MIỀN TRUNG CHÌM TRONG BIỂN NƯỚC, NHIỀU NGƯỜI CHẾT VÀ MẤT TÍCH

BBC News Tiếng Việt 

Khoảng 128.000 ngôi nhà ở miền Trung đang chìm trong nước lũ, và đã có ít nhất 18 người chết và mất tích khi mưa lớn gây lũ lụt hoành hành khu vực này trong những ngày qua.

 (Photo by NHAC NGUYEN/AFP via Getty Images)

Thông tin này được Cục Quản lý Đê điều và Phòng chống Thiên tai, thuộc Bộ Nông nghiệp và Môi trường, đưa ra vào sáng 30/10.

Dù mưa đêm 29/10 đã giảm, lũ sông Thu Bồn (Đà Nẵng) vẫn ở mức cao, và từ nay đến đêm 31/10, khu vực từ Nghệ An đến Đà Nẵng tiếp tục có mưa.

Khoảng 2h sáng nay, lũ trên sông Thu Bồn ở mức 5,62m, trên báo động 3 là 1,62m, vượt lũ lịch sử năm 1964 là 0,14m.

Hiện khoảng 90 xã, phường vẫn đang ngập sâu, hàng trăm ngôi nhà bị lũ cuốn trôi, sập hoặc hư hỏng; 20 tuyến quốc lộ ách tắc vì ngập, sạt lở, và nhiều chuyến tàu khách trên tuyến Hà Nội – Sài Gòn – Huế – Đà Nẵng buộc phải tạm dừng.

Getty Images: Ảnh chụp tại Hội An hôm nay 30/10

#BBCTiengViet –  #Lulut

(Photo by NHAC NGUYEN/AFP via Getty Images)

 

 KIẾP BỤI TRO – Trầm Thiên Thu

Thuy Phan

Trầm Thiên Thu

Không chỉ trong Mùa Chay, mà cả đời người Công giáo luôn phải ghi nhớ thực-tế-thật này: “Ngươi là bụi đất và sẽ trở về bụi đất” (St 3:19).

Tuy không là Kitô hữu, nhưng nhạc sĩ Trịnh Công Sơn cũng chân nhận kiếp người chẳng là gì trong ca khúc “Cát Bụi”, với lời lẽ: “Hạt bụi nào hóa kiếp thân tôi, để một mai vươn hình hài lớn dậy…  Hạt bụi nào hóa kiếp thân tôi, để một mai tôi về làm cát bụi…  Bao nhiêu năm làm kiếp con người chợt một chiều tóc trắng như vôi, lá úa trên cao rụng đầy, cho trăm năm vào chết một ngày…  Mặt trời nào soi sáng tim tôi, để tình yêu xoay mòn thành đá cuội… Ôi cát bụi phận này, vết mực nào xóa bỏ không hay.”

Ca từ da diết trong giai điệu trầm lắng.  Triết lý kiếp người là sự yếu đuối, mỏng dòn, bất túc, bất trác,… vì kiếp người chỉ là cát bụi, là bụi tro, là bụi cát, là bụi đất – không được là hạt cát hoặc hạt đất, mà chỉ là hạt bụi quá bé nhỏ!

Cũng với nỗi niềm về thân phận con người, nhạc sĩ Lê Dinh đã trải tâm sự qua ca khúc “Trở về Cát Bụi” (*), ca từ rõ ràng hơn và gần gũi với tư tưởng Công giáo: “Sống trên đời này, người giàu sang cũng như người nghèo khó.”  Tất cả những gì chúng ta sở hữu và tận hưởng đều không do tài năng của mình, vì thế mà phải chân nhận tích cực: “Trời đã ban cho, ta cám ơn trời, dù sống thương đau.”  Tất cả đều là Hồng Ân Thiên Chúa, Ngài CHO hay LẤY LẠI là quyền của Ngài, chúng ta không thể đòi hỏi, vả lại rồi ai cũng “trắng tay” như nhau: “Mai kia chết rồi, trở về cát bụi, giàu khó như nhau, nào ai biết trước số phận ngày sau ông trời sẽ trao.”  Số phận mai sau là do mình quyết định qua cách sống trên trần gian này: Được hưởng phúc trường sinh, hoặc chịu án phạt đời đời.

Nhạc sĩ Lê Dinh có cách lý giải bình dân mà vẫn thâm thúy: “Này nhà lớn lầu vàng son, này lợi danh, chức quyền cao sang, có nghĩa gì đâu, sao chắc bền lâu, như nước trôi qua cầu.”  Tất cả sẽ qua như “nước trôi qua cầu” mà không thể lấy lại.  Thế mà người ta vẫn vênh vang tự đắc khi sống ung dung hơn người khác, nhưng Chúa Giêsu nói rõ: “Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước Trời là của họ” (Mt 5:3).  Vậy người giàu đừng vội “hãnh diện,” còn người nghèo đừng quá “tủi thân.”  Thiên Chúa nói là làm.  Chắc chắn như vậy.  Nhưng ngày nay chưa ai biết, quan trọng là kiếp sau!

Về vật chất đã vậy, về tinh thần cũng thế.  Tất cả đều giả dối: “Này lời hứa, này thủy chung, này tình yêu, chót lưỡi đầu môi cũng thế mà thôi, sẽ mất ngày mai như áng mây cuối trời.”  Cái CÓ mà như KHÔNG, cái KHÔNG mà như CÓ.  Ngay cả lời hứa tưởng chừng “chắc chắn” mà cũng chỉ như “mây cuối trời,” mà mây thì luôn di động, thay đổi thất thường.  Người ta gọi là “hứa cuội.”  Vui cười chỉ trong thoáng chốc, nỗi buồn lo cứ đằng đẵng theo tháng ngày.  Tiệc cưới một ngày mà vui được bao nhiêu phút?  Tết cả ba ngày mà vui được bao lâu?  Thực tế phũ phàng đó có giúp chúng ta cảm nghiệm được gì về tâm linh chăng?  Ý Chúa muốn gì qua các biến cố cuộc đời – dù lớn hay nhỏ?

Nhạc sĩ Lê Dinh nói về cuộc đời và nhắc nhở mọi người, nhất là với người giàu: “Sống trên đời này tựa phù du có đây lại rồi mất, cuộc sống mong manh, xin nhắc ai đừng đổi trắng thay đen.  Nào người sang giàu, đừng vì tham tiền, bỏ nghĩa anh em.  Người ơi, xin nhớ cát bụi là ta, mai này chóng phai.”  Thánh Gióp đã từng nhận thức rất rõ: “Thân trần truồng sinh từ lòng mẹ, tôi sẽ trở về đó cũng trần truồng” (G 1:20).  Thế nên, dù mất tất cả và bản thân cũng bệnh tật đau đớn, ngài vẫn không than trách và vẫn tạ ơn Chúa.  Một tấm gương sáng ngời để chúng ta cố gắng noi theo!

Lời nhắc nhở đó được lặp đi lặp lại ở phần kết (coda), cũng là lời xoáy sâu vào tâm khảm của mỗi chúng ta: “Người nhớ cho ta là cát bụi, trở về cát bụi, xin người nhớ cho!”  Nốt kết không ở chủ âm mà ở át âm, cứ lơ lửng, cứ ngân vang, như lời nhắc nhở không ngừng và mỗi người phải suy nghĩ đêm ngày, nhất là trong Mùa Chay này…

Kinh thánh đã so sánh rất cụ thể: “Con tim của anh là tro bụi, hy vọng của anh hèn hơn đất, cuộc đời của anh tệ hơn bùn” (Kn 15:10).  Quả thật, thân phận con người chẳng là gì cả.  Vì thế, hãy bắt chước Thánh Phaolô: “Nếu phải tự hào, tôi sẽ tự hào về những yếu đuối của tôi” (2 Cr 11:30).

Đã bao lần chúng ta chứng kiến những người thân nhất của mình “ra đi,” dù y học có tân tiến đến đâu và các thầy thuốc có cố gắng hết sức thì cũng vẫn đành “bó tay” trước lưỡi hái của Tử Thần.  Họ nhắm mắt và xuôi tay, một đi không hẹn trở lại, và đã bao lần chúng ta tiễn đưa người khác ra nghĩa trang.  Đất lấp đầy huyệt là xong một kiếp người!  Chúng ta suy nghĩ điều gì?

