Ông Biden đối mặt với các cáo buộc tấn công tình dục

Ứng cử viên tổng thống Hoa Kỳ của đảng Dân chủ Joe Biden đang phải đối mặt với cáo buộc của cựu trợ lý rằng ông đã tấn công tình dục bà gần 30 năm trước, điều mà ban vận động bầu cử của ông Biden bác bỏ, theo Reuters.

Bà Tara Reade, người từng làm trợ lý cho văn phòng Thượng viện Hoa Kỳ của ông Biden từ tháng 12/1992 đến tháng 8/1993, cáo buộc rằng ông đã ép sát bà vào tường vào năm 1993 và thò tay vào áo và váy của bà.

Ban vận động bầu cử của ông Biden nói rằng vụ việc đó chưa từng xảy ra. Bản thân ông Biden, từng là phó tổng thống, chưa lên tiếng về cáo buộc này, và cũng chưa bị truy hỏi về vấn đề này trong các cuộc phỏng vấn gần đây với truyền thông quốc gia và địa phương.

Hôm 27/4, trang Business Insider loan tin có thêm hai phụ nữ làm chứng một phần cho lời cáo buộc của bà Reade.

Trang này dẫn lời bà Lynda LaCasse, một người hàng xóm trước đây của bà Reade, nói rằng bà Reade đã kể lại với bà rằng, vào năm 1995 hoặc 1996, bà ấy đã bị ông Biden tấn công: “Tôi nhớ là bà ấy nói rằng đấy là người cấp trên và bà ấy rất thần tượng ông ta. Và ông ta đã ghì sát bà vào tường. Ông ta đưa tay lên váy và ông ta đặt ngón tay vào trong đó. Bà cảm thấy như mình bị quấy rối, nhưng bà thực sự không biết phải làm gì lúc đó…”

Trang Business Insider cũng dẫn lời bà Lorraine Sanchez, một đồng nghiệp cũ của bà Reade, cho biết bà Reade đã kể cho lại cho bà nghe vào những năm giữa thập niên 90 rằng một ông sếp ở Washington đã quấy rối bà nhưng không nhớ bà có nêu tên ông ấy là Biden hay không.

Trang NY Times và Washington Post cũng từng dẫn lời một người bạn khác nói rằng bà Reade đã có kể lại về vụ tấn công như cáo buộc vào thời điểm đó, theo Fox News hôm 30/4.

Ban biên tập tờ Washington Post hôm 29/4 kêu gọi ông Biden, 77 tuổi, hãy lên tiếng về những cáo buộc này và công bố các giấy tờ có liên quan, khi ông còn là thượng nghị sĩ của bang Delaware.

(Nếu không vào được VOA, xin hãy dùng đường link voaviet2019.com hoặc vn3000.info để vượt tường lửa)

 
VOATIENGVIET.COM

Ông Biden đối mặt với các cáo buộc tấn công tình dục

Ứng cử viên tổng thống Hoa Kỳ của đảng Dân chủ Joe Biden đang phải đối mặt với cáo buộc của cựu trợ lý rằng ông đã tấn công tình dục bà gần 30 năm trước, điều mà ban vận động bầu cử của ông Biden bác bỏ.

Sự kiện 30/4/1975 – 45 năm nhìn lại

https://www.facebook.com/RFAVietnam/videos/537097463674528/?t=64

Sự kiện 30/4/1975 – 45 năm nhìn lại

Video ngắn gồm các hình ảnh đồ họa và thước phim tư liệu điểm lại các diễn tiến chính dẫn đến ngày 30-4-1975.

Nhà nghiên cứu Lê Xuân Khoa từ Nam California giải thích cách gọi tên khác nhau cho ngày 30/4/1975.

 

https://www.facebook.com/BBCnewsVietnamese/videos/160099358761982/?t=13

BBC News Tiếng Việt

 

Nhà nghiên cứu Lê Xuân Khoa từ Nam California giải thích cách gọi tên khác nhau cho ngày 30/4/1975.

“Gọi là ‘Ngày Chiến thắng’ hay ‘Quốc hận’ là tùy theo đứng về phía thắng trận hay thua trận. Về phía thắng trận, càng ngày về sau chữ chiến thắng nó mất dần ý nghĩa đi. Còn đối với người Việt ở hải ngoại, ngoài chữ ‘Quốc hận’ thì phải có thêm một chữ ‘Ngày tìm tự do’ bởi vì đáng lẽ thống nhất lòng người mà người ta lại bỏ ra đi thì như vậy có sự chia rẽ nặng nề vấn đề dân tộc,” ông Lê Xuân Khoa, cựu giáo sư Đại học John Hopkins, nói.

“Lẽ dĩ nhiên không thể nào hận thù mãi mãi được. Đến một lúc nào đó thế hệ này không xong thì đến thế hệ sau. Sự hòa giải là mục tiêu tất yếu của dân tộc. Một dân tộc không thể nào mạnh, không thể nào phát triển được nếu dân tộc đó chia rẽ và căm thù lẫn nhau,” GS Khoa nói với BBC News Tiếng Việt trong cuộc phỏng vấn với BBC vào tháng tư 2015.

Truyền thông HK: Nhiều người bệnh ở tàu cộng bị cách ly để cho “chết tự nhiên” rồi đem đi chôn trong rừng

https://www.facebook.com/thuc.tran.14811/videos/3193101964087119/?t=17

Đại Dương

14 April at 09:26 ·
Truyền thông HK: Nhiều người bệnh ở tàu cộng bị cách ly để cho “chết tự nhiên” rồi đem đi chôn trong rừng

Gần đây, Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) nói rằng tình hình dịch bệnh trong nước đã có xu hướng giảm, thậm chí nhiều ngày không có thêm ca nhiễm mới nào. Tuy nhiên, có tờ báo của Hồng Kông đưa tin vào ngày 23/3 cho biết, rất nhiều địa phương đã cách ly những người nghi bị nhiễm bệnh để “chết tự nhiên”, sau đó mang đi chôn cất trong rừng sâu.

VÁN BÀI LẬT NGỬA

Liên Trà

 VÁN BÀI LẬT NGỬA

(Các ông chỉ có một ĐƯỜNG BINH …)

Sau hai vòng đàm phán không chính thức với mục đích nếu không đạt được Hiệp ước Liên minh Quân sự với Hoa Kỳ thì ít ra cũng được phép mua vũ khí từ Mỹ, Đại diện CSVN đành về nước tay không với gói quà 18 triệu đô viện trợ cho Cảnh sát Biển.
Hôm trước khi ra sân bay về nước, Đại diện CSVN có ngõ lời mời người đối tác phía Mỹ một buổi cơm tối thân mật tại một nhà hàng Tàu trong vùng Virginia. Nhà hàng này nổi tiếng với món Vịt Bắc Kinh và có rất nhiều Tổng thống Mỹ ghé qua ăn và chụp hình lưu niệm. Vừa bước vô cửa người đại điện Mỹ nói chào một cách dí dỏm:
– Ông cũng khéo chọn lựa chứ? Mỹ gặp Việt trong nhà hàng Trung Quốc?
Đại diện CSVN cười và giải thích:
– Nhà hàng này có chủ là người Đài Loan. Cứ xem như kẻ thù của kẻ thù là bạn.
Đại diện Mỹ buột miệng ra một câu tiếng Việt:
– Thế ra là nhà hàng của “Thế lực THÙ (của) ĐỊCH” à?
Đại diện CSVN phá lên cười:
– Gớm. Ông cũng rành tiếng Việt đấy chứ?

– Tôi học tiếng Việt ở Mỹ, học tiếng lóng tiếng láy ở Sài Gòn khi còn làm tùy viên văn hóa bên đó trước năm 1975. Sau này vẫn theo dõi thời sự và trao đổi trên Facebook. Chúng ta có thể thảo luận bằng tiếng Việt để khỏi mất thì giờ. Ông muốn gặp tôi lần cuối chắc là có câu hỏi gì cho tôi?
Đại diện CSVN vào thẳng vấn đề:
– Hai vòng đàm phán qua ông đã kết luận chúng tôi không thể có Liên minh Quân sự với Mỹ vì Trung Quốc sẽ cản trở. Chúng tôi không có đủ ngân sách để mua vũ khí tự túc. Xem ra giải pháp quân sự lúc này với Trung Quốc không khả thi. Thế thì giải pháp pháp lý, ông nghĩ có khả thi hay không? Ý tôi muốn nói rằng đưa Trung Quốc ra Tòa án Quốc tế để kiện như Philipines đang làm thì có khả thi không?
– Cơ hội rất ít, thưa ông. Và các ông nên cân nhắc cẩn thận về các bằng chứng trình trước tòa. Vì nếu tòa phán quyết các ông THUA thì con đường tương lại còn gian nan hơn nữa. Phán quyết mới nhất của tòa cấp quốc tế xem ra là bản án tử hình cho các ông tại Biển Đông. Khi ấy các ông bị đẩy ra bên lề mọi tranh chấp sau này của các nước trong vùng đối với Biển Đông.
– Nhưng nếu chúng tôi liên kết kiện với Phi hay các nước khác?
– Tôi cũng nhận thấy các ông đang có hướng này. Khi Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng ghé thăm Phi hôm qua. Nhưng khả năng Phi liên kết với ông trong vụ kiện rất thấp vì khi Phi kiện các ông không ủng hộ. Bây giờ các ông tham gia với BẰNG CHỨNG BẤT LỢI hơn thì dĩ nhiên Phi khó chấp nhận.
– Chúng tôi có đầy đủ các bằng chứng THUẬN LỢI từ thời Thực dân Pháp đến Việt Nam Cộng Hòa rằng Việt Nam có đã xác định chủ quyền trên hai quần đảo này liên tục cả trăm năm cơ mà. Sao ông lại nói BẤT LỢI?
– Các ông đang trưng dẫn bằng chứng của những chế độ đã qua mà không hề có bằng chứng xác nhận chủ quyền cấp quốc tế từ chế độ của các ông. Xem ra khó thuyết phục tòa án. Các ông có thể trưng dẫn hình ảnh thời thơ ấu trong một căn nhà, những câu chuyện tuổi thơ ở đó, trong khi người ta trình ra GIẤY BÁN NHÀ của bố các ông, thì dĩ nhiên tòa án không thể cho các ông vào nhà được.
– Ý ông muốn nói đến Công Hàm Phạm văn Đồng năm 1958?
– Đúng. Các ông biết Công Hàm này đã lâu nhưng có nhiều bằng chứng cho thấy các ông cố NÉ TRÁNH nó. Trong khi ngược lại gần đây Trung Quốc lại trưng công hàm này ra trước quốc tế. Xem ra họ có nắm đàng cán về vụ này!
Đại diện CSVN cười sặc sụa:
– Công hàm đó KHÔNG CÓ HIỆU LỰC ông ơi. Phạm văn Đồng dù có nói thẳng là “giao Trường Sa và Hoàng Sa cho Trung Quốc” thì cũng không có hiệu lực. Đó chỉ là ĐÒN NGOẠI GIAO … KHÔN NGOAN của chúng tôi để nhận viện trợ từ Trung Quốc mà đánh Mỹ. Năm 1958 chúng tôi không có chủ quyền ở Hoàng Sa, Trường Sa.
Chờ cho người đại diện CSVN cười xong, uống một ngụm nước, thì đại diện Mỹ mới từ tốn lên tiếng:
– Đối với luật pháp Tây Phương chúng tôi thì chúng tôi phân biệt rất rõ sự tách biệt giữa “khế ươc buôn bán” và “chủ quyền”.
– Ý ông nói là các ông có thể bán những gì các không có cơ à. Thật là HOANG ĐƯỜNG và TRẺ CON.
– Chuyện có thật ông à. Khế ước buôn bán là giao kết giữa hai hay nhiều bên về chuyển nhượng một cái gì đó nó có thể trong hiện tại hay trong tương lai để đổi lấy giá trị tiền bạc hay vật chất có thể giao hôm nay hay giao vào một thời điểm trong tương lai. Như vậy vào năm 1958 các ông hứa bán một cái gì đó các ông không có ngay lúc đó, và lời hứa sẽ giao hàng ngay khi các ông có. Vấn đề là phía Trung Quốc tin như vậy và ủng hộ các ông biến điều đó thành hiện thực. Đổi lại họ cung cấp viện trợ cho các ông gần cả tỉ đô la về vật chất và con người để tiến hành chiến tranh chống chúng tôi.
Năm 1958 các ông không có CHỦ QUYỀN nhưng các ông đã làm KHẾ ƯƠC, thì khi các ông có chủ quyền các ông phải thực hiện khế ước buôn bán đó.
– Thế các ông có trường hợp buôn bán kiểu đó trong thực tế không?
– Có chứ ông. Trong sở hữu chứng khoán, thị trường thế giới có cái gọi là “future options”. Ông không dám mua chứng khoán đó vì ông sợ thua lổ, ông có thể trả tiền với LỜI HỨA sẽ mua và công ty đó phải giao “chủ quyền” chứng khoán đó cho ông trước thời điểm nào đó, dù nó lên hay xuống thấp hơn giá trị ông trả. Rồi ông cần tiền ông vẫn có thể bán LỜI HỨA đó cho người khác và cứ thế cho đến khi thời điểm hứa đó đến thì người cuối cùng phải … THỰC HIỆN. Cái đó là buôn bán thứ ông không có chủ quyền …
Đại diện CSVN nghiêm mặt lại biện hộ:
– Nhưng ông không đọc thấy trong ngôn từ Thủ Tướng Phạm văn Đồng rất KHÔN NGOAN không hề đề cập để chuyện “giao chủ quyền” như cái ví dụ mà ông nêu. Ông ta chỉ nói …
“có trách nhiệm triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý của Trung Quốc trong mọi quan hệ với nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa trên mặt biển”
Đại diện Mỹ cười rồi nói:
– Các ông đã có lịch sử CÔNG NHẬN công hàm này. Đó là vào năm 1974 khi Trung Quốc tấn công Hoàng Sa thuộc chủ quyền VNCH. Các ông đã “tôn trọng hải phận của Trung Quốc trong mọi quan hệ trên mặt biển” nên các ông hoàn toàn để mặc cho Trung Quốc hành động chiếm chủ quyền … TƯƠNG LAI của các ông. Thế thì sao các ông có thể biện minh trước tòa rằng một văn bản không hiệu lực lại được tôn trọng?
– Chúng tôi cũng như các ông thôi. Hạm đội 7 các ông nằm đó đâu có động tĩnh gì!
– Hoa Kỳ bị ràng buộc bỡi Thông cáo chung Thượng Hải với Trung Quốc và Hiệp định Paris, phải rút quân và trả lại quyền tự quyết cho VNCH.
Đại diện Mỹ ngừng một lát rồi nói tiếp:
– Tôi xem công hàm Phạm văn Đồng nhiều lần và phải công nhận vào thời điểm năm 1958, ông Đồng hay ai đó soạn cho ông Đồng ký công hàm này là “khôn liền” ngay lúc đó mà không có … “khôn lâu”.
– Ý ông là?
– Ngôn từ trong công hàm này vào năm 1958 rất là KHÔN NGOAN. Vì các ông BÁN VỊT TRỜI mà thu được gần cả tỉ đô la viện trợ của Trung Quốc cho một món hàng tương lai không biết có chiếm được hay không. Ví như một người muốn đi cướp nhà người khác không có súng, không có tiền, đi hứa với thằng cướp khác “khi nào tao cướp được nhà đó thì tao tôn trọng quyền của mày được trồng rau ở sân sau”. Khi cướp được thì phải thực hiện lời hứa đó.
Đại diện CSVN mỉa mai:
– Nếu “khôn lâu” như ông trong trường hợp đã lỡ ký LỜI HỨA đó thì ông phải làm sao?
– Nếu tôi là các ông mà tôi bắt buộc phải viết công hàm đó để có viện trợ thì tôi vẫn viết như thế …
– Huề tiền!
– Tôi vẫn nhận gần cả tỉ đô la để đánh Hoa Kỳ và kéo nó đến bàn Hội Nghị Paris năm 1973 để nó phải rút quân …
Đại diện CSVN phá liên cười:
– Ông khôi hài quá, thế mà lại “dạy ngoại luộc trứng”
Đại diện Mỹ vẫn từ tốn nói tiếp:
– CSVN ký công hàm Phạm văn Đồng là khôn liền ngay năm 1958 nhưng ai đó quyết định xé hiệp định Paris chiếm Miền Nam năm 1975 là ĐẠI NGU để Trung Quốc nó …. (xin lỗi tôi hay có tật nói láy)
Chiếm Miền Nam là biến công hàm đó thành hiện thực và đối diện gần 1 tỉ đô la nợ Trung Quốc, là từ bỏ 4 đến 6 tỉ đô la bồi thường chiến tranh của Hoa Kỳ … Việt Nam bỏ cơ hội thành một nước Đức và nước Nhật sau thế chiến thứ hai.
Đại diện CSVN hết kiên nhẫn ngắt lời:
– Ông có khiếu kể chuyện cổ tích. Xin phép trở lại trọng tâm. Thế thì có giải pháp nào cho chúng tôi trong bế tắc này không?
Đại diện Mỹ nhìn quanh rồi pha trò:
– Có tình báo Hoa Nam Cục ở đây không?
Rồi ông nói tiếp:
– Theo tôi thì các ông phải tuân thủ công hàm Phạm văn Đồng vì 1974 các ông đã tuân thủ thì hôm nay phải tuân thủ để yên cho Trung Quốc đặt giàn khoan.
– Không còn cách nào hết sao?
– Chỉ còn cách mà tôi đã nói với các ông hôm đầu tiên.
– Cách gì ông nhắc lại đi.
– Một cách vô cùng giản dị, không cần viện trợ của Hoa Kỳ, chẳng cần ủng hộ của thế giới, mà lại đoàn kết, hòa hợp hòa giải với mọi thành phần người Việt trong và ngoài nước và quan trọng là vô hiệu hóa công hàm Phạm văn Đồng.
– Làm cách nào?
– Ngay ngày mai …
Đổi lại tên nước thành Việt Nam Cộng Hòa.
Lấy lại tên Sài Gòn và dời thủ đô về đó
Lấy CỜ VÀNG làm quốc kỳ

