TÒNG THUỘC – Lm. Minh Anh Tgp. Huế

Lm. Minh Anh Tgp. Huế

“Chúng sẽ thành dân thánh của Ta, và Ta sẽ cư ngụ ở giữa ngươi!”; “Hãy lặng thinh trước nhan Thiên Chúa!”.

Kính thưa Anh Chị em,

Bài đọc Zacharia được chọn cho lễ Mẹ Dâng Mình nêu bật mối quan hệ mật thiết giữa Israel và Thiên Chúa: Ngài sẽ cư ngụ giữa dân thánh, và họ ‘tòng thuộc’ vào Ngài.

Thiếu nữ Sion trong Zacharia không chỉ là Israel, mà còn là hình ảnh của Đức Maria, người được tuyển chọn cách tuyệt đối. Như Israel, Maria ‘ở cùng’ Thiên Chúa; như Ngài ‘ở giữa’ dân, Thiên Chúa ở trong Mẹ. “Mẹ được xác định là Thiếu nữ Sion, là Israel đích thực, nơi Cựu và Tân Ước hoà làm một. Cũng là hiện thân của Israel mới, là nơi cư ngụ chân thật nhất của Đức Chúa!” – Louis‑Marie Montfort. Và để cảm nhận hồng ân “ở giữa, ở cùng” này, Zacharia mời gọi, “Hỡi mọi xác phàm, hãy lặng thinh trước nhan Thiên Chúa!”.

Tin Mừng hôm nay cũng nhấn mạnh ‘sự lặng thinh và chìm sâu’ này. Khi Mẹ Maria và anh em Chúa Giêsu tìm đến, Ngài thốt ra những lời gây sốc, “Ai là mẹ tôi? Ai là anh em tôi?”. Nghe dường như cứng cỏi, nhưng thực ra Ngài muốn lời này được nghiền ngẫm. Chỉ tay vào các môn đệ, Ngài giải thích, “Vì phàm ai thi hành ý muốn của Cha tôi, Đấng ngự trên trời, người ấy là anh em chị em tôi, là mẹ tôi!”. Qua đó, Ngài tiết lộ, quan hệ huyết thống quan trọng, nhưng ‘tòng thuộc’ vào Thiên Chúa còn quan trọng hơn. Một Maria sống Lời Chúa trở nên mẹ Ngài ‘nhiều hơn’ một Maria máu mủ; Mẹ hiểu và vui với điều đó. Thánh Vịnh đáp ca reo lên, “Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả, danh Người thật chí thánh chí tôn!”. “Có lẽ Maria cuối cùng cũng phải nói ‘Xin vâng’ với toàn bộ số phận của Con Mẹ, vì Mẹ đã vui tươi ưng thuận ngay từ đầu định mệnh ấy!” – Von Balthasar.

Một hình ảnh có thể giúp chúng ta cảm nhận chiều sâu này. Một người mẹ có thói quen rất lạ. Mỗi khi con trai bất ổn, cô dắt nó vào rừng, đặt lên tảng đá, bảo nó nhắm mắt. Rồi cô thổi sáo, từ khúc trầm buồn đến réo rắt, cho đến khi con mỉm cười mới ra về. Đây là cách chìm sâu vào trong, tìm lại an bình. ‘Rừng’ tượng trưng cho Thánh Thể; ‘sáo’ tượng trưng cho Lời Chúa – nơi chúng ta lặng thinh, tìm lại hướng đi mỗi khi đời sống rối ren.

Anh Chị em,

Gioan Phaolô II gọi Maria là “Người Nữ Thánh Thể”. Chúng ta có sẵn lòng để Mẹ dẫn vào ‘rừng’ mỗi ngày để chìm sâu trong Thánh Thể Giêsu, thay vì chạy tìm những câu trả lời nơi đâu khác? Chúng ta có để cho ‘sáo Lời Chúa’ ngân nga cho đến khi có thể mỉm cười? Cứ vào ‘rừng’, và ở đó, chúng ta học chờ đợi thánh ý Chúa như Mẹ, lắng nghe Thánh Thần nói qua Lời Chúa như Mẹ, và đặt câu hỏi quan trọng, “Con thuộc về ai?”; “Con có ‘tòng thuộc’ vào Đấng đã dựng nên con, cho con tất cả những gì con có, con là?”. “Con không thể tách Maria ra khỏi Đức Giêsu. Kính mừng, Lạy Thân Thể sinh ra từ Mẹ. Kính mừng Maria, bình minh của Thánh Thể!” – Maria Giuseppa Fiasella.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Mẹ Maria, dạy con vui thích cầm tay Mẹ ‘vào rừng’ mỗi ngày, hầu con có thể chìm vào ‘vực Giêsu’; nhờ đó, con không lệ thuộc vào điều gì hay ai khác – ngoài Chúa!”, Amen.

Lm. Minh Anh (Tgp. Huế)

**************************************

Lời Chúa lễ Đức Mẹ Dâng Mình Trong Đền Thờ, 21/11, Thứ Sáu Tuần XXXIII Thường Niên

Đức Giê-su giơ tay chỉ các môn đệ và nói : Đây là mẹ tôi, đây là anh em tôi.

✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Mát-thêu.    Mt 12,46-50

46 Khi ấy, Đức Giê-su còn đang nói với đám đông, thì có mẹ và anh em của Người đứng bên ngoài, tìm cách nói chuyện với Người. 47 Có kẻ thưa Người rằng : “Thưa Thầy, có mẹ và anh em Thầy đang đứng ngoài kia, tìm cách nói chuyện với Thầy.” 48 Người bảo kẻ ấy rằng : “Ai là mẹ tôi ? Ai là anh em tôi ?” 49 Rồi Người giơ tay chỉ các môn đệ và nói : “Đây là mẹ tôi, đây là anh em tôi. 50 Vì phàm ai thi hành ý muốn của Cha tôi, Đấng ngự trên trời, người ấy là anh em chị em tôi, là mẹ tôi.”


 

NGƯỜI THẦY

Một ông cụ đang ngồi hóng nắng trong công viên, chợt có một người đàn ông trung niên đến chào và hỏi:

– “Thưa thầy, thầy nhớ em không?”

