Nhật Bản Và Việt Nam XHCN – Thái Hạo

BẢO TỒN TIẾNG VIỆT

   Nhật Bản Và Việt Nam XHCN – Thái Hạo

Cách đây mấy ngày thấy có tờ báo đăng tin 2 thanh niên Nhật Bản bị bắt vì tội…dùng đũa cá nhân để gắp gừng trong chiếc lọ đựng gia vị trên bàn ăn của một nhà hàng, rồi quay clip và post lên mạng xã hội. Chủ quán báo cảnh sát, vì hành động “mất vệ sinh” này làm ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của họ! Thôi, chắc không cần bình luận nữa về sự nghiêm ngặt của luật pháp xứ ấy.

Tình cờ là cũng hôm trước, tôi có mấy người bạn ghé chơi, trong đó có 2 người mới từ Nhật về nước. Một ông nói, đi 7 năm, về VN 2 tháng rồi nhưng vẫn bị “sốc nhiệt”. Tôi hỏi vì sao bên đó đang làm ăn ngon lành thế mà lại về làm gì.

– Bị đuổi về. Vi phạm pháp luật.

Anh ta kể rằng buôn xe ô tô, mua phải một chiếc xe ăn cắp, bị bắt và giam 15 ngày, sau khi điều tra, kết luận đúng là mua nhầm chứ không phải tự mình ăn cắp, thì được thả nhưng trục xuất luôn.

Lạ là, dù bị bắt tạm giam, nhưng việc đầu tiên là cảnh sát hỏi về thực đơn và thói quen ăn uống của mình, thích ăn những món gì, khẩu vị ra sao…, có nhu cầu gì thay đổi về đồ ăn thì cứ “yêu cầu”, họ phải đáp ứng hết. Bị giam nhưng nhiều lúc quên mất là mình đang phạm tội, vì nào là kêu bật điều hòa, tăng nhiệt độ, giảm nhiệt độ, rồi nói đi mua thứ này, đi lấy thứ kia…, cảnh sát chỉ việc “ngoan ngoãn” làm theo yêu cầu. Không bao giờ có chuyện to tiếng hay tỏ thái độ bất lịch sự với mình, chỉ một lòng cúc cung “phục vụ”.

“Hết 15 ngày sau khi đã có kết luận thì được thả, về Đại sứ quán đang chuẩn bị lên đường hồi hương theo lệnh của chính quyền Nhật thì có người của sở cảnh sát tới, mang theo một chiếc áo. Chiếc áo này tôi bỏ quên ở chỗ giam giữ. Mà thực ra cũng chẳng phải bỏ quên, áo rẻ tiền, lại cũ rồi, vứt đi chứ lấy làm gì. Nhưng họ phái 3 cảnh sát mang tới tận nơi, hỏi có phải áo của anh không, giao lại đường hoàng rồi mới đi”.

Ở Nhật, nếu vì lý do nào đó mà anh “ngủ bờ ngủ bụi” thì sẽ có cảnh sát đứng canh cho ngủ, không để ai làm phiền, khi nào anh tỉnh dậy họ có làm gì mới làm, tuyệt đối không quấy rầy giấc ngủ của anh, chỉ tận tụy đứng đó, giữ đồ và “canh giấc ngủ” cho anh!

Ông bạn này còn kể, có một ông già độc thân, cứ thỉnh thoảng lại ăn trộm ít trái cây trong vườn nhà hàng xóm, để được đi tù! Thế là cứ ra tù là lại liền ăn trộm, vì ở trong tù sướng hơn ở ngoài nhiều. Trong đó, được chăm sóc tận tình và đối xử tử tế. Ở Nhật, cảnh sát và người nhà nước đúng nghĩa là “đầy tớ” luôn. Thử vi phạm giao thông mà xem, cứ ngồi trong xe bật điều hòa mát, họ tới ăn nói lễ phép, chỉ thiếu khúm núm xin được kiểm tra nữa thôi. Không bao giờ có chuyện hách dịch kiểu như ở VN chứ đừng nói chuyện vòi tiền…

Anh ta nói, ở Nhật đúng là có hơi “phát xít” thật, vì quy tắc rất nghiêm, cái gì cũng phải nhất nhất tuân thủ, nhưng quyền con người cao lắm, không ai được nhân danh nhà nước để xúc phạm hay đối xử thô bạo với anh, dù anh có phạm tội gì đi chăng nữa.

Còn một chuyện lạ đời này nữa: ví dụ, người dân trồng vài cây trái trong vườn nhưng chủ yếu để cho đẹp chứ rất ít khi ăn, thường để rụng đầy gốc, rồi ra siêu thị mua về dùng. Lý do là cây trái tự mình trồng thật đấy, nhưng vẫn không “chắc ăn”, cứ ra cửa hàng hay siêu thị mua về, ăn nếu lỡ có vấn đề gì thì có chỗ mà bắt đền. Thực phẩm trên thị trường Nhật gần như tuyệt đối an toàn, và nếu có nơi nào bán đồ mà ăn vào “có vấn đề gì” thì chỗ đó chỉ có điêu đứng. Oái oăm thay, ở ta mà muốn bán được hàng thì phải kèm theo câu “nhà làm”…

Những chuyện lan man không đầu không đuôi như thế nhưng cứ làm hiện dần lên hình ảnh của 2 đất nước, như thuộc về hai cõi khác nhau. Đến bao giờ chúng ta mới có được một xã hội vừa nghiêm khắc nhưng lại cũng rất tự do và nhân văn, không còn coi “Sinh mạng con người chỉ như cái móng tay”* mà vụ án cô giáo Dung vừa minh họa một cách hùng hồn?

Ông bạn bảo, 200 năm nữa, may ra…

*Lời thơ cô giáo Trần Thị Lam:

“Đất nước mình lạ quá phải không anh

Những chiếc bánh chưng vô cùng kỳ vĩ

Những dự án và tượng đài nghìn tỷ

Sinh mạng con người chỉ như cái móng tay…”

Thái Hạo


 

TẠI SAO NHỮNG CA KHÚC TRƯỚC NĂM 1975 VẪN ĐƯỢC ƯA CHUỘNG? – Nguyễn Văn Tuấn

Kimtrong Lam

Nguyễn Văn Tuấn

Hôm nọ, có nghe ông Nguyễn Phú Trọng phàn nàn là Việt Nam không có những bài hát hay. Tôi thì nghĩ khác ông ta, vì Việt Nam có những bài hát hay, có thể ông chưa nghe đó thôi. Chúng ta thử tìm về nhạc thời trước 1975 ở miền Nam xem, có nhiều bài hay lắm chứ, và vẫn còn lưu truyền cho đến ngày nay dù nó bị vùi dập nhiều lần …

Câu hỏi đặt ra là tại sao những bài ca đã được sáng tác hơn nửa thế kỷ trước mà đến nay vẫn còn được giới thưởng ngoạn, từ bình dân đến lịch lãm, đều ưa thích. Tôi nghĩ đến 4 lý do và cũng là đặc điểm của những ca khúc trước 1975 ở miền Nam: tính nhân văn, tự do tư tưởng, tính phong phú, và giàu chất nghệ thuật.

NHÂN VĂN

Thứ nhất là đậm chất nhân văn. Nếu nhìn lại những bài ca trước 1975 ở miền Nam và so sánh với những sáng tác ở miền Bắc, tôi nghĩ ít ai có thể bác bỏ tính nhân văn trong các sáng tác ở trong Nam. Khi nói “nhân văn”, tôi không chỉ nói đến những sáng tác về thân phận con người, mà còn kể cả những sáng tác thuộc dòng nhạc lãng mạn, trữ tình, nói lên cảm xúc của con người trước thời cuộc.

Người ta thường phân nhóm những sáng tác của Trịnh Công Sơn thành hai nhóm tình yêu và thân phận, nhưng tôi nghĩ cách phân nhóm đó cũng có thể áp dụng cho nhiều nhạc sĩ khác như Từ Công Phụng chẳng hạn. Tình yêu không chỉ là tình yêu đôi lứa, mà còn tình yêu quê hương đất nước (“Tôi đi xem để thấy những gì yêu dấu Việt Nam”) và giữa người với người “Tôi yêu bác nông phu đội sương nắng bên bờ ruộng sâu”).

Thỉnh thoảng cũng có một vài bài có chất “máu” (như câu “nhưng thép súng đang còn say máu thù” trong bài “Lính xa nhà”), nhưng cho dù như thế thì câu kết vẫn có hậu “Hẹn em khi khắp trời nở đầy hoa có tôi về”. Có thể nói rằng cái đặc tính nhân văn và nhân bản của những ca khúc trước 1975 ở miền Nam là yếu tố mạnh nhất để phân biệt so với các ca khúc cùng thời ngoài Bắc, vốn lúc nào cũng có nhiều mùi máu và súng đạn.

NGHỆ THUẬT

Cái đặc điểm nổi bật thứ hai là tính nghệ thuật trong các ca khúc. Khi nói “nghệ thuật” tôi muốn nói đến những lời ca đẹp, giàu chất thơ, và những giai điệu đẹp. Những bài ca mà ngay cả từ cái tựa đề đã đẹp. Những Dấu tình sầu, Giáng ngọc, Mùa thu cho em, Nghìn trùng xa cách, Tuổi biết buồn, Thà như giọt mưa, Giọt mưa trên lá, Hạ trắng, Diễm xưa, Ướt mi, và biết bao tựa đề có ý thơ và sâu lắng như thế đã đi vào lòng người thưởng ngoạn.

Thử so sánh những tựa đề của các sáng tác cùng thời ngoài Bắc như Bài ca năm tấn, Em đi làm tín dụng, Chào anh giải phóng quân, chào mùa xuân đại thắng, Người mẹ miền Nam tay không thắng giặc, v.v… thì chúng ta dễ dàng nhận ra sự khác biệt.