Có như thế thì trước diễn đàn thế giới. VNCH chỉ VẮNG MẶT … 39 năm chứ KHÔNG CHẾT. Công hàm Phạm văn Đồng chỉ là tờ “giấy lộn” vì tên cướp có vô nhà nhưng chủ nhà về lại và đã đuổi cổ nó ra … Trời Việt lại … HỪNG ĐÔNG.
Đại diện CSVN vuốt mồ hôi lạnh trên trán:
– Chỉ đơn giản thế thôi sao?
Vịt Bắc Kinh trên bàn đã NGUỘI LẠNH, lớp mỡ trắng đã bắt đầu đóng viền quanh dĩa vì không ai còn đoái hoài đến nó.
Đại diện Mỹ vỗ vai đại diện CSVN nói một câu tiếng Anh:
– All road lead to Rome (Đường nào cũng về La Mã)
Hãy trả cho Ceasar những gì của Ceasar.
Các ông chỉ có một ĐƯỜNG BINH … cầm bài chi lâu cho nó … ƯỚT.

Nguồn
FB Doanh Châu

30/4/1975: Những suy nghĩ của một người “bên thua cuộc”

30/4/1975: Những suy nghĩ của một người “bên thua cuộc”

Lâm Vĩnh Thế

Hàng năm cứ đến ngày 30-4, người Cộng sản lại tổ chức lễ mừng chiến thắng vinh quang của năm 1975, và người Việt hải ngoại lại tổ chức tưởng niệm Ngày Quốc Hận khiến họ phải bỏ nước ra đi. Cùng một sự kiện nhưng rõ ràng có hai cách nhìn trái hẳn nhau. Ở trong nước, trong rất nhiều gia đình, hai cách nhìn này đều có hết, và người ta cứ phải sống chịu đựng nhau như vậy chứ không có cách nào giải quyết được mâu thuẫn này. Và như thế trong 45 năm rồi. Chả trách ông Võ Văn Kiệt, nguyên Thủ tướng của nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đã phải nói ra câu nói bất hủ sau đây về ngày 30-4: “Đây là ngày có triệu người vui nhưng cũng có triệu người buồn”.

Năm 2012, tác giả Huy Đức cho xuất bản tập sách “Bên thắng cuộc”. Với tựa đề như vậy, tác giả đã dứt khoát xác định “ai thắng ai thua” rất rõ ràng. Bên Cộng sản, tức là miền Bắc, là bên thắng cuộc, và bên Quốc gia, tức là miền Nam, là bên thua cuộc. Thế nhưng, ngay trong phần mở đầu, đề tựa là “Mấy lời của tác già”, tác giả lại viết như sau: “Cuốn sách của tôi bắt đầu từ ngày 30-4-1975 – ngày nhiều người tin là miền Bắc đã giải phóng miền Nam. Nhiều người thận trọng nhìn lại suốt hơn ba mươi năm, giật mình với cảm giác bên được giải phóng hóa ra lại là miền Bắc”. Là một người miền Nam, tôi chấp nhận là mình thuộc về “bên thua cuộc”. Tôi không hãnh diện gì với nhận xét trên đây của tác giả Huy Đức, vì, suy cho cùng, chuyện “ai giải phóng ai”, nếu có đúng như Huy Đức ghi nhận, thì cũng là chuyện “xảy ra sau khi chúng ta, những người Quốc gia ở miền Nam, đã thua cuộc rồi”. Nhớ lại chuyện mấy trăm năm trước ở bên Trung Hoa: người Hán dù cho có hãnh diện vì họ đã Hán hóa được người Mãn đi nữa thì họ cũng bị người Mãn thống trị gần 300 năm. Người Quốc gia ở miền Nam chắc không nên tự hào đã “giải phóng” được người Cộng sản ở miền Bắc và chấp nhận bị Cộng sản thống trị thêm 255 năm nữa.

Những suy nghĩ mà tôi ghi ra sau đây là của một người thuộc về phía “bên thua cuộc” trong cuộc Chiến tranh Việt Nam, 1954-1975. Tôi xin nói ngay là, không giống như những gì tôi đã từng viết ra trước đây luôn luôn được ghi chú rất rõ ràng vì đó là những công trình thuộc loại nghiên cứu, những suy nghĩ lần này, tuy cũng xuất phát từ kiến thức thu thập được từ những công trình biên khảo đúng đắn, được ghi ra một cách tự nhiên theo dòng suy nghĩ, hoàn toàn không bận tâm về việc ghi chú xuất xứ theo lối kinh viện.

Suy nghĩ đầu tiên của tôi là về bản chất và tên gọi của cuộc chiến. Miền Bắc xem đây là một cuộc “chiến tranh giải phóng”, giải phóng miền Nam khỏi Đế quốc Mỹ và chủ nghĩa thực dân mới. Miền Nam thì xem đây là một cuộc “chiến tranh tự vệ” có chính nghĩa để chống lại xâm lược do miền Bắc gây ra, nhằm thôn tính miền Nam để áp đặt chủ nghĩa Cộng sản lên cả nước Việt Nam. Một số người miền Nam cũng xem đây là một cuộc “nội chiến huynh đệ tương tàn”, giống như thời Trịnh-Nguyễn phân tranh, như Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã đưa vào bản nhạc “Gia tài của Mẹ” của ông: “hai mươi năm nội chiến từng ngày”. Người Mỹ thì gọi nhiều cách khác nhau: khi thì là “Chiến tranh Đông Dương lần thứ nhì” (Second Indochina War), khi thì là “Tranh chấp Việt Nam” (Vietnamese Conflict) khi thì là “Chiến tranh Việt Nam” (Vietnam War) mà họ chỉ đến để giúp miền Nam chống lại ý đồ thôn tính của miền Bắc; điều này rõ nét nhứt là dưới thời Tổng thống Nixon khi ông áp dụng chính sách “Việt Nam hóa chiến tranh”. Những người có tầm nhìn rộng hơn, quốc tế hơn thì cho rằng đây là một cuộc “chiến tranh ý thức hệ” giữa hai phe Tư bản (hay Tự do) và phe Cộng sản. Cũng có người trong nhóm này gọi đó là một cuộc “Chiến tranh Ủy nhiệm” (Proxy war), miền Bắc đánh thay cho phe Cộng sản, và miền Nam đánh thay cho phe Tư bản. Dĩ nhiên, những nhóm người này đều có những luận cứ mà họ tin là đứng đắn để chứng minh cho cái nhìn và nhận định của họ về cuộc chiến. Bản thân tôi cũng không thể đi ra ngoài điều này. Tôi cũng có những luận cứ mà tôi cho là đúng đắn để biện minh cho cái nhìn của tôi. Và cái nhìn đó là như sau.

Trước hết tôi hoàn toàn bác bỏ cái gọi là “Chiến tranh Giải phóng”. Lý do thật đơn giản mà cũng thật rõ ràng bởi vì nhân dân miền Nam Việt Nam, tức là những người sinh sống và làm việc trong chính thể Việt Nam Cộng hòa, hoàn toàn không có nhu cầu cần được giải phóng gì hết. Trong suốt thời gian 20 năm của cuộc chiến, nơi nào quân Cộng sản tiến chiếm thì dân chúng đều bỏ chạy, không hề có việc người dân cam tâm ở lại để được Cộng sản giải phóng cả. Trận Tết Mậu Thân 1968, Trận Mùa Hè đỏ lửa 1972, ngay cả Trận Tổng tấn công 1975, với số người tỵ nạn lên đến hàng triệu người, đã quá đủ để nói lên sự thật này rồi. Và sau ngày 30-4-1975, khi mà cả nước đã được “hoàn toàn giải phóng”, việc hàng triệu người chấp nhận mất tất cả, kể cả sinh mạng của mình, bỏ nước ra đi (một hiện tượng chưa từng có trong suốt lịch sử hàng ngàn năm của đất nước và dân tộc) là một bằng chứng hùng hồn cho sự thật là người dân miền Nam thà chết chớ không không chịu để cho Cộng sản “giải phóng” họ. Các tên gọi còn lại của cuộc chiến, theo tôi nghĩ, đều có phần đúng, tùy theo cách thức và góc độ của người nhìn.

Đặt tên cho một cuộc chiến tranh là một chuyện rất quan trọng vì nó là bước khởi đầu cần thiết để thiết lập một chiến lược thích ứng để có thể tiến tới chiến thắng sau cùng. Miền Nam và đồng minh là Hoa Kỳ đã không làm được điều này. Trong nội bộ chính trường miền Nam, chúng ta không thống nhứt được cách nhìn về cuộc chiến nên hoàn toàn không có được một chiến lược đúng đắn cần có, đó là chưa nói đến việc chính quyền miền Nam quá phụ thuộc vào Hoa Kỳ nên không dễ gì có được một chiến lược nào hoàn toàn độc lập với chiến lược của Hoa Kỳ. Tôi tin chắc là mọi người vẫn còn nhớ vụ Tướng Nguyễn Khánh tuyên bố đòi “Bắc Tiến” vào tháng 7-1964 nhưng Hoa Kỳ không ủng hộ nên sau cùng phải dẹp bỏ chủ trương đó. Không lực VNCH, lúc đó do Tướng Nguyễn Cao Kỳ làm Tư lệnh, đã thực hiện hằng chục phi vụ Bắc phạt rồi cũng thôi. Đồng minh Hoa Kỳ của chúng ta cũng vậy, vì thay đổi cách nhìn liên tục nên chiến lược cũng không thể nhất quán. Người dân VNCH, và dân chúng các nước trên thế giới, ai cũng đã nhìn thấy rõ sự thay đổi cách nhìn này của người Mỹ về Chiến tranh Việt Nam: “sau khi đã Mỹ hóa nó trong thời gian 1965-1968 -báo chí Mỹ đã gọi nó là Johnson’s War, McNamara’s War – mà vẫn không thay đổi được cục diện họ đã chuyển sang Việt-Nam-hóa nó, chuyển giao gánh nặng lại cho Quân lực Việt Nam Cộng hòa (QLVNCH) và tháo chạy. Ngược lại, Cộng sản Bắc Việt, tuy cách nhìn cuộc chiến không đúng (như đã bàn ở trên) nhưng lại nhất quán, từ trước đến sau không bao giờ thay đổi, nên chiến lược “chiến tranh nhân dân” mà họ đề ra cho thích hợp với “chiến tranh giải phóng” được họ thực hiện, duy trì và phát huy đến mức hiệu quả tối đa từ đầu cho đến cuối. Tuy nhiên, sự thất trận của miền Nam ngày 30-4-1975 thì hoàn toàn không mắc mớ gì đến cái gọi là “chiến tranh nhân dân” đó cả. Miền Nam đã thua và phải chấp nhận đầu hàng vì lực lượng quân sự chính quy của miền Bắc, vào thời điểm đó, đã vượt hẳn QLVNCH về mọi mặt, về con số các sư đoàn tác chiến, và luôn cả các khía cạnh trang bị và tiếp vận. Miền Nam thua cuộc, trước hết, là vì lý do đó: cán cân lực lượng quân sự, vào năm 1975, đã nghiêng hẳn về phía Cộng sản. Từ sự kiện này, bài học lớn cho các nhà lãnh đạo của miền Nam là: có chính nghĩa chưa chắc đã là một điều kiện tất thắng trong một cuộc chiến tranh tự vệ. Thật ra đây cũng không phải là một chuyện mới mẻ gì cả. Trong suốt mấy thế kỷ Nam Tiến của tổ tiên chúng ta, các dân tộc Chiêm Thành và Chân Lạp đều có chính nghĩa nhưng tất cả đều bị bại vong. Miền Bắc tuy không có chính nghĩa nhưng bù lại họ có quyết tâm cao, họ chấp nhận (hay nói cho đúng, họ cưỡng ép nhân dân miền Bắc phải chấp nhận) mọi hy sinh, gian khổ, nhứt quyết chiếm cho được miền Nam. Họ lại có được bè bạn tốt, hết lòng và kiên nhẫn giúp đỡ họ cho đến cùng. Ngược lại, miền Nam hoàn toàn trông cậy vào bạn đồng minh Hoa Kỳ nhưng người bạn này không những không hoàn toàn thực lòng giúp đỡ (đánh giặc mà không có chủ trương phải thắng) mà còn không có đủ kiên nhẫn đi đến cùng. Bản chất cao bồi, xốc nổi, thiếu kiên nhẫn này của người dân và Chính phủ Mỹ ngày nay cả thế giới đâu còn lấy làm lạ nữa, nhứt là qua hai cuộc chiến tranh mà Hoa Kỳ đã tham gia gần đây tại Iraq và Afghanistan. Sự trở cờ, phản bội trắng trợn của Quốc Hội Mỹ, dưới quyền kiểm soát của Đảng Dân chủ, trong các năm 1974 và 1975, cắt giảm và đi đến cắt bỏ hoàn toàn quân viện cho VNCH, đã là tác nhân chính đưa đến sự thất bại về quân sự của miền Nam.

