20 NĂM TIỀN LƯƠNG VÀ 3 LỜI KHUYÊN

20 NĂM TIỀN LƯƠNG VÀ 3 LỜI KHUYÊN

Một cặp vợ chồng mới kết hôn rất nghèo và sống trong một nông trại nhỏ. Một ngày, người chồng nói với vợ:

“Em yêu, anh sẽ rời ngôi nhà này… Anh sẽ phải đi rất xa, rất xa, tìm một công việc, rồi làm thật chăm chỉ để có thể trở về và cho em một cuộc sống đầy đủ mà em luôn xứng đáng. Anh không biết đôi ta sẽ biệt ly bao lâu, vì vậy anh chỉ đòi hỏi em một điều này thôi: Hãy đợi anh. Khi anh không còn ở đây, em hãy giữ tấm lòng son, hãy bảo toàn sự thủy chung, bởi anh cũng sẽ như vậy với em.”

Sau đó, người chồng rời đi. Ngày lại ngày trôi qua, anh đã đi một quãng đường rất rất xa, cho đến khi gặp một lão nông bên đường. Ông lão cũng đang cần tìm người phò tá mình. Chàng trai trẻ bước đến và tỏ ý muốn trở thành người hầu cận giúp đỡ ông mỗi ngày. Ông lão chấp nhận, sau đó, họ cùng thảo luận với nhau. Anh nói:

“Hãy để tôi làm việc chừng nào tôi còn có thể, và khi tôi nhận thấy đã đến lúc phải trở về cố hương, xin hãy để tôi đi. Tôi không muốn nhận một đồng lương nào trong lúc này – ngài vui lòng giữ lại giúp tôi cho đến ngày tôi rời đi. Vào ngày ấy, xin hãy đưa lại cho tôi toàn bộ số tiền ấy”.

Họ cùng đồng ý với thỏa thuận này. Và thế là người chồng làm việc trong nông trại của ông lão trong suốt 20 năm – không có ngày lễ, và cũng không có ngày nghỉ ngơi. Thấm thoắt 20 năm đã trôi qua, anh đến gặp ông chủ của mình và nói:

“Thưa ngài, đã đến lúc tôi cần phải trở về nhà, xin ngài hãy gửi lại tôi số tiền lương trong những năm qua”.

Ông chủ của anh trả lời:

“Tốt lắm! Sau cùng, ta đã có thỏa thuận với anh và ta sẽ giữ lời. Tuy nhiên, trước khi anh đi, ta muốn anh hãy cân nhắc điều này: Hoặc là ta sẽ trả lại anh tất cả số tiền và để anh đi; hoặc ta sẽ cho anh 3 lời khuyên và để anh đi. Nếu anh chọn túi tiền, ta sẽ không cho anh 3 lời khuyên ấy; và ngược lại, nếu anh chọn lời khuyên, ta cũng sẽ không đưa tiền cho anh. Bây giờ, chàng trai, hãy trở về phòng và suy nghĩ trước khi cho ta biết quyết định của mình”.

Sau hai ngày suy nghĩ, anh quay lại và nói với ông chủ:

“Thưa ngài, tôi muốn nhận 3 lời khuyên của ngài”.

“Đừng quên rằng, nếu ta cho anh 3 lời khuyên này, ta sẽ không đưa tiền cho anh. Anh còn băn khoăn điều gì không?”

“Thưa ngài, tôi muốn nhận 3 lời khuyên…”

Sau đó, ông chủ nói với anh:

“Một là: Đừng bao giờ lựa chọn đường tắt trong cuộc đời. Những con đường nóng vội có thể tiềm ẩn mối hiểm họa khôn lường!

“Hai là: Đừng bao giờ quá hiếu kỳ, bởi cái giá cho hiếu kỳ có thể là quá đắt… “Ba là: Đừng bao giờ quyết định trong cơn nóng giận hay trong lúc tuyệt vọng, bởi những quyết định mù quáng sẽ khiến anh phải hối hận muộn màng.”

Tiếp đó, ông chủ đưa cho anh ba chiếc bánh mỳ và nói:

“Đây là 3 chiếc bánh mỳ dành cho anh: Hai chiếc trên đường, còn chiếc cuối cùng để anh thưởng thức cùng vợ mình khi trở về nhà”.

Tạm biệt ông lão, người đàn ông lên đường trở về. Con đường 20 năm cách trở trải dài ra trước mắt. Anh hồi hộp mong chờ đến giây phút đoàn tụ với người vợ ở quê nhà.

Sau ngày đầu tiên, anh gặp một hành khách trên đường. Người lạ mặt nói:

“Chàng trai, anh đang đi đâu thế?”

“Đến một nơi rất xa, cách đây 20 ngày đường nếu tôi tiếp tục đi về hướng này”.

Người lạ mặt lại nói:

“Ồ, anh bạn trẻ, đường sẽ rất dài và xa xôi! Tôi biết có một ngã rẽ khác giúp anh sớm trở về nhà”.

Anh hăm hở bước theo con đường mới này. Nhưng rồi sau đó, chợt nhớ lại lời khuyên đầu tiên của ông lão, anh bèn quay trở lại con đường cũ lúc đầu. Nhiều ngày sau đó, anh vô tình biết rằng đoạn đường tắt hôm trước có rất nhiều đạo tặc mai phục.

Nhiều ngày nữa lại trôi qua, anh may mắn tìm thấy một nhà nghỉ ven đường. Anh dừng chân dùng bữa tối rồi ngủ một giấc dài… Đến nửa đêm, anh chợt tỉnh giấc vì nghe thấy tiếng la hét thất kinh bên ngoài phòng trọ. Anh bước ra khỏi chăn và toan mở cửa xem điều gì đang diễn ra. Bất giác, anh nhớ lại lời khuyên thứ hai nên nén nỗi tò mò và quay trở lại giường.

Sáng hôm sau, khi dùng điểm tâm, người chủ nhà trọ hỏi rằng, liệu anh có nghe thấy tiếng la hét thất thanh đêm qua không. Anh đáp lại là có. Ông bèn hỏi tiếp:

“Anh không tò mò xem chuyện gì đang xảy ra sao?”

“Không, không hề!”

“Thật may mắn, anh là vị khách đầu tiên có thể sống sót mà rời khỏi đây. Trong làng chúng tôi có một con quỷ. Ban đêm, nó thường la hét để gây sự chú ý. Bất kỳ ai nghe thấy tiếng hét mà chạy tới đều sẽ rơi vào nanh vuốt con quỷ này…”

Anh lại tiếp tục cuộc hành trình của mình. Càng gần tới cố hương, anh lại càng hồi hộp và vui sướng. Ngày lại ngày, đêm lại đêm, đôi chân anh đã mệt mỏi rã rời. Cuối cùng anh cũng thấy thấp thoáng ánh lửa bập bùng trong túp lều thân quen.

Bầu trời đã tối lắm rồi, mà mái nhà của anh vẫn còn một quãng dài phía trước. Qua khung cửa sổ, anh thấy bóng dáng người vợ hiền mà anh luôn yêu tha thiết. Nhưng kìa, nàng không ở đó một mình mà còn xuất hiện một gã đàn ông nào đó… Nàng vuốt tóc hắn ta, có vẻ hai người rất tình cảm bên nhau.

Hình ảnh trước mắt khiến trái tim anh tan vỡ và cay đắng. Trong lòng anh sục sôi một nỗi tức giận và tủi nhục. Anh chỉ muốn chạy ngay đến để trút nỗi giận này. Nhưng rồi anh hít một hơi thật sâu để bình tĩnh lại khi nhớ đến lời khuyên thứ ba.

Anh dừng chân và quyết định ngủ lại bên ngoài. Nằm trên bãi cỏ giữa núi đồi và ngắm nhìn sao trời, anh tự nhủ sẽ chờ đến sáng mai.

Khi ánh bình minh ló rạng cũng là lúc anh lấy lại hoàn toàn bình tĩnh. Anh nói với chính mình:

“Ta sẽ không làm hại vợ ta và người tình của nàng. Ta sẽ trở lại bên ông chủ và yêu cầu ông chấp nhận ta làm việc thêm lần nữa. Nhưng trước khi lên đường, ta muốn gặp nàng để nói rằng ta vẫn luôn thủy chung với nàng…”

Anh ngập ngừng gõ cửa… Khi vợ anh mở cửa, cô đã òa lên hạnh phúc và ôm chầm lấy anh. Anh chỉ nhỏ nhẹ:

“Anh luôn một lòng một dạ với em, nhưng tại sao em lại phản bội niềm tin ấy?”

Lời kết tội như làm trái tim thắt lại, cô nói:

“Làm sao em có thể phản bội anh? Em không bao giờ làm điều gì trái với lương tâm mình. Em đã kiên nhẫn đợi chờ anh suốt 20 năm qua…”

“Vậy còn người đàn ông bên cạnh em đêm qua? Anh ta là ai chứ!”

Đến lúc này, cô mới mỉm cười:

“Đó là con trai chúng ta! Khi anh rời đi, em mới phát hiện rằng mình mang thai. Đến nay, con chúng ta đã 20 tuổi rồi”.

Những lời nói ấy như dòng suối mát lành cuốn trôi nỗi buồn lo trong lòng anh. Anh cầu xin cô tha thứ, rồi bước vào phòng gặp người con trai anh chưa từng biết mặt. Sau đó, cả gia đình đoàn tụ trong bữa sáng mà vợ anh mới chuẩn bị. Anh lấy ra chiếc bánh mỳ cuối cùng và đặt lên bàn.

Khi cắt bánh mỳ làm ba phần đều nhau, anh bất ngờ khi nhìn thấy toàn bộ số tiền lương của 20 năm qua được giữ kín trong đó. Số tiền không chỉ là 20 năm mà còn vượt xa gấp nhiều lần.

Thiêng Liêng cũng giống như ông chủ trong câu chuyện kể trên. Khi yêu cầu chúng ta cống hiến, ngài còn dành tặng chúng ta nhiều hơn những gì ta đã làm. Ngài muốn những đứa con của ngài có được trí huệ sáng suốt, và có cả những phúc lành xứng đáng…

Têrêsa Ngọc Nga (st)

From: NguyenNThu

Những tấm lòng vàng

Những tấm lòng vàng

Những tấm lòng vàng ông trời luôn có mắt lòng tốt ở khắρ mọi nơi.

Mình có thằng bạn thân cùng tuổi, nó nhỏ hơn mình một tháng. Mình thì Đà Nẵng còn nó ở Quảng Nαm thị xã Vĩnh Điện, Điện Bàn. Khi hαi thằng còn ở Quảng Nαm và Đà Nẵng. Cuối tuần là hαi thằng gặρ nhαu không tại Đà Nẵng thì cũng tại Quảng Nαm để lαi rαi với nhαu vài ly bια hoặc ly cà ρhê và kể cho nhαu nghe những điều tào lαo xịt bộρ trên trời dưới đất. Rồi cuộc sống cơm áo gạo tiền, nó ρhải đành rời xα quê hương vào Sài Gòn mưu sinh đã hơn mười năm nαy. Kể từ đó hαi thằng chỉ được gặρ nhαu vào những ngày cuối năm nó về quê ăn tết hoặc tôi có việc vào Sài Gòn.

Trước khi vào Sài Gòn và có ý định ở lại Sài Gòn một thời giαn dài. Tôi gọi điện cho nó, nó mừng lắm. Ngày mà tôi vào Sài Gòn, vừα bước rα khỏi cửα nhà gα sân bαy là vợ chồng tôi thấy nó dơ tαy vẩy vẩy gọi to” tαo nè Điệρ” làm cho mọi người đαng chờ đón người thân ρhải quαy quα nhìn nó. Nó cười hì hì

Thế là hαi thằng lại gần và gặρ nhαu như lúc xưα. Rảnh là nó chạy quα tìm tôi cùng uống ly bια hαy ly cà ρhê

Hôm bữα cuối tuần. Nó ghé quα chở tôi đi làm ly bια. Hαi thằng vừα nhậu vừα kể chuyện đời, chuyện Fαcebook thì đã hơn 10 giờ đêm, thế là vội vàng tính tiền rα về. Đαng chạy trên đường Phạm Văn Đồng, nó nhìn thấy bên kiα đường có một người đàn ông đαng dẫn bộ chiếc xe máy, vậy là nó quαy đầu xe lại chạy ngược chiều một đoạn để đến người đàn ông đαng dẫn bộ chiếc xe máy đó. Vừα tiếρ cận được người đàn ông đαng dẫn bộ xe là nó hỏi ngây.

– Xe bị gì vậy ông αnh?

Người đàn ông tỏ vẻ lo ngại và e dè nói:

– Xe tui hết xăng. Dẫn bộ hơn 1km rồi mà chưα thấy trạm xăng

Nó cười hì hì nói:

– Ông αnh đừng có lo. Hαi thằng tui không ρhải ăn cướρ đâu. Mở cốρ xe rα đi, tui đổ cho một lít mà chạy về

Nó liền quαy quα bảo tôi bước xuống và nó mở cốρ xe lôi một đoạn ống dẫn, xong, nó quαy quα lấy cái cαn 5 lít đựng xăng luôn để ρhíα hông xe củα nó, rồi nó truyền quα xe người đàn ông đó. Xong đâu vào đấy, người đàn ông đó cảm ơn ríu rít và xin được trả tiền mà nó không lấy. Lúc này thì tôi mới nhớ rα là lúc nào bên hông xe củα nó luôn có cαn 5 lít đầy xăng, có hỏi nó vài lần mà nó không trả lời. Hôm nαy tôi ρhải hỏi cho được vụ cαn xăng này. Nó không để người đàn ông đó nói thêm nữα nó hối tôi leo lên xe rồi rồ gα chạy. Và tôi bất đầu hỏi về vụ cαn xăng:

-Mày có bán thêm xăng lẻ ở nhà hả?

Nó cười hiền trả lời:

-Đâu có. . .

Tôi thắc mắc:

-Vậy muα xăng làm gì vậy, chạy hết thì rα cây xăng đổ tiếρ chứ để xăng như này ở nhà пguγ Һιểм lắm

Cũng giọng cười hiền đó, nó trả lời:

-Tαo luôn muα để sẵn như thế này, đi đường thấy αi hết xăng thì đổ cho người tα chứ.

Tôi càng thắc mắc:

– Nhưng sαo lúc nảy mày không lấy tiền xăng lại?

Với giọng hơi chùng xuống một chút nó nói:

-Tαo đổ cho người tα chứ lấy tiền chi mi.

Nghe nó nói vậy, tôi cũng thấy vui, thở dài nói:

– Như thế có nghĩα là mày đαng làm từ thiện, nhưng mày đâu có giàu có cho lắm mà làm vậy là quá tuyệt vời ông bạn tôi αh.

Nó cười buồn nói:

-Từ thiện chi mi ơi. . . Như mi đã biết chuyện củα vợ chồng tαo rồi đó. . . Mi cứ hỏi tαo chuyện cαn xăng này, thôi thì hôm nαy tαo kể hết nguyên nhân cho mi nghe.

Sαu khi vào Sài Gòn làm ăn được một thời giαn, nhờ trời đãi ngộ mà nó lên như diều gặρ gió và muα được căn nhà trong hẻm đường Lạc Long Quân, rồi nó cưới vợ. Cưới nhαu năm năm mà không có con, hαi bên họ hàng khuyên vợ chồng nó đi chữα hiếm muộn. Ngày mà vợ chồng nó đi chữα hiếm muộn cũng là ngày vợ chồng nó sụρ đổ hoàn toàn. Bác sĩ ρhát hiện rα vợ nó bị υпg thư tử cung. Từ đó, nó bỏ tất cả mọi việc đưα vợ đi khắρ nơi chữα chạy, nghe αi giới thiệu ở đâu là nó dẫn vợ đến ngây. Dần dần tài sản nó cạn kiệt, căn nhà để ở duy nhất nó cũng bán để lo cho vợ.

Sαu bαo năm chữα chạy, nhưng rồi vợ nó cũng bỏ nó rα đi. Giọng buồn buồn nó nói với tôi

– Tαo nhớ mãi buổi trưα hôm đó, tαo không bαo giờ quên. Cái ngày mà vợ tαo bỏ tαo lại trên cõi đời này để về với thế giới bên kiα. Hôm đó. Thấy vợ chợρ mắt nên tαo chạy về trαnh thủ tắm rửα và nấu cho nàng miếng cháo. Về đến nhà trọ, tαo vừα cởi chiếc áo rα định đi tắm thì điện thoại đổ chuông cầm máy lên thì đầu dây bên kiα giọng bác sỹ nói rất gấρ ” αnh vào Ьệпh viện nhαnh, chị nhà có biểu hiện rất là”. Linh tính có chuyện không lành, tαo liền vội quαy rα lấy xe chạy gấρ đến Ьệпh viện mà không kịρ mặc chiếc áo mới vừα cởi rα. Ông trời lại một lần nữα thử thách tαo. Đαng chạy nửα chừng, xe tắt máy, kiểm trα thì xe hết xăng. Lúc đó trong túi không còn một đồng để mà đổ một lít xăng. Tαo gào kêu bα tiếng trời, nước mắt lưng tròng, cứ thế tαo đẩy bộ xe chạy và miệng luôn khấn vái Trời Phật cho vợ tαo quα cơn nguy kịch, còn nếu có mệnh hệ gì thì cũng chờ tαo đến để gặρ nhαu lần cuối. . .

Bổng, nó im bật không nói nữα, ngồi sαu lưng nó, tôi thấy hαi vαi nó rung nhẹ lên một cái. Hαi vαi nó rung không ρhải vì cái lạnh về khuyα củα những ngày giαo mùα, mà tôi biết nó rung là bởi nó đαng thổn thức củα sự hoài niệm đαng ùα về. Tôi im lặng để cho những cảm xúc củα nó tuông trào. Một lúc sαu nó mới nói tiếρ:

– Tαo vùα chạy vừα đẩy được một đoạn. Tαo định vứt chiếc xe chạy cho nhαnh thì có một chú em tầm khoảng 25, 26 tuổi chạy tới nói” xe αnh hết xăng ρhải không. Anh leo lên xe đi em đẩy đến cây xăng” tαo làm theo như một cái máy. Vừα tới cây xăng tαo vội móc cái điện thoại cùi bắρ rα đưα cho cô nhân viên cây xăng và nói” tui không có tiền, cô cầm cái này rồi đổ cho tôi 20k xăng” lát tôi đến chuột lại. Tui có việc gấρ lắm”. Chú em lúc nảy đẩy tαo tới đαng định quαy đầu xe đi nghe tαo nói với cô nhân viên cây xăng vậy liền dựng xe xuống đi đến cô nhân viên rồi nói “đổ cho ảnh đầy bình đi, tui trả tiền”. Nói xong chú em đó móc rα tờ 200 ngàn đưα cho cô nhân viên và nói tiếρ” chị cứ đổ đầy bình, tiền thừα thì chị đưα cho ảnh giúρ em”. Nói rồi chú em đó lên xe đi mất, còn tαo như kẻ mất hồn, lúc đó tαo không mở miệng cảm ơn chú ấy lấy một tiếng. . . Xong, tαo chạy ào tới Ьệпh viện vứt vội xe, bαy ào lên ρhòng Ьệпh thì thấy vài bác sỹ đαng đứng bên giường Ьệпh vợ tαo. Thấy tαo, bác sỹ trưởng khoα trực gọi tαo lên ρhòng trực nói tαo hãy đưα bà xã tαo về kẻo còn kịρ để vợ tαo trút hơi thở cuối cùng tại nhà. . . Trên đường về, nằm trong xe cứu tҺươпg vợ tαo dặn dò tαo ρhải vững tâm, bình tĩnh đừng khóc tҺươпg mà có Һạι cho sức khoẻ. Cố gắng hết sức Nói nhiêu đó là cô ấy trút hơi thở cuối cùng trên tαy tαo.

Hαi vαi nó lại rung lên. Mắt tôi cũng cαy xè. Nó nghẹn ngào nói tiếρ:

– Cũng nhờ chú em đó cho tαo mấy lít xăng nên tαo mới kịρ gặρ vợ tαo lần cuối. Sαu khi mα chαy cho vợ xong. Một thời giαn sαu nhớ lại mọi việc và mong được gặρ chú em đó, nhưng biết đâu mà tìm. . . Và sαu này đi đâu tαo cũng cầm theo cαn xăng này, gặρ αi dẫn bộ thì tαo dừng lại đổ cho người tα một ít để họ còn chạy về nhà. Biết đâu trong những người dẫn xe bộ vì hết xăng đó, có người trong túi họ không có một đồng như tαo lúc đó, biết đâu có người đαng chờ họ về. . .

Nói xong, nó thở dài một tiếng nghe пα̃σ ruột. Tôi liền ℓồпg hαi tαy về trước ôm chặt ℓồпg ngực nó vào lòng. Có vài người đi đường họ nhìn thấy liền quαy lui nhìn hαi thằng tui và cười mĩm. Chắc họ nghĩ hαi thằng tôi đαng yêu nhαu.

From: Tu-Phung

Mối tình xuyên biên giới – truyện ngắn

Le Tu Ngoc

Khi bà Klavdia Novikova mất ở tuổi 94 tại làng Progress (Tiến bộ) vùng Viễn Đông, Nga, tiễn đưa bà chỉ có dăm ba người, không có người thân, không có bạn bè vì tất cả đã từ lâu về bên kia thế giới.

Chỉ ở Nhật Bản, các hãng truyền hình lớn nhất đã đưa tin đậm: Người vợ Nga của ông Yasaburo đã mất!

Ở đất nước mặt trời mọc, bà Klavdia đã trở thành biểu tượng của tình yêu và sự hy sinh: sống chung 37 năm, bà đã khuyên chồng trở về nước, về với người thân, về với người vợ Nhật đã chờ ông hơn nửa thế kỷ…

Klavdia và Yasaburo gặp nhau năm 1959 khi cả hai đều trải qua trại tập trung của Stalin. Bà bị kết án 7 năm tù vì tội “hoang phí tài sản XHCN”, còn ông phải 10 năm “bóc lịch” vì là “gián điệp Nhật”.