Lời ca trong những ca khúc trước 1975 ở miền Nam cũng là những lời đẹp. Tôi thán phục những nhạc sĩ như Phạm Duy, Trầm Tử Thiêng, Hoài Linh [không phải anh hề], Từ Công Phụng, Vũ Thành An, Ngô Thụy Miên (và nhiều nữa) đã viết ra những lời ca đi vào lòng người. Không phải chỉ đơn giản nhân văn theo kiểu những ý tưởng trừu tượng trong sáng tác của Trịnh Công Sơn (ví dụ như “hạt bụi nào hóa kiếp thân tôi, để một mai tôi về làm cát bụi”, hay “Ngày sau sỏi đá cũng cần có nhau”), nhưng có khi đi thẳng vào vấn đề như Phạm Duy (“Tôi yêu tiếng nước tôi từ khi mới ra đời”).

Còn nhiều nhiều bài đã đi vào lòng người qua những lời ca đẹp và giản dị: “Hôm xưa tay nắm tay nhau anh hỏi tôi rằng: ‘Những gì trong đời ta ghi sâu vào tâm tư / Không tan theo cùng hư vô, không theo tháng năm phai mờ / Tình nào tha thiết anh ơi?”.

Có những lời ca mà tôi nghĩ giới trẻ ngày nay có thể mỉa mai cười khẩy nói sến, nhưng tuổi trẻ thì thường chưa đủ lớn để cảm những câu như “Phút ban đầu ấy / Thư xanh màu giấy viết nhưng chưa gởi em / Ngõ đi chung một lối / Đôi khi định nói với em một lời.”

Không biết từ thuở nào mà tôi đã mê bài Trộm nhìn nhau và đã từng dự báo rằng bài này có ngày sẽ nổi tiếng. Thời đó, tôi mới về thăm nhà sau 20 năm xa cách, và nhìn người xưa, tôi thấy những câu “Ðôi khi trộm nhìn em / Xem dung nhan đó bây giờ ra sao / Em có còn đôi má đào như ngày nào” sao mà hay quá, hợp cảnh quá. Chỉ trộm nhìn thôi. Lời nhạc rất thơ.

Mà, thật vậy, đa số những lời ca trong các sáng tác trước 1975 được viết ra như vẫn vần thơ hoặc phổ từ thơ. Người phổ thơ thành nhạc hay nhất là Nhạc sĩ Phạm Duy, được xem như là một “phù thủy âm nhạc”. Chính vì thế mà âm nhạc trước 1975 có những lời ca sang trọng. Thời nay, trong môi trường những ca khúc dung tục, rất hiếm thấy những ca khúc có những lời ca đẹp như trước.

Lạ một điều là cũng là nhạc tuyên truyền (ở ngoài Bắc gọi vậy) hay nhạc tâm lý chiến (cách gọi trong Nam), nhưng những sáng tác trong Nam thì lại được người dân nhớ và xưng tụng. Sau cuộc chiến, những bài gọi là “nhạc đỏ”, dù được sự ưu ái của nhà cầm quyền văn hóa, chẳng ai nhớ hay muốn nhớ đến chúng.

Ngược lại, những sáng tác về người lính ở trong Nam thời trước 1975 thì lại còn lưu truyền và nuôi dưỡng trong lòng dân, dù nhà cầm quyền ra sức cấm đoán! Ngay cả những người lính miền Bắc cũng thích những bài hát về lính của các nhạc sĩ trong Nam. Tại sao vậy ? Tôi nghĩ tại vì tính nghệ thuật và nhân bản trong những sáng tác ở miền Nam. Người lính, cho dù là lính cộng sản hay cộng hòa, thì vẫn cảm được những câu “Con biết xuân này mẹ chờ tin con / Khi thấy mai đào nở vàng bên nương” hay “Thư của lính, ba lô làm bàn nên nét chữ không ngay”. Những lời ca đó không có biên giới chính trị.

TỰ DO

Đặc điểm thứ ba là tự do. Dù có kiểm duyệt, nhưng nói chung các nghệ sĩ trước 1975 ở miền Nam có tự do sáng tác. Không ai cấm họ nói lên nỗi đau và những mất mát của chiến tranh. Không ai “đặt hàng” họ viết những bài ca tụng lãnh đạo như ngoài Bắc. Thật vậy, nhìn lại dòng nhạc thời đó, chẳng có một ca khúc nào ca tụng ông Nguyễn Văn Thiệu cả. Có một bài ca tụng ông Ngô Đình Diệm, nhưng cũng chẳng ai ca vì nó được dùng trong mấy rạp chiếu bóng là chính. Thay vì ca ngợi “lãnh tụ” dòng nhạc miền Nam ca ngợi con người và dân tộc, nhưng cũng đồng thời nói lên nỗi đau của chiến tranh.

Trịnh Công Sơn viết hẳn một loạt “Ca khúc Da Vàng” (mà hình như cho đến nay vẫn chưa được phép phổ biến). Trong thời chiến mà họ vẫn có thể phổ biến những sáng tác không có lợi cho chính quyền. Những ca khúc như “Dù anh trở về trên đôi nạng gỗ/ Dù anh trở về bằng chiếc xe lăn” chắc chắn không có cơ may xuất hiện trong âm nhạc miền Bắc thời đó (và ngay cả sau này).

Một trong những ca khúc nổi tiếng nhất trong thời chiến có lẽ là bài “Kỷ vật cho em” (phổ thơ của Linh Phương) với những lời ca ray rứt, bi thảm: “Anh trở lại có thể bằng chiến thắng Pleime/ Hay Đức Cơ, Đồng Xoài, Bình Giã/ Anh trở về anh trở về hàng cây nghiêng ngả/ Anh trở về, có khi là hòm gỗ cài hoa/ Anh trở về bằng chiếc băng ca/ Trên trực thăng sơn màu tang trắng.” Nghe nói ca khúc này đã làm cho chính quyền Việt Nam Cộng Hòa rất khó chịu với nhạc sĩ.

Tiêu biểu cho tinh thần tự do sáng tác có lẽ là tự sự của Phạm Duy: “Tôi đưa ra một câu nói thôi: ‘Khóc cười theo mệnh nước nổi trôi’ đất nước bơ vơ, nó rối bù đi thì tôi phải khóc thôi. Lúc nào mà đoàn kết thì tôi cười theo. Khóc cười theo mệnh nước. Cái xã hội mình nó rối tung lên như vậy thì làm sao mà mình … Thành thử tôi nghĩ rằng vấn đề là … Các anh yêu tôi thì nói là tôi có sự nghiệp hơi đầy đủ, hơi lớn một tí đấy, nhưng mà riêng tôi thì tôi thấy cho đến giờ phút này thì tôi hoàn toàn thất bại. Bởi vì đất nước đã thống nhất rồi mà lòng người thì không thống nhất, thành thử đại khái nếu mà tôi có chết đi thì tôi hãy còn gần như là tôi không được thỏa mãn.”

Cái tính tự do còn thể hiện qua một thực tế là chính quyền thời đó không cấm đoán việc phổ biến các nhạc sĩ còn ở ngoài Bắc. Những sáng tác của Văn Cao, Nguyễn Văn Tý, Đoàn Chuẩn – Từ Linh, v.v…đều được phổ biến thoải mái trong Nam. Ngay cả bài quốc ca mà chính quyền vẫn sử dụng bài “Tiếng gọi thanh niên” của Lưu Hữu Phước vốn là một người cộng sản. Ngược lại, nhà cầm quyền ngoài Bắc thì lại cấm, không cho phổ biến các sáng tác của các nhạc sĩ trong Nam hay đã vào Nam sinh sống.

ĐA DẠNG

Đặc điểm thứ tư của âm nhạc ngày xưa là tính phong phú về chủ đề. Khác với nhạc ngoài Bắc cùng thời tất cả dồn cho tuyên truyền và kêu gọi chiến tranh, các sáng tác trong Nam không kêu gọi chiến tranh nhưng yêu thương kẻ thù. Nhạc thời đó đáp ứng cho mọi nhu cầu của giới bình dân đến người trí thức, từ người dân đến người lính, từ trẻ em đến người lớn quan tâm đến thời cuộc, từ tình yêu lãng mạn đến triết lýhiện sinh, từ tục ca đến đạo ca, từ nhạc trẻ đến nhạc “tiền chiến”, từ nhạc tâm lý chiến (tuyên truyền) đến nhạc chống chiến tranh, nói chung là đủ cả. Không chỉ sáng tác bằng tiếng Việt mà còn trước tác hay dịch từ các ca khúc nổi tiếng ở nước ngoài để giới thiệu cho công chúng Việt Nam.

Tôi nghĩ bốn đặc điểm đó có thể giải thích tại sao những ca khúc dù đã sáng tác hơn nửa thế kỷ trước mà vẫn còn phổ biến và được yêu chuộng cho đến ngày nay. Mai kia mốt nọ, nếu có người viết lại lịch sử âm nhạc, tôi nghĩ họ sẽ ghi nhận những sáng tác thời trước 1975 ở miền Nam là một kho tàng vàng son của âm nhạc Việt Nam. Như là một quy luật, những bài hát tuyên truyền thô kệch và nhồi sọ, những bài ca sắt máu, những sáng tác kêu gọi giết chóc và hận thù sẽ bị đào thải, và thực tế đã chứng minh điều đó. Ngược lại, chỉ có những sáng tác đậm tính nhân văn, giàu chất nghệ thuật, và phong phú xuất phát từ tinh thần tự do, thì mới tồn tại theo thời gian.

Nguyễn Văn Tuấn.