Lá cứ rụng, dù xanh hay vàng.  Nhưng với người Công giáo, chết không là hết, mà chỉ là biến đổi (1 Cr 15:51), vì “chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời” (Thánh Phanxicô Assisi).  Chúng ta tin sẽ được sống lại trong ngày sau hết, đó là niềm tin chắc chắn, không mơ hồ hoặc ảo tưởng, thế nên chúng ta vẫn dâng lời cảm tạ: “Muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương” (Tv 118; Tv 136).

Lạy Chúa, xin thương xót những tội nhân chúng con, xin giúp chúng con can đảm chết với Con Chúa để có thể được đồng phục sinh vinh quang. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên Chúa làm người cứu độ chúng con, hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn đời. Amen.

Trầm Thiên Thu

Nguồn: Mạng lưới cầu nguyện


 

SAU TINH GỌN: CẤP PHÓ MỌC NHƯ NẤM SAU MƯA

Người ta nói sáp nhập để tinh gọn bộ máy, giảm biên chế, tiết kiệm ngân sách và tăng hiệu quả quản lý. Nhưng ở Việt Nam, cái gọi là “tinh gọn” lại đang phình ra. Càng sáp nhập, bộ máy càng đồ sộ, số cấp phó càng sinh sôi như nấm sau mưa.

Chỉ riêng con số 9 Phó Thủ tướng đã đủ

khiến người ta choáng váng. Một quốc gia không quá lớn về diện tích, dân số, cũng chẳng phải nền kinh tế đầu tàu thế giới, lại có số Phó Thủ tướng nhiều gấp ba, gấp bốn so với các nước phát triển.

Thế nhưng, nghịch lý ấy không dừng ở cấp trung ương. TP.HCM, Sở Tài chính có đến 18 phó giám đốc, một “đội hình” mà nếu xếp ghế họp thôi cũng phải mất nửa ngày.

Một đất nước với ngân sách còn phải chắt chiu từng đồng cho giáo dục, y tế, an sinh, lại chi hàng nghìn tỷ mỗi năm để trả lương cho các “ông phó”. Những con người mà đôi khi, chức danh nhiều hơn cả công việc thực tế.

Sáp nhập mà không giảm ai, chỉ đổi tên ghế, thì đó không phải là tinh giản, mà là tái sinh bộ máy cồng kềnh trong hình hài mới. Một bộ máy mà số phó ngang ngửa số dân thế này thì dân trả lương sao cho nổi?

Hiểu Lam


 

TƯỞNG NIỆM MỘT CON NGƯỜI CHÍNH TRỰC…-LÊ NGUYỄN

Sau 54 năm ngày mất của một con người chính trực mang tên Ngô Đình Diệm, người dân miền Nam không bao giờ quên 9 năm ngắn ngủi dưới chính thể Đệ nhất Cộng hòa mà đời sống kinh tế luôn vững vàng, ổn định. Đặc biệt hơn cả, ngày nay, những thế hệ sinh ra từ gần một triệu người miền Bắc di cư vào Nam cần hiểu rõ những gì cha ông mình đã trải qua, đã được chính thể Ngô Đình Diệm đối xử như thế nào. 

 Theo những con số thống kê chính thức vào năm 1956, dân số miền Nam chỉ có 12, 366 triệu người, như vậy, trước khi tiếp nhận đồng bào di cư từ miền Bắc vào, dân số miền Nam chưa đến 11,5 triệu người. Vậy mà, vào những năm 1954-1955, ông Diệm và bộ tham mưu của ông đã lo chu toàn cho cuộc sống của thêm gần một triệu người vượt cả ngàn cây số để vào Nam. Ông cho thành lập ba Phủ Tổng ủy quan trọng đặc trách những vấn đề liên quan đến đồng bào di cư miền Bắc. Phủ Tổng ủy Di cư lo tiếp nhận đồng bào mới đến, ổn định tạm thời cuộc sống của họ; Phủ Tổng ủy Dinh điền phụ trách thành lập các khu dinh điền, khu trù mật tại những địa phương còn nhiều đất rộng, chưa canh tác hết, để đưa đồng bào đến định cư lâu dài; và Phủ Tổng ủy Hợp tác xã và Nông tín nhằm cung cấp tín dụng hỗ trợ đời sống của đồng bào các khu dinh điền, khu trù mật, giúp họ có vốn liếng canh tác làm ăn trong khuôn khổ các hợp tác xã được lập ra vì mục đích công ích. 

 Vào thời điểm đó, nhiều khu vực hoạt động tốt, đời sống người dân ổn định và ngày càng phát triển, như khu định cư Hố Nai, Biên Hòa, khu trù mật Hậu Mỹ, quận Cái Bè, khu trù mật Vị Thanh – Hỏa Lựu thuộc tỉnh Chương Thiện, tách ra từ các tỉnh Phong Dinh (Cần Thơ), Kiên Giang (Rạch Giá)… 

 Đặc biệt khu dinh điền Cái Sắn nằm trong phạm vi hai tỉnh Kiên Giang và An Giang (Long Xuyên), mỗi gia đình được cấp một khoảnh đất ngang 100 mét, dài một cây số, day mặt ra một con kênh đào, cứ hai nhà đâu lưng nhau giữa 2 con kênh đào cách nhau 2 cây số. Để có một khu vực vuông vắn như thế, chính quyền đã phải di dời nhiều hộ dân địa phương, phần lớn theo đạo Hòa Hảo, đến nơi khác, đất không tốt bằng. Song do chính sách đúng đắn nhằm hỗ trợ đồng bào di cư, không dính dáng gì đến quyền lợi cá nhân hay bè phái, đồng bào địa phương sẵn lòng hi sinh một phần quyền lợi riêng của họ. Năm 1968, khi tôi xuống tham gia chính quyền ở quận Kiên Tân, tỉnh Kiên Giang, trong đó có phần lớn khu dinh điền Cái Sắn, từ kênh 1 đến kinh 10, đồng bào di cư Cái Sắn đã có của ăn, của để, lúa thóc đầy bồ, tắc-ráng (loại xuồng máy đuôi tôm nhỏ) chạy ngang dọc các kinh đào như đi trẩy hội. 

 Những năm tháng khó khăn ban đầu, vừa ổn định chính trị, vừa bình định các tổ chức vũ trang chống đối quyết liệt (Bình Xuyên, Hòa Hảo, Cao Đài…), vừa tiếp nhận và lo cho cuộc sống của hàng triệu đồng bào chân ướt chân ráo vào Nam, nếu không có những bộ óc sáng suốt, vì dân, và một đội ngũ công chức biết xả thân vì đại cuộc, miền Nam không thể nào có một bộ mặt ổn định 9 năm liền. 

 Trong những ngày qua, trên một vài trang Facebook, một số bạn trẻ bị đầu độc bởi những thứ văn hóa phẩm “bưng bô”, xuyên tạc, lên án cái gọi là ‘tình trạng tham nhũng” của thời ông Diệm. Xin thưa, nếu thời đó có tham nhũng chăng, thì cũng chỉ bằng 1% của thời đại chúng ta đang sống. Không kể những quan to chức lớn nuôi tham vọng xây biệt phủ, mua nhà nước ngoài hay cho con đi du học, tham nhũng ngày nay được nhiều công bộc sử dụng như một loại biện pháp “chữa cháy” trước đồng lương thấp kém, đời sống khó khăn. 

 Thời ông Diệm, một công chức trung cấp nuôi sống được cả gia đình 4-5 miệng ăn. Khoảng đầu thập niên 1960, học sinh, sinh viên, công chức xa nhà ăn cơm tháng trả khoảng 500 – 600 đồng, trong khi lương tháng một viên chức mới tốt nghiệp đại học gần 7 ngàn đồng, phụ cấp một dân biểu Quốc Hội (tất nhiên là chuyên trách hoàn toàn) 25 ngàn đồng/tháng, một dược sĩ cho thuê bằng mỗi tháng 20 ngàn đồng. 