Cả hai lại cùng có nỗi đau riêng: bà đã có chồng, sinh con trai và chờ chồng trở về từ mặt trận. Nhưng khi bà bị kết án đưa đi vùng khỉ ho cò gáy là Kolyma, thì chồng bà trở về đã lập gia đình khác. Ông cũng không kém bi kịch: sau khi cưới vợ ở Nhật Bản đã cùng vợ trẻ đến sống ở Triều Tiên và ở đó họ sinh 2 con, 1 trai, 1 gái

Vào mùa thu năm 1945, hồng quân Liên Xô tiến vào Triều Tiên, đã bắt gần như tất cả người Nhật và đưa về Liên Xô cải tạo với tội danh “làm gián điệp chống Liên Xô”. Yasaburo ngồi tù cùng Klavdia ở gần thành phố Magadan. Khi ông ra tù, người ta lại quên không đưa ông vào danh sách tù binh chiến tranh để trao trả về Nhật. Thêm nữa, ông tuyệt vọng vì cứ nghĩ vợ con mình đã chết và sợ hãi không biết đi đâu về đâu, nên rốt cục quyết định nhận quốc tịch Liên Xô, đổi tên thành Yakov Ivanovich.

Họ gặp ngẫu nhiên. Nàng Klavdia thấy một người đàn ông gày gò với khuôn mặt không có nét Nga, mắt thì ngập tràn nỗi buồn mênh mang nên trái tim bỗng thắt lại vì thương cảm. Sau đó, bạn gái bà rủ bà đến sống ở làng Tiến Bộ, vùng Viễn Đông. Bà tạm biệt ông rời đi.

Yasaburo viết thư cho bà, nài nỉ đến sống cùng bà ở nơi mới. Ban đầu bà từ chối vì sợ liên lụy khi quan hệ với một hàng binh Nhật, nhưng rồi tình yêu đã thắng và họ sống chung gần 40 năm. Ông làm nghề cắt tóc, chụp ảnh và châm cứu, bà thì trồng cà chua, dưa leo, nuôi dê. Cả hai sống cơ hàn, nhưng êm ấm, hạnh phúc. Ông không bao giờ to tiếng với bà, nhưng chỉ tiếc là hai ông bà không có con.

Bà thổ lộ: “cả vùng không thể kiếm ra người đàn ông thứ hai: không uống rượu, không hút thuốc lá”.

Yasaburo đã mua về 2 cỗ quan tài để nếu có chết cả hai sẽ cùng chết một ngày.

Khi bắt đầu Cải tổ và tấm màn sắt gỡ xuống, một người thân đã kể cho các bạn hàng Nhật về một người Nhật kỳ lạ sống với vợ Nga ở làng Tiến Bộ. Họ về Nhật kiếm tìm người thân của ông Yasaburo, tìm thấy em trai ông, con gái ông và sau đó là người vợ Nhật tên là Hisako. Bà Hisako đã từ Triều Tiên về nước và vẫn chung thủy chờ chồng (con trai họ đã mất ở Triều Tiên). Bà hành nghề y tá và cả đời ky cóp đồng lương ít ỏi để xây cho mình và cho người chồng thất lạc một căn nhà nhỏ. Dù không chắc chắn ông còn sống hay đã mất, bà Hisako vẫn để tên chồng là người sở hữu nhà và tài khoản tiền tiết kiệm gửi ngân hàng. Khi tìm ra thì con gái họ đã ngoài 50 tuổi.

Sau đó, em trai và con gái ông sang Nga đến làng Tiến Bộ khuyên ông về nước, song ông đã từ chối nói với người vợ Nga “anh không bỏ em, em là tất cả với anh”.

Bà Klavdia đã quyết định đưa ông về lại Nhật vì ở đó điều kiện chăm sóc y tế tốt hơn với người già và nhất là thương cảm người vợ Nhật mòn mỏi chờ chồng, mòn mỏi sống với mong ước được thấy lại mặt chồng, được ôm chồng lần cuối…

Một mình bà Klavdia đã xoay sở làm cho ông hộ chiếu xuất ngoại, tự bà rút tiền tiết kiệm đổi ra đô la mua vé máy bay và chi phí ăn ở, đi lại cho ông...

Và lại còn ly dị ông để ở Nhật Bản ông có lương hưu cũng như có quyền sở hữu và thừa kế tài sản.

Tháng 3 năm 1997, bà chia tay với người chồng Nhật. Yasaburo vẫn thường gửi đồ từ Nhật về cho bà, hàng tuần cứ vào thứ bảy ông lại gọi điện thăm bà…

Sau khi biết được mối tình xuyên biên giới qua báo chí và cả phim tài liệu, truyện ký, người Nhật đã tổ chức quyên góp tiền cho chuyến đi tới Nhật của “bà Klavdia”.

Bà đến Nhật lúc đã ngoài 80 tuổi và lập tức trở thành nữ anh hùng ở đất nước này. Bà gặp người vợ Nhật của ông, cả hai ôm nhau khóc, họ hiểu nhau không cần phiên dịch.

Sau đó, bà còn 2 lần đến Nhật, lần cuối là có mặt dự ra mắt vở kịch viết dựa trên câu chuyện về mối tình giữa người phụ nữ Nga và một hàng binh Nhật. Ông Yasaburo và bà Hisako đều muốn Klavdia ở lại Nhật Bản, song bà đã từ chối vì muốn Yasaburo của mình “được sống đàng hoàng” và bà đã quen với cuộc sống đạm bạc ở Nga.

Hay tin bà mất, chàng Yasaburo lúc đó đã rất yếu viết thư gửi về làng bằng tiếng Nga:

Klavdia! Anh biết em đã mất và nỗi buồn tràn ngập trong anh. Anh đã định gọi điện cho em ngày 30/8 nhưng anh không còn sức. 40 năm sống cùng em ở Nga, em luôn bên anh, chăm sóc cho anh. Cảm ơn em về tất cả. Anh về được Nhật là nhờ những nỗ lực của em. Anh cám ơn em vô ngần. Anh còn nhớ chúng mình đã đóng quan tài cho cả hai. Giá còn sức khỏe, anh đã lao về bên em, ôm chặt em…nhưng anh không còn sức lực. Hãy ngủ ngon, Klavdia yêu dấu!

Yakov của em”

Từ FB Tuan Anh Đao

FB Tuấn Mai SG

 NHỮNG TẤM LÒNG THIỆN LƯƠNG

 NHỮNG TẤM LÒNG THIỆN LƯƠNG

Thuyền phó tàu Titanic tiết lộ bí mật vĩ đại giấu kín nửa đời người, phương Tây họ văn minh hơn chúng ta từ rất lâu!
Đêm ngày 14/4/1912, một vụ tai nạn kinh hoàng đã xảy ra. Con tàu mang phong hiệu “không thể chìm” có tên Titanic đã đâm sầm vào một tảng băng trôi khổng lồ. Kết quả của vụ va chạm ấy là những con số và nỗi đau mà người ta không bao giờ muốn nhắc lại.
1.514 người đã thiệt mạng trong vụ đắm tàu kinh hoàng năm ấy. Nỗi đau đã khép lại hơn 100 năm, ngày nay, những gì người ta lưu lại về từ khóa “Titanic” có thể là: Vụ đắm tàu, thảm họa hàng hải nghiêm trọng nhất mọi thời đại hay mối tình lãng mạn của Jack và Rose, cũng có thể là tình ca bất hủ My heart will go on qua chất giọng cao vút của Celine Dion…
Tuy nhiên, hầu như tất cả đều không nhận ra, đằng sau bức màn đen tối của những nỗi đau và mất mát ấy là một kiệt tác vĩ đại của Lòng vị tha.

Charles Lightoller, khi ấy 38 tuổi, Thuyền phó thứ 2 trên con tàu Titanic, ông là người cuối cùng được kéo lên trên thuyền cứu hộ, cũng là người còn sống sót có chức vị cao nhất trên thuyền lúc đó.
Trở về từ cõi chết, sau rất nhiều năm giấu kín và im lặng, cuối cùng Charles quyết định viết 17 trang hồi ức, kể lại chi tiết vụ tai nạn kinh hoàng mà ông chứng kiến. Từng câu từng chữ của ông chưa bao giờ sống động và dồn dập đến vậy. “Chỉ cần tôi còn sống, tôi sẽ không bao giờ quên được cảnh tượng đêm đó!”
“Phụ nữ và trẻ em lên trước!”

Khi mệnh lệnh vừa vang lên, nhiều người rời thuyền cứu hộ, họ lặng lẽ bước ra phía sau châm điếu thuốc và hút. Charles không thấy bất kỳ một phụ nữ hay trẻ em có ý định bỏ lại những người đàn ông thân yêu của họ. Tất cả mọi người dường như rất bình tĩnh… trước cái chết… dù đó là một thương nhân nổi tiếng hay người hầu.

Khi chiếc thuyền cứu hộ đầu tiên được đưa xuống mặt nước, Charles đã hỏi một người phụ nữ họ Straw khi ấy đang ở trên boong tàu rằng: “Bà có muốn tôi đưa bà lên thuyền cứu hộ không?”

Người phụ nữ lắc đầu: “Không, tôi nghĩ vẫn là ở lại trên tàu thì tốt hơn”. Người chồng của bà hỏi: “Tại sao em lại không muốn đi lên thuyền cứu hộ?” Người phụ nữ mỉm cười trả lời: “Không, em vẫn muốn ở bên cạnh anh”. Cũng kể từ đây, Charles không bao giờ còn gặp lại đôi vợ chồng này lần nữa…

Astor đệ tứ (John Jacob Astor IV), một nhà kinh doanh, nhà phát minh, nhà văn nổi tiếng và là một trong những người giàu nhất thế giới lúc bấy giờ. Sau khi đưa người vợ mang thai 5 tháng tuổi lên thuyền cứu hộ, một tay dắt chó, tay còn lại châm điếu xì gà rồi hét to về phía chiếc thuyền cứu hộ đang trôi dần về nơi xa: “Anh yêu hai mẹ con”.

Thuyền phó I đã ra mệnh lệnh cho Astor đệ tứ lên thuyền, nhưng ông kiên quyết trả lời rằng: “Tôi thích cách nói cơ bản nhất (bảo vệ phái yếu)!”. Sau đó, ông nhường chỗ của mình cho một người phụ nữ ở khoang hạng 3.

Vài ngày sau, khi bình minh vươn lên trên mặt biển Đại Tây Dương, đội cứu hộ tìm thấy thi thể ông trong tình trạng đầu bị chấn thương nghiêm trọng do đập vào ống khói. Khối tài sản của ông đủ để chế tạo 10 con tàu Titanic, nhưng Astor đệ tứ đã từ chối tất cả. Ông chọn cái chết để bảo vệ người thân yêu của mình, bảo vệ “phụ nữ và trẻ em” và bảo vệ nhân cách của mình.
Ben Guggenheim, một nhà tỷ phú, một nhân vật nổi tiếng trong ngành ngân hàng. Trong giờ phút nguy nan nhất, khi tất cả mọi người đang hối hả và vội vã, ông thản nhiên thay một bộ vest dạ hội sang trọng và tuyên bố: “Tôi phải chết thật trịnh trọng, như một quý ông”.

Trong lời nhắn ông gửi cho vợ viết: “Trên con tàu này, không có bất kỳ một phụ nữ nào vì anh cướp chỗ trên thuyền cứu hộ mà bị bỏ lại trên boong tàu. Anh sẽ không chết giống như một tên khốn, anh sẽ giống như một người đàn ông chân chính”.

Một thủy thủ đề nghị với Strauss, nhà sáng lập công ty bách hóa Macy của Mỹ, cũng là người giàu thứ hai thế giới rằng: “Tôi bảo đảm sẽ không ai phản đối một người già như ngài bước lên thuyền cứu hộ đâu”. Strauss nói: “Tôi sẽ không đi khi những người đàn ông khác còn đang ở lại”. Khi ông cố gắng khuyên giải bà Rosalie vợ của mình lên thuyền cứu hộ thì bà vẫn một mực từ chối. Bà nói: “Bao nhiêu năm qua, anh đi đâu là em theo đến đó, em sẽ cùng anh đi đến bất cứ nơi nào mà anh muốn đi”.

Sau đó, ông choàng lấy cánh tay của bà Rosalie, thong thả bước đến chiếc ghế trên boong tàu, ngồi xuống và chờ đợi giây phút cuối cùng của cuộc đời. Ngày nay, tại Bronx thành phố New York, người ta xây một tượng đài để tưởng niệm vợ chồng ông Strauss, trên đó khắc hàng chữ: “Tình yêu không thể nào nhấn chìm dù có nhiều nước biển hơn nữa”.

Một doanh nhân người Pháp tên Nahuatl đưa hai cậu con trai của mình lên thuyền cứu hộ, nhờ một vài người phụ nữ chăm sóc cho chúng, và mình thì từ chối lên thuyền. Sau khi hai đứa con trai được cứu sống, báo chí khắp nơi trên thế giới đều rầm rộ đăng hình ảnh của hai đứa trẻ này, cho đến khi mẹ của chúng từ hình ảnh nhận ra được chúng.

Trong giờ phút nguy kịch, Lydepas ôm chặt lấy người chồng mới cưới, không muốn thoát chết một mình. Vì bất đắc dĩ, chồng Lydepas phải đấm cô ngất xỉu, khi cô tỉnh lại thì đã thấy mình trên một chiếc thuyền cứu hộ đang trôi lênh đênh ngoài biển. Về sau, Lydepas cả đời không tái giá, sống độc thân để hoài niệm người chồng đã mất của mình.

Trong buổi họp mặt những người may mắn sống sót tại Lausanne nước Thụy Sĩ, bà Smith kể lại: “Lúc đó hai đứa con của tôi được bế lên thuyền cứu hộ. Vì quá tải nên tôi không thể lên thuyền nữa, một người phụ nữ ngồi trên thuyền cứu hộ khi ấy đã đứng dậy rời khỏi chỗ ngồi, rồi đẩy tôi lên và hét lớn với tôi một câu: ‘Ngồi đi, những đứa trẻ không thể thiếu mẹ!’.” Bà hối tiếc vì lúc đó đã không hỏi tên người phụ nữ đó.

Những người thiệt mạng trong vụ tai nạn này còn có tỷ phú Acid, nhà báo nổi tiếng Stead, Thiếu tá pháo binh Bart, kỹ sư Robble nổi tiếng v.v.. Họ nhường chỗ của mình trên thuyền cứu hộ, cho những phụ nữ nông dân không một đồng trên người.

Hơn 50 nhân viên cấp cao trên tàu Titanic, ngoài thuyền phó thứ hai Charles Lightoller chỉ huy cứu hộ may mắn sống sót, toàn bộ đều hết mình cứu người đến chết trong cương vị của mình.

Khoảng 2h sáng nhân viên điện báo số 1 John Philip nhận được mệnh lệnh bỏ tàu của thuyền trưởng, mọi người tự mình cứu mình, nhưng ông vẫn ngồi trong phòng thông báo, vẫn giữ tư thế phát tín hiệu SOS liên tục cho đến phút cuối cùng.

Khi đuôi tàu bắt đầu chìm xuống nước, Charles nghe thấy vào khoảnh khắc cuối cùng, khoảnh khắc của sinh ly tử biệt, những lời yêu thương vang lên: “I love you! I love you!”

Trong bức màn đêm đen tối nhuốm đẫm đau khổ và chia ly, tinh thần quý tộc nổi lên như ngọn đuốc rực sáng, khắc họa nên một tuyệt tác vĩ đại về nhân cách và đạo đức con người. Giáo dục lối sống không chỉ là lý thuyết; mà trong những hoàn cảnh thực tế, những bài học đạo đức ăn sâu vào tâm thức trở thành kim chỉ nam cho hành động của mỗi người.

Phụ nữ và trẻ em, những con người yếu đuối cần được tôn trọng và ưu tiên. Những người đàn ông lịch lãm không chỉ là kẻ nói lời hoa mỹ và tử tế trên bàn tiệc; mà ngay cả khi đối diện với thực tế rằng dù ngày mai tất cả đều trở thành vô nghĩa thì bài học về đạo đức và nhân cách hôm nay vẫn cần được thực hành một cách tuyệt đối.

Nhân sinh như cõi mộng, dù cho người đó giàu có bao nhiêu hay nghèo kém cỡ nào, đứng trước sinh tử cũng đều chỉ là một sinh mệnh bé nhỏ. Quan trọng hơn, khi ấy người ta mới thật sự nhận ra điều quan trọng nhất của cuộc đời: Không phải vật chất, không phải quyền danh càng không phải nhận lại điều gì cho mình mà là cho người khác, là vị tha.

Vị tha hàm chứa một sức mạnh vô tỉ, đã biến những con người xấu số trong cơn “bão biển” kinh hoàng năm ấy trở thành biểu tượng vĩ đại của tấm lòng thiện lương cao cả.

From: TU-PHUNG

Tình Cuối Đời – Nguyễn Thị Thanh Dương

Tình Cuối Đời

Nguyễn Thị Thanh Dương

Con dâu xách giỏ bước ra khỏi nhà còn nhắc lại:

–  Má kho cá nhớ mang ra sân sau nha. Con cả ngày ở tiệm nail ngửi mùi hóa chất về nhà mùi cá kho nữa chịu sao thấu !

Nó đi khuất tôi lẩm bẩm:

–  Con dâu mà bày đặt chỉ huy làm như má tao. Mai mốt tao đi khỏi cho biết mặt.

Con dâu là người cuối cùng ra khỏi nhà, con trai và hai cháu nội đã đi làm đi học từ sáng sớm. Chồng tôi qua đời 3 năm nay, hai vợ chồng ăn tiền già, ở nhà housing mỗi tháng chính phủ phụ trả tiền nhà, nay chỉ còn mình tôi trả chi phí tiền nhà hao tốn quá, thằng con trai duy nhất kêu về ở với vợ chồng nó, mang tiếng ở nhờ nhà con nhưng mỗi tháng tôi tự động đóng góp nửa tiền già, phụ giúp cơm nước và hầu hạ hai đứa cháu vậy mà con dâu có lúc còn làm tôi bực mình khó chịu.

Tôi sắp có một tình cuối đời, chiều nay gặp mặt nhau tôi sẽ làm một quyết định lớn lao nếu đồng ý về chung sống với người ấy, ông có nhà cửa sẵn sàng đợi tôi. Con dâu sẽ trắng mắt ra về cái tội không biết nâng niu tôn trọng mẹ chồng.

Tôi tìm bạn bốn phương trên báo quen ông Sung, hai tâm hồn cô đơn đồng điệu gặp nhau. Ông Sung bất mãn con cái, tôi chẳng ưa gì con dâu, hai chúng tôi trao đổi hình ảnh thấy hạp nhãn, gọi phone chuyện trò qua lại thân tình thắm thiết nên hẹn gặp mặt để tính tới chuyện cùng dìu nhau đi nốt quãng đường đời còn lại như lời ông đã âu yếm rao tìm bạn. Ông Sung sẽ từ tiểu bang Texas bay tới đây gặp tôi.

Tôi đến nhà hàng Tri Kỷ gặp ông Sung, ông 75 tuổi không khác trong hình là bao vừa gặp mặt là tôi chấm liền. Sau phút giây hội ngộ bối rối tôi và ông Sung mau chóng thân thiện nhau hơn, vừa ăn vừa nói chuyện. Ông Sung cũng thích tôi, khen tôi trẻ hơn tuổi 70. Tôi mỉm cười nhún nhường:

–  Em trẻ là nhờ mái tóc mới nhuộm hôm qua đó.

Nụ cười chưa kịp tắt bỗng chuyển sang nhăn nhó vì cơn đau lưng bỗng ập đến, đau từ lưng trên bên phải xuống đến lưng dưới, bác sĩ bảo tôi bị viêm dây thần kinh gì đó, cơn đau đến rồi đi trong 5-10 phút và tôi phải sống với bệnh suốt đời.

Ông Sung lo lắng hỏi:

– Em sao thế?

– Chứng đau lưng mãn tính, thường thì đi đâu em cũng mang theo thuốc giảm đau mua over counter hôm nay em quên mất. Trời..ơi..đau quá… phải chi có một viên thuốc…

Thấy tôi cúi gập người xuống cho bớt đau ông Sung vội đứng dậy đến bên tôi đỡ vai tôi nhưng ông bỗng lạng quạng suýt ngã nếu không nhanh tay vịn vào một cạnh bàn. Đến phiên tôi lo lắng hỏi:

– Anh sao thế?

Ông Sung đành…. khai:

– Anh bị đau hai khớp gối đi phải chống gậy, nhưng chẳng lẽ đi gặp em mà anh chống gậy thì quê quá nên anh không mang theo. Trời ơi…ước gì bây giờ có cây gậy thì đỡ khổ biết mấy.

Dù đang đau lưng tôi cũng ráng dìu ông Sung ngồi trở lại ghế cho an toàn. Trong đầu óc tôi làm ngay một bài toán nếu tôi về sống chung với ông sẽ phải thường xuyên hầu hạ như thế này, đường dài chưa biết tính nết ông ra sao, không lẽ tôi lại vác mặt trở về với con cháu? Ngay lúc này tôi biết mình phải quyết định thế nào rồi….

Tuổi già thật vô duyên, hai người đang hẹn hò lãng mạn thì bệnh hoạn lù lù xuất hiện không ai giấu ai được. Ông Sung kể lể:

– Anh đã cẩn thận mang theo đủ thứ thuốc, nào cao mỡ, cao máu, đau bao tử, trào thực quản, tiền tiểu đường nhưng quyết không mang theo cây gậy giờ mới ra nông nỗi.

Tôi cũng trút nỗi niềm:

– Em cũng cao mỡ cao máu này, loãng xương này, rối loạn tiền đình này, ngoài ra còn phải nhỏ mắt cườm ướt Glaucoma nữa cơ.  Anh nhớ đi bác sĩ mắt hàng năm xem có bị Glaucoma hay Cataract không nhé…

– Em nhớ theo dõi đo huyết áp hàng ngày nhé.

– Anh cũng nhớ đi bộ mỗi ngày một tiếng cho khỏe nhé.

Tôi và ông Sung bỗng trở thành hai bạn già tâm sự kể lể chuyện thời tiết trở trời, chuyện ốm đau và dặn dò nhau kinh nghiệm thuốc men cho đến khi không còn gì để than thở thêm tôi mới giật mình kêu lên:

– Ôi trời… sắp đến giờ em phải về nấu cơm chiều cho con cháu rồi. Mấy con cá đang chờ em về kho tiêu.

Tôi vẫn nhớ đến bổn phận, nghĩ đến con cháu, vậy mà có lúc sôi máu vì ghét con dâu tôi đã muốn dứt áo ra đi.