– Ông cụ nhìn lên người đàn ông trước mặt, trả lời “Thưa không.”Song ông cũng lịch sự hỏi lại, “Anh giờ đang làm gì?”

– “Giờ em cũng là thầy giáo ạ!”

– “Ồ thế à? Mà tại sao anh lại chọn nghề giống như tôi?”

– “Dạ thưa, vì thầy là người đã khiến em chọn con đường này.” Rồi anh ta kể cho người thầy cũ đầu đuôi câu chuyện:

Một hôm nọ, anh bạn cùng bàn mang ra khoe một chiếc đồng hồ thật đẹp. Em chiếp trong bụng. Đợi lúc anh ta lơ đễnh em thò tay vào túi bạn mình và ăn cắp chiếc đồng hồ. Sau khi phát hiện bị mất đồng hồ, bạn em lên mách với thầy.

Thầy nói với cả lớp rằng có người vừa mất chiếc đồng hồ, nếu có ai lấy nhầm thì hãy trả lại. Không một ai giơ tay lên, và dĩ nhiên em cũng không nói gì cả. Thấy vậy, thầy bèn đóng cửa phòng lại và bắt mọi người đứng thành hình tròn rồi nói:

“Tôi sẽ lục túi tất cả mọi người để tìm chiếc đồng hồ, nhưng với điều kiện các em phải nhắm mắt lại khi tôi làm chuyện này.”

Cả lớp làm y theo lời. Thầy soát túi từng người, và sau khi tìm thấy chiếc đồng hồ trong túi em thầy vẫn tiếp tục soát hết những trò còn lại. Xong thầy bảo mọi người mở mắt ra vì đã tìm được chiếc đồng hồ. Thầy không hề tiết lộ em là kẻ cắp, mà cũng không kể lại câu chuyện này với bất cứ ai.

Hôm đó thầy đã cứu danh dự em. Thầy không nói với em câu nào, không kéo em ra riêng để rầy la hoặc giảng luân lý. Hôm đó là ngày em cảm thấy xấu hổ nhất trong đời, và cũng là ngày em thề sẽ không bao giờ ăn cắp hay trở thành một người xấu bởi vì em nhận ra thông điệp của thầy, và hiểu được thế nào là một nhà giáo đúng nghĩa. Thầy có nhớ chuyện này không ạ?”

– “Tôi nhớ chứ,” ông cụ chậm rãi trả lời.

Tôi nhớ phải lục túi từng trò một. Nhưng tôi không nhớ anh, vì lúc ấy chính tôi cũng nhắm mắt..”

—————-

Bài và ảnh sưu tầm

 

Chặng Đàng Thứ Bốn- Chúa Giêsu gặp Mẹ Người – Cha Vương

Hôm nay trời lạnh, nguyện xin hơi ấm của Chúa sưởi ấm tâm hồn bạn nhé.

Cha Vương

Thứ 5: 20/11/2025.  (t4-24)

Chặng Đàng Thứ Bốn- Chúa Giêsu gặp Mẹ Người

* CĐTG do ĐGH Benedict XVI biên soạn, Lm. Gioan Trần Công Nghị dịch.

LỜI CHÚA: Trích Phúc Âm theo Thánh Luca (Lc 2:34- 35, 51).

Ông Si-mê-ôn chúc phúc cho hai ông bà, và nói với bà Ma-ri-a, mẹ của Hài Nhi: “Thiên Chúa đã đặt cháu bé này làm duyên cớ cho nhiều người Ít-ra-en ngã xuống hay đứng lên. Cháu còn là dấu hiệu cho người đời chống báng; và như vậy, những ý nghĩ từ thâm tâm nhiều người sẽ lộ ra. Còn chính bà, một lưỡi gươm sẽ đâm thâu tâm hồn bà. Sau đó, Người đi xuống cùng với cha mẹ, trở về Na-da-rét và hằng vâng phục các ngài. Riêng mẹ Người thì hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy trong lòng.

SUY NGẮM: Trên chặng Đàng Thánh Giá của Chúa Giêsu, chúng ta cũng tìm thấy Mẹ Maria, Mẹ của người. Trong đời sống công khai Mẹ đã đứng sang một bên, nhường chỗ cho dòng dõi gia đình mới của Chúa Giêsu, là gia đình của các môn đệ người. Mẹ cũng đã nghe những lời này: “Ai là mẹ tôi? Ai là anh em tôi? … Vì phàm ai thi hành ý muốn của Cha tôi, Đấng ngự trên trời, người ấy là anh chị em tôi, là mẹ tôi (Mt 12: 48-50). Giờ này đây chúng ta nhìn thấy Mẹ của Chúa Giêsu, không chỉ nơi thể lý nhưng nơi tâm hồn của Mẹ nữa. Mẹ Maria đã được nói: “Và này đây bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai. Người sẽ nên cao cả, và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao. Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Đa-vít, tổ tiên Người” (Lc 1:31 tt). Và Mẹ sẽ nghe từ miệng của ông Simon: “Còn chính bà, một lưỡi gươm sẽ đâm thâu tâm hồn bà” (Lc 2:35). Rồi Mẹ sẽ nhớ lại những lời của các ngôn sứ, những lời như thế này: “Bị ngược đãi, người cam chịu nhục, chẳng mở miệng kêu ca; như chiên bị đem đi làm thịt, như cừu câm nín khi bị xén lông, người chẳng hề mở miệng (Is 53:7). Giờ đây tất cả đều xảy ra. Trong tâm hồn Mẹ, Mẹ đã giữ những lời của sứ thần đã nói với Mẹ từ thưở ban đầu: “Thưa bà Ma-ri-a, xin đừng sợ, vì bà đẹp lòng Thiên Chúa” (Lc 1:30). Các môn đồ bỏ chạy, còn Mẹ đã không lẫn trốn. Mẹ đứng đó, với lòng can đảm của một người Mẹ, với lòng trung thành của một người Mẹ, với đức hạnh của một người Mẹ và với một đức tin không hề nao núng trong giờ đen tối nhất: “Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em” (Lc 1:45). “Nhưng khi Con Người ngự đến, liệu Người còn thấy lòng tin trên mặt đất nữa chăng?” (Lc 18:8). Đúng vậy, trong lúc này đây Chúa Giêsu biết: người sẽ tìm thấy lòng tin: trong giây phút này, đây là lúc an ủi cao độ của người.

