R Ơ M – Quyên Di

Quyên Di

R Ơ M

Do một tình cảm đơn sơ, thuần khiết lúc ấu thơ, tôi rất thích rơm.

Trong những năm tuổi nhỏ được ở thôn quê, tôi thấy rơm và thích rơm một cách tự nhiên, không tìm biết lý do. Tôi thích rơm như cậu bé khác thích cái kèn làm bằng lá tre, như cô bé nọ thích con búp bê làm bằng những sợi len xanh đỏ kết lại. Tôi thích rơm, cái thích đơn thuần giản dị. Có lẽ đó là bản chất của tôi, bởi vì khi đã lớn lên, tình yêu của tôi cũng là một tình yêu giản dị. Tôi yêu vì yêu, không hỏi lý do, không cần biện bạch.

Sau ngày mùa, khi những bông lúa vàng trĩu đã được nhà nông cắt đem về kho lẫm, cánh đồng chỉ còn trơ lại rơm và rạ. Thân lúa xanh tốt ngày nào dẫn chất bổ dưỡng lên làm căng phồng những hạt lúa thơm ngát hương đồng nội, nay trở thành những cọng rơm khô vàng, rỗng và nhẹ. Tôi thích cái màu vàng ấy. Nó tươi và óng ánh như có tráng một lớp men. Màu vàng của rơm rực rỡ dưới ánh nắng mặt trời, làm cho cánh đồng sau mùa gặt có một nét đẹp riêng, mà trí óc non nớt của tôi chỉ có thể cảm nhận mà không biết tìm cách mô tả cho trọn vẹn được.

Thế rồi rơm cũng được người ta đem về như một thứ phó sản của vụ mùa. Lúa vì quý nên được cất vào bồ. Rơm không quý nên chỉ được đánh đống thành từng đụn ở ngoài sân, dưới gốc những cây cau, hoặc cũng nhiều khi được dùng để phủ kín những bồ lúa của nhà nông.

Những ngày mùa đông giá rét, khi cánh đồng cỏ trơ trụi phô ra mặt đất nâu cứng nứt nẻ, trâu bò ở trong chuồng cũng run lên vì lạnh, mẹ tôi và người nhà đem rơm ra cho trâu, bò ăn. Món ăn không ngon như những ngọn cỏ xanh mượt nõn nà ngoài đồng, nhưng cũng đủ làm cho trâu, bò no lòng và ấm áp.

Riêng tôi, những ngày mùa đông giá rét ấy, lại càng thấy gần rơm và thích rơm. Đang khi những ngọn gió rét buốt chạy đuổi nhau ngoài đồng hoặc tinh nghịch chui vào những mái nhà làm tốc lên lớp cỏ tranh; đang khi những chú chim sẻ trốn thật kín trong các ống nứa ống tre, tránh cái lạnh tê buốt cắt da, thì tôi thu mình nằm gọn trong ổ rơm mà mẹ tôi đã dọn sẵn ở góc nhà. Hơi ấm tự nhiên, thơm mùi lúa chín và cánh đồng còn vương vấn, toả ra thật dễ chịu. Tôi nằm lim dim trong trạng thái nửa thức nửa ngủ, để cho trí tượng tưởng miên man. Tôi thấy như được nằm gọn trong bàn tay từ ái của đất trời. Tình yêu của đất trời nồng nàn và bát ngát, ôm ấp và sưởi ấm con người, nhưng cũng giản dị mộc mạc như cánh đồng, ngọn cỏ, sợi rơm, tiếng chim hót, làn gió nhẹ hay ánh nắng chiều. Dù chỉ là một chú bé con, nhưng tôi cũng cảm nhận được niềm hạnh phúc được làm người và được sống trên cái trái đất dễ thương, đẹp đẽ này. Về sau khi lớn, tôi đã nằm trên những chiếc giường tân tiến và tiện nghi, nhưng chưa một lần nào tôi tìm lại được cái cảm giác ấm áp, an toàn và hạnh phúc như khi nằm trên cái ổ rơm của ngày xưa còn bé.

Nằm trong ổ rơm chán, tôi ngồi dậy, co ro đi xuống bếp xem chị tôi thổi lửa nấu cơm. Chị cho rơm vào trong bếp làm mồi, ngọn lửa bùng lên rực rỡ, rồi tàn đần. Lửa rơm rất mau tàn. Nhưng ngọn lửa ấy đã bắt qua những cục than đen bóng. Chị kê cái ống thổi lửa vào bếp, chụm môi thổi. Làn hơi của chị làm cho những cục than dần dần hồng lên, cho đến lúc những cục than đen biến thành những cục than hồng rực rỡ. Hai má của chị tôi khi ấy cũng hồng, làm cho khuôn mặt thiếu nữ đương xuân của chị thêm tươi đẹp và duyên dáng…

Xem vậy mà rơm còn được dùng vào nhiều việc khác. Bạn có bao giờ thưởng thức món chân giò nấu măng chưa? Trước khi cho vào nồi nấu, người ta thui cái chân giò trong đống rơm cháy đỏ, mùi thơm trong khói lan tỏa khắp xóm. Mẹ tôi bảo chân giò không thui bằng rơm thì sẽ không thơm như vậy. Tôi kể chuyện này nghe có vẻ “phàm phu” quá phải không? Nhưng đó là một trong những niềm vui tuổi nhỏ của tôi.