– Ủa…mình chưa đi đến quyết định cuối cùng mà.

– Em vội quá quên mất, em đã quyết định rồi…

Ông Sung chặn lời tôi:

– Để anh nói trước. Anh là người định đoạt trước…

– Chưa gì mà anh đã lộ mặt gia trưởng rồi, thêm một lý do để em không tiếc khi quyết định. Chúng ta dừng lại ở đây.

Ông Sung thẳng thừng:

– Anh cũng muốn thế. Vì anh vừa nhận ra em đau lưng kinh niên, nay đau mai đau, rước em về anh lại phải hầu hạ, chưa kể bệnh mắt Glaucoma của em mai mốt lỡ… có bề nào càng khổ thân anh.

Tôi tự ái đùng đùng:

– Anh trù ẻo tôi đấy hả? Chưa biết ai phải hầu hạ ai, chân anh đi không vững đó. Nãy dìu anh trở về ghế ngồi tôi mệt hụt hơi, chưa kể tiền tiểu đường của anh nay mai thành bệnh tiểu đường mấy hồi, rồi… biến chứng lọc thận ai mà hầu nổi.

Ông Sung cười nhạt:

– Anh chỉ lỡ lời lo xa thế thôi, em đanh đá ghê gớm nhỉ, hèn gì tối ngày chê trách con dâu.

Thấy tình hình căng thẳng tôi vội hạ giọng cho xong để còn kịp về nhà nấu cơm:

– Thật may cơn đau lưng của em xuất hiện và chân anh đau đúng lúc, là tín hiệu nhắc nhở chúng ta đừng vội vàng quyết định, chúng ta đang mỗi ngày mỗi già đi, sức khỏe mỗi ngày mỗi kém đi nếu lấy nhau biết vui hưởng hạnh phúc được bao lâu hay chỉ là gánh nặng cho nhau. Anh có căn nhà riêng thì cứ ở tới khi nào không tự chăm sóc bản thân mình được nữa thì sang tên nhà cho con cái, chúng sẽ lo cho anh, còn em tiếp tục về hầu hạ con cháu mai sau có ốm đau nằm một chỗ ít nhiều gì chúng cũng phải hầu hạ lo cho em. Em đã tìm ra tình cuối đời rồi, là tình với con với cháu chứ tìm đâu xa.

Ông Sung cũng “hạ nhiệt”:

– Ừ, em nói vậy còn nghe được.

Lát nữa về nhà tôi sẽ nghe lời con dâu mang nồi cá ra sân sau kho thật ngon lành. Hơn lúc nào hết tôi thấy mái nhà của con cháu vẫn đẹp vẫn ấm cúng hơn bất cứ nhà ai, dù con dâu có những lúc cãi mẹ chồng, dù con trai có lúc gắt gỏng mẹ ruột, dù hai cháu nội có những lúc làm tôi bận rộn.

Khi chia tay ông Sung ở cửa nhà hàng tôi dặn dò có chút mỉa mai:

– Anh nhớ ra tiệm Family Dollar ở góc đường kia mua cây gậy để chống chân đi cho vững vàng khỏi té và bay về Texas an toàn nha.

Ông Sung cũng chẳng vừa:

– Từ giờ trở đi em đừng nhí nhảnh lên báo lên mạng tìm tình yêu, tìm chồng bốn phương nữa nhé. Lo mà hầu con cháu đi.

Nguyễn Thị Thanh Dương

(August, 16, 2022)

From: TU-PHUNG

Sài Gòn, một thời của một đời… – Nguyễn Mạnh Trinh

Sài Gòn, một thời của một đời…
 Nguyễn Mạnh Trinh

Có nhiều bài thơ về Sài Gòn. Thành phố ấy, với nhiều người, là thánh địa của kỷ niệm…
Với Nguyên Sa, là Tám Phố Sài Gòn, là “Sài Gòn đi rất chậm buổi chiều”, là “Sài Gòn phóng solex rất nhanh”, là “Sài Gòn ngồi thư viện rất ngoan” là “Sài Gòn tối đi học một mình”, là “Sài Gòn cười đôi môi rất tròn”, là “Sài Gòn gối đầu trên cánh tay”…

Với Quách Thoại buổi sáng, là “sáng nay tôi bước ra giữa thị thành/ để nghe phố nói nỗi niềm mới lạ/ tiếng xe tiếng còi tôi nghe đường xá/ cả âm thanh của cuộc sống mọi người/ một nụ cười chạy ẩn giữa môi tươi/ trên tim nóng trong linh hồn tất cả /..

Với Trần Dạ Từ là buổi trưa, về Thị Nghè: “vẫn một mặt trời trên mỗi chúng ta/ và mỗi chúng ta trên một bóng hình/ tôi vô giác như mặt đường nhựa ẩm/ trũng nỗi sầu đau náo nức lưu thông/ mùa hạ đi qua tựa hồ giấc mộng/ tôi chạy điên trong một bánh xe tròn/ và đứa trẻ hít còi người đàn bà bước xuống/ ôi chiếc cầu, ôi sở thú, ôi giòng sông/..”

Với Cung Trầm Tưởng, là mưa, là “mưa rơi đêm lạnh Sài Gòn/ mưa hay trời khóc đêm tròn tuổi tôi/ mưa hay trời cũng thế thôi/ đời nay biển lạnh mai bồi đất hoang/..”

Với Luân Hoán, là ngồi quán, là “ngồi La Pagode ngắm người/ thấy em nhức nhối nói cười lượn qua/ mini-jupe trắng nõn nà/ vàng thu gió lộng chiều sa gót giày/ ngẩn theo tóc, tuyệt vời bay/ hồn thơ thức mộng trọn ngày bình yên/”…

Với Bùi Chí Vinh, là ngày bãi trường mùa hạ “những chiếc giỏ xe chở đầy hoa phượng/ em chở mùa hè của tôi đi đâu/ chùm phượng vĩ là tuổi tôi mười tám/ tuổi thơ ngây khờ dại mối tình đầu..” 

Và với nhiều thi sĩ khác, Sài Gòn là phố cây xanh, là đêm cúp điện, là chiều mưa giọt, là trưa nắng đỏ. Ôi Sài Gòn, của cõi thơ không cùng, của những chân trời thi ca bao la, của những trái tim lúc nào cũng dồn dập nhịp thở của tháng ngày tuy náo động nhưng chẳng thể nào quên.

Với riêng tôi, Sài Gòn là muôn vàn kỷ niệm; là những con đường quen thân, nhắc lại một thuở ấu thời; là ngôi trường Chu Văn An, nơi tôi miệt mài suốt bảy năm trung học; là trường Khoa Học, là trường Luật trước khi vào lính; là cổng Phi Long vào phi trường Tân Sơn Nhứt khi vừa nhập ngũ; là những mơ mộng tuổi trẻ, lúc vừa bước vào đời sống quân đội trong một đất nước đang trong tình trạng chiến tranh.

Buổi trưa, nằm dài trên sân cỏ mượt nhìn lên nóc nhà thờ Ngã Sáu, dưới bóng cây dầu cao vút, nghĩ về tương lai nhìn theo những sợi mây bay qua. Nghe xôn xao trong lòng những sợi nắng lung linh. Ôi, thuở còn đi học, mấy ai tiên đoán được số mệnh mình.

Mây bay đi, như đời trôi qua.
“Nằm trên cỏ nhìn trời cao
Lung linh sợi nắng thuở nào phai phai
Nhìn tượng Chúa dưới tàng cây
Giơ vai trĩu nặng tháng ngày chiến tranh
Mùa hạ mấy bước đi quanh
Cổng trường đóng những đoạn đành thế thôi
Ngày mai đi bốn phương trời
Mây phiêu lãng chợt thương đời phù du..”

Sài Gòn những mùa thu. Có những con đường xôn xao áo lụa. Có những buổi tan học nhìn tà áo trắng mà mơ ước vu vơ. Để đêm về, trên trang vở học trò, vẽ bâng quơ đôi mắt ai, mái tóc ai:

“Thành phố ấy , xôn xao tà áo trắng
Nắng hanh vàng trải lụa những mùa thu
Guốc chân sáo để hồn ai ngơ ngẩn
Bước mênh mang nghe quẩn sợi sương mù
Mây vào áo lồng lộng bay chiều gió
Lụa trắng trong e ấp buổi hẹn hò
Sợi mi cong tưởng chập chờn ngực thở
Tóc ai buông dài xõa những câu thơ
Thành phố ấy, mấy ngã tư đèn đỏ
Ai chờ ai khi kẻng đánh tan trường
Bài thơ trao còn nguyên trong cuốn vở
Thuở ngại ngùng lần bước đến yêu thương..”
 
Sài Gòn của một thời mặc áo lính. Khi ở xứ biên trấn xa xôi, nhớ về thành phố với người thương, với phố quen, trên máy bay lượn vòng thành phố, nghe như mình đã trở về quê hương mình. Khi đổi về đơn vị ở phi trường Biên Hòa, mỗi buổi sáng tinh sương ghé phở Tàu Bay, ăn tô phở đầu ngày trong cái không khí trong veo buổi sớm, nay nhớ lại còn trong dư vị miếng ăn ngon của một thời tuổi trẻ.

Năm 1968, lệnh tổng động viên nên vào lính nhập khóa với những người cùng trang lứa. Lúc ấy, với hăng hái của người nhập cuộc, hiểu được bổn phận của một công dân thi hành nghĩa vụ quân sự với đất nước. Lúc ấy, mắt trong veo và tâm hồn như tờ giấy trắng:

“Bọn ta ba trăm thằng tuổi trẻ
Chọn không gian tổ quốc mênh mông
Mắt sáng môi tươi như tranh vẽ
Vào lửa binh không chút nao lòng
Chia sẻ với nhau thời bão gió
Đời muôn nhánh rẽ ngược xuôi nguồn
Cánh chim phiêu bạc ngàn cổ độ
Tử sinh ai luận chuyện mất còn?
Ngồi uống cùng nhau các hảo hán
Tưởng ngày xưa rượu tiễn lên đường
Sách vở giảng đường thành dĩ vãng
Những chàng trai dệt mộng muôn phương..”
 
Rồi, vận nước đến thời, gia đình ly tán, đi vào trại tù, nếm đủ những cay đắng của đời tù cải tạo lao động khổ sai. Khi trở về, Sài Gòn, cảnh vẫn cũ nhưng người xưa đã khác. Như Từ Thức về trần, cả một thế thời thay đổi.

Người về, từ trại tù nhỏ sang qua nhà giam lớn, vẫn những con mắt công an cú vọ rập rình, vẫn những lý lịch trích dọc, trích ngang đeo đuổi. Tạm trú, tạm ngụ, ở chính ngôi nhà của mình. Nơi sẽ định cư của những người tù cải tạo, là những vùng kinh tế mới xa xăm, những nơi chốn đầy ải của ngày tuyệt lộ. Trở về xóm cũ, làm người lạ mặt:

“Đỏ bầm mặt nhựt cơn mê
Lạnh tanh khuôn mắt người về dửng dưng
Vào ra lối rẽ ngập ngừng
Mấy năm sao lạ, nỗi mừng chợt xa
Cầu thang quẩn dấu chân qua
Đời như hạt nước mưa sa bóng chiều
Từ rừng máu giọt gót xiêu
Thảm thương phố cũ nắng thiêu mộng người
Đỏ bầm ánh điện đường soi
Cây nhân sinh chợt nẩy chồi cuồng điên
Nhìn soi mói nụ cười đen
Mắt hằn dấu đóng chao nghiêng một ngày.”

Về trình diện công an khu vực, nhìn nụ cười gằn vừa mỉa mai vừa soi mói, nhìn đôi mắt cú đóng dấu vào một ngày thất thế của người bại binh, ôi đau xót cho một đời ngã ngựa.

Ở Sài Gòn những ngày giặc chiếm, vẫn còn âm hưởng của một cuộc chiến chưa tàn. Trên chuyến xe bus nội ô, một người lính què dẫn dắt người lính mù hát những bài hát ngày xưa ngày còn chiến đấu dưới cờ. Quân Lực VNCH là tập thể của những người lính tin tưởng vào công việc làm của mình. Dù thua trận nhưng họ không muốn làm hèn binh nhục tướng…

“Trang lịch sử đã dầy thêm lớp bụi
Ngăn kéo đời vùi kín mộ phần riêng
Và lãnh đạm chẳng còn người nhắc đến
Người trở về từ cuộc chiến lãng quên
Đôi mắt đục nhìn mỏi mòn kiếp khác
Dắt dìu nhau khập khiễng chuyến xe đời
Người thua trận phần thịt xương bỏ lại
Trên ruộng đồng sầu quê mẹ rã rời
Chuyến xe vang lời thơ nào năm cũ
Nhắc chặng đường binh lửa thuở xa xưa
Khói mịt mù thời chiến tranh bụi phủ
Nghe bàng hoàng giọt nắng hắt giữa trưa
Tiếng thê thiết gọi địa danh quen thuộc
Thuở dọc ngang mê mải ngọn cờ bay
Cuộc thánh chiến gió muộn phiền thổi ngược
Dấu giày buồn còn vết giữa sình lầy
Nghe lời hát tưởng đến người gục ngã
Cả chuyến xe chia sẻ một nỗi niềm
Âm thanh cao xoáy tròn dù gỗ đá
Thức hồn người vào nhịp thở chưa quên
Ơi tiếng hát vinh danh đời lính chiến
Cho máu xương không uổng phí ngày mai
Có sương khói từ mắt thầm cầu nguyện
Cho lỡ làng không trĩu nặng bờ vai
Người thản nhiên những tia nhìn cú vọ
Đây thịt xương còn sót lại một đời
Còn ngôn ngữ của Việt Nam đổ vỡ
Dù rã rời nhưng vẫn thắm nụ cười
Ta nghe rực trong hồn trăm bó đuốc
Mặt trời lên xua tăm tối cho đời…”

Ở Sài Gòn năm 1980, là những ngày tôi cựa quậy trong nan lồng. Nghèo đói, bất công, đe dọa, bắt bớ, đủ thứ khổ nạn đổ lên đầu người dân nhất là những người được thả về từ trại tù. Mỗi ngày trình diện công an, rồi mỗi tuần, mỗi tháng nhưng áp lực thì càng ngày càng tăng. Tạm trú, từng tháng, từng ngày. Không có một chỗ nào ở thành phố cho các anh, người thua trận. Tôi, không có hộ khẩu, ở tạm trong nhà của mình.
Rồi tham gia tổ chức vượt biên ở Bến Tre bị công an tỉnh này lên Sài Gòn tìm bắt . May là thoát được nên sau đó là phải sống lang thang đêm ngủ chỗ này tối ở chỗ khác. Những buổi tối trời mưa, đạp xe đi tìm chỗ tạm trú, mới thấy ngậm ngùi cho câu than thở trời đất bao la rộng lớn mà sao ta chẳng có chốn dung thân.

Những buổi chiều nắng quái, đi trong thành phố, mới thấy cảm giác của một kẻ cô đơn như con chuột đang cuống cuồng trong lồng giữa cơn mạt lộ.

Thấy đi tới đâu cũng gặp những cặp mắt ngại ngùng của những người thân, từ chối thì không nỡ mà chứa chấp thì bị liên lụy nên tôi phải tìm một phương cách để cho qua đêm dài. Thuê phòng trọ hay khách sạn cực kỳ nguy hiểm, nên chỉ có một cách là trà trộn vào những người ngủ ngoài đường.

Lúc ấy, ở Sài gòn đầy những người ngủ ở hè phố. Họ là những người từ kinh tế mới về chịu không kham sự khổ cực hay những người vượt biên hụt trở về nhà bị chiếm. Mà chỗ an toàn nhất là bến xe Ngã Bảy.

Ở đây là đường ranh của nhiều phường nên chỉ có một quãng ngắn, ở chỗ này bố ráp thì chỗ kia vẫn bình thường như không có gì xảy ra. Tôi có xem một video của trung tâm Asia có ghi lại hình ảnh của nhạc sĩ Trúc Phương cũng hoàn cảnh phải ra xa cảng để ngủ qua đêm mà chạnh lòng.

Thì ra, ở lúc ấy, có nhiều người chung cảnh ngộ, phải lang thang ngủ đầu đường xó chợ một cách bất đắc dĩ. Bao nhiêu chuyện trái tai gai mắt, công an lộng hành, bắt người không cần lý do, kinh tế thì lụn bại, ngăn sông cấm chợ, cả nước nghèo đói không đủ gạo ăn, kỹ nghệ trì trệ không sản xuất được gì đáng kể.

Rồi chính sách phân biệt đối xử, giáo dục thì nhồi sọ, hồng nhiều hơn chuyên, thi cử tuyển chọn theo lý lịch hơn là thực tài, y tế thì thiếu thuốc men phương tiện và y sĩ trình độ kém lại làm việc tắc trách. Thật là một thời tệ mạt nhất trong lịch sử dân tọc ta.
Ngủ ở bến xe Ngã Bảy, mướn cái chiếu 1 đồng, kiếm một chỗ qua đêm, tôi đã chứng kiến nhiều chuyện. Có những bà mẹ góp nhóp tiền bạc đi thăm con ở một trại tù nào đó, chờ xe ba bốn ngày, sống lang thang lếch thếch chờ đợi.

Cũng có những người không nhà, nằm la liệt dưới mái hiên, sinh sống ăn ngủ và làm tình một cách thản nhiên như đang sống trong nhà mình. Cũng có những trai tứ chiếng, những gái giang hồ quanh quẩn kiếm ăn. Những anh lơ xe, những chị buôn hàng chuyến, những mối tình, hừng hực xác thịt cứ diễn ra hàng đêm.

Rồi những đêm mưa gió, ướt át, những tiếng chửi than trời trách đất cứ dòn dã. Hình như, ở gần nỗi khổ, tâm hồn họ bị chai sạn đi.

Công an từ phường này qua phường kia luôn luôn bố ráp nhưng như một trò chơi cút bắt. Áo vàng mũ cối đi qua, chỉ ít lâu sau là đâu vẫn đấy.
“ … Hè phố rác lạc loài hoa dại
Nở buồn tênh phiến gạch ngậm ngùi
Cỏ đớn hèn hạt sầu kết trái
Ươm bao năm dầu dãi nụ cười
Ngủ chợp mắt đèn khuya vụn vỡ
Ho khan ai quằn quại phổi khô
Tiếng còi hú nhát đinh vỡ sọ
Nghiến xe lăn tim nhịp chày vồ
Rưng não tủy bầu trời tháng chạp
Cành cỏ khô héo mãi phận mình
Ở vu vơ ngỡ ngàng tiếng khóc
Đêm bến xe tưởng chốn u minh
Đường bảy nhánh chỗ nào phải lối
Ngủ nơi đâu còi rúc giới nghiêm
Như tiếng cú rúc trong huyệt tối
Người lao xao cõi tạm cuồng điên
Gió nhọn hoắt ngon lành da thịt
Mưa giọt soi mộng dữ chân người
Ánh đèn pin mắt ai tội nghiệp
Bờ đá xanh lạnh buốt chăn đời..”

Ở một đất nước vào thời kỳ mà cây cột đèn nếu đi được cũng muốn vượt biển, thì còn con đường nào khác hơn là thách đố với định mệnh.

Những lần sửa soạn ra đi, tự nhủ hãy đi một vòng thành phố thân yêu để rồi vĩnh biệt không còn gặp lại. Những khúc sông, những cây cầu, những dãy phố, mỗi nơi đều nhắc đến kỷ niệm và khi sắp sửa ra đi như mất mát một phần đời sống mình. Có buổi tối, đi trong mưa, để tưởng nhớ lại lúc xa xưa, khi bềnh bồng trong cảm giác lãng mạn của một người đi tìm vần thơ.

“Mai ta đi xa. Thôi giã từ thành phố. Lòng đau như cắt trong lúc giã từ
Ta thắp nến đọc hoài trang sách kể
Chuyện người tù vượt ngục suốt một đời
Ta hừng hực cánh buồm chờ gió đẩy
Sống một ngày thêm thúc giục khôn nguôi
Đã đắp xóa bao lần cơn mộng biếc
Đường phải đi cho đến lúc xuôi tay
Sóng loạn cuồng con thuyền trôi biền biệt
Giăng buồm lên phương viễn xứ một ngày
Ta cũng biết còn xa vùng đất hứa
Phải đi qua địa ngục chín mươi tầng
Đời hiện tại xích xiềng thêm bão lửa
Nỗi niềm riêng còn khóe mắt thương than
Đã thấm thía ngày qua ngày tù tội
Chim trong lồng mơ vùng vẫy trời cao
Cười khinh mạn những chão thừng buộc trói
Về phương đông nơi bến đỗ tay chào
Mộng ước mãi chiều nao vời cố quận
Chim sẻ ngoan còn ríu rít phố phường
Loài ác điểu vẫn gây căm tạo hận
Bẫy gai chông ngầm phục ở quê hương
Ta tin tưởng có quỉ thần dẫn lối
Dù giặc thù vây bủa cả không trung
Còn một chén nốc ngụm men vời vợi
Gió chuyển rồi thôi đến lúc lên đường
Chuyện sinh tử giỡn chơi thêm ván cuối
Cạn láng rồi thử thách với phong ba
Ngôi tinh đẩu dẫn ta về bến đợi
Đường biển vẽ rồi tay lái thẳng lối qua.”

Bây giờ, nhiều người trở lại nói thành phố đã đổi khác. Hết rồi, những con đường cũ, những ngõ hẻm xưa. Hết rồi, những tâm tình thuở nào của một thời trong một đời người. Tôi, có lúc đọc những bài viết cũ, ngắm lại những hình ảnh xưa, lại nhói đau như vừa đánh mất một điều gì trân quí. Thôi vĩnh biệt Sài Gòn, tiếng kêu thảng thốt của người vừa đánh mất một phần đời sống mình…

Nguyễn Mạnh Trinh

 From: Do Tan Hung & KimBang Nguyen

May Mà Có Em – truyện ngắn – Tường Lam

 May Mà Có Em – truyện ngắn – Tường Lam

Quỳnh lấy vé máy bay về Việt Nam một cách vội vàng, mấy ngày nay nàng ăn, nói, đi, đứng như người mộng du.

