Mọi sự hy sinh, mọi công sức có thể phải đổ sông, đổ biển!

BAOTIENGDAN.COM

Mọi sự hy sinh, mọi công sức có thể phải đổ sông, đổ biển! | Tiếng Dân

Mọi sự hy sinh, mọi công sức có thể phải đổ sông, đổ biển! Bởi AdminTD – 10/04/2020 Trương Quang Vĩnh 10-4-2020 Tính từ ca nhiễm bệnh đầu tiên ở VN ngày 23/01, đến nay đã 2,5 tháng. Từ những chủ trương quyết liệt của Chính phủ, sự l….

ĐƯA CHÚA RA XỬ ÁN

ĐƯA CHÚA RA XỬ ÁN

 Rev. Ron Rolheiser, OMI

Cả trong tâm thức sùng tín lẫn bất khả tri, có những lần chúng ta đưa Chúa ra xét xử, và bất kỳ lúc nào làm thế, cuối cùng chúng ta là người bị phán xét.  Chúng ta thấy điều này trong các đoạn Tin mừng về cuộc xử án Chúa Giêsu, nhất là trong Tin mừng theo thánh Gioan.

Như chúng ta biết, Tin mừng theo thánh Gioan họa lên hình ảnh Chúa Giêsu từ góc nhìn thiên tính, chứ không phải nhân tính của Ngài.  Như thế, trong Tin mừng theo thánh Gioan, Chúa Giêsu không có sự yếu đuối của loài người.  Ngài là Thiên Chúa từ dòng đầu cho đến dòng cuối trong Tin mừng theo thánh Gioan.  Điều này đúng cho đến từng chi tiết nhỏ nhất.  Ví dụ như, trong Tin mừng theo thánh Gioan, trong phép lạ hóa bánh ra nhiều, Chúa Giêsu đã hỏi các môn đệ xem họ có bao nhiêu bánh và cá.  Thánh Gioan viết thêm: “Ngài đã biết trước rồi.”  Không gì nằm ngoài dự liệu của Chúa Giêsu.

Chúng ta thấy điều này rõ ràng nhất trong cách thánh Gioan viết về cuộc thương khó và cái chết của Chúa Giêsu.  Không như các Tin mừng khác diễn tả Chúa Giêsu lo sợ trước số phận khủng khiếp của mình, trong Tin mừng theo thánh Gioan, xuyên suốt con đường thương khó, Chúa Giêsu không chút sợ hãi, hoàn toàn tự chủ, bình tâm, vác thập giá của mình, hoàn toàn đối ngược với hình ảnh một nạn nhân.  Tư thế của Chúa Giêsu luôn là hành động tự do, vì lòng yêu thương, và có uy quyền hoàn toàn trên tình cảnh đó.

Thánh Gioan minh họa rất rõ điểm này.  Khi quân lính đến bắt, Chúa Giêsu bước ra và tất cả những ai xáp lại phía Ngài đều ngã gục xuống đất, và trong sự phủ phục đó thể hiện sự tôn kính với Ngài.  Và những hình ảnh mang tính biểu tượng còn nhiều nữa.  Chúa Giêsu bị tuyên án tử hình vào lúc giữa trưa, đúng vào giờ các tư tế bắt đầu sát tế những con chiên vượt qua.  Sau khi chết, Chúa Giêsu được mai táng với dầu thơm và lô hội, vốn chỉ dùng cho vua, và Ngài được đưa vào huyệt đá “mới tinh” (cũng như ngài được sinh ra trong cung lòng trinh nữ.)  Thánh Gioan làm rõ rằng, chúng ta đang nhìn vào Đức Chúa.

Với tâm thức đó, hiểu rằng Chúa Giêsu luôn luôn có uy quyền và làm chủ mọi chuyện, chúng ta sẽ có thể hiểu rõ hơn ý định của thánh Gioan muốn nói với chúng ta trong trình thuật tử nạn của Chúa Giêsu.  Thánh Gioan tập trung nhiều nhất vào cuộc xử án Chúa Giêsu.  Trình thuật thương khó tập trung quanh vụ xử án và các nhân vật chính trong vụ xử án.  Nhưng trình thuật này có một điểm đảo chiều đầy mỉa mai: Có vẻ là Chúa Giêsu bị xử án, nhưng thật ra, Ngài là người duy nhất không bị xử án.  Philatô, các chức sắc tôn giáo, dân chúng, cả chúng ta ngày nay, mới bị xử án.  Tất cả đều bị xử án, trừ Chúa Giêsu.

Philatô bị xử án vì nhiều tội: Biết Chúa Giêsu vô tội nhưng không đủ can đảm để đương đầu với đám đông, rồi để cho sự điên cuồng thất thường vô tri của đám đông quyết định.  Philatô bị phán xét vì sự yếu đuối của ông.  Nhưng ông còn bị xử án vì chủ nghĩa bất khả tri của ông, cụ thể là ông tin rằng mình có thể xem chân lý và đức tin như những thứ mà ông có thể tránh né, có thể định giá chúng từ vị trí trung lập, xem đó là việc của người khác, không dính dáng gì đến mình.  Nhưng ông bị phán xét chính vì lẽ đó.  Chẳng ai có thể dửng dưng hỏi rằng: “Sự thật là gì?” như thể câu trả lời chẳng ảnh hưởng gì đến mình vậy.  Phiên tòa của Chúa Giêsu xác định Philatô và những người như ông, là có tội, tội bất khả tri, tội tránh né, tội dửng dưng, và cuối cùng là bất lương.  Mỉa mai thay, sự yếu đuối của Philatô khi không giải cứu Chúa Giêsu, cuối cùng lại biến ông thành tổng trấn và thẩm phán tai tiếng nhất lịch sử.  Với cái tên có trong kinh Tin kính, hàng triệu người đọc tên ông mỗi ngày.

Nhưng không chỉ mình Philatô bị xử án, mà còn các chức sắc tôn giáo thời đó nữa.  Trong nỗ lực bảo vệ Thiên Chúa khỏi những gì mà họ xem là bất kính, ngoại giáo, và phạm thượng, họ đã đồng lõa trong tội “giết” Chúa.  Phán quyết trong phiên tòa của Chúa dành cho họ, cũng chính là phán quyết cho nhiều chức sắc tôn giáo đến tận thời nay, đó chính là khuynh hướng nhiệt thành bảo vệ Thiên Chúa lại thường góp một tay đóng đinh Chúa trên thế giới này.

Và cuối cùng, vụ xử án những người đương thời với Chúa Giêsu, cũng như chính chúng ta.  Trong cơn cuồng loạn vô tri bừng bừng của đám đông, họ đã từ bỏ hy vọng mong chờ Đấng Thiên sai để hô vang: “Đóng đinh nó!”  Thật cũng không khác gì mấy nhiều khẩu hiệu tôn giáo và chính trị mà chúng ta hô vang ở những buổi tập hợp thời nay.  Phiên tòa xử Chúa Giêsu lại là một phán quyết rất dữ dội cho sự vô tri, thất thường và nguy hiểm của tâm tính đám đông.

Với sự tinh tế của mình, thánh Gioan đã cho chúng ta thấy, bất kỳ lúc nào bằng nhiệt thành lòng đạo sai lầm hay bằng chủ nghĩa bất khả tri lạnh lùng, mà chúng ta đem Chúa ra xử án, thì kết cục, chính chúng ta là người bị phán xét.

 Rev. Ron Rolheiser, OMI

 From:Langthangchieutim

THÊM NHIỀU NGƯỜI CHẾT LÀ DO ÔNG, TỔNG WHO Ạ!

THÊM NHIỀU NGƯỜI CHẾT LÀ DO ÔNG, TỔNG WHO Ạ!

Khi xảy ra đại dịch tại Vũ Hán, chính miệng ông nhân danh WHO nói rằng loại virus này không nguy hiểm, không phải là đại dịch. Ông còn đánh tráo tên gọi “Virus Vũ Hán” thành các tên gọi khác nhau để che giấu nguồn gốc của đại dịch. Ông cũng đề nghị thế giới không nên đóng cửa đối với Trung Quốc tạo cơ hội cho dịch lây lan toàn cầu.

Phát ngôn của ông làm cho nhân dân toàn thế giới chủ quan. Dù các chính phủ thừa biết gốc con virus này ở đâu ra, đã cảnh giác sự lây lan, nhưng bất lực vì cái phát ngôn nguy hiểm của ông. Các chính phủ không thể đóng cửa biên giới vì dân chúng tin vào miệng của ông, dân nhiều nước dân chủ sẵn sàng biểu tình hay phản ứng nếu chính phủ của họ ban bố lệnh cách ly hoặc tình trạng khẩn cấp. Cái khó của chính phủ các nước dân chủ là ở đấy.

Chính phủ Việt Nam biết rõ sự nguy hiểm của virus Vũ Hán nên cảnh giác kịp thời, nhưng cũng có người tin vào ông. Thứ trưởng Đỗ Xuân Tuyên nói loại virus này lây hạn chế từ người qua người, không phải vì tin từ miệng ông thì tin từ đâu? May mà Chính phủ và nhân dân Việt Nam không tin vào phát ngôn của ông Tuyên chứ tin thì đã vỡ trận từ lâu.

