, và chúng ta đừng làm vấn đề thêm phức tạp.”

nguồn: từ Maria Thanh Mai gởi

Thánh Giáo Hoàng Grêgôriô VII

  Thánh Giáo Hoàng Grêgôriô VII

    (1020-1085)

   Thế kỷ thứ 10 và tiền bán thế kỷ 11 là những ngày u tối cho Giáo Hội, một phần là vì giáo triều chỉ là con cờ của một vài gia tộc ở Rôma. Vào năm 1049, mọi sự bắt đầu thay đổi khi Ðức Giáo Hoàng Lêô IX, một nhà cải cách, được bầu làm giáo hoàng. Ngài đem theo một đan sĩ trẻ tuổi tên là Hilderbrand đến Rôma làm cố vấn và đại diện đặc biệt cho ngài trong các sứ vụ quan trọng. Sau này, đan sĩ ấy trở thành Ðức Giáo Hoàng Grêgôriô VII.

    Thời ấy, ba tai họa quấy rối Giáo Hội là nạn buôn thần bán thánh (mua bán các chức vụ cũng như đồ vật thiêng liêng), nạn giáo sĩ kết hôn bất hợp pháp và nạn giáo dân tấn phong giáo sĩ (vua và các nhà quý tộc kiểm soát việc bài sai các viên chức Giáo Hội). Ðức Hildebrand đã trực tiếp chống đối các tệ đoan này qua lời khuyên nhủ đức giáo hoàng tiền nhiệm, cũng như trong thời ngài làm giáo hoàng (1073-1085).

    Các tông thư của Ðức Grêgôriô nhấn mạnh đến vai trò của vị Giám Mục Rôma là Ðại Diện Ðức Kitô, và là điểm hợp nhất hữu hình của Giáo Hội. Ngài nổi tiếng về cuộc tranh luận lâu dài với Thánh Ðế Rôma Henry IV về vấn đề ai là người kiểm soát việc tuyển chọn các giám mục và tu viện trưởng.

     Ðức Grêgôriô hăng hái chống trả mọi tấn công vào sự tự do của Giáo Hội. Vì lý do đó ngài phải đau khổ và sau cùng bị chết trong khi lưu đầy. Ngài nói, “Tôi yêu quý công bằng và ghét bỏ sự bất công; do đó tôi chết trong cảnh lưu đầy.” Ba mươi năm sau, Giáo Hội mới thắng được cuộc chiến đấu chống với nạn giáo dân tấn phong giáo sĩ.

   Lời Bàn

     Cuộc Canh Tân Grêgôriô, một sự kiện quan trọng trong lịch sử Giáo Hội, được mang tên của một người đã cố gắng giải thoát giáo triều và toàn thể Giáo Hội khỏi sự kiểm soát của nhà cầm quyền thế tục. Chống với loại chủ nghĩa dân tộc không lành mạnh ở một số vùng, Ðức Grêgôriô đã tái khẳng định sự hiệp nhất của toàn thể Giáo Hội dựa trên Ðức Kitô và được diễn đạt qua Ðức Giám Mục Rôma, đấng kế vị Thánh Phêrô.

   Lời Trích

     Ðức Grêgôriô như đã nói với thời đại chúng ta mà trong đó nhà cầm quyền dân sự hay tôn giáo trong nước đang có những đòi hỏi ngấm ngầm: “Trong bất cứ quốc gia nào, ngay cả người phụ nữ nghèo hèn nhất cũng được kết hôn một cách hợp pháp theo luật lệ quốc gia và theo sự lựa chọn của họ; nhưng, qua những khát vọng và thói tục xấu xa của người độc ác, Giáo Hội Thánh Thiện, là nàng dâu của Thiên Chúa và là mẹ của tất cả chúng ta, không được phép bám víu lấy người hôn phu ở trái đất này theo như luật lệ của Thiên Chúa và ý muốn của Giáo Hội” (Lời Kêu Gọi Tín Hữu).

 nguồn: từ Maria Thanh Mai gởi

Thánh Germain

      Thánh Germain

    (496 – 576)

     Thánh Germain là một đan viện trưởng với đặc tính thương người nghèo và chia sẻ của cải cho họ đến độ các đan sĩ phải phản đối, nếu không đan viện sẽ không còn gì để sống.

     Ngài sinh ở Autun nước Pháp, theo học tại Avalon và Luzy dưới sự dẫn dắt của người chú là một linh mục. Sau khi làm đan viện trưởng của Ðan Viện Thánh Symphorien gần Autun, năm 555 ngài được Vua Childebert chọn làm giám mục Balê, sau khi Ðức Giám Mục Eusebius từ trần.

     Trong thời gian làm giám mục, ngài vẫn giữ lối sống kham khổ của đan viện và luyện tập các nhân đức. Ngài tham dự các Công Ðồng Balê III và IV (557, 573) cũng như Công Ðồng Tour II (566). Ngài thúc giục nhà vua từ bỏ các thói quen ngoại giáo và cấm tiêu xài phung phí trong các buổi lễ Kitô Giáo.