  Tình cờ sang Cali dự đám cưới người cháu, Quỳnh gặp lại Trang, người bạn học thân nhất, ngồi cạnh nhau trong giảng đường Văn Khoa. Trang cho Quỳnh biết mới sang Mỹ được hai tháng. Trước khi đi Trang về thăm quê nội ở Trà Vinh và đã gặp Tân! Thương binh cụt một chân, ngồi bán vé số ngoài vỉa hè độ nhật. Nghe tin Tân còn sống, tim Quỳnh co thắt, toát mồ hôi và xây xẩm cả mặt mày. Quỳnh thì thầm như người mất hồn. “Trời ơi! Tân ơi! Anh còn sống sao? Mấy chục năm rồi, Tân ơi! Anh có biết rằng em tiếc thương anh ngần nào không? Cám ơn trời Phật đã cho Tân còn sống!!!” Dù hoàn cảnh thế nào Quỳnh cũng phải trở về gặp lại Tân! Gặp lại sự sống của chính nàng.

Theo gia đình Trang dự lễ mãn khóa 22 sĩ quan trừ bị Thủ Đức. Ngồi trên khán đài trong Vũ Đình Trường, sau bài diễn văn của Thiếu Tướng Chỉ Huy Trưởng, tiếng loa uy nghi dõng dạc:

– Quỳ xuống các sinh viên sĩ quan.

 Sinh viên sĩ quan thủ khoa nhận kiếm, cung bắn đi bốn hướng tượng trưng chí trai tang bồng hồ thỉ, sau khi hàng ngàn sinh viên khác nhịp nhàng quỳ xuống thẳng hàng để được gắn cấp bậc sĩ quan.

– Đứng lên các tân sĩ quan.

 Chỉ cần hai động tác quỳ xuống, đứng lên với cấp bậc trên cầu vai biết bao tháng ngày gian lao! Những bữa cơm chan mồ hôi, nước mưa trong rừng cao su … Ngoài bãi tập và biết bao gian nguy ngoài chiến trường chờ đón họ! Sau mười ngày phép cuối khóa của những người trai trong thời ly loạn! Phải “xếp bút nghiên theo việc đao cung”.

 Trên hai mươi năm qua rồi, đêm mãn khóa bập bùng kỷ niệm vẫn còn mới nguyên trong tâm hồn Quỳnh, đêm định mệnh để Quỳnh quen Tân do anh trai Trang; người bạn cùng khóa với Tân giới thiệu.

 Ngồi trong xe cạnh nhau, hai người chỉ trao đổi những lời thăm hỏi xã giao chừng mực. Ở Tân, Quỳnh thấy người con trai đã được tôi luyện qua gian lao, nắng mưa quân trường, tóc hớt cao, nước da bánh mật sạm nắng, tự dưng với tuổi mười bảy của đứa con gái mới lớn, Quỳnh thấy thương và tội nghiệp Tân quá đi thôi. Tân từ biệt mọi người – sau khi xin địa chỉ Quỳnh -ra bến xe miền Tây về quê thăm mẹ! Tân chỉ có hai mẹ con.

 Trước ngày ra đơn vị, Tân chọn binh chủng mũ nâu Biệt Động Quân như lời tâm sự: “Không đi lính thì thôi, đi phải chọn binh chủng xứng đáng và phải đánh đấm ra trò”. Tân có đến thăm Quỳnh đi phố, ăn trưa và trong bóng tối rạp Ciné Lê Lợi, cầm tay Quỳnh, Tân nói lời từ giã:

– Mai anh đi! Quỳnh ở lại vui! Ráng học giỏi.

 Tân ra đơn vị, Quỳnh thấy hụt hẫng trong lòng và tình cờ, tình tiết thương tâm trong cuốn phim “Le temps d’aimer c’est le temps de mourir” mà Quỳnh và Tân đã xem! Suốt thời gian dài sau này Quỳnh cứ tự hỏi: “Tại sao có một thời để yêu lại phải có một thời để chết???”.

 Chiến trận đã cuốn Tân đi biền biệt! Những địa danh mịt mùng xa xôi: Bình Định, Bồng Sơn, Tam Quan, Sa Huỳnh, Phá Tam Giang…tiếp nối trên đầu mỗi cánh thư đầy ắp yêu thương của Tân gởi về; một thứ hạnh phúc nhỏ nhoi mà nhiều lần Quỳnh đã mang vào giấc ngủ.

 Tình yêu qua những cánh thư đã làm Quỳnh trưởng thành, nàng đọc báo, nghe đài phát thanh, tin tức những trận đánh lớn đã khiến nàng bỏ ăn! Đóng cửa nằm yên trong phòng một mình.

 Quỳnh thường đi chùa! Một lần nghe có ông thầy ở Thủ Đức rất tài; làm phép trong tờ giấy bạc xếp thành hình tam giác, tránh được lằn tên mũi đạn. Quỳnh vội vàng thỉnh phép bọc bằng vải nhung tím, ép nylon gởi cho Tân và nàng bắt buộc Tân phải đeo bên mình, Tân phải sống để yêu thương nàng. Những gói mè xửng, chiếc nón bài thơ! Nhận được quà của Tân gởi về, Quỳnh cảm động mừng rơi nước mắt.

 Đơn vị Tân tham dự hành quân vượt biên sang Lào! Lam Sơn 719. Tiểu đoàn Tân vừa được đổ xuống một đỉnh đồi, và rồi trận chiến khóc liệt xảy ra!  Sau hai giờ chiến đấu bằng lựu đạn, đơn vị Tân đã bị tràn ngập… Ra trường chưa được hai năm Tân đã được thăng cấp tại mặt trận hai lần và giữ chức vụ Đại Đội Trưởng.

 Thân nhân gia đình đến hậu cứ đơn vị hỏi thăm tin tức về chồng con họ một cách nhiệt tình, tự nhiên. Thấy Quỳnh đứng rụt rè bỡ ngỡ, người sĩ quan hậu cứ đến hỏi:

– Xin lỗi cô tìm ai?

Quỳnh lí nhí:

– Dạ! Em muốn biết tin tức Trung Úy Tân Đại Đội Trưởng.

–  Cô là gì của Trung Úy Tân?

–  Dạ! Vợ.

Má Quỳnh ửng đỏ. Người sĩ quan hậu cứ ranh mãnh trả lời nàng:

– Đơn vị đang trong vùng hành quân! Có tin tức gì tôi sẽ thông báo cho bà sau.

 Chữ bà đã làm Quỳnh ngượng ngùng làm sao ấy. Nghĩ cho cùng rồi cũng đúng thôi. Quỳnh đã trao đời con gái cho Tân sau lần thăm ở Pleiku, khi Tân đang nằm điều trị ở Quân Y Viện để gắp một mảnh lựu đạn xuyên vào vai. Quỳnh chưa biết đam mê xác thịt, nàng muốn có con với Tân. Nếu lỡ Tân không về nàng còn giữ được giọt máu cho Tân! Cho mẹ Tân có người nối dõi tông đường! Quỳnh không có thời gian chọn lựa trong vòng tay Tân! Tình yêu đếm bằng phút giây với nỗi chết không rời! Tội cho Quỳnh biết bao! Khi lỡ có người yêu ngoài mặt trận.

 Quỳnh tỉnh dậy trong nhà thương, khi tuần sau lên hậu cứ và được người sĩ quan trực trả lời:

– Xin thành thật chia buồn cùng bà! Trung Úy Tân được báo cáo đã mất tích.

 Ba năm trời Quỳnh đi mọi nơi, hỏi không biết bao người đội mũ nâu; không nhận ra được một tin tức nào của Tân.

 Những ngày cuối tháng tư năm 1975, trong khi Xuân Lộc bị tấn công, Biên Hòa bị pháo kích; gia đình gồm cha, mẹ Quỳnh và đứa em trai di tản, sau đó định cư tại thành phố Montreal Canada.

Chuyện tình nàng và Tân phút chốc thoáng như mơ mà đã gần ba mươi năm! Một nửa đời người rồi còn gì!!!                                                                                                                                                       

Phi cơ ở độ cao! Quỳnh kéo chăn đắp lên ngực và thì thầm với chính mình:

– Tân ơi! Em phải về gặp anh! Dù thế nào em cũng không thể dối lòng mình được, em yêu anh suốt cuộc đời này.

Người tiếp viên thông báo, phi cơ đã vào địa phận Việt Nam.

 Trước khi đáp xuống phi trường Tân Sơn Nhất, phi cơ đảo đi một vòng lớn, qua khung cửa kính Quỳnh vẫn thấy thửa ruộng, mái tranh lụp sụp, sự nghèo khó làm vòng đai rộng lớn bao quanh thành phố Sài Gòn hoa lệ.

 Qua báo chí, Quỳnh biết rằng hơn bảy mươi lăm phần trăm dân tộc mình là nông dân, suốt đời úp mặt xuống bùn cũng không kiếm đủ miếng ăn cho gia đình! Giàu sang chỉ dành riêng cho thành phần thiểu số có quyền chức trong xã hội! Sự chênh lệch lớn lao giữa nghèo và giàu đó sinh ra sự bất ổn xã hội! Sài Gòn bây giờ là ô nhiễm, xe cộ đủ loại chen chúc luồn lách vô trật tự! Sự công xúc tu sỉ xảy ra ở mọi gốc cây, nhiều lần Quỳnh phải quay mặt đi vì hổ thẹn.

 Ra xa cảng miền Tây, đón xe tốc hành, Quỳnh về Trà Vinh, thành phố Quỳnh đến lần đầu. Quỳnh xuống xe với hai chiếc va li nặng trĩu. Ngơ ngác cố nhớ lời Trang tả; nàng đi lần về phía đầu chợ; thành phố đã lên đèn.

Hàng chục anh xe lôi, xúm quanh hỏi Quỳnh về đâu? Nàng hỏi thăm Tân, cụt chân bán vé số ở đầu phố chợ. Có người nhanh nhẩu trả lời:

– Trung úy Tân! Biệt động Quân bán vé số! Cô lên xe tôi chở đến nhà ổng cho.

– Tân! Biệt Động Quân! Những tiếng thân thương Quỳnh mừng khôn tả.

 Quỳnh đền ơn người chạy xe lôi hậu hĩnh! Trước khi mở cổng bước vào căn nhà ngói ba gian loang lổ gạch vôi nói lên đời sống khó khăn của chủ nhân nó. Quỳnh đưa tay đè lên trái tim, nén xúc động, Quỳnh gõ cửa. Người đàn ông chống nạng bước ra! Nhìn sững nàng! Miệng há hốc kinh ngạc! Đất như sụp dưới chân Quỳnh.

Tân không còn tin ở mắt mình:

– Có phải Quỳnh của anh đây không?

Nàng phóng tới ôm chầm lấy Tân:

– Vâng, em đây! Quỳnh của anh đây.

 Ngoài ngõ, hàng xóm và trẻ em thật đông, tò mò nhìn vào. Người đàn bà tóc bạc như cước, từ nhà sau bước ra lắp bắp hỏi Tân:

– Cô này là ai vậy con?

Tân trả lời mẹ trong xúc động:

– Thưa má! Quỳnh bạn con.

Quỳnh chắp tay lễ phép chào bà. Mẹ Tân bước tới ôm tay Quỳnh vừa mếu máo khóc, vừa nói:

– Thằng Tân gặp lại con! Bây giờ có chết bác cũng vui lòng.

Mẹ Tân vén tay áo lau nước mắt. Tân chống nạng phụ Quỳnh mang mấy va li vào nhà.

 Quỳnh đi tắm, thay đồ mát và bữa cơm đạm bạc được dọn ra gồm: một tô mắm chưng, hai trái cà nâu nướng chan nước mắm tỏi ớt, một dĩa bông so đũa luộc. Ba người cầm đũa, Quỳnh ăn thật ngon miệng! Mấy chục năm ở Canada làm gì có những món này. Tân và mẹ nhìn Quỳnh ăn một cách ái ngại.

Gắp cho Quỳnh bông so đũa luộc, mẹ Tân hỏi Quỳnh:

– Cháu ở đâu về? Lập gia đình được mấy đứa con rồi?

Nàng liếc sang Tân, hình như anh hồi hộp chờ câu trả lời của Quỳnh.

-Thưa Bác, con ở Canada về! Con chưa lập gia đình. Dạ thưa bác, nãy giờ con quên hỏi thăm về vợ con anh Tân.

Tân ngượng ngùng cúi đầu và mẹ Tân cười! Niềm vui trong ánh mắt:

– Bác đã tám mươi tuổi rồi! Thèm cháu nội lắm. Thằng Tân nhiều lần tâm sự với bác, thân nó tật nguyền và suốt đời nói chỉ thương mỗi mình con thôi! Có mấy mối được lắm, nết na có học, nhưng nó đều từ chối. Mỗi chiều bán vé số về tắm rửa cơm nước xong, nó nằm trên võng mắt nhìn lên tấm ảnh nó và con chụp chung chưng trên bàn viết đó! Tay đàn, miệng hát tới khuya. Lần nào bác cũng nghe nó hát bản…Em lây cu…lây cưa…gì đó. Nó hát bản đó hoài sao không chán. Nó nói bản nhạc đó là cuộc đời nó.

– Nghe xong, Quỳnh buông đũa, ngưng ăn! Nắm chặt tay Tân và Quỳnh quay mặt đi để dấu dòng nước mắt tuôn trào. Hồi lâu, nén xúc động, nghẹn ngào Quỳnh hỏi:

– Anh thương em nhiều đến thế sao Tân?

Tân xoa xoa vai Quỳnh giọng như muốn khóc:

– Quỳnh! Em có biết tình yêu và hình bóng em đã nuôi sống cuộc đời tật nguyền của anh.

 Hai người dìu nhau ra ngồi trên băng đá trước hiên nhà. Gió đi lào xào trên tàng cây vú sữa xum xuê trước ngõ, với giọng xúc động, Tân kể lại diễn biến cuộc hành quân sang Lào… và đơn vị Tân bị tràn ngập bởi thiết giáp đối phương, Tân bị đạn đại liên tiện đi mất chân trái! Tân bị bắt làm tù binh, và bị giam cầm 13 năm tại các tỉnh thượng du Bắc Việt, mười ba năm đầy nghiệt ngã, cách biệt với thế giới bên ngoài!

 Năm 1985 họ thả anh, về đây sống với đời buồn tủi tật nguyền, hằng ngày anh đi bán vé số! Hai mẹ con sống cuộc đời cháo rau túng thiếu trong căn nhà kỉ niệm của ba anh, người sĩ quan dù đã chết trong trận Điện Biên Phủ.

Quỳnh cũng kể cho Tân nghe! Từ năm 1972 sau nhiều lần hỏi thăm, kiếm tìm, đơn vị cho biết Tân đã mất tích.

Tháng 4 năm 1975 gia đình nàng di tản và định cư tại Canada; cha mẹ nàng đã qua đời! Nàng làm việc ở một bệnh viện, em trai nàng đỗ bác sĩ đã lập gia đình được hai con.

Riêng Quỳnh vẫn ở vậy. Em nghĩ rằng anh đã chết và em sẽ sống với hình bóng anh suốt cuộc đời này. Bây giờ đang ngồi bên anh em cứ nghĩ mình nằm mơ.

Tân cúi xuống, vén tóc Quỳnh, hai người hôn nhau say đắm! Một nụ hôn của ba mươi năm và dài bằng nửa vòng trái đất.

Buông nhau ra, Quỳnh nũng nịu:

– Em muốn anh đàn và hát cho em nghe.

Tân gật đầu và Quỳnh vào nhà mang đàn ra. Dáng hao gầy, gương mặt nhiều nét kỷ hà học, dạo phiếm và Tân cất tiếng hát! Lời bài hát của một thi sĩ té lầu chết trong một cơn say và Phạm Duy phổ nhạc:
“Phố núi cao phố núi đầy sương
Phố núi cây xanh trời thấp thật buồn
Anh khách lạ đi lên đi xuống
May mà có em, đời còn dễ thương…”

 Tân có ngón đàn thật điêu luyện! Giọng hát khàn đục chất ngất nỗi niềm, xoáy tận vào tim Quỳnh; xuôi về thành phố núi của những cô gái má đỏ môi hồng, mái tóc ướt mềm! Thành phố đi năm phút đã về chốn cũ và trong khách sạn Bồng Lai, trên chiếc giường ra trắng muốt, nàng đã trao thân cho Tân trong một đêm mưa kéo dài.

 Trời thật khuya! Trăng thượng tuần sáng vằng vặc. Quỳnh theo Tân vào phòng! Chiếc giường ngủ trải chiếu bông! Quỳnh ngất ngây trong vòng tay Tân! Mùi đàn ông, mùi nếp non rạ mới đã làm Quỳnh phiêu diêu trong hoan lạc tột cùng. Rõ ràng “đêm nay mới thật là đêm – ai đem trăng sáng trải lên vườn chè”.

 Suốt ba tuần lễ ở nhà Tân! Quỳnh và mẹ Tân đi sắm đồ trang trí lại nhà cửa theo sự yêu cầu nhiều lần của Quỳnh. Quỳnh thuê một chiếc xe du lịch đưa mẹ, Tân và Quỳnh ngắm cảnh Ao Bà Ôm, Tân chỉ cho Quỳnh nơi chú Đạt hôn cháu Diễm trong phim Yêu của Chu Tử do tài tử Anh Ngọc và Thanh Lan đóng. Những hàng cổ thụ, rễ nhô cao trên mặt đất! Mặt hồ gió mát! Phong cảnh tuyệt vời. Ba người cũng đi ngắm biển Long Toàn với những đồi cát chập chùng và những bữa ăn cua luộc ngon nhớ đời.

Bên Quỳnh, Tân như trẻ lại! ăn nói hào sảng như ngày nào khoác áo hoa rừng và đội chiếc mũ nâu.

 Khỏi phải nói! Mẹ Tân thương Quỳnh qua cách đối xử phải đạo của nàng! Nhiều lần bà cảm ơn Quỳnh đã mang về đây niềm vui, hạnh phúc cho Tân! Đứa con trai duy nhất và cũng là tài sản của đời bà.

 Riêng Quỳnh, sau nhiều đêm ngỏ lời! Trước khi chấp nhận, Tân hỏi Quỳnh suy nghĩ kỹ chưa khi chọn một người tật nguyền làm chồng.

 Quỳnh chọn căn nhà cũ kỹ! Có giếng nước mát lạnh, tàng cây vú sữa cho bóng mát suốt ngày, làm nơi cư trú suốt đời bên tình yêu nồng nàn của Tân.

 Quỳnh cùng Tân dạo phố! Không một mặc cảm ngại ngùng nào “bên người yêu tật nguyền chai đá”. Trái lại, Quỳnh còn thầm hãnh diện có người chồng đã hy sinh một phần thân thể cho quê hương đất nước.

 Trước khi Quỳnh trở lại Canada, gia đình Tân tổ chức một bữa tiệc, mời một ít bà con và một số hàng xóm cạnh nhà để tuyên bố lễ cưới giữa Tân và Quỳnh. Mọi người đều cảm động trước mối tình nồng thắm, cách chia gần ba mươi năm của hai người. Trong tiệc cưới, mẹ Tân đã không cầm được nước mắt khi nhìn thấy hạnh phúc của con trai mình.

 Ba tháng sau, trên chuyến bay Cathay Pacific Airline, Quỳnh đã thu xếp mọi việc ổn thỏa để trở về sống suốt đời ở Việt Nam bên cạnh Tân – chồng nàng.

Khách cùng chuyến bay ngưỡng mộ nhìn Quỳnh, tay xách túi nhỏ và vai mang một hộp da như đựng nhạc khí kèn đồng.

Trong quầy khám hành lý! Nhân viên hải quan hách dịch hỏi nàng:

– Sao không thấy bà kê khai hộp da bà mang trên vai. Chúng tôi được lệnh khám xét.

Quỳnh mở dây kéo! Mọi người đều ồ!!! lên một tiếng, ngạc nhiên bên trong lót lớp nỉ đỏ! Không có thứ nhạc cụ nào cả mà là một cái chân giả tuyệt đẹp.

– Bà mang chân giả này về cho ai? Nguyên do nào người này bị tật? Viên hải quan gắt gỏng.

Quỳnh trả lời một cách bình tĩnh:

– Nếu ở phi trường nước khác, tôi sẽ từ chối trả lời câu hỏi này. Nhưng ở đây tôi xin trả lời ông: Tôi mang chân giả này về cho chồng tôi! Anh bị thương trong cuộc hành quân Lam Sơn 719 ở chiến trường Hạ Lào.

– Sau một lúc bàn thảo! Hải quan đồng ý cho Quỳnh đi. Đẩy xe hành lý bước nhanh một đỗi, Quỳnh còn nghe rõ câu nói hằn học lớn tiếng sau lưng:

 Mẹ nó! Mấy thằng thương binh ngụy bây giờ có giá dữ ha!!!

Quỳnh mỉm cười bước nhanh khi nhìn thấy Tân và mẹ vẫy tay chào nàng ngoài khung của kính bên kia đường./.

Tường Lam

From: TU-PHUNG

LẠ THẬT – Tác giả Hồng Thủy

LẠ THẬT

Hồng Thủy (Tác giả)

Đang ngồi đọc báo, Phong giật mình vì tiếng la của Vợ:

– Đã nói Anh bao nhiêu lần rồi, đôi vớ cởi ra, nếu dơ thì cho vào giỏ trong phòng giặt. Nếu sạch thì bỏ lại vào trong đôi giày tử tế. Tại sao Anh cứ vứt lung tung cạnh đôi giày là thế nào!

Phong trả lời mắt vẫn không rời tờ báo:

– Em cứ tưởng Em sạch lắm mà thật ra Em chả sạch tí nào. Đôi vớ mới cởi ra còn mồ hôi phải để bên ngoài cho nó thoáng, để vào trong giày thì kinh chết, sẽ có mùi không thơm tí nào.

– Nếu sợ dơ sao không bỏ giặt?

– Nhưng mà nó chưa dơ, mới đi lần đầu có vài tiếng đồng hồ, để nó thoáng một lúc là sạch ngay có gì đâu mà phải giặt?

Hương vùng vằng đi vào trong bếp, miệng lầm bầm:

– Nhà lúc nào cũng bừa bộn, vừa dọn xong lại bày ra ai mà chịu được. Một ngày phải rửa cho Anh không biết bao nhiêu cái ly. Uống xong ngụm nước lại vứt cái ly đó. Một lát lại lấy ly mới ra rót nước. Uống xong lại bỏ, rồi lại lấy ly mới. Một mình mà xài cả đống ly!

– Sao Em nói nhiều thế! Anh muốn yên tĩnh đọc báo một chút cũng không được.