 Nhìn vào các con số thống kê chính thức (của Viện Quốc gia Thống kê VNCH) công bố vào thập niên 1960, mới thấy tiếc nhớ đời sống kinh tế – xã hội dưới  chính quyền Ngô Đình Diệm. Niên khóa 1955-56, tổng số sinh viên – học sinh chỉ ở mức 665.000 (lấy số tròn), đến niên khóa 1963-64, đã lên tới con số 1.936.000 người, tăng gần gấp 3 lần; tổng chỉ số giá tiêu thụ (trên cơ sở giá tháng 12/1963 là 100) của giới lao động vào năm 1954 là 74,5, vào năm 1962 là 94, và vào năm 1970, sau gần 7 năm chính quyền nằm trong tay các quân nhân, là … 664, tức mức đắt đỏ cao gấp 9 lần chỉ số năm 1954 và 7 lần chỉ số năm 1962! Thịt heo năm 1954 giá 2,4 đồng/kg, 8 năm sau (1962) chỉ tăng thêm 2 cắc, giá 2,6 đ/kg, một viên chức cấp thấp, lương 2.000 đồng/tháng  mua được khoảng 770 kg thịt heo, tính theo thời giá trung bình 70.000 đồng/kg thịt heo, khoản tiền trên bằng với gần 54 triệu đồng. 

 Năm 1962, tôi thi đỗ vào Học viện Quốc gia Hành chánh với học bổng 1.500 đồng/tháng, trả tiền cơm tháng cho người cô 500 đồng, còn 1.000 đồng bỏ túi, đi xe buýt 1đồng/ chuyến, ăn tô hủ tiếu 5 đồng, tiêu hoài không hết.

 Nhắc chuyện khu dinh điền, khu trù mật thời chính quyền Ngô Đình Diệm, xin kể hai giai thoại:

 – Những năm 1955-1960,  tình trạng an ninh tại miền Nam còn khá ổn định, hầu hết sinh viên tốt nghiệp Học viện QGHC đều được bổ nhiệm làm Quận trưởng tại địa phương. Khoảng năm 1958-1959,  ông Nguyễn Đình Xướng, cựu sinh viên khóa 1 QGHC, làm Quận trưởng Cai Lậy, chịu trách nhiệm xây dựng khu trù mật Hậu Mỹ. Một  ngày nọ, ông Diệm đi kinh lý, chứng kiến sự tổ chức tinh tế, khoa học của khu trù mật, hết sức khen ngợi ông Quận trưởng, khi trở về đã thăng ông Xướng làm Tỉnh trưởng Vĩnh Bình (Trà Vinh), đến khi quân sự hóa lãnh đạo cấp tỉnh (khoảng 1959-1960), ông Xướng còn được tiếp tục làm Tỉnh trưởng với cấp bậc Thiếu tá giả định. Con đường thăng tiến của viên chức này luôn suôn sẻ, sau Tỉnh trưởng Vĩnh Bình là Tổng thư ký Bộ Nội vụ, rồi cuối cùng là Tổng quản trị Hành chánh Phủ Tổng thống, mãi đến tháng 6.1975, mới chịu dừng lại, với cương vị người bạn tù cải tạo cùng một nhà, một đội với người viết bài này tại trại Long Thành. 

 – Thời ông Diệm, số công chức như ông Xướng khá nhiều, nhưng không phải không có đôi trường hợp bê trễ, tắc trách. Người ta kể rằng lần nọ, Phủ tổng thống loan báo chuyến kinh lý của Tổng thống đến tỉnh Bình Tuy (Hàm Tân) thăm một khu trù mật ở đây. Quan chức nghe tin rụng rời vì công việc tổ chức khu trù mật chưa hoàn tất theo tiến độ đã trình. Cuối cùng, họ chọn một hạ sách là chờ đến sáng ngày Tổng thống đến, đi nhổ cây xanh ở những nơi xa, đem trồng hai bên đường. Khi ông Diệm ngồi xe trên đường về tỉnh, thấy hai bên đường cây xanh tốt, bèn dừng xe lại, đến gần những cây trồng, trầm trồ khen ngợi, chẳng ngờ cây trồng cạn quá, chỉ mới đụng qua đã bật gốc. Nhận ra mình vừa bị lừa, cụ giận lắm, nhưng chưa biết thể hiện thái độ bằng cách nào, sẵn chiếc nón nỉ đội trên đầu, cụ nhấc lên và quẳng mạnh. Ông Tỉnh trưởng Bình Tuy là Thiếu tá Lê Văn B. đi cạnh Tổng thống đã kịp nhảy tới, hai tay chụp gọn chiếc nón, nhanh và chuẩn xác như thủ môn Buffon thời hiện đại. Giai thoại này tôi nghe kể lại từ anh Trần Văn K. P., Trưởng ty Y Tế Bình Tuy, có mặt trong phái đoàn đón cụ Diệm lúc bấy giờ.

 LÊ NGUYỄN

2.11.2017

Đăng trên trang 8 Sài Gòn

From:haiphuoc47 & Nguyen NThu

MẦU NHIỆM CÁC THÁNH CÙNG CẦU THÔNG – Lm. Đan Vinh, HHTM

Lm. Đan Vinh, HHTM 

  1. NGUỒN GỐC LỄ CẦU CHO CÁC LINH HỒN

 –   Theo lịch sử Hội thánh: Thánh ODILO (962- 1048) là viện phụ của đan viện Cluny trong đế quốc Germany, là một tu sĩ rất có lòng đạo đức.  Người luôn tưởng nhớ cầu nguyện kèm ăn chay hãm mình và dâng lễ cầu nguyện cho các linh hồn đã qua đời.  Một hôm, một đan sĩ Dòng của người đi hành hương Đất thánh.  Trên đường trở về, tàu chở vị đan sĩ đã bị bão đánh giạt vào một hòn đảo, và tại đây đan sĩ đã gặp gỡ và trao đổi với một vị ẩn sĩ.  Trong buổi trò chuyện, ẩn sĩ cho biết: “Trên đảo này có nhiều hang lửa, trong hang có nhiều linh hồn người chết thường bị hành hạ, đánh đập đau đớn.  Có lần tôi nghe được mấy tên quỉ phàn nàn với nhau về Viện phụ Odilo và các đan sĩ Dòng Cluny mỗi ngày đều giải thoát được một số linh hồn ra khỏi hang lửa nói trên.  Vì thế, xin thầy hãy về nói với cha Odilo và các anh em trong Dòng tiếp tục cứu giúp các linh hồn đang chịu đau khổ.  Việc này làm cho các thánh trên trời vui mừng và cũng làm cho ma quỷ trong hỏa ngục phải buồn sầu tức giận.”  Sau khi nghe tu sĩ kể lại sự việc, cha Odilo đã chọn ngày 2 tháng 11 hằng năm để cử hành lễ cầu hồn trong đan viện Cluny của người.  Về sau lễ cầu hồn này đã truyền sang nước Pháp, và Đức Giáo hoàng Gio-an 14 đã thiết lập lễ cầu Cho Các Linh Hồn trong Hội Thánh Công Giáo Rô-ma từ giữa thế kỷ 11.

 –   Giáo lý Hội Thánh Công giáo do Thánh Giáo Hoàng Gio-an Phao-lô II ban hành năm 1992 có 3 số nói về luyện ngục như sau:

 Số 1030: Cần có Luyện ngục: “Những ai chết trong ân sủng và ân nghĩa của Thiên Chúa, nhưng chưa được thanh tẩy cách trọn vẹn, thì tuy được bảo đảm về ơn cứu độ muôn đời của mình, vẫn phải chịu một sự thanh luyện sau khi chết, hòng đạt được sự thánh thiện cần thiết để bước vào niềm vui thiên đàng.”