     Sau khi vua Childebert từ trần, nước Pháp tan hoang vì sự tranh giành và bị chia làm bốn cho bốn thái tử. Ðức Germain đã phải can thiệp, dùng thẩm quyền của Giáo Hội để ra vạ tuyệt thông một thái tử vì sự đồi trụy, và ngài cố gắng ngăn cản cuộc chiến giữa các thái tử khác.

     Trước khi sự thái bình được vãn hồi, Ðức Germain đã từ trần ở Balê ngày 28-5-576. Thi hài của ngài được chôn trong nhà nguyện Thánh Symphorien nhưng sau đó, năm 754, đã được cung kính chôn cất trong thánh đường chính, trước sự hiện diện của Vua Pepin và thái tử Charlemagne. Từ đó trở đi, Thánh Germain thường được gọi là Thánh Germain-des-Prés.

 Ngoài lá thư của Vua Childebert cảm tạ Thánh Germain vì đã cứu ông thoát chết một cách lạ lùng, ngày nay người ta còn giữ một luận án về bản phụng vụ cổ của Pháp mà họ cho rằng Thánh Germain đã sáng tác.

nguồn: từ Maria Thanh Mai gởi

Thánh Maria Anna “de Paredes”

Thánh Maria Anna “de Paredes”

(1618 — 1645)

Thánh Maria Anna, còn gọi là “Bông Huệ Quitô,” có cuộc đời rất giống Thánh Rôsa ở Lima.
Ngài cũng hãm mình, sống cô độc, được xuất thần và ơn nói tiên tri.

Sinh ở Quito, Ecuador, ngay từ khi còn nhỏ, Maria Anna rất sùng kính Ðức Mẹ và đã muốn đi tu. Lúc mười tuổi ngài thề sống khó nghèo, khiết tịnh và vâng phục. Lúc đầu ngài
muốn trở thành một nữ tu dòng Ða Minh, nhưng sau đó ngài gia nhập dòng Ba
Phanxicô, trở nên một ẩn tu sống khắc khổ trong nhà người chị, dưới sự linh
hướng của cha giải tội dòng Tên.

Cũng như Thánh Rôsa, Maria Anna thường tự cho mình là “Maria Anna của Chúa Giêsu”, ngài chăm sóc người nghèo và dạy dỗ các trẻ em người thổ dân ngay tại nhà của mình.
Về lối sống khắc khổ, ngài ăn rất ít và ngủ có ba giờ mỗi đêm. Ngài được ơn
tiên tri, biết được tâm hồn người khác, chữa lành người bệnh tật qua dấu Thánh
Giá hoặc rảy nước phép, và đã có lần làm cho người chết sống lại.

Sau trận động đất năm 1645 ở Quito, một trận dịch lan tràn và Maria Anna đã dâng hiến cuộc đời mình để hy sinh cho thành phố, và thật vậy, ngài đã từ trần ngay sau khi trận dịch
bắt đầu giảm bớt.

Ngài được phong thánh năm 1950.

Lời Bàn

Thánh Phanxicô Assisi đã chiến thắng chính mình khi ngài ôm hôn một người cùi. Nếu sự từ bỏ mình không dẫn đến đức bác ái, thì việc ăn năn đền tội đã mất lý do chính đáng. Sự
hy sinh hãm mình của Thánh Maria Anna đã giúp ngài nhậy cảm hơn với nhu cầu của
tha nhân, và can đảm hơn khi phục vụ người nghèo.

Lời Trích

“Khi được thúc
giục bởi tình yêu Thiên Chúa và đồng loại, thánh nữ đã tự hành hạ thân xác mình
để đền bù tội lỗi cho tha nhân. Quên đi thế giới chung quanh và ngài đắm chìm
trong sự ngây ngất, như được nếm trước hạnh phúc vĩnh cửu. Do đó, được biến đổi
và phong phú bởi ơn Chúa, với tất cả khả năng, ngài thật hăng say lo lắng đến
sự cứu độ không những cho chính mình mà còn cho người khác. Thánh nữ độ lượng
giúp vơi bớt sự bất hạnh của người nghèo và xoa dịu sự đau khổ của người đau
yếu. Khi các thiên tai như động đất và bệnh dịch làm kinh hãi người dân thành
phố, thánh nữ đã phấn đấu qua sự cầu nguyện, sự đền tội và sau cùng, ngài đã
dâng hiến cuộc đời để nài xin lòng thương xót của Chúa Cha mà thánh nữ không
thể hoàn thành được bằng nỗ lực con người” (Ðức Giáo Hoàng Piô XII).

nguồn: Từ Maria Thanh Mai gởi

Thánh Maria Mađalêna Pazzi

 Thánh Maria Mađalêna Pazzi

     (1566 — 1607)

 24 Tháng Năm

 

   Sự ngây ngất huyền bí là nâng tâm hồn lên đến Chúa trong một phương cách có ý thức về sự kết hợp này, đồng thời, các giác quan nội tại và ngoại vi đều tách biệt khỏi thế giới cảm xúc. Thánh Maria Mađalêna Pazzi được Chúa ban cho ơn đặc biệt này thật nhiều đến nỗi người ta gọi ngài là “thánh ngây ngất.”