Theo cách suy nghĩ và nhận định của tôi, cuộc chiến tại miền Nam Việt Nam phải và nên được xem là một cuộc chiến tranh xâm lược mang màu sắc ý thức hệ. Định nghĩa này có hai vế: “chiến tranh xâm lược” và “mang màu sắc ý thức hệ”. Vế thứ nhứt thì tương đối đơn giản, dễ hiểu, và hoàn toàn không xa lạ với dân tộc Viêt Nam. Đất nước ta đã trãi qua quá nhiều những cuộc chiến tranh thuộc loại này. Gọi nó là “chiến tranh xâm lược” vì rõ ràng cuộc chiến xảy ra trên lãnh thổ của một quốc gia (tức là miền Nam Việt Nam hay Việt Nam Cộng hòa, một quốc gia được 87 nước trên thế giới công nhận và có liên lạc ngoại giao) và thực hiện chủ yếu bởi một lực lượng vũ trang đến từ bên ngoài lãnh thổ đó, từ một quốc gia khác (tức miền Bắc Việt Nam, hay Việt Nam Dân chủ Cộng hòa; lực lượng quân sự của Việt Cộng, tức là Mặt trận Giải phóng miền Nam, hoàn toàn không có khả năng “giải phóng” được miền Nam, như chúng ta đã thấy rõ trong Trận Tổng công kích Tết Mậu Thân 1968). Tuy nhiên, cuộc chiến tranh xâm lược lần này không giống như những cuộc chiến tranh xâm lược trước đây, nó không đơn giản chút nào, và kẻ địch mà chúng ta đương đầu cũng không phải là bọn ngoại tộc dễ dàng nhận ra. Do đó trong định nghĩa của cuộc chiến phải cần đến vế thứ nhì là “mang màu sắc ý thức hệ”. Trong cuộc chiến này, chính vì ý thức hệ mà những người anh em cùng một giòng máu ở hai bên chiến tuyến đã trở thành kẻ tử thù của nhau. Chính ý thức hệ đã nhồi nhét vào đầu óc của những người anh em cầm súng bên kia chiến tuyến sự cuồng tín rằng những chiến sĩ của QLVNCH của miền Nam, là một bọn “ngụy quân”, một bọn phản quốc, một bọn đầy tớ của ngoại bang, một bọn bán nước cần phải được tiêu diệt, để giải phóng miền Nam khỏi bọn thực dân mới đó. Cũng chính ý thức hệ đó đã nhồi nhét vào đầu óc của những người dân sống phía Bắc vĩ tuyến 17 (từ sau tháng 7-1954 đến ngày 30-4-1975) niềm tin tuyệt đối rằng nhân dân miền Nam đang bị cưỡng bức, chà đạp, sống đói khổ dưới sự thống trị của ngoại bang và cần phải được giải phóng. Những suy nghĩ và tin tưởng này chỉ được xóa sạch sau khi “miền Bắc được giải phóng”, như nhà báo Huy Đức đã nhận xét trong tác phẩm “Bên thắng cuộc”. Trong khi miền Bắc đặt nặng vấn đề ý thức hệ như thế thì miền Nam thế nào? Bề ngoài thì chúng ta cũng có vẻ coi trọng vấn đề ý thức hệ này. Trong suốt thời gian 21 năm, 1954-1975, miền Nam luôn luôn chủ trương chống Cộng, tự xem mình là một tiền đồn của Thế giới Tự do. Như vậy, theo lý thuyết, chế độ của miền Nam phải đối nghịch hoàn toàn với chế độ độc tài, độc đảng của miền Bắc, hay nói cách khác, phải là một chế độ hoàn toàn dân chủ, tự do và đa đảng. Sự thật không phải hoàn toàn như vậy. Trong suốt thời gian gần 20 năm hiện hữu (từ ngày 26-10-1955 đến ngày 30-4-1975), Việt Nam Cộng hòa chưa bao giờ hoàn toàn thật sự là một chế độ tự do và dân chủ. Và chính vì thế luôn luôn có những phần tử chống đối, vô tình hay cố ý làm lợi cho miền Bắc. Miền Nam, cho đến khi bị miền Bắc “giải phóng”, luôn luôn ở trong thế giặc ngoài, thù trong. Miền Nam đã thua cuộc không phải chỉ vì nguyên nhân khách quan là bị “Đồng Minh tháo chạy bỏ rơi” mà còn do rất nhiều nguyên nhân chủ quan, trong đó quan trọng nhứt là đã không có được một ý thức hệ mang tính chất đối lập với ý thức hệ Cộng sản và nhứt quán để tạo sự đoàn kết của toàn thể nhân dân miền Nam. Do sự đàn áp chính trị của các chính quyền liên tiếp ở miền Nam, một bộ phận không nhỏ của các thành phần tiến bộ, chủ trương tự do dân chủ, chống bất công, tham nhũng, đã dần dà xa lánh, không cộng tác và sau đó trở thành chống đối chính quyền, và sau cùng rơi vào quỹ đạo của miền Bắc, tiếp tay miền Bắc trong việc đánh đổ chế độ Cộng hòa tại miền Nam. Rất nhiều những người trong các thành phần này, ngay sau năm 1975, và về sau này, càng ngày càng nhiều, đã thấy rõ là họ đã thật sự đi sai đường, “trao duyên lầm tướng cướp”, nhưng tất cả những “sám hối” này đều đã quá muộn.

Một thiếu sót trầm trọng nữa về chiến lược của chính quyền VNCH trong suốt thời gian cuộc chiến là đã không có được một quốc sách thật sự thể hiện được một cách đầy đủ và quyết liệt mối quan tâm cần thiết, đúng mức và hàng đầu đối với nông thôn. Công bằng mà nói thì trong thời gian của cả hai nền Cộng hòa, chính quyền VNCH đều có những chương trình về nông thôn, nhưng điều đáng tiếc là các chương trình quan trọng này đều không được thực hiện đến nơi đến chốn. Lại nữa, có thể nói là sự quan tâm đối với nông thôn của các giới lãnh đạo VNCH không có chiều sâu, mà chỉ rất là hời hợt. Do đó, sự yểm trợ tuyệt đối cho nông thôn chưa bao giờ được thể hiện. Về phương diện an ninh lãnh thổ, trong thời gian Đệ nhất Cộng hòa, chương trình Ấp Chiến Lược, với mục tiêu cô lập và thanh toán các nhân sự Cộng sản ở hạ tầng cơ sở, là một chiến lược rất đúng đắn, nhưng khi thực hiện, vì thiếu sự chuẩn bị chu đáo cũng như thiếu phần giải thích đầy đủ, nhằm thuyết phục nông dân, lại bị các cấp chính quyền địa phương lợi dụng cơ hội, tham nhũng, thu vén, đã tạo ra bất mãn trầm trọng trong dân chúng. Và, dĩ nhiên, Việt cộng thì dứt khoát tìm đủ mọi cách để phá hoại chương trình này. Sau cuộc đảo chánh ngày 1-11-1963, chương trình Ấp Chiến Lược bị loại bỏ và thay thế bằng các chương trình vá víu khác như Ấp Đời Mới (1964), Ấp Tân Sinh (1965) nhưng không đi tới đâu. Sang thời Đệ nhị Cộng hòa, chính quyền VNCH cũng đã đề ra một loạt các chương trình cho nông thôn như: chương trình Bình định, Xây dựng Nông thôn với cả một trung tâm huấn luyện cán bộ xây dựng nông thôn lớn ở Vũng Tàu, nhưng không thu hoạch được kết quả tốt vì không được các cấp chỉ huy quân sự tại địa phương yểm trợ đúng mức. Chương trình Phượng Hoàng, với mục tiêu nhằm tiêu diệt hạ tầng cơ sở của Việt Cộng, đã đạt được kết quả rất đáng kể trong một thời gian ngắn, nhưng sau đó bị giảm thiểu, không còn được Hoa Kỳ yểm trợ tích cực nữa vì bị tai tiếng là giết oan nhiều người vô tội. Để lôi kéo nông dân về phía mình, chính quyền VNCH đã thiết lập hai chương trình sở hữu hóa đất đai cho nông dân: Chương trình Cải cách Điền địa của Đệ nhứt Cộng hòa và Chương trình Người cày có ruộng của Đệ nhị Cộng hòa. Cả hai chương trình này, nhứt là Chương trình Người cày có ruộng, đều đã đạt được kết quả rất khả quan, nhưng vẫn không hoàn tất được mỹ mãn vì mức độ gia tăng ác liệt của chiến tranh cũng như vì sự phá hoại liên tục và quyết liệt của phe Cộng sản. Nông thôn miền Nam, vì vậy, vẫn tiếp tục là hậu phương vững chắc của Cộng sản, cung cấp tất cả nhân lực, tài lực và vật lực cần thiết cho chúng.

Không những không có được một ý thức hệ đúng đắn để làm nền tảng vững chắc cho thể chế, VNCH còn không có được những nhà lãnh đạo có đầy đủ khả năng chính trị, thật tâm yêu nước, thương dân và sẵn sàng hy sinh quyền lợi của bản thân, gia đình và đảng phái của mình cho quyền lợi của đất nước và dân tộc. Thời Đệ nhất Cộng hòa, trong khoảng 1954-1960, chính quyền Ngô Đình Diệm, với sự ủng hộ rất mạnh mẽ của Hoa Kỳ, đã tạo được sự ổn định chính trị cần thiết và nhờ vậy đã đặt được những nền móng rất tốt cho việc phát triển kinh tế-xã hội, và văn hóa-giáo dục. Nhưng vô cùng đáng tiếc, về phương diện chính trị, chế độ đã đi chệch đường, càng ngày càng lún sâu vào con đường độc tài, độc đảng, và tôn sùng cá nhân quá đáng. Sự bất mãn trong dân chúng miền Nam càng ngày càng rõ nét. Mặc dù đã có những dấu hiệu cụ thể về sự bất mãn này nhưng chính quyền Ngô Đình Diệm vẫn làm ngơ, không chịu cải tổ. Ngày 26-4-1960, một nhóm gồm 18 vị nhân sĩ, trí thức tiến bộ (đa số là các vị đã từng tham chính trong chính quyền Ngô Đình Diệm) đã trình lên Tổng thống Ngô Đình Diệm một bản thỉnh nguyện, nêu rõ những nhược điểm của chế độ và yêu cầu chính phủ cải tổ (về sau báo chí gọi là Nhóm Caravelle). Ngày 11-11-1960, một cuộc đảo chánh quân sự do lực lượng Nhảy dù tổ chức diễn ra tại Sài Gòn nhưng thất bại. Ngày 27-2-1962 đã xảy ra việc ném bom Dinh Độc Lập của hai phi công Phạm Phú Quốc và Nguyễn Văn Cử. Chính phủ Hoa Kỳ cũng đã nhiều lần khuyến cáo Chính phủ VNCH nên cải tổ, mở rộng thành phần chính phủ nhưng tất cả đều bị bác bỏ. Ngoài ra chúng ta cũng không nên quên sự kiện là vào tháng 2-1963, sau khi chế độ nhà Ngô không còn được Hoa Kỳ ủng hộ mạnh mẽ nữa, chính ông Ngô Ðình Nhu đã bí mật đi gặp Phạm Hùng, Ủy viên Bộ Chính trị của Cộng sản Bắc Việt tại rừng Tánh Linh, thuộc tỉnh Bình Tuy, để chuẩn bị bắt tay với phe Cộng sản trong việc hiệp thương giữa 2 miền Nam Bắc, xoay 180 độ trong chủ trương Chống và Diệt Cộng của Chính phủ Ngô Ðình Diệm vào lúc đó. Cơ quan CIA của Hoa Kỳ cũng biết được điều này và chính điều này cũng đã tạo thêm một lý do nữa cho Mỹ quyết định lật đổ chế độ nhà Ngô. Mùa Hè 1963 xảy ra vụ khủng hoảng Phật giáo. Đây là giọt nước tràn ly. Ngày 1-11-1963, các tướng lãnh của QLVNCH, có được sự ủng hộ ngầm của Hoa Kỳ, đã tiến hành đảo chánh quân sự, lật đổ chế độ, và chấm dứt nền Đệ nhất Cộng hòa. Một cơ hội rất tốt với rất nhiều triển vọng tốt đẹp để xây dựng một chế độ tư do dân chủ cho miền Nam đã bị đánh mất.