– Nói nhiều mà còn bừa thế này, không nói nhà sẽ như cái chuồng heo.

– Chuồng heo yên tĩnh còn sướng hơn, nhà sạch mà phải nghe cằn nhằn tối ngày.

– Anh bỏ cái giọng cãi chầy cãi cối đi có được không?

Thấy giọng Hương có vẻ gay cấn, Phong cầm tờ báo bỏ lên lầu.

Hai mươi phút sau lại nghe thấy tiếng bước chân trên cầu thang, Phong bắt đầu thấy hồi hộp, bỏ mẹ, Mụ này lại mò lên, sắp mở máy nữa rồi. 

Y chang,  giọng Hương léo nhéo trong buồng tắm:

– Tại sao mỗi lần dùng toilette xong Anh không làm ơn bỏ cái giá để ngồi xuống, cứ để dựng đứng là thế nào! Phải nghĩ đến Vợ mình còn dùng nữa chứ. Bộ muốn tôi cũng đứng tè à!

Phong phì cười:

– Nếu Em đứng tè được cũng nên lắm. Bỏ cái đó xuống nặng nhọc lắm hay sao mà Em phải la um sùm vậy?

Hương lườm Chồng:

– Không nặng nhọc sao Anh không làm?

– Tại Anh quên!

– Quên khôn quá vậy! Lâu lâu quên còn được, đằng này quanh năm ngày tháng quên.

Phong xuống giọng làm lành:

– Hôm nay Anh nghe đủ rồi. Nói ít thôi anh còn nhớ được, lần sau sẽ chừa. Nói nhiều quá Anh không nhớ hết nổi, lại mất công nói nữa.

Hương cười:

– Em nói một câu nữa thôi. Sao Anh hay quên tắt đèn vậy? Tối hôm qua Anh để quên đèn trong phòng computer cả đêm, như vậy thì chết tiền điện.

– Sorry, lần sau Anh sẽ nhớ.

Sợ Hương sẽ nói thêm gì nữa, Phong vội lỉnh xuống nhà. Vừa bật tivi lên chưa kịp coi, giọng Hương đã lanh lảnh ở cầu thang:

– Dùng điện thoại xong không bao giờ thèm bỏ vào cái base của nó để charge. Cứ vứt lung tung, đến lúc người ta dùng thì hết pin.

Phong lờ đi như không nghe thấy cho yên chuyện, chàng làm bộ chăm chú nhìn vào ti-vi.

Hương ngồi xuống cạnh Chồng :

– Em vừa nói gì Anh có nghe không?

Phong làm bộ ngạc nhiên:

– Không, tưởng vụ tắt đèn là vụ chót rồi nên Anh không để ý.

– Anh đừng có vờ vịt, Em nói to chứ có nói nhỏ đâu. Em muốn Anh nhớ đừng vứt điện thoại ở ngoài như vậy nữa.

Phong bực mình nói to:

– Ô kê, ô kê, ô kê.

Biết chồng cáu, Hương yên lặng bỏ vào trong bếp. Nàng nghĩ thầm Đàn ông lạ thật, mình nói toàn những cái đúng, có gì sai đâu mà cũng bực mình là thế nào. Sao chả biết phục thiện gì cả!

Đang bực mình nên Phong không sao chăm chú coi ti vi được. Tự nhiên chàng muốn đi ra ngoài cho thoải mái. Thấy chồng mở cửa bếp đi ra garage Hương vội hỏi:

– Anh đi đâu vậy?

– Anh đi ra ngoài một chút.

– Trời lạnh sao Anh không mặc áo ấm vào?

– Anh quên.

Phong quay lại lấy cái áo khoác da, Hương nghĩ thầm quên, quên, cái gì cũng quên, quên như vậy ốm ai lo. Nghĩ thôi chứ Hương không dám nói ra sợ Chồng lại cáu.

Thấy Vợ đứng tần ngần, Phong thương hại, giọng chàng dịu xuống:

– Anh ra Safeway mua bánh mì, Em cần mua gì không?

Hương vui vẻ:

– Em cũng định ra Safeway xem có chậu Cúc nào đẹp không mua về chưng Tết.

Nghe tới Tết Phong giật mình:

– Sắp Tết rồi cơ à!

– Tuần tới rồi.

– Nhanh quá nhỉ!

Sợ Hương đòi đi chung, Phong bước vội ra cửa:

– Để Anh xem, nếu có Cúc Đại đoá đẹp Anh sẽ mua, Cúc hoa nhỏ chán lắm.

Vừa lái xe Phong vừa suy nghĩ Vợ mình cái gì cũng được, xinh đẹp, giỏi giang, chỉ có tật tối ngày cằn nhằn Chồng. Mấy cái tiểu tiết đó, có đáng gì đâu mà phải cáu kỉnh lèm bèm. Chồng quên thì Vợ làm dùm, chết chóc gì mà lúc nào cũng phải la toáng lên, Lạ Thật!

Thoát được Vợ rồi Phong thấy nhẹ cả người. Chàng biết Hương muốn cùng đi với Chàng ra chợ, nhưng Phong ớn đi xe chung với Hương lắm. Ngồi bên nhau thế nào Hương cũng có một cái cớ gì đó để cằn nhằn. Chẳng hạn như xe gần hết xăng rồi sao Anh chưa chịu đổ. Này, này, có người sắp đi qua đường kia kìa, coi chừng đấy nhé. Sao anh lái nhanh quá vậy.. vv…  Có lần Phong đang hứng chí nói chuyện, tưởng Hương chăm chú nghe, ai dè Hương cắt ngang bằng một câu lãng xẹt làm Phong vừa giận vừa mất hứng.

– Anh chú ý lái xe đi, đừng nói nữa, sắp sửa đến exit rồi đó. Lần trước Anh ham nói chạy lố luôn, Anh nhớ không?

Thật ra những cái Hương nhắc đều đúng, nhưng không hiểu sao, giọng nói và lối nói của Hương làm Phong rất khó chịu.

Đi chợ, Phong thích nhất là chỗ bán thịt nguội và đủ thứ fromage. Cứ mỗi lần Phong vừa đụng vào miếng pâté nhập cảng từ Canada là Hương nói liền, cholesterol của Anh cao lắm mà cứ thích ăn pâté với fromage. Phải tránh mấy thứ đó đi mới được.

Hôm nay đi chợ một mình, Phong quyết định phải mua cả pâté lẫn fromage. Lâu lâu ăn một lần chết chóc gì mà sợ. Ăn rồi, uống rượu chát nó sẽ tan đi. Phong thấy mình vui và hí hởn như một đứa con nít. Đi ngang chỗ bán café Starbucks, mùi café thơm lừng thật hấp dẫn. Phong ghé vào mua một ly café. Nhìn quanh quất, những cái bàn vuông nhỏ và ghế xung quanh đều có người ngồi hết, ngoại trừ một cái bàn, có một người đàn bà trẻ ngồi còn dư hai ghế. Phong ngập ngừng, chưa biết có nên hỏi xin phép ngồi xuống đó không thì Bà ta đã lên tiếng:

– Ông có thể ngồi vì 2 ghế đó trống, không có ai ngồi cả.

Phong nói cám ơn và ngồi ngay xuống. Người đàn bà vui vẻ bắt chuyện. Bà ta tự giới thiệu làm nghề Realtor và than lúc này nhà bán rất chậm. Phong cũng cho biết chàng mới về hưu được mấy tháng nay, đang quyết định không biết có nên volunteer làm một việc gì không, cho đỡ cảm thấy buồn chán. Bà ta rủ Phong ghi tên vào câu lạc bộ thể thao mà Bà ta là một thành viên trong Ban Quản Trị.

Bà ta nói, có nhiều chương trình rất hay và bổ ích. Trước khi cáo từ, Bà ta bắt tay Phong, đưa cho chàng tấm danh thiếp, nhìn Chàng bằng đôi mắt thật đẹp và ướt át cộng với nụ cười thật tươi:

– Hy vọng sẽ được gặp lại Ông ở câu lạc bộ thể thao mà tôi vừa giới thiệu với Ông. Tôi bảo đảm với Ông, Ông sẽ không có một chút thì giờ nào trống để cảm thấy nhàm chán.

Người đàn bà quay lưng đi, Phong nhìn theo, Bà ta có dáng người thật cân đối. Đôi mông lắc lư theo nhịp đi vội vã trông rất hấp dẫn. Phong đọc nhanh tấm danh thiếp cầm trong tay. Helena Fitzgerald, chàng đoán Helena khoảng gần 50. Bỏ tấm danh thiếp vào túi, Phong ngạc nhiên thấy mình bỗng dưng huýt sáo một điệu nhạc thật vui.

Lâu lắm rồi mình đâu có huýt sáo. Lạ thật ấy nhỉ!

Phong đi ngay vào chổ bán hoa, mấy chậu cúc vàng tươi, bông nở thật lớn như đang chào đón Phong. Chàng chọn ngay hai chậu nhiều hoa nhất và nghĩ thầm Hương sẽ thích lắm đây.

Điện thoại reo, giọng Hương lanh lảnh ở đầu dây:

– Cái Valise cũ mình mang từ Việt Nam qua hồi 75 đâu rồi Anh?

– Anh vứt đi rồi, sao tự nhiên Em lại hỏi tới cái valise cũ mèm đó!

– Em dọn nhà ăn Tết, phải chuyển bớt một ít đồ xuống basement nên mới biết cái valise đã biến mất rồi. Em không tưởng tượng được Anh có thể vứt cái valise đó đi.

– Nó cũ quá đến nỗi lên mốc hết cả phía ngoài, không vứt đi thì để làm gì! 

– Anh là người không có trái tim.

Nói xong Hương cúp điện thoại cái rụp.

Phong ngạc nhiên không hiểu sao tự nhiên Vợ chàng lại giận dữ chỉ vì chàng vứt đi một cái valise cũ. Chàng nhìn hai chậu Cúc vàng tươi một cách chán nản. Tưởng mua hai chậu Cúc này về, Hương sẽ mừng húm và cảm ơn chàng rối rít.

Nhưng cái điệu này là không êm rồi. Hai chậu Cúc chẳng bù được tội lỡ vứt đi cái valise vừa cũ vừa dơ vì đầy mốc. Lạ Thật, đúng là mình lấy phải mụ điên. Phong than thầm như vậy. Vứt cái valise cũ đi, chứ có phải vứt mấy đứa con xuống sông như thằng cha báo mới loan tin đâu, mà lại bị mắng là không có trái tim. Phong cứ lập đi lập lại 4 chữ đó, cuối cùng chàng bỗng nổi xung thiên nói một mình: “Không có trái tim thì ông cóc về nhà nữa. Thay vì về nhà nghe cằn nhằn, mình đi thẳng đến cái câu lạc bộ thể thao mà Helena giới thiệu xem sao”. Nghĩ là làm. Một tiếng đồng hồ sau Phong đã trở thành hội viên của Câu lạc bộ Khoẻ và Vui. Chàng lái xe về nhà với ý định lấy quần áo thể thao và trở lại Câu lạc bộ tập liền ngay ngày đầu xem sao. Chàng chợt nghĩ đến phản ứng của Hương, chắc Hương ngạc nhiên và bực mình lắm, vì chàng đã tự ý quyết định mà không hỏi ý kiến Vợ. Who cares; Phong mệt mỏi lắm rồi. Cằn nhằn là nghề của Hương mà, Phong nghĩ vậy.

Chàng bước vào nhà chờ Hương la hét vì tội vứt valise cũ đi. Phong ngạc nhiên thấy Hương ngồi yên lặng trong bếp như một con mèo nhỏ, hai mắt đỏ hoe. Hương làm bộ như không biết sự có mặt của Phong. Nàng chẳng nói chẳng rằng.

– Em sao vậy?

Phong hỏi nhẹ nhàng.

– Chả sao cả, giọng Hương thật lạnh.

– Chả sao cả, mà sao mắng người ta là không có trái tim. Nói cho Anh biết, tội vứt cái valise cũ đã lên mốc là tội nặng lắm à!

Hương vẫn im lặng không trả lời. Phong cáu tiết:

– Em điên vừa vừa chứ, không thôi Anh để Em ở một mình đó. Anh chịu hết nổi rồi.

Nói xong Phong bỏ lên lầu lấy quần áo. Khi Phong trở xuống thì Hương đang gục đầu xuống bàn khóc tấm tức. Phong càng điên thêm nữa, chàng gay gắt hỏi:

– Ai làm gì mà khóc mới được chứ . Mắng người ta cho đã rồi lại khóc thì lạ thật!

– Anh đúng là người vô tình, Anh không biết quí kỷ niệm gì cả .

Phong hơi chột dạ:

– Tại sao Em nói vậy?

– Anh có nhớ cái valise đó là cái valise kỷ niệm, hai Vợ Chồng mình đã chọn mua sau ngày cưới để đi hưởng tuần trăng mật ở Đà Lạt không?

– Anh quên mất, nhưng nó cũ và lên mốc hết rồi. Thôi, Anh xin lỗi.

Phong phải nói vậy cho Vợ vui lòng, chứ Phong đang nghĩ thầm:

– Cái thằng chồng lù lù đây không lo o bế, lo tiếc cái valise cũ mèm, rồi cằn nhằn cửi nhửi làm to chuyện, Lạ Thật! Phong có biết đâu, chả riêng gì Phong và Hương. Tất cả những cặp Vợ Chồng trên cái cõi đời này, trong cuộc sống chung, không biết bao nhiêu ngàn lần, họ phải thốt ra hai chữ Lạ Thật.

Thực ra, hai người một trai một gái, sinh ra trong một gia đình cùng Bố Mẹ, cùng máu mủ, cùng chung sự giáo dục, mà tính nết còn khác biệt nhau. Nhiều khi anh em còn không hợp với nhau, không chịu đựng được nhau. Huống hồ hai người xa lạ, sinh trưởng trong hai gia đình khác hẳn nhau. Hoàn cảnh và sự giáo dục hoàn toàn khác biệt. Bỗng dưng họ gặp nhau, hai trái tim đập loạn xà bèng, nói một cách văn hoa là hai trái tim đập chung một nhịp, rồi họ yêu nhau, lấy nhau. Trong cuộc sống chung, những thơ mộng êm đềm của ngày mới cưới rất ngắn ngủi. Sau đó, các cô cậu nhóc tì ra đời, bao nhiêu vất vả, lo lắng, muộn phiền trong cuộc sống. Chưa kể những suy nghĩ khác nhau giữa đàn ông với đàn bà. Vậy mà Họ vẫn sống được với nhau, vẫn cố gắng san bằng những khác biệt, để mái ấm gia đình được bền vững, thì quả thật là một điều khiến ai cũng phải thốt ra 2 chữ lạ thật, chứ chả riêng gì những người trong cuộc./.

Hồng Thủy (Tác giả)

From: TU-PHUNG

CÂU CHUYỆN VỀ HAI VỊ THIỀN SƯ

CÂU CHUYỆN VỀ HAI VỊ THIỀN SƯ

Có một vị thiền sư trú trong túp lều tranh ở trên núi, một buổi tối khi đi thiền hành trở về, nhìn thấy một tên trộm đang chiếu cố túp lều tranh của mình nhưng tìm không được vật gì cả. Ngài bèn cởi chiếc áo ngoài đang mặc trên người và đứng ngoài cửa đợi tên trộm ra, vì ngài sợ làm kinh động tên trộm.

Tên trộm vừa quay ra thì gặp thiền sư, trong lúc tên trộm hốt hoảng vị thiền sư liền nói: “Anh bạn! đường sá xa xôi vất vả lên núi thăm tôi, tôi không đành lòng để anh về tay không, đêm khuya rồi, khoác chiếc áo này mà về cho đỡ lạnh. Nói xong ngài cầm chiếc áo khoác lên thân tên trộm. Tên trộm xấu hổ, cúi đầu rồi chạy thẳng xuống núi không dám nhìn lại.

Thiền sư nhìn dáng tên trộm khuất dần trong núi rừng mờ mịt, không ngừng thương cảm nói: “ rất đáng thương, tôi muốn tặng cho anh cả vầng trăng để chiếu sáng con đường cho anh xuống núi.

Vài hôm sau, khi thiền sư đang mở to đôi mắt nhìn ánh bình minh xuất hiện, thì nhìn thấy chiếc áo mà ngài khoác lên thân tên trộm mấy hôm trước đó được xếp rất ngay ngắn đặt trước cổng, thiền sư vui vẻ nói : “ Cuối cùng thì ta cũng đã tặng anh ta cả vầng trăng sáng rồi”.

Lại có câu chuyện khác cũng tương tự. Trong thiền viện của thiền sư Tiên Nhai, có một vị học tăng rất ham chơi, vị này không chịu nổi cái cảnh vắng lặng yên bình của chốn thiền môn. Vào những buổi tối vị tăng sinh này thường ra vách tường sau chùa, đặt một cái ghế để leo qua tường ra bên ngoài chơi.

Sau khi thiền sư biết được, ngài không nói với ai. Một lần, vị tăng sinh này trèo tường trốn đi chơi, ngài đi theo phía sau và đem chiếc ghế để qua một bên rồi ngồi vào chỗ đó đợi vị học tăng trở về. Đêm khuya vắng vẻ, vị học tăng trở về, không biết chiếc ghế đã bị di chuyển nên vẫn leo qua vách tường và thò chân xuống ghế như mọi khi để vào chùa, nhưng khi vừa đặt chân xuống thì cảm thấy chiếc ghế dưới chân mình sao mềm mại là lạ, cúi xuống nhìn thì hoá ra mình đang đứng trên vai vị thiền sư thầy mình. Lập tức vị học tăng hồn bay phách tán quỳ xuống nói không ra lời. Thiền sư liền đỡ vị học tăng đứng lên và nhẹ nhàng nói : “Đêm khuya sương nhiều, cẩn thận chứ ướt lạnh hãy nhanh vào phòng nghỉ ngơi.”

Sau khi về phòng vị tăng sinh cứ phập phồng lo sợ không yên, trắng đêm không ngủ, lo sợ thiền sư sẽ trách phạt mình trước mặt đại chúng. Nhưng sự việc thì ngược lại, cứ ngày ngày trôi qua, thiền sư không nhắc đến chuyện, cũng không nói cho ai biết. Vị tăng trẻ tự trong lòng cảm thấy rất hổ thẹn vô cùng, từ đó về sau không dám trốn ra ngoài chơi mà quyết chí tu học, cuối cùng trở thành một vị tăng nổi tiếng đương thời.
Nếu bạn là thiền sư bạn sẽ xử lý thế nào với hai sự việc như thế? Tôi nghĩ, trong câu chuyện thứ nhất. Những người bình thường thì sẽ cùng tên trộm vật lộn hoặc sẽ la lớn lên “Trộm, trộm…”. Câu chuyện thứ hai, đối những với người bình thường thì sẽ đem lỗi của vị học tăng nói trước mặt mọi người, sau đó sẽ có hình thức trách mắng quở phạt riêng cho vị ấy.

Nếu làm như vậy kết quả sẽ như thế nào nhỉ? Tôi nghĩ có thể xảy ra hậu quả thế này, câu chuyện thứ nhất: Tên trộm sẽ đánh bị thương hoặc giết chết vị thiền sư hoặc có thể vị thiền sư đánh tên trộm bị thương và tên trộm sẽ trở lại trả thù thiền sư vào một ngày gần đó. Câu chuyện thứ hai, sau khi vị học tăng bị quở phạt trước mọi người sẽ cảm thấy rất xấu hổ với bạn bè, trong lòng buồn phiền thối chí tu học cuối cùng trở thành con người bình thường, và có thể từ bỏ lối sống thiền môn.

Hai vị thiền sư này xử sự không giống những người bình thường như chúng ta, mà lấy sự khoan dung đại trí, đại bi để thay đổi một tên lãng tử thành vị danh tăng. Con người không phải là thánh nhân nên tất nhiên có những sai trái, đối với những người phạm lỗi chúng ta nên có thái độ rộng lượng khoan dung.

Im lặng mà hơn cả to tiếng trách móc đây là phương pháp giáo dục tốt nhất.

Khoan dung là một phẩm chất đạo đức tốt, khoan hồng tha thứ lỗi cho người giống như ngọn gió mùa xuân mang mưa xuân đến thấm nhuần cây cỏ làm vạn vật thêm xanh tươi. Khoan dung còn hơn cả vàng, khoan dung là một phẩm chất không thể thiếu trong mỗi con người chúng ta.

From: Đo Tan Hung & Kim Bang Nguyen

PHÉP NHIỆM MẦU CÓ THẬT

PHÉP NHIỆM MẦU CÓ THẬT

(Chuyện khó tin nhưng có thật)

Tôi sinh ra không biết cha mẹ mình là ai. Từ bé tí, tôi đã ở cũng với mõ già trong một ngôi chùa ở làng. Mọi người vẫn quen gọi nơi đây là chùa làng, nhưng nó bé lắm, do làng xây dựng từ thời xa xưa để cho bà con dân làng thờ Phật. Phía ngoài chùa có một am nhỏ mõ nói là thờ Thành Hoàng làng, và một cái chái phía bên cạnh am để cho mõ già và tôi ở.

Chùa làng không có sư, chỉ có mõ già được làng cắt cử ra trông coi chùa. Có việc lễ cúng gì thì người làng gọi mõ, sai mõ sửa soạn để các cụ trong làng ra cúng. Mõ không phải làm nghề đi thông báo công việc của làng xã, nhưng không hiểu sao người làng lại gọi là mõ.

Mõ già kể mõ nhặt được tôi trước cổng chùa. Người mẹ nào đó nhẫn tâm bỏ tôi lại trước cửa chùa không một mảnh vải che thân, dây rốn còn dài lòng thòng chưa kịp cắt. Thân thể mình mẩy tôi dính đầy máu, gọi kiến đen kiến đỏ kéo nhau đến bu kín. Lúc ấy là canh ba, tôi khóc như xé vải, mõ già nghễnh ngãng, tai đực tai lành, chẳng nghe thấy tiếng trẻ con khóc trước cửa chùa đâu.

Mõ nói, như có trời xui đất khiến, đêm ấy mõ không ngủ được nên lần ra cửa chùa. Nhìn thấy một bọc máu đỏ hỏn, ngo ngoe dưới chân, kiến bu đen bu đỏ, mõ giật mình. Bế tôi lên, mõ xót xa chửi rủa quân vô lương, phường chó sói, hổ dữ còn không ăn thịt con thế mà có đứa nó dám đẻ con rồi vứt cho kiến ăn.