   Ngài tên thật là Catarina “de’ Pazzi”, sinh trong một gia đình quyền quý ở Florence năm 1566. Bình thường, ngài đã có thể lấy một người chồng giầu sang và an hưởng cuộc đời nhàn hạ, nhưng ngài đã chọn một con đường đặc biệt cho chính mình. Ngay từ khi chín tuổi, ngài đã tập suy niệm qua sự chỉ bảo của cha giải tội cho gia đình. Lúc 10 tuổi ngài được rước lễ lần đầu và một tháng sau đó ngài thề giữ mình đồng trinh. Khi 16 tuổi, ngài gia nhập Dòng Camêlô ở Florence chỉ vì muốn rước Mình Thánh Chúa hằng ngày (là một điều ngoại lệ vào thời ấy).

     Vào dòng, Catarina lấy tên là Maria Mađalêna và khi bị từ chối không cho khấn trọn vì còn nhỏ tuổi, ngài lâm bệnh nặng. Tưởng ngài sắp chết, mẹ bề trên cho ngài khấn trọn khi còn nằm trên giường bệnh trong một nghi thức đặc biệt. Nhưng ngay sau đó, ngài rơi vào trạng thái ngây ngất (xuất thần) và kéo dài khoảng hai giờ đồng hồ. Trong vòng 40 ngày kế tiếp, trạng thái này liên tục xảy ra sau mỗi lần rước Mình Thánh Chúa. Những lần ngây ngất này đầy dẫy những cảm nghiệm hợp nhất với Thiên Chúa và chứa đựng những hiểu biết lạ lùng về chân lý của Thiên Chúa.

     Ðể khỏi bị lừa gạt và để giữ lại các điều mặc khải, cha giải tội yêu cầu ngài kể lại các điều được cảm nghiệm để các nữ tu thư ký ghi chép lại. Chỉ trong vòng sáu năm, các trang giấy ghi chép ấy đã tổng hợp thành năm bộ sách lớn.

     Những gì chúng ta cho là phi thường thì đối với thánh nữ lại là điều bình thường. Ngài có thể đọc được tư tưởng của người khác, và tiên đoán các biến cố tương lai. Ngay khi còn sống, ngài đã xuất hiện với vài người ở cách xa nhau và đã chữa nhiều người khỏi bệnh.

   Qua những ơn sủng kỳ lạ của thánh nữ, chúng ta tưởng rằng ngài luôn luôn sống trong trạng thái tinh thần cao độ. Sự thật thì khác hẳn. Dường như Thiên Chúa cho phép ngài được gần gũi với Chúa một cách đặc biệt là để chuẩn bị cho thời gian cô độc khi thánh nữ cảm thấy đời sống tâm linh khô khan một cách kỳ lạ. Vào năm mười chín tuổi ngài bắt đầu thời kỳ năm năm dài thật khô khan và lẻ loi, bị cám dỗ đủ mọi mặt. Tâm hồn ngài lúc ấy như một căn phòng tối đen với chút ánh sáng thật yếu ớt mà chỉ làm bóng đêm thêm dầy đặc. Ngài thật buồn sầu đến nỗi đã hai lần toan tự tử. Tất cả những gì ngài có thể làm để chống trả các cám dỗ là kiên trì cầu nguyện, hãm mình, phục vụ tha nhân dù rằng tất cả những điều ấy dường như vô nghĩa.

     Vào năm 1604, bệnh nhức đầu và tê bại khiến ngài phải nằm liệt giường. Tất cả các giác quan của ngài thật nhạy ứng đến độ bất cứ đụng đến đâu, thân thể ngài đau khủng khiếp. Sau ba năm chịu đựng, ngài từ trần năm 1607 khi 41 tuổi, và được phong thánh năm 1669.

     Lời Bàn

    Sự kết hợp mật thiết, mà Chúa ban cho các vị thần nghiệm, là một nhắc nhở cho tất cả chúng ta về sự kết hợp vinh phúc đời đời mà Người muốn ban cho chúng ta. Trong cuộc đời trần thế, Chúa Thánh Thần là động lực tạo nên sự ngây ngất huyền nhiệm qua các ơn sủng thiêng liêng. Sự ngây ngất xảy ra là vì thân xác quá yếu đuối, không thể chịu đựng nổi sức khai minh thánh thiêng, nhưng khi thân xác được thanh tẩy và vững mạnh, sự ngây ngất không còn xảy ra nữa. (Muốn biết thêm về sự ngây ngất, tìm đọc cuốn Interior Castle [Thành Trì Nội Tâm] của Thánh Têrêsa Avila, và cuốn Dark Night of the Soul [Ðêm Tối của Linh Hồn] của Thánh Gioan Thánh Giá.)