Những phát ngôn của ông mang động cơ chính trị rất rõ ràng. Thế giới đang đòi kiện Trung Quốc giấu dịch, trong khi theo tôi, với cương vị là người có trách nhiệm y tế toàn cầu, ông mới là người đáng bị kiện trước, vì đã tiếp tay giấu dịch hay đúng ra là đánh lừa nhân dân toàn thế giới.

Ông gắp lửa bỏ tay người về sự “chính trị hóa dịch bệnh” và còn đe dọa “chính trị hóa dịch bệnh chỉ khiến thêm nhiều người chết”. Ông có bình tâm để suy nghĩ rằng, nếu ông phát ngôn với tư cách nhà chuyên môn phi chính trị, nói đúng sự thật về virus Vũ Hán để cả thế giới có biện pháp cách ly cô lập dịch ngay từ đầu thì dịch bệnh chỉ diễn ra ở Vũ Hán mà không thể lây lan sang nước khác không? Tôi khẳng định, chính miệng ông đã phát tán virus Vũ Hán ra toàn cầu gây nên cái chết của hàng chục vạn người nhưng cho đến lúc này ông vẫn chưa có một lời xin lỗi hay sám hối. Theo Kinh Thánh, ông chính là Satan nhân danh WHO!

Chu Mộng Long

Image may contain: 1 person, eyeglasses and text

Dân Vũ Hán ào ào rời bỏ thành phố sau khi lệnh phong tỏa được dỡ bỏ.

Dân Vũ Hán ào ào rời bỏ thành phố sau khi lệnh phong tỏa được dỡ bỏ.

Nhân Tommy Lê

Hơn 65.000 vé tàu hỏa, tàu cao tốc, vé máy bay đã bán hết sạch sau 0h ngày 8-4-2020 tại thành phố Vũ Hán, khi chính quyền quyết định dỡ bỏ lệnh phong tỏa thành phố, khi truyền thông nhà nước Trung Quốc cho rằng đã khống chế hoàn toàn dịch bệnh virus corona tại tỉnh này.

Tại sao họ lại ra đi trong khi TQ đã tuyên bố khống chế được dịch ?

Vì nhiệm vụ chính trị hay vì không tin vào những tuyên bố dối trá kia ?

Cũng như trước đây hơn 5 triệu người đã thoát khỏi Vũ Hán trước khi thành phố này bị phong tỏa và gây kinh hoàng tang tóc cho cả thế giới.

Giờ nhiều quốc gia trên toàn cầu họ đã đóng cửa biên giới và ngừng những chuyến bay từ Trung quốc.

Việt Nam thì sao ?

Cửa biên giới vẫn rộng mở đối với Trung quốc và những con người từ Vũ Hán kia sẽ nhanh chân tiến vào và sắp tới sẽ không biết chuyện gì xảy ra cho Việt Nam !!!

Đau đớn thay phận tôi đòi !
Lời rằng bạc phận cũng là lời chung …!!!

Nguồn: Fb Nhân Tommy Lê
https://m.facebook.com/story.php?story_fbid=1313545898841694&id=100005588894985

Image may contain: 3 people, people standing

Mất tình người trong Covid-19

Mất tình người trong Covid-19
========
Tháng 1 năm 2020, Trung Quốc oằn mình trong đại dịch Covid-19, số người chết tăng vọt mỗi ngày, thành phố đóng cửa, không khí tang tóc bao trùm khắp nơi. Mỹ và châu Âu lập tức gửi hàng trăm ngàn khẩu trang, hàng trăm triệu USD và trang thiết bị cho Trung Quốc.

Cuối tháng 3 năm 2020, Mỹ và châu Âu là trung tâm đại dịch. Nhà hàng trung Quốc lập tức trương bảng chúc “Đại dịch Covid-19 đã đến Mỹ và ở lại lâu”. Trung Quốc hăm dọa cắt cung cấp thuốc cho Mỹ trong cơn nguy khốn (90% thuốc trụ sinh tại Mỹ cần các thành phần sơ chế từ Trung Quốc). Sau đó Trung Quốc “gửi” viện trợ cho châu Âu hàng trăm ngàn test thử nghiệm sai lỗi và hơn nửa triệu khẩu trang hư.

Tưởng là sự mất tình người này chỉ đến từ một số ít người Trung Quốc nào ngờ cũng có từ một số rất ít người Việt.

Gần đây, vài bài viết online và trên Facebook hả hê khi thấy nhiều người Mỹ – Âu chết, chê sự “bảo thủ của người Mỹ – Âu” trong đại dịch, không chịu nghe theo lời khuyên đeo khẩu trang, không bắt chước theo kiểu “chống dịch toàn dân” cho nên giờ chết nhiều là phải” và nước Mỹ “lo gom xác thôi”. Nguy hiểm hơn, đây là comment từ những người tự nhận mình là bác sĩ tốt nghiệp từ Việt nam và học thêm ở nước ngoài.

Câu chuyện khẩu trang vốn là chủ đề nhạy cảm vì liên quan đến văn hóa chính trị vùng miền và cách tuân thủ ở người dân. Nhưng có một điểm rõ ràng là một mạng người, dù là ở đâu, ở nước nào, cũng đều vô giá.

Nước Mỹ không phải là hoàn hảo, hệ thống Y tế Mỹ chưa phải là tốt nhất, nhưng tình người nước Mỹ luôn luôn có. Thống kê từ Marketwatch cho thấy nước Mỹ là nước cho tiền từ thiện nhiều nhất trên thế giới. Người dân Mỹ đóng góp 428 tỉ đô la cho từ thiện trong năm 2018. Năm nay, Mỹ hỗ trợ Việt Nam 3 triệu USD để chống dịch Covid-19, chưa kể khoản tiền hàng triệu USD từ tổ chức USAID hằng năm cho Việt nam để chữa trị 180,000 người đang mắc lao phổi do hơn 17,000 chết mỗi năm do bệnh này tại Việt Nam.

Covid-19 xảy ra, là phép thử lớn nhất cho sự tử tế, tình thương, và cũng là cơ hội cho những người không tử tế lên tiếng chê trách. Trong khi hàng triệu người Mỹ ở nhà giúp đỡ bác sĩ, hàng trăm ngàn người Mỹ đăng ký thiện nguyện giúp đỡ bệnh viện và các cơ sở y tế, hàng ngàn công nhân nhà máy xe hơi làm việc ngày đêm để chế tạo máy thở, hàng trăm công ty chuyển đổi kinh doanh sang sản xuất hậu cần hỗ trợ y tế, thì có những người ngồi bàn phím cười chê.

Đại dịch rồi sẽ qua.

Chúng ta có thể mất việc. Chúng ta có thể mất nhà. Chúng ta có thể mất mạng. Nhưng chúng ta đừng mất tình người, đừng mất đi sự tử tế, nhất là khi chúng ta tự nhận mình là bác sĩ.

Bài học đầu tiên cho sinh viên Y khoa tại Mỹ là sự tử tế và lòng thương người, vì đấy chính là vũ khí hiệu quả nhất của một BS có được khi đối diện với các bệnh nan y hay cơn đại dịch. Không có hai đức tính quan trọng này, bạn sẽ không được nhận vào trường Y, và dĩ nhiên không bao giờ là bác sĩ.

Dr Wynn Tran , Los Angeles, USA

Nhìn lại bức tranh toàn cảnh Vũ Hán những ngày đầu và…

Kể từ khi dịch COVID-19 bùng phát hồi tháng Một tại Vũ Hán, đến nay đã hơn 3 tháng trôi qua. Hãy cùng nhìn lại bức tranh toàn cảnh Vũ Hán những ngày đầu và điểm qua các cột mốc chính trong quá trình phát triển lây lan của dịch bệnh. COVID-19 tại Trung Quốc đã đi lại vết xe đổ của dịch SARS năm 2003 như thế nào?

https://www.facebook.com/TriThucVietNamForum/videos/313831039591062/?t=120

Liệu ‘bệnh nhân số 0’ có phải nhân viên Phòng thí nghiệm virus Vũ Hán?

Trung tuần tháng 2/2020, có một “cơn bão” xuất hiện trên mạng internet Trung Quốc: người ta thảo luận về “bệnh nhân số 0” (người nhiễm đầu tiên) của dịch bệnh viêm phổi Vũ Hán và đổ xô đi tìm cái tên một nhân viên của Viện nghiên cứu virus Vũ Hán. Tuy tin đồn này chưa được xác nhận, nhưng có rất nhiều diễn biến xung quanh đáng quan tâm.

Vào khoảng ngày 14, 15/2, một số kênh truyền thông hải ngoại tiếng Hoa đăng tải tin tức rằng: virus corona mới ở Vũ Hán (COVID-19 hay còn gọi là virus Trung cộng) xuất phát từ một sự cố rò rỉ virus tại Viện Nghiên cứu Virus Vũ Hán, dẫn đến cái chết của một nhà nghiên cứu nữ. Cơ thể của nhà nghiên cứu nữ này đã lây nhiễm virus sang cho một nhân viên tang lễ trong nhà hỏa táng, dẫn đến sự lây lan của căn bệnh.