 

Sao ông Trump không được giải Nobel Hòa Bình?- Hiếu Chân/Người Việt

Ba’o Nguoi-Viet

October 10, 2025

Hiếu Chân/Người Việt

Cuộc tranh luận sôi nổi chung quanh triển vọng đoạt giải Nobel Hòa Bình 2025 của Tổng Thống Mỹ Donald Trump đã ngã ngũ vào rạng sáng Thứ Sáu, 10 Tháng Mười, sau khi Uỷ Ban Nobel Hòa Bình Na Uy (Norwegian Nobel Committee – NNC) công bố quyết định trao giải thưởng cho bà Maria Corina Machado – người lãnh đạo phe đối lập chống độc tài ở Venezuela. Toà Bạch Ốc ngay lập tức ra thông báo lên án NNC “đặt chính trị trên hoà bình.”

Tổng Thống Donald Trump. (Hình: Andrew Caballero-Reynolds/AFP via Getty Images)

Bất ngờ đến phút cuối

Sự kiện ông Trump không được nhận giải năm nay gây bất ngờ lớn cho nhiều người đã chắc mẩm thế nào giải năm nay cũng sẽ về tay nhà lãnh đạo dân tuý “do Chúa chọn” mà họ ủng hộ hết mình, dù bản thân ông Trump có lần bộc lộ một cách cay đắng rằng: “Họ sẽ không bao giờ trao cho tôi giải Nobel Hòa Bình. Thật đáng tiếc. Tôi xứng đáng, nhưng họ sẽ không bao giờ trao cho tôi.”

Vì nghĩ mình xứng đáng nên ông Trump đã nhiều lần yêu cầu chính phủ Na Uy trao giải cho mình, viện dẫn ông có công dàn xếp bảy cuộc xung đột lớn trên thế giới; thậm chí chính quyền của ông lặng lẽ gây áp lực đối với chính phủ Na Uy, buộc họ phải chọn ông để trao giải. Ông là ứng viên duy nhất làm như vậy do ông không nhận ra hoặc phớt lờ sự thật rằng NNC do Quốc Hội Na Uy bổ nhiệm nhưng hoạt động độc lập, không chịu sự chỉ đạo hay can thiệp của chính phủ; chính tính độc lập và khách quan của Ủy Ban Nobel là yếu tố tạo nên uy tín và danh giá của giải thưởng này. Đi xa hơn, trong cuộc “huấn thị” các tướng lãnh quân đội Hoa Kỳ hôm 30 Tháng Chín, ông Trump nói nếu ông không được giải Nobel Hòa Bình năm nay thì đó là “sự lăng nhục nước Mỹ” (!).

Ông Trump cũng là người duy nhất được nhiều nhà lãnh đạo quốc gia đề cử, hầu hết là những nhà độc tài, từ Pakistan, Azerbaijan, đến Cambodia và Israel. Có điều, sự đề cử của các nhà lãnh đạo này gần như chỉ là tâng bốc để ông Trump ban phát đặc ân cho họ mà không hoàn toàn dựa trên thành tích của ông hoặc dựa vào các tiêu chuẩn của giải Nobel. Tuyên bố của ông Trump trước Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc rằng ông có công dàn xếp bảy cuộc xung đột bị coi là một lời phóng đại, khoe khoang thành tích xa rời thực tế. Thủ Tướng Ấn Độ Narendra Modi chẳng hạn đã phủ nhận “công lao” của ông Trump dàn xếp vụ ngừng bắn giữa Ấn Độ và Pakistan mới đây khiến ông nổi giận và đánh thuế trừng phạt 50% đối hàng hóa Ấn Độ.

Công chúng thế giới dường như có cái nhìn khác với các chính trị gia. Ở mục theo dõi giải Nobel Hòa Bình 2025, trang mạng chuyên dự đoán (prediction) nổi tiếng Polymarket.com ghi nhận, trong ngày Thứ Năm, 9 Tháng Mười – một ngày trước khi công bố kết quả – tỷ lệ đặt cược vào các ứng viên hàng đầu thay đổi chóng mặt. Vào lúc 3 giờ 40 phút chiều, bà Yulia Navalnaya (vợ góa nhà đấu tranh dân chủ Alexei Navalny của Nga) dẫn đầu với 9%, tiếp theo là ông Donald Trump 4.5%, trên cả bà Maria Corina Machado 3.6%, và Đức Giáo Hoàng Leo XIV 0.3%. Nhưng tình hình thay đổi rất nhanh, đến 4 giờ 5 phút chiều, bà Maria Corina Machado vượt lên dẫn đầu với 43.4%, ông Trump xếp thứ hai với 4.8%, vượt qua bà Yulia 4.5%. Nửa giờ sau, lúc 4 giờ 30 phút, cơ hội để bà Maria giành giải Nobel tăng vọt lên 65.2% trong khi các ứng viên còn lại bị giảm, bà Yulia còn 3.5% và ông Trump chỉ còn 2.3% – và dao động quanh tỷ lệ này cho đến lúc NNC xướng danh người thắng giải vào lúc 11 giờ sáng ngày 10 Tháng Mười, giờ Na Uy.

Vì sao ông Trump không xứng đáng được giải?

Không thể phủ nhận Tổng Thống Trump có vai trò quan trọng thúc đẩy Israel và Hamas ký kết thỏa thuận ngừng bắn, trao đổi con tin và tù nhân sau hai năm chiến tranh đẫm máu ở dải Gaza. Chúng tôi đã có bài phân tích vai trò của ông Trump và kế hoạch hòa bình Gaza 20 điểm của ông trên trang báo này. Nhưng ngừng bắn chưa hẳn là hoà bình vĩnh viễn, và không ai dám đoan chắc thỏa thuận ngừng bắn vừa ký kết giữa Israel và Hamas sẽ chấm dứt xung đột. Trong lịch sử, người ta thấy sau Hiệp Định Paris vào Tháng Giêng, 1973 chấm dứt chiến tranh ở miền Nam Việt Nam, giải Nobel Hòa Bình 1973 được trao cho hai ông Henry Kissinger và Lê Đức Thọ, cuộc chiến vẫn tiếp tục diễn ra ác liệt dẫn tới sự sụp đổ của chính thể VNCH chỉ hai năm sau đó.

Công lao của ông Trump ở Gaza là rất đáng tuyên dương nhưng đóng góp muộn màng ấy không đủ để xóa đi tác động mà những chính sách gây tranh cãi của chính quyền Trump gây ra cho nước Mỹ và cộng đồng quốc tế. Và đây chính là lý do mà ông Trump chưa được trao giải Nobel, chưa được có tên trên bảng vàng danh dự những người đóng góp lớn cho hòa bình thế giới.

Ngay sau khi kết quả xét chọn giải Nobel Hòa Bình 2025 được công bố, trên trang Foreign Policy In Focus (FPIF), ông Clarence Lusane, giáo sư khoa chính trị học kiêm giám đốc chương trình nghiên cứu quốc tế của đại học Howard University ở thủ đô Washington, DC, đã viết một bài dài chỉ ra 10 lý do khiến ông Trump không xứng đáng với giải thưởng cao quý đó.

Theo Giáo Sư Lusane, ông Trump đã có các chính sách phản hòa bình như ân xá cho 1,500 tù nhân gây ra vụ bạo loạn ngày 6 Tháng Giêng, 2021, chiến dịch chống người nhập cư tàn bạo, đóng cửa cơ quan viện trợ phát triển USAID, đưa Vệ Binh Quốc Gia và quân đội đến các thành phố, đe doạ xâm chiếm Canada, Greenland, và kinh đào Panama, trừng phạt Brazil và Tòa Hình Sự Quốc Tế vì “tội” truy tố các đồng minh chính trị của ông, ném bom cơ sở nguyên tử của Iran và rút Mỹ ra khỏi các tổ chức quốc tế quan trọng; chưa kể việc tấn công giết người mà không xét xử, không có chứng cứ tội phạm trên vùng biển quốc tế gần Venezuela mới đây.

“Chính sách chuyên chế của ông ấy nhằm định hình lại nước Mỹ và hạ thấp tất cả các định chế chính quyền, xã hội, tài chính, và văn hóa, tự nó là một mối đe doạ hòa bình”… “Chính sách cai trị độc tài và phản dân chủ của ông ngày càng trở nên nguy hiểm và tai hại hơn, không chỉ đối với Hoa Kỳ mà còn đối với toàn bộ cộng đồng quốc tế,” Giáo Sư Lusane viết và cho rằng ông Trump chẳng những không đủ tiêu chuẩn để được giải mà còn “đáng bị loại khỏi danh sách đề cử.”

Một cuộc thăm dò của Washington Post-Ipsos cho thấy 76% người Mỹ không cho rằng ông Trump xứng đáng với giải thưởng Nobel, bao gồm 49% người Cộng Hòa.

Dân chủ là điều kiện của hoà bình

Uỷ Ban Nobel Hòa Bình, trong thông cáo báo chí phát hành cùng với việc xướng danh người được giải, nhận định: “Dân chủ là điều kiện tiên quyết của hòa bình bền vững. Nhưng chúng ta đang sống trong một thế giới mà dân chủ đang thoái trào, ngày càng nhiều các chế độ chuyên chế thách thức các quy tắc và lạm dụng bạo lực… Chúng ta đang chứng kiến một xu hướng toàn cầu: Pháp quyền bị các nhà cai trị lạm dụng, truyền thông tự do bị bịt miệng, người phản biện bị cầm tù và các xã hội bị đẩy về hướng chuyên chế, quân sự hóa.”
Bà Maria Corina Machado, 58 tuổi, hiện đang phải lẩn trốn sự truy lùng của nhà cầm quyền của Tổng Thóng Nicolas Maduro, được cho là người “đang đấu tranh không mệt mỏi để thúc đẩy các quyền dân chủ cho người dân Venezuela và cho sự chuyển tiếp hòa bình từ độc tài sang dân chủ.” Trao giải Nobel cho bà, NNC muốn “giữ ngọn lửa dân chủ cháy sáng trong bóng tối ngày càng dày đặc,” thông cáo viết.