     Lời Trích

    Nhiều người ngay nay không thấy giá trị của sự đau khổ. Thánh Maria Mađalêna Pazzi khám phá ra ơn cứu độ trong sự đau khổ. Khi đi tu, ngài ao ước chịu đau khổ vì Ðức Kitô trong suốt cuộc đời. Lời di chúc của thánh nữ để lại cho các nữ tu trong dòng là: “Ðiều sau cùng tôi muốn xin các chị — và tôi xin vì danh Chúa Giêsu Kitô — đó là các chị chỉ yêu thương một mình Người, hoàn toàn tín thác vào Người và khuyến khích lẫn nhau tiếp tục chịu đau khổ vì yêu thương Người.”

 nguồn: từ Maria Thanh Mai gởi

Thánh Gioan Báptít Rossi

   Thánh Gioan Báptít Rossi

    (1698 — 1764)                                                   23 Tháng Năm

    Vị linh mục tài giỏi và thánh thiện này sinh ở làng Voltaggio thuộc giáo phận Genoa nước Ý. Khi còn là thiếu niên, thấy ngài thông minh, hai vợ chồng người bạn của gia đình đưa ngài về Genoa cho ăn học. Trong thời gian ba năm ở đây, ngài được sự chú ý của hai vị tu sĩ Capuchin, là người thường đến thăm gia chủ và đã phúc trình nhận xét của họ lên bề trên tỉnh dòng Capuchin, mà sau đó bác của ngài, là một kinh sĩ của nhà dòng ở Rôma đã xin cho ngài vào một trường ở Rôma ăn học, lúc 13 tuổi.

     Trong thời gian theo học ở trường Collegium Romanum ngoài gương mẫu về học vấn và nhân đức, ngài còn tập hãm mình phạt xác theo gương các vị khổ tu mà ngài đọc được ở trong sách. Sự khổ cực cộng thêm chương trình học nặng nề đã dẫn đến cơn động kinh mà sau đó ngài phải nghỉ học. Sau này, ngài phục hồi sức khoẻ và hoàn tất việc học ở Minerva, nhưng không thể nào khoẻ mạnh được như trước.

     Sau thời gian tu tập, ngài được thụ phong linh mục năm 23 tuổi và tận tụy rao giảng cho những người nông dân, người chăn nuôi từ quê lên tỉnh buôn bán, và ngài tìm cách giúp đỡ những phụ nữ vô gia cư phải sống ngoài đường phố qua công việc ăn xin hay làm điếm. Tiền của ngài kiếm được chỉ nhờ bổng lễ, nhưng khi được chính quyền địa phương và đức giáo hoàng giúp đỡ, ngài đã dùng tiền ấy để thuê một căn nhà cho những người nghèo lên tỉnh tạm trú.

    Ngài hăng say rao giảng mọi nơi, ở nhà thờ, nhà thương, tu viện cũng như nhà tù khiến ngài nổi danh là vị tông đồ của những người bị ruồng bỏ, không khác gì Thánh Philíp Nêri.

     Năm 1763, ngài kiệt quệ vì sự lao nhọc và bệnh tật. Sau một vài cơn kích xúc tim khiến ngài bị tê liệt, ngài đã từ trần ở Pellegrini năm 66 tuổi.

   Thiên Chúa đã vinh danh ngài qua những phép lạ. Ngài được Ðức Giáo Hoàng Lêô XIII phong thánh năm 1881.

 nguồn: Maria Thanh Mai gởi

Thánh Rita ở Cascia

   Thánh Rita ở Cascia

   (1381 — 1457)    

  22 Tháng Năm   

 Trong nhiều thế kỷ, Thánh Rita ở Cascia là một trong những vị thánh nổi tiếng của Giáo Hội Công Giáo. Người ta thường gọi ngài là “Vị Thánh Bất Khả,” vì bất cứ điều gì nhờ ngài cầu bầu đều được Thiên Chúa nhận lời.

    Thánh Rita sinh ở Spoleto, nước Ý năm 1381. Ngay từ nhỏ ngài đã muốn dâng mình cho Chúa, nhưng vì vâng lời cha mẹ già, ngài phải kết hôn với một ông chồng thô bạo và nóng nẩy. Trong 18 năm, ngài kiên nhẫn dùng sự cầu nguyện và tử tế để đối xử với ông chồng luôn khinh thường và gian dâm. Sau cùng ông đã ăn năn hối lỗi và bị giết vì một mối thù truyền kiếp. Tưởng đã yên thân sau cái chết của chồng, ngài lại khổ tâm khi thấy hai người con trai thề quyết trả thù cho cha mình, và ngài đã cầu xin Thiên Chúa để cho họ chết còn hơn phạm tội giết người. Quả thật, cả hai lâm bệnh nặng, và ngài đã chăm sóc, khuyên giải hai con trở về với Thiên Chúa trong sự bình an trước khi lìa đời.