 Số 1031: Luyện ngục để thanh tẩy: “Giáo Hội gọi là luyện ngục là sự thanh luyện sau cùng này của các người được chọn, hoàn toàn khác với hình phạt của những kẻ bị án phạt.  Giáo Hội đã trình bày giáo lý của đức tin về Luyện ngục, nhất là tại các Công đồng Florentia (xem DS 1304) và Trentô (xem DS 1820; 1580).  Dựa vào một số bản văn của Thánh Kinh (Chẳng hạn 1 Cr 3,15; 1 Pr 1,7), truyền thống của Giáo Hội nói đến một thứ lửa thanh luyện: “Đối với một số những lỗi lầm nhẹ, ta phải tin có một thứ lửa thanh tẩy trước ngày Phán xét, theo như những gì mà Đấng là Chân lý đã dạy khi Người nói rằng nếu ai nói lời phạm thánh chống lại Chúa Thánh Thần, thì sẽ không được tha cả đời này lẫn ở đời sau” (Mt 12,31).  Theo lời quyết đoán này, chúng ta có thể hiểu rằng một số lỗi lầm có thể được tha ở đời này, nhưng một số lỗi khác thì được tha ở đời sau” (Th. Gregoriô Cả, Dial. 4,39). 

Số 1032: Người sống cứu người chết: Giáo huấn này cũng dựa vào cách cầu nguyện cho kẻ chết, như được nói đến trong Thánh Kinh: “Đó là lý do tại sao ông Giuđa Macabê đã truyền phải dâng hy lễ đền tội này cho các người đã chết, để họ được giải thoát khỏi tội lỗi của mình” (x. 2 Mcb 12,46).

 –   Ngày 10 tháng 8 năm 1915: Trong một Tông hiến, Tòa thánh cho các linh mục được dâng 3 lễ vào ngày lễ cầu cho các linh hồn: 1 cầu như ý người xin, được lấy bổng lễ, 1 cầu theo ý Đức thánh cha (không bổng), và 1 cầu cho các linh hồn (không bổng).  Giáo hội cũng xác định dành trọn tháng 11 để cầu cho các linh hồn trong luyện ngục. 

–  Ngày 1 tháng 11 năm 1967, ĐTC Phaolô 6, trong Tông huấn Ân xá đã ban một đại xá với điều kiện thường lệ (xưng tội, rước lễ, cầu theo ý ĐGH) cho những ai “viếng nhà thờ vào Chúa nhật trước hoặc sau, hoặc chính lễ Các Thánh (số 67), và những ai viếng nghĩa địa trong 8 ngày đầu tháng 11 để cầu cho các linh hồn (số 13).

2. GIÁO LÝ VỀ MỘT HỘI THÁNH BA TÌNH TRẠNG

Chúa Giê-su thiết lập Nước Trời là Hội Thánh.  Hội Thánh ấy hiện nay gồm có ba tình trạng: Một là Hội Thánh “Lữ Hành,” hai là Hội Thánh “Vinh Thắng,” ba là Hội Thánh “Đau Khổ” như sau:

 –  Hội Thánh “Lữ Hành” trần gian: Gồm các tín hữu đang còn sống, đang bước đi trên con đường của Chúa Giê-su.  Như Dân Israel xưa, Hội thánh sẽ phải vượt qua sa mạc trần gian tiến về Đất Hứa Nước Trời là Thiên Đàng đời sau.  Các tín hữu trong Hội thánh lữ hành trần gian còn phải chiến đấu với ba thù là ma quỷ, thế gian và xác thịt của mình.  Họ được Chúa ban cho hai thứ bánh thiêng liêng là Bánh Lời Chúa và Bánh Thánh Thể.  Nhờ đó họ sẽ đủ sức vượt qua sa mạc trần gian để tiến về miền Đất Hứa là Thiên Đàng đời sau. 

–  Hội Thánh “Vinh Thắng” trên trời: Gồm các tín hữu đã qua đời trong niềm tin cậy vào Chúa.  Khi còn sống ở trần gian, các Người đã thực hành Hiến Chương Nước Trời là Tám Mối Phúc Thật của Chúa Giê-su, nên ngày nay các Người đang được hưởng hạnh phúc Thiên Đàng với Chúa. 

–  Hội Thánh “Đau Khổ” thanh luyện: Gồm các tín hữu tuy đi theo con đường của Chúa Giê-su, nhưng khi chết vẫn đang ở trong tình trạng còn nhiều sai lỗi, chưa xứng đáng được vào Nước Trời.  Họ cần tiếp tục chịu đau khổ trong ngọn lửa tin yêu để được thanh luyện sạch mọi vết nhơ.  Rồi khi hoàn toàn trở nên thánh thiện, họ sẽ được về hưởng hạnh phúc Thiên Đàng. 

3.TÍN ĐIỀU CÁC THÁNH THÔNG CÔNG

Ngọai trừ các người theo quỷ phải sa hỏa ngục để chịu hình phạt lìa xa Chúa đời đời, còn các tín hữu tin vào Chúa Giê-su dù còn sống hay đã qua đời, dù đã được lên trời hay đang được thanh luyện cũng đều được thông hiệp với ơn cứu độ của Chúa Giê-su và cầu nguyện cho nhau.  Đó là mầu nhiệm các thánh cùng thông công:

 Các tín hữu còn sống có thể giúp các linh hồn đã qua đời bằng việc viếng nhà thờ hay Đất Thánh và đọc kinh cầu nguyện, xưng tội rước lễ và cầu nguyện hiệp thông với Đức Giáo Hòang để được nhận các ân xá trong dịp đầu tháng 11; Nhất là có thể xin lễ và hiệp dâng thánh lễ cầu nguyện cho các linh hồn, làm các việc lành phúc đức như chia sẻ bác ái phục vụ với ý chỉ cầu nguyện đền tội thay cho các linh hồn ông bà cha mẹ đang ở trong chốn luyện hình.  Nhờ đó các linh hồn sẽ được ơn Chúa chiếu soi, được thêm lòng yêu mến Chúa để được tha thứ tội lỗi như lời Chúa: “Yêu nhiều sẽ được tha nhiều.”  Khi các linh hồn được nên thanh sạch thánh thiện hoàn toàn thì sẽ được Chúa đưa vào hưởng hạnh phúc Thiên Đàng.  Bấy giờ các đấng sẽ không quên cầu bầu cùng Chúa xuống muôn ơn lành cho con cháu là chúng ta trên trần gian.

 Riêng khái niệm về Lâm-bô: Lâm bô là khái niệm của thánh Albertô Cả (1200-1280), nói về một nơi dành cho các linh hồn trẻ em chết khi chưa được lãnh bí tích Rửa tội.  Tuy chúng không bị phạt nhưng cũng không được lên thiên đàng vì chưa được rửa tội.  Về sau khái niệm này ít được đề cập đến.  Gần đây Ủy ban thần học quốc tế thuộc bộ Giáo Lý Đức Tin đã công bố một tài liệu mang tên “Niềm hy vọng ơn cứu rỗi dành cho các trẻ em chết mà không được rửa tội.”  Trong đó Ủy Ban cho rằng: “Giả thuyết về Lâm-bô” không có nền tảng rõ ràng trong Mặc Khải.  Theo ủy ban, có nhiều lý do rút ra từ thần học và phụng vụ cho phép chúng ta tin tưởng và hy vọng rằng các em chết trước khi được rửa tội cũng được hưởng nhan thánh Chúa, vì “Thiên Chúa muốn cho hết mọi người đều được hưởng ơn cứu độ.”  Tuy vậy, Ủy ban cũng khẳng định bí tích rửa tội vẫn là điều kiện cần thiết để được hưởng ơn cứu rỗi của Đức Giê-su như lời Chúa phán: “Không ai có thể vào Nước Thiên Chúa, nếu không sinh ra bởi nước và Thần Khí” (Ga 3,5).  Tóm lại: Hội Thánh tín thác các em chết khi chưa chịu phép rửa tội cho lòng thương xót của Chúa, và hy vọng nhờ đức tin của Hội Thánh, các em cũng được hưởng ơn cứu độ (x. GLHTCG số 1261). 

4. PHẢI “BIẾT CHẾT” ĐỂ “BIẾT SỐNG”

–  Không thích nói đến cái chết: Nhiều người nghĩ rằng: không nói đến sự chết thì mình sẽ không phải chết.  Nhà tỷ phú Mỹ William Randoph Hearst, chủ nhân của nhiều tờ báo và phim trường ở Holywood hồi trước thế chiến thứ hai, đã ra lệnh cấm các nhân viên của mình nhắc đến từ ngữ “chết” trước mặt ông.  Những ai lỡ miệng nói ra liền bị đuổi việc.  Ông là người thông minh, tài giỏi, thành công, nhưng lại không dám đối diện với sự thật phũ phàng là sự chết!  Rồi cuối cùng Hearst cũng bị chết bất đắc kỳ tử, để lại một tòa lâu đài rộng lớn, hiện nay trở thành một điểm du lịch nổi tiếng ở bang California Hoa Kỳ. 