Xem ra, với NNC, hòa bình gắn liền với dân chủ, chỉ thể chế dân chủ mới bảo đảm mối quan hệ hòa bình giữa các dân tộc; ngược lại, các thể chế độc tài thường sử dụng bạo lực để tranh đoạt và duy trì quyền lực. Chiến tranh xâm lược của Nga tại Ukraine, vụ tấn công hèn hạ và dã man của tổ chức Hamas vào Israel cũng như vụ trả đũa tàn khốc vào người Palestine của chính quyền cực hữu Do Thái cho thấy ở đâu thiếu vắng dân chủ thì bạo lực lộng hành và hòa bình bị thủ tiêu trong bom đạn.

Cần tôn vinh những người bảo vệ dân chủ

“Khi các nhà chuyên chế nắm quyền lực, điều cấp bách là phải công nhận những người bảo vệ dũng cảm của tự do, những người đứng lên và phản kháng. Dân chủ phụ thuộc vào những người không chấp nhận im lặng, những người dám tiến về phía trước bất chấp rủi ro sinh tử, và những người nhắc nhở chúng ta rằng tự do không bao giờ là thứ mặc nhiên được hưởng mà phải luôn được bảo vệ – bằng ngôn từ, với lòng can đảm và cương quyết,” thông cáo của NNC khẳng định.

Quan điểm về hòa bình, dân chủ, tự do như vậy đã là nền tảng tư tưởng để NNC trao giải Nobel Hòa Bình cho các nhà đấu tranh dân chủ như Nelson Mandela của Nam Phi, Martin Luther King Jr. của Mỹ, Aung San Suu Kyi của Miến Điện, Lưu Hiểu Ba của Trung Quốc, và mới đây là Malala Yousafzai của Afghanistan (2014). Việc trao giải cho bà Maria Corina Machado năm nay tiếp tục xu thế đó.

Uỷ Ban Nobel không nhắc tới ông Trump và các ứng viên khác, nhưng rõ ràng quan điểm lựa chọn của họ hoàn toàn trái ngược với ông Trump, với đường lối mà ông đang thực hiện ở Mỹ theo hướng ngày càng độc tài chuyên chế, xa rời các chuẩn mực dân chủ, pháp quyền. Nếu ông Trump không thay đổi chính sách thì không chỉ năm nay mà trong nhiều năm tới, ông vẫn chưa thể chạm tay vào giải Nobel Hòa Bình danh giá dù ông có khao khát đến đâu. Một cuộc khảo sát dư luận của YouGov UK công bố sáng 10 Tháng Mười ghi nhận có tới 69% người Anh cho rằng trong tương lai, ông Donald Trump không nên được trao giải Nobel Hòa Bình, chỉ có 14% cho rằng ông xứng đáng, và 17% không có ý kiến. [đ.d.]


 

NGƯỜI ANH HÙNG TRÊN CON TÀU ĐỊNH MỆNH KG 3640

Tỵ Nạn Bidong 

NGƯỜI ANH HÙNG TRÊN CON TÀU ĐỊNH MỆNH KG 3640

(Kỷ niệm về một người lính Thủy Quân Lục Chiến VNCH – anh Tài Công)

Kỷ niệm không thể phai

Nếu ai hỏi tôi, kỷ niệm nào sâu đậm nhất trong hành trình vượt biển tìm tự do – trước khi đặt chân lên đảo Pulau Bidong, tôi sẽ không ngần ngại mà nói:

“Đó là hình ảnh anh Tài Công, người Thủy Quân Lục Chiến của tàu chúng tôi – KG 3640, số thứ tự 367.”

Giữa biển trời sinh tử

Hôm ấy, con tàu ọp ẹp chở đầy những người bỏ xứ ra đi, dập dềnh giữa trùng khơi mênh mông. Nước tràn dần vào khoang, thân tàu rệu rã.

Trước mặt chúng tôi là đất liền Mã Lai – chỉ hơn hai trăm mét, gần trong tầm mắt mà xa như cõi mơ.

Bất ngờ, tiếng quát tháo và súng nổ vang lên từ phía bờ.

Bọn lính Mã Lai đứng thành hàng, nòng súng chĩa thẳng ra khơi, xua đuổi con tàu nhỏ bé đang thoi thóp.

Những phát đạn thị uy rít lên trên mặt sóng, tiếng gió hòa cùng tiếng khóc của phụ nữ, tiếng nức nở của trẻ em. Không khí trên tàu bao trùm nỗi tuyệt vọng.

Khoảnh khắc người lính bước ra ánh sáng

Giữa giây phút ấy, anh Tài Công – cựu sinh viên Đại học Phú Thọ, người lính Thủy Quân Lục Chiến VNCH – đứng bật dậy.

Gương mặt sạm nắng, đôi mắt sáng quắc, anh bước ra mũi tàu.

Không một lời hô hào, anh nhảy xuống biển, bơi thẳng vào bờ, giữa làn đạn rít và sóng dữ.

Trước những nòng súng lạnh lùng đang chĩa thẳng vào mình, anh không hề run sợ.

Giữa gió biển và tiếng sóng, anh cất cao giọng – tiếng Anh vang dội, mạnh mẽ và đầy khí phách:

“Con tàu này đã thủng đáy, không thể ra khơi nữa!

Trên tàu là những con người vô tội – phụ nữ, trẻ em, người già.

Các anh có thể nhẫn tâm xua họ đi vào chỗ chết sao?”

Giọng anh vang lên như tiếng sét giữa biển trời, làm khựng lại những bước chân đang hung hăng.

Ánh mắt anh sáng rực, cứng rắn mà nhân hậu – ánh mắt của người lính từng quen nhìn thẳng vào cái chết, nhưng vẫn chọn cứu người.

Khi lòng can đảm lay động bạo lực

Toán lính Mã Lai, thoáng chốc lúng túng.

Rồi, như bị khuất phục bởi khí phách và lẽ phải, họ hạ súng, ra hiệu cho con tàu được phép tiến gần bờ.

Lúc ấy, tàu đã nghiêng ngả, thân tàu vỡ toác.

Mọi người dìu dắt nhau, bồng bế trẻ em, lội dần vào đất liền trong nước mắt, giữa tiếng gió và tiếng cầu nguyện.

Những bước chân yếu ớt nhưng chan chứa niềm tin vào sự sống –

và trong tim tất cả, hình ảnh người lính ấy hiên ngang, bất khuất, nhân từ.

Sau bốn mươi lăm năm nhìn lại

Đã hơn bốn mươi lăm năm trôi qua…

Nhưng trong ký ức tôi, hình ảnh anh Tài Công – người lính Thủy Quân Lục Chiến VNCH trên con tàu KG 3640 vẫn còn nguyên vẹn.

Anh – người đã dám đứng lên, dám bước ra khỏi cái chết, để mở đường sống cho đồng bào mình.

Không ai phong anh là anh hùng.

Nhưng trong lòng chúng tôi – những người sống sót – anh mãi là người anh hùng vô danh của biển cả, người đã viết nên một trang sáng chói trong hành trình thuyền nhân vượt biển tìm tự do.

Lời gọi hồn biển

Giờ đây, giữa cuộc sống bình yên nơi đất mới, đôi khi tôi vẫn tự hỏi:

“Anh ở đâu, anh Tài Công của con tàu KG 3640?

Anh còn nhớ chuyến tàu định mệnh năm ấy chăng?”

Nếu một mai có dịp gặp lại, tôi chỉ muốn cúi đầu nói một lời:

“Cảm ơn anh – người lính Thủy Quân Lục Chiến của quê hương tôi.”

Những người muôn năm cũ – Hồn ở đâu bây giờ?

Xin nguyện thắp nén hương lòng,

Tưởng nhớ và tri ân anh – người anh hùng giữa lòng biển lớn.


 

CÁCH TA CÚI XUỐNG

U 70 LVC.

Thầy Lê Văn Thông

 CÁCH TA CÚI XUỐNG

Buổi trưa, khu vườn nhỏ trước tòa nhà lớn ngập nắng. Một người phụ nữ sang trọng cùng cậu con trai nhỏ ngồi trên ghế đá. Họ vừa ăn, vừa trò chuyện vui vẻ. Rồi người phụ nữ tiện tay ném tờ giấy gói xuống đất.

Một ông lão mặc bộ đồ làm vườn cũ kỹ, lặng lẽ bước đến nhặt, bỏ vào thùng rác. Bà ta nhìn thấy, nhưng chẳng mảy may quan tâm. Vài phút sau, hành động ấy lặp lại — rồi lại lặp lại. Ba lần như thế, ông vẫn kiên nhẫn cúi xuống, không nói một lời.

Người phụ nữ khẽ cười với con trai:

— Con nhìn đi, nếu không chịu học, sau này con cũng chỉ có thể làm những việc thấp hèn như ông ấy thôi.

Ông lão dừng tay, giọng trầm nhưng nhẹ:

— Cô vào đây bằng cách nào vậy? Đây là khu riêng của tập đoàn.

Người phụ nữ đáp, vẻ kiêu hãnh:

— Tôi vừa được nhận vào làm ở bộ phận quản lý.

Đúng lúc ấy, một chàng trai trẻ hối hả chạy đến:

— Thưa tổng giám đốc, cuộc họp sắp bắt đầu rồi ạ!

Không khí lặng đi. Người phụ nữ sững sờ, mặt thoáng tái. Ông lão đặt kéo xuống, điềm nhiên nói:

— Hủy quyết định tuyển dụng của cô này.

Rồi ông bước tới bên cậu bé, khẽ vuốt tóc, giọng dịu dàng mà ấm áp:

— Cháu à, học hành là để trở thành người tử tế, chứ không phải để đứng trên ai khác. Không có công việc nào là hèn mọn — chỉ có những con người tự đánh mất phẩm cách mới trở nên nhỏ bé thôi.

Cơn gió chiều lướt qua, làm tà váy người mẹ khẽ run. Cậu bé cúi đầu, ánh mắt bỗng khác đi.