     Bây giờ không chồng và không con, ngài xin gia nhập Dòng Augustine ở Cascia, nhưng bị từ chối vì không còn là trinh nữ. Với sự kiên trì và lòng tin mạnh mẽ, Thiên Chúa đã can thiệp để ngài được nhập dòng. Người ta kể rằng, một đêm kia Thiên Chúa đã đưa ngài vào trong khuôn viên của tu viện dù đã kín cổng cao tường. Thấy vậy, các nữ tu tin rằng ý Chúa muốn ngài được chấp nhận vào dòng.

     Trong đời sống tu trì, ngài nổi tiếng về lòng bác ái và ăn chay hãm mình. Lời ngài cầu nguyện cho những kẻ đau yếu thường được Thiên Chúa nhận lời. Ngoài ra, qua sự khuyên bảo, ngài đã đưa nhiều người trở về với đời sống Công Giáo.

     Vào năm 1441, ngài được đặc biệt chia sẻ sự thống khổ của Ðức Kitô bằng các vết mão gai trên đầu. Các vết thương ấy thật đau đớn và chảy máu, xông mùi khó chịu đến độ ngài phải sống tách biệt với mọi người, tuy nhiên ngài vẫn coi đó là ơn sủng đặc biệt và xin được sức mạnh để gánh chịu cho đến chết.

     Ngài từ trần vì bệnh lao ngày 22 tháng Năm 1457 khi 76 tuổi. Ngài đặc biệt được tôn kính ở nước Ý ngày nay. Ngài được coi là quan thầy của những trường hợp khó khăn, nhất là có liên hệ đến hôn nhân.

 Ngài được phong chân phước năm 1626 và được phong thánh năm 1900.

nguồn: Maria Thanh Mai gởi

 

Thánh Crispin ở Viterbo

Thánh Crispin ở Viterbo

    (1668 — 1750)

 21 Tháng Năm    

 Thánh Crispin tên thật là Phêrô Fioretti, sinh ở Viterbo, nước Ý. Ngài mồ côi cha ngay khi còn nhỏ. Vì hay đau yếu mà nhà lại nghèo, nên bà mẹ đã dâng cậu con trai năm tuổi cho Ðức Mẹ. Biến cố đó không bao giờ phai nhạt trong đầu Phêrô mà sau này cậu thường coi Ðức Maria như mẹ ruột của mình.

     Vì nghèo không đủ tiền đi học, Phêrô theo ông chú học nghề đóng giầy, cho đến khi 25 tuổi, Phêrô gia nhập dòng Capuchin với tư cách thầy trợ sĩ và lấy tên là Crispin.

     Sau khi khấn trọn, ngài được giao cho công việc đầu bếp cho nhà dòng ở Tolfa. Như lúc còn ngoài đời, ngài luôn luôn sùng kính Ðức Mẹ và qua sự cầu nguyện của thầy, nhiều người đã được chữa lành về phần xác cũng như phần hồn. Có lần một nhà quý tộc vì sống trác táng nên bị đau nặng và đến xin Thầy Crispin cầu nguyện. Thầy hỏi, “Thưa ngài, ngài muốn Ðức Mẹ chữa ngài, nhưng nếu giả như có người xúc phạm đến Con của Mẹ thì người ấy có làm buồn lòng Ðức Mẹ không? Nếu thực sự sùng kính Ðức Mẹ thì không thể xúc phạm đến Con của Mẹ được.” Nhà quý tộc đã ăn năn sám hối và thay đổi đời sống.

     Cùng với công việc đầu bếp, y tá, làm vườn, Thầy Crispin là người khất thực chính cho nhà dòng trong gần 40 năm. Ngay từ khi mặc áo dòng cho đến khi từ trần, thầy được Chúa ban cho ơn chữa lành bệnh tật và bất cứ ai đến với thầy đều cảm thấy phấn khởi và được bình an trong tâm hồn. Trong thời gian khất thực ở Orvieto, ngài không chỉ xin cho nhà dòng, mà còn xin cho tất cả những người nghèo ở đây.

     Ngài đích thực là con cái của Thánh Phanxicô, luôn luôn vui vẻ và hăng say phục vụ cho đến khi từ trần vào lúc tám mươi hai tuổi. Ngài được Ðức Giáo Hoàng Piô VII phong chân phước năm 1806 và Ðức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II phong thánh cho ngài năm 1982

    Lời Bàn

     Cha Henri de Lubac, dòng Tên, đã viết, “Chúng ta phải yêu quý thời đại của chúng ta, nhưng không nhượng bộ tinh thần của thời đại, có như thế, mầu nhiệm Kitô Giáo trong chúng ta sẽ không bao giờ mất sức sống” (Sự Huy Hoàng của Giáo Hội, t. 183). Thánh Crispin quý trọng bất cứ ai mà Thiên Chúa đã đưa đến với ngài và trong bất cứ thời gian nào. Thánh Crispin đã trở nên cuốn phúc âm sống động cho anh em dòng và cho người dân ở Orvieto. Sự thánh thiện của ngài đã khuyến khích họ sống bí tích rửa tội một cách độ lượng hơn.