Từ cuối năm 1963 cho đến cuối năm 1967, VNCH đã trải qua một giai đoạn vô cùng xáo trộn về chính trị, miền Nam có nguy cơ bị mất vào tay Cộng sản, khiến cho Hoa Kỳ phải nhảy vào, trực tiếp can thiệp vào cuộc chiến, để cứu vãn tình hình quân sự lúc đó. Trong suốt thời gian xáo trộn này, giới lãnh đạo VNCH, cả quân sự và chính trị, đã cho thấy rõ những nhược điểm của họ: không có khả năng chính trị để ổn định tình thế, không thật sự vì nước vì dân, mà chỉ biết tranh giành quyền lợi cá nhân và đảng phái. Hiến pháp 1967 đã chấm dứt được giai đoạn xáo trộn chính trị này, nhưng lại đưa đất nước vào một giai đoạn độc tài quân phiệt. Ðệ nhị Cộng hòa được khai sinh với Hiến pháp 1967 vì áp lực của Hoa Kỳ chứ không phải do lòng thành thật của các tướng lãnh. Ðể tránh lập lại chuyện xung đột trong nội bộ của phe quân nhân (thể hiện qua các cuộc đảo chánh liên tục, như trong thời gian 1963-1967), các tướng lãnh đã tạo áp lực rất mạnh để hai tướng Thiệu và Kỳ phải hủy bỏ liên danh riêng của họ và đứng chung trong một liên danh với ông Thiệu là Tổng thống và ông Kỳ là Phó Tổng thống trong cuộc bầu cử tổng thống đầu tiên năm 1967. Và để cho ông Kỳ vui vẻ chấp nhận vai trò Phó Tổng thống, các tướng lãnh còn đi xa hơn, bí mật làm một việc hoàn toàn trái Hiến pháp 1967 là ký với nhau một mật ước vi hiến theo đó, sau bầu cử, ông Thiệu chỉ làm Tổng thống trên danh nghĩa mà thôi với ông Kỳ tiếp tục nắm trọn quyền hành. Dĩ nhiên, sau khi đắc cử, chỉ một thời gian ngắn sau đó, Tổng thống Thiệu đã lờ đi, và tất cả các tướng lãnh cũng không ai nhắc đến (hay dám nhắc đến) cái mật ước vi hiến đó nữa cả. Nền Ðệ nhị Cộng hòa đã bắt đầu bằng một hành động vi hiến của tập thể lãnh đạo như vậy thì làm sao tránh được không phát triển thành một chế độ bất công, tham nhũng, còn hơn cả nền Ðệ nhứt Cộng hòa, thay vì đưa đến một chế độ tự do dân chủ như Hiến pháp 1967 đã quy định.

Bản thân VNCH đã như vậy còn người bạn đồng minh “ông anh chi tiền” Hoa Kỳ thì ra sao? Về các phương diện khoa học kỹ thuật, quân sự và kinh tế, chúng ta khó có thể bác bỏ được niềm tin của cả thế giới rằng Hoa Kỳ là cường quốc số một. Nhưng về lãnh vực khôn ngoan chính trị, khả năng tiên đoán lâu dài về bang giao quốc tế, về địa chính trị (geo-politics), thì chúng ta khó có thể tin là Hoa Kỳ cũng đứng hàng đầu. Do những nhận định rất ấu trĩ về chính trị quốc tế vào cuối Đệ nhị Thế chiến, Hoa Kỳ đã tạo cơ hội cho Liên Xô chiếm cả Đông Âu và đưa cả thế giới vào một cuộc Chiến tranh Lạnh trong gần nửa thế kỷ. Năm 1972, cũng chính Hoa Kỳ đã mở cửa cho Trung Cộng bước ra khỏi hoàn cảnh bị bao vây, phong tỏa, tiến vào chiếm giữ được vị trí của một thành viên thường trực của Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc. Sau đó, cũng chính Hoa kỳ tạo điều kiện cho Trung Quốc thực hiện “Bốn hiện đại hóa” và trở thành một siêu cường như ngày hôm nay. Trong đánh giá của phe Cộng sản, Hoa Kỳ chỉ là “con cọp giấy”. Ðể chứng tỏ mình không phải là “con cọp giấy” và quá yếu như Pháp trong Chiến tranh Việt-Pháp, Hoa Kỳ đã quyết định can thiệp trực tiếp vào Chiến tranh Việt Nam: 1) Sử dụng không quân thực hiện Chiến dịch Sấm rền (Operation Rolling Thunder) tấn công, oanh tạc miền Bắc; và 2) Tại miền Nam thì đưa hơn nửa triệu quân bộ chiến vào “Lùng và Diệt địch”. (Search and Destroy). Cách can thiệp vào Chiến tranh Việt Nam của Hoa Kỳ như thế là một sai lầm to lớn đưa đến những hậu quả vô cùng tai hại. Tại quốc nội, Chiến tranh Việt Nam là một biến cố đưa đến một sự chống đối chưa từng có trong lịch sử hơn 200 năm của Hoa Kỳ. Có mấy lý do chánh đưa đến việc chống đối này: 1) Ðây là một cuộc chiến tranh không có tuyên chiến (an undeclared war); nên nhớ khi Hoa Kỳ tham chiến trong Ðệ nhị Thế chiến (1941-1945), với trên 400.000 quân tử trận, hoàn toàn không có một sự chống đối nào trong dân chúng; ngược lại toàn dân đều ủng hộ, tham gia đóng góp và hy sinh cho cuộc chiến; lý do: đây là một cuộc chiến mà chính Quốc Hội Hoa Kỳ có tuyên chiến với Nhật Bản vào ngày 8-12-1941 sau khi Nhật Bản bất ngờ tấn công Trân Châu Cảng vào ngày 7-12-1941; 2) Ðây là cuộc chiến tranh đầu tiên trong lịch sử Hoa Kỳ “diễn ra hàng ngày trong phòng khách” nhà dân chúng; người dân, đủ mọi thành phần, xem tin tức về Việt Nam hàng ngày trên ti-vi, bị ám ảnh nặng nề với số thương vong, có khi hàng trăm binh sĩ tử trận mỗi tuần (nhất là từ năm 1968 trở đi); 3) Chiến tranh càng kéo dài, gánh nặng về chi phí càng cao, và tác hại đến những chương trình an sinh xã hội trong nước, đặc biệt là chương trình Great Society của Tổng thống Johnson. Về phương diện đối ngoại, Hoa Kỳ bị nhiều nước trên thế giới lên án nặng nề về việc oanh tạc Bắc Việt hằng ngày với một số lượng bom khổng lồ, đối với một nước nhỏ và không có gây chiến, tấn công vào lãnh thổ của Hoa Kỳ (như Nhật Bản đã làm vào năm 1941). Riêng đối với VNCH, sự hiện diện của quân Mỹ, vừa gây nhiều xáo trộn nghiêm trọng về kinh tế – xã hội cho miền Nam, cũng làm cho VNCH khó bảo vệ được chính nghĩa của một cuộc chiến tranh tự vệ. Ðến khi nhận thức được rằng họ không thể nào thắng được cuộc chiến tranh này (các tác giả thuộc phái Chính thống -Orthodox – của Hoa Kỳ gọi nó là “an unwinnable war = một cuộc chiến tranh không thể thắng được”), theo cách đánh như thế, Hoa Kỳ quyết định đơn phương xuống thang, điều đình để rút lui trong danh dự, và bỏ mặc VNCH. Việc bỏ rơi VNCH của Hoa Kỳ không đơn giản chỉ là một chuyện “Khi Ðồng Minh bỏ chạy” (cụm từ đã được Tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng sử dụng làm tựa đề cho cuốn sách nổi tiếng của ông) như nhiều người trong chúng ta đã nghĩ. Nó là cả một quá trình qua 3 đời Tổng thống Mỹ (Johnson, Nixon và Ford) chớ không phải là một quyết định “một sớm một chiều”. Ðiều mỉa mai nhứt trong việc Hoa Kỳ bỏ rơi đồng minh VNCH là việc phản bội này được Ðảng Dân chủ dàn dựng (trong cuối thời gian cầm quyền của Tổng thống Nixon và năm đầu của Tổng thống Ford của Ðảng Cộng hòa) trong khi cũng chính Ðảng này, trong thời Tổng thống Johnson, đã chủ trương leo thanh chiến tranh tại Việt Nam, đưa đến sự hy sinh vô ích của 58.000 binh sĩ Hoa Kỳ. Rõ ràng hành động chính trị đảng phái vô trách nhiệm và vô liêm sỉ, vừa phản bội trắng trợn một nước bạn đồng minh, vừa biến sự hy sinh của 58.000 quân nhân của nước mình trở thành vô nghĩa, không phải là độc quyền của các nước độc tài, bất nhân. Hiệp định Paris năm 1973, đối với Hoa Kỳ, chỉ là một phương tiện để có thể giúp họ làm 2 việc: 1) rút hết quân khỏi miền Nam mà không cảm thấy bị thua nhục, và, 2) mang được hết tù binh của họ về nước. Ðối với VNCH, việc ký vào Hiệp định này là để đánh đổi cho việc được Hoa Kỳ tiếp tục giúp đỡ. Về sau này, mọi người đều thấy rõ là chỉ có một điều khoản duy nhứt của Hiệp định Paris đã được tuân thủ và thi hành triệt để: đó là việc Hoa Kỳ rút toàn bộ lực lượng chiến đấu còn lại ra khỏi VNCH trong vòng 60 ngày. Ngày hôm nay thì ai cũng biết là cái Hiệp định, mà tên gọi chính thức là “Agreement on Ending the War and Restoring Peace in Vietnam”, (Thỏa hiệp chấm dứt chiến tranh và vãn hồi hòa bình tại Việt Nam) hoàn toàn không có dính líu gì đến cái việc gọi là “vãn hồi hòa bình tại Việt Nam”. Chính phủ Mỹ, qua lời tuyên bố của chính Tổng thống Nixon, thì xem đó như là một “nền hòa bình trong danh dự”. Và bây giờ thì đã có hẳn một nhà nghiên cứu về Chiến tranh Việt Nam của Hoa Kỳ, Giáo sư Larry Berman, đã suy nghĩ, cảm nhận, kết luận và viết ra một cách minh bạch rằng: “chẳng có hòa bình mà cũng chẳng có danh dự gì cả”. Đó là cuốn sách “No peace, no honor: Nixon, Kissinger and betrayal in Vietnam của Nhà xuất bản Free Press ấn hành năm 2001. Chả trách tại sao khi được Giải Nobel về Hòa Bình, trong khi Kissinger sung sướng, hãnh diện đi nhận giải thưởng (để rồi hai năm sau phải chịu cái nhục xin trả lại giải thưởng) thì Lê Ðức Thọ đã lạnh lùng từ chối không nhận.

Miền Nam trở thành “bên thua cuộc”, xét cho cùng, gần như là một tất yếu lịch sử vì VNCH đã hội tụ đủ tất cả các lý do để “thua cuộc” : 1) thiếu vắng một ý thức hệ làm nền tảng cho một chiến lược cần thiết cho một cuộc chiến tranh tự vệ chống xâm lược mang màu sắc ý thức hệ; 2) không có được một giới lãnh đạo có đủ khả năng và bản lãnh chính trị với một tấm lòng vì dân vì nước và có một quyết tâm chiến thắng cao; và, 3) cũng không có được một đồng minh hết lòng giúp đỡ và có đầy đủ kiên nhẫn để đi tới cùng với mình trong cuộc chiến quá sức cam go này. VNCH chỉ có chính nghĩa mà chính nghĩa thì không có một chút giá trị gì cả trước họng súng của một kẻ địch cuồng tín trong ý thức hệ của họ, với một quyết tâm chiến thắng cao, và được bạn bè hết lòng giúp đỡ và đủ kiên nhẫn để đi với họ đến chiến thắng sau cùng. Cái chết của VNCH vào lúc 12 giờ trưa ngày 30-4-1975, bề ngoài có vẻ như là một sự bức tử, nhưng thật ra, nghĩ cho cùng, chỉ là một cái chết, tuy đến có hơi sớm hơn một chút, nhưng vẫn là có thể đoán trước được.

L.V.T.

Nguồn: Diễn đàn Thế kỷ 04/2020

 

THIÊN CHÚA ĐANG ĐI VỚI CON NGƯỜI TRONG ĐẠI DỊCH

THIÊN CHÚA ĐANG ĐI VỚI CON NGƯỜI TRONG ĐẠI DỊCH

 Giuse Phạm Đình Ngọc SJ  

Thiên Chúa không phán một lời từ trời cao để cứu con người.  Chính Con Thiên Chúa đã xuống thế làm người và ở với chúng ta.  Ngài muốn đồng hành với cuộc sống của từng người.  Đó là cách Thiên Chúa đã chọn để đem con người về với hạnh phúc.  Nếu nhân loại đang phải chịu nhiều thách đố trong thời gian này, thì chính Thiên Chúa vẫn luôn chọn cách đồng hành để từ từ đưa con người về với nhau và với Thiên Chúa.

  1. Con đường Emmau năm 2020

Tin Mừng Chúa Nhật thứ 3 phục sinh kể về một câu chuyện hai môn đệ trên đường Emmau.  Đó là con đường nối giữa thành phố Giêrusalem nguy nga tráng lệ và ngôi làng nhỏ bé nghèo hèn.  Số là hai môn đệ này nuôi giấc mộng đổi đời khi đi theo Đức Giêsu.  Các ông có lý khi bỏ mọi sự để đi theo một Đức Giêsu nổi tiếng.  Kể từ khi Đức Giêsu chết và được chôn trong lòng đất, giấc mộng của các ông cũng bị chôn vùi.  Mộng vỡ mơ tan.  Các ông không còn con đường nào khác là lủi thủi đi về lại chốn xưa.  Hẳn là các ông cũng không thiếu hoang mang, buồn phiền và lo lắng.

Tâm trạng của hai ông nếu chắp nối vào tâm trạng của mỗi người thời Covid–19 chắc cũng không khác nhau nhiều.  Trước đại dịch, người ta mơ về một viễn tượng huy hoàng của biết bao dự án.  Phát triển kinh tế đang tăng mạnh, mọi lãnh vực đời sống dường như khấm khá hơn xưa nhiều.  Ai cũng tự tin để thực hiện ước mơ của mình.  Công danh sự nghiệp hứa hẹn cho nhiều người.  Bỗng dưng Covid–19 xuất hiện, mọi thứ bị đảo lộn và bức tranh kinh tế cũng phủ màu đen tối.  Nhiều dự báo không mấy sáng sủa ở phía trước.  Nếu như hai môn đệ vỡ mộng vì thầy Giêsu đã chết, thì nhiều người thời nay cũng rơi vào cảnh khó khăn chồng chất vì Virus.  Đây hẳn là con đường chông gai đòi người ta phải bước đi nặng nề.