Giữa khu vườn ngập nắng, ông lão lại cúi xuống, tiếp tục tỉa những nhành cây non.

Dáng ông bình dị, nhưng trong từng lần cúi ấy — là cách một con người giữ gìn sự cao quý của chính mình.

(LVT sưu tầm và biên tập lại)


 

NGƯỜI ĐƯỢC DẠY TỬ TẾ – NHÌN LÀ BIẾT

Lương Văn Can

 NGƯỜI ĐƯỢC DẠY TỬ TẾ – NHÌN LÀ BIẾT

Không phải ai học giỏi cũng là người có giáo dục.

Không phải cứ giàu có, thành đạt là sống đàng hoàng.

Người được dạy tử tế không phải ở cái miệng hay nói đạo lý, mà nằm trong từng cách họ cư xử mỗi ngày.

Và thật ra, nhìn một người có được dạy tử tế hay không, chỉ cần quan sát vài điều sau.

  1. Gặp chuyện không vừa ý, họ vẫn không làm người khác tổn thương

Ai cũng có lúc tức giận. Nhưng người được dạy đàng hoàng sẽ không trút giận lên người khác, không mắng nhân viên, không đổ lỗi lung tung.

Họ chọn cách giải quyết trong im lặng, nói chuyện đàng hoàng, giữ cho người khác thể diện.

Họ không cần phải hơn trong lời nói. Họ chỉ cần không khiến ai phải đau vì mình.

  1. Họ biết tự làm, không ỷ lại

Người được dạy tử tế không chờ ai sai bảo mới làm. Họ biết rửa bát, biết thu dọn, biết lau cái bàn dính bẩn mà không phải trách: “Cái này của ai?”

Lớn lên trong một mái nhà dạy điều hay lẽ phải, họ hiểu rõ: sống đâu phải để người khác phục vụ mình mãi.

Một người biết dọn nhà, biết cất chăn gối sau khi ngủ dậy – cũng thường là người biết dọn dẹp cuộc sống của mình cho gọn gàng, tử tế.

  1. Không lên giọng với ai – cả khi có quyền

Người tử tế không cần chứng minh mình là ai.

Càng có địa vị, họ càng khiêm nhường. Gặp người yếu thế hơn, họ không nói kiểu dạy đời. Với người lớn tuổi, họ vẫn lễ phép.

Đi làm, không chèn ép cấp dưới. Đi mua hàng, không xem thường người bán. Gặp nhân viên bảo vệ, họ vẫn cúi đầu chào.

Vì họ được dạy rằng: không có ai nhỏ đến mức đáng bị khinh.

  1. Họ biết ơn và nhớ ơn

Người sống tử tế không quên người đã giúp mình lúc khó. Không quay lưng khi đã khá hơn. Không lên tiếng chối bỏ quá khứ.

Họ không nói “tôi tự cố gắng nên mới được như hôm nay” – vì họ biết, một chén cơm ăn nhờ ngày xưa cũng là cái ơn phải nhớ.

Biết ơn là nền móng của đạo đức. Người vô ơn, sớm muộn gì cũng tự phá mình.

  1. Ở cạnh họ – thấy nhẹ lòng

Người sống tử tế không khiến người khác mệt. Họ không lên mặt, không chen ngang, không soi mói, không làm bạn phải phòng bị.

Nói chuyện với họ thấy dễ thở. Nhờ họ giúp việc gì thấy yên tâm. Không gặp thường xuyên, nhưng nghĩ đến là thấy quý.

Vì họ sống không bon chen. Không làm người khác khó chịu. Không cố gắng chứng minh điều gì.

Họ hiện diện, là một sự bình yên.

Người học cao, chưa chắc đã sống có giáo dục. Nhưng người sống tử tế chắc chắn đã từng được dạy bằng yêu thương.

Không cần đạo lý cao siêu. Chỉ cần dạy một đứa trẻ biết tự gấp mền, biết nói cảm ơn, biết xin lỗi khi sai – là đủ để lớn lên thành một người không làm ai phải khổ.

Xã hội này không thiếu người giỏi. Chỉ thiếu những người biết sống sao cho người khác thấy ấm lòng.

Cre: Hoàng Nguyên Vũ

———-

NGÔI NHÀ TINH THẦN CỦA PHỤ NỮ VIỆT.

Chuyên gia trị liệu hôn nhân và tham vấn cá nhân.


 

NGƯỜI VIỆT CỐ GIÀU LÊN ĐỂ LÀM Gì?

Nguyễn Hoành  

 Bài hay quá!

NGƯỜI VIỆT CỐ GIÀU LÊN ĐỂ LÀM Gì?

(Nhạc sĩ Tuấn Khanh’s Blog, tháng 10/2017)

Trong những ngày mưa ngập lụt lội nhiều nơi tại Việt Nam, có một người đàn ông đi xe hơi hạng đắt tiền đã giận dữ bỏ đi giữa làn nước, vốn đã lên đến thắt lưng, để lại chiếc xe của mình một cách đau đớn bất lực. Như hàng vạn người nghèo khó khác đã ngụp lặn, lội qua giòng nước ô nhiễm đó, chèo kéo từng chiếc xe Honda, xe đạp của mình để về nhà, người đàn ông đó chắc cũng có chung một câu hỏi không lời đáp về tương lai mà tiền của là vô nghĩa trước những biến động đang ập đến ngay cửa nhà mình.

Qua những biểu đạt than phiền về ngập lụt khắp nơi, qua các trang mạng hay báo chí, có thể thấy rằng không phải con người Việt Nam đã quá sức chịu đựng, mà họ như sực tỉnh trước một giấc mộng dài được vỗ về bởi những người lãnh đạo về sự hoa lệ của đô thị, về những chỉ số phát triển… nhưng chỉ trong tíc tắc đã lộ ra rằng mọi thứ chỉ là sân khấu tạm thời rực rỡ. Khi cánh màn nhung và những lời tuyên bố vừa dứt, hiện thực đã hiện ra tàn nhẫn với tương lai về nhà đen ngòm.

Người Việt rầm rộ làm giàu từ nhiều năm nay, tập bỏ quên mọi thứ khác chung quanh mình, mà tưởng chừng miếng cơm manh áo no đủ sẽ giải quyết tất cả, nhưng mọi thứ lại không phải như vậy.

Chưa bao giờ người Việt ào ạt in và ngấu nghiến đọc những công thức dạy làm giàu, dạy thành đạt như bây giờ. Thậm chí liều thuốc cường dương dựng đứng giấc mơ thành đạt của Mã Vân (Jack Ma) cũng được nhắc đi nhắc lại như một kim chỉ nam “quá 35 tuổi mà còn nghèo là tại bạn”. Thế nhưng những phong trào uống, chích các loại thuốc như vậy không hề có việc ghi chú chống chỉ định rằng việc thành đạt nóng, phải giàu có cho bằng được đôi khi cũng tạo ra loại ác thú núp kín sau bộ mặt niềm nở với đồng loại của mình.

Rất nhiều người trẻ ở Việt Nam muốn nhanh giàu có, nên đã bơm hoá chất vào heo gà và rau xanh, hoặc trở thành những kẻ cướp máu lạnh. Tệ hơn nữa là những kẻ luồn lách và làm giàu bằng gian lận và tham nhũng tiền thuế của nhân dân. Làm giàu và khoe giàu đã trở thành một tín chỉ quan trọng để vuơn lên, leo vào một chuồng trại khác trong xã hội Việt Nam hôm nay. Già hay trẻ cũng vậy! Sự tôn thờ vật chất đã có rất nhiều ví dụ đau lòng như con giết cha mẹ để lấy nhà, lấy đất cho đời thụ hưởng.

Nhưng rồi sự giàu có đó, sự tách biệt hãnh tiến đó bất chợt vỡ toang như những chiếc bong bóng xà phòng khi cơn mưa đem lụt lội đến. Họ nhận ra rằng mặt bằng cuộc sống không an sinh, không có gì cân bằng với giáo dục, môi trường, an ninh… Mọi hợp đồng bảo hiểm chỉ là trò tận thu chứ không hề cứu rỗi lúc tai ương. Mọi lời hứa vĩ đại trôi qua năm tháng, chìm vào hiện thực. Tương tự như sự kiện “ngày đen tối” của thị trường chứng khoán Việt Nam ảnh hưởng bởi thị trường chứng khoán Trung Quốc, trong tháng 9/2015 với gần 10 tỷ USD bốc hơi trong vài ngày, đã nhắc khéo rằng dường như mọi lâu đài đang được dựng lên bằng ảo tưởng của một đám đông, và bằng thực tế đáng giá của một vài kẻ đứng sau cánh gà.

Một chị bạn để dành được ít tiền sau những năm dài vật lộn mưu sinh, đã gọi hỏi tôi rằng có cách nào đưa con đi du học nước ngoài thật nhanh. Khi tôi hỏi lý do vì sao chị gấp gáp như vậy, thì câu trả lời – không phải của riêng một người – rằng chị cảm thấy lo lắng và muốn đưa con đến một môi trường sống và giáo dục tốt hơn. Một thế hệ mới của người Việt đang tự cào cấu với khát vọng đổi thay cuộc sống của mình nhưng bất lực, nên đành chọn cách chạy đi?

Câu chuyện của chị bạn xảy đến cùng lúc với tin những học trò nghèo ở Huế chưa đóng được học phí bị bêu tên dưới cột cờ. Công ty Tôn Hoa Sen kêu gọi từ thiện nhưng chặn nguồn nước của dân thiểu số ở Đạ Mri đế ép lấy đất. Công ty Tân Hiệp Phát thì thay vì xin lỗi người tiêu dùng, bãi nại cho người tố cáo sản phẩm lỗi bị gài bẫy đi tù… thì thay giám đốc người nước ngoài để rửa mặt. Và ở Hà Nội, quan lại chia nhau cai trị trong họ hàng của mình ở huyện Mỹ Đức.