Tôi thành con của mõ già, sống cùng mõ trong ngôi chùa làng. Mõ dạy tôi trồng lúa, trồng rau, nuôi gà để lấy cái ăn. Ngày rằm mồng một, trong làng có ai cúng nải chuối, đĩa xôi thì hôm đó hai mõ con có chút thức ăn tươi tỉnh.

Tôi lớn lên tự biết thân phận bất hạnh của mình, một mắt tôi bị mù do kiến đục sâu vào thủy tinh thể hồi lọt lòng. Tôi lại bị khèo một tay nên mõ thương tôi lắm. Mõ già chăm bẵm tôi, mỗi lần tắm cho tôi, mõ lại than thở, chắc khi đẻ ra nó biết mày mù mắt khoèo tay nên nó sợ nuôi mày sẽ vất vả, cho mày làm người lớn lên sẽ tủi nhục con ạ, nên con mẹ mày mới ngậm đắng nuốt cay bỏ mày đi để hóa kiếp cho mày. Ai ngờ số mày không làm ma được mà phải làm người con ạ. Thôi gắng sống cho nên người. Con người ta có số cả, ông trời không lấy của ai hết tất cả đâu mà lo!

Đó là câu cửa miệng mõ già luôn nói với tôi: “Ông trời không lấy của ai hết tất cả mọi thứ đâu con” để động viên tôi ráng vượt lên hoàn cảnh.

Tôi dứt khoát không đi học, vì mặc cảm thân phận. Mõ thương tôi, không nỡ ép. Mõ già dạy tôi biết tính nhẩm cộng trừ con số đủ để đi chợ bán rau không bị nhầm tiền. Mõ dạy tôi biết đọc và biết mỗi việc ký tên tôi nếu phải dùng đến chữ ký trong trường hợp nào đó mà không phải điểm chỉ như những người mù chữ thực sự. Mõ nói, mõ chỉ có thể dạy tôi được đến thế, và đó cũng là tất cả những vốn liếng văn hóa mà mõ có được thời bình dân học vụ. Mõ trút lại hết cho đứa bé côi cút tội nghiệp là tôi.

Mõ già lắm rồi, đau yếu quanh năm nên mọi việc trông nom trong chùa và công việc đồng áng một mình tôi gánh vác. Mõ không có chồng, không có con. Mãi sau này, khi giờ phút lâm chung, mõ mới nói cho tôi biết rằng, mõ có chồng nhưng hai người cưới nhau chưa kịp có con, chồng mõ đi bộ đội rồi hy sinh ở chiến trường. Mõ ngã quỵ vì buồn đau, ốm một trận thập tử nhất sinh. Nhà chồng đưa mõ ra ngôi chùa làng để sư thầy trông coi chùa có nghề thuốc nam, thuốc thang cứu mõ.

Khỏi bệnh, mõ xin phép nhà chồng và nhà mẹ đẻ được ở lại chùa hầu hạ công việc tâm linh cho sư thầy. Vậy là mõ rời nhà đến chùa làng ở, coi như xuống tóc đi tu. Thật ra mõ chỉ nhận mình là mõ, chưa bao giờ mõ nhận mình là sư, vì mõ biết con đường tu tập phải học nhiều mà mõ thì chẳng có kiến thức. Mõ chỉ ở đây giúp đỡ sư thầy thôi. Nhưng từ khi có mõ ở chùa làng, sư thầy ra đi vì đã có mõ để gửi gắm công việc ở làng.

Nghe nói sư thầy ra tỉnh để nhận trụ trì ở một ngôi chùa to hơn. Từ đó đến nay, chùa làng không có sư, chỉ có mõ sống thui thủi một mình ở chùa cho đến ngày nhặt được tôi.

Mõ chỉ lên bát hương đặt sau ban thờ Thành Hoàng làng và nói với tôi, hăm hai tháng chạp là ngày giỗ của chồng mõ, sau này mõ khuất núi, con nhớ thắp hương cho linh hồn ông ấy khỏi tủi phận.

Mỗi lần mõ ốm là tôi lại khóc vì sợ mõ chết, bỏ tôi lại một mình. Mõ thương tôi, nước mắt đục rỉ ra từ hai khóe mắt nhăn nheo. Mõ thều thào: “Ông trời không lấy đi của ai tất cả. Con cố gắng sống và kiếm đứa con mà nuôi. Người như con lấy chồng chắc là khó, không ai người ta thương mình tàn tật đâu con. Kiếm lấy mụn con, sau này nương tựa lúc tuổi già”.

Mõ ốm nằm liệt giường 2 năm rồi mới mất. Có lẽ mõ thương tôi, đi không dứt nên cứ leo lắt sống để mỗi ngày lại bày dạy cho tôi thêm một việc quan trọng ở đời mà lúc sinh thời có thể mõ đã dại dột mà đánh mất. Cứ mỗi lần mõ định đi, mõ lại kêu tôi đến bên giường, thều thào cái điệp khúc ông trời không lấy đi của ai tất cả, cố gắng kiếm lấy đứa con để nương tựa, đừng sống một mình thui thủi như mõ…

Nhưng không ai cưỡng được sinh lão bệnh tử. Cuối cùng mõ cũng rời bỏ ngôi chùa làng và tôi để trở về cõi âm trong một ngày mùa đông hửng nắng. Tôi buồn đau đến nỗi không thể gắng gượng được để lo tang ma cho mõ. Hội người cao tuổi trong xã lo đưa mõ ra đồng an nghỉ ngàn thu.

Cuộc sống trong ngôi chùa hẻo lánh những ngày không có mõ buồn hiu hắt. Năm đó tôi bước sang tuổi 18. Một mình trong ngôi chùa làng tôi vào ra thơ thẩn vì nhớ mõ. Tôi khóc nhiều lắm, khóc vì mất một người thân duy nhất để nương tựa trên đời. Mõ vừa là mẹ, vừa là cha, chăm sóc tôi từ khi tôi đỏ hỏn. Thế nên mất mõ, tôi thấm thía thế nào là mồ côi, là cô độc.

Năm đó, có thể là phép nhiệm màu đầu tiên của đời tôi đã xảy ra. Tôi vẫn chua chát nghĩ vậy mỗi lần nhớ đến sự kiện đó. Sau này càng ngẫm, tôi càng tin rằng mõ đã xui khiến cho tôi có sự gặp gỡ như vậy. Linh hồn mõ đã không bỏ rơi đứa con côi cút của mõ nhặt về. Sau này, trong tận cùng của cơn bĩ cực, tôi vẫn không một lần nào oán hận người đàn ông đã cho tôi một đứa con, dù đứa con đó đau ốm và bệnh tật từ trong trứng nước.

Tôi không một lần oán hận số phận, dù cuộc sống của tôi toàn những bất hạnh và buồn đau. Tôi tin lời mõ và luôn tâm niệm một điều, ông trời sẽ không lấy đi của ai tất cả.

Những ngày tháng sau cái chết của mõ, tôi rất buồn. Trong làng, các bậc cao niên sau cái chết của mõ già cũng đã họp và bàn bạc cử người ra trông chùa. Không thể để cho một đứa con hoang, lại là con gái, tàn tật như tôi không rõ gốc gác ở đâu, do mõ già nhặt về, giờ lại thay mõ coi sóc chùa làng được. Sớm muộn gì thì tôi cũng phải ra đi. Nếu tôi có ở lại thì cũng phải có người chính để coi chùa làng, tôi mới chỉ là một đứa con gái 18 tuổi, không thể đảm đương công việc soạn sửa ở chùa của làng. Nếu có thì tôi chỉ là làm những việc phụ giúp ở chùa làng thôi chứ không thể đứng ra thay mõ được. Điều đó khiến tôi càng buồn bã, mất phương hướng hơn.

Trong làng có một ông giáo già đã về hưu thường hay ra lễ chùa và cứ ngày rằm mồng một lại viết chữ nho cho dân làng ra xin sớ về dâng lễ ở gia tiên. Ông giáo dạy tôi chữ quốc ngữ để cho tôi biết đọc biết viết. Và điều gì đến đã đến. Tôi chưa kịp nghĩ đến việc sẽ xin ai đó một đứa con bầu bạn sớm hôm lúc tuổi già thì tôi đã bị chính ông giáo già cưỡng hiếp. Tôi cam phận và nhớ lời mõ dặn, thôi thì đây cũng là cơ hội cho tôi kiếm đứa con mà không phải mất công mất sức đi xin ở đâu xa, mà xin chắc gì thân phận tàn tật như tôi người ta đã cho.

Sau mấy lần cưỡng hiếp tôi, ông giáo già nói với tôi: “Ông được người làng cử ra trông chùa làng thay mõ. Ông thương mày côi cút, cho mày đứa con để bầu bạn lúc tuổi già. Mày có chửa thì đừng ở lại đây nữa mang tiếng cho cả ông và mày. Ông già rồi, có gia đình, con cháu đã phương trưởng ông không thể cưu mang mày được. Mày còn trẻ, ông cho mày ít tiền, ông dạy mày biết đọc biết viết rồi, mày ráng lên thành phố mà tìm cơ hội để làm việc sinh con làm lại cuộc sống, đừng có ở đây, mà chết già. Mày đi đi, đừng bao giờ trở về làng nữa mà tủi nhục con ạ”. Đau đớn và tủi nhục, tôi khăn gói quần áo và cầm ít tiền ông giáo chuẩn bị cho rồi ra đi.

Chưa một lần được hưởng lạc thú giữa đàn ông và đàn bà, hay được hưởng niềm hạnh phúc bình thường của một người con gái, một người đàn bà có một người đàn ông chăn gối cho đúng nghĩa, tôi đã mang thai và có con trong hoàn cảnh trớ trêu và bi kịch như vậy. Cắn răng lên thành phố, tôi xin việc ở một gánh chè trong ngõ. Ngày đi làm, tối về ngủ ở gầm cầu xó chợ. Khi cái bụng chửa đã vượt mặt, tôi đến cửa chùa xin được nương tựa để sinh con.

Nhưng chưa thấy ông trời thương tình ở đâu, chỉ thấy ông trời luôn tàn nhẫn với tôi, một số phận quá bất hạnh. Tôi sinh con trong thiếu thốn, bản thân thiếu hiểu biết, thiếu kỹ năng nên tôi đã không biết để tiêm phòng cho con. Con gái tôi lên 5 tuổi bị ốm một trận, hai chân teo tóp lại không đứng vững được nữa. Tôi đưa con đi khám mới biết con bị bại liệt do sơ sinh không được chủng ngừa đầy đủ. Nước mắt tuôn rơi, tôi ôm con mà chỉ muốn được đi ra cây cầu, đứng trên đó mà gieo mình xuống lòng sông để dòng nước cuốn mẹ con tôi trôi đi mãi, để tôi không phải sống kiếp người đau khổ…

Mình tôi tàn tật, tứ cố vô thân đã là cực khổ, tủi phận; đằng này, làm mẹ đơn thân, rồi lại sinh ra đứa con nhưng do thiếu hiểu biết, tôi đã vô tình làm hại con, tước đi cuộc sống bình thường lành lặn của con gái tôi, đó là một tội lỗi mà tôi không thể tha thứ cho bản thân được.

Khi bác sĩ giải thích căn bệnh bại liệt của con vô phương cứu chữa, và khả năng con phải đối diện với việc không còn đi lại được nữa, cả cuộc đời sẽ gắn liền với chiếc xe lăn mà tôi gần như ngất đi. Tôi ôm con trên tay, nước mắt tuôn rơi lã chã. Tôi không biết kêu ai, không biết than thở cùng ai. Tôi hận cuộc đời, hận chính bản thân mình, và tôi rơi vào tận cùng của tuyệt vọng. Tôi ôm con từ bệnh viện trở về nhà trọ đi như trôi trong vô định, mấy lần đứng sững trước làn đường ôtô đang chạy. Tôi chỉ muốn được chết.

Từ đó trở đi, tôi thường xuyên nghĩ đến cái chết. Tôi muốn kết thúc hết những đau khổ hiện tại để giải thoát cho cả hai mẹ con. Tôi không thể gắng gượng để sống tiếp. Tôi không dám nhìn vào đôi chân bại liệt của con, càng không dám hình dung con tôi sẽ lớn lên như thế nào trên chiếc xe lăn. Tôi khèo tay, đã đủ khổ, giờ con tôi hai chân không đi lại được, nó sẽ khổ cực gấp trăm lần tôi. Sau này tôi già đi, không đi làm được nữa, ai sẽ chăm sóc cho con tôi, ai sẽ nuôi nấng nó, ai sẽ bao bọc cho cuộc đời nó.

Chỉ nghĩ đến đấy thôi, nước mắt tôi đã lại tuôn rơi. Tôi không muốn tiếp tục với bể khổ trên vai. Tôi muốn tìm cách để kết thúc. Tôi sám hối trước con, bao nhiêu lần tôi ý định tự tử cùng với con nhưng mỗi lần bế con lên, nhìn gương mặt như thiên thần của con gái, nụ cười rạng rỡ của con, tôi không cầm lòng nổi. Không ít lần tôi ôm con gái tôi đi lên trên những chiếc cầu vắt qua sông Hàn với ý định sẽ nhảy xuống dòng sông chảy xiết để kết thúc những đau khổ ân hận. Nỗi ân hận giày vò tôi, hành hạ tôi, vì tôi mà con gái tôi tật nguyền, rằng tôi đã hại đời con gái mình một cách ngu xuẩn.

Chính sự thiếu hiểu biết của tôi mà con gái tôi mất đi sự cử động phát triển bình thường của một đôi chân. Càng nghĩ đến điều đó, tôi càng đau đớn, càng cảm thấy tội lỗi với con. Càng ân hận, lại càng nghĩ quẩn, vì thế tôi chỉ muốn được chết để giải thoát tất cả. Nhưng không biết có phải ông trời đã không lấy đi của ai tất cả như lời mõ già nói năm xưa không mà mỗi lần ôm con gái lên với ý định gieo mình xuống sông thì con gái tôi lại ngước ánh mắt trong veo ngây thơ nhìn tôi và nhoẻn miệng cười.

Con bập bẹ gọi mẹ, dụi mái đầu tóc tơ vào ngực tôi lần tìm bầu sữa mẹ. Con gái tôi gọi Mẹ! Mẹ! âu yếm như trong con chưa từng trải qua những cơn đau thể xác ở đôi chân. Con gái tôi vẫn lớn lên, với một sức sống mãnh liệt vô cùng. Con không đi được thì con bò, con lết chân rất nhanh và lúc nào cũng nhoẻn miệng cười với mẹ. Con gái tôi đã níu tôi lại với cuộc đời, ràng buộc tôi vào sự sống mãnh liệt của nó. Và tôi đã thua cuộc. Con gái tôi dù bị tật nguyền hai chân, con không chạy nhảy được, không chơi được cùng với các bạn cùng trang lứa nhưng con luôn tỏ ra là đứa bé lạc quan yêu đời.

Từ bé con đã như biết thân biết phận mình nên rất ít khi con quấy khóc. Con là đứa trẻ vui vẻ, thông minh và đáng yêu. Con cười suốt và luôn mang lại niềm vui cho tôi. Tôi cắn răng nuôi con lớn lên chấp nhận hoàn cảnh. Tôi mang con vào xin tá túc ở chùa. Ngày ngày tôi đi phụ bán chè, tối về lại vào chùa chăm con tìm chốn trú chân mưa nắng.

Con gái tôi thích đi học. Tôi không thể tước đoạt niềm khát khao của con. Hằng ngày tôi cõng con đến trường và chiều lại đến cõng con về. Suốt 5 năm cấp 1, dù mưa hay nắng, tôi đều dành thời gian để đưa con đến lớp mà không bỏ buổi nào trừ những hôm không may con bị ốm.

Lúc đầu tôi chỉ nghĩ cho con học đủ để biết đọc biết viết là được, rồi cho con ở nhà chăm sóc nuôi nấng giúp đỡ con, hai mẹ con nương tựa vào nhau mở gánh chè để sống. Nhưng con gái tôi rất thông minh, học giỏi xuất sắc, các thầy cô giáo rất yêu quý cháu và gần như miễn giảm hết các khoản nộp ở trường lớp để động viên con tiếp tục tới trường.

Nguyện vọng của con gái tôi là được tiếp tục học lên nữa nên tôi đã không thể tước bỏ ước mơ của con. Tôi đã tước bỏ đôi chân của con, làm cho con chịu đời sống tật nguyền, giờ đây tôi không có quyền để tước đoạt ước mơ của con. Nhà chùa nơi mẹ con tôi xin ghé nhờ tá túc người ta quyên góp mua tặng cho con gái tôi một chiếc xe lăn.

Từ đó khi con gái tôi lên cấp 2, con được bạn qua chùa đẩy xe lăn giúp con gái tôi tới trường. Niềm vui vì con ngoan, học giỏi đã giúp tôi vượt qua bao khó khăn cực khổ, giúp tôi vượt qua nỗi tủi hận về thân phận mình vốn đã chôn sâu trong tận cõi lòng.

Con gái tôi lớn lên như một phép màu cuộc đời đậu xuống cuộc sống khốn khổ và bất hạnh của tôi. Cùng với chiếc xe lăn con vượt qua bao gian khó để đến với những ước mơ của riêng con. Con vượt qua bao kỳ thi học sinh giỏi, qua bao thử thách của số phận để đón những điều tốt lành. Con thi đỗ vào Đại học Ngoại thương, một ngôi trường mà bao bạn bè lành lặn khác, có điều kiện sống tốt hơn con nhưng vẫn không với tới. Con trở thành sinh viên đại học trên chiếc xe lăn, và ngày tốt nghiệp đại học, con được một công ty lớn mời con về làm việc.

Thưa các anh các chị!

Từ ngày con gái tôi vào một công ty tài chính của nước ngoài làm việc, hai mẹ con tôi không phải tá túc ở chùa nữa, con gái đã đưa lương về phụ đỡ mẹ để mẹ có thể tìm chỗ thuê nhà. Tôi cũng đã mở được gánh chè trong hẻm bán cả ngày. Những đồng tiền dành dụm từ mồ hôi nước mắt của tôi từ gánh chè giờ không cần dùng đến nữa. Tôi tích cóp lại trong sổ tiết kiệm để mơ ước có một ngày mẹ con tôi mua được một gian nhà nhỏ trong thành phố để ở, để cho hai mẹ con an tâm có một chỗ của riêng mình.

Nhưng mơ ước chỉ là ước mơ thôi vì tiền lãi lời từ gánh chè có đáng là bao. Con gái đi làm lương đã có thể đủ trang trải cho cả hai mẹ con một cuộc sống không quá khổ nữa. Với đôi chân tật nguyền, chiếc xe lăn sớm tối, con gái bé nhỏ của tôi đã đến và bước vào đời sống này như một niềm ân huệ trời ban cho người mẹ đau khổ là tôi

Nhưng các anh chị ơi!

Phép nhiệm màu đã đến với mẹ con tôi không phải con gái tôi làm được tiền, hay có công việc ổn định, mà con tôi đã có một người đàn ông đích thực, một người đàn ông giàu yêu thương đã đến từ phía bên kia quả địa cầu và chia sẻ cùng con hành trình trên đường đời phía trước.

Ngày có một người đàn ông cao lớn, mắt xanh, tóc vàng đẩy xe lăn đưa con gái tôi về nhà và quỳ xuống nắm lấy hai bàn tay tôi nói bằng ngôn ngữ tiếng Việt rất sõi rằng: “Mẹ ơi, con xin phép mẹ cho con được yêu thương Nga và cưới cô ấy về làm vợ. Con nguyện cả đời chăm sóc và yêu thương cô ấy mẹ ạ” thì trái tim tôi vỡ òa ra nức nở.

Cả đời tôi không biết bố mẹ là ai. Cả đời tôi không được gọi một tiếng bố tiếng mẹ. Tôi chỉ có mõ già, lớn lên trong côi cút, hiu quạnh. Đời tôi chưa một lần được yêu đương, tôi có thai từ những lần bị ông giáo già cưỡng hiếp. Tôi sinh con gái ra trong tận cùng cay cực. Vì ám ảnh tội lỗi mình gây ra cho con, khiến cho tôi khép chặt lòng mình vĩnh viễn, tôi ở vậy để dồn tất cả tình yêu thương, mối quan tâm để nuôi dạy con nên người. Tôi cũng không bao giờ dám nghĩ đến chuyện con gái tôi có thể học lên được đại học, tốt nghiệp giỏi, rồi ra trường có được một công ty lớn mời về làm việc. Càng không bao giờ dám nghĩ đến chuyện con có được một chàng trai yêu thương và lấy làm chồng.

Nếu có mơ thì cũng chỉ dám mơ con gái tôi tìm được người cùng hoàn cảnh, thấu hiểu hoàn cảnh thiệt thòi của nhau mà có thể thương yêu nhau nên vợ nên chồng. Càng không bao giờ dám hy vọng có một người con trai khỏe mạnh lành lặn đường hoàng thương con gái tôi chứ chưa nói đến việc chọn con gái tôi làm vợ.

Ấy thế mà đứa con tật nguyền không nhà, không cha là bé Nga nhà tôi không những trở thành một nhân viên giỏi, được bạn bè đồng nghiệp quý trọng, con còn tìm được tình yêu của một người đàn ông xuyên biên giới. Cậu ấy là người Pháp, cùng làm việc trong công ty tài chính mà con gái tôi đang làm hiện nay, và chàng trai đó đã về tận ngôi nhà thuê trọ nhỏ bé trong hẻm để quỳ xuống xin phép tôi chấp nhận cho cậu ấy được lấy bé Nga làm vợ.

Kính thưa các anh các chị!

Cuộc đời tôi có là mơ không. Đám cưới của con gái tôi được các đồng nghiệp ở công ty tổ chức một bữa tiệc nhỏ ấm cúng ở Việt Nam. Bố mẹ con rể tôi bay từ Pháp sang dự tiệc và đến tận nhà trọ nơi hai mẹ con tôi ở để ăn bữa cơm thân mật do tôi tự tay nấu, các con tôi đang đi hưởng tuần trăng mật tại Phú Quốc. Bố mẹ chồng của con gái tôi đã bay trở về Pháp để chuẩn bị tổ chức tiệc cưới vào đúng ngày Valentin cho cả hai đứa ở bên Pháp. Vé máy bay mời dự đám cưới của con gái ở Pháp cũng đã được con rể tôi mua sẵn cho mẹ vợ rồi. Nhiều lúc tôi không dám tin đây là sự thật nữa.