LỜI NGUYỆN: Lạy Mẹ Maria rất Thánh, Mẹ của Thiên Chúa, Mẹ đã trung thành khi các môn đồ trốn chạy. Như khi Mẹ tin đến sứ điệp lạ lùng của các sứ thần, là Mẹ sẽ trở nên Mẹ của Đấng Tối Cao, rồi Mẹ cũng tin đến giờ phút nhục nhã cực độ nhất của người. Bằng cách này, trong giờ phút của Thập Tự Giá, trong giờ phút của đêm đen tối nhất của thế gian, Mẹ đã trở thành Mẹ của những người tin, Mẹ của Giáo Hội. Chúng con kêu cầu Mẹ: xin dạy cho chúng con tin, và ban cho chúng con để đức tin của chúng con sinh hoa trái trong sự phục vụ can đảm, và để đức tin của chúng con là dấu chỉ của một tình yêu sẵn sàng chia sẻ sự đau khổ và cống hiến sự nâng đỡ.

Lạy Chúa, vì cuộc khổ nạn đau thương của Chúa,  xin cho các linh hồn được nghỉ yên muôn đời, và cho ánh sáng ngàn thu chiếu soi trên các linh hồn ấy. Amen.

From: Do Dzung

**************************

Mẹ Đứng Đó – Phi Nguyễn ft Mai Thiên Vân 

Lễ Tạ Ơn-Vietsciences-Võ Thị Diệu Hằng 

Võ Thị Diệu Hằng    

  • 1/ Lễ Tạ Ơn thời xa xưa
  • 2/ Nguyên nhân cuộc du hành sang châu Mỹ – Tàu Mayflower
  • 3/ Nơi đến không định trước
  • 4/ Khó khăn lúc đầu
  • 5/ Định ngày lễ Tạ Ơn
  • a) Lễ Tạ Ơn tại Mỹ
  • b/ Lễ tạ ơn tại Canada
  • 6/ Các món ăn
  • 7/ Tem cho lễ Thanksgiving
  • 7/Hình ảnh của Mayflower

1/ Lễ Tạ Ơn thời xa xưa

Trong nhiều thế kỷ, lễ tạ ơn bên Âu châu  do  những  nguyên do khác  nhau như ăn mừng thắng trận, mừng mùa gặt hái thành công lớn hay mừng vua vừa được làm bịnh… Nghi lễ Thanksgiving  được tổ chức lần đầu tại miền Bắc nước  Mỹ, năm 1578, khi  nhà  thám hiểm Martin Frobisher đến tân Thế giới. Ông đã tổ chức  lễ này để tạ ơn Trời đã bảo vệ ông và các thủy thủ trong cuộc hành trình nguy hiểm trên biển cả.

Có tám quốc gia trên thế giới chính thức tổ chức lễ Tạ ơn: Argentina, Brazil, Canada, Nhật, Đại Hàn, Liberia, Thụy Sĩ và Hoa Kỳ 

Truyền thống lấy một ngày hay một mùa để cảm tạ ơn trên đã có từ thời xa xưa mà tổ tiên chúng ta muốn chứng tỏ lòng biết ơn  của họ , để làm các vị thần bớt nóng giận.  Từ đó nghi lễ cứ tiếp tục..

 Tại Hy lạp thời cổ đại, hàng  năm có tổ chức  lễ hội để cúng dường Demeter,  nữ thần chăm nom mùa bắp, làm tiệc tùng và nhiều hội để cùng vui với nhau.

 Mỗi năm, người La Mã tổ chức một kỳ lễ hội cho mùa gặt lớn, tên là Cerelia để thờ lạy Ceres với những trò chơi, diễn hành và  lễ lạc

 Lễ gặt hái Sukkoth vào mùa Thu của người  Do Thái vẫn còn tồn  tại từ ba ngàn năm đến nay

Một trong những biểu tượng của sự tạ ơn, là cái sừng dê biểu hiệu sự phồn thịnh. Cái sừng tượng trưng  múa màng tốt, là do chuyện thần thoại Hy Lạp: Zeus tặng cho Amalthea cái tù và bằng sừng dê như một cử chi biết ơn bà đã nuôi ông  bằng sữa dê lúc ông còn nhỏ, rằng sừng này sẽ mang  lại sự phồn thịnh cho những ai bà  muốn ban phước. 

Trong nhiều thế kỷ, lễ tạ ơn bên Âu châu  có  những  lý do khác  nhau như thắng trận, mùa gặt hái thành công lớn, vua vừa được làm bịnh... 

Nghi lễ Thanksgiving  được tổ chức lần đầu tại miền Bắc nước  Mỹ, năm 1578, khi  nhà  thám hiểm Martin Frobisher đến tân Thế giới. Ông đã tổ chức  lễ này để tạ ơn Trời đã bảo vệ ông và các thủy thủ trong cuộc hành trình nguy hiểm trên biển cả.

2/ Nguyên nhân cuộc du hành sang châu Mỹ – Tàu Mayflower

Cho đến nửa thế kỷ sau, ngày 26/11/1620, khi một nhóm người di dân Pilgrims từ Âu châu sang Hoa kỳ bằng tàu Mayflower. Họ gồm102 thực dân người Anh trong số đó có một người đàn bà có mang, một số thủy thủ khoảng 25-30 người và 35 người  rất sùng  đạo Tin lành đã bị  vua Jacques đệ nhất  đuổi ra khỏi xứ . Họ đặt tên là nhóm Các Cha hành hương Pilgrim (Pilgrim Fathers hay Pères Pèlerins) .  Đầu tiên , họ thử đến Leyde, Hòa Lan nhưng nhà nước Âu châu làm họ thất vọng.  Tại Anh, có những  cuộc nổi loạn tôn giáo làm lộ ra sự xuống dốc của nền quân chủ và chế độ độc tài Cromwell. Anh quốc bị nạn chiến tranh 30 năm. Bên Pháp, cũng  không hơn gì với sự nhiếp chính của Marie de Médicis sau khi vua Henri IV bị ám sát… Do đó nhóm người này quyết định sáng tạo một “Jérusalem mới” ở Mỹ. Lúc đó nữ hoàng  Elizabeth đệ nhất khuyến khích cho dân đến  vùng Virginia (tên của nữ hoàng), do người Anh đô hộ.

