KHÁT TÌNH

KHÁT TÌNH

(Thứ Sáu Tuần Thánh)

BỬU HUYẾT GIÊSU TƯƠI MÀU CỨU ĐỘ

OAN KHIÊN THẾ GIỚI HÓA SẮC TINH TUYỀN

Có nhiều dạng khát – bao gồm cả nghĩa đen và nghĩa bóng, nhưng có lẽ mạnh mẽ và ray rứt nhất là dạng “khát tình”. Thật vậy, chính Chúa Giêsu cũng đã phải thốt lên trong những giây phút cuối cùng: “TÔI KHÁT!” (Ga 19:28) – khát cả thể lý lẫn tinh thần.

Tam Nhật Vượt Qua là“đỉnh cao” của Mùa Chay, còn gọi là Tam Nhật Thánh(Triduum). Trong đó,ngày Thứ Sáu Tuần Thánh là Ngày Đại Tang, là đỉnh cao của Ơn Cứu Độ, đặc biệt là Giờ Thứ Chín (tức 15 giờ), giờ của Lòng Chúa Thương Xót.

Khoảnh khắc hấp hối là “phút cuối” của một con người, là lúc lắng đọng và xúc động nhất đời người – dù người đó đáng yêu hay đáng ghét. Càng xúc động hơn khi thấy người hấp hối chịu đau nhức quằn quại từng cơn, có những người toát mồ hôi hột nhưng âm thầm chịu đựng, có những người phải la hét dữ dội.Phút cuối là khoảnh khắc ngắn ngủi, chỉ trong tích tắc, nhưng lại nặng nề trôi… Và phút cuối là lúc người ta bịn rịn nhất, cũng là lúc nói thật nhất của một con người.

Đối với Chúa Giêsu, Ngài có 2 bản tính: Thần tính và nhân tính. Và theo nhân tính, Ngài nên giống chúng ta mọi sự – trừ tội lỗi. Tất nhiên Ngài cũng rất đau đớn và rời rã vì kiệt sức do đòn roi, phải tự vác Thập giá lên đồi, té lên té xuống nhiều lần, chịu đói khát, bị những gai nhọn đâm thấu đầu, bị đinh ghim chặt chân tay và lưỡi đòng đâm thâu tim. Rất đau đớn, không thể tưởng tượng nổi, đến nỗi thân xác Ngài chảy ra đến giọt Máu và giọt Nước cuối cùng. Thật thê thảm!

CHIÊN CON HIỀN LÀNH

Chiên con là “cừu nhỏ” –chỉ 1 năm trở xuống, còn cừu là “chiên lớn” (hơn 1 năm trở lên). Chiên con không chỉ nhỏ bé, ngây thơ, mà còn hiền lành. Khi nói về Chiên Thiên Chúa,Đức Chúa đã mô tả: “Này đây, người tôi trung của Ta sẽ thành đạt, sẽ vươn cao, nổi bật, và được suy tôn đến tột cùng. Cũng như bao kẻ đã sửng sốt khi thấy tôi trung của Ta mặt mày tan nát chẳng ra người, không còn dáng vẻ người ta nữa” (Is 52:13-14 – Bài ca thứ tư về Người Tôi Trung). Mặc dù vậy, mọi người vẫn phải sửng sốt khi thế cờ đảo ngược hoàn toàn.Chính Người-Tôi-Trung đó làm cho “muôn dân phải sững sờ, vua chúa phải câm miệng” (Is 52:15).Người-Tôi-Trung đó là Đức Kitô, cũng chính là Người-Tôi-Tớ-Đau-Khổ,“như chiên bị đem đi làm thịt, như cừu câm nín khi bị xén lông, Ngài chẳng mở miệng kêu ca” (Is 53:6; Cv 8:32).

Ngày nay, chúng ta đã được biết về “hành trình đau khổ” của Chúa Giêsu, nhưng có lẽ khó mà cảm nhận hết mức đau khổ trong cuộc khổ nạn tang thương của Ngài, thậm chí có thể nghe nhiều năm đã quen tai nên cảm thấy… bình thường, và cũng cho đó là “chuyện nhỏ”.Có thể có người đặt vấn đề: “Điều chúng ta đã nghe, ai mà tin được?”(Is 53:1). Đúng là khó tin thật, thế nhưng đó lại là sự thật minh nhiên, không thể chối cãi!

Từ ngàn xưa, ngôn sứ Isaia mô tả: “Người tôi trung đã lớn lên tựa chồi cây trước Nhan Thánh, như khúc rễ trên đất khô cằn. Người chẳng còn dáng vẻ, chẳng còn oai phong đáng chúng ta ngắm nhìn, dung mạo chẳng còn gì khiến chúng ta ưa thích. Người bị đời khinh khi ruồng rẫy, phải đau khổ triền miên và nếm mùi bệnh tật. Người như kẻ ai thấy cũng che mặt không nhìn, bị chúng ta khinh khi, không đếm xỉa tới” (Is 53:2-3). Tuy nhiên, “chính người đã mang lấy những bệnh tật của chúng ta, đã gánh chịu những đau khổ của chúng ta, còn chúng ta lại tưởng Ngài bị phạt, bị Thiên Chúa giáng hoạ, phải nhục nhã ê chề” (Is 53:4). Thật là nghịch lý quá, có lẽ vì chúng ta ảo tưởng quá chăng?

Ngôn sứ Isaia đưa ra bảng đối chiếu và liệt kê rõ ràng: “Chính Ngài đã bị đâm VÌ chúng ta phạm tội, Ngài bị nghiền nát VÌ chúng ta lỗi lầm,Ngài đã chịu sửa trị ĐỂ chúng ta được bình an, Ngài đã phải mang thương tích ĐỂ chúng ta được chữa lành” (Is 53:5). Bốn “cặp đối” rất tuyệt vời, chứng tỏ Lòng Thương Xót của Thiên Chúa. Chắc chắn trí óc loài người chúng ta không thể tưởng tượng nổi có một Con Người lạ lùng như vậy. Nếu cuộc đời có ai gần giống như vậy thì ắt chúng ta cho là “dại dột”, là “ngu xuẩn”, là “điên khùng”, là “mất trí”, là “tâm thần”.Thiên Chúa thấy “tất cả chúng ta lạc lõng như chiên cừu, lang thang mỗi người một ngả”,nhưng Đức Chúa đã đổ tội lỗi của tất cả chúng ta lên đầu Người-Tôi-Trung kia. Người Ấy bị lũ-người-ghen-tị “ngược đãimà vẫn cam chịu nhục, chẳng mở miệng kêu ca; như chiên bị đem đi làm thịt, như cừu câm nín khi bị xén lông, Người Ấy chẳng hề mở miệng” (Is 53:6). Người Ấy còn“bị ức hiếp, bị buộc tội, rồi bị thủ tiêu” (Is 53:8a). Thậm chí“Người Ấy còn bị khai trừ khỏi cõi nhân sinh”, và“vì tội lỗi của dân, Người Ấy bị đánh phạt” (Is 53:8b). Người Ấy bị hàm oan chỉ vì chúng ta quá khốn nạn!

Và cuối cùng, Người Ấy đã “bị chôn cất giữa bọn ác ôn, bị mai táng với người giàu có, dù đã chẳng làm chi tàn bạo và miệng không hề nói chuyện điêu ngoa” (Is 53:9). Nhưng đó là Thánh Ý nhiệm mầu của Thiên Chúa, để nhờ Người Ấy màÝ Chúa được nên trọn. Thiên Chúa xác định: “Vì đã nếm mùi đau khổ, người công chính, tôi trung của Ta, sẽ làm cho muôn người nên công chính và sẽ gánh lấy tội lỗi của họ” (Is 53:11). Đức Giêsu đã “hiến thân chịu chết, đã bị liệt vào hàng tội nhân; nhưng thực ra Ngài đã mang lấy tội muôn người và can thiệp cho những kẻ tội lỗi” (Is 53:12). Trong “núi tội” đó có nhiều tội của mỗi chúng ta!

Qua miệng lưỡi của Thánh Vịnh gia, Người Ấy đã nói lời cuối của Con Người hấp hối: “Con ẩn náu bên Ngài, lạy Chúa, xin đừng để con phải tủi nhục bao giờ. Bởi vì Ngài công chính, xin giải thoát con. Trong tay Ngài, con xin phó thác hồn con, Ngài đã cứu chuộc con, lạy Chúa Trời thành tín”(Tv 31:2 & 6). Người Ấy tâm sự với Chúa về cuộc đời mình: “Con đã nên trò cười cho thù địch và cho cả hàng xóm láng giềng. Bạn bè thân thích đều kinh hãi, thấy con ngoài đường, ai cũng tránh xa. Bị lãng quên, như kẻ chết không người tưởng nhớ, con hoá thành đồ hư vất bỏ” (Tv 31:12-13). Là con người thì ai cũng cảm thấy cô đơn tột cùng khi ai cũng khinh ghét và bỏ rơi mình nên nói vậy thôi, nhưng vẫn tin tưởng vào Chúa, cho nên mới dám thân thưa: “Ngài là Thượng Đế của con. Số phận con ở trong tay ngài. Xin giải thoát con khỏi tay địch thủ, khỏi người bách hại con” (Tv 31:15-16).

Dù cho thế nào thì Người Ấy vẫn chấp nhận mọi thiệt thòi, vui chịu chứ không cam chịu, và thành tâm cầu khấn: “Xin toả ánh tôn nhan rạng ngời trên tôi tớ Ngài đây, và lấy tình thương mà cứu độ” (Tv 31:17), đồng thời mạnh dạn chia sẻ với những người khác như một lời khuyên: “Hỡi mọi người cậy trông vào Chúa, mạnh bạo lên, can đảm lên nào!” (Tv 31:25). Người Ấy đã nêu gương sáng cho chúng ta, vì chúng ta cũng phải nên giống Người Ấy: “Nếu thế gian ghét anh em, anh em hãy biết rằng nó đã ghét Thầy trước” (Ga 15:18).

Lời minh định của Thánh Phaolô rất rạch ròi:“Chúng ta có một vị Thượng Tế siêu phàm đã băng qua các tầng trời, là Đức Giêsu, Con Thiên Chúa”(Dt 4:14). Thánh Phaolô khuyên chúng ta hãy giữ vững lời tuyên xưng đức tin, và giải thích: “Vị Thượng Tế của chúng ta không phải là Đấng không biết cảm thương những nỗi yếu hèn của ta, vì Ngài đã chịu thử thách về mọi phương diện cũng như ta, nhưng không phạm tội. Bởi thế, chúng ta hãy mạnh dạn tiến lại gần ngai Thiên Chúa là nguồn ân sủng, để được xót thương và lãnh ơn trợ giúp mỗi khi cần” (Dt 4:15-16). Trong tất cả các ân sủng, Lòng Chúa Thương Xót là hồng ân cao cả và kỳ lạ vô cùng! Chính Chúa Giêsu đã trải qua nỗi đau khổ tột cùng nên Ngài rất thương xót chúng ta, những con người còn phải đối mặt với đủ loại “khổ não trần ai” của kiếp này.

Lúc còn sinh thời của kiếp phàm nhân, Đức Giêsu cũng đã từng lớn tiếng kêu van khóc lóc mà dâng lời khẩn nguyện nài xin lên Đấng có quyền năng cứu Ngài khỏi chết. Ngài đã được nhậm lời vì có lòng tôn kính. Vâng phục không là điều dễ, vì phàm nhân chúng ta đầy tự ái và kiêu sa, ngay cả Con Thiên Chúa cũng đã “phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục” (Dt 5:7). Thật không hề đơn giản chút nào khi phải miệt mài chịu đau khổ như vậy!

Tuy nhiên, chính lúc đó lại là lúc bản thân đạt tới mức thập toàn để rồi“Ngài trở nên nguồn ơn cứu độ vĩnh cửu cho tất cả những ai tùng phục Ngài” (Dt 5:9). Trước khi vinh quang và được coi là công trạng thì luôn phải trải qua chặng đường gian khổ. Đức Kitô cũng đã trải qua “chặng đàng Thánh Giá” và cái chết mới tới sự phục sinh vinh quang. Chúng ta không thể không “nhâm nhi chén đắng” để trải nghiệm đau khổ. Không có hạnh phúc nào không có đau khổ, thiếu vắng hy sinh. Chắc chắn không thể cứ tà tà mà được tận hưởng.

Thánh Gregorio Khandzta (759-861, người thành lập nhiều cộng đoàn tu trì tại Tao-Klarjeti, thuộc Tây Nam Georgia) đã tha thiết cầu nguyện:“Lạy Chúa Giêsu, Ngài đã BỊ CÁM DỖ và CHỊU ĐAU KHỔ. Ngài là Đấng quyền năng đã đến để CỨU GIÚP những người đang bị xiềng xích bởi ma qủy, vì Ngài luôn nâng đỡ những kẻ đi theo Ngài. Lạy Chúa, xin GÌN GIỮ những kẻ tin vào Danh Thánh Ngài trong cánh tay Ngài. Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ, mà ban niềm hoan lạc bất diệt”.

CHIÊN CON BỊ GIẾT

Trình thuật Phúc Âm hôm nay là tấn bi kịch, là bộ phim dài sầu thảm, Giáo Hội gọi là Bài Thương Khó, thuật lại đầy đủ cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu. Bi kịch thảm thiết như vậy mà lại gọi là Phúc Âm, là Tin Mừng, quả thật là điều kỳ diệu!

Chúng ta thường nói: “Dòi trong xương dòi ra”. Một trong 12 môn đệ “ruột” là Giuđa đã dùng nụ hôn để “chỉ điểm” mà bán rẻ Thầy mình với giá quá bèo. Người ta lục soát, tìm cách gài bẫy và đi bắt Chúa Giêsu như một tên côn đồ. Họ ghen tị và sợ Ngài tiếm ngôi, giành quyền lực, lấy mất “ghế”, thế nên họ làm mọi cách để hạ nhục Ngài đủ kiểu. Hàng ngày Ngài thường tụ họp với các môn đệ công khai mà họ không bắt, thế mà họ lại cấu kết với đám thuộc hạ của các thượng tế và nhóm Pharisêu để đi tìm bắt Ngài trong đêm tối, dùng vũ khí để đối với một người tay không và thân cô thế cô – vì các môn đệ bỏ trốn hết. Thật là tồi và hèn hạ!

Ngài hỏi: “Các anh tìm ai?”,thì họ đáp: “Tìm Giêsu Nadarét”. Ngài vừa nói“chính tôi đây”, thì họ lùi lại và ngã xuống đất. Ngoạn mục thật! Có lẽ lúc này Giuđa đắc chí nhất, vì có thể ông cũng rất tin rằng Thầy mình “ngon” lắm, quyền phép đầy mình, chúng chẳng làm gì được, mà ông lại có tiền tiêu xài. Thế nhưng Ngài không dùng thần quyền của Ngài vào chuyện không cần thiết. Đó là “cách lạ” của Ngài!

Ngài lại hỏi họ muốn tìm ai. Họ vẫn cương quyết là tìm Giêsu Nadarét, họ không hề thấy tởn chút nào. Lì thật! Đức Giêsu thản nhiên xác nhận: “Tôi đã bảo các anh là chính tôi đây. Vậy, nếu các anh tìm bắt tôi, thì hãy để cho những người này đi” (Ga 18:8). Ngài không muốn bất kỳ ai phải liên lụy vì Ngài. Nhưng điều đó ứng nghiệm lời Ngài đã nói: “Những người Cha đã ban cho con, con không để mất một ai” (Ga 18:9).Tính nóng hơn Trương Phi, ông Simôn Phêrô bèn tuốt gươm ra, nhằm người đầy tớ vị thượng tế mà “chơi” một phát đứt tai phải của Man-khô. Một đường gươm tuyệt hảo y như xiếc! Thấy vậy, Đức Giêsu bảo ông Phêrô: “Hãy xỏ gươm vào bao. Chén mà Chúa Cha đã trao cho Thầy, lẽ nào Thầy chẳng uống?” (Ga 18:11).Nghe vậy chưa chắc ai hiểu ý Ngài nói.

Cơn tức giận dâng cao, nỗi hận thù đầy ắp, họliền bắt trói Ngài lại, rồi điệu Ngài đến ông Kha-nan – nhạc phụ ông Cai-pha. Năm đó ông Cai-pha làm thượng tế. Chính ông này đã nói với người Do Thái một đề nghị tồi tệ:“Nên để một người chết thay cho dân thì hơn” (Ga 18:14).Nghe chừng nhân đạo nhưng lại vô cùng thâm độc.Lúc đó có ông Simôn Phêrô và người môn đệ khác (tức Gioan) đi theo Đức Giêsu. Gioan quen biết vị thượng tế nên được vào sân trong của tư dinh của thượng tế. Còn ông Phêrô phải đứng ở phía ngoài, gần cổng. Gioan ra nói với chị giữ cổng, rồi dẫn ông Phêrô vào. Gioan cũng “oai” thật, quen biết có khác!

Thế nhưng vấn đề là người tớ gái giữ cổng nhận ra ông Phêrô “thuộc nhóm của Chúa Giêsu” nên ông chối ngay: “Không phải đâu!”. Và ông chối phắt bất kỳ ai nhận ra ông, tổng cộng 3 lần trước khi gà gáy.Với bản tính nhân loại nên ông rất sợ, sợ đến nỗi phát run ngay cả với mấy phụ nữ chân yếu tay mềm. Thật tội nghiệp! Ông Phêrô nóng tính, thẳng như ruột ngựa, nhưng cũng rất yếu đuối. Đó là “biểu tượng” của chúng ta ngày nay. Buồn thế đấy!

Tuy Chúa Giêsu bị bắt, bị trói, bị đánh đập, bị tra xét, bị hành hạ,… nhưng Ngài vẫn thản nhiên và không nói chi cả, không tự biện minh cho mình là đúng, cũng chẳng một lời kêu oan hoặc oán trách. Chiên Con hiền lành lắm!

Mãi tới lúc bị tra hỏi về các môn đệ và giáo huấn – nghĩa là liên quan người khác,Ngàimới trả lời: “Tôi đã nói công khai trước mặt thiên hạ; tôi hằng giảng dạy trong hội đường và tại Đền Thờ, nơi mọi người Do Thái tụ họp. Tôi không hề nói điều gì lén lút. Sao ông lại hỏi tôi? Điều tôi đã nói, xin cứ hỏi những người đã nghe tôi. Chính họ biết tôi đã nói gì” (Ga 18:19-21). Ngài vừa dứt lời thì một tên trong nhóm thuộc hạ vả vào mặt Ngài: “Anh trả lời vị thượng tế như thế ư?”(Ga 18:22). Hỗn láo và ngang ngược thật! Ngày nay người ta cũng hống hách kiểu như vậy khi đối xử với đồng loại. Mặc dù bị xử tệ, Ngài vẫn thản nhiên lý luận: “Nếu tôi nói sai, anh chứng minh xem sai ở chỗ nào; còn nếu tôi nói phải, sao anh lại đánh tôi?”(Ga 18:23). Cách đối đáp và lý luận của Chúa Giêsu tuyệt vời quá. Và tất nhiên họ phải câm họng thôi!

Sau đó, ông Kha-nan cho giải Ngài đến thượng tế Cai-pha, Ngài vẫn bị trói. Lúc đó trời vừa sáng. Họ không vào dinh vì sợ bị nhiễm uế mà không ăn lễ Vượt Qua được. Họ chỉ lo giữ bề ngoài mà không chú trọng bề trong. Đó là một dạng động thái giả hình. Tổng trấn Philatô ra ngoài gặp họ và hỏi xem họ tố cáo Chúa Giêsu về tội gì, nhưng họ đáp: “Nếu ông này không làm điều ác, thì chúng tôi đã chẳng đem nộp cho quan”(Ga 18:30). Họ cố chấp và cố tình không thèm nhận những hành động tốt của Chúa Giêsu. Trước áp lực của dân, ông Philatô hỏi Chúa Giêsu: “Ông có phải là vua dân Do Thái không?”. Đức Giêsu không trả lời đúng hay sai, mà bình thản nói: “Nước tôi không thuộc về thế gian này. Nếu Nước tôi thuộc về thế gian này, thuộc hạ của tôi đã chiến đấu không để tôi bị nộp cho người Do Thái. Nhưng thật ra Nước tôi không thuộc chốn này” (Ga 18:36). Ui da, thế mà lão Philatô vẫn không hiểu ất giáp chi cả, mà còn hỏi:“Vậy ông là vua sao?”. Đức Giêsu ôn tồn: “Chính ngài nói rằng tôi là vua. Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian nhằm mục đích là làm chứng cho sự thật. Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi” (Ga 18:37). Ông Philatô tỏ ra ngớ ngẩn nên hỏi: “Sự thật là gì?” (Ga 18:38). Đúng là “dốt đặc cán mai” mà!