Tin tức này lập tức gây sự chú ý trên internet. Nhiều cư dân mạng đã đào sâu tìm hiểu thêm thông tin về nhà nghiên cứu nữ này, người có tên là Hoàng Yến Linh (黃燕玲), một sinh viên cao học được nhận vào Viện nghiên cứu virus Vũ Hán năm 2012.

Bệnh nhân số 0 - Phòng thí nghiệm virus Vũ Hán
Ảnh của Hoàng Yến Linh trên mạng, cô gái hàng trên cùng, thứ 2 từ trái sang (Ảnh: Twitter)

Theo thông tin trên trang web của Viện nghiên cứu virus Vũ Hán (Viện virus học Vũ Hán, hay còn gọi là Phòng thí nghiệm sinh học P4), Hoàng Yến Linh từng theo học tại Đại học Giao thông Tây Nam, chuyên ngành vi sinh.

Trang web của Nhóm Chẩn đoán Vi sinh của Viện Nghiên cứu Virus Vũ Hán cho thấy Hoàng Yến Linh là một thành viên trong nhóm này. Trang web này hiển thị một số hình ảnh của nhóm sinh viên cao học. Nhấp vào tên bên dưới ảnh, người ta cũng có thể xem phần giới thiệu tiếng Trung và tiếng Anh cho sinh viên. Kỳ lạ thay, chỉ có khối của Hoàng Yến Linh không có ảnh, và không có giới thiệu tiểu sử trong tên.

Bệnh nhân số 0 - Phòng thí nghiệm virus Vũ Hán
Thông tin liên quan đến Hoàng Yến Linh trên trang web của Viện nghiên cứu virus Vũ Hán (Ảnh chụp màn hình trang web)

Trang thông tin của Hoàng Yến Linh trên trên trang web của Viện nghiên cứu virus Vũ Hán, trống không.

Nhưng chỉ cần xem mã code của webpage một chút, tên của cô vẫn lưu lại trên đó:

 

Trên trang web của Nhóm Chẩn đoán Vi sinh của Viện nghiên cứu Virus Vũ Hán, chỉ có khối của Hoàng Yến Linh không có ảnh và không có giới thiệu về cô trong tên:

Bệnh nhân số 0 - Phòng thí nghiệm virus Vũ Hán
(Ảnh chụp màn hình trang web)

Phản ứng của chính quyền

Trả lời phỏng vấn vào tối ngày 15/2 về tin đồn này trên internet, bà Thạch Chính Lệ, nhà nghiên cứu hàng đầu về virus corona tại Viện virus học Vũ Hán và ông Trần Toàn Giao, nhà nghiên cứu tại Phòng thí nghiệm Virus Cúm, đã nói rằng không biết có một nữ sinh viên cao học tên là Hoàng Yến Linh hay không. Tuy nhiên 2 người nhấn mạnh rằng không có nhân viên nào của Viện Nghiên cứu Virus Vũ Hán bị nhiễm loại virus corona mới.

Trước đó, trên mạng internet đại lục từng có thông tin rằng hơn 1.000 nhân viên và sinh viên của Viện nghiên cứu virus Vũ Hán đều không bị nhiễm loại virus mới. Một số người nghĩ rằng điều này là do nhân viên của viện biết cách ngăn chặn virus, nhưng một số người nghi ngờ rằng điều đó chỉ có nghĩa là virus xuất phát từ viện (nên nhân viên đã biết cảnh giác từ sớm).

Một chi tiết lạ khác là, khi phóng viên của tờ Tin tức Bắc Kinh hỏi Viện virus học Vũ Hán về tin đồn “bệnh nhân số 0”, viện đã phủ nhận rằng ở đó không có nhà nghiên cứu nào tên Hoàng Yến Linh. Nhưng sau khi biết một ít thông tin về cô Hoàng vẫn lưu lại trên mạng, viện lại trả lời rằng cô Hoàng từng làm việc tại đó nhưng đã nghỉ và không còn chịu trách nhiệm gì.

Chính quyền đã đăng một thông báo trên trang web của phòng thí nghiệm, cho biết có tin đồn là cô đã mất tích, nhưng cô vẫn còn sống và khỏe mạnh. Thông báo này không đưa ra bằng chứng gì kèm theo.

Câu chuyện này đã kéo theo tranh cãi lớn trên mạng ở Trung Quốc, nhưng đa số các bài viết đã bị xóa đi nhanh chóng. Nếu cô Hoàng còn sống và không có vấn đề gì thì tại sao thông tin và ảnh của cô trên trang web của Viện virus học Vũ Hán bị xóa, như thể họ không muốn cho ai biết các thông tin về cô?

Trong bối cảnh việc chống dịch đang rất áp lực vào trung tuần tháng 2/2020, chính quyền ĐCSTQ sẽ không muốn có bất kỳ tin đồn nào trong dân chúng. Nếu chính quyền không muốn các tin đồn này lan ra thì rất đơn giản, đó là cho cô Hoàng xuất hiện trên truyền hình, người ta sẽ thôi suy đoán.

Tuy nhiên, có lẽ lựa chọn này đã nằm ngoài tầm với của ĐCSTQ? Khi họ không thể thanh minh, cách làm thường thấy của chính quyền Trung Quốc sẽ là nói dối, che giấu và bưng bít thông tin.

>> Đại dịch Corona và lịch sử dối trá của ĐCSTQ

Ông Tập Cận Bình đột nhiên đề cập đến luật an toàn sinh học

Hiện tại, không có nguồn thông tin nào xác minh câu chuyện về Hoàng Yến Linh. Tuy nhiên, vào ngày 14 và 15/2, ông Tập Cận Bình và Bộ Khoa học và Công nghệ Trung Quốc đã liên tiếp đề cập đến tin tức về việc tăng cường luật an toàn sinh học. Điều này làm dư luận bàn tán.

Khi ông Tập Cận Bình chủ trì cuộc họp của Ủy ban Cải cách Trung ương thuộc Ủy ban Trung ương ĐCSTQ vào ngày 14/2, ông nói: “Để đối phó với những sơ hở và thiếu sót do dịch bệnh này gây ra, chúng ta phải sớm khắc phục những thiếu sót và sơ hở;” “cần đưa vấn đề an ninh sinh học vào hệ thống an ninh quốc gia và thúc đẩy đưa ra luật an toàn sinh học càng sớm càng tốt.”

Vào ngày 15/2, “Mạng Hoàn Cầu” của Trung Quốc đã công bố một thông báo nói rằng Bộ Khoa học và Công nghệ đã ban hành “Hướng dẫn về tăng cường quản lý an toàn sinh học của Phòng thí nghiệm vi sinh học cao cấp đối với virus corona mới”, nhấn mạnh sự cần thiết phải tăng cường quản lý các phòng thí nghiệm, đặc biệt là đối với virus, để đảm bảo an toàn sinh học.

Sau khi xem những tin tức nêu trên, cư dân mạng đã bày tỏ rằng chúng có ý nghĩa và ngày càng gần với sự thật.

Muốn biết virus corona, hãy hỏi… Viện virus học Vũ Hán

Viện virus học Vũ Hán là nghi vấn số 1 trong câu hỏi về nguồn gốc của virus Trung cộng. Chi tiết về các điểm nghi vấn đã được trình bày trong một số bài viết trước đây:

Trong rất nhiều các mảnh ghép, cái tên “Thạch Chính Lệ” xuất hiện rất nhiều lần. Một cách trùng hợp, bà là chuyên gia đầu ngành về virus corona ở Trung Quốc, làm việc trong Phòng thí nghiệm P4 hàng đầu – chuyên nghiên cứu các mầm bệnh nguy hiểm nhất, và một loại virus corona “khác với tất cả virus corona khác” bỗng xuất hiện ở thành phố Vũ Hán rất gần nơi bà làm việc?

Bệnh nhân số 0 - Phòng thí nghiệm virus Vũ Hán
Hồ sơ của bà Thạch Chính Lệ

Bà Thạch Chính Lệ đã tìm hiểu về virus SARS từ tận những năm 2003 và ngày càng tập trung vào tìm hiểu lây truyền virus corona chéo loài (từ dơi sang người) một cách có hệ thống từ những năm 2010.

Bà Thạch từng nhận được giải thưởng vì đã chứng minh được dơi là “kho chứa” tự nhiên của các loài virus corona. Cho tới năm 2018, bà Thạch đã có 3 bài viết khoa học về việc dơi có thể truyền virus corona sang người như thế nào. Đây đều là các thông tin công khai.

Ví dụ, trong một lần tới tỉnh Vân Nam, nhóm của bà đã lấy mẫu máu của 218 dân làng và kiểm tra. Kết quả cho thấy người dân tiếp xúc gần với dơi (sống trong các hang động gần đó) có khả năng lây nhiễm virus corona rất cao. Trong 218 mẫu máu, có 6 mẫu đã nhiễm virus corona.

Vì thế, Phòng thí nghiệm virus Vũ Hán (P4) vẫn thường đăng tải các thông báo tuyển dụng, tìm nhà nghiên cứu về mối quan hệ giữa virus corona và dơi, đặc biệt là vì sao dơi mang virus corona mà vẫn sống lâu được.