–  “Sinh ký tử quy” (Sống gửi thác về): Nhiều người khi lớn tuổi liền nghĩ đến việc hậu sự và lo chuẩn bị cho cái chết của mình, bằng việc mua đất nghĩa trang, chọn nhà quàn, mua sẵn ván làm hòm để trong nhà.  Họ còn viết chúc thư về những điều con cháu phải làm để lo việc ma chay cho họ: Khi chết phải cho họ chiếc áo này, đeo vòng ngọc kia, cầm cái quạt nọ.  Lại còn dặn dò phải bỏ vào quan tài dụng cụ này hay vòng vàng nọ để sử dụng ở thế giới bên kia, giống như chuẩn bị hành lý cho một chuyến đi xa để về với ông bà tổ tiên.

   Chết là bắt đầu một cuộc sống mới: Đối với những kẻ không tin có Thiên Chúa và đời sau thì chết đi là hết!  Nếu quả thực như thế thì cái chết thật đáng sợ!  Vì nó là đặt dấu chấm hết tất cả những ước mơ của đời người: “Con người là bụi cát lại trở về với cát bụi!”  Nhưng đức tin Ki-tô giáo dạy cho biết: chết không phải là hết.  Nó chỉ là khởi đầu của một cuộc sống mới vĩnh hằng.  Sau cái chết mỗi người sẽ phải trả lẽ những gì đã làm khi còn sống trước tòa Chúa phán xét.  Nếu chúng ta đã sống trong ân nghĩa của Chúa thì giờ chết sẽ là sự trở về ngôi nhà của mình.  Chúng ta sẽ được trở về thiên đàng, là nhà của Thiên Chúa Cha, Đấng đã dựng nên loài người chúng ta.  Ở đây không còn nước mắt đau khổ, nhưng chỉ có niềm vui và hạnh phúc viên mãn như sách Khải Huyền đã viết: “Thiên Chúa sẽ lau sạch nước mắt họ.  Sẽ không còn sự chết, cũng chẳng còn tang tóc, khóc than và đau khổ nữa, vì những điều cũ đã biến mất” (x. Kh 21,4).

 –  Đền tội khi sống lúc chết: Dầu vậy trong cuộc sống, ít nhiều lần các tín hữu chúng ta cũng đã để cho những dục vọng làm chủ bản thân mình, khiến chúng ta không vâng lời Chúa, không làm theo thánh ý Thiên Chúa.  Đó là ta đã phạm tội hay mắc phải các thói hư.  Khi chúng ta còn sống thì các tai nạn, bệnh tật và các điều trái ý cực lòng gặp phải sẽ giúp chúng ta đền tội đã phạm.  Rồi sau khi qua đời chúng ta còn tiếp tục được thanh luyện trong lửa tin yêu gọi là tình trạng luyện hình.

 5. NGUYỆN CẦU

 –  Lạy Chúa Giê-su.  Mỗi lần đối diện với cái chết gần kề, con cảm thấy run sợ vì con chưa sẵn sàng để gặp Chúa.  Trong suốt cuộc đời, con đã lo toan rất nhiều thứ như lo tìm kiếm tiền tài, danh vọng, chức quyền trần gian…  Còn điều quan trọng chính yếu là chuẩn bị cho giờ chết sẽ đến thì con lại chưa quan tâm đúng mức!  Con thật dại khờ khi nghĩ rằng mình sẽ có đủ thời gian chuẩn bị trước khi chết.  Nhưng lời Chúa đã dạy “Con Người sẽ đến như kẻ trộm” và đòi con phải luôn tỉnh thức bằng thái độ sẵn sàng.  Một ngày nào đó con không ngờ trước, con sẽ phải ra trình diện trước mặt Chúa, không biết bấy giờ Chúa có nhận ra con không, hay Chúa sẽ bảo con: “Ta không hề biết các ngươi.  Hãy xéo đi cho khuất mắt Ta, hỡi bọn làm điều gian ác!” (Mt 7,23). 

–  Lạy Chúa Giê-su, xin ban cho con ơn khôn ngoan của Thánh Thần để con sống trọn vẹn từng giây phút hiện tại Chúa ban trong ơn nghĩa Chúa, để ngày nào đó khi giờ chết đến, con sẽ ra trình diện trước mặt Chúa không phải như hai người xa lạ, nhưng như người rất thân quen.  Khi ấy Chúa sẽ gọi con bằng một cái tên trìu mến và giang rộng vòng tay đón con vào hưởng hạnh phúc Nước Trời đời đời: “Hỡi kẻ được Cha Ta chúc phúc, hãy vào hưởng ‘Vương Quốc’ dọn sẵn cho các con từ thuở tạo thiên lập địa” (x. Mt 25,34), Amen!

 Lm. Đan Vinh, HHTM

From: Langthangchieutim


 

Đọc sách để làm gì?

Trầm Mặc Huơng Lai

 — Thưa thầy, con đã đọc biết bao nhiêu sách… nhưng phần lớn con quên hết. Vậy đọc để làm gì?

Một cậu học trò tò mò hỏi thầy mình như thế.

Ông lão không trả lời. Chỉ nhìn cậu, lặng im.

Vài ngày sau, họ ngồi bên bờ sông.

Đột nhiên, thầy nói:

— Thầy khát. Con lấy cho thầy ít nước… nhưng dùng cái rổ cũ kia nhé.

Cậu học trò sững lại.

Thật vô lý. Làm sao múc nước bằng một cái rổ đầy lỗ?

Nhưng cậu không dám cãi.

Cậu cầm rổ, thử.

Một lần. Hai lần. Rồi nhiều lần nữa…

Cậu chạy nhanh hơn, đổi góc, thậm chí lấy ngón tay bịt vài lỗ.

Vẫn không được. Chẳng giữ lại nổi một giọt.

Kiệt sức, bực bội, cậu ném cái rổ xuống chân thầy:

— Con xin lỗi. Con thất bại rồi. Việc này bất khả thi.

Thầy nhìn cậu hiền hậu, khẽ bảo:

— Con không hề thất bại. Nhìn cái rổ đi.

Cậu cúi xuống… và nhận ra điều khác lạ.

Cái rổ cũ kỹ, đen bám bẩn giờ sáng bóng.

Nước, tuy chẳng ở lại, đã rửa nó hết lần này đến lần khác cho đến khi nó lấp lánh.

Thầy nói tiếp:

“Đọc sách cũng như thế.

Không quan trọng con nhớ từng chữ, từng ý.

Không sao nếu tri thức trôi tuột qua tay con như nước qua rổ…

Vì khi con đọc, tâm trí được gột rửa. Tâm hồn được làm mới.

Ý nghĩ được thở. Và dù con không nhận ra ngay, con đã đổi khác — từ bên trong.”

Đó mới là mục đích thật sự của việc đọc:

không phải nhồi đầy trí nhớ, mà là thanh lọc và làm giàu tâm hồn.

St TG Văn Chương


 

Bao giờ Việt Nam mới hết đi xin?

Hieu Trung Nguyen is with Nguyễn Trung Hiếu.

Việt Nam, một quốc gia được thiên nhiên ban tặng tài nguyên phong phú, từ dầu khí, khoáng sản đến đất đai màu mỡ, lại sở hữu dân số trẻ, chăm chỉ và hàng vạn trí thức, giáo sư, tiến sĩ, nhà khoa học. Thế mà suốt 80 năm qua, từ ngày thành lập nước, dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản, chúng ta vẫn kiên trì lập kỷ lục thế giới về… đi xin. Xin vũ khí, lương thực từ Trung Cộng để đánh Pháp; xin Nga-Xô, Trung Cộng để xây dựng chủ nghĩa xã hội và đánh Việt Nam Cộng Hòa; rồi xin các nước phương Tây ODA để xóa đói giảm nghèo, phát triển kinh tế. Tám thập kỷ, không phải xây dựng tự cường, mà là giơ tay xin xỏ, biến dân tộc thành “cái bang” chuyên nghiệp của thế giới.

