Hành trình 45 năm đi tìm Đức Tin

Hành trình 45 năm đi tìm Đức Tin

 Trần Anh

TGPSG — “Lạy Chúa, này con đây!”
Cuối cùng, tôi đã tìm thấy linh hồn mình đang phủ phục trước nhan Thiên Chúa mà thổn thức…

THỜI THƠ ẤU, MÔI TRƯỜNG VÀ NỀN GIÁO DỤC

Tôi sinh năm 1972 tại thành phố Hải Phòng – một thành phố chưa bao giờ hết sôi sục trong mọi tính cách của con người và ngóc ngách của cuộc sống.

Trong những năm tháng khó khăn của miền Bắc, tôi lớn lên trong tình yêu và sự chăm sóc nghiêm khắc vô bờ bến của cha mẹ, cùng với nền giáo dục vô thần tuyệt đối, chỉ có biện chứng duy vật và các giá trị đạo đức phổ quát là hệ quy chiếu cho mọi bước đi của tôi. Gia đình tôi không có ban thờ, chỉ có ngày giỗ lễ là tôi được về nhà ông bà nội ngoại, nơi có ban thờ tổ tiên, theo truyền thống.

Bên cạnh đó, gia đình tôi có một tủ sách từ thời Pháp để lại với các tác phẩm vĩ đại nhất của văn học nhân loại. Vì ở nhà chẳng có trò gì chơi nên ngoài những giờ trốn ra ngoài lêu lổng với đám trẻ con cùng xóm thì – dù chỉ mới học cấp 1, cấp 2 – tôi đã ngốn những cuốn sách dày cộm của Jean Jacques Rousseau, Romain Roland, Lev Tolstoi, Victor Hugo… Mặc dù trí não non nớt lúc đó chẳng hiểu gì, nhưng tôi mê mẩn với những áng văn chương mô tả tư tưởng phong phú của loài người, và trong tôi nảy sinh tình cảm tốt đẹp với các tác phẩm của nhà thờ Công giáo, từ hội họa, kiến trúc, âm nhạc đến tinh thần lạ lùng khác thường của các vị tu sĩ.

Ấn tượng nhất với tôi là cuốn “Tây dương Gia Tô bí lục”, tác phẩm bài Kitô của các linh mục bỏ đạo viết, cho tôi thêm một khía cạnh về Chúa Giêsu, trong đó Ngài chỉ là một vĩ nhân chinh phục cả thế giới bằng lý thuyết và cái chết của Ngài. Nhưng tôi vẫn yêu mến và bị hấp dẫn bởi vẻ đẹp huyền bí của thế giới Công giáo. Thậm chí tôi đã từng lân la tới nhà thờ, ngắm những sự cổ kính của nó và mua một chiếc nhẫn có mặt Thánh giá của bà bán hàng rong trước cổng rồi đeo nó vào ngón áp út; chiếc nhẫn sau thất lạc đâu tôi cũng không nhớ nữa.

HĂM HỞ, NGHIÊN CỨU, THẤT VỌNG VÀ CHÁN GHÉT

Năm 2000, tôi một mình di chuyển vào Sài Gòn theo nhu cầu công việc. Tại Sài Gòn tôi vừa làm việc tại Tổng công ty Tân Cảng, vừa tranh thủ học thêm lớp văn bằng 2 vào buổi tối. Học được nửa năm thì tôi thích một cô bạn theo đạo Công giáo có nét mặt nghiêm nghị và tôi nghĩ làm vợ thì tốt cho gia đình, vì vậy tôi ngỏ lời và được chấp nhận. Tôi vui lắm và hăm hở theo học giáo lý Dự tòng, vì tôi từ lâu đã biết rằng con người có một đức tin thì sẽ tốt đẹp.

Tôi được phân công học giáo lý một mình một thầy tại nhà của bác Giuse Toản, thuộc giáo xứ Hiển Linh, Thủ Đức. Vừa học, tôi vừa lao vào nghiên cứu Thánh Kinh và mang các thắc mắc đến hỏi. Nhưng đáng buồn là các lời giải thích theo tôi, đều không thuyết phục. Cha sở giáo xứ Hiển Linh khi đó cũng thuyết giáo cho tôi nhiều, nhưng tôi đều phản biện bằng lý lẽ biện chứng của mình: tôi cho rằng các lời giải thích đưa ra đều là ngụy biện. Thánh kinh Cựu Ước giống như chuyện thần thoại, còn Tân ước cũng chỉ từ một vĩ nhân và đầy tính hoang đường, lợi dụng nhu cầu gốc của loài người là thờ cúng. Cái tôi cần là Đức Tin, chứ không phải thờ cúng và tung hô ca tụng một cá nhân nào đó.

Tôi hết sức thất vọng, và bắt đầu chán ghét những buổi Thánh lễ, trong đó người ta tung hô Thiên Chúa – Đấng mà tôi thấy là giết người và tru diệt nếu không nghe lời ông ta, mang thiên đường đến để quyến rũ và đưa hỏa ngục ra mà dọa dẫm. Có lẽ theo đạo Phật lại hay, vì sự từ bi và không sát sinh.