 3/ Nơi đến không định trước

Các Pilgrims  lên tàu vào tháng  9 năm 1620 , trên chiếc Mayflower, một thuyền buồm trọng tải 180 tấn. Cuộc hành trình náo động, lạnh và nguy hiểm. Nước đá lạnh tràn vô tàu khiến mọi người sợ hãi, rồi nơi sàn tàu bằng gỗ xảy ra  tai nạn về lửa nên  người ta phải ăn thức  ăn  lạnh. Nhiều hành khác  đau bịnh.  Trong khi còn trên biển, bà Elizabeth Hopkins sinh một con trai mà bà đặt tên là Oceanus. Và sau khi tàu cập bến tại hải cảng Provincetown, thì Susanna White cũng cho ra đời một bé trai, đặt tên là Peregrine (nghĩa là “người đã làm một chuyến du hành”). Chỉ một thủy thủ và một hành khách chết. Sau  65 ngày trên biển lạnh, , vào ngày 21 tháng 11 năm 1620 (theo lịch Julien là ngày 11/11, lúc đó Anh quốc  đang dùng) tàu đến Cape Cod, sau cuộc hành trình dài 2750 hải lý (1 mile = 1,852 km). Cap Cod là một bờ biển chưa ai đặt chân tới (sau này là Massachusetts. Tuy  biết là đã đi sai đường, nhưng họ phải xuống tàu, và ký ngay ngày hôm đó một hiệp ước  sống  hòa hợp với dân bản xứ. Đó là Maryflower Compact Act, trong đó ghi những gì phải làm khi định cư. Họ lập một nền dân chủ địa phương hữu hiệu để sau này sẽ mở ra một đại hội, lấy tên là General Court, để bầu những tổng đốc, những  viên chức  hành chánh, lập ra luật lệ, điều hành thuế má và thành lập các tòa án. Từ năm 1639, thuộc địa càng ngày càng rộng  lớn  ra, không thể mời tất cả các  trại chủ hội họp, nên họ phải bầu người đại diện đi họp thay họ.

4/ Khó khăn lúc đầu

Họ tới Plymouth Rock ngày 11 tháng 12 năm 1620.  Vừa xuống tàu là họ ký bản hiệp ước  hòa bình với người dân da đỏ khi vực  láng giềng  (Narranganset và  Wampanoag) . Có nhiều cuộc chạm trán nho nhỏ, nhưng  không  quan trọng  lắm. Họ phải đi tìm chỗ ở khá hơn bởi vì lúc đó là mùa đông đầu tiên của họ, một mùa đông quá lạnh và đầy giông bão .

Sau 6 tháng lên đất liền, thời tiết khắc khe và thiếu thốn, cùng với bệnh dịch  đã làm cho 46 người trong số 102 người tới nơi chết trước mùa Xuân, trong đó có 14 người vợ (trong số  18 người cả thảy), 13 người chồng (trong số 24 người) . Những người sống sót nhờ ăn thịt gà tây hoang và bắp do người dân da đỏ cung cấp.   May mắn thay mùa gặt năm 1621  thành công giúp những  người di dân sống sót nên họ quyết định làm lễ  Tạ Ơn Trời. William Bradford đã tổ chức  lễ Thansgiving đấu tiên, tháng 11 năm 1621. Họ mời 91 người Mỹ bản xứ (thổ dân da đỏ) đã giúp họ sống còn cho năm đầu tiên của họ trên đất Mỹ vì đã cung cấp lương thực và dạy họ trồng bắp và săn thú rừng.

Vài tuần sau, người Da đỏ bắt đầu lo lắng vì biết là người da trắng sẽ ở lại đó, nên  họ cho một nhóm 50 binh sĩ mang  một nắm mũi tên gắn với nhau bằng da rắn để tỏ lòng hiếu khách. Bradford đáp lại thịnh tình đó bằng cách gởi đến người Da đỏ một da rắn dồn thuốc súng  và đạn. Và hoà bình thành lập giữa hai cộng đồng.

5/ Định ngày lễ Tạ Ơn

a) LễTạ Ơn tại Mỹ

Truyền thống kể rằng nhà cầm quyền Massachussets William Bradford đã định ngày lễ này lần đầu tiên vào năm 1621, khi làm bữa tiệc chung chia giữa những di dân Mỹ và những người thổ dân da đỏ khi họ giúp những thực dân sống sót vào những ngày đầu Ðông

Lễ Tạ Ơn đã được cử hành trên khắp nước Mỹ, nhưng mỗi nơi mỗi khác, tùy phong tục của những người di dân nên  ngày lễ không đồng nhất. Nhưng khi các di dân Mỹ bắt đầu đứng lên chống lại đế quốc Anh để giành độc  lập và khi George Washington  thoát khỏi cuộc bao vây ở  Valley Forge, ông đã  tuyên bố ngày lễ quốc gia Thanksgiving đầu tiên vào ngày 26 tháng 11 năm 1789. 

Đến năm 1830 dân tộc bắt đầu chia rẽ, các tiểu bang miền Bắc  thành lập ngày lễ Tạ Ơn  và sau đó bà Sarah Josepha  Hale đi cổ động trên khắp nước Mỹ để có được một ngày lễ Tạ Ơn đồng nhất cho tất cả các tiểu bang.