Đã có bao nhiêu người Việt đang gắng làm giàu, chỉ để tìm cách cho mình hay con em mình rời xa quê hương? Chắc không ít, và cũng chắc chắn không phải là một khuynh hướng tạm thời.

Nhan nhãn trên các trang báo, cũng như tin nhắn rác, là các dịch vụ môi giới đầu tư hay học nghề… ám chỉ việc ra đi, định cư ở nước ngoài. Một người bạn làm công việc này cho biết lượng người gọi vào, tìm hiểu, làm đơn hay hy vọng đang tăng đến mức kinh ngạc, thậm chí diện EB-5 của Mỹ, đòi hỏi phải có ít nhất 500.000 USD cũng vậy . Trong các bài phóng sự đuợc dịch từ báo nước ngoài cho thấy người Trung Quốc làm ra tiền đang ùn ùn tìm cách chuyển tài sản ra khỏi nước hoặc tìm cách di cư sang các nước phương Tây. Chỉ tính trong 10 năm, từ năm 2000 đến 2011, Trung Quốc đã chảy máu hơn 3.500 tỷ USD do người giàu Trung Quốc chuyển ra ngoài.

Chưa có con số thống kê nào về người Việt Nam nhưng tin tức vẫn hay hé mở cho biết các đại gia Việt luôn trong thế “an toàn” khi tất cả nhà cửa, tài sản, gia đình… được sắp xếp ở Mỹ, Canada… thậm chí ở ngay Singapore. Cũng như người Trung Quốc, họ đã cố gắng làm giàu bằng mọi cách trên quê hương mình nhưng không chọn tồn tại ở nơi đó. Điều này có ý nghĩa gì?

Có cái gì đó thật khó nghĩ về cách vồ vập muốn làm giàu của người Việt hôm nay, kể cả cách sau đó họ che mặt ra đi, bất chấp Việt Nam vẫn đang sáng rực tên trên các bản tin bình chọn là một trong những quốc gia hạnh phúc và đáng sống nhất thế giới.

Trong bài thơ Quê hương của nhà thơ Đỗ Trung Quân, đời thật đẹp với những chùm khế ngọt. Nhưng dường như một lớp người Việt hôm nay không chỉ tranh nhau hái trái, đốn hạ cây mà âm mưu sở hữu bán cả mảnh đất cha ông đã trồng cây để đầy túi. Nhưng lạ thay, sau đó họ lại lặng lẽ gói ghém ra đi thật xa. Người Việt đang cố gắng làm giàu thật nhanh rồi như vậy, vì sao?

Xin đừng ai trả lời. Đừng nói một lời nào cả. Chúng ta hãy cùng lặng im và suy ngẫm.

Cóp từ FB Bùi Quang Minh


 

Sự trung thực là khi ta giữ vững liêm chính

Chi NguyenNhững Câu Chuyện Thú Vị

Một du khách nước ngoài cố gắng bắt một chiếc taxi tại Tokyo. Do rào cản ngôn ngữ, vị khách chỉ có thể nói tên địa điểm mà mình muốn đến. Tài xế taxi hiểu và gật đầu, sau đó lịch sự mở cửa để hành khách bước lên.

Khi chuyến đi bắt đầu, tài xế bật đồng hồ tính tiền. Một lúc sau, anh tắt đồng hồ, rồi bật lại sau đó. Hành khách cảm thấy bối rối nhưng không nói gì.

Khi đến nơi, vị khách đề nghị những người đón tiếp:

“Giúp tôi hỏi tài xế taxi tại sao anh ta lại tắt đồng hồ tính tiền một lúc trong chuyến đi.”

Người tài xế, khi được hỏi, đã thật thà trả lời: “Tôi đã phạm sai lầm. Tôi bỏ lỡ ngã rẽ và phải quay đầu ở điểm tiếp theo khá xa. Vì sai lầm của tôi, chúng tôi phải đi thêm khoảng 2 đến 2,5 km. Trong suốt quãng đường đó, tôi đã tắt đồng hồ tính tiền. Tôi không thể tính tiền hành khách cho quãng đường tăng lên do lỗi của mình”.

Sự trung thực là khi ta giữ vững liêm chính, ngay cả khi không ai nhìn thấy hay hiểu được.

Trang: TokyoLife

Nguồn fb: Tuấn Mai SG

Bài sưu tầm


 

 BẢN LĨNH MỘT NGƯỜI CẦN HỌC ĐƯỢC TRONG CUỘC ĐỜI

Gieo Mầm Ơn Gọi

 BẢN LĨNH MỘT NGƯỜI CẦN HỌC ĐƯỢC TRONG CUỘC ĐỜI

Trong hành trình sống, ai cũng mong muốn có một cuộc đời vững vàng, không bị cuốn trôi bởi sóng gió. Nhưng để làm được điều đó, điều quan trọng nhất chính là bản lĩnh – thứ không ai cho sẵn, mà phải tự mình rèn luyện.

Bản lĩnh đầu tiên cần có là dám đối diện sự thật. Cuộc sống không phải lúc nào cũng màu hồng. Có những lúc thất bại, sai lầm, mất mát khiến ta muốn trốn tránh. Nhưng người có bản lĩnh sẽ thẳng thắn nhìn vào sự thật, chấp nhận nó để trưởng thành.

Bản lĩnh thứ hai là kiểm soát cảm xúc. Nhiều người dễ bị nóng giận, nản chí, hoặc quá vui mà mất tỉnh táo. Nhưng cảm xúc không được quản lý sẽ biến ta thành nô lệ của nó. Người mạnh mẽ là người biết giữ bình tĩnh, biết khi nào nên im lặng, khi nào nên hành động.

Bản lĩnh tiếp theo là kiên trì theo đuổi mục tiêu. Con đường đi đến thành công chưa bao giờ bằng phẳng. Thử thách, sự chê bai, những lời nghi ngờ từ người khác sẽ khiến ta dễ nản. Nhưng nếu không kiên định, ta sẽ mãi đứng yên. Hãy nhớ: sự khác biệt lớn nhất giữa người thành công và người bỏ cuộc nằm ở sự kiên trì.

Bản lĩnh cũng là dám sống thật với chính mình. Trong xã hội đầy áp lực và so sánh, nhiều người chọn sống theo tiêu chuẩn của người khác. Nhưng nếu cứ chạy theo ánh mắt thiên hạ, ta sẽ đánh mất bản thân. Người có bản lĩnh sẽ hiểu rõ mình là ai, muốn gì, và sống theo đúng giá trị của chính mình.

Cuối cùng, bản lĩnh lớn nhất chính là biết đứng dậy sau thất bại. Không ai thành công mà không từng gục ngã. Nhưng điều đáng quý là sau mỗi lần ngã, ta học thêm một bài học, ta đứng dậy mạnh mẽ hơn, trưởng thành hơn.

Cuộc đời không cần ta hoàn hảo, nhưng cần ta có bản lĩnh. Vì bản lĩnh không chỉ giúp ta vượt qua bão tố, mà còn giúp ta sống một đời đáng tự hào.

St


 

Yêu thương và tha thứ – Phùng Văn Phụng

Yêu thương và tha thứ

Bài này đặc biệt gởi cho học trò cũ, vì lúc còn ở Việt Nam cũng như khi qua Mỹ đã làm việc cật lực, đã hy sinh, lo lắng, giúp đỡ rất nhiều cho các em. Các em không biết sự hy sinh đó và đã có những lời nói xúc phạm đến em học trò đó. Từ đó, mấy năm nay rồi, sự xung đột với các em và người cha (vì binh vực các em) vẫn còn âm ỉ, chưa chấm dứt, nên em không ngủ được và bị stress nhiều.

Mời em đọc bài này dầu cũ, nhưng cũng có thể giải tỏa tâm tư, tình cảm của em và lấy SỰ THA THỨ, YÊU THƯƠNG, thực hành lời dạy của thầy Chí Thánh là Đức Giêsu Kitô để đời sống hiện tại vui vẻ, BÌNH AN tìm lại được sự THANH THẢN của tâm hồn trong đời nay và HẠNH PHÚC Vĩnh Cửu ở đời sau, rồi chúng ta sẽ gặp lại trong ngày sau hết.(Kinh Tin Ki’nh)

********

Yêu thương và tha thứ

 Trong một cuộc phỏng vấn giữa hằng mấy ngàn bác sĩ y khoa với câu hỏi:

Trong số các bệnh nhân đến phòng mạch bác sĩ trong tuần, có bao nhiêu phần trăm bác sĩ thấy mình có đủ khả năng để điều trị cho họ?

Câu trả lời bất ngờ, bất ngờ đến kinh ngạc.

Các bác sĩ trả lời rằng: Trong số 100 bịnh nhân thì chỉ có độ 10 người là chúng tôi nghĩ mình có đủ khả năng điều trị thôi! Còn 90 bệnh nhân kia cũng là những ngườí đau ốm thực sự. Nhưng bệnh của họ không phải là thứ bệnh về thể lý mà về tâm lý.

Bệnh họ là tâm bệnh không thể điều trị theo phương pháp y khoa.

Cội rễ cơn bệnh của họ là LÒNG GIẬN DỮ, HẰN THÙ, GHEN GHÉT và những điều khác như vậy.