Vào dịp lễ Vượt Qua và theo tục lệ Do Thái, người ta thường ân xá cho một tội nhân. Ông Philatô hỏi họ muốn tha Chúa Giêsu hay không, họ liền la to:“Đừng tha nó, nhưng xin tha Baraba!” (Ga 18:40).Baraba là một tên cướp khét tiếng, vậy mà họ còn thương và quý hơn là Chúa Giêsu – dù chính Philatô hai lần xác định là Chúa Giêsu “không có tội gì” (Lc 23:4 và 22).

Và rồi Philatô truyền đem Ngài đi mà đánh đòn. Họ chụp lên đầu Ngài một vòng gai và khoác cho Người một áo choàng đỏ, rồi mỉa mai: “Kính chào Vua dân Do Thái!”, và vả vào mặt Ngài.Như vậy, nhân vị của Ngài bị khinh miệt, nhân phẩm của Ngài bị chà đạp, và nhân quyền của Ngài cũng bị tước đoạt. Ông Philatô dẫn Chúa Giêsu ra ngoài để đám đông thấy Ngài không còn hình tượng một con người mà thương. Nhưng vừa thấy Ngài, các thượng tế cùng các thuộc hạ liền kêu lên rằng: “Đóng đinh nó vào thập giá!” (Ga 19:6). Một lần nữa, ông Philatô lại khiếp nhược nên bảo họ: “Các người cứ đem ông này đi mà đóng đinh vào thập giá, vì phần ta, ta không tìm thấy lý do để kết tội ông ấy” (Ga 19:6).Một người nắm quyền trong tay và biết rõ bị cáo không có tội mà vẫn không dám tha, thì quả là bất tài, vô dụng, ích kỷ, chỉ lo giữ “cái ghế” của mình, chỉ muốn lợi cho mình mà chà đạp người khác.Đó là một dạng bóc lột, không tôn trọng công lý. Vậy người đó có đáng được tôn trọng? Người nắm quyền lực mà không đề cao nhân vị, nhân phẩm và nhân quyền, không lấy dân làm gốc, làm sao quốc thái dân an?

Dù ai nói gì thì nói, Chúa Giêsu vẫn im lặng. Ngài biết rằng có nói cũng vô ích, chỉ như nước đổ lá môn, không bằng nói với đầu gối. Sau khi tòa tuyên án, bị cáo nào cũng có quyền kháng cáo, nhưng “bị cáo” Giêsu lại không có quyền tối thiểu đó. Bất nhân quá! Nhân quyền của Ngài hoàn toàn bị tước đoạt.Nhưng Ngài nói thẳng với ông Philatô: “Ngài không có quyền gì đối với tôi, nếu Trời chẳng ban cho ngài. Vì thế, kẻ nộp tôi cho ngài thì mắc tội nặng hơn” (Ga 19:11). Nghe vậy, ông Philatô cũng thấy “nổi gai óc” nên tìm cách tha Ngài, nhưng ông vẫn không dám quyết định theo quyền hạn của mình vì áp lực dân chúng. Cách xử sự hèn nhát của Philatô cũng chính là động thái hèn hạ của chúng ta ngày nay đối với tha nhân.

Cuối cùng, ông Philatô đành cho thi hành án tử đối với Chúa Giêsu. Họ bắt Ngài tự vác Thập giá lên đồi Gôn-gô-tha, nghĩa là Cái Sọ – cũng gọi là Đồi Sọ, Can-vê, nơi xử tử các tội nhân. Đồng án tử với Ngài có hai người khác nữa, hai người hai bên Chúa Giêsu. Tấm bảng ghi “Giêsu Nadarét, Vua dân Do Thái” treo phía trên đầu Ngài, được viết bằng 3 ngôn ngữ: Hípri, La Tinh và Hy Lạp. Các thượng tế không đồng ý gọi Chúa Giêsu là “Vua dân Do Thái”, nhưng ông Philatô nói: “Ta viết sao, cứ để vậy!” (Ga 19:22). Tấm bảng đó nhằm mỉa mai nhưng chính nó lại là lời xác nhận công khai rằng “Chúa Giêsu là Vua dân Do Thái”. Lão Philatô chỉ lăm le với người dưới quyền chứ không dám “nói mạnh” với đám đông nổi loạn, dù họ chỉ là đám dân đen. Hèn!

Đóng đinh Đức Giêsu vào thập giá xong, họ chia chác quần áo của Ngài. Họ muốn chế nhạo Ngài chứ có gì đáng giá đâu! Lúc đó, Chúa Giêsu bắt đầu kiệt sức. Ngài trối Đức Mẹ cho Gioan và trao Gioan cho Đức Mẹ.Đức Giêsu biết là mọi sự đã hoàn tất. Mất máu nhiều nên Ngài nói: “Tôi khát!”(Ga 19:28).Nhưng người ta lại nỡ lấy miếng bọt biển thấm giấm chua mà cho Ngài giải khát. Nhắp xong, Đức Giêsu nói: “Tetelestai! Mọi sự đã hoàn tất!” (Ga 19:30). Rồi Ngài gục đầu xuống và dâng trao Thần Khí. Tang thương bao trùm, đất trời rung động!

Sự kiện bi thương hôm nay là “nghi lễ của mọi nghi lễ”, là “hiến lễ của mọi hiến lễ”, là “thánh lễ của mọi thánh lễ”. Vì thế Giáo Hội không cử hành thánh lễ hôm nay mà chỉ có phụng vụ Lời Chúa, tôn kính Thánh giá và rước lễ.

Thiên Tình Giêsu là “tình cho không biếu không”,nhưng chúng ta thường có khuynh hướng “tội nghiệp” Chúa Giêsu hơn là tội nghiệp chính mình. Thật vậy, khi Chúa Giêsu thấy có nhiều phụ nữ, vừa đấm ngực vừa than khóc, trong đám đông đi xem Ngài lên đồi chịu xử tử,chính Ngài đã quay lại và nói: “Hỡi chị em thành Giêrusalem, đừng khóc thương tôi làm gì. Có khóc thì khóc cho phận mình và cho con cháu” (Lc 23:28). Chính chúng ta mới là những kẻ đáng phải khóc thương!

Và có một điểm khác mà chúng ta cần lưu ý là “tính a dua”, như người ta thường nói: “Người ta làm sao thì tôi làm vậy, người ta làm bậy thì tôi… làm theo”.Kiểu này rất nguy hiểm, vì đó là lối sống quá tiêu cực, không có lập trường, mạnh đâu âu đó. Cần chấn chỉnh và cần can đảm là chính mình, đặc biệt là phải biết khát và nhận ra cơn khát của người khác để cố gắng giúp họ thỏa cơn khát!

Lạy Thiên Chúa giàu lòng thương xót, chính con là kẻ khốn nạn mà vẫn tưởng mình tốt lành hơn người khác, con đã hèn nhát khi a dua và đồng lõa với cái ác mà cứ tưởng mình chân chính hơn người khác. Hôm nay, con chân thành nhận lỗi, xin lỗi Ngài và xin lỗi mọi người. Xin Ngài thương xót con mà đại lượng ban cho con được hưởng nhờ Ơn Cứu Độ của Con Yêu Dấu của Ngài. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng cứu độ duy nhất của nhân loại. Amen.

TRẦM THIÊN THU

 Mạng Lưới Cầu Ngyện

From: ngocnga_12 & Anh chị Thụ & Mai gởi

THÂM TÌNH


THÂM TÌNH

(Thứ Năm Tuần Thánh)

THÁNH THỂ THẦN LƯƠNG TRAO BAN NGUỒN SỐNG

NHÂN GIAN TỘI LỖI ĐÓN NHẬN PHÚC VINH

Thánh Phanxicô Assisi nói: “Cần đốt lên LỬA YÊU THƯƠNG, bởi vì có yêu thương thì tự nhiên sẽ đối đãi tốt với mọi người, luôn nói những lời yêu thương, và tâm hồn sẽ tự nhiên thu hoạch được rất nhiều kết quả”. Còn “Đoá Hồng Nhỏ” Teresa Lisieux, một chuyên gia tình yêu, cho biết: “Mặc dù tôi chỉ là người nhỏ nhất không chuyên làm những việc khác, nhưng chuyên làm việc yêu mến Thiên Chúa và hy sinh bản thân mình”.

Không thể tưởng tượng nổi nếu thế gian này vắng bóng tình yêu thương. Ai cũng muốnn yêu và được yêu, dù biết rằng “yêu là chết trong lòng một ít”. Yêu là khổ, không yêu thì lỗ, thôi thì thà chịu khổ hơn chịu lỗ. Rất lô-gích. Và người ta có cách gọi đó là “thú đau thương”. Chính Chúa Giêsu cũng đã xác định: “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15:13). Sau những ngày tháng hoang đàng, Thánh Giám mục Tiến sĩ Augustinô đã hối tiếc và thốt lên:“Con yêu Chúa quá muộn màng”, và rồi ngài cho biết: “Mức độ yêu Chúa là yêu vô hạn”. Một mức độ kỳ lạ: mức-độ-không-giới-hạn. Thật thú vị!

Từ cổ chí kim, chắc hẳn chưa có một định nghĩa nào về tình yêu được coi là trọn vẹn nhất và có thể khiến người ta thỏa mãn. Chữ Yêu rất đơn giản mà cũng rất nhiêu khê. Chỉ có một tình yêu đích thực nhưng được nhìn với nhiều lăng kính, mỗi người yêu mỗi cách và mức độ cũng rất khác nhau.Nói chung, yêu là CHO nhiều hơn NHẬN, yêu đến quên mình, đó mới là Tình Yêu chân chính. Việt Nam có chuyện tình Đồi Thông Hai Mộ và chuyện tình Lan và Điệp, còn Tây phương có chuyện tình Romeo và Juliet. Những chuyện tình thật lãng mạn và đẹp, mà cũng đầy chất bi thương, thế nhưng vẫn có sự vị kỷ trong tình yêu đó!

DẤU CHỈ

Dù tốt hay xấu, sự gì cũng đều có dấu chỉ – dấu hiệu, triệu chứng, điềm báo,… Bề ngoài khả dĩ thể hiện bề trong, và bề trong khả dĩ biểu lộ ra bề ngoài. Lửa và khói có loan lẫn nhau.

Trình thuật sách Xuất hành (Xh 12:1-8,11-14) cho biết chi tiết về cách mừng lễ: Đức Chúa phán với ông Môsê và ông Aharon trên đất Ai Cập:“Tháng này, các ngươi phải kể là tháng đứng đầu các tháng, tháng thứ nhất trong năm. Hãy nói với toàn thể cộng đồng Ít-ra-en: Mồng mười tháng này, ai nấy phải bắt một con chiên cho gia đình mình, mỗi nhà một con. Nếu nhà ít người, không ăn hết một con, thì chung với người hàng xóm gần nhà mình nhất, tuỳ theo số người. Các ngươi sẽ tuỳ theo sức mỗi người ăn được bao nhiêu mà chọn con chiên. Con chiên đó phải toàn vẹn, phải là con đực, không quá một tuổi. Các ngươi bắt chiên hay dê cũng được. Phải nhốt nó cho tới ngày mười bốn tháng này, rồi toàn thể đại hội cộng đồng Ít-ra-en đem sát tế vào lúc xế chiều, lấy máu bôi lên khung cửa những nhà có ăn thịt chiên. Còn thịt, sẽ ăn ngay đêm ấy, nướng lên, ăn với bánh không men và rau đắng”.

Luật cũ chú trọng cách sống tự nhiên của con người, và cách hành lễ cũng cụ thể hơn ngày nay, nhưng đó là cách thể hiện đức vâng lời – vâng lời Thiên Chúa nghĩa là yêu mến Ngài, giữ luật Ngài.

Cái gì cũng có nguyên tắc, và cách ăn cũng có luật riêng: lưng thắt gọn, chân đi dép, tay cầm gậy. Cách ăn “lạ” nhất là“phải ăn vội vã”, vì đó là lễ Vượt Qua mừng Đức Chúa. Ngay đêm ấy Thiên Chúa rảo khắp đất Ai Cập, sát hại các con đầu lòng trong đất Ai Cập, từ loài người cho đến loài thú vật, và sẽ trị tội chư thần Ai Cập. Nghe vậy chúng ta cảm thấy Chúa “dữ tợn” quá. Nhưng không phải vậy, vì luật cũ là luật tự nhiên, những gì là “đầu tiên” thì phải được dành ưu tiên cho Thiên Chúa, gọi là “của lễ đầu mùa” – kể cả con đầu lòng. Ngày nay, một số dân tộc cũng vẫn có cách mừng thu hoạch mùa màng như lễ mừng lúa mới, lễ mừng thu hoạch, lễ mừng cơm mới,…

Dịp lễ Vượt Qua, chính “vết máu bôi trên nhà” là dấu chỉ về việc “giữ luật”,là dấu chỉ của tình yêu thương, và những người trong nhà đó sẽ không bị tai ương tiêu diệt khi Thiên Chúa giáng họa trên đất Ai Cập.Ngày hôm đó được chọn làm ngày tưởng niệm, ngày đại lễ mừng Đức Chúa. Và Ngài xác nhận rằng “đó là luật quy định cho đến muôn đời”. Luật đó là hồng ân Chúa ban. Ngài ban đủ thứ ân sủng để con người đủ sức “vượt qua” biển đời. Thiên Chúa YÊU THƯƠNG nhiều vàTRAO BAN nhiều, còn chúng ta ĐÓN NHẬN quá nhiều, thế nên cảm thấy ngại. Nhưng chính lúc biết ngại như vậy là tỏ lòng biết ơn, và tự đặt vấn đề:

Lấy chi đền đáp Chúa đây

Vì baoân huệ chính Ngài đã ban?

(Tv 116:12)

Mặc dù chúng ta thật lòng muốn đền ơn đáp nghĩa đối với Thiên Chúa nhưng lại chẳng có gì để tiến dâng, nếu có thì cũng chỉ là những thứ bất xứng mà thôi. Thân tro phận bụi quá đỗi mọn hèn,nhưng vì tin yêu mà cả dám thân thưa:

Con nâng chén hồng ân cứu độ

Mà xưng tụng danh Chúa mãi thôi

(Tv 116:13)

Trong thời quân chủ, thần dân không được phép ngước nhìn Long Nhan, ai nhìn sẽ bị tội “khi quân” và phải chết. Thần dân muốn tâu trình điều gì đều phải quay hướng khác và không được tâu trực tiếp,chỉ được tâu với cái “bệ rồng” Vua ngồi: “Muôn tâu bệ hạ”. Thế nhưng, đối với Thiên Chúa là Vua các vua và Chúa các chúa, thân sâu bọ chúng ta lại được diện kiến Tôn Nhan thì quả là vô cùng diễm phúc: “Trước Thánh Nhan thật là quý giá, cái chết của những ai hiếu nghĩa với Ngài” (Tv 116:15). Chúng ta chỉ là tôi tớ Ngài, con của nữ tỳ Ngài, mà lại được diễm phúc như thế thì phải hết lòng ghi nhớ thâm ân:“Con sẽ dâng hiến lễ tạ ơn mà xưng tụng danh Chúa” (Tv 116:17),đồng thời phải luôn tự thề hứa: “Lời khấn nguyền với Chúa, con xin giữ trọn, trước toàn thể Dân Ngài” (Tv 116:18).

Chúng ta có làm vậy thì cũng là điều tất yếu mà thôi! Nhưng không thể yêu suông bằng lời nói, mà phải yêu bằng hành động cụ thể. Nói chưa đủ tin, làm mới thuyết phục.

CHỨNG TỎ

Hành động là thể hiện bằng việc làm, chia sẻ bằng cách nào đó. Thật vậy, Thánh Phaolô cho biết: “Điều tôi đã lãnh nhận từ nơi Chúa, tôi xin truyền lại cho anh em” (1 Cr 11:23).Rồi ngài kể lại việc Chúa Giêsu cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng tạ ơn, rồi bẻ ra và nói: “Anh em cầm lấy mà ăn, đây là Mình Thầy, hiến tế vì anh em; anh em hãy làm như Thầy vừa làm để tưởng nhớ đến Thầy”, và cuối bữa thì Chúa Giêsu nói: “Đây là chén Máu Thầy, Máu đổ ra để lập Giao Ước Mới; mỗi khi uống, anh em hãy làm như Thầy vừa làm để tưởng nhớ đến Thầy”(1 Cr 11:24-25).

Thánh Phaolô giải thích: “Từ nay cho tới ngày Chúa đến, mỗi lần ăn Bánh và uống Chén này, là anh em loan truyền Chúa đã chịu chết” (1 Cr 11:26), do đó mà chúng ta hằng ngày tuyên tín trong mỗi Thánh lễ: “Lạy Chúa, chúng con loan truyền Chúa chịu chết, và tuyên xưng Chúa sống lại, cho tới khi Chúa đến”, hoặc “Lạy Chúa, mỗi lần ăn Bánh và uống Chén này, chúng con loan truyền Chúa chịu chết cho tới khi Chúa đến”.

Không lâu trước dịp lễ Vượt Qua, Đức Giêsu biết “giờ của Ngài” đã đến, giờ mà Ngài phải bỏ thế gian mà về với Chúa Cha. Với nhân tính, Ngài cũng cảm thấy lưu luyến người thân, những người mà Ngài yêu thương đến giọt Nước và giọt Máu cuối cùng.

Là Thiên Chúa, Ngài biết rõ Giuđa nghĩ gì, tính toán ra sao, và sắp làm gì. Nhưng Thánh Ý Chúa Cha nhiệm mầu.Chúa Giêsu bởi Thiên Chúa mà đến, và Ngài sắp trở về cùng Thiên Chúa.Do đó, trong một bữa ăn tối, bữa mừng lễ Vượt Qua với các môn đệ, Ngài đứng dậy, rời bàn ăn, cởi áo ngoài ra, và lấy khăn mà thắt lưng. Rồi Ngài đổ nước vào chậu, bắt đầu rửa chân cho các môn đệ và lấy khăn thắt lưng mà lau. Chắc hẳn môn đệ nào cũng ngạc nhiên vô cùng khi thấy Sư Phụ có cách hành động “kỳ lạ nhất thế gian”.

Vì thế, khi Ngài đến chỗ Simôn Phêrô, ông liền thưa: “Thưa Thầy! Thầy mà lại rửa chân cho con sao?” (Ga 13:6).Theo lẽ thường, không hề có bề trên nào dám làm chuyện “ngược đời” và “động trời” như vậy. Nghe Phêrô nói, Đức Giêsu trả lời: “Việc Thầy làm, bây giờ anh chưa hiểu, nhưng sau này anh sẽ hiểu” (Ga 13:7).Ông Phêrô chưa thể hiểu nên lại thưa: “Thầy mà rửa chân cho con, không đời nào con chịu đâu!” (Ga 13:8a). Đức Giêsu đáp: “Nếu Thầy không rửa cho anh, anh sẽ chẳng được chung phần với Thầy” (Ga 13:8b).Nghe Thầy nói “không được chung phần” thì ông Phêrô liền thưa: “Vậy, thưa Thầy, xin cứ rửa, không những chân, mà cả tay và đầu con nữa” (Ga 13:9).Nhưng Đức Giêsu bảo ông: “Ai đã tắm rồi thì không cần phải rửa nữa; toàn thân người ấy đã sạch. Về phần anh em, anh em đã sạch, nhưng không phải tất cả đâu!”(Ga 13:10). Ông Phêrô cụt hứng, như bị tạt ca nước lạnh. Rõ ràng Ý Chúa hoàn toàn khác ý loài người.Ngài rất thâm ý nên mới nói: “Không phải tất cả anh em đều sạch”.