Bao giờ Việt Nam mới hết đi xin? Cứ nhìn Cuba thì biết: vẫn nghèo đói, vẫn cô lập, vẫn sống bằng viện trợ và lòng kiêu hãnh giả tạo. Ở Việt Nam, “còn xã nghĩa là còn ăn xin” – câu nói nghe chua chát nhưng lại là sự thật phũ phàng. Quan chức thì ra nước ngoài “đề nghị hợp tác”, thực chất là đi xin, về nước thì cướp đất, cướp dự án, cướp của dân. Suốt cả thế kỷ, ăn cướp không được thì ăn mày, ODA trở thành “truyền thống gia tộc” của cái bang cầm quyền. Dân chăm chỉ lao động, đóng thuế, nhưng tiền lại chảy vào túi quan tham và các dự án xin-cho thất thoát.

Thật xấu hổ khi một dân tộc anh hùng, từng đánh bại thực dân, đế quốc, giờ đây lại tự biến mình thành kẻ ăn xin chuyên nghiệp. Xin được là có cái để đớp, để chia chác, để xây biệt phủ, để gửi con du học nước ngoài. Còn dân đen thì mãi nghèo, mãi chịu thuế phí, mãi nhìn quan chức vênh váo với thành tích “vận động viện trợ”. Kỷ lục thế giới đi xin không phải niềm tự hào, mà là nỗi nhục quốc thể. Bao giờ mới dứt khoát đứng thẳng lưng, tự lực tự cường, thay vì quỳ gối trước bàn xin xỏ? Hay cứ thế này mãi, để con cháu mai sau vẫn phải ngẩng mặt… cúi đầu xin thiên hạ?

Nguồn ảnh: internet


 

GIỮA CƠN GIẬN, NGƯỜI KHÔN SẼ CHỌN IM LẶNG

Có những lúc, chỉ cần một lời nói trong cơn tức giận –

Cũng đủ làm đổ vỡ một mối quan hệ, đánh mất một người thương, hoặc khiến ta ân hận cả đời.

Tức giận là bản năng, kiềm chế mới là bản lĩnh.

Không ai sống mà không từng nóng nảy, nhưng người trưởng thành hiểu rằng: một phút bốc đồng có thể đổi lấy mười năm hối tiếc.

 KHI CẢM XÚC LÊN NGÔI, LÝ TRÍ LÊN ĐƯỜNG

Con người không thua vì nghèo, không thua vì thất bại, mà nhiều khi thua vì không kiểm soát được chính mình.

Một người nói lời tổn thương khi tức giận, như tự đâm vào chính tâm hồn mình.

Một hành động bột phát có thể phá hỏng cả những gì ta gầy dựng suốt bao năm.

Thế nên, mỗi khi muốn phản ứng, hãy tạm dừng lại.

Hít sâu, nhắm mắt, và tự hỏi:

“Nếu tôi làm điều này, hậu quả sẽ là gì?”

“Có đáng để đánh mất lòng tin, sự tôn trọng, hay tình cảm này chỉ vì một phút tức giận không?

 NGƯỜI LỚN KHÔNG CẦN THẮNG TRONG MỌI CUỘC CÃI

Đôi khi, im lặng chính là câu trả lời thông minh nhất.

Không phải vì ta yếu đuối, mà vì ta đủ mạnh để không bị điều khiển bởi cảm xúc.

Người biết nhịn một chút lúc nóng, sẽ bớt đi trăm điều hối hận sau này.

Khi ta giữ được bình tĩnh, ta mới giữ được tất cả:

Danh dự, công việc, lòng tin, và cả sự bình yên trong tâm.

 CƠN GIẬN GIỐNG NGỌN LỬA

Nếu biết dùng, nó giúp ta soi sáng vấn đề.

Nếu không kiểm soát, nó sẽ thiêu rụi tất cả.

Người thành công không phải là người chưa từng giận dữ —

Mà là người biết đứng dậy giữa cơn giông cảm xúc,

biết biến cơn giận thành động lực để trưởng thành hơn, mạnh mẽ hơn, và nhân hậu hơn.

 HÃY NHỚ

Khi giận, đừng nói.

Khi buồn, đừng quyết định.

Khi mệt, đừng hứa hẹn.

Mọi điều trong cuộc sống đều có thể sửa chữa, trừ những lời nói làm tổn thương người khác.

Cuộc đời không đòi hỏi ta phải luôn đúng – mà đòi hỏi ta phải biết dừng đúng lúc.

Giữ bình tĩnh là giữ phước.

Biết kiềm chế là giữ hạnh phúc.

Và biết im lặng – chính là giữ được chính mình

From: ngocnga_12 – NguyenNThu


 

Tỉnh giác – Nguồn fb: Tuệ Tâm

Những câu chuyện Nhân VănChi Nguyen

 Một cô gái đang ngồi chờ chuyến bay của mình trong phòng chờ ở một sân bay lớn.

Để giết thời gian chờ một tiếng, cô mua tạp chí để đọc và một gói bánh ăn cho đỡ đói.

Cô ngồi trong phòng VIP, nghỉ ngơi và giở sách ra đọc trong thanh thản.

Cùng trên ghế chờ, bên gói bánh, một người đàn ông cũng ngồi xuống, mở báo và lặng lẽ đọc.

Khi cô gái ăn chiếc bánh đầu thì người đàn ông cũng nhón ăn chiếc bánh tiếp theo.

Tuy không nói gì nhưng cô cảm thấy bực bội trong lòng, cô tự nghĩ: “Thật điên rồ! Nếu ta không lịch sự thì sẽ cho mi biết sự tự nhiên lố bịch của mi!”.

Cứ mỗi lần cô nhón ăn một chiếc, thì người đàn ông kia lại nhón ăn chiếc bánh tiếp theo.

Trong lòng cô, sự bực bội dần lên cao, tuy nhiên cô kiềm chế được nên chưa bộc lộ ra.

Khi chỉ còn lại một chiếc bánh duy nhất, cô nghĩ: “À được… thử xem người đàn ông ngỗ ngược này, mi sẽ xử lý sao đây?”.

Nhưng hắn bình tĩnh bẻ chiếc bánh làm đôi và mời cô dùng một nửa chiếc.

Ôi! Thật quá mức! Trong khi cô đang còn đói!

Cô đứng phắt dậy, gấp sách lại, giành lấy nửa bánh của mình rồi đi thẳng ra máy bay.

Khi đã vào trong máy bay, ngồi xuống ghế, cô lục túi tìm kính đeo của mình, thì thật ngạc nhiên trong túi xách của cô còn nguyên gói bánh chưa được mở! Cô cảm thấy hổ thẹn về hành động sai sót của mình…

Vì Cô đã để nguyên gói bánh trong túi mà chưa hề mở ra ăn!

Còn người đàn ông kia đã chia phần bánh của họ cho cô, nhưng họ không hề tức giận, không hề điên khùng và khó chịu…

Khi cô đang rơi vào trạng thái bối rối, hổ thẹn, nghĩ về người đàn ông kia thì thời gian cũng không còn để cô có thể giãi bày… để cô có thể tạ lỗi!

P/S : Trong cuộc sống, có bốn điều mà ta không sao sửa chữa được:

– Khi hòn đá… đã ném đi.

– Khi lời nói… đã buông ra.

– Khi cơ hội… đã bỏ lỡ.

– Khi thời gian… đã trôi qua…

Tỉnh giác – Nguồn fb: Tuệ Tâm

Ảnh minh họa

 

 


 

 Đâu phải giàu mới thành công!

Kimtrong Lam

Mai Lâm

– 27 tháng 10, 2025

Dù không giàu có, nếu bạn hài lòng với những gì mình có, liên tục học hỏi, không sợ thất bại và luôn sống thật với chính mình… điều đó chứng tỏ bạn là người thành công.