Nhưng dù sao tôi cũng hoàn thành khóa giáo lý Dự tòng và chịu lễ Rửa Tội vào mùa Hè năm 2002, rồi tiếp tục học khóa giáo lý hôn nhân, cùng nàng hôn thê của tôi, vì tôi không thích làm phép chuẩn mà thích cử hành bí tích Hôn Phối đàng hoàng tại nhà thờ, vì nó… đẹp, và vừa lòng vợ tôi. Tôi trở nên thờ ơ và không còn nghiên cứu, tìm hiểu và thắc mắc nữa. Phép cưới diễn ra và tôi thực hiện các hướng dẫn như người ta chỉ bảo. Sau lễ cưới, tôi không còn tham dự Thánh lễ nữa, trừ những lễ Hôn phối, lễ Tang tôi bắt buộc phải đi với tâm tình tẻ nhạt chán ngắt.

TIẾNG SÉT ÁI TÌNH, NƯỚC MẮT VÀ ĐỨC TIN

Năm tháng dần trôi, tôi bị cuốn vào guồng máy làm ăn, kiếm tiền, những vất vả của công việc, hưởng thụ các thành quả của nó và niềm vui của các cuộc chơi. Tuy nhiên những lúc rảnh rỗi, tôi vẫn còn giữ thói quen suy tư về cuộc sống hoàn thiện. Tôi ngả cảm tình về Phật giáo và triết học phương Đông.

Vào khoảng những năm 2009-2014, do chị vợ tôi là nữ tu Emmanuen của đan viện Cát Minh Sài Gòn, tôi thường hay phải đến nơi này để sửa chữa và cài đặt phần mềm, cũng như hướng dẫn cơ bản về máy vi tính cho các nữ tu.  Khi làm việc muộn, các nữ tu hay cho tôi ăn ngon và đối xử dịu dàng lắm. Tôi có cảm tình với các chị nữ tu trong này, đặc biệt Mẹ bề trên rất đôn hậu, ân cần với tôi. Biết tôi không tin Chúa, các chị nói sẽ cầu nguyện cho tôi. Tôi cười và nói: “Em thách các sơ đó! Chúa có hiện ra thì em cũng chỉ cho đó là ảo giác và chẳng tin đâu. Đừng lấy hỏa ngục ra mà dọa hay đưa thiên đường ra mà dụ em. Chết là hết vì em đã bị gây mê phẫu thuật 2 lần rồi. Cái chết là như vậy và chả có linh hồn nào hết.”

Tôi tiếp tục suy tư về vạn vật, về khoa học, về tâm lý con người và đôi khi cũng thấy hơi tủi phận vì mình muốn tin vào một tôn giáo để tâm lý ổn định mà chẳng tin được.

Đầu năm 2017, vợ con tôi không hiểu sao bắt đầu lần chuỗi Mân Côi hằng đêm tại nhà. Tôi tôn trọng nhưng cho rằng mất thời gian và chẳng giải quyết vấn đề gì ngoài tâm lý của mấy người Công giáo.

Một đêm tháng 5 năm 2017, sau một cuộc nhậu say khướt tới 2g sáng, tôi chạy xe về nhà. Đường vắng và tôi chạy chậm theo thói quen mỗi khi uống nhiều. Trên đường, tôi lại suy tư về thân phận con người trên thế gian và bắt đầu cảm thấy cô đơn trong tư duy. Lúc đó, vừa đi qua cầu Bình Triệu và không biết do một sức mạnh nào thôi thúc, tôi chạy đến nhà thờ Fatima ngay gần đó để gặp Đức Mẹ. Dù tôi có ghét Chúa thì tôi vẫn quý Đức Mẹ vì theo những tài liệu tôi đọc, Đức Mẹ hoàn toàn hiền; chưa bao giờ Mẹ giận ai hay làm gì để người dữ cũng như người lành phải đau.

Tôi đến thì nhà thờ đóng cửa nên tôi đứng bên ngoài chắp tay hướng về tượng Mẹ cầu xin cho con có một Đức Tin. Lúc đó không biết sao nước mắt tôi cứ chảy ra, và tủi thân vì mình bao năm nay đi tìm mà chẳng có, muốn tin mà không được. Tôi cứ đứng đó chắp tay nhìn Mẹ mà khóc, cho tới khi có một đôi nam nữ tới và họ cũng chắp tay cầu nguyện gì đó. Tôi thấy mình hơi kỳ nên lên xe đi về nhà ngủ. Sáng hôm sau tỉnh dậy, tôi nhớ lại chuyện và thấy mắc cười cho cái thằng tôi bị say rượu đi cầu xin nhảm nhí, rồi quên béng chuyện đêm hôm say rượu đó.