Sau khi rửa chân cho các môn đệ xong, Ngài mặc áo vào, về chỗ và thổ lộ tâm sự: “Anh em có hiểu việc Thầy mới làm cho anh em không?” (Ga 13:11). Hỏi vậy thôi, chứ Ngài biết tỏng là chẳng ai hiểu gì ráo trọi, bởi vì đệ tử nào cũng “mắt chữ O và miệng chữ A”, y như trời trồng hết thảy. Thế nên Ngài nói luôn:“Anh em gọi Thầy là Thầy, là Chúa, điều đó phải lắm, vì quả thật, Thầy là Thầy, là Chúa. Vậy, nếu Thầy là Chúa, là Thầy, mà còn rửa chân cho anh em thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau. Thầy đã nêu gương cho anh em, để anh em cũng làm như Thầy đã làm cho anh em” (Ga 13:13-15).

Thật vậy, Thầy mà còn rửa chân cho đệ tử thì chắc chắn đệ tử không thể không rửa chân cho nhau. Thầy đã nêu gương cho đệ tử, để đệ tử cũng làm như Thầy đã làm cho đệ tử.Đó là Luật Yêu của Chúa. Luật nhẹ nhàng thế mà lại không dễ thực hiện, lời giản dị mà lại thâm thúy lắm. Và đó cũng là điều mỗi chúng ta phải suy nghĩ, bởi vì chính Chúa Tể muôn loài đã làm gương cho mọi người soi chung.

Xét theo Việt ngữ, chữ Yêu bắt đầu bằng mẫu tự Y có hình “ngã ba”, nghĩa là có 3 hướng: Hướng lên Thiên Chúa, hướng tới tha nhân, và hướng về chính mình. Yêu Chúa hết linh hồn và hết trí khôn, yêu người như chính mình, còn yêu mình ít thôi – không được yêu mình thái quá, vì sẽ biến thành“tự ái”(tự yêu mình thái quá)mà hóa thành vị kỷ (ích kỷ). Yêu có những hệ lụy quan yếu. Yêu là điều luôn có mối liên kết quan trọng: Cần Thiết ⇾Thiết Tha ⇾Tha Thứ. Đó là chu-trình-yêu-thương kỳ diệu vô cùng!

Và rồi phát sinh một hệ lụy khác: YÊU thì phải KÍNH (yêu kính), KÍNH thì phải NỂ (kính nể), NỂ thì phải TRỌNG (nể trọng), TRỌNG thì phải VỌNG (trọng vọng – vọng là mong), MONG thì thấy NHỚ (mong nhớ), NHỚ nghĩa là THƯƠNG (nhớ thương), tức là YÊU rồi đấy. Đó là vòng-tròn-tình-yêu bắt đầu và kết thúc bằng động từ YÊU. Chúa nhớ chúng ta và chúng ta cũng phải nhớ Chúa, mà NHỚ Ngài thì PHẢI THỰC THI Thánh Ý Ngài. Hoàn toàn hợp lý!

Tương tự, khi nói về gia đình, chúng ta áp dụng từ ngữ “hiếu đễ”. HIẾU thì phải ĐỄ (nhường), NHƯỜNG thì phải NHỊN. Nhờ đó mà gia đình luôn “trong ấm, ngoài êm”, tạo nên “tổ ấm” đích thực, đó làhạnh phúc gia đình.Đối với các mối quan hệ xã hội hoặc cộng đoàn cũng vậy. Nói chung, tất cả tóm gọn trong một chữ YÊU.Biết thương yêu cũng chính là biết thương xót theo ý muốn của Thầy Chí Thánh Giêsu.

Lạy Chúa Giêsu, xin thánh hóa và biến đổi trái tim chúng con nên giống Thánh Tâm Ngài, để càng ngày trái tim của chúng con càng chứa nhiều “máu yêu” hơn, nhờ đó chúng con biết thể hiện cách yêu Ngài qua việc yêu tha nhân, đồng thời cũng can đảm sống và hành động “ngược đời” như Ngài, hôm nay và mãi mãi. Xin làm cho chúng con xứng đáng và vui mừng đón nhận Nguồn Sống từ Thánh Thể Ngài, và xin Thánh Thể tăng lực cho những người đau khổ phần hồn và phần xác. Chúng con tin kính Ngài là Đấng hằng sống và hiển trị cùng với Chúa Cha, hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn đời. Amen.

TRẦM THIÊN THU 

 Mạng Lưới Cầu Ngyện

From: ngocnga_12 & Anh chị Thụ & Mai gởi

HƯỚNG VỀ TUẦN THÁNH

HƯỚNG VỀ TUẦN THÁNH

theo cách sống của Chúa Giêsu, đừng để tội lỗi đẩy chúng ta ra xa.

Trầm Thiên Thu

Chúng ta nghe nói nhiều về các linh mục lạm dụng tình dục (dù chỉ là số ít) và các giám mục không nghiêm nên vẫn bổ nhiệm họ (lax bishops who reassigned them).  Có những chuyện về các linh mục biển thủ tiền bạc của các giáo xứ.  Đó là những vụ bê bối, tội lỗi và kinh tởm.

Không có gì lạ vì các giáo hoàng, hồng y, giám mục, linh mục, tu sĩ, vẫn là con người, nghĩa là vẫn có thể phạm tội.  Khi một người sa ngã, điều đó gây tổn thương và gây “sốc”.  Người ta mong đợi các nhà lãnh đạo tinh thần thực hiện điều mình giảng dạy.  Nếu không thì chỉ là giả hình (hypocrites).  Và chúng ta biết Chúa Giêsu nghĩ gì về những kẻ giả hình rồi.  Nhưng điều này cũng không lạ.  Nếu bạn nghĩ ngày nay tệ hơn ngày xưa, hãy suy nghĩ về những ngày lễ trọng mà chúng ta cử hành trong Tuần Thánh: Thứ Năm tuần thánh và Thứ Sáu tuần thánh.

Trong khoảng 1 giờ sau khi Chúa Giêsu truyền chức các giám mục và các linh mục đầu tiên – 12 tông đồ – điều gì xảy ra?

Họ đã ngủ khi Chúa bảo họ cầu nguyện và canh thức với Ngài; một người đã phản bội Ngài chỉ vì 30 đồng bạc; một người là giáo hoàng đầu tiên đã chối Chúa 3 lần; và người trẻ đã chạy xa vì sợ trong khi Chúa cần họ nhất.  Chỉ có một người trung thành là Gioan còn ở lại với Đức Mẹ đứng dưới chân Thánh giá trên đồi Can-vê vào ngày thứ Sáu – ngày có cách gọi lạ là “ngày tốt lành” (Good Friday).

Không là một khởi đầu tốt đẹp cho các giám mục và linh mục.  Chỉ vài giờ sau khi thụ phong chức thánh, 11 trong 12 người đã bỏ rơi Chúa Giêsu.  Thật là tồi tệ chưa từng thấy!

Chúng ta có nên tha thứ và bỏ qua tội lỗi và tật xấu của các giáo sĩ?  Tuyệt đối không nên! (Absolutely not!).  Các giám mục và linh mục có nên ngừng tìm kiếm nhân đức lớn lao, sự thánh thiện, và sự hoàn hảo được Chúa kêu gọi?  Không bao giờ! (Never!).

Vấn đề là nếu cuộc sống, sinh lực, sự thánh thiện, và tính hiệu quả của Giáo hội tùy vào nhân đức của các giám mục và linh mục.  Chúng ta không tin giáo hoàng, hồng y, giám mục, linh mục, hoặc đức ông.  Không, chúng ta chỉ tin vào Chúa Giêsu.  Chỉ mình Ngài sẽ không làm chúng ta thất vọng, chỉ mình Ngài không bao giờ phạm tội, chỉ mình Ngài không bao giờ nuốt lời hứa, chỉ mình Ngài xứng đáng được chúng ta tin tưởng tuyệt đối.

Đó là lý do xảy ra bi kịch khi ai đó bỏ Chúa Giêsu và giáo hội vì phạm tội, vì bê bối, dù chỉ là tội nhẹ của một giám mục hoặc linh mục.  Nếu đức tin tùy vào chúng ta, đó là đã đặt sai chỗ ngay từ đầu.  Các giám mục và linh mục có thể đại diện cho Chúa Giêsu chăm sóc Giáo hội của Ngài, dù lúng túng, nhưng giám mục và linh mục không là Chúa Giêsu và Giáo hội của Ngài.

Một người vợ của một nạn nhân đã nói với một giám mục: “Xin đức cha giúp con lấy lại niềm tin vào giáo hội!  Con tin vào đức cha!”  Vị giám mục đó trả lời: “Đừng tin tuyệt đối vào tôi.  Tôi sẽ cố gắng hằng ngày để giữ niềm tin của chị, cầu nguyện hàng ngày để chị không thất vọng, nhưng hãy tin tôi, chẳng chóng thì chày, tôi e rằng tôi sẽ làm chị thất vọng.  Xin chị hãy hoàn toàn tin vào Chúa Giêsu!  Không có gì khác là thần tượng!”

Frank Sheed, một thần học gia của thế kỷ 20, nói: “Chúng ta không được rửa tội theo phẩm trật.  Chỉ có Chúa là quan trọng nhất.  Không có giáo hoàng, giám mục, hay linh mục nào có thể làm gì hoặc nói gì khiến chúng ta muốn từ bỏ giáo hội.”

Hãy cầu nguyện cho các giám mục và linh mục.  Chúng ta phải cố gắng sống theo cách sống của Chúa Giêsu, đừng để tội lỗi đẩy chúng ta ra xa.

Trầm Thiên Thu

 chuyển ngữ từ Archdiocese of New York

****************************** *********

Lạy Chúa, xin hãy gìn giữ các Linh mục,

vì các ngài là của riêng Chúa,

đã tận hiến cả cuộc đời

để lo việc mở mang nước Chúa.

 Xin Chúa gìn giữ các Linh mục vì các ngài sống giữa thế gian

nhưng không thuộc về thế gian;

những lúc bị lạc thú trần gian cám dỗ

xin Chúa ấp ủ các Linh mục trong Trái Tim Ngài.

 Xin Chúa hãy gìn giữ và an ủi các Linh mục,

trong những lúc các ngài cô đơn sầu khổ;

khi suốt cả cuộc đời hy sinh cho các linh hồn

bị xem ra vô ích. 

Xin Chúa gìn giữ các Linh mục,

và xin Chúa thương nhớ, lạy Chúa,

các ngài không có ai chỉ trừ một mình Chúa thôi!

Các ngài chỉ có con tim của con người

với những mỏng dòn yếu đuối của nó. 

Xin Chúa giữ gìn các Linh mục trong trắng

như Mình Thánh Chúa mà hằng ngày các ngài nâng niu.

Xin Chúa thương chúc lành cho các Linh mục,

xin thánh hóa mọi tư tưởng, lời nói và việc làm của các ngài.  Amen!

THIÊN CHÚA MỜI GỌI MÙA CHAY

 THIÊN CHÚA MỜI GỌI MÙA CHAY 

 Trầm Thiên Thu 

Mùa Chay là mùa Thiên Chúa mời gọi riêng từng người: “Hãy trở về với Ta bằng cả tấm lòng.”  Chúng ta trả lời: “Chúng con sẽ trở về.”  Nhưng chúng ta lại chưa sẵn sàng, chúng ta chưa thực sự chuẩn bị tâm hồn, còn nuối tiếc!  Chúng ta muốn lòng vòng, lẩn tránh, lần lữa, viện cớ…  Tâm hồn chúng ta chưa hoàn hảo.  Chúng ta chưa sẵn sàng để Thiên Chúa yêu thương chúng ta! 

Đúng vậy, nhưng chúng ta rất muốn quan hệ thân mật với Thiên Chúa, chúng ta nhiệt thành tự nhủ như vậy.  Và chúng ta sẽ…  Không bao lâu nữa.  Chúng ta vẫn trì hoãn.  Thiên Chúa lại mời gọi chúng ta: “Hãy trở về với Ta bằng cả tấm lòng”

Vâng, lạy Chúa, con sẽ trở về với Ngài.  Con chỉ còn vài việc cần làm nữa thôi.  Trước tiên cho con thêm thời gian để cầu nguyện.  Rồi con sẽ hòa giải.  Xin cho con lau chùi nhà bếp, dọn dẹp nhà cửa, bán bớt mấy thứ lặt vặt, chăm sóc miếng đất con mới mua,…  Thiên Chúa nhắc lại: “Hãy trở về với Ta bằng cả tấm lòng”

Đó là lời mời gọi đặc biệt dành cho mỗi chúng ta, theo cách riêng của mỗi người.  Thiên Chúa mời gọi chúng ta đừng biện hộ vì điều đó là khoảng cách giữa chúng ta và Thiên Chúa.  Những gì Thiên Chúa muốn là chúng ta nhận biết các tiêu chuẩn của mình, cách phê bình và cách yêu thương của chúng ta cũng rất khác cách của Thiên Chúa.  Ngài cho chúng ta cả Mùa Chay, cả cuộc sống, vì yêu thương chúng ta vô điều kiện, dù chúng ta làm gì hoặc nghĩ gì mà chúng ta giấu giếm Ngài. 

Từ thứ Tư lễ Tro, ngày khởi đầu Mùa Chay, các bài đọc đều nhắc lại lời Chúa: “Hãy trở về với Ta bằng cả tấm lòng.”  Tv 51 cũng nhắc nhở: “Lạy Chúa, xin tạo cho con trái tim trong sạch.  Xin ban lại cho con niềm vui ơn cứu độ.”  Đó là chính xác những gì Thiên Chúa muốn trao ban cho chúng ta, đó chính là niềm vui ơn cứu độ. 

Ở Bắc Mỹ, Mùa Chay rơi vào mùa Đông, những ngày này lạnh lẽo và tối tăm, hoàn toàn phải giấu mình trong nhà, hoàn toàn ẩn mình khỏi Thiên Chúa – chúng ta nghĩ vậy.  Nhưng Thiên Chúa vẫn kiên trì, yêu thương, nhân hậu.  Thiên Chúa là Người Cha của Đứa Con Hoang Đàng, nhẫn nại chờ đợi, tha thiết muốn đứa con trở về, chờ suốt ngày thâu đêm.  Không hề khép vòng tay, không hề có ánh mắt xét đoán, chỉ có đôi mắt mỏi mòn chờ đứa con trở về.  Thiên Chúa khao khát được ôm choàng lấy chúng ta và vui mừng thấy chúng ta trở về.

Nhưng chúng ta vẫn quan ngại tìm cách nào để trở về và đắn đo lời nói, tìm cách để đối thoại.  Đó chỉ là lúc chúng ta còn ở xa, lúng túng và lẫn lộn, nhưng chúng ta không cần phải nói chi cả, chúng ta chỉ cần cho Ngài nhìn thấy chúng ta. 

Hãy nhìn con đường phía trước: Thiên Chúa yêu thương đang vui mừng khi nhìn thấy chúng ta trở về. Lời mời gọi của Ngài đã được chúng ta nghe thấy và đáp lại: “Chúng ta phải mau về nhà thôi!” 

Nhưng điều gì cản trở chúng ta về đoàn tụ với Cha?  Điều gì khiến chúng ta không đáp lại lời mời gọi để trở về sống với Thiên Chúa?  Đó là sự trì hoãn, lần lữa, so đo: “Từ từ… Chờ chút…  Vì không biết Thiên Chúa có biết mình hay không…” 

Tất cả không thành vấn đề.  Chỉ cần biết rằng chúng ta phải trở về với Thiên Chúa, Ngài đang mỏi mòn chờ đợi chúng ta trở về để được ôm hôn mỗi chúng ta.  Vậy chúng ta phải mau trở về!  Tiếng Chúa vẫn âm vang: “Hãy trở về với Ta bằng cả tấm lòng.”

Chấp nhận lời mời gọi này là điều đơn giản nếu chúng ta có thể vượt qua nỗi sợ hãi.  Những gì chúng ta cần làm là thưa với Chúa: “Lạy Chúa, con đây.  Con phải bắt đầu từ đâu?  Vâng, con muốn được ở bên Ngài.”  Lòng chúng ta đã mở ra và chúng ta đã bắt đầu bước về phía người cha đang đứng ở phía trước.  Không cần giải thích chi hết, chỉ cần vui mừng trong yêu thương mà nhìn vào ánh mắt nhân từ của Thiên Chúa đang nhìn chúng ta. 

Bước kế tiếp trên đường về nhà là gì?  Chúng ta có thể dùng những giây phút đầu ngày, trước khi ra khỏi giường, để tạ ơn Chúa đã dành cho chúng ta lời mời gọi yêu thương như thế, và xin Ngài mở lòng chúng ta để chúng ta có thể đón nhận.  Hãy bắt đầu từ hôm nay, đang là thời gian Mùa Chay.  Suốt ngày, chúng ta có thể nhớ lời mời gọi của Chúa khiến lòng chúng ta lay động: “Hãy trở về với Ta bằng cả tấm lòng.”  Và chúng ta có thể cùng vui mừng với Thiên Chúa.

 Đó là lời mời gọi mỗi ngày trong Mùa Chay.  Và hôm nay là ngày chấp nhận lời mời gọi của Thiên Chúa.

 Trầm Thiên Thu 

(chuyển ngữ từ OnlineMinistries.Creighton.Edu )

HỆ LỤY TÔN GIÁO

HỆ LỤY TÔN GIÁO

[Bài chủ đề báo ĐMHCG, số 377, tháng 01-2018, DCCT xuất bản tại Hoa Kỳ]

Theo ước tính, hiện nay trên thế giới có khoảng 500.000 tôn giáo đang tồn tại, Á Châu chiếm đa số. Trong số hơn 7 tỉ người trên trái đất, có 85% là những người có niềm tin tôn giáo. Nhưng có nhiều ý kiến cho rằng các cuộc xung đột trong thế kỷ 21 này có thể là sự xung đột giữa các tôn giáo. Đó là mối quan ngại, và thực tế này đang manh nha!

Trong Tông Huấn “Giáo Hội tại Á Châu” (Ecclesia in Asia – ĐGH Gioan Phaolô II, 6-11-1999) cho biết: “Á Châu là nơi khai sinh của Ðức Giêsu và của Giáo Hội”. Thánh GH Gioan Phaolô II đã nhận thấy Á Châu là một chân trời mới đầy hứa hẹn cho một “mùa gặt các linh hồn mà Ngài thấy đã chín mùi và phong phú” cho sứ vụ của Giáo Hội trong Ngàn Năm Thứ Ba (số 9). Tông Huấn này xác định:“Ðức Giêsu đã sinh ra, sống, chết và phục sinh nơi Thánh địa, vùng đất bé nhỏ này ở Tây Á đã trở nên một vùng đất đầy hứa hẹn và hy vọng cho tất cả nhân loại” (số 4). Á Châu chính là “chiếc nôi của tôn giáo”. Thật kỳ lạ!

CHIẾC NÔI TÔN GIÁO

Dân số Á châu hiện nay là hơn 3 tỉ người, nghĩa là chiếm hơn nửa dân số thế giới. Đó là một lục địa mênh mông, đồng thời cũng là quê hương của chính Ðức Kitô, thế mà số người Công giáo chỉ có vỏn vẹn hơn 132 triệu tín hữu, tỷ lệ là 3,95%.