>> TT Nghiên cứu Virus Vũ Hán hai lần tuyển người nghiên cứu “virus corona mới” năm 2019

Đáng chú ý là, trước khi có thông tin công khai về loại viêm phổi lạ xuất hiện ở Vũ Hán, Viện virus học Vũ Hán lại đăng tải một thông báo nữa mang nội dung quan trọng vào ngày 24/12/2019. Nội dung có đoạn:

“Sau khi nghiên cứu dài hạn về sinh học gây bệnh của dơi mang virus nghiêm trọng, đã xác nhận rằng các bệnh truyền nhiễm lây qua người như SARS và virus corona gây hội chứng tiêu chảy cấp tính ở lợn (SADS) có nguồn gốc từ dơi, đồng thời đã phát hiện và xác định được một lượng lớn virus mới từ dơi và động vật gặm nhấm.”

Nội dung thông báo ngụ ý rằng họ đã tìm ra một loại virus mới và rất nguy hiểm, muốn tuyển thêm người để nghiên cứu cho nhóm của bà Thạch Chính Lệ.

Thông báo ngày 24/12 xác nhận rằng Phòng thí nghiệm P4 rất có thể đã phát hiện ra khả năng lây nhiễm giữa người với người và cần thêm nhân lực để xử lý.

Mặt khác, Tiêu Ba Đào (Xiao Botao), giáo sư khoa học sinh học tại Đại học Công nghệ Hoa Nam Trung Quốc, đã công bố một báo cáo có tên “Nguồn gốc có thể của các loại virus corona mới trong năm 2019” (báo cáo này sau đó đã bị gỡ bỏ, nhưng vẫn lưu bản sao ở đây). Báo cáo này của ông Tiêu có thể nói là mạo hiểm, cũng giống như trường hợp bác sĩ Lý Văn Lượng.

Báo cáo chỉ ra rằng “Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh Vũ Hán”, nơi có hơn 600 con dơi, vào năm 2017 và 2019 đã từng xảy ra sự cố, trong đó các nhà nghiên cứu bị văng máu và nước tiểu từ dơi, khiến họ phải tự cách ly trong 14 ngày. Hơn nữa trung tâm này chỉ cách chợ hải sản Hoa Nam nơi dịch bùng phát có 300m. Ngay cả lô bác sĩ đầu tiên bị nhiễm virus Vũ Hán cũng thuộc Bệnh viện Union ở gần đó. Điều này đã dấy lên nghi ngờ rằng mầm bệnh có thể đến từ mẫu thí nghiệm và rác thải bị ô nhiễm của trung tâm này.

(Ghi chú của biên tập viên: Virus gây bùng phát viêm phổi Vũ Hán là đến từ Trung Quốc dưới sự cai trị của ĐCSTQ, do chính quyền ĐCSTQ che giấu sự thật dẫn đến dịch bệnh lan ra toàn cầu. Người Vũ Hán, người Hồ Bắc và tất cả người Trung Quốc cùng nhân dân toàn thế giới đều là những người bị hại. ĐCSTQ không phải là Trung Quốc, cũng không đại biểu được cho Trung Quốc, do đó, loại virus xuất hiện dưới sự cai trị của ĐCSTQ này nên được gọi là “virus Trung Cộng.”)

Theo Kan Zhong Guo, Laowhy86,
Phong Trần tổng hợp

Những nghiên cứu khoa học xác nhận: Thiện – ác tất có báo ứng

Khoa học đã chứng minh, những người lương thiện, thích giúp đỡ người khác có đời sống hạnh phúc và tuổi thọ lâu hơn. Những người trong tâm chứa đầy oán hận, làm việc ác thì dễ sinh các bệnh tật và “ra đi” sớm hơn. Điều này đã minh chứng cho câu nói “thiện ác hữu báo” thật sự tồn tại.

M.TRITHUCVN.NET

Những nghiên cứu khoa học xác nhận: Thiện – ác tất có báo ứng – Trí Thức VN

Nhiều nghiên cứu ngày nay cũng đã xác nhận rằng thiện và ác thật sự có ảnh hưởng đến cơ thể và làm những việc tốt có thể kéo dài tuổi thọ của một người.

Vài trường hợp ác giả ác báo trong lịch sử

Cổ nhân giảng: “Không quên việc trước, dùng đó làm tấm gương cho việc sau”, lịch sử không chỉ truyền lại văn hóa mà còn cho hậu thế hiểu thế nào là thiện là ác. “Đường sơ quan tu sử thư” lại ghi: “Trừng trị cái ác khuyến khích cái thiện, ghi lại nhiều chuyện đời xưa, lấy đó làm gương cho hậu thế”. Xưa cũng có câu rằng: “Lưới trời lồng lộng, tuy thưa mà không lọt”, “thiện ác đều có báo ứng, chỉ là sớm hay muộn mà thôi.” Những câu này đều để răn đe kẻ ác là làm việc ác tất sẽ bị báo ứng. Nhìn vào sử sách với một tâm thuần tịnh, không khó để mặc khải ra đạo lý ác giả ác báo này.

ác báo
(Hình minh họa: Qua ent.sina)

Liên tiếp ba viên quan hại người gặp ác báo

Thời Võ Tắc Thiên nắm quyền, có một vị quan tên là Sách Nguyên Lễ thành danh bằng cách tố cáo vu oan giá họa người khác, hại người nhiều vô kể.

Sau này nhiều người tố cáo Sách Nguyên Lễ âm mưu tạo phản nên ông ta bị tống vào nhà lao. Lúc ấy, quan xét xử Sách Nguyên Lễ lại chính là thuộc hạ của ông ta. Thấy Sách Nguyên Lễ không chịu nhận tội, vị quan xét xử này lạnh lùng nói: “Mang cái lồng sắt của Sách công ra đây!”

Vừa nghe thấy câu này, Sách Nguyên Lễ đã toàn thân run rẩy, lập tức cúi đầu nhận tội. Cuối cùng ông ta đã bị chết thảm trong nhà lao.

Một vị quan khác là Chu Hưng dưới thời Võ Tắc Thiên cũng thành danh nhờ ngụy tạo án oan “mưu phản”. Khi ông ta đương chức cũng dùng cách bức cung nhục hình tàn khốc, gây ra vô số án oan, hàng ngàn người bị ông ta hãm hại. Sau này Chu Hưng cũng lại bị kẻ khác tố cáo “tạo phản”.

Người xét xử Chu Hưng là một vị quan khác, tên là Tuấn Thần. Trước đây trong một dịp Tuấn Thần ngồi ăn cùng Chu Hưng có thỉnh giáo Chu Hưng về phương pháp ép phạm nhân nhận tội.

Chu Hưng hãnh diện nói: “Việc này không khó, chỉ cần đệ bỏ phạm nhân vào cái chum to rồi châm lửa đốt xung quanh thì lo gì hắn không nhận tội!”

Sau này khi đến lượt Tuấn Thần xét xử Chu Hưng, ông ta đã nói: “Đệ phụng theo mật chỉ, nói có người tố cáo huynh mưu phản, mời huynh vào chum đi!”

Chu Hưng vừa nghe bốn chữ “mời huynh vào chum” thì hồn bay phách lạc, toàn thân mềm nhũn, liên tục rập đầu nhận tội.

Về sau, Tuấn Thần cũng không thoát khỏi kết cục bị ác báo bi thảm. Thời gian tại vị ông ta cũng làm quá nhiều việc ác, dùng nhục hình giết hại vô số người.

Khi Tuấn Thần tra khảo thì không kể nặng nhẹ đều đổ nước muối vào lỗ mũi để bắt họ nhận tội. Ông ta còn đào đất làm nhà lao dưới nước để ngâm phạm nhân vào trong nước hành hạ, còn bỏ đói không cho ăn khiến phạm nhân vì đói mà phải nuốt y phục thay lương thực. Nói chung, phương sách của Tuấn Thần là chưa chết thì chưa chịu buông tha.

Đến năm 697, Tuấn Thần 47 tuổi cũng bị người tố cáo phạm vào tội danh “mưu phản”. Sau đó không lâu, ông ta bị đưa lên pháp trường xử trảm. Những người căm hận ông ta nghe tin này đều tới pháp trường chứng kiến và tranh nhau xẻ thịt ông ta, chỉ trong ít phút, xác Tuấn Thần đã tan nát.

Bất kính với Thần linh, bạo quân bị sét đánh

Bậc quân vương thời cổ đại muốn được lòng dân để có thể giữ giang sơn yên bình vững vàng, thì đều chú ý làm lễ tế trời, cầu xin Thần linh che chở. Thế nhưng trong lịch sử cũng có những bạo quân bất kính với Trời Đất. Trong “Sử ký – Ân bản kỷ” ghi lại một sự kiện như sau:

Vua Võ Ất nhà Ân là vị vua bạo ngược vô đạo, kiêu căng ngông cuồng, bất kính với trời đất. Ông ta từng cho thợ làm tượng gỗ rồi gọi đó là “thiên thần”. Võ Ất còn sai người đóng vai “thiên thần” để cùng nhau chơi cờ phân thắng bại với mình, hoặc bắt người và “thiên thần” giả đánh nhau. Nếu “thiên thần” thua, Võ Ất sẽ bắt mọi người tra tấn và làm nhục “thiên thần”. Ngoài ra, Võ Ất còn làm một cái túi da cho đầy máu vào trong, treo lên cao và giương cung bắn rồi nói rằng đây là ta đang “bắn trời”.