-Bạn hài lòng với những gì mình có

Một chiếc xe hơi sang trọng hay một căn hộ cao cấp có thể là điều tuyệt vời, nhưng liệu những điều đó có thực sự định nghĩa thành công không?

Thành công thực sự thường bắt nguồn từ sự hài lòng. Đó là việc trân trọng những gì mình đang có thay vì liên tục thèm muốn nhiều hơn. Đó là việc tìm thấy niềm vui trong những điều giản đơn và biết ơn vì chúng.

Vậy nên, nếu bạn là người nhìn xung quanh và cảm thấy hài lòng với cuộc sống, bạn đang thành công.

-Bạn liên tục học hỏi và phát triển

Cởi mở với việc học hỏi và phát triển bản thân là dấu hiệu chắc chắn của thành công. Tại sao? Bởi điều đó cho thấy bạn không chỉ quan tâm đến lợi nhuận tiền bạc. Thay vào đó, bạn cam kết cải thiện bản thân, mở rộng tầm nhìn và trở thành phiên bản tốt nhất của chính mình.

Vì vậy, nếu bạn nhiệt tình tiếp thu kiến thức từ mọi nguồn có thể, hãy tự khen ngợi mình. Bạn đang làm đúng.

-Thất bại không làm bạn sợ

Bạn có phải người từng trải qua nhiều thất bại, từng muốn bỏ cuộc và đầu hàng, nhưng rồi cuối cùng bạn vẫn đứng vững và tiếp tục phấn đấu?

Đó chính là ý nghĩa thực sự của thành công. Thành công không có nghĩa là không bao giờ thất bại, mà là không để thất bại ngăn cản bạn. Đó là sử dụng những lần vấp ngã như bước đệm hướng tới ước mơ.

Việc chấp nhận thất bại có thể không khiến bạn trở nên giàu có theo nghĩa truyền thống. Nhưng nó khiến bạn trở nên giàu có về khả năng phục hồi, lòng dũng cảm và sự quyết tâm tuyệt đối – những phẩm chất đáng giá hơn nhiều so với bất kỳ số tiền nào.

-Bạn tạo ra tác động tích cực

Bạn đã bao giờ làm một việc nhỏ và có vẻ không đáng kể, chỉ để sau đó nhận ra rằng nó đã tạo ra sự khác biệt lớn trong cuộc sống của ai đó chưa?

Đôi khi chỉ là việc cắt cỏ trong sân sau giúp cho bà cụ hàng xóm. Có thể bạn không nghĩ nhiều về nó, nhưng bạn đã làm cho bà vui mừng và dường nào.

Thành công thực sự cũng có nghĩa là tạo ra tác động tích cực. Tác động đó không cần phải to tát hay chấn động thế giới. Đôi khi, chính những điều nhỏ nhặt lại có ý nghĩa nhất.

Nếu bạn đang phấn đấu để thế giới trở thành một nơi tốt đẹp hơn theo cách riêng dù nhỏ hay lớn thì bạn đã thành công. Bởi thành công thực sự không chỉ là lợi ích cá nhân, mà còn là nâng đỡ người khác và tạo ra khác biệt.

-Bạn duy trì sự cân bằng lành mạnh giữa công việc và cuộc sống

Trong thế giới hối hả, thật dễ dàng bị cuốn vào vòng xoáy và quên mất sức khỏe. Nhưng hãy để tôi nói cho bạn biết điều này – làm việc quần quật không phải là dấu hiệu của thành công, đó là con đường dẫn đến kiệt sức.

Thành công thực sự bao gồm việc cân bằng hiệu quả các khía cạnh trong cuộc sống. Điều đó có nghĩa là dành thời gian cho việc thư giãn và giải trí, bên cạnh công việc. Đó là về việc vun đắp các mối quan hệ, theo đuổi sở thích và chăm sóc sức khỏe.

Điều tuyệt vời nhất khi cân bằng giữa công việc và cuộc sống cá nhân là gì? Bạn không cần phải hy sinh sức khỏe hoặc hạnh phúc của mình để đạt được điều đó.

-Bạn thực hành sự đồng cảm và thấu hiểu

Bạn từng có những lúc hiểu lầm người khác, đưa ra phán đoán quá nhanh và điều đó dẫn đến tổn thương? Nhưng theo thời gian, bạn học được rằng mọi người đều đang chiến đấu với những trận chiến riêng. Những trận chiến mà chúng ta có thể không hiểu hoặc thậm chí không nhận thức được.

Đây là lúc sự đồng cảm phát huy tác dụng. Bạn đặt mình vào vị trí của người khác và cố gắng hiểu quan điểm của họ. Bạn cố gắng thể hiện lòng tốt, ngay cả khi điều đó khó khăn.

Vì vậy, nếu bạn là người thực hành sự đồng cảm, người cố gắng hiểu thay vì phán xét, xin chúc mừng! Bạn đang thể hiện một trong những dấu hiệu thành công sâu sắc nhất.

Bởi thành công không chỉ là những gì chúng ta đạt được, nó còn là cách chúng ta đối xử với người khác trên suốt chặng đường.

-Bạn sống thật với chính mình

Trong một thế giới liên tục nhắc nhở bạn phải là ai, phải làm gì và hành động như thế nào, việc luôn là chính mình có thể là một thách thức thực sự.

Nhưng điều quan trọng là không có số tiền, quyền lực hay danh tiếng nào có thể thay thế cảm giác được là chính mình.

Bởi thành công không phải là việc phải phù hợp với một khuôn mẫu nào đó, mà là không hối hận khi là chính mình và sống đúng với con người thật của bạn.

(theo Hack Spirit)


 

Gởi ai đã và sắp đến tuổi già

Bài viết của một tác giả không nhớ rõ tên, có một nội dung quá thâm thuý, dành cho những ai trong tuổi Cao Niên nếu muốn có một đời sống hạnh phúc trong những ngày còn lại trên trần gian này, trước khi thân xác trở về cát bụi thì nên suy luận những điều được nêu ra trong bài viết này.

Đời người thật ngắn ngủi. Nhớ lại vào lứa tuổi đôi mươi, chúng ta lang thang trong khuôn viên trường đại học, vui cười vô tư và bây giờ đã hơn 40 năm trôi qua rồi. Đời người thoáng chốc đã già !

Bây giờ, những năm còn lại trong cuộc đời của một người, chúng ta cần sống thanh thản, sống thoải mái, sống hạnh phúc vì qua một ngày, chúng ta đã mất một ngày. Vì vậy, một ngày đến, chúng ta vui một ngày. Vui một ngày…rồi không biết được bao nhiêu ngày nửa. Hạnh phúc là do chính mình tạo ra, vui sướng cũng do chính mình tìm lấy vì những niềm vui ấy đã ẩn chứa trong những sự việc nhỏ nhặt xãy ra trong đời sống.

Hạnh phúc là những gì hiện đang ở chung quanh chúng ta, trong tầm tay chúng ta. Nhà nho Nguyễn Công Trứ quan niệm “ Tri túc, đãi túc, tiện túc, hà thời túc. Tri nhàn, đãi nhàn, tiện nhàn, hà thời nhàn”…

Tiền rất quan trọng trong đời sống của con người nhưng tiền không phải là tất cả. Đừng quá coi trọng đồng tiền và cũng đừng lệ thuộc vào đồng tiền, mặc dù biết rằng nếu không có tiền thi làm sao chúng ta sống, làm sao để được thoải mái.

Ta vẫn biết khi ta ra đời, ta đâu có mang nó đến và khi ra đi, chúng ta cũng không mang nó theo.

Đồng tiền có thể mua một lâu đài to lớn nhưng đồng tiền không mua được mái ấm gia đình.

Đồng tiền giúp chúng ta mua được nhiều thứ tiện nghi trong cuộc sống nhưng đồng tiền không mua được sức khỏe cũng như hạnh phúc trong đời sống.
Quảng đời còn lại thì quá ngắn ngủi, ta phải sống những ngày tháng cho đáng sống, ta phải làm cho cuộc đời thêm phong phú .

Những gì cần ăn thì cứ ăn, cần mặc thì cứ mua sắm, muốn đi du lịch thì cứ đi. Tập cho mình có nhiều đam mê, tự tìm niềm vui cho chính mình.