 Đến khi  Nam Bắc nước Mỹ phân tranh, các tiểu bang miền Nam đòi ly khai, tổng thống Abraham Lincoln lấy ngày lễ Thanksgiving để nhắc đến công ơn của các di dân Pilgrims đầu tiên đã dựng nên nước Mỹ. Ông làm tăng thêm ý nghĩa của lễ năm 1863 và định ngày cho lễ này hàng năm vào thứ Năm cuối cùng của tháng 11

Trong nhiệm kỳ của tổng thống Franklin Delano Roosevelt, vào những năm 1940, là thời kỳ Đệ Nhị Thế Chiến,  Quốc Hội Mỹ đang trong thời kỳ chiến tranh, đã biểu quyết ngày lễ Tạ Ơn là ngày quốc lễ của toàn thể liên bang để tưởng nhớ tới những công  lao những người đã hy sinh và ông Franklin Delano Roosevelt quy định lấy ngày thứ Năm của tuần lễ thứ 4 của tháng 11.

 b/ Lễ tạ ơn tại Canada:

Thứ Hai của tuần lễ thứ 2 của tháng  10

Lễ thanksgiving của Canada đầu tiên khoảng 43 năm trước khi những người Pilgrim tới Plymouth Rock năm 1620. Khoảng 1576, một nhà hàng hải người Anh Martin Frobisher cập bến tại Baffin Island và tính định cư tại đó. Ông làm lễ tạ ơn tại một nơi mà ngày nay có tên là Newfoundland vì đã  sống sót sau chuyến hành trình dài trên đại dương. Sau đó những người định cư khác đến và những  buổi lễ cho những người tới nơi bình yên tại đây cũng được tổ chức  tại Âu Châu trong mùa gặt hái. Về chuyện  mùa gặt làm lễ tạ ơn thì bên Âu châu đã có từ hai ngàn năm trước

 6/ Các món ăn:

Ngày xưa, lễ Tạ ơn kéo dài ba ngày. Tuy nhiên họ không  thực sự chỉ ăn gà tây (turkey, dindon) bởi vì chữ “turkey” lúc  bấy giờ dùng để chỉ gà tây, gà, chim cút, chim trĩ … Chắc chắn là họ không làm bánh nướng  nhân bí ngô bởi vì họ không có bột và đường; và phần đông  không  ăn  khoai tây vì họ cho khoai tây độc (khoai tây khi nẩy mầm rất độc , đó là khả năng tự vệ của khoai tây chống  lại các côn trùng, nên  đừng ăn phần khoai ở chỗ mầm đang nhú).

Ngày nay, trong dịp lễ này gia đình đoàn tụ. Khách có thể mang theo món ăn cho lễ nhưng nhất là không có quà cáp

Gà tây: Cho dù những người hành hương có ăn gà tây hay không cho lễ Thanksgiving đầu tiên, thịt gà tây  luôn luôn được gắn liền với lễ này

 Bí đỏ: Là loại rau đã cứu sống  những người hành hương trong mùa lạnh kinh khủng đầu tiên ấy, đã trở thành món ăn quan trọng gần như thịt gà tây.

7/ Tem cho lễ Thanksgiving

Năm 2000  được tuyên bố là năm quốc tế cho lễ Thanksgiving, và ngày đầu năm này, 01/01/2000, ba văn phòng của Liên Hiệp Quốc ngụ tại Gabrielle Loire (Pháp) và Rorie Katz (Hoa Kỳ) 

 8/ Hình ảnh của Mayflower

Sau khi rời Plymouth, những  ngày đầu tiên, gió tốt yên lành. Nhưng sau đó mây đen ùn ùn kéo tới từ phía Bắc..  Cơn giông bão bắt đầu. Một trong những hành khách tên William Bradford bị ngọn khổng  lồ sóng quét ra khỏi khoang tàu và được cứu như một phép lạ. Ông  là người thứ 13 ký tờ  Mayflower Compact Act và cũng có mặt trong buổi lễ Tạ Ơn  lần đầu. Ông sinh 10 con  và  82 cháu. Tưởng tượng  nếu như ông  buông tay và không được cứu sống thì sẽ không có hai ông tổng thống Bush và Roosevelt và Humphrey Bogart bởi vì các vị này là cháu chắt của John Howland và Elizabeth Tilley

http://www.mikehaywoodart.co.uk

Dr Mike Haywood họa sĩ chuyên vẽ tranh và chân dung về biển

Bài đọc thêm:

George Washington

Abraham Lincoln

Franklin Delano Roosevelt

From: NguyenNThu

CON TẠ ƠN CHÚA – Bản dịch của cố Gs. TRẦN DUY NHIÊN  

Bản dịch của cố Gs. TRẦN DUY NHIÊN

 Con tạ ơn Chúa vì chồng của con cứ phàn nàn

 khi bữa cơm chưa dọn kịp,bởi lẽ anh ấy đang ở ngay bên cạnh con, chứ không phải bên ai khác.

 Con tạ ơn Chúa vì con của con cứ càu nhàu

 khi phải phụ rửa chén đĩa cho con,bởi lẽ thằng bé đang ở nhà chứ không phải lêu lổng ngoài đường.

 Con tạ ơn Chúa vì số thuế thu nhập mà con phải trả quá cao,

bởi lẽ như thế nghĩa là con đang có một công việc tốt để làm.

 Con tạ ơn Chúa vì có nhiều thứ phải dọp dẹp sau bữa tiệc nhỏ,

bởi lẽ như thế nghĩa là con luôn được bạn bè quý mến kéo đến chơi.

 Con tạ ơn Chúa vì quần áo con bỗng trở nên hơi chật,

bởi lẽ như thế nghĩa là con đang được đủ ăn. 

 Con tạ ơn Chúa vì cái bóng của con cứ ở sát bên con, nhìn con làm việc,

bởi lẽ như thế nghĩa là con đang được sống tự do ngoài nắng.

 Con tạ ơn Chúa vì nền nhà cần quét, cửa sổ cần lau, màng xối cần sửa,

bởi lẽ như thế nghĩa là con còn đang có một mái nhà để cư ngụ.

 Con tạ ơn Chúa vì hóa đơn đóng tiền điện nước của tháng này lại tăng cao,

bởi lẽ như thế nghĩa là Con đang được ấm áp.

 Con tạ ơn Chúa vì cái bà ngồi phía sau con trong Nhà Thờ

hát sai tông lạc nhịp,bởi lẽ như thế nghĩa tai con còn nghe được rất tinh tế.

 Con tạ ơn Chúa vì một đống đồ rất lớn phải giặt và ủi,

bởi lẽ như thế nghĩa là con có đầy đủ quần áo để ăn mặc tử tế.

 Con tạ ơn Chúa vì các cơ bắp trong người con

nó mệt rũ ra vào cuối ngày,bởi lẽ như thế nghĩa là con có sức để làm việc nhiều.

 Con tạ ơn Chúa vì tiếng đồng hồ reo to thật sớm vào buổi sáng,

bởi lẽ như thế nghĩa là con còn đi lại, hít thở và cười nói,

bởi lẽ như thế nghĩa là con đang còn sống được thêm một ngày nữa.