Michael Inzlicht, nhà thần kinh học thuộc ĐH Toronto, Scarborough, người hướng dẫn cuộc nghiên cứu về mối liên quan giữa tôn giáo và não bộ, cho biết: “Tôn giáo đưa ra khung-biểu-diễn để hiểu biết thế giới. Nó cho bạn biết thời điểm hành động, cách hành động, và những gì cần làm trong mỗi tình huống. Nó cung cấp chi tiết kế họach về cách tương tác với thế giới”. Tôn giáo – và có thể khác hơn là hệ thống niềm tin – làm vật đệm cho quyết định dự đoán khác.

Cuối năm 2011, để phân tích kinh nghiệm về nỗ lực của tôn giáo đối với hạnh phúc, người ta đã sử dụng các dữ liệu từ 3 đợt (2002-2003, 2004 và 2006) của tổ chức Nghiên cứu Xã hội Âu châu (ESS – European Social Survey) đối với 114.019 cá nhân ở 24 quốc gia.

Các dữ liệu này cung cấp thông tin về đặc tính cá nhân như giới tính, tuổi tác, thu nhập, sức khỏe tổng quát theo quan điểm cá nhân, tình trạng hôn nhân, hoạt động chính, số con và trình độ học vấn, và những phương diện khác,… Dường như có mối liên quan tích cực giữa mức độ tôn giáo ở một người đối với hạnh phúc: NHỮNG NGƯỜI CÀNG SÙNG ĐẠO CÀNG HẠNH PHÚC.

Chủ nghĩa vô thần muốn loại bỏ tôn giáo, nhưng đó là sai lầm nghiêm trọng. Thật vậy, chính họ cũng vẫn thắp nhang và vái lạy thì sao lại nói là mình vô thần? Vừa mặc nhiên vừa mình nhiên, họ đã tự mâu thuẫn!

Tôn giáo liên quan thế giới vô hình, liên quan các thần linh, đặc biệt là Thiên Chúa – Đấng tạo tác muôn sự muôn loài. Con người vốn dĩ duy tâm, chắc chắn không thể thiếu tôn giáo trong cuộc sống thường nhật.

Riêng tại Việt Nam, tôn giáo khá đa dạng – gồm các nhánh Kitô giáo như Công giáo Rôma, Tin Lành (Lutheran, Cơ Đốc phục lâm,…); các nhánh Phật giáo như Đại thừa, Tiểu thừa, Hòa Hảo…; tôn giáo nội sinh như Đạo Cao Đài, và một số tôn giáo khác. Cho tới nay, tín ngưỡng dân gian bản địa vẫn có ảnh hưởng nhất định trong cuộc sống của người dân Việt Nam.

Có những người Việt nhận mình là những người không tôn giáo, mặc dù thi thoảng họ vẫn đến các địa điểm tôn giáo vào một vài dịp trong năm. Theo tác giả Trần Đình Hượu, người Việt được cho là ít có tinh thần tôn giáo, các tôn giáo thường được tập trung về phương diện thờ cúng, còn về giáo lý và tinh thần lại ít được quan tâm. Theo số liệu cuộc Tổng điều tra Dân số và Nhà ở Việt Nam năm 2009, toàn quốc có 15.651.467 người xác nhận mình theo một tôn giáo nào đó. Cùng với điều đó, tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên là một loại hình sinh hoạt tôn giáo phổ biến, được thực hành bởi đa số dân chúng.

Từ xưa, Việt Nam đã có các hình thức thực hành tôn giáo đối với các đối tượng tự nhiên. Các hình trang trí trên trống đồng Đông Sơn đã phản ánh các nghi lễ tôn giáo thời ấy, mô tả nhiều về hình ảnh một loài chim – cụ thể là chim Lạc, khiến các sử gia tin rằng chúng là đối tượng được người Việt xưa tin thờ. Ngoài ra, con Rồng cũng xuất hiện nhiều trong các sản phẩm nghệ thuật và mỹ thuật Việt Nam, phát sinh từ việc thờ cúng Lạc Long Quân – huyền thoại về một con người được cho là cha đẻ của dân tộc Việt Nam. Bên cạnh đó, các đối tượng tự nhiên khác như động vật, núi, sông, biển,… cũng được người Việt tôn làm vị thần bảo vệ và chúc phúc cho con người. Tôn giáo tại Việt Nam có mối liên hệ với nền văn minh Trung Hoa và văn minh Ấn Độ, nhưng người Việt còn kết hợp yếu tố truyền thống đạo đức của dân tộc mình vào đó để hình thành loại tôn giáo mang bản sắc riêng biệt.

Thời quân chủ tại Việt Nam, Nho giáo được chính quyền khuyến khích, được xem là nền tảng của chế độ khoa cử, nhiều văn miếu được xây dựng trong cả nước. Các tôn giáo hiện diện lâu đời tại Việt Nam là Khổng giáo, Lão giáo và Phật giáo (gọi chung là tam giáo). Tuy nhiên, Phật giáo có vai trò quan trọng trong các triều đại như nhà Lý, nhà Trần và các chúa Nguyễn.

Sau năm 1954, khi người cộng sản cầm quyền tại miền Bắc, vấn đề tâm linh bị coi là đối tượng đấu tranh về tư tưởng, thậm chí là đấu tranh bằng ý thức hệ, thế nên họ cố gắng bài trừ mê tín dị đoan đến mức mọi chuyện liên quan đến tâm linh đều bị đả phá. Họ muốn xóa bỏ tất cả, mặc dù tín ngưỡng tôn giáo thuộc nhu cầu tâm linh và là quyền cơ bản của con người – tự do tín ngưỡng. Ở miền Bắc, từ năm 1954 cho đến đầu những năm 1980 hầu như không tồn tại các hoạt động thực hành tín ngưỡng nữa, nhưng tại miền Trung và miền Nam vẫn duy trì hoạt động đó. Việc ngắt quãng trong một thời gian dài, từ 1954 đến đầu thập niên 1980 khiến cho hệ thống lễ hội bị phá vỡ. Từ năm 1986 đến nay, gần 8.000 lễ hội đã được phục hồi và hình thành các lễ hội mới, được quan tâm nhiều nhất là lễ hội dân gian.

Ông Nguyễn Quốc Tuấn, Viện trưởng Viện nghiên cứu tôn giáo, nhận xét: “Dường như những chính sách về tôn giáo nghiêm trọng và sai lầm trước đây, và cả hiện nay nữa, đã tạo ra một quá trình sa mạc hóa về tâm linh ở Việt Nam, để giờ đây tâm hồn của người Việt đã biến thành một bãi hoang có thể chấp nhận các loại bụi gai xương rồng và không thể trồng được loại cây có hoa thơm, quả ngọt”. Theo ông, đó là bài học về việc đừng tạo ra những sa mạc nhận thức như đã từng làm, vì không ai khác, chính các thế hệ người Việt sau này sẽ phải gánh chịu hậu quả.

Tại Việt Nam có 6 tôn giáo lớn là Phật giáo, Công giáo, Cao Đài, Hòa Hảo, Tin Lành, và Hồi giáo. Trong số đó, Phật giáo có số tín đồ đông đảo nhất. Theo thống kê dân số năm 2009, số tín đồ Phật giáo là 6.802.318 người. Còn theo số liệu thống kê của Giáo hội Phật giáo Việt Nam, cả nước có gần 45 triệu tín đồ đã quy y tam bảo.

Công giáo Rôma tới Việt Nam vào đầu thế kỷ 16, tại Nam Định (thời Nhà Lê trung hưng), bởi những nhà truyền giáo Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha, sau đó là người Pháp, trước cả khi Việt Nam là thuộc địa của Pháp. Về sau, chính quyền Pháp không khuyến khích người dân theo tôn giáo nào, nhưng họ bảo đảm quyền tự do tôn giáo lần đầu tiên trên đất nước Việt Nam, nhất là Bắc Kỳ và Nam Kỳ – nơi chịu sự bảo hộ của Pháp. Nhờ vậy Công giáo cũng như những tôn giáo khác đã thoát khỏi thời kỳ bách hại lớn nhất dưới các triều đại phong kiến kể từ thế kỷ 16. Công giáo lan truyền trong dân tại các tỉnh ven biển Thái Bình, Nam Định, Ninh Bình, Thanh Hóa, sau đó lan tới vùng châu thổ sông Hồng và các vùng đô thị. Theo thống kê năm 2009, Việt Nam có khoảng 5.677.086 tín hữu Công giáo, GP Xuân Lộc (tỉnh Đồng Nai) có nhiều tín hữu Công giáo nhất, với khoảng 800.000 tín hữu, và có khoảng 6.000 nhà thờ tại Việt Nam. Công giáo được mệnh danh là “đạo yêu thương”, bởi vì “Thiên Chúa là tình yêu” (1 Ga 4:8 & 16), và luật Chúa tóm gọn trong hai điều: Mến Chúa và yêu người.

Cao Đài (còn gọi là Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ) là một tôn giáo do Ngô Văn Chiêu, Cao Quỳnh Cư và Phạm Công Tắc thành lập năm 1926, có trung tâm là Tòa Thánh Tây Ninh, thờ cúng Đức Chí Tôn Ngọc Hoàng Thượng Đế. Các tín đồ Cao Đài thi hành những giáo điều như không sát sanh, sống lương thiện, hòa đồng, làm lành, lánh dữ, giúp đỡ xung quanh, cầu nguyện, thờ cúng tổ tiên và thực hành tình yêu thương vạn loại qua việc ăn chay. Mục tiêu tối thiểu của họ là đem hạnh phúc đến cho mọi người, đưa mọi người về với Thượng Đế nơi Thiên Giới, và mục tiêu tối thượng là đưa vạn loại thoát khỏi vòng luân hồi. Theo số liệu năm 2011, có 2,4 triệu tín đồ Cao Đài trên cả nước, đông nhất tại Tây Ninh, và có khoảng 30.000 tín đồ sống tại Bắc Mỹ, Âu Châu và Úc Châu.

Hòa Hảo (Phật giáo Hòa Hảo) là một tôn giáo Việt Nam gắn chặt với truyền thống Phật giáo, do Huỳnh Phú Sổ (gọi là Đức Huỳnh giáo chủ) thành lập năm 1939 tại làng Hòa Hảo, quận Tân Châu (nay là thị trấn Phú Mỹ, huyện Phú Tân, tỉnh An Giang). Đạo Hoà Hảo phát triển ở miền Tây Nam Bộ, kêu gọi mọi người sống hòa hợp, đánh giá cao triết lý “Phật tại tâm”, khuyến khích nghi lễ thờ cúng đơn giản (chỉ có hoa và nước sạch) và loại bỏ mê tín dị đoan. Những buổi lễ được tổ chức rất đơn giản và khiêm tốn, không có ăn uống, hội hè. Lễ lộc, cưới hỏi hay ma chay không cầu kỳ như thường thấy ở những tôn giáo khác. Đạo không có tu sĩ, không có tổ chức giáo hội mà chỉ có một số chức sắc lo việc đạo và việc đời. Theo thống kê năm 2009, có khoảng 1.433.252 tín đồ Phật giáo Hòa Hảo, chủ yếu tập trung ở miền Tây Nam Bộ (đặc biệt là An Giang, nơi có nhiều tín đồ nhất – gần 1 triệu).

Tin Lành được truyền vào Việt Nam năm 1911. Đầu tiên, tôn giáo này chỉ được phép hoạt động tại các vùng do Pháp quản lý, các vùng khác bị cấm. Đến năm 1920, Tin Lành mới được phép hoạt động trên khắp Việt Nam. Theo thống kê năm 2009, Tin Lành là tôn giáo chính của nhiều dân tộc thiểu số, và số tín đồ chủ yếu tập trung ở khu vực Tây Nguyên và Tây Bắc, nơi có nhiều tín đồ Tin Lành nhất là Đăk Lăk.

Hầu hết tín đồ Hồi giáo và Hindu giáo tại Việt Nam là người Chăm. Người ta cho rằng Hồi giáo đã được truyền vào Việt Nam đầu tiên là khoảng thế kỷ 10 và 11, trong cộng đồng người Chăm. Theo thống kê năm 2009, tại Việt Nam có khoảng 75.268 tín đồ Hồi giáo, chủ yếu ở Bình Thuận, Ninh Thuận, An Giang, Tây Ninh, Đồng Nai, và Saigon, đông nhất là tại Ninh Thuận (hơn 25.000 tín đồ). Có hai phái Hồi giáo của người Chăm: người Chăm ở Châu Đốc, Saigon, Tây Ninh và Đồng Nai theo Hồi giáo Chính thống, còn người Chăm ở Bình Thuận và Ninh Thuận theo phái Chăm Bà Ni.

Một tôn giáo chính khác của cộng đồng người Chăm là đạo Bà La Môn (hơn 56.000 tín đồ) chủ yếu tập trung ở Ninh Thuận (hơn 40.000 tín đồ).

Ngoài 6 tôn giáo lớn vừa đề cập, Việt Nam còn có nhiều tôn giáo nhỏ khác được chính quyền công nhận như: Tứ Ân Hiếu Nghĩa (hơn 41.000 tín đồ), Tịnh độ Cư sĩ Phật hội Việt Nam (hơn 11.000 tín đồ), Bửu Sơn Kỳ Hương (hơn 10.000 tín đồ), Baha’I (khoảng 8.000 tín đồ), Minh Lý Đạo và Minh Sư Đạo.

Đồng thời còn có vài tin ngưỡng và tôn giáo không chính thức như tín ngưỡng bản địa ở Tây Nguyên và miền núi phía Bắc, Đạo Ông Trần tại Đảo Long Sơn (Bà Rịa – Vũng Tàu); các tín ngưỡng phụ phổ biến như Đạo Mẫu, Đạo giáo, Nho giáo, thờ Thành hoàng, tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên; Chính Thống giáo tại Việt Nam có đại diện là giáo xứ Đức Mẹ Kazan (thuộc Giáo hội Chính thống Nga) ở Vũng Tàu, nơi có vài trăm chuyên gia người Nga của Công ty Liên doanh Vietsovpetro. Các đại diện của Bộ phận liên lạc các giáo xứ ở ngoại quốc của tòa thượng phụ Moskva thường xuyên thăm giáo xứ này để tổ chức các thánh lễ theo lịch phụng vụ dịp Lễ Phục Sinh và các thánh lễ tại nơi khác.

HỆ LỤY TÔN GIÁO

Thống kê cho thấy rằng số người Việt thực hiện việc thờ cúng tổ tiên chiếm tỷ lệ trung bình là 98% dân số. Điều này chứng tỏ người Việt duy tâm lắm đấy, nghĩa là tôn giáo rất quan trọng trong đời sống của họ!

Vì nhu cầu tâm linh mà người ta tìm đến tôn giáo, vì có niềm tin tôn giáo mà nhiều người bị bách hại, và họ tìm đường thoát thân bằng cách di tản để được sống tự do – đặc biệt là tự do tôn giáo. Nhiều nơi trên thế giới đã và đang có những cuộc di tản, tạo nên tình trạng di dân và người tỵ nạn. Riêng tại Việt Nam đã có cuộc di cư năm 1954 và 1975, đó là lịch sử minh nhiên, đồng thời cũng có hệ lụy tất yếu.

Hai mươi năm là một thế hệ. Hai mươi năm không dài mà Việt Nam phải mang hai nỗi buồn rười rượi. Đau lòng lắm, quê hương ơi! Với tâm tình đó, cố nhạc sĩ Phạm Duy đã viết ca khúc “Năm Bốn, Bảy Lăm” (1954-1975) nói về tình trạng tỵ nạn của nhiều người Việt: “Một ngày năm bốn cha bỏ quê xa, chốn đã chôn nhau cắt rốn bao nhiêu đời. Một ngày năm bốn cha bỏ phương trời, một miền Bắc tối tăm mưa phùn rơi… Một ngày bảy lăm con bỏ nước ra đi, hai mươi năm là hai lần ta biệt xứ. Giờ cha lưu đày ở ngay trên đất ta, và giờ con lưu đày ở đây trên xứ lạ!… Một ngày năm bốn xa mộ ông cha, với lũy tre xanh khóm chuối bên sau nhà. Một ngày năm bốn cha phải chia lìa, cùng mảnh đất nóc gia cha làm ra… Một ngày bảy lăm con bỏ hết giang sơn, hai mươi năm tình yêu người yêu cuộc sống. Giờ nơi nước mình niềm đau thay nỗi vui, Saigon đã chết rồi phải mang tên xác người…”. Lời ca da diết niềm đau như mũi dao cứ xoáy sâu vào lòng vậy. Buồn và đau lắm!

Nói chung, dân tỵ nạn là những người muốn tránh khổ, thoát khổ, tức là họ quyết đi tìm tự do, bình an và hạnh phúc ở một nơi khác. Nơi nào có tự do, bình an và hạnh phúc thì họ tìm đến bằng mọi giá, và nơi đó trở thành quê hương của họ. Tuy nhiên, có những người đã phải trả giá rất đắt vì họ gặp đủ thứ nguy hiểm, thậm chí phải mất mạng trong cuộc chạy trốn đó. Quả thật, tình trạng tỵ nạn là cảnh đáng sợ, vì kiếp tỵ nạn gian khổ lắm thôi!

Về phương diện tâm linh, chúng ta không thể dùng danh từ tỵ nạn, nhưng chúng ta cũng chẳng khác gì dân tỵ nạn – theo nghĩa phiến diện nào đó, bởi vì chúng ta đang trên đường lữ hành trần gian đầy đau khổ, với hy vọng sẽ thoát cảnh “khổ não trần ai” để về tới Bến Hạnh Phúc đích thực là Nước Trời, Quê Hương vĩnh cửu. Xét về ý nghĩa đó, chúng ta có thể coi mình cũng đang là “dân tỵ nạn”. Khổ hết sức! Khổ vô cùng! Khổ trên từng cây số! Khổ tận cùng bảng số! Thế nên chúng ta luôn thao thức cầu xin: “Lạy Chúa, xin cứu thoát! Lạy Chúa Giêsu, xin Ngài ngự đến!” (Kh 22:20b).

Đúng như vậy, nguy hiểm lúc nào cũng cận kề trên đường lữ hành trần gian, sơ sảy một chút là “chết” ngay, vì thế mà Thánh Phêrô đã cảnh báo: “Anh em hãy sống tiết độ và tỉnh thức, vì ma quỷ, thù địch của anh em, như sư tử gầm thét, rảo quanh tìm mồi cắn xé” (1 Pr 5:8).

Trong Tân Ước, chúng ta không thấy đề cập vấn đề tỵ nạn, nhưng Cựu Ước có nhắc tới việc tỵ nạn hai lần.

Sách Sử Biên Niên đề cập nơi sinh sống của con cháu A-ha-ron: “Đây là nơi cư trú của họ, theo ranh giới các trại dành cho họ: Nên người ta cho họ vùng Khép-rôn trong đất Giu-đa, cùng với các đồng cỏ chung quanh. Đồng ruộng của thành ấy và các thôn làng thì người ta cho ông Ca-lếp con ông Giơ-phun-ne. Nhưng người ta lại cho con cháu ông A-ha-ron các thành tỵ nạn là Khép-rôn và Líp-na với các đồng cỏ, Giát-tia, Ét-tơ-mô-a với các đồng cỏ, Khi-lết với các đồng cỏ, Đơ-via với các đồng cỏ, A-san với các đồng cỏ, Bết Se-mét với các đồng cỏ. Còn chi tộc Ben-gia-min thì người ta cho họ: Ghe-va với các đồng cỏ, A-le-mét với các đồng cỏ, A-na-tốt với các đồng cỏ. Tất cả các thành của họ là mười ba, tính theo số các thị tộc của họ” (1 Sbn 6:39-45).

Sách Isaia nói tới vấn đề tỵ nạn trong lời sấm hạch tội Mô-áp: “Lòng tôi kêu gào bênh vực Mô-áp; những người dân tỵ nạn đã đến tận Xô-a và Éc-lát Sơ-li-si-gia. Thật vậy, tại dốc Lu-khít, họ vừa trèo vừa khóc; quả thế, trên đường Khô-rô-na-gim, họ thốt lên những tiếng kêu than thảm bại” (Is 15:5).