Võ Ất tại vị được 5 năm. Trong một lần đi săn đến chỗ sông Vị Thủy, Hoàng Hà, thì bỗng nhiên sấm sét nổi lên, đánh chết ông ta. Sử sách ghi chép rằng, Võ Ất chết vô cùng thê thảm.

Nhiều vị quân chủ đời sau luôn lấy chuyện này làm tấm gương cho mình. Họ cũng rất coi trọng việc tôn kính Trời Đất, không dám làm việc càn quấy vì sợ bị quả báo giống như Võ Ất.

An Hòa

CHUYỆN TÙ “CẢI TẠO” CỦA PHÓ TỔNG THANH TRA NGÂN HÀNG QUỐC GIA VNCH – TRẦN ĐỖ CUNG

CHUYỆN TÙ “CẢI TẠO” CỦA PHÓ TỔNG THANH TRA NGÂN HÀNG 

QUỐC GIA VNCH – TRẦN ĐỖ CUNG

 “…Phí phạm “chất xám” như vậy để cho ba chục năm thống nhất đất nước vẫn lạc hậu. Bây giờ kêu gọi trí thức và “chất xám” trở về xây dựng lại nước thì thật khôi hài và có tin được chăng?…”

Một bạn thân ở Montréal Canada vừa gửi cho tôi cuốn Pháp ngữ Souvenirs et Pensées, viết bởi Bà Bác Sỹ Nguyễn Thị Đảnh và được Bác Sỹ Từ Uyên chuyển qua Việt Ngữ. Bạn lại khuyến khích tôi nếu có thì giờ thì chuyển qua Anh Ngữ theo sự mong muốn của tác giả. Sau khi đọc tôi thấy đặc biệt ở chỗ tù cải tạo này là một chuyên viên tài chính ngân hàng, khác hẳn trường hợp thường thấy của các sỹ quan trong quân lực. Ông Thảo bị đầy đọa sáu năm rưỡi trời để hy vọng moi các hiểu biết của ông về tài sản Ngân Hàng Quốc Gia.

Bà Bác Sỹ Đảnh nay định cư tại Oslo Na Uy là một phụ nữ miền Nam, Tây học. Phu quân Đỗ Văn Thảo cũng là người Nam, sinh ngày 21 tháng 8 năm 1927 tại Gò Công. Sau khi tốt nghiệp Đại Học tại Pháp ông Thảo đã về làm việc tại Ngân Hàng Quốc Gia Việt Nam từ tháng Tư năm 1955. Ông đã giữ chức Giám Đốc Nha Ngoại Viện rồi Phó Tổng Thanh Tra Ngân Hàng  Quốc Gia cho đến ngày 30 tháng Tư năm 1975. Ông bị đi tù cải tạo tháng 6 năm 1975 rồi bị lưu đầy ra Bắc cho đến tháng 9 năm 1980. Đến tỵ nạn chính trị tại Bergen, Na Uy tháng 12 năm 1981, ông tạ thế tháng Giêng năm 2001 tại Oslo, Na Uy vì trụy tim.

Câu chuyện Bà Bác Sỹ Đảnh kể lại về sự tù tội Việt Cộng của đức lang quân cho thấy đặc biệt có ba khía cạnh. Là người Nam thuần túy, là chuyên viên được huấn luyện công phu và chưa bao giờ liên quan đến quân đội. Nhưng Việt Cộng cưỡng chiếm miền Nam đã hành xử như quân xâm lăng, cầm tù những chuyên viên rồi vơ vét của cải đem về như Phát Xít Đức Quốc Xã khi tiến vào Paris. Sự thiển cận của họ đã đưa đến sự kiệt quệ tột cùng cho đến bây giờ vẫn chưa ngóc đầu lên ngang hàng với các nước lân bang. Nay mở miệng mời chào người Việt nước ngoài trở về đem chất xám giúp nước thì thử hỏi có nghe được không?

Câu chuyện do bà Đảnh kể lại trong thời kỳ gia đình bị kẹt vì lỡ chuyến ra đi của tầu Việt Nam Thương Tín. Những ôn tưởng chỉ được ông Thảo thỉnh thoảng nhắc đến vì ông không muốn trải qua một lần nữa những hình ảnh dã man mà ông đã trải qua. Bà hết sức căm nước Pháp đã hùa theo Việt Cộng chỉ vì thù Mỹ đã không giúp họ xâm chiếm lại xứ Việt Nam trù phú sau khi Thế Chiến II chấm dứt. Bất hạnh cho Việt Nam, trong khi cộng sản Nga Hoa chỉ ngầm giúp Hà Nội thì Mỹ ồn ào đổ quân vào làm mất chính nghĩa của chúng ta đã bị nhóm thiên tả và CS cơ hội bóp méo thành chiến tranh chống Mỹ cứu nước. Bà viết để vinh danh những ai đã trải qua địa ngục trần gian tù cải tạo Việt Cộng. Và cũng để nói lên lời an ủi tới những ai đã bị phân tán ra bốn phương trời, làm cho không những mất gốc  mà còn mất cả cá tính nữa.

Bà cùng gia đình bị kẹt lại trong cư xá sang trọng của Ngân Hàng nằm trên đường nhỏ hướng ra cầu xa lộ mới. Bà thấy rõ sự chiến đấu dũng cảm của một Trung Đội Nhẩy Dù với 20 binh sĩ chỉ huy bởi một Thiếu Úy trẻ măng có vẻ mới ra trường. Nhìn các quân nhân rắn chắc, nét mặt kiêu hùng và người chỉ huy Thiếu Úy trẻ nhưng chững chạc, bà đã chia xẻ đồ ăn với họ và có cảm tưởng đã cùng họ chiến đấu. Cuối cùng tất cả quân sỹ đã bị hy sinh một cách tức tưởi.

Bà nói: “Ai dám bảo là quân ta không chịu chiến đấu”? Trong khi ấy những phát súng lẻ tẻ của du kích Mặt Trận Giải Phóng quấy rối giữa những tiếng nổ đại pháo. Ngoài đường một sự hỗn loạn không tưởng tượng được khi bọn hôi của nhào vào các nhà vắng chủ và du kích Việt Cộng ngày càng hung hăng tàn ác.

Rồi ông Thảo phải ra trình diện theo lệnh của quân quản Sài Gòn. Ông  thật thà nghĩ rằng vì vợ chồng ông là các chuyên gia thuần túy nên chính thể mới sẽ cần đến những bàn tay xây dựng lại quốc gia. Ông nói với vợ rằng: “Nếu họ không ưa chúng ta thì họ cũng không thể xử tệ với chúng ta. Họ không thể giết hết tất cả”. Một Pol Pot đã làm như vậy, nhưng họ đã thấy là không có lợi gì hết. Tuy nhiên Việt Cộng đã làm những việc tệ hại hơn nhiều. “Chúng tôi không hiểu rõ cái thực tế của cộng sản.

Chúng tôi đã nuôi ảo tưởng rằng cộng sản là một xác tín cao đẹp. Song  đem cái xác tín ấy vào đời sống con người bằng võ lực đã làm mất hào quang lý tưởng và thơ mộng. Và như vậy nó trở nên tầm thường, bẩn thỉu, ích kỷ và man rợ”.

Ngày 15 tháng Sáu năm 1975 bà Đảnh đã chở ông Thảo và các con trên chiếc xe VW Variant đến một ngôi trường bỏ không gần Sở Thú. Ông gập một bạn cũ cùng đi trình diện nên thấy đỡ cô đơn hơn. “Khi chia tay tôi nhìn thấy trong ánh mắt anh ấy sự tiếc nuối, lo âu và tình yêu đằm thắm. Anh chưa biết rằng sự chia tay này kéo giài cả hơn sáu năm rưỡi trời. Ánh mắt sâu thẳm ấy theo tôi mãi mãi ngày đêm và không bao giờ tôi quên được. Hầu hết các gia đình đều chịu hoàn cảnh như vậy, không cha, không chồng. Tôi may mắn thuộc thành phần không làm điều gì sai quấy và được đồng sự mến, không phải loại có nợ máu lớn với nhân dân, nên được gọi đi cải tạo trong một tuần lễ”.

Rồi xảy ra việc vơ vét toàn diện. Tại Bộ Giáo Dục cũ không một cái gì là bị bỏ sót, cục tẩy, cái bút BIC, giấy, tập vở đều bị thu gom chở về Bắc trên các xe vận tải nhà binh đầy ắp. Những cán bộ miền Nam thấy bất bình, “Chúng ta bây giờ thống nhất vậy của cải miền Nam phải được để lại miền Nam vì ở đây cũng cần các phương tiện để xây dựng lại chớ”? Bà nói: “Khi tôi nghĩ dến những đứa con miền Nam đã gia nhập MTGPMN tôi không khỏi khinh bỉ và tội nghiệp. Một số ít có thể là những người yêu nước thật sự tuy nuôi một lý tưởng ngu đần để bị VC xập bẫy. Họ đã làm gì để giúp đỡ quê cha đất tổ? Hay là giúp tay xa lìa sự trù phú, sự phồn thịnh và cả tự do nữa”?