Tháng 7 năm 2017, có một người em quen biết theo Tin Lành đến thăm và thuyết giáo. Vợ tôi không đồng quan điểm, nhưng tôi thì thích thú vì sự tự do và đơn giản, nhất là việc để dành tiền bạc giúp đỡ anh em là chính chứ không xây những nhà thờ nguy nga và lễ lạt tốn kém trong khi dân còn nghèo không đủ ăn. Tuy nhiên, tôi cũng chỉ ủng hộ cho Tin Lành của anh ta thôi chứ chẳng tin có Chúa thật. Trước khi chia tay, tôi có hơi suy nghĩ khi anh ta nói: “Anh phải biết rằng Chúa yêu anh, Chúa rất yêu anh.”

Cuối tháng 7 năm 2017, gần tới sinh nhật tôi tròn 45 tuổi, vào một buổi sáng bình thường như bao buổi sáng, tôi đi làm bằng xe máy, bình yên và chẳng có gì đặc biệt. Lúc đó tôi làm xuất nhập khẩu và quản lý nguyên vật liệu cho một nhà máy chế biến gỗ tại Tân Uyên-Bình Dương cách nhà 25km nên đoạn đường đi hơi dài. Trên đường đi, tôi suy nghĩ về câu nói của người anh em Tin Lành, và lúc đó không hiểu sao, bài hát Kinh Vinh Danh bỗng ngân nga trong tâm trí tôi – bài ca mà tôi rất ghét vì sự sùng bái cá nhân mỗi khi phải nghe trong nhà thờ. Bài hát ngân nga du dương mãi mà tôi không thể chuyển hướng suy nghĩ sang vấn đề khác được. Rồi nước mắt tôi bỗng giàn giụa chảy mãi vì cảm động khi nghe bài ca. Và tôi lập tức tin Chúa yêu tôi, nghĩa là có Chúa thật. Tôi không hiểu chuyện gì xảy ra với tâm lý của tôi nữa, nhưng tôi cảm thấy ngọt ngào và ngất ngây. Rồi nước mắt cũng ngừng rơi khi tới chỗ làm. Hết cả ngày hôm đó, mọi việc diễn ra bình thường và tôi nghĩ buổi sáng chắc do mình hơi yếu thần kinh nên dễ xúc động, và tôi cười thầm.

Sáng hôm sau, tôi kinh ngạc khi thấy những tâm tình như thế lại lặp lại. Tôi cố chống cảm xúc này, nhưng không thể. Trong tôi, bài ca cứ du dương, ngân nga, của một đoàn người nào đó, không rõ tiếng ai với ai, và câu từ cũng không rõ, do tôi không thuộc bài hát này. Nhưng họ hát tuyệt hay. Tôi nghĩ do ký ức khơi dậy từ ca đoàn của một nhà thờ nào đó. Nước mắt tôi cứ chảy ra mãi suốt quãng đường, đồng thời tôi cảm nhận mãnh liệt Chúa yêu tôi, một cách tha thiết hơn bất cứ gì trong vũ trụ này. Tâm hồn tôi cứ muốn mãi tuôn ra những lời ca tụng, bất chấp mọi nỗ lực ám thị hay chống cưỡng tâm lý nào mà tôi cố tình làm một cách bảo thủ. Cuối cùng, tôi buông thả tâm hồn mình cho mọi sự diễn ra cách tự nhiên.

Sự việc liên tục xảy ra trong một tuần. Tôi đắm đuối trong tình yêu chân thật và huy hoàng của Thiên Chúa, mà tôi có thể nói một cách thô thiển rằng đó là tình yêu tuyệt đối, trên hết mọi tình yêu trần gian. Quãng thời gian đó tôi chỉ muốn tìm một xó xỉnh yên tĩnh cô tịch nào đó mà kết hiệp với tình yêu kỳ diệu này suốt cả ngày, chẳng thiết gì mọi sự xung quanh nữa.

Sau đó là liên tục các diễn biến phức tạp trong nội tâm của tôi và những tương tác lạ lùng khiến tôi đi hết từ sững sờ này tới ngạc nhiên khác, cho tôi biết về thế giới siêu nhiên hiện hữu và sinh động như thế nào. Đắm chìm trong thế giới đó, tôi đã tìm thấy linh hồn mình phủ phục dưới chân Thiên Chúa mà thổn thức: “Lạy Chúa, này con đây!” Chúa đã dạy tôi biết cầu nguyện.

Vậy là sau 45 năm hoang hoải trong tâm hồn, tôi đã được Chúa đoái thương, nhờ Đức Mẹ chuyển cầu. Và chắc chắn còn có cả sức mạnh vô hình từ những lời cầu nguyện của những người thương mến tôi, một con chiên lạc đã được Chúa tìm về.

Tôi hơi thắc mắc: sao Chúa lại đến với tôi muộn màng vậy? Chúa chỉ cười. Điều đó khiến tôi lại đắm say, chẳng muốn thắc mắc gì nữa mà chỉ muốn cất lên những ngợi khen ca tụng, không phải bằng ngôn ngữ của trần gian, mà của Nước Trời…

Trần Anh (TGPSG)

Được xem 1 lần, bởi 1 Bạn Đọc trong ngày hôm nay