Thế giới có nhiều trại tỵ nạn, nhiều dạng tỵ nạn, nhiều mức độ tỵ nạn, nhưng luôn có một mẫu số chung là KHỔ. Đành rằng “ngày nào có cái khổ của ngày đó” (Mt 6:34), nhưng cái khổ của kiếp tỵ nạn thì chỉ hơn kiếp tù tội là có tự do. Chẳng nơi nào có thể để chúng ta an tâm nếu “chẳng may” là dân tỵ nạn.

Chỉ có một “trại tỵ nạn” đầy đủ “tiện nghi” nhất, thậm chí còn sướng hơn sống tại nhà mình, đó là Thánh Tâm Chúa Giêsu. Thật vậy, chính Ngài đã mời gọi mọi người, nhất là những người đau khổ: “Hỡi những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng Tôi, Tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng” (Mt 11:28). Chúa Giêsu là nơi để chúng ta có thể “tỵ nạn” an toàn nhất, vì chúng ta không chỉ được sống mà còn sống dồi dào (x. Ga 10:10).

Ước gì mỗi chúng ta biết lánh nạn trần gian để an tâm tỵ nạn nơi Thánh Tâm Chúa Giêsu, nơi đó có Nguồn Nước và Máu biến đổi chúng ta, để chúng ta có thể nên thánh theo Tôn Ý của Chúa Giêsu: “Hãy hoàn thiện như Chúa Cha trên trời” (Mt 5:48). Hãy mau ngụp lặn trong Đại Dương Lòng Chúa Thương Xót, đừng chần chừ nữa, vì thời gian sắp hết, nghĩa là giờ thương xót của Thiên Chúa gần hết rồi!

Khi tỵ nạn trần gian, chắc hẳn chúng ta không thể thiếu Người Mẹ, vì có Mẹ là có bình an – bình an ngay trong cảnh khổ. Trong Kinh Cầu Đức Bà, chúng ta tha thiết cầu xin: “NỮ VƯƠNG BAN SỰ BÌNH AN – Cầu Cho Chúng Con!”. Đức Mẹ thông ban những ơn cần thiết trong cuộc sống trần gian, bởi vì Mẹ là Thánh Mẫu của Thiên Chúa và cũng là Nữ Vương Hòa Bình.

Trong đời thường, ngày khởi đầu công việc luôn được người ta coi trọng. Ngày khởi đầu càng quan trọng hơn khi ngày đó là Ngày Đầu Năm. Do đó, ngày 1 tháng 1 là ngày rất đặc biệt đối với thế giới, cả đạo và đời, vì đó là ngày khởi đầu năm mới. Với người Âu Tây, đó là ngày Tết; với quốc tế, đó là ngày Hòa bình Thế giới; với người Công giáo, đó là ngày lễ Mẹ Thiên Chúa. Chúng ta mới vừa mừng lễ Giáng sinh để tôn vinh Con Thiên Chúa, liền sau đó lại tiếp tục mừng lễ Mẹ Thiên Chúa để tôn vinh Mẹ Thiên Chúa. Giáo hội tạo một nối kết tuyệt vời để đề cao Tình Mẫu Tử!

Không biết Thiên Chúa có “tiền định” hay không mà các ngôn ngữ đều mở miệng gọi Mẹ bằng âm bật mở đầu là mẫu tự M. Chẳng hạn cách gọi người sinh ra mình là Mẹ hoặc Má (tiếng Việt), Mother (Mom, Mum – tiếng Anh), Mère (Maman – tiếng Pháp), Mutter (Mumie – tiếng Đức), Madre (Mamá – tiếng Tây Ban Nha), Madre (Mamma – tiếng Ý), Moeder (Mummie – tiếng Hà Lan),… Nhưng khi gọi Cha thì các nước không dùng chung âm mở đầu, mỗi nước mỗi khác. Phải chăng đây là “đặc cách” mà Thiên Chúa đã dành cho Đức Mẹ, Mẹ của những người Mẹ, và tất cả những phụ nữ làm Mẹ?

Nói đến mẹ thì luôn liên quan con. Tình Mẫu Tử có gì đó rất kỳ diệu, hầu như chúng ta không thể hiểu hết. Dù người con tật nguyền, không đẹp, thậm chí là hư hỏng, phản bội, nhưng vì “nước mắt luôn chảy xuôi” nên người Mẹ vẫn sẵn sàng tha thứ và vẫn yêu thương hết lòng. Người bàng quan có thể trách người Mẹ là nhu nhược, là sợ sệt, nhưng ai đã làm Mẹ mới khả dĩ hiểu thấu. Thế mới là Tình MẫuTử đích thực – trong đó Tình Phụ Tử đích thực cũng được “hiểu ngầm”. Không thể chỉ kính trọng Tình Mẹ mà “coi nhẹ” Tình Cha, vìngười Mẹ khởi đầu cho cuộc sống, tình yêu và hạnh phúc; người Cha khởi đầu cho ý chí, niềm tin và sức mạnh.

Hình như chữ T luôn có gì đó khá đặc biệt, tạo nên chuỗi liên kết kỳ diệu trong cuộc sống của mỗi chúng ta, nhất là các Kitô hữu: Tôn giáo – Tâm linh – Tình yêu – Thanh bình (hòa bình, bình an, an bình).

Cùng với cố NS Hải Linh (1920-1988), chúng ta cùng xưng tụng Đức Mẹ qua bài Thánh ca “Nữ Vương Hòa Bình” (1959), ca từ nói lên tâm tình thảo kính của người Việt được hòa quyện vào giai điệu du dương: “Kính mừng Nữ vương, Nữ vương Hòa bình, Nữ vương Hòa bình. Đây bao tâm hồn thao thức, dân con đất Việt nao nức, cất tiếng ca mừng vui: Kính chào Nữ vương Hòa bình. Tung hô Mẹ Maria! Tung hô Mẹ đầy ơn phúc! Mẹ là sáng khắp đất nước bao la! Tung hô Mẹ Maria! Tung hô Mẹ đầy ơn phúc! Đem nguồn sống an vui chan hòa”.

Lạy Thiên Chúa giàu lòng thương xót, xin giải thoát chúng con khỏi cảnh đời lầm than, xin ban bình an cho chúng con, xin cho chúng con được hưởng nền hòa bình và tự do đích thực. Xin Thánh Mẫu Thiên Chúa nguyện giúp cầu thay cho chúng con, đặc biệt là dân con Nước Việt. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.

TRẦM THIÊN THU

DẤU CHỈ THỜI CÁNH CHUNG

DẤU CHỈ THỜI CÁNH CHUNG

Nhiều người cố gắng xác định thời gian trở lại của Đức Kitô nhưng rồi chẳng ai đoán đúng. Trật lất hết ráo. Chúng ta cũng đã biết tình trạng này trong những năm vừa qua!

Cuộc tái lâm của Chúa Giêsu là lúc Chúa Giêsu trở lại thế gian, sau khi Ngài đã về trời, khi đó Ngài sẽ chiến thắng kẻ thù, tiêu diệt ma quỷ và thiết lập Vương Quốc vĩnh hằng.

Cuộc tái lâm của Chúa Giêsu đã được mô tả trong sách Khải Huyền: “Bấy giờ tôi thấy trời rộng mở: kìa một con ngựa trắng, và người cỡi ngựa mang tên là ‘Trung thành và Chân thật’, Người theo công lý mà xét xử và giao chiến. Mắt Người như ngọn lửa hồng, đầu Người đội nhiều vương miện, Người mang một danh hiệu viết trên mình, mà ngoài Người ra chẳng ai biết được. Người khoác một áo choàng đẫm máu, và danh hiệu của Người là: ‘Lời của Thiên Chúa’. Các đạo quân thiên quốc đi theo Người, họ cỡi ngựa trắng, mặc áo vải gai mịn trắng tinh. Từ miệng Người phóng ra một thanh gươm sắc bén để chém muôn nước. Chính Người sẽ dùng trượng sắt mà chăn dắt chúng. Người đạp trong bồn đạp nho chứa thứ rượu là cơn lôi đình thịnh nộ của Thiên Chúa Toàn Năng. Người mang một danh hiệu viết trên áo choàng và trên vế: Vua các vua, Chúa các chúa” (Kh 19:11-16).

Là Kitô hữu, chúng ta tin Chúa Giêsu sẽ trở lại để hoàn tất lời hứa của Ngài và các lời tiên tri đã nói về Ngài. Mt 24:30 cho biết về lời hứa này: “Bấy giờ, dấu hiệu của Con Người sẽ xuất hiện trên trời; bấy giờ mọi chi tộc trên mặt đất sẽ đấm ngực và sẽ thấy Con Người rất uy nghi vinh hiển ngự giá mây trời mà đến”. Chúng ta không biết chi tiết về cuộc tái lâm của Chúa Giêsu, nhưng Kinh Thánh cho chúng ta biết thông tin chủ yếu về điều đó, tức là lời hứa Chúa Giêsu đã dành cho chúng ta.

Đây là 7 dấu chỉ về cuộc tái lâm của Chúa Giêsu:

  1. CÁC TIÊN TRI GIẢ

Đừng để bị lừa. Chính Chúa Giêsu đã cho biết chiều hướng và dấu chỉ tiên báo cuộc tái lâm của Ngài. Một trong các dấu chỉ là thế lực của một tôn giáo giả dối có ảnh hưởng mạnh. Chúng ta có thể biết hệ thống này trong chương 17 của sách Khải Huyền, nó được gọi là “Con Điếm khét tiếng”.

Một trong bảy thiên thần nói với Thánh Gioan: “Lại đây, tôi sẽ chỉ cho ông thấy Con Điếm khét tiếng, đang ngồi bên những làn nước mênh mông, bị xét xử như thế nào. Vua chúa trần gian đã làm chuyện gian dâm với nó, và những người sống trên mặt đất đã say vì thứ rượu là sự gian dâm của nó” (Kh 17:1-2). Tiên tri giả này sẽ hướng dẫn hệ thống đó. Thánh Phaolô cũng cảnh báo: “Nếu có ai bảo rằng chúng tôi đã được thần khí mặc khải, hoặc đã nói, đã viết thư quả quyết rằng ngày của Chúa gần đến, anh em đừng vội để cho tinh thần dao động, cũng đừng hoảng sợ” (2 Tx 2:3).

Chúa Giêsu đã cảnh báo chúng ta rằng trong những ngày cuối cùng, các Kitô giả sẽ nổi dậy, giả danh là Mêsia và tự xưng là người cứu độ thế giới. Thánh sử Mátthêu cho biết: “Đức Giêsu đáp: ‘Anh em hãy coi chừng, đừng để ai lừa gạt anh em, vì sẽ có nhiều kẻ mạo danh Thầy đến nói rằng: ‘Chính Ta đây là Đấng Kitô’, và họ sẽ lừa gạt được nhiều người” (Mt 24:4-5). Ngay trước khi chịu đóng đinh, Chúa Giêsu đã đã có sứ điệp quan trọng nói về các sự kiện sẽ xảy ra vào cuối thời, ngay trước khi Ngài tái lâm. Trong các sự kiện đó là sự xuất hiện của các tiên tri giả và và các Kitô giả. Chúa Giêsu cũng đã nhấn mạnh rằng các Kitô giả này sẽ làm các điềm thiêng dấu lạ, các phép lạ, và lừa bịp người ta.

  1. CHIẾN TRANH KHẮP NƠI

Chúa Giêsu nói trước rằng trước khi Ngài trở lại sẽ xảy ra “chiến tranh và tin đồn về chiến tranh”. Những người đa nghi và những người nhạo báng có thể nói: “Ôi dào! Chẳng lúc nào không có chiến tranh!”. Đúng vậy, hiếm khi người ta sống trong an bình. Nhưng trong thời buổi hiện đại ngày nay, có sự khác biệt – chỉ mới khoảng 70 năm qua mới có kỹ thuật, nhưng người ta lại tìm cách hủy diệt nhau bằng vũ khí hạt nhân, vũ khí hóa học, vũ khí sinh học.

Khi đọc cách mô tả về chiến tranh thời cuối cùng trong sách Khải Huyền, chúng ta thấy rằng trong thời cuối cùng, chiến tranh không chỉ là mối quan ngại của vùng miền, mà là cả thế giới. Chúng ta hy vọng Đức Kitô trở lại để cứu thoát chúng ta khỏi sự hủy diệt đó và mở ra một vương quốc mới trên trái đất.

  1. NGÀI TỪ TRỜI TRỞ LẠI

Chúa Giêsu đã nói về sự trở lại của Ngài khi Ngài thi hành sứ vụ trên trái đất này. Theo Ngài, mục đích của việc Ngài lên trời là để tiếp nhận Vương Quốc từ Chúa Cha, Ngài sẽ trở lại với quyền cai trị toàn cõi đất. also tells us that Jesus will not return alone. Kinh Thánh cho biết: “Khi Con Người đến trong vinh quang của Người, có tất cả các thiên sứ theo hầu, bấy giờ Người sẽ ngự lên ngai vinh hiển của Người” (Mt 25:31). Không chỉ có một số ít thiên thần mà có “tất cả các thiên thần” theo hầu khi Ngài tái lâm.

  1. NGÀI XUẤT HIỆN TRÊN TRỜI

Kinh Thánh cho chúng ta biết về cuộc tái lâm của Chúa Giêsu, nhưng chúng ta không biết lúc nào Ngài trở lại và xuất hiện trên trời. Nhiều người đã cố gắng xác định thời điểm trở lại của Đức Kitô nhưng tất cả đều sai bét. Trên Núi Ô-liu, Chúa Giêsu đã nói với các tông đồ rằng “không ai biết ngày giờ đó, kể cả chính Con Người và các thiên sứ” (Mt 24:36), thế thì không ai có thể biết thời điểm Chúa Giêsu tái lâm.

Tuy nhiên, Chúa Giêsu cho chúng ta biết rằng Ngài sắp trở lại: “Ngay sau những ngày gian nan ấy, thì mặt trời sẽ ra tối tăm, mặt trăng không còn chiếu sáng, các ngôi sao từ trời sa xuống và các quyền lực trên trời bị lay chuyển. Bấy giờ, dấu hiệu của Con Người sẽ xuất hiện trên trời; bấy giờ mọi chi tộc trên mặt đất sẽ đấm ngực và sẽ thấy Con Người rất uy nghi vinh hiển ngự giá mây trời mà đến” (Mt 24:29-30). Đó là dấu chỉ chính xác lúc Chúa Giêsu quang lâm, thời điểm tận thế.

  1. KẺ NHẠO BÁNG XUẤT HIỆN

Thánh Phêrô đã nói tiên tri: “Trước tiên, anh em hãy biết điều này: trong những ngày sau hết, sẽ xuất hiện những kẻ nhạo báng chê cười, sống theo những đam mê riêng của họ. Họ nói: ‘Đâu rồi lời Người hứa sẽ quang lâm? Vì từ ngày các bậc cha ông an nghỉ, mọi sự vẫn y nguyên như khi trời đất mới được tạo thành’. Thật vậy, họ không muốn biết rằng từ lâu đã có trời và đất, và đất từ nước mà ra và nhờ nước mà đứng vững do lời của Thiên Chúa. Cũng vì các nguyên cớ ấy, thế gian thời đó đã tiêu vong trong cơn hồng thuỷ. Còn trời và đất hiện nay, cũng chính lời ấy giữ lại, dành cho lửa trong ngày phán xét, ngày những kẻ vô luân phải diệt vong” (2 Pr 3:3-7).

Thánh Phêrô cho biết thêm: “Anh em thân mến, một điều duy nhất, xin anh em đừng quên: đối với Chúa, một ngày ví thể ngàn năm, ngàn năm cũng tựa một ngày. Chúa không chậm trễ thực hiện lời hứa, như có kẻ cho là Người chậm trễ. Kỳ thực, Người kiên nhẫn đối với anh em, vì Người không muốn cho ai phải diệt vong, nhưng muốn cho mọi người đi tới chỗ ăn năn hối cải. Nhưng ngày của Chúa sẽ đến như kẻ trộm. Ngày đó, các tầng trời sẽ ầm ầm sụp đổ, ngũ hành bốc cháy tiêu tan, mặt đất và các công trình trên đó sẽ bị thiêu huỷ” (2 Pr 3:8-10).

  1. KHẢ THỊ và KHẢ THÍNH

Khi Chúa Giêsu trở lại, mọi thứ đều khả thị và khả thính. Mt 24:31 nói về các thiên thần “thổi loa vang dội từ chân trời này tới chân trời kia”, đó là tiếng loa “tập hợp những kẻ được Người tuyển chọn từ bốn phương”. Thánh Phaolô cũng nói về tiếng loa vang dội đó: “Vì khi hiệu lệnh ban ra, khi tiếng tổng lãnh thiên thần và tiếng kèn của Thiên Chúa vang lên, thì chính Chúa sẽ từ trời ngự xuống, và những người đã chết trong Đức Kitô sẽ sống lại trước tiên”(1 Tx 4:16). Sách Khải Huyền cho chúng ta biết rằng Ngài sẽ được cả thế giới nhìn thấy: “Kìa, Người ngự đến giữa đám mây. Ai nấy sẽ thấy Người, cả những kẻ đã đâm Người. Mọi dân trên mặt đất sẽ đấm ngực than khóc khi thấy Người. Đúng thế! A-men!” (Kh 1:7).

Chúng ta đã được Chúa Giêsu cảnh báo về các tiên tri giả, điều này được Thánh Mátthêu ghi lại: “Vậy, nếu người ta bảo anh em: ‘Này, Người ở trong hoang địa’, anh em chớ ra đó; ‘Kìa, Người ở trong phòng kín’, anh em cũng đừng tin. Vì, như chớp loé ra từ phương đông và chiếu sáng đến phương tây thế nào thì cuộc quang lâm của Con Người cũng sẽ như vậy. Xác chết nằm đâu, diều hâu tụ đó” (Mt 24:26-28).

  1. KHÁC LẦN THỨ NHẤT

Kinh Thánh cho chúng ta biết rằng cuộc tái lâm của Chúa Giêsu sẽ đầy quyền năng và vinh quang rực rỡ. Khi Chúa Giêsu đến thế gian lần thứ nhất, Ngài tự hạ, sinh nơi Belem và sống nghèo khó. Tuy nhiên, khi Ngài trở lại, Ngài sẽ là Vua của các vua và Chúa của các chúa. Vào ngày Ngài tái lâm trong vinh quang hiển hách, cả thế giới sẽ nhận biết Chúa Giêsu là ai. Sự khiêm nhường nổi bật trong khi Chúa Giêsu đến thế gian lần thứ nhất, vẻ vinh quang chói lọi nổi bật trong khi Ngài đến thế gian lần thứ hai. Cuộc tái lâm của Ngài sẽ hiển hách, có các thiên thần và các thánh hộ tống.

TRẦM THIÊN THU

 (chuyển ngữ từ Beliefnet.com)

Đêm 8-10-2017

10 lý do chịu đau khổ

10 lý do chịu đau khổ

Horatio G. Spafford là một luật sư giỏi ở Chicago hồi thập niên 1800 và là bạn của nhà truyền giáo Dwight L. Moody.  Luật sư Spafford được kính trọng và tốt lành, nhưng ông vẫn không tránh khỏi những lúc khổ đau.

Trước hết, ông mất đứa con trai vì chứng ban đỏ (scarlet fever).  Rồi vốn đầu tư làm ăn cũng bị thua lỗ.  Không lâu sau đó, 4 cô con gái của ông chết trong một vụ đắm tàu ở Đại Tây Dương, chỉ còn bà vợ Anna của ông sống sót nhờ bám vào chiếc phao rồi được cứu.

 Tại sao bi kịch xảy ra với người tốt?  Luật sư Spafford không thể hiểu, nhưng rồi ông vẫn vững tin vào quyền năng của Thiên Chúa.  Mọi người có thể tôn vinh Thiên Chúa ngay cả trong những lúc đen tối nhất của cuộc đời.  Theo Kinh Thánh, đây là 10 lý do để chúng ta chịu đau khổ.