 Và cuối cùng…

 Con tạ ơn Chúa vì đã nhận được quá nhiều E-mails gửi về,

bởi lẽ như thế nghĩa là con vẫn còn có nhiều bạn bè đang nhớ đến con

 Con gửi bài này để bạn bè con hiểu rằng:

 “Thiên Chúa luôn đến với con người bằng một quả tim yêu thương,

cho dù chúng ta đang ở trong bất cứ tình trạng nào !” 


 

HAPPY THANKSGIVING !

Thưa quý vị:

Thế kỷ 16, người di dân Pilgrims từ con tàu Mayflower đã đặt chân đến miền giá lạnh Đông Bắc Châu Mỹ. Nơi đây họ đã được thổ  dân da đỏ giúp đỡ và chỉ cách sinh tồn. Khi người Pilgrims đã có thể tự lo cho bản thân được, họ tổ chức một buổi tiệc để tạ ơn Chúa Trời<https://vi.wikipedia.org/wiki/Thi%C3%AAn_Ch%C3%BAa>  đã cho họ có thể sống đến ngày hôm nay, và họ mời những người da đỏ và cùng nhau ăn uống vui vẻ. Theo tài liệu, buổi lễ tạ ơn đầu tiên tại Hoa Kỳ, do người Pilgrims tổ chức, là vào năm 1621 tại Thuộc địa Plymouth, ngày nay thuộc Massachusetts<https://vi.wikipedia.org/wiki/Massachusetts>.

Và từ đó qua nhiều thời đại, lễ Tạ Ơn Thanksgiving đã được tổ chức tạ Hoa Kỳ mỗi năm vào thứ năm cuối cùng của tháng 11 Dương Lịch. (Riêng tại Canada lễ Thanksgiving vào ngày Monday thứ nhì của  tháng 10)

Người Việt tỵ nạn chúng ta cũng gần như thế: Cuộc di tản bằng máu và nước mắt qua biển cả và đưởng rừng để trốn chạy chế độ Cộng Sản sau 30 tháng 4 – 1975 đi tìm tự do. Chúng ta đã được Hoa Kỳ và các QG đồng minh dang vòng tay nhân ái đón nhận.

Hôm nay, Lễ Tạ Ơn Thanksgiving 2025, xin kính mời quý vị thưởng thức nhạc phẩm “Lời Cám Ơn” của NS Ngô Thụy Miên & Hạ Đỏ Bích Phượng. Phần hòa âm do PBN 114 thực hiện hợp ca. Trần Ngọc thực hiện hình ảnh minh họa (2015).

 <https://vi.wikipedia.org/wiki/T%E1%BA%ADp_tin:The_First_Thanksgiving_Jean_Louis_Gerome_Ferris.png>

       Cám ơn quý vị .TN.

Happy ThanksGiving 

Happy ThanksGiving 

T ơn Chúa – hôm nay ta còn sống

Mắt còn nhìn, còn đọc được e-mail

Đời còn vui, đâu đến nỗi cô liêu

Thêm kiến thức, thêm từ tâm hỷ xả !

 

Tạ ơn Thân hữu gần xa

Hàng ngày chia sẻ cùng ta đủ điều

E-mail nhận được bao nhiêu

Là bao tình cảm thương yêu chan hòa !

S.T.

TÊN TRỘM VÀ NGƯỜI CHỦNG  SINH –  L.M. Mark Link, S.J.

 L.M. Mark Link, S.J.

Tập san Catholic Digest có mục thường xuyên được gọi là “The Open Door” (Cửa Rộng Mở). Trong mục này thường có hai hay ba câu chuyện do độc giả gởi đến. Những câu chuyện này kể lại sự hoán cải trở lại đạo Công Giáo của độc giả.

 Có một câu chuyện thật cảm động về chàng thành niên lớn lên trong một gia đình Công Giáo, từng tích cực hoạt động trong Giáo Hội, và sau đó gia nhập chủng viện.

 

Rồi đến những năm đầy xáo trộn thời chiến tranh Việt Nam. Trong thời gian này, ba sinh viên ở một đại học Ohio bị giết trong lúc biểu tình phản đối chiến tranh. Những cuộc dấy loạn về sắc tộc như xé nát nhiều thành phố trong nước Mỹ. Các nhà lãnh đạo quốc gia bị ám sát. Mọi sự bỗng dưng trở nên rời rạc. 

Chàng thanh niên này rời chủng viện, tham gia phong trào chống chiến tranh, từ bỏ Giáo Hội, và chế nhạo đức tin mà trước đây anh từng ấp ủ. 

Gia đình anh bàng hoàng vì sự thay đổi này. Và khi thái độ của anh ngày càng thù nghịch với tôn giáo, họ đã hoàn toàn tuyệt vọng. 

Sau đó là Tuần Thánh và trong Thứ Sáu Tuần Thánh năm 1970, chàng thành niên, lúc ấy 22 tuổi, lái xe ngang qua một nhà thờ Công Giáo. Anh nhận ra tên của cha xứ trên tấm bảng trước nhà thờ. Đó là vị linh mục anh rất kính trọng. Điều gì đó đã thúc đẩy anh dừng xe và đi vào nhà thờ. 

Khi bước vào cửa, nghi thức Tôn Kính Thánh Giá bắt đầu. Anh ngồi ở hàng ghế cuối cùng. Anh theo dõi dân chúng xếp hàng lên hôn thánh giá, trong khi ca đoàn hát bài “Were You There When They Crucified My Lord?” (Bạn có ở đó khi họ đóng đinh Chúa không?) 

Và rồi điều gì đó thật lạ lùng đã xảy ra. Anh viết: 

“Trong con người tôi, điều gì đó đột ngột xảy ra và tôi bắt đầu khóc. Sau khi dằn được xúc động, tôi nhớ lại sự bình an mà từ lâu tôi đã bỏ lại nơi nhà thờ. Đức tin đơn sơ mà giờ đây tôi đang chứng kiến thì dường như có ý nghĩa hơn là điều tôi tuyên xưng. Tôi bước ra khỏi ghế và quỳ xuống hôn Thánh Giá. Vị linh mục nhận ra tôi, ngài đến ôm lấy tôi.” 