Về các vấn đề như thế, chúng tôi, giới y sĩ đã không được dạy và chuẩn bị để đối phó khi còn đi theo học ở nhà trường y khoa”. Trích lịch phụng vụ Nhâm Dần 2022 (trang 125-126)

*Đa số người bịnh do tâm lý mà ra. Do thù hằn, ghen ghét, giận dữ, bất mãn người khác thành ra tâm hồn không ổn định, sinh ra mất ngủ, đau đớn về thể xác và đau đớn về tâm hồn, mà đau đớn về tâm hồn mới là quan trọng, sinh ra đủ thứ bịnh tật ung thư, đau dạ dày, trầm cảm v.v…

Cho nên để có thể được mạnh khỏe về thể xác hầu có tâm hồn vui vẻ, thoải mái nên đọc và thực hành thường xuyên Kinh Hòa Bình của Thánh Phanxicô dạy rằng: “Đem yêu thương vào nơi oán thù, Đem thứ tha vào nơi lăng nhục. Đem an hòa vào nơi tranh chấp…”

*Dụ ngôn người Cha nhân lành, yêu thương người con thứ, sau khi đứa con hư hỏng này tiêu hết nửa gia tài của người cha, trở về xin cha tha thứ làm cho chúng ta liên tưởng đến lòng thương yêu vô tận của Cha trên trời đối với chúng ta nếu chúng ta biết yêu thương, tha thứ, chúc phúc, cầu nguyện cho những người đã ngược đãi chúng ta. (Lc15,1-3 và 11-32)

Yêu thương, tha thứ không dễ dàng đâu. Nhưng nếu chúng ta cầu nguyện thật nhiều xin Chúa giúp sức, trông cậy vào Chúa thì chúng ta có thể làm được, vì sao vậy?

Vì nếu chúng ta không yêu thương và tha thứ cho người khác, (người đã làm hại chúng ta), thì người thiệt thòi trước tiên là chúng ta. Nếu chúng ta nuôi hận thù, điều trước tiên chúng ta chịu đựng là ăn không ngon, ngủ không yên. Thời gian dài mất ngủ sẽ sinh ra bịnh hoạn, được gọi là tâm bịnh. Tâm bịnh thì không có thuốc thang nào chữa được.

*Rũi ro khi ra đi với tâm trạng không yên, lòng chất chứa hận thù thì làm sao linh hồn ta thanh thoát, bình an được?

Muốn có thiên đàng trần thế này và thiên đàng vĩnh cửu mai sau không còn cách nào khác là thực tập yêu thương, tha thứ mỗi ngày.

Phùng Văn Phụng

CÁI GIÁ CỦA TUYÊN TRUYỀN NHỒI SỌ – Dương Quốc Chính

THÔNG LUẬN

Dương Quốc Chính

Trước đến giờ đảng ta vẫn có bài tuyên truyền nhồi sọ. Chơi kiểu ấy là chơi dao 2 lưỡi. Bởi vì đến ngày nào đó, vì sự phát triển, vì ngoại giao hay vì lý do nào đó, muốn cho nhân dân được biết sự thật trái ngược với nội dung đã tuyên truyền thì cực kỳ khó, cần có 1 độ trễ rất lâu, có thể đến hàng chục năm, để tuyên truyền ngược trở lại. Nó giống như cái cành cây bị uốn cong từ bé cho “đẹp” bởi “nghệ nhân cây cảnh”, muốn uốn thẳng lại cho tự nhiên rất mất công, vớ vẩn là gẫy cành.

Ví dụ như ngày thành lập đảng ban đầu là 6/1, sau 30 năm mới đổi sang 3/2. Chuyện đó không đến nỗi nhạy cảm nhưng cũng phải chờ cho thế hệ lãnh đạo đảng đầu tiên chết vãn rồi mới dám thay đổi. Không lẽ 30 năm mới biết là nhầm ngày, trong khi chính bác mình chủ trì việc thành lập đảng chứ ai?!

Hay chuyện anh Tám Lê, giờ cũng chả dám công bố sự thật, cứ lẳng lặng kệ mẹ bọn PĐ tuyên truyền cho dân biết. Đảng im, sợ dân sốc.

Rồi chuyện xe tăng nào vào dinh Độc lập đầu tiên nữa. Trót chỉ đạo cho lãnh đạo có công to nhất rồi, giờ đổi công lại cho ông lính thì phức tạp quá. Hóa ra lãnh đạo cướp công của lính? Thôi đành vùi sâu chôn chặt. Ai ngờ bọn nhà báo cứ chọc thối, nên đành công bố sự thật.

Hay như việc công bố ngày bác Hồ chết, nó không hề nhạy cảm khi nói ra sự thật. Nhưng cũng phải mất 20 năm mới dám công bố sự thật, đó cũng là sau đổi mới, tư tưởng cũng đã cởi mở hơn.

Chuyện phức tạp hơn nhiều lần là duy trì việc ướp xác. Bao năm nay đã tuyên truyền về việc PHẢI ướp xác rồi, giờ muốn thiêu là cực kỳ khó, bởi đồng bào quen với việc đi viếng lăng rồi, lại càng quen với việc sùng bái cá nhân bác. Nên giờ đố ông quan đương chức nào dám mở mồm đòi thực hiện đúng di nguyện của CT HCM. Thế nên chắc các ông đương mới phải xúi các ông cựu/hưu trí nói ra chuyện đó. Vừa rồi có ông Bin (cựu thứ trưởng) và ông Nghị (cựu bí thư HN). Nhưng mà các báo chính thống cũng ko dám đăng tin. Như kiến nghị của ông Nghị chỉ có tạp chí Xưa và Nay của Hội KH Lịch sử dám đăng. Mà TC đó có mấy ai đọc đâu. Bần nông và mấy ông CCB vào sinh ra tử mà đọc được thì sẽ đào cả mả bố tổng biên tập lên.

Tương tự vậy, về danh xưng “Ngụy”. Mình đoán thực tâm thì đảng và Tuyên giáo cũng muốn bỏ từ đó lâu rồi, thực tế báo chí CM mấy năm nay không còn dùng phổ biến nữa. Thể hiện rõ nhất khi viết về đám tang ông Nguyễn Hữu Hạnh vừa rồi, KHÔNG 1 tờ báo nào dám dùng từ Ngụy nữa. Kể cả báo đảng từ TƯ đến địa phương.

Nhưng đảng cũng chả dám ra 1 văn bản chính thức nào về việc từ bỏ danh xưng “Ngụy” để chỉ VNCH. Vì trót nhồi sọ nhân dân lâu quá rồi, bây giờ mà ra văn bản đấy, khéo bò đỏ nó biểu tình chứ chả phải mít tinh nữa đâu. Thế nên đảng mới chơi bài lẳng lặng xúi anh em sử gia sửa lại quốc sử, xóa chữ Ngụy đi. Vụ đấy chăm chăm là có chỉ đạo từ BCT, chứ bố các anh sử gia dám tự tiện. Nhưng mà đảng chơi thế cũng hèn, dám chơi mà không dám chịu, đảng ăn ốc mấy chục năm, giờ đẩy anh em sử gia đổ vỏ, làm cờ đỏ cho bò đỏ húc! Khổ thân anh em, cũng không dám nói ra với bò là bọn tao cũng đã được chỉ đạo rồi, đành đấu khẩu với bỏn. Mà gì thì gì, người húc nhau với bò thì chỉ có thiệt thân.

Việc bỏ khái niệm Ngụy là tất yếu phải làm, lý do cơ bản nhất là để có lý lẽ mà đòi HS TS (mình đã trích dẫn bài viết của Tạp chí Lý luận chính trị, cơ quan ngôn luận của HV Chính trị quốc gia HCM, chỗ đào tạo ra cả TBT và các UV BCT). Bài viết này ngang nhiên công nhận chế độ QGVN và VNCH, cũng ngang nhiên tồn tại mấy năm nay, không bị gỡ, đó chính là sự khẳng định về nhận định bên trên của mình.

Thực tế là thế nhưng tẩy não bò là vô cùng khó, chính đảng cũng phải sợ lũ này, nhất là mấy bố tướng tá, cậy dây tý máu giờ vỗ ngực công thần, nhận mình có chính nghĩa hơn cả đảng!

Mình có xem clip mấy ông tướng và 1 ông TS bò đỏ đòi gặp cả TBT để kiến nghị, bức xúc về việc bỏ từ Ngụy. TBT cáo bận, trưởng ban Tuyên giáo cáo bận, đẩy cmn cho anh Đam phó thủ ra tiếp bò! Đấy là đảng sợ mà đẩy chú phỉnh ra làm cao bồi. Xem clip đó buồn cười phết. Anh Đam dĩ nhiên không tự tin về lịch sử nên phải ngồi với anh gì GS TS Lịch sử, các anh vuốt ve xoa dịu, vuốt mông đàn bò. Đại khái là: “Mình bỏ từ Ngụy đi thôi, để còn dễ ăn nói với bạn bè quốc tế, chứ bản chất bọn kia vẫn là Ngụy mà, anh em cứ yên tâm, chỉ thay đổi cái danh xưng thôi.”

Anh em bò hỉ hả ra về ca khúc khải hoàn. Nhưng mà anh em sử gia vẫn kệ cm bỏn, vẫn chém oang oang là đéo có Ngụy ngiếc gì cả sất, báo chí CM vẫn cứ “quân lực VNCH” với “chính quyền VNCH”, coi bọn bò đúng là bọn bò.

Vừa rồi, chương trình Đối diện của VTV lúc lên sóng cho ông tướng chém gió chửi Ngụy, được đúng 1 hôm là xóa cmn luôn khỏi clip online. Đấy minh chứng của Tuyên giáo có coi bò ra gì đâu. Nhưng mà hèn, đếch dám ra mặt, chơi kiểu vừa đấm vừa xoa. Anh em bò đỏ lại lên cơn bức xúc làm đơn từ kiến nghị với anh Minh VTV, đòi phục hồi clip, mà có ăn thua đâu, bố anh Minh cũng chả dám phục hồi, khéo còn bị kiểm điểm rồi ý!

Anh em bò đỏ hiện đang lập team đấu tố bọn GS lật sử, đòi đốt Ngụy sử mới hài, mấy năm nay CM vẫn chưa thành công!