Vào trong internet để gửi thư cho bạn bè, để chia sẻ một tin hay, một chuyện vui, một bản nhạc, đọc những bài viết có giá trị, hay “chat” với người quen biết. Chúng ta cần trao dồi bộ óc để trí nhớ vẫn còn sáng suốt.

Nếu có người bạn cần giúp, ta cứ mở lòng nhân ái, tốt bụng với mọi người. Rảnh rổi đi làm những việc từ thiện xã hội, giúp một tay tại những nơi tôn kính như nhà Chùa, nhà Thờ,… lấy việc giúp người làm niềm vui, đó là những thú vui trong tuổi già

Hơn nửa đời, chúng ta dành khá nhiều cho sự nghiệp, cho gia đình, cho con cái, bây giờ thời gian còn lại chẳng bao nhiêu nên dành cho chính mình, quan tâm bản thân, sống thế nào cho thanh thản, vui vẽ.

Việc gì muốn thì làm, ai nói sao thì mặc kệ vì mình đâu phải sống để người khác thích hay không thích, nên sống thật với mình. Sống phải năng hoạt động nhưng đừng quá mức, ăn uống quá kiêng cử thì không đủ chất bổ dưởng, quá nhàn rổi thì buồn tẻ, quá ồn ào thì khó chịu…

Cuộc sống tuổi già thật đa dạng, nhiều màu sắc nên ta cần có nhiều bạn bè, nhiều nhóm bạn bè hoặc tham dự vào những sinh hoạt trong các Hội đoàn ái hữu lành mạnh. Gặp bạn, nói ra những điều phiền muộn cho nhau nghe. Hãy tìm cách gặp gở bạn bè và người thân vì không còn nhiều thời gian nửa.

Một người lớn tuổi, sống cô đơn, biệt lập, không đi ra ngoài, không giao thiệp với bạn hữu, thế nào cũng đi đến chổ tự than thân trách phận, bất an, lo âu, ủ dột và tuyệt vọng. Từ đó bắt nguồn của bao nhiêu căn bệnh. Đừng bao giờ nói, hay nghỉ là: “ Tôi già rồi, tôi không giúp ích được cho ai nửa”. Đừng nói những lời hay những tư tưởng có ý tuyệt vọng.

Người già chỉ sảng khoái khi được có bạn tâm giao, đó là một liều thuốc bổ mà không Bác sĩ nào có thể biên toa cho ta mua được.

Ở tuổi hiện tại, chúng ta đừng nghỉ đến đồng tiền, đừng nghỉ đến giàu hay nghèo nửa và cũng đừng than trách hay hối hận vì những lầm lỗi trong quá khứ và cũng đừng tự hỏi là tại sao bây giờ ta không có nhiều tiền. Đừng nói ta không có tiền.

Có những thứ hiện đang chung quanh ta rất quí giá mà có nhiều tiền cũng không mua được, đó là người phối ngẩu của chúng ta.

Nếu có chút ít đồng tiền thì cứ tiêu xài những gì ta cần vì sẽ có lúc chúng ta để lại cho người khác xài. Nếu hôm nay ta còn khoẻ mạnh, còn ăn được những món ăn ta thích và ăn biết ngon là ta đã có một khối tài sản to lớn trong tuổi già.

Rồi ta tìm đến những người bạn cùng nhau uống tách trà nóng, ly cà phê buổi sáng, kể chuyện năm xưa hay trao đổi những kinh nghiệm trong cuộc sống hiện tại.

Cuối tuần, hẹn nhau với người bạn đi câu cá, hưởng không khí trong lành của thiên nhiên và cũng để cho tâm tư lắng đọng, tinh thần thanh thản. Đó là những niềm vui trong cuộc sống cuả tuổi già.

From: Tu-Phung


 

Nỗi Đau Lớn Nhất Của Tuổi Già…

Bảy mươi tuổi tôi mới hiểu: nỗi đau lớn nhất không phải là nhà trống trải.

Tôi tên là María.

Năm nay tôi tròn bảy mươi. Con số tròn, nghe sang thật đấy, mà chẳng đem lại chút niềm vui nào. Cả cái bánh sinh nhật con dâu làm cũng nhạt thếch. Hay có lẽ tôi đã mất vị giác — với đồ ngọt lẫn với sự quan tâm.

Lâu lắm rồi tôi vẫn nghĩ: già nghĩa là cô đơn — một căn nhà im ắng, điện thoại chẳng reo, cuối tuần chẳng ai ghé. Tôi tưởng đấy mới là nỗi đau tệ nhất.

Bây giờ tôi biết: còn tàn nhẫn hơn cả khoảng trống, là một ngôi nhà đầy người nhưng mình bị vô hình.

Chồng tôi mất mười năm trước.

Bốn mươi năm bên nhau. Một người đàn ông mộc mạc, vững chãi. Ông sửa được cái cửa kẹt, nhóm được bếp lửa, và luôn tìm đúng một câu ngắn gọn để tôi thấy yên lòng. Ông đi rồi, chân tôi như đứng trên khoảng không.

 Tôi ở lại với hai đứa con — Carlo và Laura. Tôi cho chúng tất cả. Không phải vì bổn phận, mà vì tôi chẳng biết yêu theo cách nào khác.

 Chẳng có chuyến đi xa hay bằng cấp oách, nhưng tôi luôn có mặt: lúc con sốt, lúc làm bài, lúc gặp ác mộng. Tôi nghĩ tình thương rồi sẽ quay lại với mình.

Dần dần, những lần ghé thăm thưa hẳn.

—  Mẹ ơi, con bận.

—  Cuối tuần này cũng không được đâu mẹ.

Và tôi chờ.

Một ngày, Carlo bảo:

—  Mẹ về ở với tụi con đi, cho mẹ có người bầu bạn.

Tôi xếp đồ. Cái mền tặng cô hàng xóm, cái ấm pha cà phê đem cho, cây đàn piano thì bán — rồi tôi về căn nhà rộng rãi, sáng sủa của con.

Ban đầu, dễ chịu lắm. Cháu trai ôm tôi, Laura rót cà phê cho tôi. Rồi mọi thứ đổi khác.

—  Mẹ ơi, vặn nhỏ tivi lại.

—  Mẹ ở trong phòng nhé, nhà có khách.

—  Mẹ chưa bỏ đồ giặt chung với tụi con sao?

Và những câu nói cứ dính chặt lên tường:

—  Tụi con mừng vì mẹ ở đây, nhưng đừng làm nhiều quá.

—  Mẹ ơi, đây không còn là nhà của mẹ nữa.

Tôi cố giúp: nấu ăn, giặt giũ, trông cháu. Nhưng như thể tôi không tồn tại. Hoặc tệ hơn: tôi là gánh nặng.

Một đêm, tôi nghe Laura nói chuyện điện thoại:

—  Mẹ chồng như bức tượng ở góc nhà. Có cũng như không. Thế lại… dễ cho mình hơn.

Đêm đó tôi không ngủ. Nhìn trần nhà và hiểu: người thân ở ngay bên, mà mình cô độc nhất đời.

Một tháng sau, tôi đi. Tôi nói có bạn rủ về quê ở chung.

— Mẹ đi vậy cũng tốt, Carlo đáp, nghe như thở phào.

Giờ tôi ở một căn phòng nhỏ ngoài rìa Granada. Tôi tự pha cà phê, đọc sách, viết những lá thư chẳng bao giờ gửi. Không ai chen ngang, không ai phán xét. Bảy mươi tuổi, tôi không mong gì nhiều. Chỉ muốn còn cảm thấy mình là một con người — không phải gánh nặng, không phải cái bóng.

Tôi đã hiểu:

Cô đơn thật sự không phải là sự im lặng của căn nhà.

 Đó là khi những người mình yêu ở ngay gần, mà chẳng ai nhìn thẳng vào mắt mình.

 Khi người ta chịu đựng mình thay vì lắng nghe.

Khi mình vẫn ở đó, nhưng đã bị coi như vô hình.

Tuổi già không nằm trên nếp nhăn.

 Tuổi già là tình yêu bạn đã từng cho đi… và còn ai cần đến nữa.

 Văn Chương/quinhon 11