  1. Chúng ta chịu đau khổ vì chúng ta phạm tội.  Chẳng có ai công chính (Rm 3:10), nghĩa là ai cũng là tội nhân (Rm 3:23). Những người không có đức tin thì sống biệt lập với Chúa, còn những người có đức tin thì trải nghiệm từng khoảnh khắc, từng ngày, từng mùa… về niềm tin vào Thiên Chúa. Quy luật tâm linh được tạo ra để triệt tiêu tội lỗi trong đời sống của tín hữu, quy luật này nghiêm khắc, kể cả cái chết: “Ai ăn và uống mà không phân biệt được Thân Thể Chúa, là ăn và uống án phạt mình. Vì lẽ đó, trong anh em, có nhiều người ốm đau suy nhược, và cũng có lắm người đã chết.  Giả như chúng ta tự xét mình, thì chúng ta đã không bị xét xử.  Nhưng khi Chúa xét xử là Người sửa dạy chúng ta, để chúng ta khỏi bị kết án cùng với thế gian” (1 Cr 11:29-32).
  2. Chúng ta chịu đau khổ vì người khác phạm tội.  Vợ chồng và con cái chịu đau khổ vì bị lạm dụng.  Công dân chịu đau khổ vì chính quyền tham những.  Satan xúi giục vua Đa-vít thống kê dân số Ít-ra-en, và có 470.000 người chịu hậu quả (2 Mcb 10:20).  Chúa Giêsu chịu đau khổ và chịu chết không phải vì lỗi của Ngài mà vì tội lỗi của nhân loại.
  3. Chúng ta chịu đau khổ vì chúng ta sống trong thế giới tội lỗi.  Tai nạn và tai họa xảy ra, mỗi năm có hàng triệu người chết. Thánh Phaolô nói rằng “muôn loài thọ tạo cùng rên siết và quằn quại như sắp sinh nở” (Rm 8:22).  Đó là hậu quả của tội lỗi.
  1. Chúng ta chịu đau khổ vì chúng ta được tự do chọn lựa.  Quyền năng Thiên Chúa và khả năng của con người là hai sự thật trong Kinh Thánh.  Chúng ta không là robot, chúng ta có thể chọn lựa vì Thiên Chúa cho chúng ta quyền tự do.  Đôi khi sự chọn lựa của chúng ta gây đau khổ – cho mình và cho người khác.  Randy Alcorn viết: “Nếu Thiên Chúa tước hết vũ khí và ngăn chặn các tài xế say xỉn, thế giới này sẽ không là thế giới thật để con người chọn lựa…  Trong một thế giới như vậy, người ta sẽ chết mà không có nhu cầu, chỉ thấy mình ở Địa ngục”.
  2.   Chúng ta chịu đau khổ vì sự sống đời đời.  Thế giới này không là nhà của chúng ta, chúng ta chỉ là khách vãng lai.  Chúng ta là công dân Nước Trời.  Thánh Phaolô nói: “Tất cả các ngài đã chết, lúc vẫn còn tin như vậy, mặc dù chưa được hưởng các điều Thiên Chúa hứa; nhưng từ xa các ngài đã thấy và đón chào các điều ấy, cùng xưng mình là ngoại kiều, là lữ khách trên mặt đất” (Dt 11:13).  Chính đau khổ ngăn cản chúng ta bám víu vào thế gian này, vì thế gian sẽ qua đi.
  3. Chúng ta chịu đau khổ để không gặp điều tệ hại hơn.  Đau khổ làm cho chúng ta tập trung vào nguyên nhân, để cố gắng sửa đổi trước khi tệ hại hơn.  Cơn sốt dẫn chúng ta tới bác sĩ, tại đây chúng ta được chẩn đoán và chữa trị.  Ở mức lớn hơn, đau khổ cho chúng ta biết có gì đó bất ổn, và dẫn chúng ta tới Chúa Giêsu.  Bóng tối, đau khổ, cô đơn, lo buồn…  Mọi thứ đó giúp chúng ta nắm bắt thực tế cuộc sống, giúp chúng ta cần đến Chúa.
  1. Chúng ta chịu đau khổ để thông phần đau khổ với Đức Kitô và nên giống Ngài.  Thánh Phaolô nói: “Vấn đề là được biết chính Đức Kitô, nhất là biết Người quyền năng thế nào nhờ đã phục sinh, cùng được thông phần những đau khổ của Người, nhờ nên đồng hình đồng dạng với Người trong cái chết của Người, với hy vọng có ngày cũng được sống lại từ trong cõi chết” (Pl 3:10-11).  Nhờ kinh nghiệm đau khổ mà chúng ta có thể an ủi người khác khi họ chịu đau khổ.  Khi chúng ta chịu đau khổ là chúng ta được nên giống Đức Kitô.  Thánh Phaolô phân tích: “Một chút gian truân tạm thời trong hiện tại sẽ mang lại cho chúng ta cả một khối vinh quang vô tận, tuyệt vời” (2 Cr 4:17).
  2. Chúng ta chịu đau khổ để tôn vinh Thiên Chúa.  Chúa Giêsu động viên chúng ta nếu chúng ta chịu đau khổ vì danh Ngài: “Phúc thay ai bị bách hại vì sống công chính, vì Nước Trời là của họ. Phúc thay anh em khi vì Thầy mà bị người ta sỉ vả, bách hại và vu khống đủ điều xấu xa” (Mt 5:10-11).  Ngài cảnh báo rằng thế gian sẽ ghét chúng ta vì họ đã ghét Ngài trước (Ga 15:18).  Trong thư gởi giáo đoàn Do Thái, chương 11, có người nhờ đức tin mà được chúc lành bằng của cải và thành công, có người lại được chúc lành bằng đau khổ và cái chết.  Thiên Chúa không phân loại các anh hùng đức tin này tùy trường hợp của họ, Ngài chỉ tôn vinh họ vì vững mạnh đức tin.  Nếu các Kitô hữu có cuộc sống thoải mái thì sẽ làm cho Phúc Âm hấp dẫn vì các lý do sai lệch.
  3. Chúng ta chịu đau khổ để trưởng thành tâm linh. Chúa Giêsu là Đấng hoàn hảo, vậy mà Ngài còn phải chịu đau khổ để học được đức vâng phục.  Thánh Phaolô cho biết: “Nhờ Chúa, tôi rất vui mừng vì cuối cùng thấy tình cảm của anh em đối với tôi lại thắm thiết.  Tình cảm đó vẫn sống động, nhưng anh em chỉ thiếu dịp tỏ ra.  Không phải vì thiếu thốn mà tôi nói thế, bởi lẽ tôi đã học sống tự lập trong bất cứ hoàn cảnh nào.  Tôi sống thiếu thốn cũng được, mà sống dư dật cũng được.  Trong mọi hoàn cảnh, no hay đói, dư dật hay túng bấn, tôi đã tập quen cả.  Với Đấng ban sức mạnh cho tôi, tôi chịu được hết” (Pl 4:10-13).  Thánh Phaolô xác định: “Để tôi khỏi tự cao tự đại vì những mặc khải phi thường tôi đã nhận được, thân xác tôi như đã bị một cái dằm đâm vào, một thủ hạ của Satan được sai đến vả mặt tôi, để tôi khỏi tự cao tự đại” (2 Cr 12).
  1. Chúng ta chịu đau khổ để hy vọng vinh quang Nước Trời.  Kh 21:4 nói: “Thiên Chúa sẽ lau sạch nước mắt họ.  Sẽ không còn sự chết; cũng chẳng còn tang tóc, kêu than và đau khổ nữa, vì những điều cũ đã biến mất.”  Thánh Phaolô nói: “Tôi nghĩ rằng những đau khổ chúng ta chịu bây giờ sánh sao được với vinh quang mà Thiên Chúa sẽ mặc khải nơi chúng ta” (Rm 8:18).

 Có nhiều lý do để chúng ta chịu đau khổ, đôi khi khó nhận biết chính xác.   Như trường hợp Thánh Gióp, ông không bao giờ biết việc đánh cược của Satan với Thiên Chúa.  Nhưng đây là sự thật:

  • Thiên Chúa có toàn quyền trên mọi đau khổ của chúng ta.
  • Thiên Chúa vẫn hiện hữu ở bên chúng ta khi chúng ta gặp đau khổ.
  • Thiên Chúa luôn hành động với chúng ta khi chúng ta gặp đau khổ.
  • Nếu Thiên Chúa muốn chúng ta biết lý do, Ngài sẽ nói với chúng ta (qua Kinh Thánh hoặc cách nào đó).
  • Thiên Chúa tác động qua cái ác và đau khổ để sinh ra điều tốt, loại bỏ điều xấu mà Satan và kẻ xấu có thể làm cho chúng ta.

Ngày nào cũng có đau khổ, nhưng hãy nghĩ về hạnh phúc vĩnh hằng ở Nước Trời mai sau.  Randy Alcorn viết: “Số phận của chúng ta không lệ thuộc vào những người kiện cáo, hoặc những chính trị gia, luật sư, giáo viên, huấn luyện viên, sĩ quan quân đội, hoặc chủ nhân.  Họ có thể chống lại chúng ta – và Thiên Chúa hoàn toàn có thể chuyển những điều xấu thành điều tốt nhất cho chúng ta”.

Trầm Thiên Thu 

Anh chi Thu & Mai goi

(chuyển ngữ từ 

OnceDelivered.net)

NĂM MỚI và TÂM LINH

NĂM MỚI và TÂM LINH

 Trầm Thiên Thu 

Năm 2017 là năm Con Gà.   Đặc tính nổi bật của con gà là tiếng gáy của chú gà trống vào mỗi buổi sáng.  Tiếng gáy đó báo thức để người ta biết giờ thức dậy, đặc biệt là dậy sớm.  Thức khuya và dậy sớm là điều cần thiết, không chỉ với nông dân mà với mọi người.

Tiếng Gà báo thức cũng là tiếng cảnh báo chúng ta phải tỉnh thức về mọi thứ, cả xã hội và tâm linh.  Mỗi dịp đón năm mới, nhiều người trong chúng ta tự hứa với nhiều điều quyết tâm cho Năm Mới – các điều này chủ yếu liên quan các mục đích như giảm cân hoặc tập thể dục nhiều.  Nếu chúng ta thực sự cảm thấy có hứng thú, chúng ta có thể hứa viếng Thánh Thể hằng ngày hoặc đọc trọn bộ Kinh Thánh.

Không may thay, với đa số các quyết định năm mới, khả năng chịu đựng tinh thần chỉ kéo dài khoảng một tuần, và chúng ta thấy mình vẫn ở điểm bắt đầu, cảm thấy thất bại và thắc mắc: “Tôi có thể hứa cầu nguyện nhiều trong năm mới?  Tôi có nên bỏ qua và bắt đầu lại?”

Kết hợp nhiều thời gian để cầu nguyện là điều không dễ thực hiện, để đến gần các mục đích tâm linh, đây là vài gợi ý thực tế có thể giúp bạn quyết định làm cho năm nay là năm tâm linh đặc biệt:

  1. Tin Tưởng Vào Mục Đích Và Tín Thác Vào Thiên Chúa

 Bước thứ nhất này có thể mang vẻ hiển nhiên, nhưng chúng ta thường bỏ lỡ.  Khi chúng ta nghĩ về việc cầu nguyện “nghiêm túc”, chúng ta thường có kiểu nói như thế này: “Tôi biết tôi sẽ thất bại, không thể làm được, vì tôi không thánh thiện đủ.”  Nói thật, tư tưởng như vậy là lừa dối, nó ngăn cản bạn bắt đầu kế hoạch cầu nguyện.  Nó thuyết phục bạn tin mình “chưa thánh thiện đủ” hoặc “quá bận” hoặc “không bao giờ theo đến cùng.”  Satan có xu hướng ngăn cản bạn cầu nguyện hằng ngày và làm cho bạn tìm nhiều cách lừa dối xoay quanh ý tưởng rằng “bạn không thể đạt được điều bạn muốn.”  Đừng nghe lời ma quỷ xúi giục!

Bạn là con cái của Thiên Chúa, và Ngài luôn ở bên bạn.  Bạn có thể làm được điều đó!  Nếu chúng ta mở lòng ra với Thiên Chúa, Ngài sẽ hướng dẫn chúng ta và ban cho chúng ta có sức mạnh cần thiết.  Chúng ta cần phải tin rằng Thiên Chúa sẽ giúp chúng ta và chúng ta có thể làm được điều không thể.  Hơn mọi thứ khác, đức tin là tặng phẩm do Thiên Chúa trao ban.  Hãy cầu xin tặng phẩm đức tin!  Hãy xin Ngài gia tăng lòng yêu mến.

Chúa Giêsu đã nói: “Tại anh em kém tin! Thầy bảo thật anh em: nếu anh em có lòng tin lớn bằng hạt cải thôi, thì dù anh em có bảo núi này “rời khỏi đây, qua bên kia!” nó cũng sẽ qua, và sẽ chẳng có gì mà anh em không làm được” (Mt 17:20).

  1. Nhớ Lại Điều Đã Hoặc Không Tác Dụng

 Trong đời sống tâm linh, chắc chắn có sự thăng trầm; có những lúc bạn cảm thấy rất sung mãn, cũng có những lúc bạn cảm thấy như trong ao tù.  Hãy nhìn lại quá khứ, xem điều gì tác động và khi nào cảm thấy “sung mãn.”  Bạn có thể chú ý các kiểu nào đó hữu ích hoặc bạn muốn tái tạo trong hiện tại.

Thêm vào đó, chúng ta còn có những thói quen khác nhau.  Đây có thể là cách chúng ta sẵn sàng vào buổi sáng theo cách riêng là gấp quần áo.  Cầu nguyện cũng cần trở thành một thói quen.  Khi chúng ta nghĩ về các thói quen mà chúng ta có liên quan, điều gì là điểm chung?  Rất có thể đó là điều bạn học biết khi còn nhỏ và tiếp tục vẫn làm điều đó hằng ngày.  Rồi điều đó ăn sâu vào cuộc sống và bạn chỉ nghĩ về điều đó.  Việc làm cho cầu nguyện trở thành thói quen là điều RẤT QUAN TRỌNG nếu bạn muốn cầu nguyện nhiều trong năm mới này.

Đừng sợ bắt đầu một điều nhỏ, thậm chí nhỏ như việc bắt đầu và kết thúc một ngày bằng Dấu Thánh Giá và Kinh Sáng Danh.  Từ những điều nhỏ như vậy mà xuất hiện những vị thánh.

  1. Bạn Là “Con Gà” Hay “Con Cú”?

Đối với nhiều người, họ không thể kiểm soát cuộc sống trong khoảng từ 9 giờ sáng tới 5 giờ chiều.  Dù chúng ta có thể đi làm công sở, ở nhà chăm sóc con cái, hoặc đã nghỉ hưu, ban ngày vẫn đầy khả năng.

Điều này cho chúng ta hai cách chọn lựa đối với thời gian cầu nguyện: buổi sáng hoặc buổi tối.  Hai khoảng thời gian này thường là “khoảng” chúng ta có thể kiểm soát những gì xảy ra.  Có thể chúng ta phải lo cho con nhỏ, phải ăn tối, phải lo việc lặt vặt trong gia đình, nhưng hằng ngày chúng ta vẫn có cách chọn lựa những gì cần làm sau khi con cái đi ngủ và đã xong việc nhà.  Bạn có vô internet hoặc facebook tới 1 giờ sáng, hay là bỏ mọi thứ để cầu nguyện?  Hãy chân thật với chính mình, và đặc biệt là chân thật với Thiên Chúa.

Mặt khác, chúng ta có thể có nhiều thời gian vào buổi sáng và mau mắn thức dậy lúc 5 giờ sáng để cầu nguyện khoảng 30 phút.  Đây là điểm quan trọng: bạn là “người buổi sáng” hay “người ban đêm,” là “con gà trống” hay “con cú,” việc tự biết mình như vậy sẽ giúp chúng ta biết lúc nào là lúc tốt nhất để chúng ta dành thời gian cho việc cầu nguyện.

  1. Suy Nghĩ “Nhiều Phút” Chứ Không “Nhiều Giờ”

 Tác giả Gary Jansen viết một cuốn sách có tựa là “The 15-Minute Prayer Solution: How One Percent of Your Day Can Transform Your Life” (Giải Pháp Cầu Nguyện 15 Phút: Một Phần Trăm Mỗi Ngày Sống Có Thể Biến Đổi Cuộc Đời Bạn), ông cho biết: “Bạn có biết rằng mỗi ngày có 1.440 phút?  Đúng vậy.  Tôi đã tính toán.  Bạn có biết rằng 1% của số thời gian đó là 14 phút đối với 24 giờ?  Điều gì xảy ra nếu hằng ngày bạn quyết định khôn ngoan để rèn luyện linh hồn bằng cách dành 15 phút cho Thiên Chúa?  Chỉ 1% bé nhỏ của cuộc đời bạn mà thôi.  Cuộc đời bạn có thay đổi không?  Cuộc đời tôi đã thay đổi.”

Chúng ta thường có những mục đích cao ngất là làm một giờ thánh mỗi ngày, và rồi chúng ta thất bại, chúng ta cứ tưởng mình là người đáng thương.  Thay vì đặt ra mục đích cao xa và thất bại, trước tiên chúng ta nên cố gắng áp dụng từng “bước nhỏ.”  Nếu mỗi ngày chúng ta có thể dành 15 phút để cầu nguyện và kiên trì làm như vậy, chúng ta có thể tăng thêm thời gian và dần dần vượt qua những mục đích nhỏ để có thể đạt tới các mục đích cao hơn về sau.

  1. Thời Khóa Biểu Cầu Nguyện 

Đầu óc của chúng ta đầy những thông tin nên dễ quên những gì “đã hứa” thực hiện.  Đó là lý do chúng ta phải thận trọng và viết thời khóa biểu hằng ngày, quyết tâm làm cho việc cầu nguyện là việc chính.  Chúng ta phải có khung thời gian hằng ngày.  Hãy viết bằng CHỮ HOA, và có thể TÔ ĐẬM, để giúp củng cố trí nhớ.  Nếu bạn có điện thoại thông minh, hãy dùng “chương trình nhắc nhớ” (Reminders App).  Tóm lại, chúng ta phải cẩn trọng đối với việc dành thêm thời gian hằng ngày cho việc cầu nguyện.

Quả thật, cầu nguyện là việc rất cần thiết hằng ngày.  Thánh Ephraem Syria xác định: “Các nhân đức thành hình nhờ cầu nguyện.  Lời cầu nguyện duy trì sự điều độ, ngăn chặn sự tức giận, ngăn chặn sự kiêu ngạo và đố kỵ.  Lời cầu nguyện đưa Chúa Thánh Thần vào linh hồn và nâng con người tới Thiên Đàng.”

Cuối cùng, làm trọn các mục đích tâm linh của bạn trong năm mới này sẽ không dễ dàng, mà cũng chẳng bao giờ dễ dàng.  Hôn nhân cũng không hề dễ dàng, nhưng chúng ta có sự chọn lựa cẩn thận để quyết định chung sống với người bạn đời của mình “trong mọi hoàn cảnh, và cho đến chết.”  Điều chúng ta cần làm là quyết định, nhận biết những gì liên quan và cố gắng hết sức để đạt tới thành công.

Philip Kosloski

Trầm Thiên Thu 

 (Chuyển Ngữ Từ Aleteia.Org)

Langthangchieutim gởi

THIÊN SỨ CỦA LÒNG CHÚA THƯƠNG XÓT

THIÊN SỨ CỦA LÒNG CHÚA THƯƠNG XÓT

 TRẦM THIÊN THU

Chúa Nhật 4.9.2016, Giáo Hội Công Giáo hân hoan kính chào một vị Thánh mới: Mẹ Têrêsa Calcutta (thành phố Kolkata, Ấn Độ, 1910-1997).  Mẹ Têrêsa được mệnh danh là “Thiên Sứ của Thiên Chúa.”  Cả cuộc đời Mẹ đấu tranh cho giá trị nhân phẩm của những con người nghèo khổ nhất, đã nêu gương luân lý làm cầu nối các khoảng cách về văn hóa, giai cấp và tôn giáo.  Một con người có vóc dáng nhỏ bé nhưng lại có trái tim “cực đại” và đầy lòng nhân ái.  Bà nói: “Ngay cả những người giàu cũng khao khát tình yêu, muốn được quan tâm, muốn có ai đó thuộc về mình.”