Nếu cụ Nguyễn Du viết rằng “người buồn cảnh có vui đâu bao giờ?”, thì chúng ta cũng chẳng vui gì trong hoàn cảnh này.  Hầu hết mang tâm trạng lo lắng.  Nhất là những ai là nạn nhân trực tiếp của virus.  Thật khó để vượt qua nỗi đau này.  Chẳng thế mà nhiều dự báo cho rằng sau thời đại dịch, sẽ có nhiều khủng hoảng kéo theo: kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa, đạo đức, v.v…  Đó thực sự là con đường gồ ghề khiến không ít người đuối sức.  Nếu có mặt với hai môn đệ trên đường Emmau năm xưa, họ cũng đã không vượt qua được những thất vọng ê chề.

  1. Có lý do để hy vọng

Trên con đường vô vọng đó, hai môn đệ gặp một vị khách bộ hành.  Chúng ta biết đó là Đức Giêsu phục sinh, nhưng khi ấy các ông đâu biết gì.  Đức Giêsu chọn cách đi cùng với họ.  Dạo bước để từ từ tiếp chuyện.  Ngài hỏi, các ông trả lời; Ngài lắng nghe, các ông hăng say kể; Ngài giải thích, các ông chưa hiểu gì; Ngài đi tiếp, các ông mời ở lại, vì trời đã xế chiều.  Đó là tóm tắt ngắn gọn, nhưng thực tế câu chuyện của ba người này chắc đủ dài để cho thấy: Thiên Chúa luôn đồng hành với con người.

Trong câu chuyện trên, Đức Giêsu đang trao cho họ niềm vui Phục Sinh, khơi lên hy vọng trong lòng của họ.  Ngài không nói ngay cho các ông rằng Ngài đã phục sinh.  Ngài nhẹ nhàng đi cùng và muốn trò chuyện như những người bạn.  Đó là con đường sư phạm của Đức Giêsu.  Nhờ đó, mà “Khi đồng bàn với họ, Người cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, và bẻ ra cho họ.  Mắt họ liền mở ra và họ nhận ra Người nhưng Người lại biến mất.” (Lc 24,30–31).  Họ đã thấy và tin vào Chúa Phục Sinh.  Lúc này, hai ông rộn ràng vui mừng trở về Giêrusalem để báo tin.

Kể ra chút chi tiết như thế để chúng ta thấy Thiên Chúa, qua Giáo Hội, cũng đang đi cùng với con người.  Chưa bao giờ Giáo Hội muốn phớt lờ nỗi đau của con cái mình.  Nhất là khi chúng ta gặp nạn, Thiên Chúa không bỏ rơi.  Ngược lại, Ngài đến để ủi an, lắng nghe và chuyện trò.  Tiếc là còn quá nhiều người chẳng tiếp chuyện với Ngài.  Kết quả là không ít người mất hy vọng vào cuộc sống.  Ai có thể trao ban bình an và hy vọng lớn lao bằng Thiên Chúa?  Thay vì chạy đi tìm hy vọng nơi tạo vật hoặc chính mình, hãy chạy đến Thiên Chúa.  Nói đúng hơn, chính Thiên Chúa cũng đã muốn được đi cùng con người.  Vấn đề còn lại là người ta có hoan hỷ tiếp chuyện với Chúa hay không mà thôi.

Là người Công Giáo, chúng ta có kinh nghiệm ít nhiều về Thiên Chúa đồng hành.  Ngài đang hiện diện trong tâm hồn mỗi người, nơi Giáo Hội, Xã Hội và chính trong những biến cố đang diễn ra.  Ngài đang khơi lên hy vọng cho từng người.  Biết bao lần Thiên Chúa nói qua vị đại diện của Ngài trên trần gian là Đức Giáo Hoàng:

“Niềm tin Phục Sinh nuôi dưỡng hy vọng của chúng ta.  Tôi muốn chia sẻ điều ấy với anh chị em.  Đó là hy vọng về một giai đoạn tốt đẹp hơn, chúng ta có thể tốt hơn, và sau cùng là được giải thoát khỏi sự ác và khỏi đại dịch này.  Đó là một hy vọng: hy vọng không làm chúng ta thất vọng; hy vọng không phải là ảo tưởng, nó là một hy vọng.”[1]

  1. Cho Chúa một cơ hội

Hai môn đệ trên đường Emmau năm xưa đã cho Đức Giêsu cùng dạo bước.  Khi gần gũi Thiên Chúa, các ông thấm dần ngọn lửa hy vọng vào Đức Giêsu Phục Sinh.  Lòng các ông sáng lên từ khi Đức Giêsu ngỏ lời với các ông.  Đó là không gian của nguyện cầu, là nhịp cầu để Thiên Chúa bước vào trong tương quan của các ông.  Hơn nữa, các ông còn mời Đức Giêsu vào nhà mình.  Đó không chỉ là hành vi hiếu khách, nhưng các ông ít nhiều cảm thấy vị khách này có cái gì đó đặc biệt.  Dọc đường trong câu chuyện, các ông bớt chán nản sầu não hơn.

Hôm nay cũng thế, trên đường đời của mỗi người còn đó biết bao thách đố.  Thay vì oán trời trách đất, thở ngắn than dài, hãy cho Chúa một cơ hội bước vào nhà mình.  Đã có nhiều người để Đức Giêsu chi phối đời họ; kết quả là cuộc sống họ được đổi thay.  Cứ nhìn các vị thánh vốn hằng để Thiên Chúa đồng hành.  Họ hạnh phúc dường bao!  Thực ra trong bình an và nhất là trong giai đoạn khốn khó, ai để Thiên Chúa đồng hành, người ấy hẳn là tìm thấy ánh sáng từ nơi bóng tối.  Thiên Chúa của chúng ta thì gần gũi.  Gần kề con người, Thiên Chúa có thể trao ban cho chúng ta một con đường của sự sống và hy vọng.  Đó là Tin Mừng Phục Sinh đã vực các môn đệ đứng lên loan báo cho muôn dân: Đức Giêsu đã chết và nay đã sống lại!

Câu chuyện hai môn đệ trên đường Emmau luôn có tính thời sự.  Đó không chỉ xảy ra cho hai ông, nhưng còn là câu chuyện của mỗi người.  Nhất là trong hoàn cảnh lúc này, Đức Giêsu vẫn đang “hiện ra”, Ngài vẫn hỏi, vẫn lắng nghe và trò chuyện với mỗi người.  Có khi nhiều người đi nhanh quá bỏ Thiên Chúa lại đằng sau, nhiều người sống vội nên quên mất bên mình còn Thiên Chúa, hoặc nhiều lúc người ta hoảng loạn quá cũng quên mất Thiên Chúa.  Thật tốt khi đứng lại một chút để thấy Thiên Chúa đang ở đâu.  Ngài đang gõ cửa!  Mong sao mỗi người can đảm đón Ngài vào đường đời của mình.  Khi đó, chắc chắn người con của Chúa sẽ vượt qua mọi khó khăn, kể cả trong và sau đại dịch virus cũng thế.

Lạy Chúa Giêsu, mời Ngài ở lại với con, với gia đình chúng con, vì trời đã xế chiều, và ngày sắp tàn.  Bóng đêm đang buông dần, chúng con cần Ngài đỡ nâng, trợ giúp và đồng hành.  Amen.

 Giuse Phạm Đình Ngọc SJ  

Nguồn:  https://dongten.net/2020/04/24/thien-chua-dang-di-voi-con-nguoi-trong-dai-dich/

[1] Thông điệp video của Đức Thánh Cha Phanxicô trong dịp Tuần Thánh 2020.

From: Langthangchieutim

Bỏ quên

Thảm trạng gia đình người Việt ở Mỹ trong mùa dịch

 Bỏ quên

Nghe tiếng phone reng, Hoàng bực mình cho là phone quảng cáo, nhưng vẫn dở phone lên gắt gỏng :

– Alo ! cái gì mà gọi hoài vậy.

 

– Dạ cho chúng tôi gặp ông Lợi,  chúng tôi gọi hai ngày nay không ai bắt phone.

 

– Ông Lợi không có nhà.

– Chúng tôi rất cần gặp ông Lợi

 

– Ông Lợi đi làm hai giờ chiều mới về, có gì nói với tôi được không, tôi là người nhà ông Lợi,

– Xin bà làm ơn nói với ông Lợi đến nhà dưỡng lão CampBell đưa ông cụ về nhà vì dịch corona nhà dưỡng lão được lệnh phải giải tán.

 

Hoàng hoảng  hốt nghĩ cái hoạ sắp tấp vào nhà,  liền xuống giọng năn nỉ :

 –  Thưa bà,  xin bà có cách gì tạm để ông già trên đó không,  tốn mấy chúng tôi xin chịu, nhờ bà làm ơn giúp cho chúng tôi, chúng tôi sẽ hậu tạ riêng bà.

 

 – Không được cô, tôi là nhân viên đâu có quyền hành gì, 19 người già trong viện xét nghiệm có 4 người dương tính, bị nhiễm virus, hiện cho nằm bịnh viện, số còn lại kết quả âm nên cấp tốc trả về nhà cách ly 14 ngày.

Đó là lệnh của ban phòng chống dịch. Hiện người ta về nhà hết, trừ ông cụ, bởi vậy cô phải báo cho ông Lợi biết,  cấp tốc đến đưa ông cụ về. Thôi, cảm ơn cô.

 

Bỏ phone xuống Hoàng sững sờ :  Làm sao bây giờ.

Lợi có một bà chị và một đứa em. Gọi phone bà chị, nhờ bà chị nhận ông già về tạm mấy ngày dịch hoành hành rồi sẽ tính sau :

– Chị nên đưa cha về một thời gian ngắn rồi sẽ tính, chị lo cho cha,  bọn em chịu tất cả phí tổn cho chị

 

– Không được, nhà tui có một phòng,  lớn nhỏ năm người ở,  đưa cha về ở chỗ nào. Nhưng mà cậu mợ nghĩ sao, ba năm nay ổng đã ở yên rồi, thì để ổng ở tiếp cho hết đời, đem về làm gì.

– Bây giờ người ta không cho ở nữa, tất cả viện dưỡng lão đều bị đóng cửa. Thôi để em thuyết  phục chú út thử.

 

 Chú út viện lý do hai vợ chồng chú cả ngày đi làm , vì làm y tá ở bịnh viện nên dù mọi người đều phải ở nhà, hãng xưởng đều đóng cửa, nhưng hai vợ chồng chú không được ở nhà, thì làm sao có thì giờ chăm sóc ông già.

 

Trước lý do đó chị không thể năn nỉ câu thứ hai. Không còn cách gì nữa,  năn nỉ ai cũng không được,  chị liền nghĩ đến cách cuối cùng là im lặng xem như không được tin tức gì hết, và có thể cảnh sát xem như ông già không có thân nhân, và họ sẽ giải quyết theo hướng đó, hướng không có thân nhân.

 

 Chị mỉm cười khen mình người sáng ý,  thông minh. Chị biết rất rõ anh bạn của  chồng chị, cách nay ba năm, có bà mẹ già ở Pháp sang thăm, bà bị bịnh,  anh gấp rút đưa vào bịnh viện, độ vài tuần sau bà cụ qua đời. Bịnh viện liên lạc thân nhân mới hay,  là số phone giả, địa chỉ giả.

 

Chiều hôm đó Lợi về hơi sớm. Đường vắng quá, một vài người lớn tuổi đi bộ có vẻ ké né trên lề đường, đeo khẩu trang,  ra dáng thận trọng nghiêm nghị khác những ngày thường.

 

Quang cảnh khác hẳn, hơi rờn rợn, hình như ma quái núp trong cỏ cây, nơi nào đâu xa lạ hoang vu,  chứ không phải nơi anh thường đi ngày hai bận, đi cắt cỏ cho một trường học gần nhà.

 

Anh vừa bước vào nhà, nghe phone reng, trong phòng bên cạnh chị chạy ra nhưng không kịp.

– Alo ! dạ..dạ .. dạ vâng …dạ..dạ tôi đến ngay.

 

 Vừa đặt phone xuống, anh nói ngay :

– Bọn nó đuổi ông già về, bây giờ anh phải đi đón về.

 

 Chị cố bình tỉnh, tuy giọng hơi run run :

– Thì anh ăn cơm rồi sẽ tính sau.

-Tính cái con mẹ gì, nó bảo trước đây hai ngày, họ về hết rồi, nếu chiều nay không ai đón về, nó báo cho cảnh sát biết và xem như xong nhiệm vụ.

 

– Hay là anh để cho cảnh sát nó giải quyết xem sao.

– Làm thế cha anh sẽ chết lạnh dọc đường cái trong đêm nay.

 

Bực mình anh vẫn giữ nguyên bộ quần áo cắt cỏ ra xe.  Anh nghĩ cũng tại anh, năm đó ông già không  chịu đi, lấy lý do già rồi đi làm gì, tiếng Anh không nói được không biết lái xe, hơn nữa, mẹ anh mới mất chưa giáp năm, bỏ đi thấy tội nghiệp quá.

 

Nhưng anh bảo cha anh nên đi, tuổi già ở Mỹ có đũ thuốc men,  có bác sĩ giỏi, có binh viện tốt,  nhất là tránh được cái nạn dùng thuốc giả, thuốc độc,  của Trung quốc.

 

Bà chị cả của anh, người em trai út và nhất là vợ anh,  liên tục lén anh, viết thơ về khuyên ông già nên ở lại Việt nam lo mồ mã cho mẹ mới mất,  rồi sẽ gửi tiền,  gửi thuốc Tây về cho ông.

 

Bởi vậy ông quyết định xoá bỏ hồ sơ H.O.  Khi được tin xoá bỏ hồ sơ,  anh phải cấp tốc về quê khuyên bảo ép buộc ông làm lại hồ sơ. Thế mà phải chờ đến trên mười năm,  hổ sơ mới được tái xét, mới được ra đi.

 

 Freeway 17 vắng quá, anh chạy hơi quá tốc độ nên chưa đến một giờ đã ra exit Campbell.

Theo con đường nhỏ đi sâu vào rừng rậm.  Tuy chưa đến 4 giờ chiểu nhưng như sắp tối, vắng một cách kinh hoàng.

 

Anh nghĩ làm nhà dưỡng lão ở nơi này có khác gì một nhà tù nhốt mấy ông già gần đất xa trời.

Đậu xe phía trước,  anh chạy vòng vào sân sau, không có một bóng người nào, phía trong hành lang xa,  một ông già nhỏ thó ngồi bất động trên cái ghế dài bên cái xách vải .

“ Trời ơi ! cha tôi đây Trời !” Anh nhào tới ôm cha anh, ông già mỉm cười, nước mắt dầm dề :

–  Thấy con cha mừng quá. Hai hôm nay cha ở đây một mình. Nếu tối nay con không đến, cha mò lần ra đường cái. Trời còn thuong cha.

 

– Cha ngồi đây lâu chưa ?”