    Lời Trích

     Trong bài giảng lễ phong thánh cho Thầy Crispin, Ðức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II nói rằng gia đình nhân loại thường bị “cám dỗ bởi quyền tự trị lầm lạc, vì từ chối các giá trị Phúc Âm, do đó, nhân loại cần đến các thánh, là những gương mẫu đã dùng đời sống cụ thể của mình để minh chứng tính cách xác thực của Ðấng Tối Cao, giá trị của sự Mặc Khải và sự Cứu Ðộ mà Ðức Kitô đã hoàn thành” (Báo L’Observatore Romano 1982, tập 26, số 1).

nguồn: từ Maria Thanh Mai gởi

Thánh Paschal Baylon

    Thánh Paschal Baylon

    (1540 – 1592)

                                                                        17 Tháng Năm

    Trong cuộc đời Thánh Paschal, đế quốc Tây Ban Nha cực kỳ có thế lực ở Tân Thế Giới, mặc dù sau đó không lâu, Pháp và Anh đã làm suy giảm thế lực này. Thế kỷ 16 thường được gọi là Thời Ðại Vàng Son của Giáo Hội Tây Ban Nha, vì đã phát sinh các vị thánh như Y-Nhã ở Loyola, Phanxicô Xaviê, Têrêsa ở Avila, Gioan Thánh Giá, Phêrô ở Alcantara, Phanxicô Sôlanô và Salvator ở Horta.

     Thánh Paschal sinh ở Aragon, Tây Ban Nha trong một gia đình nghèo nhưng đạo đức. Trong khoảng thời gian từ bảy đến 24 tuổi, ngài làm nghề chăn cừu và bắt đầu một cuộc sống rất hãm mình. Ngài luôn luôn cầu nguyện, ngay cả khi làm việc và nhất là khi tiếng chuông nhà thờ báo hiệu lúc dâng Mình Thánh trong Thánh Lễ.

     Năm 1564, Paschal gia nhập dòng Anh Em Hèn Mọn và tận tụy hiến thân cho cuộc đời ăn năn đền tội. Mặc dù ngài được khuyến khích học làm linh mục, nhưng ngài chọn làm thầy trợ sĩ. Trong những quãng thời gian khác nhau, thầy đảm trách các công việc giữ cửa, nấu ăn, làm vườn và chính yếu là đi khất thực.

     Thầy Paschal rất thận trọng tuân giữ lời khấn khó nghèo. Thầy không bao giờ phí phạm thức ăn hay bất cứ gì được sử dụng trong nhà dòng. Khi là người giữ cửa và tiếp đón các người nghèo đến xin giúp đỡ, thầy nổi tiếng là độ lượng. Ðôi khi, các tu sĩ trong dòng phải ngăn cản sự phóng khoáng của thầy!

     Một đặc tính của Thầy Paschal là sùng kính Thánh Thể. Ngoài những thời giờ bận rộn vì nhiệm vụ, bất cứ khi nào có cơ hội, thầy thường dành để cầu nguyện trước Thánh Thể. Cuộc đời thầy đầy dẫy những phép lạ chữa lành mà dân chúng được lãnh nhận qua sự cầu nguyện của thầy. Tuy là thầy trợ sĩ nhưng lúc bấy giờ rất nhiều người tìm đến thầy để xin cố vấn.

    Ngay cả cái chết của thầy cũng được ghi dấu bằng một biến cố bất thường. Người ta kể rằng thầy trút hơi thở cuối cùng khi linh mục nâng Mình Thánh lên cao trong Lễ Hiện Xuống.

     Thầy Paschal được phong thánh năm 1690, và năm 1897, ngài được đặt làm quan thầy của các tổ chức cũng như nghị hội về Thánh Thể.

 Lời Bàn

    Việc cầu nguyện trước Thánh Thể chiếm nhiều thời giờ và năng lực của Thánh Phanxicô. Hầu hết các lá thư của thánh nhân đều thúc giục sự sùng kính Thánh Thể. Thánh Paschal cũng noi gương đó. Một giờ cầu nguyện trước Thánh Thể có thể dạy bảo chúng ta rất nhiều điều. Một số người Công Giáo đạo đức ngày nay thấy rằng công việc của họ được phong phú hóa là nhờ những giây phút dành để cầu nguyện và chiêm niệm trước Thánh Thể.

    Lời Trích

  “Hãy suy nghĩ kỹ về điều này: Hãy tìm kiếm Thiên Chúa trên hết mọi sự. Thật đúng khi bạn tìm kiếm Thiên Chúa trước hết và trên hết mọi sự, bởi vì Thiên Chúa cao cả sẽ ban cho bạn những gì bạn cầu xin. Ðiều này cũng giúp bạn sẵn sàng phục vụ Thiên Chúa và kính mến Người cách tuyệt hảo hơn” (Thánh Paschal).