Các cán bộ cộng sản thường vào tư gia mượn những thứ cần dùng. Họ được đối xử tử tế nhã nhặn. Nhưng một hôm một cấp chỉ huy vào nhà. Bà lịch sự rót một cốc nước mát mời thì ông ta túm lấy vai đứa con trai nhỏ bắt húp một ngụm trước. “Tôi đâu có ngu gì mà đầu độc họ ngay tại nhà tôi? Họ ra vào nhiều lần và tôi cảm thấy họ muốn cái gì, có lẽ muốn cái nhà của tôi? Ý tưởng đào thoát manh nha trong đầu tôi. Với sự hiện diện của báo chí và những quan sát viên, nên VC còn tỏ ra dè dặt, không dám ra mặt tham lam áp chế dân chúng. Cũng may là chẳng bao lâu sau cả đoàn quân CS bị chuyển qua Cao Mên”.

Một tháng sau khi trình diện học tập cải tạo không thấy một ai được về nhà. Cậu con trai lớn luôn luôn đạp xe quanh ngôi trường mà cha cậu trình diện thì thấy vắng tanh. Khi đem người trưởng gia đình đi thì tạo ra một không khí bất an và đạt được hai mục đích, vô hiệu hóa người chồng người cha và cùng một lúc kiểm soát được mọi người trong gia đình. Nhiều gia đình chỉ trông cậy vào đồng lương cha chồng đem về hàng tháng thì bây giờ túng quẫn. Và sau hai lần đổi tiền, những người giầu có nay thành nghèo và những ai đã nghèo nay lại càng xơ xác. Sau một tháng quy định chẳng ai được trở về. Thỉnh thoảng có một vài người có lẽ thuộc loại có móc nối hay không nợ máu thấy lẻ tẻ trở về. Một người quen cho biết là chồng bà bị chuyển tới trại Long Thành.

Một loạt xe vận tải nhà binh đến chở các tù nhân đi. Họ không biết là đi tới đâu. Trong đêm tối đến một khu rừng mà họ không biết là Long Thành và bị lùa vào mấy gian trại bằng tre lá và lèn chặt như cá hộp. Ngay sáng hôm sau tù phải bắt tay xây cất các trại giam khác cho những người tới sau. Có cảm tưởng là Việt Cộng không có kế hoạch gì cả, chỉ thực hiện theo nhu cầu xẩy đến và tù nhân phải dựng lấy trại giam cho mình. Mục tiêu quan trọng lúc đó là gom lại và vô hiệu hóa các thành viên của chế độ cũ. Mục đích thứ hai là cách ly quân đội với hành chính. Các cấp hành chính do cán bộ canh giữ còn các quân nhân bị đặt dưới bộ đội và các sỹ quan Việt Cộng canh chừng. Chỗ nào cũng là rừng nên không ai biết được bao nhiêu trại tù rải rác ở đâu.

Mỗi nhà giam có thể lèn chừng 50 tù, mỗi người có được chừng 80 phân để nằm ngủ ngay trên mặt đất. Về đêm phải chịu hơi lạnh của núi rừng và khi mưa phải chịu ướt át. Bà hỏi chồng có nhớ đến cái mùng mà anh cẩn thận gói theo.

Anh nói, “Trong hoàn cảnh ấy mùng đâu có ích gì và một anh bạn khéo tay đã giúp cắt ra may thành một áo trấn thủ dầy dặn với nhiều lớp vải mùng khiến cho anh qua được cảnh rét mướt”! Mỗi đêm có điểm danh trước khi cho vào đi ngủ sau khi cán bộ đã khóa chặt nhà tù.

Đồ ăn thật đơn sơ nhưng còn có gạo nên không bị đói. Cơm được nấu trong các chảo to nên có nhiều cháy là một món ngon mà đứa bé con cô cán bộ nhà bếp luôn luôn chầu chực. “Nhà tôi sực nhớ đến đứa con nhỏ ở nhà mà lòng bồi hồi xúc động”! Vấn đề nước khó khăn hơn vì chỉ có mỗi một cái giếng và khi lao động về phải sắp hàng tắm rửa. Những người lớn tuổi chậm chân nên đến lượt mình thì đã tới giờ điểm danh trở về phòng nên không bao giờ được dùng nước.

Tù phải viết bản báo cáo mỗi ngày, nói rõ những gì bản thân họ đã phạm trước kia và những gì cha hay thân nhân họ đã làm. Nay mới thấy sự ích lợi của các cây bút BIC. Các bản báo cáo trở thành ác mộng của tù nhân. Viết ít chừng nào tốt chừng ấy và phải nhớ những gì đã viết để có thể viết lại những báo cáo sau. Ý đồ của quản trại là bắt tù từ bỏ niềm tin, chối bỏ lý tưởng và gia đình, khinh rẻ chế độ cũ và chửi rủa các cấp lãnh đạo cũ. Thật là khó khăn cho những ai thẳng thắn với những nguyên tắc có sẵn hay những người bản chất hiền hòa không biết chửi bậy. Song viết ngắn quá cũng bị nghi ngờ là thiếu thành thật và tù bị gọi lên hạch hỏi đủ điều, chữa đi chữa lại. Kết quả là tù phạm tội nặng hơn để rơi vào bẫy sửa sai không ra thoát.

Có lệnh cho đi thăm tù. Những người như bà Đảnh là công nhân viên phải có giấy phép của cơ quan ghi rõ lý do nghỉ phép. Và chỉ được đem theo tối đa 5 kí thực phẩm và mỗi gia đình chỉ có ba người được đi thăm. Với bốn đứa con, đem đứa nào đi, để đứa nào lại? Trong khi thăm chồng phải ngồi hai bên bàn dài cùng những người khác, có cán bộ đứng đàu bàn lắng nghe. Phải nói to, không được dùng ngoại ngữ. Vợ chồng trao đổi những vấn đề sức khỏe và kinh tế gia đình, bán chác quần áo cho các bà miền Bắc bây giờ ham chưng diện lắm. Khi hết giờ thăm, tù đứng giậy nhặt gói quà trở về nhà giam. Có người còn bị mắng vì ôm hôn người thân hay căn dặn thêm vài điều. Trong phòng những tiếng òa khóc nổi lên như sóng gió trong cơn mưa bão. “Tôi cố nhịn khóc nhưng khi về đến nhà vào phòng tôi bật khóc lệ tràn như suối”.

Từ tháng 10/11, 1976 bà Đảnh không nhận được thư nào của chồng nữa và biết là chồng không còn ở Long Thành. Từ nay gửi thư cho anh phải qua một địa chỉ mới tại hòm thư A-40 khám Chí Hòa. Thư từ quà bánh tối đa 3-5 kí phải gửi qua một địa điểm ở một ngôi trường không xử dụng nữa. Hai đứa con lớn phải đi thi hành các nghĩa vụ công ích không lương, tối phải tạm trú tại những chỗ nào tạm che mưa nắng. Đã có dấu hiệu chống đối ngầm trong giới trẻ. Nhưng chúng bị răn đe, phải cố gắng theo chỉ thị thì cha anh mới được mau chóng tha về. Thật là xảo trá, lợi dụng lòng thương xót cha anh để ép chúng phục vụ.

Một ngày đen tối nhất của tháng 10 năm 1976, các tù được lệnh đổi trại giam. Đây là lúc cán bộ lục lọi khám xét thủ tiêu mọi chuyện. “Chồng tôi ghi chép nhật ký trong một cuốn sổ tay nhỏ hầu mong kể lại cho con những điều đã trải qua. Anh đã vội vã thủ tiêu cuốn sổ”. Tù đươc chất trên các xe vận tải, tay xích người nọ với người kia. Sau hàng giờ đi vòng vo họ bi lùa xuống hầm tầu thủy và chân bắt đầu bị khóa.Tầu đi ngang qua một khu mà nhìn qua lỗ hổng hầm tầu anh nhận ra cây cầu gần nhà, nơi đây vợ con đang ở, rất gần anh nhưng xa, xa lắm. Nước mắt anh dâng trào, không biết đang đi về đâu, xa Sài Gòn vì đây là Tân Cảng.

Chừng 7 tháng sau cái địa chỉ kỳ quái Chí Hòa, có một người tới gập bà Đảnh nhưng không dám vào nhà. Ngó trước ngó sau, phải trái, rồi anh vội nói, “Chồng chị đang bị giam tại miền cực Bắc. Tôi cũng bị giam ở đó nhưng vì vợ tôi là người Đức nên đã nhờ tòa Đại Sứ Tây Đức can thiệp”. Mắt tràn lệ, anh nói tiếp, “Chị biết chúng bắt tôi và anh làm gì không? Ngày ngày gánh phân bón rau và đó là việc nhẹ dành cho người yếu sức”! Bà bật khóc thảm thiết, ngồi bệt xuống vệ đường rồi anh bạn bỏ đi thật nhanh để khỏi bị nhòm ngó.

“Chồng tôi chẳng phải là một ông lớn tại miền Nam mà cũng không phải là các Tướng Lãnh uy quyền. Nhưng anh thuộc loại có thể khai thác được. Họ muốn biết vàng, đô la hay các kho tàng của miền Nam chôn dấu ở đâu. Họ hạch hỏi khai thác bắt làm việc đều đều, nhưng cho là không thành khẩn khai báo nên đầy ra miền Bắc cộng sản”.