– Hồi sáng giờ.  Bà y tá bảo cha dọn đồ ra ngồi chờ người nhà lên,  họ đóng cửa.

 

Lợi xách túi vải nói :

– Con cõng cha ra xe, đường đi nhiều rễ cây dễ bị vấp ngã.

 

Ông giả lẩm nhẩm :

 – Cha ở đây đúng ba năm 4 tháng 18 ngày.

 

Lợi mừng thầm, ông già mình tuy ốm yếu nhưng trí óc còn khá sáng suốt mới nhớ được số ngày tháng năm ở khu rừng này.

– Bọn con đều khoẻ mạnh hết.?

– Dạ, vì bịnh dịch đang lan tràn nên ai ở nhà nấy không dám ra đường, nên mình con đi đón cha..

 

– Hai đứa cháu nội của cha lớn lắm hả,  có đứa nào có vợ chưa.

– Chưa cha, bọn nó còn nhỏ, còn đi học mà.

 

Lợi lái xe chạy chậm vì đoạn đường xấu, sợ xe xóc làm mệt cha già. Nghe tiếng thở đều đều ông già ngoẽo đầu qua một bên thiu thiu ngủ.

Lợi định tạm để cha già ở cách ly tại garage xe. và anh định nghỉ cắt cỏ ít nhất 2 tuần để chăm sóc cha.

Anh nguyện lần này chính anh, chinh bàn tay anh,  sẽ làm mọi thứ,  từ nấu ăn, giặt dũ đến tắm rửa, đổ bô,  lau cầu, không để ai nhúng vào, nhất là vợ anh.

 

Nhắc đến vợ, anh lo lắng rồi đây anh phải cố gắng chịu đựng, cố gắng nhịn nhục tối đa,  để tránh những cuộc đổ vỡ cãi vã to tiếng. Nhất là không để cho ông già nghe được   những lời cãi vã.

Anh chắc chắn phải làm được vì ông già sống ở garage biệt lập.

 

Bữa cơm tối hôm đó tuy rất đói nhưng anh ăn không ngon vì hình ảnh cha anh  khi chiều làm anh rất xúc động, anh cảm thấy tội lỗi,  một ông già gầy ốm một  mình ngồi cheo leo ở bìa rừng vắng vẻ tiêu điều,  vào một buổi chiều sắp tắt.

 

Tại sao một ông già phải bị đày đoạ như thế.  Mâm ăn có 4 người, hai con anh ngồi một bên, vợ anh với anh một bên.

Hai đứa nhỏ và vợ anh mỗi người chăm chú vào chiếc Iphone,  không để ý gì đến việc ăn uống.

Bỗng chị hỏi :

-Cha ăn uống gỉ chưa ?

 

– Cha mệt đang ngủ ngoài garage, anh đang nấu cháo cho cha

– Chắc anh gặp cha đang lang thang ngoài đường cái chứ gì?

 

Anh giả vờ không hiểu câu nói móc của chị,  vì khi ra xe đi đón ông già,  anh bảo nếu không lên đêm nay, ông già có thể chết lạnh trên đường cái.

Anh bình thảng trả lời :

– Không,  ông già ngồi cheo leo một mình ở hè nhà dưỡng lão.

 

Hai đứa nhỏ thôi ăn đứng dậy, mỗi đứa rót một ly nước, lên lầu

 Chị cũng thôi ăn, đứng dậy,  anh liền bảo :

 – Em ngồi lại anh có vài điều muốn bàn với em.

 

Chị ngồi xuống nhìn thẳng vào anh.

Anh đem cha vể đây ở tạm một thời gian, có thể nửa năm, một năm để ổng ổn định sức khoẻ, anh sẽ dẫn ổng về lại Việt Nam ở với bà cô ruột anh cũng đang sống một mình với đứa cháu trong họ.

 

Anh sẽ làm hết mọi việc từ đi chợ, nâu ăn, rửa chén, dọn dẹp trong nhà, lau chùi cầu tiêu nhà cửa, v..v..anh chỉ tha thiết xin em một điều ..một điều.. là cố gắng vui vẻ với ông già trong lúc ổng còn ở nhà này với chúng ta.

Nghĩa là em sẽ không làm gì hết, cố nhiên việc chăm sóc ông già là việc của anh, nếu em …thấy không thể được thì cũng nên cho anh biết.

 

Không khí nặng nề im lặng.  Chị đứng dậy,  chậm chậm đi lên lầu.  Khi chị đi rồi anh bực  mình tại sao lại đặt vấn đề với chị một cách thẳng thừng thô bạo như vậy, vô tình đẩy chị vào thế chống đối, anh cảm thấy mình kém cõi quá, làm vấn đề đáng lẽ đơn giản,  hoá ra khó khăn phức tạp hơn.

 

Nhà anh có 4 phòng, trên lầu 3 phòng ngủ, 2 phòng tắm. Hai con hai phòng anh chị một phòng.

Tầng trệt 1 phòng ngủ 1 phòng tắm. Khi ông già chưa đến nhà dưỡng lão, ở phòng dưới này.  Để ông già nằm một mình ở garage anh không yên tâm, đêm hôm có việc gì ông già kêu không ai nghe, anh đặt môt giường nhỏ anh nằm cạnh ông già.

 

Lấy lý do vì dịch corona, cách ly xã hội, nên anh yên tâm để ông già ở Garage cho đến khi hết dịch.

Cũng vì lý do đó anh giải thích với ông vợ anh và hai con anh chưa dám ra garage.

Thật sự ông già hiểu hết sự việc, nhất là suốt hơn ba năm nay, ba chục người bị  “lưu đày” ( chữ của các cụ ở nhà dưỡng lão Campbell ) ở chung với nhau . Hầu như họ chung một tâm trạng bị con, tống họ ra khỏi nhà, vì tốn kém thì ít,  vì người nào cũng có tiền già, tiền chánh phủ cấp cho tạm đũ sống, có lẽ vì người càng già càng làm cuộc sống của chúng mất tươi trẻ, mất hạnh phúc, và cũng chính người già bị gán cho là cái ổ vi trùng, ổ bịnh tật.

 

Người già đồng nghĩa với dơ dáy. v..v.. Tất cả họ, những người Việt nam ở trại Campbell, đều là cựu sĩ quan miền Nam Việt Nam sau ngày mất nước tháng Tư năm 75 (1975), trung bình mỗi người chịu gần 10 năn tù cộng sản.

 

Vì cùng chung một tâm trạng, một ngôn ngữ họ thông cảm với nhau họ không quá chán nản quá cô đơn như ở các nhà dưỡng lão khác nói tiếng Anh là chính,  nên người nào không nói   được,  chịu rất nhièu thiệt thòi,  có khi bị đánh đập vì bị xem như bất tuân các mệnh lệnh của y tá y công.

Vì chia  xẽ vì thông cảm vì cùng cảnh ngộ họ tránh được những cãi vã,  những xô xác với nhau,  nhưng họ mỗi ngày mỗi chuốt thêm những oái oăm, những nỗi buồn vì bất hạnh với gia đình,  với con cháu.

 

 Mỗi ngày họ phết thêm vào bức tranh tập thể đó,  một nét buồn thảm ảm đạm. Thế cho nên họ thiếu hẳn niềm vui, người nào cũng mang một bộ mặt âu sầu buồn thảm.

Thậm chí có người than rằng ở tù tuy mất tự do,  tuy nhục nhã,  nhưng ít nhất một tháng,  hoặc 6 tháng,  có gia đình đến thăm nuôi, và gia đình còn thương xót,  còn tôn trọng,  còn kính nể người đang ở tù,  và còn hi vọng người tù còn có ngày về để cùng xây dựng lại cuộc sống,  tạo lại hạnh phúc.

 

Trái lại vào trại dưỡng lão không mất tự do,  nhưng gần như  không cần tự do nữa, như bước vào giai đoạn cuối cuộc đời .

 Họ thật sự bi bỏ quên. Có người suốt năm không có người đến thăm.

Theo ông khi vào trại, tổng số là 30 nguòi, và gần 4 năm sau chỉ còn 19 người. Mười một người lìa trần vì buồn bã quá, vì chán nản đến cùng cực, vì tủi thân, vì bị bỏ quên,  chứ không phải vì những bịnh nan y.

Có những người không chịu uống thuốc, có người phản đối đi bịnh viện.

 

Từ ngày đưa cha về nhà anh thay thế vợ làm mọi việc trong nhà,  anh mới biết rằng tuy công việc nhẹ,  nhưng bực mình quá.

Quần quật từ sáng đến tối,  không hết việc.  Anh dọn cho cha anh và chính anh ăn ngoài garage, sợ cha buồn anh giải thích vì trong thời kỳ cách ly nên phải như thế. Vợ con anh ăn trong nhà.

 

 Tuy ông hiểu điều giải thích của anh là đúng trong thời kỳ cách ly này, nhưng ông vẫn buồn buồn tủi thân.  Ông mỉm cười tự thấy mình càng già càng khó tính, càng cô đơn càng khó tính.

 

Ông nghĩ đáng lẽ ở tuổi mình tuổi gần 80 phải dễ dãi , phải cởi mở, sao cũng xong cũng tốt.  Ông nhớ lại cái đề tài này, trong nhà dưỡng lão,  thường đem ra bàn luận với nhau trong nhóm anh em,  và lúc nào ông cũng ở phe chỉ trích những người khó tính,  và quả quyết vì tính xấu đó,  mà con cháu nó không muốn sống gần với mấy người già,  dù đó là ông bà nội ngoại.

 

Mấy người bạn của ông không đồng ý và cho rằng vì hai nền văn hoá Đông phương Tây phương đối lập nhau,  nên mới có những bi kịch như vậy.

Rồi họ dẫn chứng ở Việt Nam chẳng hạn( trừ cộng sản) đứa bé lên ba đã được cha mẹ dạy dỗ lễ độ chào hỏi,  trong khi ở Mỹ trẻ con lên đại học chưa có thói quen chào hỏi.

Vấn đề này với ông,  chưa ngã ngũ,  chưa tìm ra câu giải đáp thoả mãn.

 

 Từ ngày ra khỏi nhà dưỡng lão Campbell. ông sống một mình ở garage ông hay nghĩ đến người vợ quá cố của ông.

Nếu bà còn sống,  thì có lẽ đời ông không như thế này, không có chuyện ở nhà “ lưu đày Campbell”.

 

Càng nhớ đến bà,  ông càng thấy ở bà có phẩm cách cao quí, một người vợ tuyệt vời, một người đàn bà suốt đời biết hi sinh cho chồng cho con, một người kính trọng cha mẹ ông hơn cả ông kính trọng.

Có hôm trong giấc chiêm bao ông thấy bà ngồi cạnh giường ông, ông mừng quá ngồi dậy thì bà lặng lẽ đúng dậy ra  đi im lặng không nói một lời.

Rồi những đêm tiếp theo,  ông mong được gặp bà nhưng không thấy.  Ông tính sẽ nói với anh lập bàn thờ thờ mẹ để đêm đêm có chỗ ông thắp cây nhang, tội nghiệp. Nhưng ý nghĩ này bị dập tắt ngay,  vì ông,  và bạn bè ông đều biết,  có bao giờ bọn chúng chấp nhận bàn thờ.

 

Anh vui vẻ hỏi cha :

– Hôm nay con đi chợ, cha muốn mua thứ gì, muốn ăn uống gì,  con mua cho cha.

– Không, không, khỏi mua gì con, cha ăn gì cũng được,  nhà có gì ăn nấy.

 

Anh vừa ra xe,  thì chị và hai đứa nhỏ đến cửa trong nhà xuống garage, chị nói lớn trong nước mắt :

 

– Hai cháu và con chào cha.  Nhờ cha nói với ổng có cái thư để trong tủ lạnh. Ổng không cần vợ,  không cần con,  nên bọn con ra đi.  Nói xong chị và hai đứa nhỏ lui  vào nhà.  Ông bối rối không kịp nói gì.  Mệt quá ông  nằm đừ lên giường cảm thấy khó thở.  Ông mê mang vào giấc ngủ hồi nào không biết.

 

Anh đặt mâm cơm lên bàn mới hay cha anh đang ngủ. Anh ngạc nhiên sao giờ này cha anh còn ngủ :

 – Cha, cha, dây ăn cơm rồi hãy ngủ cha.

 

 Ông già ngồi dậy bần thần không biết ở đâu. Anh nói lớn:

 – Hình như cha bị cảm phải không.

 – Không,  hơi mệt thôi, không sao đâu.

 

 Ông ngồi dậy cố nuốt miếng cơm, nước mắt dầm dề :

 – Vợ con với hai đứa nhỏ bỏ nhà đi rồi

 – Cha nói cái gì vậy cha ?

  Ông lặp lại :

 – Vợ con bỏ nhà đi rồi. Nó có ra chào cha và dặn cho con biết có thư trong tủ lạnh.

 Anh vội vàng chạy vào nhà. Thư viết : “ Ông xem mẹ con tui không ra gì nên chúng tôi phải ra đi”. Viết vội vã chữ nguệch ngoạc, chỉ một câu thôi, không ký tên không đề ngày.

Tức qúa anh xé nát tờ thư, ngồi thừ xuống ghế nước mắt tuông chảy, anh khóc.  Anh ngồi như thế đến 1 giờ sáng, giật mình nghĩ đến ông già, anh vội bước ra garage cố điềm tỉnh dấu cha anh.

Cha anh nằm im lặng hình như chưa ngủ, vì ông già cựa mình và thỉnh thoảng ho. Anh nghĩ phải cố gắng bình thảng trước cha anh. Mong hết cơn dịch anh sẽ đưa cha anh về Việt nam rồi anh sẽ đi tìm vợ con anh. Nhất định không để đổ vỡ gia đình. Anh nghĩ,  lỗi do mình, mình bất tài quá nên mới ra nông nỗi này.

Nguyễn Liệu

San Jose ngày 15 tháng 4 năm 2020

Ngày cao điểm của trận dịch corona

From: Xuân Nguyễn

Facebooker Phan Công Hải bị kết án 5 năm tù với cáo buộc chống nhà nước

Thuc Tran and Tai Do shared a post.
Image may contain: 1 person, standing and text
Image may contain: one or more people and closeup
Image may contain: one or more people, people standing and indoor
Image may contain: one or more people, people sitting and indoor

Võ Hồng Ly is with Võ Hồng Ly.

28.04.2020

Sáng hôm nay, 28/04/2020, Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An đã xét xử em Phan Công Hải với cáo buộc “Làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm nhằm chống lại Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” theo điều 331 Bộ luật hình sự.