Cha mẹ của bà là người Albani.  Bà sinh ngày 26.8.1910 tại Shkup (nay là Skopje), thuộc Cộng hòa Nam Tư (Macedonia), trước đó là Yugoslavia, với tên “cúng cơm” là Agnes Gonxha Bojaxhiu. Bà là con út trong 3 người con.

Lúc bà 7 tuổi, cha của bà bị giết, nên bà quan tâm chính trị.  Tuổi thiếu niên, bà là thành viên của nhóm bạn trẻ trong Giáo Xứ, gọi là nhóm Tương Tế Tôn Giáo (Sodality), dưới sự hướng dẫn của một linh mục Dòng Tên, bà cảm thấy quan tâm việc truyền giáo.  Lúc 17 tuổi, bà gia nhập Dòng Nữ tử Loreto ở Ireland, một dòng chuyên về giáo dục, rồi bà được gởi tới Bengal năm 1929 để vào Nhà Tập.  Bà chỉ lõm bõm tiếng Anh nhưng vẫn khấn lần đầu, với tên dòng là Têrêsa (chọn theo tên của Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu).

Đến năm 1950, Nữ Tu Têrêsa lập Dòng Truyền Giáo Bác Ái (Dòng Thừa Sai Bá Ái,  Missionaries of Charity).  Bà nhận Giải Nobel Hòa bình năm 1979 và nhận Giải Bharat Ratna ( भारत रत्न, nghĩa là “Viên Ngọc Ấn Độ”, giải thưởng cao nhất của Ấn Độ dành cho người dân) năm 1980.  Trước đó, năm 1962, bà đã được chính phủ Ấn trao giải Padma Shri.  Trong những thập niên kế tiếp bà được trao tặng các giải thưởng lớn như Giải Jawaharlal Nehru về Hiểu Biết Quốc Tế năm 1972.

Trong thời kỳ Ấn Độ bị người Anh đô hộ (British Raj), trường Loreto nhận rất ít người Ấn, đa số là người Hindu Bengal, con gái các gia đình có thế lực ở Calcutta, nhưng đa số giáo viên vẫn là các nữ tu gốc Ai-len.  Nữ tu Têrêsa không thuộc Dòng Nữ tử Loreto nữa nhưng thỉnh thoảng bà vẫn về thăm.  Bà dạy ở các trường nữ khác trong 3 năm trước khi (như bà nói) “theo Chúa đến với người nghèo khổ.” Theo các nữ sinh nói, sự gián đoạn đó không hoàn toàn thân thiện, ít là phần các Nữ Tu Dòng Loreto.

THANH TERESA

Hình ảnh Nữ Tu Têrêsa nhỏ bé, với tấm khăn choàng Sari (trang phục của phụ nữ Ấn) xõa xuống vai và lưng, bước đi trên đường đá đỏ, trông thật giản dị và khiêm nhường.  Bà luôn có một hoặc hai Nữ Tu choàng sari đi theo.  Bà là con người kỳ lạ của thế kỷ 20.  Có thể bà “khác người” vì chúng ta không thấy Nữ Tu nào choàng sari như vậy.  Nhưng đó là thói quen của Nữ Tu Têrêsa vùng Calcutta, bà “quên” mình là người Albani để hòa nhập và hoàn toàn nên giống các phụ nữ Ấn.

Chính phủ đã “ầm ĩ” chống truyền giáo nhưng chưa bao giờ làm khó các Nữ Tu truyền giáo.

Đầu thập niên 1950, các học sinh không có đạo ở Nhà Loreto đã nghi ngờ ý định của Mẹ Têrêsa trong việc giúp đỡ các trẻ em đường phố hoặc trẻ mồ côi.  Bà đang cứu vớt chúng để “dụ” đưa chúng vào đạo Công Giáo?  Cứ hai tuần một lần, Mẹ Têrêsa nói chuyện để vận động phụ nữ không phá thai và bảo vệ sự sống.

Dự định của Mẹ Têrêsa là chăm sóc những người bệnh ở thời kỳ cuối, những người đến Đền Kalighat để được chết gần “thánh địa.”  Mẹ Têrêsa không mong kéo dài sự sống cho họ, nhưng buồn về tình trạng nhơ uế và cô độc của họ trong thời gian cuối đời.  Mẹ Têrêsa quan ngại về tỷ lệ tử vong và ám ảnh về cách chết của họ, ngược với quan niệm của người Hindu về sự tái sinh và sự chết là được giải thoát khỏi maya.

Mẹ Têrêsa lập một trại phong (Leprosarium) ở ngoại ô Calcutta, trên khu đất do chính phủ cấp.  Bà là người lý tưởng hóa hơn là người lập dị.  Người phong cùi bị coi thường không chỉ ở Calcutta mà ở khắp Ấn Độ, đến vài xu lẻ cũng không ai muốn bố thí cho họ.  Ai cũng sợ bị lây nhiễm.  Từ đó, người ta cũng có ánh mắt không thiện cảm với Mẹ Têrêsa.

Từ năm 1970, Mẹ Têrêsa trở nên một nhân vật nổi tiếng thế giới với các hoạt động nhân đạo cứu giúp người nghèo và những người sống trong hoàn cảnh tuyệt vọng, một phần cũng nhờ cuốn sách và bộ phim tư liệu tựa đề “Something Beautiful for God” ( Điều Tốt Đẹp Dành Cho Chúa ) của Malcome Muggeridge.

Bà không chỉ là người loan báo Tin Mừng, mà còn là một “lương y” tận tình chăm sóc người phong cùi.  Cách dấn thân của bà đã thay đổi người dân Calcutta, chính các Nữ Tu Dòng Loreto cũng trở lại tìm bà.

Dân Calcutta rất quý mến Mẹ Têrêsa.  Các chị em học ở trường nữ Loreto hồi thập niên 1970 đều trở nên các bà vợ tốt, có địa vị trong xã hội và tình nguyện hoạt động xã hội theo ý định của Mẹ Têrêsa, nhất là vì trại phong.  Những năm sau, Mẹ Têrêsa rất tin tưởng những phụ nữ tốt nghiệp trường Loreto.

Số phận những người vận động luân lý dễ bị tổn thương vì các thay đổi của thói đạo đức giả hoặc tùy tiện của các chiến dịch.  Những kẻ gièm pha đã kết tội Mẹ Têrêsa là phóng đại cảnh nghèo khổ của dân Calcutta.  Mẹ Têrêsa luôn phải phải đấu tranh, dù vẫn bị người ta chỉ trích nhưng hoạt động của bà không suy giảm.  Thậm chí bà còn thành công và cảm hóa chính những người đã nghi ngờ hoặc những người ghen ghét bà.  Chính Mẹ Têrêsa đã thay đổi nhiều trái tim, đó là phép lạ thực sự vĩ đại.

Mẹ Têrêsa nói: “Ở Tây phương có sự cô đơn, điều mà tôi gọi là bệnh-phong-của-Tây-phương.  Bằng nhiều cách, nó còn tệ hơn người nghèo của chúng tôi tại Calcutta.  Tôi không bao giờ từ chối một đứa trẻ nào, không bao giờ, dù chỉ một.”

Năm 1950, cũng là năm Mẹ Têrêsa lập Dòng Truyền Giáo Bác Ái, Đức Giáo Hoàng Piô XII đã phê chuẩn Dòng này.  Cuối thập niên 80, Mẹ Têrêsa cũng đã từng có những lần sang thăm Việt Nam, một số Giáo Xứ ở Sàigòn như Thanh Đa, Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp Kỳ Đồng, Mai Khôi Tú Xương… đã được vinh dự đón tiếp Mẹ hoặc đến hiệp dâng Thánh Lễ giữa cộng đoàn.

Vì tuổi cao sức yếu, Mẹ Têrêsa qua đời ngày 5.9.1997, sau hơn nửa thế kỷ phục vụ những người cùng đinh trong xã hội trong Đức Ái của Chúa Giêsu.

Mẹ Têrêsa được Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II tôn phong Chân Phước ngày 19.10.2003.

Mẹ Têrêsa là nhân chứng sống động của Lòng Chúa Thương Xót. Thật tuyệt vời và phấn khởi, nhưng cũng thực sự mắc cỡ, khi nhớ lại lời nhận xét của Mẹ: “Người nghèo KHÔNG CẦN chúng ta THƯƠNG HẠI, họ cần TÌNH YÊU và CẢM THÔNG.  Họ cho chúng ta nhiều hơn chúng ta cho họ.  Trong thời gian khó khăn của Ấn Độ, chúng tôi xin một số người tình nguyện từ khắp nơi đến giúp. Nhiều ngàn người đã đến, và khi họ ra về, họ có chung nhận xét là họ đã đem về nhiều hơn là đem cho.  Có một lần ờ Calcutta, chúng tôi nhặt được năm người đang hấp hối, trong đó có một người phụ nữ bệnh quá nặng.  Tôi muốn ngồi với chị trong giờ phút cuối cùng.  Tôi đặt tay tôi lên tay chị.  Chợt chị tỉnh ra, nhìn tôi, không than đói, không than khát, nhưng cười và nói lời cảm ơn trước khi nhắm mắt từ giã cuộc đời”.

Lạy Mẹ Têrêsa, xin ban cho chúng con trái tim nhân hậu như Mẹ để chúng con yêu thương mọi người, nhất là những người nghèo khổ, những người bị ruồng bỏ, những người bị ngược đãi, … Chúng con cầu xin nhân Danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên Chúa cứu độ giàu lòng thương xót của chúng con. Amen.

 TRẦM THIÊN THU

BỎ và NHẬN

BỎ và NHẬN

(Chúa Nhật XXIII TN, năm C)

Hạnh phúc không có nghĩa là sở hữu mọi thứ hoàn hảo, mà là biết can đảm nhìn xa hơn các khuyết điểm của mình và của người khác. Thật là không dễ, thế nên mới phải cố gắng không ngừng, từng giây, từng phút… Hãy cố gắng nhận thức về quá khứ của mình – dù xấu xa và hèn hạ, cứ hy vọng và vững tin vào tương lai, rồi chấp nhận mình là chính mình. Đó là một cách từ bỏ và chấp nhận.

Tác giả Brian Tracy (sinh ngày 5-1-1944 tại Vancouver, Canada), một người viết về chủ đề tự-giúp-bản-thân, nhận định: “Món quà lớn nhất mà bạn có thể trao cho người khác là tặng phẩm của tình yêu vô điều kiện và sự chấp nhận – The greatest gift that you can give to others is the gift of unconditional love and acceptance”. Sự chấp nhận ở đây là cách chấp nhận vui vẻ chứ không miễn cưỡng.

Có nhiều động từ cần thiết, nhưng có lẽ BỎ và NHẬN là hai động từ quan trọng: Bỏ những cái xấu xa để nhận những điều tốt lành. Cần phải khôn ngoan kẻo hóa thành “thả mồi, bắt bóng”. Với các Kitô hữu có dạng “cao cấp” hơn: từ bỏ chính mình và đón nhận thập giá của cuộc đời (của mình và của người). Quả là “căng” thật đấy!

Thánh tiến sĩ Teresa Avila nói: “Cái gọi là đầy tớ trung thành của Thiên Chúa chính là ở trong việc yêu người như yêu chính mình, có một ý chí cương quyết không lay động, liên tục sống theo Thánh Ý của Thiên Chúa, giữ cho tâm hồn khiêm tốn, mộc mạc và trông cậy vào Thiên Chúa”. Thánh nhân không trực tiếp dùng chữ “bỏ” và “nhận”, nhưng chúng ta vẫn khả dĩ nhận thấy bóng dáng của hai động thái đó.

Tác giả sách Khôn Ngoan thân thưa cầu nguyện: “Lạy Chúa, nào có ai biết được ý định của Thiên Chúa? Nào có ai hiểu được Đức Chúa muốn điều chi? Chúng con vốn là loài phải chết, tư tưởng không sâu, lý luận không vững. Quả vậy, thân xác dễ hư nát này khiến linh hồn ra nặng, cái vỏ bằng đất này làm tinh thần trĩu xuống vì lo nghĩ trăm bề” (Kn 9:13-15).

Phàm nhân là vậy, như Chúa Giêsu đã nói: “Tinh thần thì hăng say, nhưng thể xác lại yếu hèn” (Mt 26:41). Chỉ là bụi cát nhỏ nhoi, nay còn, mai mất, thế mà lúc nào cũng chỉ muốn nổi loạn, bởi vì “cái tôi” luôn to lớn nên lúc nào cũng phải hơn người khác, kém thua một chút là khó chịu, thậm chí còn dám “coi trời bằng vung” nữa. To gan, lớn mật thật!

Từ bỏ “cái tôi” là từ bỏ chính mình. Thật là khó. Khó lắm! Nhưng không bỏ không được, vì nó xấu, là cái đáng ghét (Pascal). Vả lại, không bỏ nó thì không thể nên người mới, không biến đổi thành con người mới thì không thể hoàn thiện, không hoàn thiện thì không thể lên trời và không thể nên thánh.

Tác giả sách Khôn Ngoan so sánh: “Những gì thuộc hạ giới, con đã khó mà hình dung nổi, những điều vừa tầm tay, đã phải nhọc công mới khám phá được thì những gì thuộc thượng giới, có ai dò thấu nổi hay chăng? Ý định của Chúa, nào ai biết được, nếu tự chốn cao vời, chính Ngài chẳng ban Đức Khôn Ngoan, chẳng gửi thần khí thánh? Chính vì thế mà đường lối người phàm được sửa lại cho thẳng, cũng vì thế mà con người được dạy cho biết những điều đẹp lòng Ngài, và nhờ Đức Khôn Ngoan mà được cứu độ” (Kn 9:16-18).

Những thứ phàm tục chẳng là gì, thế mà vẫn nhiêu khê và bí ẩn, huống chi những điều trên trời, chúng ta chẳng thể nào hiểu được khi còn đang “tạm trú” nơi thân xác này. Không ai trường sinh, bất tử. Đó là điều chắc chắn, là quy luật muôn thuở. Thế mà người ta có ngán gì đâu. Máu sôi và bốc lên tới chỏm rồi, nếu có “xả láng, sáng về sớm” cũng chỉ là chuyện nhỏ. Và như đã nói trên đây, trời cũng chỉ như “cái vung” mà thôi!

Thánh Vịnh dẫn chứng rạch ròi: “Chúa bắt phàm nhân trở về cát bụi, Ngài phán bảo: ‘Hỡi người trần thế, trở về cát bụi đi!’. Ngàn năm Chúa kể là gì, tựa hôm qua đã qua đi mất rồi, khác nào một trống canh thôi! Ngài cuốn đi, chúng chỉ là giấc mộng, như cỏ đồng trổi mọc ban mai, nở hoa vươn mạnh sớm ngày, chiều về ủ rũ tàn phai chẳng còn” (Tv 90:3-6). Đó là sự thật. Đời người tưởng dài mà ngắn, chẳng khác chi đóa phù dung, sớm nở và tối tàn, thế mà đổi màu sắc liên tục – tượng trưng thất tình và lục dục của con người. (*)

Khôn cũng chết, dại cũng chết, biết mới sống. Người biết là người khôn ngoan, biết biến đổi cái bình thường và tầm thường trở nên siêu phàm. Tác giả Thánh Vịnh là người khôn ngoan nên đã biết cầu nguyện chí lý: “Xin dạy chúng con đếm tháng ngày mình sống, ngõ hầu tâm trí được khôn ngoan. Lạy Chúa, xin trở lại! Ngài đợi đến bao giờ? Xin chạnh lòng thương xót những tôi tớ Ngài đây. Từ buổi mai, xin cho đoàn con được no say tình Chúa, để ngày ngày được hớn hở vui ca” (Tv 90:12-14). Cầu nguyện chân thành như thế thì làm sao Thiên Chúa chối từ cho đành! Cầu nguyện như vậy là khôn ngoan, còn “người thiếu khôn ngoan là kẻ ngu đần” (Hc 19:23). Sách Huấn Ca cho biết thêm: “Bước đầu của khôn ngoan là kính sợ Đức Chúa. Lòng kính sợ Đức Chúa là tuyệt đỉnh của khôn ngoan” (Hc 1:14 & 18). Đức khôn ngoan vô cùng quan trọng trong cuộc sống!

Phàm nhân có khôn ngoan tới mức nào cũng chẳng là gì, có làm được công to việc lớn cũng chẳng đáng chi. Tại sao? Bỏi vì ai cũng chỉ là tội nhân, là những kẻ xấu xa, không đáng gì trước mặt Thiên Chúa chí thánh. Do đó, ai cũng cần cậy nhờ Lòng Thương Xót của Thiên Chúa, nghĩa là phải khiêm nhường cầu nguyện: “Xin cho chúng con được vui hưởng lòng nhân hậu của Chúa là Thiên Chúa chúng con. Việc tay chúng con làm, xin Ngài củng cố, xin củng cố việc tay chúng con làm” (Tv 90:17).

Khiêm nhường bao nhiêu cũng không đủ, kiêu ngạo một chút là quá thừa. Công sức nỗ lực hoàn thiện bao ngày mà lên mặt khoe khoang một chút là tiêu tan hết. Kiêu ngạo như que diêm nhỏ bé, nhưng nó vẫn có thể thiêu rụi cả một tòa nhà nguy nga tráng lệ.

Tương tự, đốm-lửa-kiêu-ngạo cũng có thể thiêu rụi cả lâu-đài-khiêm-nhường mà chúng ta đã dày công xây dựng – nếu bất cẩn. Thật chí lý với lời nhắc nhở của tiền nhân: “Cẩn tắc vô ưu”.

Trong thư gởi cho ông Philêmôn, Tông đồ Phaolô tha thiết yêu cầu: “Tôi là Phaolô, một người đã già và hơn nữa, một người đang bị tù vì Đức Kitô Giêsu, tôi van xin anh cho đứa con của tôi, đứa con tôi đã sinh ra trong cảnh xiềng xích, đó là Ônêximô” (Plm 9b-10).

Thánh Phaolô có quyền nhưng không muốn dùng quyền để hành người khác, đó là thể hiện đức khiêm nhường. Thánh nhân nói rõ ràng với ông Philêmôn: “Tôi xin gửi nó về cho anh; xin anh hãy đón nhận nó như người ruột thịt của tôi. Phần tôi, tôi cũng muốn giữ nó ở lại với tôi, để nó thay anh mà phục vụ tôi trong khi tôi bị xiềng xích vì Tin Mừng. Nhưng tôi chẳng muốn làm gì mà không có sự chấp thuận của anh, kẻo việc nghĩa anh làm có vẻ miễn cưỡng, chứ không phải tự nguyện” (Plm 12-14). Đó là tôn trọng người khác. Có khiêm nhường mời khả dĩ tôn trọng người khác, biết tôn trọng người khác là dám từ bỏ mình, từ bỏ mình là yêu thương người khác.

Vì yêu thương tha nhân, vì xót thương “đứa con tình thần”, Thánh Phaolô sẵn sàng hạ mình mà cầu xin người khác: “Nó đã xa anh một thời gian, có lẽ chính là để anh được lại nó vĩnh viễn, không phải được lại một người nô lệ, nhưng thay vì một người nô lệ thì được một người anh em rất thân mến; đối với tôi đã vậy, phương chi đối với anh lại càng thân mến hơn biết mấy, cả về tình người cũng như về tình anh em trong Chúa. Vậy, nếu anh coi tôi là bạn đồng đạo, xin anh hãy đón nhận nó như đón nhận chính tôi” (Plm 15-17). Động thái thật tốt đẹp!

Trình thuật Lc 14:25-33 cho viết hai động thái – NHẬN và BỎ: “vác thập giá mình mà đi theo Đức Giêsu” và “từ bỏ hết những gì mình có”.