“Từ ngày đó trở đi,” anh cho biết, “tôi trở nên một người Công Giáo tái sinh.” 

Anh kết thúc với nhận xét sau: “Tại sao tôi dừng xe ở nhà thờ đó vào ngày hôm ấy, cho đến giờ tôi vẫn không hiểu, nhưng tôi biết rằng tôi thật sung sướng với các kết quả.” 

****************

Tôi thích câu chuyện này vì nó thích hợp với các bài đọc trong ngày lễ “Chúa Giêsu là Vua” hôm nay. 

Vì bài Phúc Âm diễn tả một thanh niên vô tôn giáo cách đây hai ngàn năm, Anh là một tên trộm cướp, với đầy giận dữ trong lòng nhưng anh đã hoàn toàn thay đổi cuộc đời vào ngày Thứ Sáu Tuần Thánh đầu tiên ấy. 

Và điều thay đổi cuộc đời của người thanh niên này cách đây hơn hai ngàn năm cũng chính là điều thay đổi anh chủng sinh trong câu chuyện trên đây.  Đó chính là việc đóng đinh Đức Kitô. 

Và điều mà Đức Kitô trên thập giá đã nói với người trộm thì Người cũng nói với anh chủng sinh: “Ta hứa với con là hôm nay con sẽ ở với Ta trên thiên đàng.” 

Thật khó có bài đọc nào thích hợp hơn để kết thúc năm phụng vụ.  Bài đọc đã tóm lược lý do tại sao Chúa Giêsu đến trong thế gian.  Chính là để tha thứ cho tội nhân, như tên trộm-và như anh chủng sinh.

Và điều này đưa chúng ta đến việc áp dụng tất cả những điều này vào thực tế đời sống chúng ta.  Đó là: 

–  Điều Chúa Giêsu đã làm cho người trộm lành và anh chủng sinh, Người cũng muốn làm cho mỗi người chúng ta.

–  Người muốn tha thứ tội lỗi chúng ta, bất kể có to lớn đến đâu và lâu đời đến đâu.

–  Người muốn nói với chúng ta điều mà Người đã nói với tên trộm và anh chủng sinh:
Ta hứa với con là hôm nay con sẽ ở với Ta trên thiên đàng.” 

Đây là tin mừng khiến chúng ta quy tụ nơi đây để mừng lễ Chúa Kitô Vua.

Đây là tin mừng mà Chúa Giêsu muốn đi vào cuộc đời chúng ta và thi hành cho chúng ta điều mà Người đã làm cho tên trộm và anh chủng sinh. 

Đây cũng là tin mừng mà Thánh Phaolô đã diễn tả  trong bài đọc thứ hai của Chúa Nhật hôm nay: 

[Thiên Chúa] đã cứu chúng ta khỏi quyền lực tối tăm và đưa chúng ta một cách bình an đến vương quốc của Con yêu dấu của Người, mà nhờ Người chúng ta được tự do, đó là, chúng ta được tha thứ mọi tội lỗi.

L.M. Mark Link, S.J.

From: Langthangchieutim


 

HÀNH TRÌNH NGẮN NGỦI CỦA ĐỜI SỐNG CON NGƯỜI 

Lê Châu An Thuận

Mỗi phút trôi qua, đều có người rời xa thế giới này.

Tuổi tác không liên quan gì đến điều đó.

Tất cả chúng ta đều đang xếp hàng mà không hề nhận ra.

Chúng ta không bao giờ biết có bao nhiêu người đang ở phía trước mình.

Chúng ta không thể quay lại.

Chúng ta không thể ra khỏi hàng.

Chúng ta không thể tránh khỏi hàng.

Vì vậy, trong khi chúng ta đang xếp hàng,

Hãy tận hưởng từng khoảnh khắc.

Hãy bước những bước đầu tiên.

Đặt ra những ưu tiên.

Hãy dành thời gian.

Hãy làm cho người khác hạnh phúc.

Hãy biến những điều nhỏ nhặt thành lớn lao.

Hãy khiến ai đó mỉm cười.

Hãy yêu thương hết mình.

Hãy giữ gìn sự bình yên.

Hãy nói với gia đình bạn rằng bạn yêu họ nhiều như thế nào.

Đừng hối tiếc.

Hãy sống hết mình


 

Co’ ba tiếng để cứu em gái – Truyen ngan qua’ HAY

Son Bui

Cô bé mới tám tuổi khi cha đánh bạc thua và đem cô làm vật thế chấp trong một ván bài.

Chị gái cô, mười lăm tuổi, chỉ có ba tiếng đồng hồ để giành lại em trước khi tên đòi nợ đến.

Deadwood, Lãnh thổ Dakota. Năm 1877. Nơi luật pháp đến chậm, nguy hiểm đến nhanh, và sự sống sót chỉ thuộc về những kẻ tàn nhẫn.

Thomas Garrett đã mất hết mọi thứ: tiền khai thác mỏ, tiền công, lòng tự trọng; và giờ đây, trong cơn say tại Gem Saloon, ông đã mất thứ còn đáng giá hơn tất cả: đứa con gái của mình.

Người thắng ván bài là Bullock; không phải cảnh sát trưởng, mà là một tên buôn người chuyên “cung cấp” trẻ em cho các trại mỏ.

Những đứa trẻ chỉ mới sáu tuổi đã phải làm việc mười hai tiếng mỗi ngày phân loại quặng cho đến khi phổi hỏng hoặc ngón tay rụng rời. Hầu hết không sống quá mười bốn tuổi.

Thomas ký vào giấy tờ mà không chút do dự. Bullock sẽ đến đón bé Emma vào đúng trưa hôm sau. Khi Sarah mười lăm tuổi đi làm ở tiệm giặt về và biết chuyện cha mình đã làm, cô không khóc.

Không gào thét.

Không sụp đổ.

Cô chỉ hỏi một câu: “Khi nào?”

“Ngày mai. Trưa.”

Còn ba tiếng nữa mới đến bình minh.

Ba tiếng để cứu em gái.

Và Sarah có thứ mà cha cô chưa bao giờ có: sự tỉnh táo.

Cô biết rõ Bullock.

Ai ở Deadwood cũng biết.