Sau 2 tiếng diễn ra phiên toà và không có luật sư bào chữa, toà tuyên án em Phan Công Hải 5 năm tù giam và 3 năm quản chế.

Theo cáo trạng của Viện kiểm sát tỉnh Nghệ An, vào cuối năm 2018, trường trung học sơ sở Đô Thành, huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An đã phát hiện trang FB có tên “Hung Manh”, “Người Việt Xấu Xí”, “David Nguyễn” đăng tải hình ảnh một thanh niên có các hành động xúc phạm ông HCM, các lãnh đạo cùng những nội dung “bôi xấu” chế độ nên liền báo cáo sự việc với công an huyện Yên Thành.

Sau khi xác định Phan Công Hải là chủ của các tài khoản FB này, ngày 22/04/2019, Cơ quan ANĐT Công an tỉnh Nghệ An đã ra quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can và ra lệnh bắt tạm giam đối với Phan Công Hải.

Do Phan Công Hải không còn sinh sống tại nơi đăng ký thường trú tại địa phương, cơ quan an ninh điều tra đã phát lệnh truy nã toàn quốc đối với Phan Công Hải. Hôm 19-11-2019, khi Phan Công Hải đang trên đường trở về Hà Tĩnh sau một thời gian lánh nạn tại Thái Lan đã bị công an vây bắt tại xã Thạch Kim, huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh.
____
Hình : Báo CAND , Nghệ An./.

Nguồn : https://www.rfa.org/…/facebooker-phan-cong-hai-sentenced-to…

Bác sỹ trên tuyến đầu ở New York tự vẫn

About this website

Virus corona: Bác sỹ tuyến đầu ở New York tự vẫn

Bản quyền hình ảnhDR LORNA BREEN / FACEBOOK

Một bác sỹ có tiếng ở thành phố New York trên tuyến đầu chống dịch Covid-19 đã tự vẫn.

BS Lorna Breen, 49 tuổi, giám đốc chuyên môn khoa cấp cứu Bệnh viện New York-Presbyterian Allen ở Manhattan, đã chết hôm Chủ Nhật vì những thương tích tự gây, cảnh sát cho hay.

Cha của bà, BS Philip Breen, nói với tờ The New York Times: “Con tôi gắng làm công việc của mình và công việc đã giết chết nó”.

New York có trên 17.500 ca tử vong trong tổng số hơn 56.000 ca trên toàn nước Mỹ.

BS Philip Breen nói con gái ông không có tiền sử bệnh tâm thần. Bà qua đời ở Charlottesville, Virginia, nơi bà đã ở cùng gia đình.

Nữ bác sỹ Lorna Breen bị nhiễm virus corona trong quá trình làm việc và quay trở lại tuyến đầu sau khi ở nhà chừng một tuần rưỡi để hồi phục, cha bà cho biết.

Bệnh viện đã yêu cầu bà về nhà nghỉ lần nữa, trước khi gia đình “can thiệp” để đưa bà về Charlottesville.

Cha bà nói lần cuối cùng ông nói chuyện với con gái, bà có vẻ “thẫn thờ” và kể cho ông về các bệnh nhân Covid-19 đã chết trước khi được đưa xuống xe cấp cứu. Hàng chục bệnh nhân đã tử vong vì virus corona tại Bệnh viện New York-Presbyterian Allen, nơi có 200 giường bệnh.

“Cô ấy thực sự ở dưới chiến hào của tuyến đầu,” cha bà nói với báo the Times.

“Hãy đảm bảo con tôi được ca ngợi như một anh hùng. Nó đã tử vong cũng như tất cả những người khác đã qua đời.”

Theo tờ The Times, BS Lorna Breen là một người Thiên chúa giáo ngoan đạo rất gắn bó với gia đình. Bà cũng là người say mê trượt tuyết và yêu thích nhảy salsa. Bà làm tình nguyện tại một nhà dưỡng lão một tuần một lần.

Bệnh viện New York-Presbyterian Allen viết trong một thông cáo: “BS Breen là một anh hùng, người đã thực hiện những ý tưởng cao đẹp nhất của ngành y tại tuyến đầu đầy thử thách của khoa cấp cứu.”

Trong một thông cáo báo chí xác nhận cái chết của bà, Sở Cảnh sát Charlottesville cũng mô tả BS Breen như một “vị anh hùng”.

Bản quyền hình ảnhCHRIS LEARY PHOTOGRAPHY

Sở cảnh sát nói sau khi có cuộc gọi vào ngày 26/4, BS Breen được đưa tới một bệnh viện địa phương để chữa chạy, “nơi sau đó bà đã ra đi vì những thương tích tự gây ra”.

Cảnh sát Trưởng RaShall Brackney nói trong một thông cáo: “Các nhân viên y tế tuyến đầu và những người làm công việc cấp cứu không miễn dịch trước những tác động về tâm lý và thể lực của nạn dịch hiện nay.

“Mỗi ngày, những nhân viên này phải làm việc trong hoàn cảnh hết sức căng thẳng, và virus corona khiến công việc còn căng thẳng hơn.”

Tiểu bang New York ghi nhận gần một phần ba trong số gần một triệu ca nhiễm trên toàn nước Mỹ.

Hôm thứ Hai, Thống đốc bang New York Andrew Cuomo nói các xét nghiệm kháng thể cho thấy một phần tư người dân Thành phố New York (24,7%) – thành phố đông dân nhất nước Mỹ với 8,3 triệu người – đã nhiễm virus corona.

BBC.COM
Cha của nữ bác sỹ 49 tuổi Lorna Breen nói: “Con tôi gắng làm công việc của mình và công việc đã giết chết nó”.

Nói thẳng với Phan Đăng.

Hoang Le Thanh 
Trả lời tên Việt gian bút nô “nhà báo” Phan Đăng.

Phan Đăng hùng biện:

“Các bạn trẻ cứ yên tâm đi, Đảng và Nhà nước đã biết hết các nỗi lo của các bạn rồi, Đảng và Nhà nước đã có phương án hết cả rồi. Và chúng ta cũng không cần kiện Trung Quốc đâu. Các bạn cứ tin tưởng vào Đảng và Nhà nước đi”.

*

Để trả lời Phan Đăng, Luật sư Lê Công Định giới thiệu bài viết:

Nói thẳng với Phan Đăng.

Bài viết rất lôi cuốn của một cô gái Sài Gòn về luật quốc tế và con đường khởi kiện Trung Cộng. Đ&NN nên đọc để sáng mắt!

Nói thẳng với Phan Đăng
27/04/2020

Yến Phương

Những ngày này, người dân Việt Nam ở trong nhiều tình cảm xáo trộn, khi thấy “giặc” Trung Quốc đang ngày đêm uy hiếp nước ta. Nỗi lòng của người dân cả nước, trong đó có em – một người con nước Việt, luôn tự vấn lòng mình, “ta phải làm gì cho Tổ Quốc hôm nay”?

Xin tự giới thiệu với anh Phan Đăng, em chỉ là một nữ sinh Sài Gòn, sinh năm 1995, mới tốt nghiệp đại học luật, chuyên ngành luật quốc tế được 3 năm. Kiến thức của một cô gái nhỏ như em, chắc chưa theo kịp với một nhà báo tiếng tăm tầm cỡ như anh. Nhưng em mạo muội nói thẳng với anh một số vấn đề.

Cũng như nhiều bạn trẻ khác, em cũng rất say mê chương trình “Lẩm Bẩm 24h” của anh Phan Đăng trên kênh YouTube. Thế nhưng, khi nghe anh Phan Đăng “lẩm bẩm” trên trang YouTube của anh về đề tài Biển Đông – kiện hay không kiện, em từ kinh ngạc chuyển sang phẫn nộ.

Clip này, anh Phan Đăng nói khoảng hơn 36 phút, em đã phải nghe ít nhất 5 lần, để hiểu được vì sao Việt Nam “không chịu phát triển” và trở nên yếu hèn như vậy? Vì sao giới trẻ Việt Nam nhiều người không yếu ớt về thể chất, nhưng lại bạc nhược về tinh thần? Vì có những con người như anh, Phan Đăng ạ.

Trong bài nói chuyện gần 40 phút này, luận điểm chính của anh Phan Đăng là:

Để trả lời cho câu hỏi, có nên kiện Trung Quốc hay không, anh Phan Đăng nói là giới trẻ Việt Nam cần phải trả lời 3 câu hỏi của anh trước đã. Đó là i) Kiện toà nào? Kiện cái gì? Và sau khi kiện sẽ làm gì?

Trong lúc hùng biện, anh Phan Đăng đã dẫn chứng rất nhiều kiến thức từ luật quốc tế, lịch sử Việt Nam cũng như quan hệ quốc tế hiện đại để dẫn chứng cho các luận điểm của anh ấy.

Và chốt lại, anh Phan Đăng trả lời giùm là “các bạn trẻ cứ yên tâm đi, Đảng và Nhà nước đã biết hết các nỗi lo của các bạn rồi, Đảng và Nhà nước đã có phương án hết cả rồi. Và chúng ta cũng không cần kiện Trung Quốc đâu. Các bạn cứ tin tưởng vào Đảng và Nhà nước đi”.

Bài viết của em để đáp lại lời anh, chia thành hai phần chính. Một là, trả lời 3 câu hỏi của anh về chuyện kiện. Hai là, trả lời cho luận điểm hãy yên tâm đi, mọi việc đã có Đảng và Nhà nước lo rồi.

Và bây giờ, em sẽ xin nói thẳng với anh Phan Đăng từng vấn đề một.

Vấn đề 1

Thứ nhất, anh Phan Đăng không phải là chuyên gia luật quốc tế, mà anh ấy cũng tự nhận, những cái anh ấy nói, các cụ, các bác biết hết cả rồi. Tuy vậy, thực tế là kiến thức của anh không có chuyên môn về luật quốc tế. Nhưng anh lại nói chuyện kiện tụng quốc tế.

Như vậy thì rõ ràng anh ta nói về một thứ anh ta không nắm chắc. Mà không nắm chắc thì chắc chắn thông tin anh cung cấp không đầy đủ. “Một nửa cái bánh mì là một nửa cái bánh mì, nhưng một nửa sự thật thì không phải sự thật”. Đó là em chưa trích câu nói của Lê nin – thầy của Đảng anh là, “sự nhiệt tình cộng với sự ngu dốt thành một sự phá hoại”. Chính vì thế, nếu anh không rõ về luật quốc tế, thì “để Mị nói cho mà nghe nè”:

1.- Kiện toà nào?

Từ năm 2014 trở đi, mỗi năm vào dịp hè về, tiếng ve kêu, hoa phượng nở là tàu Trung Quốc lại tiến vào vùng biển của Việt Nam. Những căng thẳng lại dâng lên, và em lại nghe báo chí và các chuyên gia lên tiếng là cần kiện Trung Quốc ra Toà.

Anh Phan Đăng có nhắc tới 3 Toà án quốc tế, nhưng hỡi ôi, anh lại nhầm lẫn. Toà thứ nhất, anh nói đúng, đó là Toà án Công lý Quốc tế (International Court of Justice – Viết tắt là ICJ). Toà này là cơ quan tư pháp của Liên Hiệp quốc.

Toà thứ hai anh Phan Đăng nhắc tới là Toà trọng tài thường trực (Permanent Court of Arbitration – viết tắt là PCA). Đây là Toà quốc tế lâu đời nhất. Nhưng Toà này không phải là Toà đã ra Phán quyết trong vụ Philippines kiện Trung Quốc như anh nói đâu.

Toà thứ ba thì anh Phan Đăng càng lầm lẫn. Toà này mới là Toà xét xử vụ Philippines kiện Trung Quốc nhưng nó chỉ là một Hội đồng trọng tài được thành lập khi phát sinh vụ việc giải quyết tranh chấp, thuật ngữ chuyên môn gọi là ad hoc. Vụ Philippines kiện Trung Quốc là bởi vì, nếu một Toà muốn có thẩm quyền xét xử tranh chấp đó, phải có thẩm quyền xét xử theo luật định. Hai Toà trên ICJ và PCA đều đòi hỏi các bên tranh chấp đồng ý đưa lên Toà giải quyết thì Toà mới có thẩm quyền.

Thứ hai, trong Công ước Luật biển của LHQ năm 1982 (gọi tắt là UNCLOS) có quy định, nếu các bên tranh chấp mà tranh chấp đó liên quan đến việc áp dụng hoặc giải thích bất cứ điều khoản nào của UNCLOS thì có thể sử dụng các cơ chế giải quyết được quy định tại UNCLOS. Trong đó, có Toà trọng tài được thành lập theo Phụ lục VII của UNCLOS. Và chính một Toà trọng tài như vậy đã được thành lập với 5 Thẩm phán quốc tế lừng danh về luật biển là thành viên của Hội đồng trọng tài.

Và theo quy định về giải quyết tranh chấp như đã nêu trong UNCLOS thì nếu các bên đã tiến hành các thủ tục giải quyết trong bước đầu tiên, nhưng vẫn không được, thì một bên có thể yêu cầu một phán quyết từ Hội đồng trọng tài thành lập theo Phụ lục VII UNCLOS này, mà không cần sự đồng ý của bên còn lại. Và nhờ có quy định đó, Philippines mới có thể lôi được Trung Quốc ra Toà, bởi vì Trung Quốc có bao giờ thèm ra Toà đâu.

Tóm lại là thế này nhé anh Phan Đăng, Toà trọng tài theo Phụ lục VII UNCLOS xử vụ Philippines kiện Trung Quốc là một Hội đồng trọng tài có 5 thành viên, được lập ra chỉ để giải quyết vụ này thôi. Và Toà này sử dụng PCA làm chỗ để thực hiện vụ xét xử, sử dụng các dịch vụ của PCA để tiến hành xét xử, và dĩ nhiên, sẽ phải trả tiền cho PCA cho các dịch vụ này. Chứ không phải vụ này do PCA xử anh nhé.

Không biết nói thế này, anh Phan Đăng có hiểu không nhỉ, chứ em hồi học đại học, các thầy cô đã giảng rất kỹ về chức năng và tính chất của Toà này, cũng như về Phán quyết biển Đông năm 2016.

2.- Kiện cái gì?

Vấn đề số 2 này liên quan đến vấn đề thứ nhất. Như đã trình bày ở vấn đề số 1, các Toà ICJ và PCA thì không thể có thẩm quyền vì Trung Quốc luôn từ chối việc ra Toà, và hai Toà này có thể khởi kiện vấn đề chủ quyền. Thế nhưng, tranh chấp chủ quyền là một câu chuyện lâu dài, nó có khi kéo dài đến đời cháu anh Phan Đăng cũng chưa chắc đã giải quyết xong.