 Nguồn từ Maria Thanh Mai gởi

Thánh Isidore

 

15 Tháng Năm

   Thánh Isidore

   (1070 – 1130)

    Thánh Isidore là quan thầy của các nông dân và làng quê. Ðặc biệt, ngài là quan thầy của Madrid, Tây Ban Nha, và của Hội Nghị Ðời Sống Công Giáo Thôn Quê Hoa Kỳ.

     Khi lớn tuổi, ngài làm công cho gia đình ông Gioan de Vergas, một địa chủ giầu có ở Madrid, và trung thành làm việc cho đến mãn đời. Isidore kết hôn với một thiếu nữ đạo đức và chính trực mà sau này bà được tuyên xưng là thánh Maria de la Cabeza. Hai người có được một con trai nhưng chẳng may cậu chết sớm. Cả hai ông bà tin rằng ý Chúa không muốn hai người có con, do đó họ quyết định sống khiết tịnh cho đến suốt đời.

   Isidore là người đạo đức thâm trầm bẩm sinh. Ngài thức dậy từ sáng sớm để đi lễ và dành thời giờ trong những dịp lễ lớn để đi viếng các nhà thờ ở Madrid và vùng phụ cận. Trong khi làm việc, ngài luôn chuyện trò với Thiên Chúa. Khi bị các đồng nghiệp cho rằng ngài trốn tránh nhiệm vụ qua việc tham dự Thánh Lễ hằng ngày, lấy nhiều thời giờ để cầu nguyện, v.v., Isidore trả lời rằng ngài không còn lựa chọn nào khác hơn là tuân theo Ông Chủ tối cao. Truyền thuyết kể rằng, một sáng kia khi ông chủ đến cánh đồng để bắt quả tang Isidore trốn việc đi nhà thờ, ông thấy các thiên thần đang cầy cấy nơi khu ruộng của Isidore.

    Isidore còn nổi tiếng là thương người nghèo và cũng thường để ý đến việc chăm sóc loài vật.

     Isidore từ trần ngày 15 tháng Năm 1130, và được phong thánh năm 1622, cùng với các Thánh I-nhã, Phanxicô Xaviê, Têrêsa và Philip Nêri.

    Lời Bàn

  Chúng ta có thể tìm thấy nhiều sự ứng dụng nơi vị lao công thánh thiện này: Công việc lao động có phẩm giá; sự thánh thiện không bắt nguồn từ địa vị xã hội; sự chiêm niệm không lệ thuộc vào học thức; đời sống thanh bạch là con đường dẫn đến sự thánh thiện và hạnh phúc.

nguồn: Maria Thanh Mai gởi

Thánh Pancratius

 13 Tháng Năm

    Thánh Pancratius    (c. 304) 

 Thánh Pancratius là vị tử đạo thời tiên khởi mà chúng ta biết rất ít về ngài. Truyền thuyết nói rằng ngài sinh vào cuối thế kỷ thứ ba và được người chú ở Rôma nuôi dưỡng sau khi cha mẹ mất sớm. Sau đó, hai chú cháu theo Kitô Giáo. Trong thời gian cấm đạo của Hoàng Ðế Diocletian, Pancratius bị chặt đầu năm 304, lúc ấy ngài mới 14 tuổi.

     Ngài được chôn trong một nghĩa địa mà sau này mang tên của ngài. Thánh Pancratius được nước Anh đặc biệt sùng kính vì Thánh Augustine ở Canterbury đã dâng hiến một nhà thờ ở đây cho Thánh Pancratius, và thánh tích của ngài được tặng cho vua xứ Northumberland.

     Lời Trích

     “Chúng sẽ bắt bớ và ngược đãi anh em, nộp anh em cho các hội đường và nhà tù, và chúng sẽ điệu anh em đến trước mặt vua quan vì danh Thầy. Ðó là cơ hội để anh em làm chứng. Hãy nhớ rằng, đừng lo nghĩ cách bào chữa, vì chính Thầy sẽ cho anh em tài ăn nói khôn ngoan khiến tất cả các địch thủ không tài nào chống đối hay bắt bẻ được” (Luca 21:12-15)

 

 

 

Chân Phước Damien ở Molokai

 

 Chân Phước Damien ở Molokai                                                                                       (1840 – 1889)

     Chân Phước Damien, tên thật là Giuse “de Veuster”, sinh ở Bỉ ngày 3 tháng Giêng 1840, trong một gia đình mà cha là một nông dân cần cù và bà mẹ tận tụy dạy dỗ đức tin cho tám người con.

     Ngay từ nhỏ, cậu Giuse mạnh khoẻ và tráng kiện, đã phải thôi học để giúp cha trong công việc đồng áng. Cậu chăm chỉ giúp đỡ gia đình trong nhiều năm, nhưng tâm hồn cậu vẫn ở một nơi nào đó. Vào lúc 19 tuổi, theo gương anh mình, Giuse gia nhập Tu Hội Thánh Tâm Chúa Giêsu và Mẹ Maria, và lấy tên là Damien. Vì nhất quyết theo đuổi việc học và để hết tâm hồn trong đời sống tu trì, chẳng bao lâu Damien đã bù đắp được sự thiếu hụt trong việc giáo dục trước đây.