Một kẻ độc ác núp sau giấy tờ và vẻ ngoài đứng đắn.

Hắn đã bắt cha cô ký hợp đồng; nghĩa là hợp đồng đó có thể bị thách thức.

Và Deadwood lúc ấy có thêm một thứ nữa: một vị thẩm phán liên bang mới toanh vừa công khai tuyên bố rằng cha mẹ không được phép dùng con cái để trả nợ.

Sarah không ngủ.

Không chớp mắt.

Lúc mặt trời vừa ló dạng, cô đã đứng trước tòa án, thở hổn hển, nhưng ánh mắt kiên định.

Người thư ký định đuổi cô đi; con gái mười lăm tuổi thì biết gì về luật pháp.

Nhưng Sarah biết.

Vì trước khi rượu chè hủy hoại ông, cha cô từng là một thư ký tòa… và cô đã đọc ngấu nghiến mọi cuốn sách luật ông để lại trong nhà.

Cô trình bày vụ việc với sự chính xác của một luật sư thực thụ:

Hợp đồng vi phạm luật lao động lãnh thổ.

Là hình thức nô lệ nợ với trẻ vị thành niên.

Thomas Garrett mất năng lực pháp lý vì đang say rượu.

Người thư ký sững sờ. Rồi gật đầu.

Ông ta đánh thức vị thẩm phán.

Thẩm phán Isaac Parker – người sau này được gọi là “Thẩm phán Treo cổ” – đọc hợp đồng, nghe Sarah trình bày, và làm một điều chưa từng có tiền lệ:

Ông ban hành lệnh khẩn cấp, ngăn chặn việc chuyển giao và triệu tập cả Bullock lẫn Thomas Garrett ra tòa ngay chiều hôm đó.

Khi Bullock cùng hai gã tay chân đến căn nhà lá của nhà Garrett đúng trưa, hắn thấy Sarah đang đợi trên hiên.

Không run rẩy.

Không van xin.

Cô cầm trên tay lệnh của tòa án liên bang.

Bullock đỏ mặt vì giận dữ, nhưng không ngu ngốc đến mức chống lại thẩm phán.

Tại phiên tòa, Thẩm phán Parker không chần chừ.

Ông tuyên bố hợp đồng vô hiệu. Xác định đó là hành vi buôn bán trẻ vị thành niên bất hợp pháp.

Cảnh cáo Bullock rằng bất kỳ nỗ lực nào tiếp theo nhằm đòi “nợ” sẽ khiến hắn bị còng tay.

Rồi ông quay sang Thomas Garrett.

Một người cha đánh bạc con cái mình thì mất luôn quyền làm cha.

Parker tước bỏ quyền giám hộ của ông ta và; trong một quyết định làm cả Lãnh thổ Dakota sửng sốt; chỉ định cô gái mười lăm tuổi Sarah làm người giám hộ hợp pháp của em gái.

Nhưng chiến thắng không làm no bụng. Giờ đây Sarah phải nuôi một đứa trẻ tám tuổi, không tiền bạc, không nhà cửa, chỉ có công việc giặt là để sống qua ngày.

Điều cô làm tiếp theo đã trở thành huyền thoại.

Cô đến gặp năm người phụ nữ kinh doanh ở Deadwood; chủ tiệm giặt, thợ may, chủ nhà trọ; và đưa ra một đề nghị:

“Tôi sẽ làm việc với lương thấp hơn. Các bà cho hai chị em tôi ăn ở. Tôi nhận việc nặng nhất và làm giờ dài nhất.”

Bốn người từ chối.

Người thứ năm; góa phụ Martha Bullock (không họ hàng gì với tên buon người) nói có.

Trong ba năm tiếp theo, Sarah làm việc mười sáu tiếng mỗi ngày. Emma được đi học; Sarah bắt buộc điều đó.

Cô dành dụm từng đồng xu.

Đến năm 1880, cô đủ tiền thuê một tòa nhà nhỏ và mở tiệm giặt của riêng mình.

Năm 1882, cô mua đứt tòa nhà đó.

Cô thuê sáu phụ nữ. Trả lương xứng đáng. Cung cấp chỗ ở cho những người cần.

Emma, lúc ấy mười ba tuổi, giữ sổ sách. Khi Emma đủ mười tám, Sarah; hoàn toàn từ lợi nhuận kinh doanh;

trả tiền cho em đi học trường sư phạm để trở thành giáo viên.

Sau này Emma trở thành hiệu trưởng và là một trong những người đấu tranh quyết liệt nhất cho cải cách luật lao động trẻ em trong bang.

Sarah không bao giờ lấy chồng.

“Tôi đã nuôi một đứa con rồi,” cô cười nửa miệng.

“Và làm tốt hơn hầu hết mọi người dù chỉ có một nửa điều kiện.”

Cô điều hành tiệm giặt đến năm 1910, tạo việc làm cho hơn một trăm phụ nữ trong ba thập kỷ.

Emma nghỉ hưu với tư cách nữ hiệu trưởng đầu tiên của quận.

Khi Sarah qua đời năm 1923, cáo phó chỉ nhắc đến “sự nghiệp kinh doanh thành công” của bà.

Emma kể lại câu chuyện thật:

Một cô gái mười lăm tuổi chỉ có ba tiếng đồng hồ, một cuốn sách luật, và niềm tin mãnh liệt rằng cuộc đời em gái mình không phải để bán.

Thẩm phán Parker sau này nói:

Công lý không chỉ là trừng phạt kẻ có tội.

Đôi khi là biết nhận ra năng lực ở nơi không ai buồn tìm kiếm.

Ranh giới giữa bi kịch và chiến thắng rất mong manh.

Đôi khi chỉ là một cô gái tuổi teen từ chối chấp nhận việc em mình bị đem đổi như quân bài poker; và đủ thông minh để tìm ra đúng một đòn bẩy pháp lý có thể ngăn điều đó lại.

Sarah Garrett không có tiền.

Không có vũ khí.

Không có đồng minh.

Cô chỉ có thời gian đang cạn kiệt.

Một bộ óc được tôi luyện bởi tuyệt vọng.

Và tình yêu đủ mạnh để đối đầu cả thế giới.

Và thế là đủ.

#fblifestyle