Và chủ quyền không phải là tất cả. Điều quan trọng đáng nói ở đây là Trung Quốc đang sử dụng lúc thì “đường lưỡi bò” lúc thì “Tứ Sa” để làm bình phong cho việc “cướp biển” của Việt Nam. Các vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa với nguồn tài nguyên hải sản phong phú nay còn đâu? Ngư dân Việt Nam phải lang thang sang “trộm cá” tại vùng biển của các nước khác.

Rồi dầu mỏ, khí đốt – nguồn tài nguyên đã nuôi sống nhà nước Việt Nam thời bao cấp, nay còn đâu, khi các mỏ gần thì đã khai thác sắp cạn kiệt, còn mỏ xa hơn một chút như Cá Rồng Đỏ, Cá Kiếm Nâu, Sao Vàng – Đại Nguyệt… bị “giặc Tàu” đe doạ, bắt ép phải rút lui, không được khai thác, cho dù nó nằm ở “nhà mình”.

Rồi nếu khi giặc Tàu kiểm soát được hết vùng biển của mình, liệu tất cả các con tàu của mình có thể ra khơi khi không được sự cho phép của nó? Vậy thì nguy hiểm nhất đang cận kề, đó là nguy cơ Việt Nam đang mất biển. Biển mới quan trọng anh ạ. Chứ cái mỏm đá thì ăn thua gì, nhưng ta phải giữ các mỏm đá ấy vì ta muốn giữ biển, anh Phan Đăng ạ.

Không biết anh Phan Đăng thông kim bác cổ như vậy có biết câu: “Đường đi khó không phải vì sông ngăn núi trở mà trong lòng cảm thấy có núi trở sông ngăn”. Lỗ Tấn cũng có câu: “Lúc ban đầu, thế giới không có đường đi, về sau người ta đi mãi thì cũng thành đường”.

Trước năm 2016, anh nói câu kiện hay không kiện như bây giờ, em nghe còn lọt tai, chứ sau năm 2016, Philippines đã mở đường rồi anh ạ. Anh chỉ việc đi theo mà thôi, vấn đề là anh có dám đi không? Và anh cũng biết rằng, khi người ta quyết tâm, người ta sẽ hành động, còn khi người ta không muốn làm thì người ta tìm lý do.

Kiện cái gì thì em sẽ nói đây anh ạ. Em – một cô gái chân yếu, tay mềm, nhưng không khiếp nhược trước giặc Tàu “xâm lược”, sẽ chỉ anh cần kiện gì.

Nếu giặc Tàu lại tiếp tục cho tàu bè của họ, Hải Dương địa chất các loại đó, xâm phạm vào vùng biển thuộc đặc quyền kinh tế của mình, thì anh cứ thu thập bằng chứng về các hoạt động trái phép của họ để đệ đơn lên một Toà Trọng tài theo Phụ lục VII, yêu cầu Toà phán quyết là hành động đó đúng hay sai?

Và giặc Tàu bảo đó là vùng tranh chấp như khu vực Bãi Tư Chính chẳng hạn, thì anh có thể đệ đơn lên Toà hỏi khu vực đó của Việt Nam hay của Tàu Cộng? Và ai có quyền khai thác dầu mỏ, khí đốt ở đó? Cái đó hoàn toàn nằm trong việc giải thích hoặc áp dụng UNCLOS, nên Toà sẽ có thẩm quyền anh ạ.

Anh có nói là Việt Nam có thể yêu cầu Toà tuyên bố “đường lưỡi bò” vô hiệu. Anh ơi, cái đó Toà đã tuyên rồi, anh mất công yêu cầu lại nữa làm gì.

Còn nhiều thứ có thể kiện lắm anh ơi, chẳng hạn Hoàng Sa tuy Trung Quốc đang chiếm đóng, nhưng anh có thể yêu cầu Toà trọng tài (từ giờ em nói Toà trọng tài tức là nói Toà trọng tài theo Phụ lục VII UNCLOS nhé anh) phán quyết các thực thể tại Hoàng Sa có là đảo hay không? Là vì Tàu Cộng nói đây là các đảo, họ có chủ quyền, nên nó có quyền kiểm soát vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của các đảo đó.

Rồi năm 1996, Tàu Cộng tuyên bố một đường cơ sở thẳng bao quanh Hoàng Sa, anh có thể kiện lên Toà trọng tài, hỏi đường cơ sở thẳng ấy có vi phạm hay không?

Tóm lại là, nếu anh muốn kiện (mà làm sao anh muốn được, phải Đảng và Nhà nước của anh, nếu muốn kiện), cứ nói em. Em học luật quốc tế tại Sài Gòn, học chuyên Anh từ nhỏ, thì sẽ kiện được, dư sức kiện anh nhé.

3.- Sau khi kiện thì làm gì?

Anh Phan Đăng nói, dù có kiện ra Toà quốc tế thì cũng chả làm gì, vì các toà án quốc tế không có cơ chế cưỡng chế thực hiện. Anh ơi, kiến thức này hồi năm thứ 3 em đã được học. Chả có toà quốc tế nào có cơ chế cưỡng chế thực hiện, chỉ một ít trường hợp của ICJ thì Hội Đồng Bảo An LHQ mới giúp thực hiện, mà thực tế ít xảy ra lắm anh ạ.

Nhưng sẽ có cơ chế, thưa anh. Mà đúng rồi, anh ở cái xứ mà chỉ biết sử dụng cường quyền thì quan tâm gì đến pháp luật. Pháp luật chỉ được áp dụng khi muốn “triệt tiêu” một ai đó thôi. Chứ Đảng và Nhà nước của anh luôn ở trên pháp luật thì anh nghĩ luật pháp quốc tế nó cũng vậy chăng? Anh có biết là gần 500 năm trước Công nguyên, tinh thần tôn trọng pháp luật đã thấm đẫm trong tâm thức của người phương Tây ở Hy Lạp cổ đại không, huống chi bây giờ. Nói như anh, chắc dẹp hết các Toà án quốc tế đi nhỉ, vì gần như chả có toà án quốc tế nào có cơ quan cưỡng chế thi hành án như nhà nước ta, anh nhỉ?

Và đây nè, em trích nguyên văn từ một bài viết của anh Dương Danh Huy trên BBC, như sau: “Chắc chắn Trung Quốc sẽ không tự nguyện tuân thủ phán quyết, cũng như họ đã không tuân thủ phán quyết 2016 về vụ kiện Phi-Trung.

Nhưng một phán quyết xác nhận Việt Nam đúng, Trung Quốc sai, sẽ vô cùng hữu ích trong việc tranh thủ sự ủng hộ của thế giới. Các nước khác, đặc biệt là Mỹ, có thể ủng hộ Việt Nam một cách danh chính ngôn thuận, không thể bị cho là thiên vị một bên trong tranh chấp và sự ủng hộ của họ sẽ có nhiều trọng lượng hơn.

Trung Quốc sẽ không thể ngụy biện rằng họ đang giải quyết và quản lý tranh chấp với các nước nhỏ một cách tốt đẹp, các nước ngoài khu vực không nên xen vào. Các nước khác có thể lên tiếng bảo vệ các công ty dầu khí của họ khi các công ty này làm việc với Việt Nam, Trung Quốc không thể yêu cầu họ rút ra khỏi ‘vùng tranh chấp’.

Nếu trong tương lai Việt Nam phải đưa tranh chấp ra LHQ, vì chắc chắn là Trung Quốc sẽ leo thang lấn lướt, nếu có trong tay một phán quyết xác nhận Việt Nam đúng, Trung Quốc sai, Việt Nam sẽ được nhiều phiếu ủng hộ hơn”.

Đó anh thấy không. Kiện là kiện thôi, ăn thua có muốn và có dám kiện hay không. Anh lại nói rằng, nếu kiện Trung Quốc thì sẽ khó khăn cho người dân mình. Anh ơi, sao anh không nói Đảng và Nhà nước anh học tập Đài Loan đi, họ không dựa vào Trung Quốc mà kinh tế họ vẫn phát triển ầm ầm kìa. Khi đó thì kiện hay không cũng đâu có ngán.

Còn đây, cho dù Việt Nam mình không kiện Trung Quốc, thì người dân mình vẫn buôn bán với họ theo kiểu mình là con tin của họ. Lúc thích thì họ mua. Lúc không thích thì họ kiếm chuyện đóng cửa. Mãi mãi người dân mình sẽ là con tin của họ thôi nếu không tìm cách thoát khỏi “ảnh hưởng của họ”, anh ạ.

Vấn đề 2

Tiếp theo, anh Phan Đăng nói là “các bạn cứ yên tâm đi, mọi việc Đảng và Nhà nước đã biết hết rồi, Đảng và Nhà nước đã lo cả rồi”. Ôi thôi! Em sẽ phân tích từng thứ cho anh thấy nhé.

Chắc anh phải biết, trên báo chí người ta dẫn lời các chuyên gia từ trong, ngoài nước đều khẳng định là Trung Quốc sẽ quyết tâm độc chiếm biển Đông cho bằng được. Điều đó không còn là hồ nghi gì cả. Vậy anh nói Đảng và Nhà nước có cách rồi, không cần kiện mà vẫn giữ được tất cả, không mất gì cả. Có chuyện đó không? Đảng và Nhà nước anh có phép thần gì để làm được như thế?

Anh có biết là vừa rồi, khi Trung Quốc lại nhắc lại cái “công hàm” Phạm Văn Đồng 1958 làm cả nước xôn xao không? Anh biết vì sao người ta lại cãi nhau ỏm tỏi như vậy không? Đó là niềm tin giữa những người dân với Đảng và Nhà nước của anh đã cạn kiệt rồi. Mà không cạn sao được. Đảng và Nhà nước của anh nào là vụ Đồng Tâm, Văn Giang, Tiên Lãng… toàn “đánh úp” người dân thôi. Thế thì làm sao mà họ tin vào Đảng và Nhà nước được? Vì lỡ tin, lại có một cái Hiệp ước Thành Đô nữa hay sao?

Thêm nữa, Đảng và Nhà nước của anh, từ Chính phủ đến quân đội, công an, đều tham nhũng đầy mình, đều là những bầy sâu nhung nhúc, ăn của dân không chừa thứ gì. Ngay cả đại dịch Covid-19 mới đây, mua cái máy xét nghiệm có 2 tỉ thì kê lên hơn 7 tỉ. Thế thì, với những đại tướng tham nhũng như Phùng Quang Thanh, Đô đốc Nguyễn Văn Hiến, hay Trung tướng Trần Việt Tân, Bùi Văn Thành… những người đó mua tàu ngầm Kilo hay tàu chiến Gerard về, lấy gì để bảo đảm họ không kê giá, không ăn bớt? Và những thứ vũ khí đó, liệu có còn xài được không hay khi chiến sự nổ ra mới hiện nguyên hình là những đống sắt vụn?

Chưa kể, với những người tham tiền như thế thì Trung Quốc họ thiếu gì tiền, họ tìm cách hối lộ cho các anh hàng tỉ đô la như cái vụ Bô xít Tây nguyên… Lỡ các anh bán nước thì làm sao tụi dân đen như tụi em biết được?

Cho nên anh Phan Đăng ơi, lẽ ra anh nên khuyến khích những người trẻ như em phải trăn trở với vận mệnh dân tộc, phải đau với nỗi đau của dân tộc thì mới đúng. Đằng này anh bảo tụi em hãy vô tư vui chơi đi, hãy trà sữa và tự sướng đi, cho dù ngã vào xe lửa chết cũng được. Thao thức với dân tộc không có nghĩa là chúng em chống lại Đảng và nhà nước của các anh, mà chúng em muốn đồng hành với Đảng và Nhà nước của anh trong công cuộc chống lại giặc Tàu này.

Ngày xưa, Chế Lan Viên phải đau khổ vì “Lũ chúng ta ngủ trong giường chiếu hẹp/ Giấc mơ con đè nát cuộc đời con/ Hạnh phúc đựng trong một tà áo đẹp/ Một mái nhà yên rủ bóng xuống tâm hồn”. Thế mà ngày nay, khi tụi em thao thức với tương lai của dân tộc, thì anh lại khuyên bảo tụi em là hãy lo yêu nhau và làm tình đi, vì tất cả Đảng và Nhà nước đã lo rồi. Cũng Đảng và Nhà nước của anh lo mà như chị Trần Thị Lam phải đau khổ thốt lên rằng: “Rừng đã hết và biển thì đang chết/ Những con thuyền nằm nhớ sóng khơi xa”.

Anh dẫn chứng lịch sử chúng ta bị đô hộ hàng ngàn năm mà không bị mất nước. Đúng là như vậy. Bác Hồ kính yêu của anh đã từng nói thế này: “Cách mạng là sáng tạo, chân lý là cụ thể”. Chính vì thế, anh phải xem cụ thể trường hợp này thế nào nha anh? Nước Việt Nam bị đô hộ hàng ngàn năm không bị mất là nhờ ý chí kiên cường bất khuất chống giặc Tàu của cha ông ta, còn ươn hèn thì làm sao mà chả mất nước.

Anh hay nói về lịch sử, anh có nhớ Hịch tướng sĩ không? Này nhé, “Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa; chỉ giận chưa thể xả thịt, lột da, ăn gan, uống máu quân thù; dẫu cho trăm thân ta phơi ngoài nội cỏ, nghìn thây ta bọc trong da ngựa, cũng nguyện xin làm”. Phải có ý chí quyết tâm, căm thù giặc như vậy thì mới có thể giữ được nước chứ anh.

Em còn muốn viết nhiều nữa, nhưng em sẽ đợi khi nào anh trả lời em đã. À, em còn cần nói thêm với anh đôi điều. Đó là thay vì kêu tụi em hãy yên tâm kê cao gối ngủ đi, thì anh cần nhớ lại Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của bác Hồ anh đó: “Chúng ta muốn hoà bình nên chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng thì kẻ địch càng lấn tới”.

Và mong rằng, Đảng và Nhà nước của anh cần phải hiệu triệu toàn dân: “Dù có phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn, quyết không để mất một tấc đất, tấc biển nào của tổ tiên để lại”, thì tất cả những người trẻ như em sẽ theo bước, chứ không phải ru ngủ tụi em nhé anh.

Và nếu anh còn tiếp tục ru ngủ nữa, anh sẽ là tội đồ của dân tộc này đó. Còn chương trình “Lẩm bẩm 24h” của anh chắc nên đổi thành “Lẩn Thẩn 24h” thì mới đúng bản chất.

Chào thân mến và quyết thắng nhé anh!

Nguồn: Fb Lê Công Định
https://m.facebook.com/story.php?story_fbid=1326381830893599&id=100005653833021

No photo description available.
Image may contain: 1 person, sitting and text