Tôi viết những dòng chữ này để chia sẻ câu chuyện của đời tôi mà nước mắt tôi chảy giàn giụa. Tôi nhớ mõ già, người đã nhặt tôi ở cổng chùa về nuôi, người đã trao cho tôi một niềm tin mãnh liệt để sống, để vượt qua cay đắng tủi cực. Tôi nhớ mõ luôn động viên tôi: “Con hãy tin đi, ông trời không lấy đi của ai tất cả”. Tôi đã sống bằng niềm tin mong manh ấy. Tôi đã đến được bến bờ hạnh phúc cũng chỉ bằng một niềm tin bé nhỏ trong vũ trụ bao la này.

Thưa các anh các chị!

Tôi định khi các con ổn định sau đám cưới, tôi sẽ kể cho con gái tôi nghe gốc gác của con và ai là bố của con. Tôi sẽ dẫn con gái, con rể tôi trở về làng, vào ngôi chùa làng để thắp nén hương, lạy tạ cho Mõ già, cho Đức Phật ở đó. Tôi tin rằng, Mõ già vẫn dõi theo tôi và chở che cho tôi đến được bến bờ hạnh phúc hôm nay.

Và còn một điều nữa, tôi muốn con tôi biết mặt bố, cho dù ông ấy là một kẻ hèn hạ, độc ác, hay giờ chỉ còn là một nấm mộ ngoài nghĩa trang đi chăng nữa thì con tôi vẫn có quyền được biết bố của mình là ai, và tôi cũng nói với ông ấy một lời hàm ơn rằng vì ông ấy mà tôi có được kho báu của đời mình.

Đà Nẵng (NTMN)

 From: Phong Dương

Cậu Út

Cậu Út

Tôi bắt đầu khó chịu khi gặp hắn lần thứ ba. Vẫn bộ quần áo vàng dành cho sinh viên sĩ quan lúc đi phép, hắn tỉnh bơ ngồi tại câu lạc bộ sĩ quan. Chung quanh, mọi người đều mặc đồ trận, kể cả những sĩ quan trẻ ngồi cùng bàn với hắn. Trừ bộ quần áo lạc lõng, còn lại từ thái độ đến cung cách ăn nói của hắn chẳng có gì khác lạ. Nâng ly bia, cụng ly, uống một hơi dài. Rồi cười nói, vung tay, xoãi chân như việc hắn có mặt tại đây trong bộ quần áo vàng là điều tự nhiên. Bất cần thiên hạ với những cái nhìn kỳ cục ném về. Kể cả tôi, tiểu đoàn trưởng của tiểu đoàn hắn phải trình diện.

Một vài cái nhìn của đám sĩ quan trẻ ngồi cùng bàn với hắn hướng về khi tôi ngồi xuống. Những cái cười, cái gật đầu được làm. Tôi gật đầu đáp lễ, mắt vẫn không rời hắn. Hắn thản nhiên nhìn tôi rồi bưng ly bia lên uống một hơi dài. Đám sĩ quan trẻ cùng bàn thì thầm với hắn. Hẳn đang nói về tôi. Đột nhiên tôi có ý nghĩ theo dõi thái độ hắn – sau khi đã biết tôi sẽ là tiểu đoàn trưởng của hắn – thế nào. Ngạc nhiên? Bối rối? Rồi sẽ làm một cái chào… làm quen đầy ngượng ngùng như hầu hết các sĩ quan vừa ra trường về trình diện đơn vị. Nhưng không, mọi điều suy đoán của tôi đều sai. Chỉ thấy sau những câu thì thầm của những người ngồi cùng bàn là cái gật đầu của hắn. Cái gật đầu hờ hững. Lại thêm một câu nói của người ngồi bên trái hắn. Lần này tôi ngạc nhiên và cảm giác khó chịu đã bắt đầu. Đó là cái nhún vai – cũng rất tự nhiên – của hắn.

Nén bực bội, tôi quay sang hướng khác. Thái độ dửng dưng và cái nhún vai của hắn vẫn đeo đuổi tôi. Cảm giác khó chịu càng lúc càng tăng khi tiếng cười của bàn hắn ngồi vang đến. Cuối cùng là tự ái bùng lên với ý nghĩ bị coi thường. Dù sao hắn cũng chỉ là một sĩ quan thuộc cấp, không thể có hành động như thế được. Liên tưởng đến hai lần trước tôi càng bực bội. Cả hai lần hẹn hắn trình diện đều không gặp cả hai. Lần đầu hắn đến khoảng 8 giờ rưỡi. Giờ trình diện là 9 giờ. Tôi ra trễ, hắn bỏ về. Lần thứ hai hắn đến văn phòng từ lúc 7 giờ sáng. Khoảng 9 giờ 10 tôi đến. Vẫn không thấy hắn. Người thượng sĩ già cho biết hắn vừa đi. Tôi im lặng theo dõi tên chuẩn úy này. Đằng nào mình cũng trễ hẹn. Tôi đã nghĩ thế và thông báo hắn đến trình diện lần thứ bạ Cái kỳ cục của hắn, kể cả bộ quần áo vàng đang mặc trên người đã làm tôi chú ý. Một mẫu người đặc biệt. Đã có lần tôi nghĩ thế với cái cười khoan dung. Nhưng hôm nay, lần hẹn thứ ba chưa đến tôi đã gặp cái nhún vai của hắn. Bao nhiêu ý nghĩ về hắn trong đầu đã thành khó chịu. Rõ ràng hắn coi tôi chả có ký lô nào. Mẹ kiếp! Ngựa non háu đá. Tôi uống cạn ly cà phê và đứng dậy với quyết định rất bình thường của một đơn vị trưởng bị xúc phạm: sẽ chứng minh cho hắn biết quyền hạn của mình.

Chín giờ sáng hôm sau tôi có mặt tại văn phòng. Hắn đã đến từ lúc nào. Vẫn bộ quần áo vàng hắn vào trình diện. Trong thế đứng nghiêm còn sặc mùi quân trường, hắn đọc nhanh cấp bậc, họ tên, số quân, câu trình diện rồi kết thúc bằng hai tiếng “chờ lịnh” lớn. Cung cánh rất nghiêm chỉnh, hắn đứng nhìn tôi. Đã sẵn ý tưởng lấy uy từ chiều hôm qua, tôi để yên hắn đứng một lúc. Sau cùng là cái hất hàm.

– Chuẩn úy ngồi xuống.

– Cảm ơn thiếu tá.

Hắn ngồi xuống, hai tay đặt trên bàn, vai thẳng băng với cái cổ cứng ngắc. Tôi nhìn chăm chăm vào mắt hắn. Đôi mắt lồi với những sợi gân máu nhỏ li ti bám trên lòng trắng cũng đang nhìn thẳng vào mắt tôi. Hắn có vẻ bình tĩnh hơn tôi tưởng.

– Mãi đến hôm nay tôi mới gặp chuẩn úy.

Tôi mở đầu lửng lơ. Hắn gật đầu.

– Thưa thiếu tá, tôi có đến đây hai lần theo lời gọi của thượng sĩ thường vụ.

– Đến rồi lại về?

– Vâng.

– Tại sao?

– Bởi không gặp thiếu tá.

– Tôi có nghe thượng sĩ thường vụ bảo cả hai lần chuẩn úy đều không chờ…

– Tại sao tôi phải chờ khi thiếu tá hẹn đúng 9 giờ là trình diện?

Hai bàn tay hắn vẫn đặt thoải mái trên mặt bàn khi hắn hỏi lại. Cảm giác khó chịu lại đến, tôi gằn giọng.

– Lần đầu tôi không nói. Tại sao lần thứ nhì chuẩn úy đến từ 7 giờ, chờ hơn hai tiếng rồi lại bỏ về khi vừa quá giờ hẹn độ mươi phút?

– Thưa thiếu tá, chờ hơn hai tiếng là phần tôi thích chờ, còn trễ 10 phút là phần thiếu tá trễ. Tôi không có lỗi…

Hắn vẫn nhìn thẳng vào mắt tôi khi nói. Từ cặp đồng tử đen láy của hắn, tôi bắt gặp hình ảnh của tôi ngày mới ra trường. Cứng ngắc trong từng câu nói, từng bước đi và ngại ngùng khi gặp cấp trên. Người sĩ quan trẻ trước mặt tôi khác hẳn. Hắn thoải mái và tự tin khi đối diện với mọi vật. Sự khó chịu chợt mất, trong tôi bắt đầu thích thú. Nhưng vẫn với nét mặt nghiêm nghị, tôi tiếp tục câu chuyện.

– Hôm qua ở câu lạc bộ sĩ quan, gặp tôi sao chuẩn úy lại nhún vai?

– Thiếu tá có thấy?

Hắn hỏi lại như xác nhận những ý nghĩ của tôi ngày hôm qua là đúng một cách rất ư là tự nhiên.

– Phải. Tôi thấy chuẩn úy có vẻ khinh thường tôi.

– Tại sao tôi lại khinh thường thiếu tá khi tôi chưa biết thiếu tá là ai? Hơn nữa, nếu biết là thiếu tá thì lúc đó tôi vẫn chưa trình diện…

Rất rành mạch hắn trả lời câu hỏi. Sự thích thú trong tôi chợt lớn. Cố nén nụ cười, tôi nói nhanh.

– Còn bộ quân phục, không lẽ nhà kho chưa phát quần áo trận cho chuẩn úy?

– Thưa thiếu tá tôi đã nhận được quần áo trận, nhưng quá rộng không thể mặc được. Ở quân trường có dạy nhìn quân phục biết tư cách. Tôi phải giữ tư cách, không thể ăn mặc cẩu thả được. Đành phải mặc đỡ bộ quần áo này, sau khi lãnh lương tôi sẽ sửa.

Lần này không thể nhịn được, tôi bật cười trước vẻ nghiêm trang của hắn khi trình bầy về bộ quần áo vàng đang mặc trên người. Nhưng hắn vẫn nghiêm. Bây giờ thì người giữ uy là hắn chứ không phải là tôi.

– Thôi được, chuẩn úy xuống ban quân lương để tạm ứng trước. Cố gắng sửa sớm, mình chỉ còn hai tuần để học bổ túc. Sau đó sẽ ra hành quân.

– Cảm ơn thiếu tá.

Hắn đứng dậy, lại một cái chào đúng kiểu Thủ đức. Tôi nhìn theo tấm lưng thẳng của hắn với nụ cười lạc quan. Thằng này một xanh cỏ, hai đỏ ngực, đúng điều cần thiết cho một binh chủng tác chiến mang nhiều lời khen pha trộn với tiếng chê: Biệt động Quân.

Vẫn không xanh cỏ, nhưng chẳng đỏ ngực bởi ký củ quá nhiều. Hơn một năm tại chiến trường Bồng sơn, Tam quan hắn đã trở thành một trong những trung đội trưởng chiến với cái tên dễ thương được gọi từ đồng đội: “cậu út”. Tôi thích thú theo dõi sự trưởng thành của một anh chàng chuẩn úy sặc mùi quân trường thành một sĩ quan tác chiến. Ngoài tính tự tin và kỷ luật với đơn vị khi hành quân, cậu út như đã quên hẳn những lễ nghi cứng ngắc. Phanh ngực áo, ngồi nhậu với lính từng can rượu trắng một cách hồn nhiên. Chửi thề ròn tan và đánh lộn với lính Địa phương quân tiểu đoàn 208 như cơm bữa. Bồ bịch tứ tung với các cô bán cà phê Tam quan… Nghĩa là chơi tận mạng, chơi đúng nghĩa một người chết trở về sau mỗi lần ủi. Bù lại cho những lần phá phách, cậu út đánh đấm rất đẹp. Lỳ lợm và khôn ngoan. Tự tin và kỷ luật. Cậu út đã biết áp dụng những điều cần thiết cho từng trường hợp. Con cọp đã rời khỏi bọc. Tôi đã thấy và tin tưởng. Bò vào tuyến Gia an, qua dẫy giao thông hào đầy mìn bẫy để cắm cờ. Giành lại đèo Bình đê để khai thông quốc lộ. Đánh đồi Hai vú để giữ đường vào phi trường. Giữ đồi 30, 31 để án ngữ lối vào An lão… cậu út đã thản nhiên tham dự với tiểu đoàn bằng đôi mắt nhìn thẳng như lúc trình diện tôi tại trung tâm huấn luyện Dục mỹ, khi tiểu đoàn về học bổ túc và bổ xung quân số. Cảm tình của người đơn vị trưởng dành cho một sĩ quan cấp dưới trong tôi thật kỳ lạ. Hãnh diện và thán phục. Thái độ ung dung trong mỗi lần hành quân đã làm tôi suy nghĩ nhiều về cậu út. Hắn còn quá trẻ để thành một con người như vậy. Thời gian ở đơn vị quá ngắn so với cái hắn làm được. Cộng tất cả những điều đã học ở quân trường với kinh nghiệm tại đơn vị cũng không đủ cho hắn thay đổi đến thế. Tôi đã hãnh diện. Tôi đã thán phục. Và bắt đầu tìm hiểu.

Sự thắc mắc trở nên rối bung và kín mít, không thể giải thích khi tôi biết về quá khứ của hắn. Là con út một ông đại tá thanh tra quân đoàn 3, Gia đình giàu có với hai tiệm vàng của bà mẹ làm chủ, “cậu út” sống sung sướng. Học giỏi, được mã, con ông cháu cha. Nghĩa là cậu út hội đủ điều kiện mơ ước của một thanh niên đang sống trong thời này. Lại nữa, kèm theo là hai tấm giấy hoãn dịch, một vàng vì lý do học vấn, một trắng vì lý do gia cảnh. Chữ “thọ” theo như quan niệm của số đông đeo vững vàng trước ngực. Vậy mà “tình nguyện” đi lính. Hai chữ “tình nguyện” là do mọi người nói. Nhưng sau cùng tôi biết, cậu út đi lính vì thất tình. Rất thành thật hắn kể lại mối tình với cô gái người Tiều châu. Chẳng giấu diếm để tô thêm lớp son hào hùng quanh con người lì lợm của hắn. Tất cả chỉ thế. Dễ hiểu và bình thường như trăm ngàn lý do bình thường khác. Vào lính ông cụ lo về chỗ ngon lành. Hắn từ chối, chọn Biệt động Quân. Bấy giờ có danh từ “cọp liếm”. Mặc tất cả, hắn thản nhiên xách ba lô về trình diện. Thản nhiên đánh đấm. Thản nhiên chơi bời. Để trở thành người sĩ quan tác chiến kỳ cục này với cái hỗn danh: cậu út.

Thêm vào đó những ngày trọng cấm mà hắn cũng thản nhiên ký lại làm sự thắc mắc của tôi càng thêm rối rắm. Nếu muốn chết để quên mối tình với cô gái Tiều châu – tạm gán cho hắn lý do cải lương này – thì hắn đâu cần khôn ngoan khi chiến đấu? Nếu muốn “đỏ ngực” thì hắn đâu thoải mái phá phách, rong chơi? Cả đoạn đời sau lưng và trước mặt đều không lộ ra một nguyên nhân nào giải thích cho con người cậu út. Tôi bỏ cuộc khi cậu út được đeo lon thiếu úy.

Sau trận núi Chéo, tiểu đoàn bị cày nát. Hơn một tuần lễ tăng phái cho sư đoàn 22 Bộ binh để ủi lên, ủi xuống núi Chéo – tên ngọn đồi trọc chỉ cao 81 thước – cả đơn vị còn lại chưa đầy trăm người lính và mươi sĩ quan. Trong đó có tôi và cậu út.

Trước ngày về Dục mỹ bổ xung quân số và học bổ túc, đứng trước hàng xác đồng đội quấn trong poncho tại phi trường Phù cát, lần đầu tiên tôi thấy vẻ ung dung biến mất trên mặt cậu út. Khuôn mặt như cằn lại, hai hố mắt lõm sâu. Chúng tôi im lặng khi hỏa tiễn 122 ly vẫn rót chung quanh. Người lính trong cậu út có lẽ bấy giờ đã lớn hơn.

Hắn đứng rất lâu trước hàng poncho cuộn xác. Mắt lờ đờ như đôi mắt xác chết. Nét hồn nhiên mọi ngày như chưa từng có. Đứng ngẩn ngơ, rồi đi từng bước ngắn. Thỉnh thoảng lại cúi xuống đọc một cái tên, miệng lẩm bẩm những câu không rõ. Tôi không còn nhận ra dấu vết gì của riêng hắn – người sĩ quan trẻ lì lợm, hồn nhiên và dễ thương của đơn vị. Chỉ còn lại một cái xác di động trước những cái xác đang cuộn trong poncho. Một cái xác chưa cuộn poncho.

Lê từng bước đến cuối dãy xác hắn dừng lại. Rồi bắt đầu quay lại bằng những bước ngắn hơn. Đế giày hình như không rời khỏi mặt nhựa của phi đạo. Tất cả sự mệt mỏi được bộc lộ trên con người cậu út. Tôi ngạc nhiên theo dõi thái độ hắn và vẫn không nghĩ hắn mất hồn sau trận đánh. Không thể bảo hắn là sợ hãi cái chết được. Điều hắn đã làm và tôi đang chứng kiến đã cho kết luận này. Đạn 122 ly vẫn nổ rải rác. Phi trường vắng hoe, chỉ có những người lính đang trong nhiệm vụ mới có mặt, còn lại hầu hết đều ở trong hầm. Mỗi tiếng nổ là một đám khói bốc lên, một cái chết đem đến. Ngay cả những người đang ngồi trong hầm, dưới lớp bao cát dầy vẫn thấp thoải âu lo. Nhưng hắn vẫn đi đi, lại lại trước hàng xác. Mặc đạn réo ngang đầu, mặc từng chớp lửa xa gần. Cậu út như đang sống với hàng xác quấn poncho trong một khoảng trời khác.

Từ trong miệng hầm tôi gọi tên hắn. Cậu út vẫn những bước chân lê sát mặt nhựa. Tôi gọi lần thứ nhì lớn hơn. Hắn vẫn không nghe. Rồi lần thứ ba tôi gọi bằng cái hỗn danh đồng đội thường gọi. Vừa lúc đó một loạt pháo 122 ly nổ chung quanh, rất gần. Những ánh chớp loé lên và cái ù tai rầm rĩ làm đau bọng tai. Cậu út dừng lại, đầu ngẩng lên và mắt hướng về phía hầm của tôi. Cặp mắt lờ đờ vừa có tia sáng ngạc nhiên. Tôi gọi thêm lần nữa, hắn đã nghe rõ. Trên nét mặt lầm lì vẫn không điểm thêm chút xúc cảm nào. Bằng những bước chân dài hơn khi nãy, nhưng không vội vã hắn tiến về phía hầm tôi. Đến sát miệng hầm, hắn ngồi xuống trước lối vào. Cái đầu đưa vào trong đó với đôi mắt đã trở lại bình thường.

– Thiếu tá…

– Cậu vào đây, chúng nó đang pháo, ở ngoài rất nguy hiểm…

– Không sao đâu thiếu tá.

– Biết đâu…

– Có gì thì nằm chung với anh em ngoài kia cũng đỡ buồn…

Hắn cười nhạt sau câu nói và đứng dậy, đi về phía hàng xác. Tấm lưng thẳng như chĩu xuống dưới ánh nắng. Bước chân đang nhanh lại thành chậm khi đến cạnh hàng xác. Từ miệng hầm nhìn ra, khoảng cách giữa tôi và cậu út như xa lắm. Bóng hắn in trên nền trời ngập nắng, sừng sững như một pho tượng đang sống. Trong cảm giác xấu hổ tôi thấy miệng hầm đang trú ẩn như lối vào hang chuột.

Sau lần đó, tôi được chuyển về đơn vị khác.

Tháng 3 năm 1975, chúng tôi gặp lại nhau thêm lần nữa. Đó là buổi chiều tại sông Bạ Sau đoạn đường đầy máu của liên tỉnh lộ 7B, qua Phú bổn, Phú túc… Cái mệt mỏi pha trộn âu lo làm tôi muốn bỏ cuộc khi thấy cảnh tượng tại sông Bạ Đạn pháo đủ loại vẫn rót, trực thăng vẫn tải người qua sông với chùm người bám trên hai càng sắt như đàn kiến bám trên hai sợi chỉ mỏng manh. Những cái đạp chân của đồng đội trên những bàn tay đồng đội đang tìm sự sống. Những con người chơi vơi hai tay khi rớt xuống. Những con người đong đưa, tay duỗi căng đang chờ phiên mình bị đạp để bắt đầu cái chết. Những hố đạn pháo vung vít thịt, xương… Tất cả bao quanh tôi sau cố gắng vượt qua mọi thứ để sống, từ Kontum.

Tôi ngơ ngác nhìn mọi việc xảy ra. Người và người. Đạn và đạn. Như hôn mê, tôi không còn là tôi. Ranh giới giữa cái sống và cái chết không có tại đây. Nhốn nháo pha trộn sự phó mặc, đám đông chung quanh ẩn hiện như có, như không. Tôi chán nản đến một hố đạn ngồi xuống. Một bàn tay nắm lấy vai tôi. Rồi một bàn tay nữa. Cậu út đang đứng trước mặt tôi.

– Trung tá…

– Cậu…

– Vâng. Em đây.

Tiếng “em” đầu tiên, từ ngày gặp được cậu út gọi thật bất ngờ. Giữa cái hoang mang tôi chợt thấy được an ủi. Nước mắt tôi ứa ra.

– Mình đã thua cậu ạ.

– Vâng. Mình đang thua.

Hắn gật đầu, khuôn mặt của ngày ở phi trường Phù cát lại hiện về. Bây giờ ngoài hai hố mắt sâu còn thêm những nét nhăn trên trán. Người lính trong cậu út đã già hơn.

– Cậu tính sao?

– Em không biết. Em đã ngồi đây từ đêm hôm qua Chẳng biết phải làm gì.

– Phải về Sàigòn.

– Về Sàigòn?

– Đúng.

– Rồi từ Sàigòn sẽ về đâu?

Hắn đặt lại câu hỏi như lần đầu gặp. Nhưng ngoài thái độ điềm tĩnh còn pha thêm vẻ đau đớn trên khuôn mặt.