Hầm tầu chật chội với các chất thải vệ sinh của tù nên tạo ra một mùi hôi hám khủng khiếp không tả nổi. Hành trình rất dài không ai nhớ rõ. Sau cùng cũng tới hình như Hải Phòng và chuyển lên các xe tải, chân vẫn xiềng xích. Xe chạy qua một số làng xóm, dân làng đua nhau la ó chửi bới và mọi người biết đây là đất địch. Có các bà chửi, “Đồ Tàu Phù khốn kiếp”! Thì ra họ tưởng là tù binh Trung Quốc.

Cán bộ la to, “Đây không phải là tù binh Trung Quốc”. Nhưng họ cũng không dám bảo là tù miến Nam vì họ sợ phản ứng của dân quê thật thà, thương hại hay cùng chia xẻ nỗi đau buồn. Đêm tới thì đến một ven rừng bát ngát. Tù được tháo cùm và lùa sâu vào rừng rậm, đi bộ dăm bẩy cây số và đến một hàng rào bao quanh một số trại. Các cán bộ vào trại, để mặc tù lo liệu chỗ ngủ qua đêm. Sáng hôm sau tù bỏ tay vào xây cất lấy trại tù cho chính mình.

Đúng 31 tháng Chạp Dương Lịch các gia đình tù nhận được một món quà chính thức cuối năm, một lá thư của thân nhân đang bị giam tại trại Bắc Thái. Ông Thảo không gập lại những bạn tù Long Thành và phải bắt đầu làm quen với các bạn tù mới. Tù được lệnh trao cho một cán bộ gái tất cả tài sản, đồng hồ, bút máy, nhẫn vòng tay, dây chuyền và tiền mặt để được liệt vào một cuốn sổ ghi tên sở hữu. Ông Thảo nhất định không đưa chiếc nhẫn cưới với lý do vì lâu ngày không kéo ra được. Sau khi dùng xà bông mà cũng không xong thì họ văng tục và thôi không thử tháo nữa. Ông nói dù họ có cố rút ra nhưng nếu ông cố ý giữ thì cũng vô hiệu vì ông nhất định không rời cái nhẫn cưới mà ông coi là tượng trưng quý báu.

Ban quản trại đều là người Bắc khắc nghiệt và khó tính. Tù thấy luôn luôn bị theo rõi sát nút. Báo cáo hằng ngày bị phân tách kỹ lưỡng, thảo luận và bị phê bình. Các cán bộ hung dữ và lộng quyền, không ngớt tỏ ra là người chiến thắng. Nhưng đừng lầm tưởng họ thèm muốn những gì chúng ta có, họ thấy chúng ta giỏi hơn họ trên mọi phương diện. Họ luôn khiêu khích, nói xiên nói xỏ, đả kích chê bai và phê bình. Và đây là tình trạng khủng bố tinh thần kinh khủng.

Về phương diện vật chất vì quá đông người nên trong phòng một tiếng động nhỏ cũng vang âm. Một tiếng ho, một cái hắt xì cũng khiến một số tù nhân thức giấc. Nhiều bạn tù trong cơn ác mộng đã rên la, gào khóc. Không ai quên được một bạn già cỡ sáu chục, góa vợ với đứa con thơ dại nên đêm đêm nức nở khi đi ngủ thương xót đứa con bỏ lại miền Nam không ai săn sóc. Giếng nước duy nhất rất gần trại nên phải nấu sôi để uống. “Chồng tôi làm công tác hôi thối gánh phân nên cần tắm rửa mỗi chiều tối. Nhưng nước lạnh cóng khi xối lên người thi da đỏ ửng. Anh còn đùa rằng, “thật may là da và phổi còn tốt”.

Nhưng cái đói thật là kinh khủng. Khi còn ở miền Nam thì nắm cơm còn thực là nắm cơm đầy đủ gạo. Ở đây, cơm phải trộn những hạt bo bo vỏ thật cứng thường phải xay ra để cho súc vật ăn. Một số lớn không muốn hy sinh bộ răng cấm nên phải ngồi nhặt các hột bo bo ra để chỉ còn lại được một muỗng cơm trong bát cơm độn. Nhiều người bị lủng củng tiêu hóa và bị tháo dạ. Cái đói thật khủng khiếp ngày đêm làm cho con người bớt sáng suốt, dảm ý chí và mất óc phán đoán.

“May mắn là cả bốn đội trưởng đều là bạn thân của em tôi. Nếu không nhờ các bạn đó và các y sĩ đồng nghiệp của tôi giúp đỡ thì chắc gì anh đã sống đến ngày được thả”!

“Tôi cố tìm hiểu vì sao mà anh bị giam giữ lâu thế? Phải chăng anh được nhiều bạn tù cảm mến nên anh bị giữ lâu? Anh luôn luôn được gọi lên yêu cầu hợp tác để giúp trại sinh hoạt tốt. Nếu nhận lời thì sẽ được cấp phần ăn như cán bộ, được miễn lao động và hưởng nhiều ưu đãi. Nhưng anh đã từ chối và bị giam giữ lâu hơn”.

Đầu tháng 9 năm 1978 ông Thảo gửi thư về cho biết quản trại đã phổ biến tin cho thân nhân đi thăm và tù được nhận thực phẩm. Ông cũng dặn nếu muốn ra Bắc thì liên lạc với một bà gốc Bắc có chồng cùng bị giam giữ với ông. Bà này biết rành Ha Nội và biết rõ manh mối chạy chọt giấy tờ di chuyển và cũng biết cách xoay xở vé xe lửa khứ hồi. Và từ nay bà Thảo biết các mánh khóe luồn lọt thật mất thì giờ, khó khăn và tế nhị. Tất cả các sự việc đều có thể mua bằng tiền, chạy đúng chỗ và không để lộ ra vì hối lộ là một trọng tội. Đối với bà lại còn khó khăn hơn vì trước kia đã phục vụ ngụy quyền và chồng đang bị tù cải tạo.

Mãi mới xin được giấy phép nghỉ nhưng chưa biết cách nào đi. May thay có một ông bạn có cô em trước làm tiếp viên phi hành cho Air Vietnam cũ và nay còn được lưu dụng bởi hãng Vietnam Airlines mới chưa có ai đủ khả năng thay thế. Cô này rất tháo vát và đã kiếm cho bà một vé máy bay vào tháng 11. Khi ra máy bay với xách đồ ăn khô cô ta đã giới thiệu là dì ruột và đưa bà lên máy bay, căn dặn là đừng tỏ ra sợ sệt quá. “Khi đã lên máy bay, không ai biết được là mình không có quyền xử dụng máy bay và khi về thì đã có người cho phép đi nên không có ai dám cản trở về”.

Khi đến phi trường Gia Lâm nhỏ xíu bà lên xe quân sự chờ đón khách. Bà gọi một xe xích lô đạp về nhà cán bộ giáo dục trẻ Sơn mà bà được bà thủ trưởng Sâm giới thiệu. Cha mẹ Sơn đều là giáo sư Đại Học tiếp bà ân cần và thông cảm. Họ được ở ngôi biệt thự cũ gần hồ Hoàn Kiếm tuy chỉ dược xử dụng có một căn phòng với một cầu tiêu lối cổ. Ông đã cơi lên một gác xép làm chỗ ngủ cho ông và con trai. “Tối đến họ dẹp bàn ghế vào tường và trải một chiếc chiếu rộng dưới sàn cho bà mẹ, cô chị dâu, cháu gái nhỏ và tôi nằm. Trong khi tôi thao thức vì sắp gập chồng sau hơn hai năm xa cách thì ai cũng ngủ ngon lành”.

Khi đợi người hướng dẫn đến bằng xe lửa phải mất ba tuần lễ, bà Đảnh ra phố quan sát thấy các nhóm người bán đồ lậu. Cái gì họ cũng có, phần nhiều là các gói nhỏ đường, trà, cà phê, bao thuốc lá và các thỏi chocolat nhỏ đựng trong các túi xách. Bà mua các gói kẹo chocolat vì mang từ Sài Gòn ra không tiện. Họ nói mua gì cũng có trữ tại nhà vả trả tiền xong là hôm sau họ sẽ giao. Người hướng dẫn cho bà đến nhập bọn ngủ dêm để sáng hôm sau ra ga lúc 5 giờ cho kịp chuyến xe lửa Đông Bắc.

Người đông như kiến, chen lấn lộn xộn và “tôi cùng bà chiếm được hai chỗ trên bực ngoài toa cho đến sau khi qua nhiều ga xép mới mò vào được bên trong để ngồi xệp xuống sàn tầu đầy rác, đỡ nạn bụi khói và mưa phùn giá lạnh”.