Thánh sử Luca cho biết rằng hôm đó có rất đông người cùng đi đường với Đức Giêsu. Ngài quay lại bảo họ: “Ai đến với tôi mà không dứt bỏ cha mẹ, vợ con, anh em, chị em, và cả mạng sống mình nữa thì không thể làm môn đệ tôi được. Ai không vác thập giá mình mà đi theo tôi thì KHÔNG THỂ làm môn đệ tôi được”. Chắc chắn Ngài không “xúi dại” chúng ta, không bắt chúng ta bất nhân mà bất hiếu với cha mẹ hoặc coi thường các thân nhân, vì Ngài rất nhân hậu, và Ngài cũng không hề bắt chúng ta không chăm lo cho sự sống của mình.

Người Việt có câu: “BÁN anh em xa, MUA láng giềng gần”. Có người sửa là “vắng anh em xa…”, vì cho rằng chữ “bán” nặng nề quá. Thật ra không phải vậy, tiền nhân muốn đặt hai vế với hai động từ đối lập: Bán và Mua. Còn chữ “xa” ở đây là xa cách về địa lý, chứ không là “xa” theo nghĩa bóng – chẳng hạn, bà con xa, họ hàng xa. Còn láng giềng thì phải gần, không có láng giềng xa.

Chúa Giêsu không hề tính toán với chúng ta về lòng yêu thương, về lòng thương xót, nhưng Ngài dạy chúng ta phải biết tính toán tỉ mỉ, rạch ròi. Ngài phân tích với hai ví dụ cụ thể:

“Ai trong anh em muốn xây một cây tháp, mà trước tiên lại không ngồi xuống tính toán phí tổn, xem mình có đủ để hoàn thành không? Kẻo lỡ ra, đặt móng rồi mà không có khả năng làm xong thì mọi người thấy vậy sẽ lên tiếng chê cười mà bảo: ‘Anh ta đã khởi công xây, mà chẳng có sức làm cho xong việc’. Hoặc có vua nào đi giao chiến với một vua khác, mà trước tiên lại không ngồi xuống bàn tính xem mình có thể đem một vạn quân ra, đương đầu với đối phương dẫn hai vạn quân tiến đánh mình chăng? Nếu không đủ sức, thì khi đối phương còn ở xa, ắt nhà vua đã phải sai sứ đi cầu hoà”.

Biết người biết ta, trăm trận trăm thắng. Tiền nhân dạy như vậy. Đó là người khôn ngoan. Chúa Giêsu cũng muốn chúng ta phải cố gắng sống khôn ngoan để đối đầu với ba thù (xác thịt, thế gian, ma quỷ). Tuy nhiên, “thằng quỷ” ranh ma nhất chính là “thằng” ở gần chúng ta nhất: xác thịt – tức là chính chúng ta, chứ “chẳng ai trồng khoai đất này”. Thảo nào Chúa Giêsu luôn muốn chúng ta phải cố gắng từ bỏ nó, bằng mọi giá. Cuối cùng, Chúa Giêsu kết luận: “Cũng vậy, ai trong anh em KHÔNG TỪ BỎ hết những gì mình có thì KHÔNG THỂ làm môn đệ tôi được”.

Ai cũng có cách quan sát. Người ta quan sát Chúa Giêsu và người khác, nhưng với ác ý là xoi mói và tìm cách bắt bẻ, chúng ta cũng thường làm như vậy với nhau; còn Chúa Giêsu, Ngài quan sát để biết tình huống ra sao mà “gỡ rối” cho người khác.

Tiền nhân ví von: “Phong ba bão táp không bằng ngữ pháp Việt Nam”. Quả thật, Việt ngữ cũng chí lý lắm: TÔI là TỒI, vì TÔI thích TỐI nên lắm TỘI. Toàn là mẫu tự T, thật là “tê” quá chừng, vừa TÊ vừa TÁI. Theo ngoại ngữ, chữ Santa (thánh nhân) nếu hoán vị các mẫu tự sẽ biến thành Satan (ma quỷ), một làn ranh mong manh. Kỳ lạ quá, và cũng đáng sợ quá!

Việt ngữ của chúng ta không thể hoán vị theo dạng này, nhưng Việt ngữ lại có dạng “độc đáo” khác, ví dụ: Tôi tưởng mình TIN YÊU nhưng tôi chỉ là YÊU TINH; tôi tưởng mình là người biết LẮNG NGHE, nhưng tôi chỉ muốn người khác phải LẮNG xuống, còn tôi không NGHE ai ráo trọi; tôi muốn người khác THẤU HIỂU hoàn cảnh của tôi, còn tôi có THẤU cũng không chịu HIỂU cho họ. Ui da, lạy Chúa tôi!

Lạy Thiên Chúa, xin giúp con biết rõ con để con can đảm từ bỏ “cái tôi” của con, và có thể đón nhận mọi thập giá của cuộc đời này, xin cũng giúp con biết rõ Ngài để con yêu mến Ngài, quyết tâm hành động để có được Ngài mãi mãi. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.

TRẦM THIÊN THU

————————–

(*) THẤT TÌNH gồm: Hỉ, Nộ, Ai, Lạc, Ái, Ố, Dục; LỤC DỤC gồm: (1) Sắc Dục: ham muốn thỏa mãn đôi mắt; (2) Thính Dục: ham muốn thỏa mãn đôi tai; (3) Hương Dục: ham muốn thỏa mãn cái mũi; (4) Vị Dục: ham muốn thỏa mãn cái miệng; (5) Xúc Dục: ham muốn thỏa mãn thể lý; (6) Pháp Dục: ham muốn thỏa mãn ý nghĩ.

5 phép lạ chứng tỏ có Thiên Chúa

5 phép lạ chứng tỏ có Thiên Chúa

Hằng ngày, phép lạ vẫn không ngừng xảy ra xung quanh chúng ta. Thế giới chúng ta đang sống đầy các phép lạ của Thiên Chúa. Nếu bạn suy nghĩ về công cuộc sáng tạo của Ngài, bạn sẽ vô cùng kinh ngạc.

  1. SỰ SỐNG HUYỀN NHIỆM

Mỗi ngày xảy ra hàng ngàn lần, đó là khi một “mầm sống con người” được tạo ra, và sau 9 tháng 10 ngày, mầm sống này là một con người ra đòi. Phép lạ sự sống không là một hoạt động bình thường, mà là một hoạt động chứa đầy chứng cớ về thiết kế của Thiên Chúa dành cho chúng ta. Thiết kế hoàn hảo của một con người theo điều kiện hợp lý tạo nên một trứng thụ tinh, bắt đầu hình thành một bộ nhiễm sắc thể và hệ gen riêng, không ai giống ai. Và như vậy, hơi thở đầu tiên của một thai nhi bắt đầu một linh hồn mới, một sự sống mới và một mục đích mới. Đó là một phép lạ thực sự kỳ diệu của Thiên Chúa.

  1. TRÁI ĐẤT KỲ LẠ

Kích cỡ của trái đất rất hoàn hảo, chính xác tới mức nếu bất cứ thứ gì hơi khác một chút thôi, nó có thể làm hư hại, thậm chí là làm cho trái đất không còn tồn tại. Rất chính xác, tầng nitrogen và oxygen rộng 50 dặm (khoảng 80,5 km) trên mặt trái đất, nếu nhỏ hơn thì sẽ không có tầng khí quyển. Rất chính xác, nếu mặt trời gần hơn thì trái đất sẽ bị thiêu rụi, nếu xa hơn thì trái đất sẽ lạnh cóng. Vị trí trái đất chỉ lệch đi một chút thì mặt trời sẽ làm cho trái đất không có bất cứ sự sống nào. Mặt trăng cũng giữ vai trò quan trọng đối với sự hiện hữu của chúng ta, vì nó chịu trách nhiệm về thủy triều và giử ổn định quá trình xoay của trái đất. Và hiện tượng trọng lực cũng vậy… Đó là điều mà khoa học không thể giải thích. Trái đất thực sự là điều bí ẩn, là phép lạ của Thiên Chúa.

  1. CHUỖI FIBONACCI

FIBONACCI.jpg

Chúng ta có thể nhân biết Thiên Chúa qua toán học và khoa học, cái mà người ta gọi là “Chuỗi Fibonacci” (Fibonacci Squence), thường được gọi là “Dấu Tay của Chúa” (God’s Fingerprint). Sự kỳ diệu toán học này chứng tỏ rằng có Tỷ Lệ Thức Thiên Chúa (Divine Proportion) biểu lộ trong thiên hình vạn trạng, những con số và những kiểu mẫu, ở các vật sống động và không sống động. Người ta phát hiện chuỗi số tạo nên một kiểu rất thú vị. Chuỗi này bắt đầu với các con số 0, 1, 1, 2, 3, 5, 8, 13, 21, 34, 55, 89, 144, và tiếp tục tới vô cực. Mỗi con số tìm được thêm vào hai chữ số khác. Một hình chữ nhật có chiều rộng và chiều dài của bất kỳ hai số của chuỗi này, tạo nên một “hình chữ nhật hoàn hảo”. Khi “hình chữ nhật hoàn hảo” này biến thành các hình vuông dựa vào Chuỗi Fibonacci và được phân chia bằng một cung, chúng ta sẽ thấy một hình xoắn ốc. Đó là sự quan trọng được tìm thấy. Chẳng hạn, hoa hướng dương, vỏ sò, sóng biển, nụ hoa, cánh hoa, quả dứa (trái thơm), sao biển,… đều được hình thành bằng thiết kế chính xác này. Mẫu điển hình của loại này được đặt ngay trên đầu chúng ta… ngay cả hình xoắn của Giải Ngân Hà cũng được định hình bằng chuỗi thiết kế chính xác này. Nó cho chúng ta biết rằng tác phẩm của Thiên Chúa có ở khắp nơi trong vũ trụ này. Đó là các phép lạ của Thiên Chúa.

  1. CƠ THỂ CON NGƯỜI

Chúng ta biết rằng cơ thể của chúng ta chứa 70% nước, nhưng đó chỉ là một trong nhiều yếu tố kỳ diệu về cơ thể con người. Thần kinh chuyển động nhanh tới 170 dặm/giờ (khoảng 273,6 km), bạn có bất ngờ không? Khứu giác của chúng ta còn ngửi thấy mùi với vận tốc nhanh hơn như thế. Nó chịu trách nhiệm điều chỉnh nhiệt độ không khí khi chúng ta hít thở, giữ cho cơ thể chúng ta có nhiệt độ hợp lý để có thể sống. Chúng ta thay đổi và phát triển các tế bào da cứ 27 ngày một lần – nghĩa là hơn 1.000 lớp da trong suốt đời người. Lạ chưa? Chúng ta là một bộ máy được điều chỉnh toàn phần tùy vào chức năng theo một trạng thái hài hòa hoàn hảo. Cơ thể con người là một kiệt tác kỳ diệu, một mê cung hoàn hảo, chỉ có bậc siêu quần “cõi trên” mới có thể phân chia tuyệt vời như vậy. Cơ thể chúng ta là phép lạ của Thiên Chúa.

  1. VŨ TRỤ BAO LA

Vũ trụ bao la có nhiều bí ẩn mà con người chẳng bao giờ tìm hiểu hết. Nó rất rộng, rộng tới vô cực, trong đó có thế giới mà chúng ta chỉ có mơ mà thôi. Có hàng tỷ tỷ ngôi sao trên bầu trời. Giải Ngân Hà này được tạo ra bởi Giải Ngân Hà khác. Bạn có tin rằng mặt trời lớn tới mức chứa được 1 triệu trái đất? Trong một mặt trời có nhiều thế giới khác. Thật là kỳ diệu! Nếu bạn tìm chứng cớ về sự hiện hữu của Thiên Chúa, không cần tìm đâu xa, cứ nhìn vào bầu trời ngay trên đầu bạn. Ai đã đi máy bay thì sẽ nhận ra Thiên Chúa.

TRẦM THIÊN THU

(Chuyển ngữ từ Beliefnet.com)

6 dấu chỉ thời cánh chung

6 dấu chỉ thời cánh chung

7/9/2016 4:19:04 PM

[Đăng báo ĐMHCG, số 359, tháng 7-2016, Dòng Chúa Cứu Thế xuất bản tại Hoa Kỳ]

dauchi.jpg

Chúng ta nghe nói nhiều tới thời cánh chung, tận thế hoặc Chúa Giêsu giáng lâm. Nhưng rồi nghe mãi hóa nhàm nên chúng ta lại cho là bình thường. Đó là động thái nguy hại cho chính cuộc đời chúng ta. Hãy cảnh giác! Và liệu Kinh Thánh có cảnh báo chúng ta?

Thần học gia Jeff Kinley, tác giả cuốn “As It Was In The Days of Noah: Warnings from Bible Prophecy About the Coming Global Storm” cũng nghĩ vậy. Kinley nói: “Kinh Thánh cho biết rằng Thiên Chúa sẽ có lúc tái lâm để xét xử nhân loại. Nhưng khác với Đại Hồng Thủy, ngày đó sẽ là một sự kiện đơn giản, có thể là một loạt sự kiện xảy ra trên khắp thế giới. Đại Hồng Thủy cho thấy rằng Thiên Chúa kiên nhẫn, nhưng Ngài đặt ra giới hạn chịu đựng. Mặc dù hình phạt hủy hoại dữ dội, nhưng Ngài vẫn xét xử công bình và cho nơi trú ẩn”.

Đối với những người nghi ngờ tính hữu hiệu của Kinh Thánh hoặc không muốn nhìn nhận văn hóa ngày nay, Kinley chia sẻ 6 dấu chỉ và những gợi ý cho thấy thế giới đang đi đến ngày phán xét…

1. KHỦNG HOẢNG KINH TẾ

Qua các phương tiện truyền thông, chúng ta biết nhiều về vấn đề này. Đó là chủ đề nóng về tình trạng kinh tế. Trái khoản quốc gia Hoa Kỳ tiếp tục tăng vọt. Trên khắp thế giới, các nước lớn và nhỏ đều không thỏa mãn nhu cầu nên lún sâu vào hố nợ nần. Cũng như thời ông Nô-ê, người ta phải nhờ vào các nước khác để sinh tồn, và họ phải trở về với Thiên Chúa. Kinh Thánh cho biết: “Nếu dân Ta, dân vốn kêu cầu Danh Ta, mà biết hạ mình xuống khẩn nguyện và tìm kiếm Nhan Ta, từ bỏ những con đường xấu xa mà trở lại, thì Ta, từ trời, Ta sẽ nghe và thứ tha tội lỗi nó và sẽ phục hưng xứ sở của nó” (2 Sbn 7:14).

2. BẠO LỰC và ÁN MẠNG

Kinley nói rằng có một bệnh dịch không thể kiểm soát là thù hận và bạo lực trong thế giới chúng ta, đó là điều hiển nhiên trong các loại tội phạm khủng bố vì thù hận, trong các nhóm tôn giáo, giết người có động lực thúc đẩy, giết những người vô tội và trẻ em trên khắp thế giới – điển hình là những người bị tàn sát dã man tại I-rắc trong những ngày vừa qua (tháng 8-2014). Năm 2011, hơn 1,2 triệu vụ phạm pháp dữ tợn đã xảy ra tại Hoa Kỳ – mỗi năm có 15.000 vụ giết người. Chúa Giêsu đã nói trước: “Thời ông Nô-ê thế nào thì ngày Con Người quang lâm cũng sẽ như vậy” (Mt 24:37). Thời ông Nô-ê dầy bạo lực và sự xét xử của Thiên Chúa. Còn hơn là khuyến khích sợ hãi và lo lắng, Kinley động viên các Kitô hữu tìm hiểu các cách thể hiện tiên tri ngày nay và sống đức tin viên mãn là chia sẻ Đức Giêsu Kitô với người khác.

3. TRỘM CƯỚP

Ngày nay, thông tin cá nhân và tài chính không còn an toàn vì các hacker (kẻ cắp dữ liệu). Mối quan ngại này bao gồm cả mật khẩu của điện thư (email passwords), hình ảnh webcam và điện đàm. Kinh Thánh cho chúng ta biết rằng kẻ trộm cắp không làm gì khác hơn là giết người và cướp của. Chúng ta hiểu thời đại chúng ta theo nghĩa đen, nhưng qua con mắt của Kinh Thánh, kẻ thù đang cố gắng ăn cắp tính đồng nhất hoặc sự nhân dạng của chúng ta (giống như trộm cướp thẻ căn cước). Kinley khuyên các Kitô hữu “sống khôn ngoan và cứu lấy thời đại của chúng ta”.

4. VÔ LUÂN

Thế hệ này mê tình dục quá độ và coi thường tâm linh. Biên độ luân lý hầu như không còn trong văn hóa tự do tình dục, thoải mái chia sẻ các hình ảnh “đen”, kể cả âm thanh và văn bản. Các phương tiện di động (điện thoại, ipod, ipad, iphone,…) và mạng lưới xã hội (facebook, twitter, youtube,…) đầy những thứ độc hại. Kinley nhận xét: “Như trong thời ông Nô-ê, thời đại chúng ta là thế giới ưa tình dục, và ngày nay người ta dùng để bán đủ thứ – từ chiếc kẹo cao-su tới xe hơi. Tình dục xuất hiện khắp nơi”.

5. BÁCH HẠI KITÔ GIÁO

Năm 2011, gần 100 triệu Kitô hữu bị bách hại trên khắp thế giới. Năm 2012, con số này tăng gần gấp đôi. Kinley shares that the Bible reaffirms this as Chúa Giêsu nói: “Bấy giờ, người ta sẽ nộp anh em, khiến anh em phải khốn quẫn, và người ta sẽ giết anh em; anh em sẽ bị mọi dân tộc thù ghétvì danh Thầy. Bấy giờ sẽ có nhiều người vấp ngã. Người ta sẽ nộp nhau và thù ghét nhau. Sẽ có nhiều ngôn sứ giả xuất hiện và lừa gạt được nhiều người. Vì tội ác gia tăng, nên lòng yêu mến của nhiều người sẽ nguội đi. Nhưng kẻ nào bền chí đến cùng, kẻ ấy sẽ được cứu thoát” (Mt 24:9-13).

6. ĐỨC TIN GIẢM SÚT

Thánh Phaolô nói: “Vào những thời cuối cùng, một số người sẽ bỏ đức tin mà theo những thần khí lừa dối và những giáo huấn của ma quỷ; đó là vì trò giả hình của những tên nói dối mà lương tâm như bị thích dấu sắt nung” (1 Tm 4:1-2). Thời đại chúng ta có nhiều niềm tin sai lạc, các triết lý thời đại mới, và các bậc thầy tâm linh. Khi đến ngày tận thế, sẽ có nhiều các tiên tri giả, họ tự xưng là Đức Kitô. Kinley tin rằng việc phục hưng trong Giáo hội là cách mới và không được đề cập trong Kinh Thánh.

VĨ NGÔN: “ĐỪNG SỢ, THIÊN CHÚA LUÔN CHE CHỞ BẠN”

Tác giả Kinley nhắc nhở chúng ta rằng trong thời ông Nô-ê cũng như ngày nay, sự công chính và thánh thiện của Thiên Chúa luôn đứn vững. Khi các Kitô hữu biết trước sự trở lại của Đức Kitô, thì họ cũng phải như ông Nô-ê là biết sống sao cho người khác thấy mà trở về với ơn cứu độ. Hãy sẵn sàng chiến đấu và can đảm như lời Chúa nói với Áp-ram trước khi trở thành Tổ phụ Áp-ra-ham: “Ta là Thiên Chúa Toàn Năng. Ngươi hãy bước đi trước mặt Ta và hãy sống hoàn hảo. Ta sẽ đặt giao ước của Ta giữa Ta với ngươi, và Ta sẽ cho ngươi trở nên đông, thật đông. Ông Áp-ram cúi rạp xuống” (St 17:1-2).

JANA DUCKETT
TRẦM THIÊN THU 
(Chuyển ngữ từ Beliefnet.com)