Tôi im lặng. Chúng tôi im lặng ngồi xuống hố đạn. Nắng đã tắt, trên bầu trời bắt đầu sáng ánh vàng hỏa châu. Trong cơn mệt mỏi tôi thiếp đi.

Sáng sau tôi tỉnh dậy, cậu út đã bỏ đi từ lúc nào.

Mười ba năm ở Mỹ, vật lộn với cuộc sống khiến quá khứ trở thành hỗn độn, nhạt nhòa. Có những điều nhớ, có những điều quên trộn lẫn. Một nơi chốn nào, một thời gian nào, một con người nào… Cả ba điều khó đi cùng một lúc để trở lại. Tôi đã quá mệt mỏi. Qúa khứ như vùng cát đã lấp sóng. Chỉ thương, chỉ nhớ – và ngay cả 2 điều này – cũng chỉ cảm thấy. Không thể hình dung rõ nét. Nhưng nếp nhăn trên trán của người thanh niên 24 tuổi vẫn rõ ràng trong tôi. Những nếp nhăn kỳ cục của một con người thoáng qua trong đời làm tôi phải suy nghĩ. Sau đêm đó cậu út mất biệt trong cuộc sống. Không một tin tức nào cả. Kể cả những người đi tù về, vừa vượt biển sang. Chẳng một ai nhắc đến người thanh niên đó.

Đã có lần tôi hình dung ra cái chết của hắn. Một mảnh đạn ghim vào thân thể khi rời hố đi cầu. Chỉ thế mới bỏ mình tôi ở lại trong hố đạn. Không một lời giã từ, không một lời trăn trối. Suốt 13 năm, chưa một lần tôi nghĩ hắn bỏ lại mình tôi để vượt sông Ba một mình. Sự tin tưởng thật rõ ràng. Tôi tin thế, như tôi đã tin hắn khi còn ở Bình định. Nhất là lúc đó, giữa cái hoang mang tìm cách vượt sông của mọi người hắn vẫn ngồi yên trong hố đạn. Con người như hắn chỉ có cái chết mới bỏ đồng đội. Có thể hắn tự tử… Có thể hắn bị giết… Những câu trả lời tôi đặt ra cho tôi đều bằng cái chết của cậu út. Luôn luôn thế, bởi trong trường hợp đó chỉ có cái chết mới làm cậu út sống mãi hình ảnh đẹp trong ý nghĩ của tôi. Tôi biết dù sao cũng là ích kỷ – nhưng thà thế – để cậu út có trọn cuộc sống đúng nghĩa.

Sự tin tưởng là hắn đã chết càng mãnh liệt khi tôi nghe một số bạn vừa sang kể về cuộc sống tù đày tại những trại tập trung. Ở đó, ranh giới giữa anh hùng và anh hèn mong manh như lớp vỏ khoai mì. Con người thật lộ ra trong trại. Có những con người rất bình thường khi sống ngoài đời, hoặc giả tầm thường hay nhút nhát cũng trở thành kiên cường, quyết liệt với kẻ thù trong trại. Và ngược lại cũng có những con người rất can đảm, khí phách ngoài đời lại biến thành bần tiện, hèn hạ trong tù. Sẵn sàng bán rẻ đồng đội bằng những tiện nghi tối thiểu. Tôi ngạc nhiên khi nghe chuyện kể và mừng rỡ trong ý nghĩ nhỏ nhen là mình không lâm vào cảnh đó. Lại liên tưởng đến cậu út. Hắn sẽ thế nào nếu sống trong tù? Nghĩ đến hắn và ý nghĩ mong hắn chết lại càng lớn hơn. Thà thế, để mãi mãi người lính với cái hỗn danh dễ thương đó là một hình ảnh đẹp. Cuối cùng cái phân vân nghi hoặc trở thành sợ hãi khi sẽ nhận được một tin về hắn đã làm những năm sau này tôi nhốt kín hắn trong đầu của mình. Không muốn hỏi thăm ai và cũng chẳng muốn nghe ai nhắc đến hắn. Cầm bằng như đã chết mất một người bạn nhỏ.

Trong số những người tôi quen tại thành phố này, có một người viết sách. Một chiều tháng sáu, anh ta rủ tôi đến chơi tại tòa soạn tờ báo Việt ngữ. Mục đích, như anh ta bảo là để xem bài mình viết được trình bày ra sao. Tôi cùng đi và được nghe mẩu đối thoại tại phòng kỹ thuật và trình bày tờ báo.

– Ai lay out bài này.

– Tôi.

– Tại sao lại để ở phần cuối trang.

– Vì mỹ thuật và kỹ thuật

– Tôi đề nghị đem bài này lên đầu trang.

– Tại sao?

– Bởi vì bài này do tôi viết.

– Không được.

– Phải được. Tôi muốn thế.

– Tôi có 2 điều nói với ông. Một là tôi không cần biết ông là ai. Hai là tôi yêu cầu ông bước ra khỏi phòng này.

– Anh biết tôi là ai không?

– Tại sao phải biết?

– Tôi giới thiệu với anh, tôi được mời vào nhóm chủ trương tờ báo này.

– Ra thế!

– Anh hãy dời lên trên.

– Sau khi ông giới thiệu về ông. Ngoài hai điều vừa nói tôi còn thêm một điều thứ ba nữa để nói với ông: tôi sẽ không đăng bài của ông. Không! Phải nói là tôi không cho phép bài ông đăng vào phụ trang này, bởi tôi là người đã và đang phụ trách trang báo. Và ông, người chủ trương tờ báo không có nghĩa là ông có quyền xếp bài mình viết lên đầu trang báo theo ý muốn.

Tôi ngẩn người sau mẩu đối thoại. Lối trả lời rành mạch và giọng nói cách đây mười mấy năm sống lại. Chỉ là hắn mới có lối nói chuyện thế này. Tôi bước vào phòng kỹ thuật. Người viết sách hầm hầm nhìn một thanh niên đang vo bài báo – chắc của hắn – vất vào sọt rác. Đôi vai thẳng băng, cái lưng cứng và thái độ ung dung. Tôi gọi một cái tên. Người thanh niên quay lại. Đó là cậu út, hắn nhận ra tôi ngay.

– Anh…

– Phải, tôi đây.

Bỏ mặc người viết sách, cậu út tiến lại phía tôi. Nụ cười thật hồn nhiên trên môi. Khuôn mặt đã không còn nếp nhăn với đôi mắt đầy tự tin. Đột nhiên tôi liên tưởng đến những chuyện đã được nghe về trại tù, rồi hình ảnh hố đạn pháo cạnh sông Ba trở về.

– Sau đêm đó cậu đi đâu? Đêm ở sông Ba đó…

– Anh nhớ dai thật. Hắn vẫn cười hồn nhiên. Em không ngủ được, đầu óc nghĩ những chuyện đâu đâu, chỉ muốn tự tử. Bởi lúc đó em chẳng biết sẽ về đâu… Sau cùng, tự nhiên em đi ngược về liên tỉnh lộ 7B. Em cũng không hiểu tại sao lại quay về hướng cũ. Rồi bị bắt, sau mấy năm tù em trốn về được. Lại thêm mấy năm lang thang, làm đủ thứ nghề ở Sàigòn. Bây giờ em ở đây, như anh thấy…

– Cậu sang đây một mình?

– Vâng, nhà chả còn ai. Ông cụ mất, bà cụ thì già, anh chị cả đống con cái… Em đi một mình, hiện đi học buổi sáng, chiều làm ở đây.

Hắn kể chuyện của mình thản nhiên, như mọi việc xảy ra là điều tất nhiên. Ngay cả những chuyện tù, bị bắt, cha chết… Chỉ nhắc thoáng qua, không lộ vẻ cảm xúc nào. Và tương lai như đã vạch sẵn, chỉ bước tới. “Đi học buổi sáng, đi làm buổi chiều tại đây”. Thoải mái, tự nhiên hành động như ngày xưa chiến đấu và phá phách. Tin vào chính việc mình làm, con người cậu út vẫn không thay đổi. Người chết mười ba năm vừa sống lại. Tôi chăm chăm nhìn hắn. Mắt vẫn sáng và đang nhìn thẳng vào mắt tôi.

– Chuyện lúc nãy có thể khó khăn cho công việc của cậu.

– Tại sao lại khó khăn? Em làm đúng việc của mình, mấy cái râu ria em đâu màng. Không nhận thì không làm, nhận thì làm rõ ràng…

– Cậu vẫn thế.

– Làm sao thay đổi được hả anh.

– Ngay cả lối nói chuyện.

– Vâng, ngay cả lối nói chuyện.

Hắn nhắc lại và chúng tôi cùng bật cười. Phía góc phòng người viết sách ngạc nhiên theo dõi. Hắn sẽ mãi mãi ngạc nhiên bởi đã có cuộc sống của một con người hoàn toàn khác hẳn những trang sách đã viết. Của gã và ngay cả không của gã. Cuộc sống của người lính bình thường mang tên cậu út. Hệt như trăm ngàn người lính khác đã bước ra những ngoài dòng kẻ của trang giấy. Để sống và đã sống.

Nguyễn Ý Thuần

From: TU-PHUNG

Bi Kịch Bởi Một Chữ Tiền-Truyện ngắn

Van Pham

 GÓC SUY GẪM – Truyện ngắn phỏng dịch từ truyện ngoại quốc

Bi Kịch Bởi Một Chữ Tiền

Một người phụ nữ 28 tuổi làm việc cho một công ty ở thành phố, chồng cô và đứa con trai 10 tuổi ở quê nhà, cô hàng ngày đều đến công ty làm việc rất chăm chỉ để kiếm tiền gửi về cho gia đình.

Nhưng một ngày nọ bỗng xảy ra biến cố. Giám đốc công ty để mắt đến vẻ đẹp của cô. Ông ta đã nghĩ đủ mọi cách để theo đuổi, cũng nói với cô rằng, dẫu cho cô đã kết hôn và có con đi nữa, ông ta cũng vẫn một lòng yêu cô.

Lúc vừa mới bắt đầu, cô đã thẳng thừng cự tuyệt những lời đường mật. Về sau, ông giám đốc đó luôn tặng hoa và thường xuyên dẫn cô đi ăn. Còn hứa rằng ông sẽ ly dị vợ của mình để có thể được chung sống với cô. Cô đã tin, nhưng vẫn không từ bỏ được người chồng và đứa con của mình. Cô thường mang rất nhiều tiền về nhà.

Và chồng cô đã bắt đầu nảy sinh nghi ngờ, anh thường hay âm thầm theo dõi cô. Ngày kia, khi anh đến trước cửa phòng công ty thì nhìn thấy vợ mình đang nằm trong vòng tay của người đàn ông khác.

Đến một ngày cô đã xao động và quyết định bỏ rơi người chồng và đứa con. Anh đã tìm đến công ty để hỏi cho rõ ràng mọi chuyện. Nhưng cô im lặng, không nói một lời. Ông giám đốc kia nói: “Anh có thể cho cô ấy cái gì, anh chẳng cho được cô ấy cái gì cả, nhưng tôi thì lại hoàn toàn có thể. Cái tôi có chính là tiền”. Khi anh nghe xong, không nói được lời nào, liền lặng lẽ bỏ về.

Anh trở về ngôi nhà cũ. Cũng từ ngày hôm đó, cô không gọi điện về nhà hỏi thăm, và cũng không gửi tiền về nhà nữa. Đứa con trai còn nhỏ, thực sự không hiểu được tại sao mẹ không về nhà nữa. Rồi một ngày, đứa con trai hỏi ba nó:

– “Sao mẹ không gọi điện thoại về nhà nữa”.

Anh nói với con rằng mẹ sẽ không bao giờ trở về nữa, bây giờ cô đang sống một cuộc sống giàu sang, hạnh phúc với một người đàn ông giàu có khác rồi. Đứa con nghe xong nghĩ rằng anh đang gạt nó, bởi vì mẹ rất thương yêu nó, tình cảm hai mẹ con rất tốt kia mà.

Câu chuyện này chẳng mấy chốc đã đồn ầm lên, mọi người trong làng đều biết hết cả. Thằng bé đến trường cũng bị bạn bè trong trường chọc phá. Nó tức giận không thèm đến trường nữa, mà cầm bức ảnh chụp gia đình và 350 đồng của ba nó đi mất…

Nó mới 10 tuổi, cái tuổi qúa nhỏ để tìm mẹ giữa phố phường bao la đặc kín người qua lại. Nó muốn đích thân đi gặp mẹ để hỏi rằng có phải mẹ nó không còn cần nó nữa không. Dốc hết tâm tư, quyết đi tìm mẹ. Nó ra bến xe, đưa ra mảnh giấy có ghi địa chỉ của mẹ cho nhân viên bán vé xem, bảo vệ trạm xe đã đưa nó lên xe. Xe đưa nó lên thành phố nhưng thực sự nó không biết đến đâu để tìm.

Nó cầm mảnh giấy hỏi hêt người này đến người kia. Cuối cùn nó gặp một chú cảnh sát giao thông. Chú Cảnh sát giao thông đưa nó lên xe tắc-xi. Chiếc xe đã chở nó đến trước cổng công ty của mẹ nó. Thằng bé ngồi ở bên ngoài đợi mẹ tan ca.

Năm giờ rưỡi chiều, nó đã nhìn thấy mẹ, nhưng bên cạnh còn có một người khác nữa, nó liền chạy đến, gọi một tiếng “mẹ ơi!”

Mẹ nó lặng người đi vì sự xuất hiện bất ngờ của nó nên không nói lên lời. Đứa con tan nát cõi lòng, thất vọng tràn trề đối với mẹ…

Nó liền hỏi người đàn ông bên cạnh mẹ nó là ai. Ông giám đốc đó liền nói thẳng rằng ông là chồng của cô. Lúc đó, thằng bé vừa khóc òa lên vừa nói: “Tôi không có người mẹ như bà!”. Nói xong, liền cắm đầu cắm cổ bỏ chạy. Nó đau đớn, tuyệt vọng cứ nhắm mắt mà chạy qua một ngã tư đường, bỗng có một chiếc xe đang chạy như bay lao đến tông nó văng xa mấy mét, tài xế sợ quá, vội vã chạy xuống xe xem.

Kết quả nhìn thấy là một đứa bé, máu từ trong miệng nôn ra. Mọi người chung quanh đều chạy đến xem, có người tốt bụng liền gọi 119. Người tài xế cũng đã gọi cho cảnh sát. Xe cấp cứu đến nơi liền ôm nó lên xe. Trên xe nó cố dốc hết sức xin hỏi mượn điện thoại của bác sĩ. Nó gọi vào số của ba nó rồi gắng sức nói với ba rằng:

“Ba, kiếp sau con vẫn sẽ là con trai của ba. Nhưng con không cần người mẹ đó nữa”.

Khi ba nó chạy đến nơi thì nó đã nằm trong bệnh viện rồi. Ba nó chạy đến trước cửa bệnh viện, vừa trông thấy đứa con của mình chân anh khụy xuống, mềm nhũn hẳn ra, khó khăn lắm mới bò được đến bên cạnh giường đứa con đang nằm, anh đưa tay vuốt ve đầu của nó. Lúc đó, tất cả y tá trong bệnh viện đều khóc chảy nước mắt, cảnh sát đứng bên ngoài cửa mắt cũng ngấn lệ.

Khi anh muốn ôm con về nhà. Mẹ thằng bé đã đến. Nhưng anh không nói câu nào cả, vừa ôm lấy đứa con vừa lẩm bẩm một mình mà đi.

Mẹ nó khóc lóc thảm thiết, nói rằng:

– “Mẹ sai rồi…….mẹ sai rồi…..”

Ba nó nói:

– “Cô không sai. Chỉ là tôi vô dụng. Chúc cô hạnh phúc!”

Nói xong liền bỏ đi. Anh ôm đứa con về ngôi nhà cũ. Mọi người trong làng đều đã nghe tini, nên kéo đến xem. Khi mọi người trong làng thấy anh ôm thi thể của đứa con trai, mọi người đều không cầm nước mắt. Ông nội bà nội, ông ngoại bà ngoại đều khóc rất thương tâm. Khi mọi người còn đang chìm trong nỗi đau đớn cùng cực, mẹ của thằng bé đã trở về.

Người trong làng đều dùng ánh mắt khinh bỉ để nhìn cô. Ông ngoại thằng bé vừa nhìn thấy, liền đi sang đánh cô một bạt tai, nói:

– “Tao không có đứa con gái như mày”. Còn mắng cô không biết xấu hổ, là đồ hạ tiện, vì tiền mà chồng con cũng không cần.

Cô vẫn nhất quyết muốn nhìn đứa con trai mình lần cuối, nhưng không ai cho cô vào xem. Hết thảy mọi người đều ra sức xua đuổi cô. Ngay đến cha mẹ vốn là người thương yêu cô nhất cũng đuổi cô đi.

Khi cô xoay người đi, đứa em trai ruột của cô chạy đến trước mặt cô, nói: “Sao tôi lại có người chị không biết xấu hổ đến như vậy, thật khiến cho cả nhà chúng tôi cảm thấy vô cùng nhục nhã”. Mỗi một câu, tựa như một nhát dao đâm thẳng vào tim, cô vừa khóc vừa đi khỏi đó.

Trở về công ty để tìm người đàn ông đó, nhưng… Khi cô đến cổng công ty, bảo vệ liền ngăn cô lại, nói cô đã bị đuổi việc rồi, không cần phải đến công ty nữa. Lúc đó, cô đã hiểu. Gọi điện thoại của người đàn ông đó đều là khóa máy. Cô đã biết người đàn ông đó chỉ là đùa cợt với cô, cô liền ở trước cổng công ty đợi ông ta đi ra.

Giờ tan ca đã đến, nhìn thấy người đàn ông mà cô đã từng tin tưởng xuất hiện. Cô bước đến, hỏi: “Anh không còn yêu em nữa sao?”. Người đàn ông đó trả lời: “Tôi không thể ly hôn với vợ tôi được, đây là 100 vạn, cô đi đi, từ giờ trở đi đừng đến làm phiền tôi nữa”. Cô đau đớn ngồi bệt xuống đất, ông ta không thèm nhìn cô một cái liền lái xe bỏ đi.

Cô một mình bước đi trên đường như người mất hồn, nghĩ đến người chồng trước đây luôn đối xử tốt với cô, liền cầm điện thoại gọi điện cho anh, chồng cô nghe tiếng của cô liền hỏi có chuyện gì. Cô nói ông giám đốc đó chỉ đùa giỡn với cô, dối gạt cô. Chồng cô nghe xong, không nói gì cả. Cô biết rằng chồng cô sẽ không tha thứ cho cô. Bảo anh hãy tìm một người phụ nữ khác, mong anh sẽ sống vui vẻ, hạnh phúc, nói xong liền cúp máy.

Nhưng cô lại không hề biết rằng chồng cô đã khóc. Kỳ thực anh vẫn rất yêu cô. Cô tự mình đi mua một lọ thuốc bỏ vào trong bình nước uống, rồi đi tìm người đàn ông đó nói,

– “Ông không chịu trách nhiệm thì tôi sẽ tự sát.”. Cô đã uống, uống hết tất cả. Một lát sau, cô từ từ ngã xuống mặt đất, miệng sùi bọt trắng, bảo vệ vội vàng gọi cho 120 nhưng đã muộn mất rồi. Cảnh sát gọi anh đến nhận thi thể. Anh nhận thi thể về nhà. Anh chôn cô cùng với cậu con trai.

Anh đã mất đi người vợ và đứa con trai mà mình thương yêu nhất

Anh ngồi trước mộ cô và con 5 ngày 5 đêm, mãi đến ngày thứ 6, anh cảm thấy đầu óc choáng váng, rồi ngã lăn xuống đất. Khi tỉnh lại, thấy mình đang ở trên giường. Anh ngồi dậy, một mình chạy ra ngoài. Anh đi tìm ông giám đốc đó để tính sổ, anh thủ sẵn một con dao đợi ông ta ở bãi đậu xe. Đợi suốt mấy tiếng đồng hồ, cuối cùng ông ta đã đến lấy xe. Khi nhìn thấy anh, ông ta vô cùng hoảng sợ, hỏi anh muốn gì. Anh cầm con dao ra, chém 3 nhát vào cánh tay của ông ta, nói:

– “Ba nhát dao này chính là thay cho một nhà ba người chúng tôi”.

Lúc này, cảnh sát đã đến nơi. Thì ra lúc anh đến đây, anh đã gọi điện cho cảnh sát rồi. Khi cảnh sát chuẩn bị bắt, anh tự sát bằng cách cầm con dao đâm liên tiếp 7 nhát vào người mình. Anh nói với ông ta rằng: “Tôi không có tiền, nhưng tôi rất yêu cô ấy. Tôi sẽ mãi ở bên cạnh cô ấy. Tôi bằng lòng chết vì cô ấy. Ông có thể làm được không”.

Khi thi thể anh được đưa về quê nhà, người dân trong làng đều đứng đợi trước cổng làng, Vào thời khắc cảnh sát bàn giao thi thể anh cho người nhà, mọi người trong làng đều chảy nước mắt xót thương cho anh, cho gia đình anh. Còn cha mẹ anh khóc đến chết đi sống lại.

Ngày hôm sau, thi thể của anh được chôn cất, ngày hôm đó dường như ông trời cũng đang khóc vì anh. Trời đã mưa rất to. Nhưng mọi người trong làng không thiếu một người, tất cả đều dầm mưa để đưa tiễn anh. Tấm hình của anh được một người cháu ôm đi trước linh cữu. Đoàn người hướng về nghĩa trang.

Ba ngôi mộ chồng, vợ & con cùng được chôn bên cạnh nhau. Sự việc đã làm xôn xao dư luận khắp tỉnh và đến tai vợ ông giám đốc. Bà liền ly hôn với ông ta. Người đàn ông đó đã lãnh nhận hậu qủa việc mình làm. Công việc bị mất, gia đình tan vỡ…..

Tất cả đau thương đều bắt nguồn bởi một chữ “tiền”.

Thông điệp câu chuyện: “Làm người phải sống đúng với lương tri, đạo đức của một con người”. Tiền có thể từ từ mà kiếm, có tiền bạn có thể ăn ngon, mặc đẹp, có đời sống sung túc. Không có tiền, thì ăn không được ngon, mặc cũng không được đẹp. Nhưng quan trọng nhất vẫn là vui vẻ, hạnh phúc.

Tiền có thể mua được căn nhà, nhưng không mua được “ tổ ấm” !

Câu chuyện phỏng dịch từ cmoney.tw