     Vào năm 1863, Cha Pamphile, anh ruột của Thầy Damien, chuẩn bị đến quần đảo Hạ Uy Di trong công tác truyền giáo. Nhưng cha lâm bệnh nặng, và Thầy Damien tình nguyện thế chỗ. Sau năm tháng dòng dã trên biển, thầy đến hải cảng Honolulu. Trong vòng hai tháng tiếp đó, thầy được thụ phong linh mục và được bổ nhiệm phục vụ ở Ðại Ðảo của Hạ Uy Di. Sự phục vụ của Cha Damien được ghi nhận là hăng say và tính tình dễ dãi của ngài thu hút được nhiều người. Sau khoảng một thập niên, ngài tình nguyện đến Molokai để phục vụ các người bị mắc bệnh Hansen, thường gọi là bệnh cùi. Vào lúc Cha Damien đến đây, những người mắc bệnh cùi bị đầy ra đảo này đã hơn mười năm qua.

     Cha Damien, lúc ấy 33 tuổi, đến Molokai vào tháng Năm 1873 với hành trang là cuốn sách kinh và một ít quần áo. Theo dự định ban đầu của tu hội, ngài chỉ ở đây một vài tháng rồi sau đó có các linh mục khác lần lượt ra thay thế. Nhưng sau khi đến đây được ít lâu, ngài đã viết thư xin cha bề trên cho phép ngài vĩnh viễn ở lại Molokai.

     Có thể nói, ngài sống với người cùi — ăn uống với họ, đụng chạm đến họ, chào đón họ. Cha Damien được giao cho trông coi một cộng đồng Công Giáo. Hàng ngày, cha như chìm đắm trong sự cầu nguyện, suy gẫm và đọc sách thiêng liêng, do đó ngài lôi cuốn được hàng trăm người trở lại đạo. Nhưng tâm hồn của cha vẫn ở với tất cả các nạn nhân của bệnh Hansen, dù Công Giáo hay không Công Giáo. Ngài chăm sóc người bệnh, mai táng kẻ chết, lắng nghe những tâm sự đau lòng. Ngài giúp cải tiến hệ thống dẫn nước cũng như nơi ăn ở của họ. Ngài trông coi việc xây cất một trường học, một cô nhi viện và tổ chức sinh hoạt thiếu nhi cũng như ca đoàn. Ngài là người đào huyệt cũng như chủ sự lễ an táng.

     Người ta không rõ khi nào thì Cha Damien bị lây bệnh cùi, nhưng chắc chắn là một ngày trong năm 1884 khi ngài bị phỏng ở chân mà không thấy đau. Căn bệnh tấn công ngài như bất cứ người nào khác: từ từ, chân tay và mặt mũi ngài biến dạng, tai ngài sưng to và méo mó. Vào ngày 15 tháng Tư 1889, ngày thứ Hai Tuần Thánh, căn bệnh đã chấm dứt cuộc đời Cha Damien, khi mới 49 tuổi. Lúc ấy được 16 năm sau khi ngài đến Molokai, và 25 năm kể từ khi ngài đến Hạ Uy Di để bắt đầu công việc truyền giáo.

     Trong những ngày cuối đời, Cha Damien được Mẹ Bề Trên Marianne Cope chăm sóc, là người đã hứa sẽ tiếp tục công việc mà cha đã khởi sự. Và sơ đã thể hiện điều đó trong 30 năm kế tiếp với sự cộng tác của các sơ trong tu hội.

     Theo lời yêu cầu, ngài được chôn cất ở Kalaupapa, nhưng vào năm 1936, chính phủ Bỉ đã thành công trong việc đưa thi hài của ngài về Bỉ. Một phần thân thể của Cha Damien được đưa về Hạ Uy Di sau lễ phong chân phước năm 1995.

     Khi Hạ Uy Di trở thành một tiểu bang của Hoa Kỳ, tiểu bang này đã chọn Cha Damien là một trong hai đại diện của quốc gia có tượng đặt trong Statuary Hall ở trụ sở Quốc Hội Hoa Kỳ.

     Lời Trích

     Trong bài giảng lễ phong chân phước, Ðức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II nói: “Sự thánh thiện không phải là sự tuyệt hảo theo tiêu chuẩn con người; sự thánh thiện cũng không dành riêng cho một ít người đặc biệt. Sự thánh thiện là cho mọi người; chính Chúa là người đưa chúng ta đến sự thánh thiện khi chúng ta sẵn sàng cộng tác trong công trình cứu độ thế giới vì sự vinh hiển của Thiên Chúa, bất kể tội lỗi của chúng ta hay tính khí bất thường của chúng ta.”

Trích Lẽ Sống     nguồn: từ Maria Thanh Mai gởi