Điều nguy hiểm nữa khi nuôi bò đỏ, đó là 1 ngày đẹp trời bỏn giác ngộ CM, biết được sự thật. Thế là bỏn chạy từ thái cực này sang thái cực khác, quay ra chửi đảng như chó, vì đảng bịt mắt bịt tai, lừa bịp nó mấy chục năm! Bọn ấy mới manh động, dám giết đảng luôn, vì vẫn còn bầu nhiệt huyết trong người, ưa bạo lực CM.

Tóm lại là đảng nên bỏ cái kiểu tuyên truyền nhồi sọ đi được rồi, có bẻ lái thì cũng bẻ độ 90 độ thôi, chứ cua tay áo nó nguy hiểm lắm. Rồi lộng giả thành chân. Đảng có muốn tuyên truyền lại cho đúng sự thật cũng đếch ai tin đảng nữa. Rồi chính lũ bò do đảng tạo ra sẽ quay lại húc đảng, nếu đảng muốn đổi mới, muốn hòa hợp dân tộc, muốn bắt tay với Mỹ để phát triển đất nước và bảo vệ lãnh thổ (chính là để bảo vệ đảng).

Chính anh em bò đỏ đang là lực cản lớn nhất để đảng thay đổi. Mà cản trở thế chính là chống đảng, chống lại sự phát triển, mà đảng cũng sợ, đếch dám làm thịt bỏn, vì chính mình tạo ra bỏn. Giờ đi mắc núi về mắc sông, nên cải cách rất chi là từ từ, còn chờ bò chết già.

https://www.facebook.com/chinh.duong.quoc.kts


 

Tìm đâu ra những người biết đau và biết nhục

Ba’o Tieng Dan

Trần Trung Đạo

7-10-2025

Milovan Djilas là nhà nghiên cứu lý thuyết Cộng sản và từng là ủy viên Bộ Chính trị đảng Cộng sản Nam Tư, Phó Chủ tịch Nhà nước Cộng sản Nam Tư, Chủ tịch Quốc hội Cộng sản Nam Tư. Sau khi phản tỉnh ông viết trong tác phẩm Giai Cấp Mới: Một phân tích về hệ thống Cộng sản, xuất bản năm 1957 như sau:

Trong một thời gian dài, đảng Cộng sản cố tình che giấu bản chất của mình. Quá trình hình thành của giai cấp mới không chỉ được che đậy bằng những thuật ngữ xã hội chủ nghĩa mà quan trọng hơn bằng hình thức sở hữu mới, sở hữu tập thể … Bản chất giai cấp của hình thức sở hữu này được che đậy bằng bình phong quyền lợi của toàn dân tộc“. (Giai Cấp Mới, Phạm Minh Ngọc dịch theo bản tiếng Nga, Talawas, 2005).

Cũng trong tác phẩm Giai Cấp Mới, Milovan Djilas viết: “Năm 1936, nhân dịp công bố Hiến pháp mới, Stalin tuyên bố rằng ở Liên Xô đã không còn giai cấp bóc lột, nhưng trên thực tế người ta không chỉ thực hiện xong quá trình thủ tiêu các nhà tư sản và các giai cấp khác của chế độ cũ mà còn thiết lập một giai cấp hoàn toàn mới, chưa từng có trong lịch sử”.

Nhưng câu này của Milovan Djilas mới là chí lý: “Các lãnh đạo Cộng sản xử lý tài sản quốc gia như của riêng họ, nhưng đồng thời họ cũng lãng phí nó như thể nó là của người khác”.

Thời gian dài trôi qua từ khi tác phẩm ra đời nhưng bản chất của chế độ Cộng sản tại năm nước Cộng sản còn lại, trong đó có Việt Nam, vẫn đúng như Milovan Djilas nhận xét.

“Giai cấp mới” hình thành sau cuộc “đấu tranh giai cấp” tại các nước cộng sản, trong đó có Việt Nam. “Giai cấp mới” nắm giữ toàn bộ quyền lực. Tài sản xã hội trở thành tài sản của “giai cấp mới” này.

Sự tiêu pha và lãng phí của họ đã làm cho Việt Nam, một đất nước nhiều tiềm năng, thành là một nước nghèo so với tiêu chuẩn phát triển chung của thế giới. Các thế hệ Việt Nam đã đổ mồ hôi, nước mắt và cả máu để nuôi dưỡng “giai cấp mới” hoàn toàn không làm một việc gì hữu ích cho xã hội ngoài hút máu dân tộc Việt.

Khái niệm “nhân dân làm chủ” chỉ là một chiếc bình phong để “giai cấp mới” toàn quyền sử dụng tài sản của đất nước như của chính mình, cũng như có toàn quyền lãng phí tài sản đất nước như không phải của mình.

“Giai cấp mới” hình thành bằng phương tiện “bạo lực cách mạng”. Cha đẻ của phương tiện này là Lenin và Felix Dzerzhinsky. Lenin khai triển quan điểm “đấu tranh giai cấp” của Marx trong Tuyên ngôn Đảng Cộng sản nhưng Felix Dzerzhinsky mới là người áp dụng một cách tàn bạo để tiêu diệt mọi mầm mống đối kháng tại Nga sau 1917.

Sergei Melgunov, một sử gia Nga nổi tiếng, chủ bút của tạp chí Tiếng vọng từ Quá khứ (Voice of the Past) và tác giả của nghiên cứu Khủng Bố Đỏ tại Nga 1918-1923 (The Red Terror in Russia 1918-1923) được in lần đầu tại Đức năm 1924, cho biết, danh từ “Red Terror” không phải là tiếng để báo chí hay dân chúng ám chỉ tội ác của Felix Dzerzhinsky hay kết án y, mà danh từ do chính Dzerzhinsky thừa nhận và cơ quan an ninh Cheka đã dùng trong các tài liệu chính thức của tổ chức.

Trong tài liệu của Cheka, mục đích của tổ chức này là “tận diệt mọi kẻ thù của giai cấp vô sản”.

Không riêng đàn ông mà vợ con những người tình nghi là phản cách mạng cũng bị giết. Trong nhiều trường hợp, trẻ em bị xử bắn trước sự chứng kiến của cha mẹ nhưng cũng có khi cha mẹ bị xử bắn trước mắt con cái còn rất nhỏ của họ.

Dzerzhinsky công khai thừa nhận và ủng hộ phương pháp khủng bố: “Chúng ta ủng hộ khủng bố có tổ chức. Khủng bố là một điều cần thiết trong thời kỳ cách mạng. Mục tiêu của chúng ta là chiến đấu chống kẻ thù của Chính quyền Xô Viết và trật tự sống mới. Chúng ta kết án nhanh chóng. Trong hầu hết trường hợp, chỉ cần một ngày, giữa bắt giữ kẻ phạm tội và xử án”.

Do đó, không lạ gì tượng Dzerzhinsky được dựng tại Việt Nam.

Lễ khánh thành tượng Dzerzhinsky ở Hà Nội. Nguồn: Học viện Cảnh sát Nhân dân VN

Milovan Djilas viết về bản chất, nguồn gốc lịch sử hình thành nên “giai cấp mới” nhưng ông có thể đã sót một đặc điểm quan trọng, “giai cấp mới” còn gồm những con người ích kỷ, vô lương tâm và vô cảm.

Mấy năm trước, nhìn bức hình các bà cụ đứng trong cơn mưa tầm tã để nhận một “bằng khen” trong khi chiếc dù duy nhất được dùng để che cho Nguyễn Xuân Phúc để thấy sự băng hoại, thối rữa về đạo đức trong xã hội Việt Nam ngày nay trầm trọng đến mức độ nào.

Nguồn: Internet

Thời gian đó nếu ai phê bình ông Nguyễn Xuân Phúc, có thể bị kết án 15 năm tù dù hôm nay cả nước đều biết các ông Nguyễn Xuân Phúc, Võ Văn Thưởng, Vương Đình Huệ v.v.. là ai.

Tham nhũng dưới chế độ Cộng sản không phải phát xuất từ bản chất tham lam của một số người ở đâu cũng có thể có.

Tham nhũng tại Việt Nam có tính đảng vì chính đảng Cộng sản tạo môi trường cho tham nhũng sinh sôi, nuôi dưỡng tham nhũng lớn và tạo điều kiện để tham nhũng hoành hành.

Đối diện với tầng lớp cai trị, bộ máy tuyên truyền và bạo lực trấn áp khủng khiếp và thường trực của chế độ Cộng sản đã biến phần lớn người Việt thành một tầng lớp chỉ biết phục tùng vì mất hết khả năng chống đối.

Trời hành họ còn biết kêu trời nhưng đảng hành thì không ai dám kêu đảng. Nhà tù đang chờ họ. Trấn áp đang chờ họ. Chết đói, chết khát đang chờ họ. Bộ máy kìm kẹp của đảng Cộng sản siết chặt đến mức làm tê liệt ý thức phản kháng của con người. Họ lầm lũi như đoàn nô lệ da đen đi tìm một nơi để gọi quê hương.

Suốt thời gian chịu đựng Covid, hàng triệu người dân phải đã trở về trong căn nhà trơ trọi và bên ngoài mùa mưa đang đến, nước lụt đang dâng. Có tiếng than, tiếng khóc nửa đêm nhưng tuyệt nhiên không có tiếng trả lời hay an ủi.

Nhưng rồi đại dịch qua đi, những người dân bất hạnh lại sẽ vào thành phố tìm đường sống vì không còn gì để sống trên nơi chôn nhau cắt rốn. Và cứ thế, cuộc đời của tầng lớp người bị trị tại Việt Nam sẽ bị vùi dập trong trầm luân thống khổ cho đến chết.

Tìm ra những người biết đau và biết nhục tại Việt Nam rất khó nhưng phải tìm cho ra. Bởi vì, bài học từ các nước bị độc tài cai trị cho thấy, chính những người biết đau và biết nhục đã thay đổi vận mệnh đất nước họ.

Việt Nam có thể còn khá lâu nhưng nguyên lý không thay đổi, chỉ có những người biết đau, biết nhục mới thay đổi được vận mệnh Việt Nam.