Từ trạm xe lửa đi đến vùng Bắc Thái phải dùng xe bò. May thay bà hướng dẫn đã nhanh nhẩu quá giang được một xe chở dầu nhà binh với tiền thù lao nhỏ 20 đồng. Đến ven rừng phải thuê một xe bò tới trại giam qua một con đường gập ghềnh với giá 15 đ một người. Tới cổng trại, một căn nhà lợp tranh thì cán bộ xét giấy và cho hai người một vào ngồi đợi ở một cái bàn nhỏ chữ nhật. Hai mưoi phút sau thân nhân được dẫn ra, yếu ớt, thân hình tiều tụy xác xơ trông thật đau lòng. Cán bộ đứng ở đầu bàn và phải nói to cũng như không được dùng ngoại ngữ. “Tôi không biết được gập anh bao lâu nhưng mục đích tôi là xin phép anh đưa các con trốn khỏi nước. Tôi có bổn phận báo cho anh biết là phải liều lĩnh như tự sát vì chừng 50% đến được bến tự do”. Nhưng làm sao để không cho cán bộ biết?

“Tôi nghĩ cách nói là mẹ con muốn đi vùng kinh tế mới”, thi anh xúc động hỏi lại, “Bộ chúng không đủ ăn sao”? Bà chậm rãi trả lời, “Chúng muốn làm lại cuộc đời mới và gập lại hai bà gì đã đến đó trước rồi”. Ông Thảo suy nghĩ rồi chợt hiểu là chị và em tôi đã định cư ở Âu Châu từ lâu và dặn dò, “Đừng để cho các con bơ vơ, em phải đi với các con còn quá nhỏ”! “Chúng tôi chuyện trò đủ chuyện Sài Gòn trước đây, nhà cửa, tình trạng gia đình thân nhân nội ngoại và anh không thổ lộ gì về hoàn cảnh của anh và số phận hiện tại”.

Sau một giờ thì cán bộ thổi còi chấm dứt thăm nuôi. Các tù nhân đứng lên lượm gói quà và sắp hàng về phòng giam. “Chồng tôi ôm tôi và thì thầm, em phải đi với các con và như vậy trong tương lai có thể dễ tìm lại nhau”. Lần thăm nuôi chỉ có bốn người đi thăm khốn khổ. Không một lời phản kháng hay thất vọng. Nước mắt có chảy cũng trong thầm lặng. Nơi đây hy vọng còn ít hơn ở Long Thành. “Rã rời tôi có cảm tưởng như sống những giây phút cuối cùng và tôi không còn biết tôi là ai nữa. Nếu tôi ra đi cùng các con thì rồi đây ai săn sóc anh, và biết có gặp lại nữa không”?

Chiều về tới Hà Nội, tôi e họ sẽ không cho tôi ghi vé trở về. Cha anh Sơn chở tôi bằng xe đạp ra trạm hàng không. Họ hỏi tôi đủ điều, lý do đi thăm, trú ngụ ở đâu, thấy thủ đô ra sao và đã đi thăm lăng Hồ Chủ Tịch chưa? “Tôi phải vui vẻ tỏ ra mãn nguyện và phải chấp nhận bất cứ cách giả dối nào để về với các con tôi. Tôi đã thành công và được về trên chuyến bay hai ngày sau”. Còn hơn một ngày tôi mướn một xe xích lô đi một vòng quanh Hồ Gươm. Hồ quá nhỏ, nước đen ngòm mà mùi hôi thối xông lên nồng nặc. Không thấy dấu hiệu hư hại vì oanh tạc chỉ có cây cầu Doumer và đôi chút ở một bệnh viện mặc dầu họ tuyên truyền ầm ĩ là bị phi cơ hủy hoại. Tôi đã nói dối ở trạm hàng không. Tôi đã không đi thăm lăng chủ tịch mà chỉ đi xích lô phớt qua. Không có gì đặc sắc, chỉ là một kiến trúc lạc loài bê tông cốt sắt với các cột lạnh lẽo như trong thời cổ. Nhưng nếu tôi vào trong để nhìn thấy con người mà họ cho là thần thánh thì tôi đã ớn lạnh về sự lọc lừa phản bội của ông ta đã đưa nước nhà vào một cuộc chiến tàn khốc, tạo nên mối chia rẽ toàn dân và cả nước”!

Hà Nội một thành phố cổ kính thì nay đã tiều tụy, không được coi như một bà già mà là một đứa con nít thiếu dinh dưỡng lâu ngày, bụng ỏng, đít eo, chân tay khẳng khiu mang chứng bệnh còm cõi và già nua sớm không phương cứu chữa. “Tôi không muốn những ai đã rời Hà Nội năm 1954 trở lại để thấy sự điêu tàn khắc nghiệt vì tiền của nhân lực đều xung vào chiến tranh. Cha mẹ Sơn cũng như người hướng dẫn tôi đều hình như thổ lộ là họ đã sống qua ngày hướng về miền Nam. Nhưng nay miền Nam đã xụp đổ, thế là hết cả. Cuôc viếng thăm rất có kết quả vì tôi đã nói được với nhà tôi một điều cần thiết. Và tinh thần nhà tôi hình như đã vững hơn, bắt đầu yêu đời hơn và thấy hy vọng”.

Bà Đảnh đã đưa bốn đứa con vượt biển ngày 1 tháng 5 năm 1979 lợi dụng sơ hở vì mải liên hoan ngày lễ. Cả gia đình lênh đênh trên biển cả thì gặp một chiếc tầu chờ dầu Na Uy vớt. Vì vậy khi ông Thảo được thả về thì nhà đã mất và phải tạm trú nhà bà chị. Ông bị các đè ép từ các cơ quan công an phường, quận. Không có hộ khẩu nghĩa là không được phiếu mua thực phẩm và các đồ lặt vặt như thuốc đánh răng. Phải luôn luôn trình diện và đẩy  đi vùng kinh tế mới. Nhưng nếu xa Sài Gòn thì làm sao có được tin tức nên ông đã chán nản nghĩ liều đi trốn. Bà Đảnh phải nhắn về xin yên tâm đừng liều mạng vì đã có chương trình bảo lãnh và Cao Ủy tị nạn đã đặt thêm một văn phòng ở Sài Gòn.

Bà gửi về các giấy tờ cho nhiều nơi để khỏi thất lạc.

Cuối cùng, sau nhiều lần chạy chọt khó khăn và nhiêu khê, ông Thảo đã được giấy phép xuất cảnh. Bà Đảnh nói, “Không chối cãi việc Việt Cộng đã trả lại người thân cho chúng tôi. Nhưng họ đã ra sao khi được thả? Một số đông đã chết như anh đội trưởng giúp đỡ  tận tình bạn tù. Anh chết tức tưởi trong tuổi hoa niên của cuộc đời. Qua hành hạ thể xác độc địa nhằm triệt tiêu nhân phẩm, Việt Cộng không tàn phá nổi thể xác nhưng đã để lại trong tâm hồn tù nhân nhiều rạn nứt in hằn. Lập trường chính trị, tín ngưỡng, lòng yêu nước không bao giờ xóa tẩy được”. Bà Đảnh kết luận, “Tôi chấm dứt bằng một câu xúc tích của chồng tôi khi anh đặt chân xuống đất Na Uy”: “Chúng tôi vẫn sống, hy vọng của chúng tôi đã đạt được. Tôi đã có vợ con quanh tôi, hạnh phúc tôi tràn đầy. Từ nay các con tôi được bảo đảm tương lai trên một đất nước cao đẹp, tự do như Na Uy mà chúng tôi coi là miền đất hứa”.

tu_caitao3

 

Vài cảm nghĩ.- Cộng sản Việt Nam sùng bái Hồ Chí Minh như thánh sống. Ai cũng biết là họ Hồ mạo danh nhóm ái quốc ở Paris khi viết báo Le Paria đã dùng tên chung Nguyễn Ái Quốc (Nguyen le Patriot). Hồ đã từng nộp đơn xin làm việc với Bộ Thuộc Địa rồi đi theo cộng sản Nga để được huấn luyện thành cán bộ Đông Dương Cộng Sản. Khi qua Tầu lại lấy danh tính một người chết để thành Hồ Chí Minh. Không có lấy cái bằng sơ học,  chỉ lặp lại những danh từ Xô Viết rồi Tầu Mao, lợi dụng khí thế ái quốc chống Pháp để đổi Việt Minh thành đảng Lao Động Cộng Sản và hãm hại các người yêu nước cũng như nhiều người trong vụ đấu tố.

Ông ta đã học thuộc lòng câu “Hồng hơn Chuyên” của Mao nên cũng nói “Trí Thức là Cục Phân” cho nên khi chiếm Sài Gòn chính trị bộ Hà Nội đã bỏ tù các chuyên viên của miền Nam mà huấn luyện mất bao nhiêu thời gian và công của. Hệt như “bước nhẩy vọt” của Tầu Mao trong kế hoạch sản xuất thép tiểu công trong các làng xã phí phạm bao nhiêu nhân lực đưa đến phá sản kinh tế và môi trường. Cho nên ta thấy các Y Khoa Bác Sỹ phải đi quét chợ và chuyên viên kinh tài như ông Đỗ Văn Thảo bị giam cầm trong nhiều năm. Phí phạm “chất xám” như vậy để cho ba chục năm thống nhất đất nước vẫn lạc hậu. Bây giờ kêu gọi trí thức và “chất xám” trở về xây dựng lại nước thì thật khôi hài và có tin được chăng?

Trần Đỗ Cung
Nguồn: hon-viet.co.uk/TranDoCung