Có khi rơm còn được ở… trên đầu người ta nữa. Ở trên đầu không giống như kiểu “trên đầu những rạ cùng rơm, chồng yêu chồng bảo hoa thơm cài đầu” đâu, mà là ở trên đầu mặt cách thật nghiêm chỉnh. Năm ấy bác tôi mất, cả họ để tang. Ngày đi đưa đám, tôi thấy các chị con bác mặc áo sô đội mấn trắng; các anh tôi cũng mặc áo sô chít khăn tang trắng. Anh con cả của bác thì mặc áo tang, và đội trên đầu một vành rơm, chống gậy đi giật lùi trước quan tài. Mẹ tôi giải thích cho tôi biết bác mất là chuyện đau buồn cho gia đình, không còn ai vui thích trong việc trang điểm lộng lẫy, áo quần bảnh bao nữa. Mặc áo sô, đội vành rơm để biểu lộ ra bên ngoài nỗi đau buồn bên trong. Như thế, dù được ở trên đầu người ta, rơm cũng vẫn bị xem như là một vật tầm thường, xấu xí.

Từ khi rời quê lên thành phố, rồi trối nổi theo những chuyển biến của lịch sử, cuối cùng thành một gã bỏ lại quê hương, tôi không còn dịp nào được gần gũi với rơm nữa. Nhưng mỗi khi tìm lại tuổi ấu thơ trong cơn mơ hay trong những lúc thả hồn theo kỷ niệm thiếu thời, tôi lại thấy rơm. Những sợi rơm vàng óng, nồng nàn mùi thơm hoang dã và hương lúa ngạt ngào như quấn lấy thân tôi. Hình như rơm muốn che chở cho tôi, ấp ủ lấy tôi để truyền cho tôi sự ấm áp và tình thân. Bây giờ đã lớn, nên tôi biết phân tích tình cảm của tôi để thấy rằng chính cái giản dị của rơm tạo nên một vẻ quyến rũ và làm tôi tưởng nhớ mãi, cho dù bao nhiêu hình ảnh khác của quá khứ hầu như đã tan biến trong tôi. Tôi cũng cảm nghiệm rằng tình yêu đơn sơ giản dị chính là thứ tình yêu đẹp nhất và lôi cuốn nhất.

Dịp lễ Giáng Sinh năm ngoái, tự nhiên tôi được một người bạn nhắc cho những hình ảnh về rơm, và qua bạn, tôi học được những bài học của rơm. Bạn tôi hiền như một con chim sẻ, ngây thơ như bồ câu, dễ thương như thỏ, nhưng đôi khi cũng biết tự phòng thủ như một con nhím. Và một điều chắc chắn là bạn có đời sống nội tâm thật sâu thẳm, sâu như lòng giếng nhìn không thấy đáy.

Bạn tôi sống trong một cộng đồng. Cộng đồng này có một tục lệ dễ thương lắm, cứ vào dịp Giáng sinh, mọi người bắt thăm để nói về một vật gì đó có liên quan đến máng cỏ. Bạn tôi bắt được lá thăm yêu cầu nói về rơm. Và sau dịp trình bày ấy, bạn đã nói lại cho tôi nghe những gì bạn nghĩ về rơm.

Bạn nói rằng bạn cũng đã nghĩ đến sự tầm thường của rơm, tầm thường đến độ khi đề cập đến những gì thấp kém, vô dụng, người ta gọi đó là những thứ “rơm rác.” Nhưng dù tầm thường đến thế nào đi nữa, rơm cũng không thật sự vô dụng đâu. Rơm sẵn lòng làm những công việc tầm thường nhất, khi mà người ta không có phương tiện để làm cho khá hơn. Nếu có chăn êm nệm ấm, chắc người ta không nghĩ đến chuyện nằm ổ rơm. Nhưng khi không có chăn êm nệm ấm, ổ rơm đã là nơi sưởi ấm con người trong những ngày tháng mùa Đông. Nếu có cỏ non thơm ngọt, người ta đã không nghĩ đến chuyện nuôi trâu bò bằng rơm. Nhưng khi chẳng còn cỏ non, rơm đã trở thành món ăn cho trâu bò no bụng. Không biết rằng người ta có ai hiền lành và có tinh thần phục vụ như rơm, sẵn lòng làm cho người khác những việc mà “không còn biết chạy vào đâu nữa người ta mới nhờ đến mình.”

Bạn nóị rằng khi đề cập đến lửa rơm, ai cũng có vẻ xem thường. Nhưng bạn nhìn lửa rơm ở một khía cạnh khác, và bạn thấy lửa rơm đáng quý lắm. Đáng quý vì lửa rơm mang ý nghĩa của sự hy sinh và khiêm tốn. Truớc khi có lửa củi, lửa than, người ta phải có lửa rơm. Lửa rơm tàn nhanh lắm, nhưng nếu không có lửa rơm, làm sao củi, than bén lửa? Và khi bếp đã cháy hồng, rơm chỉ còn là một nắm tro, không ai biết đến rơm nữa, người ta chỉ trầm trồ ngắm nghía những thanh củi, hòn than cháy hồng rực rỡ. Chẳng biết có mấy ai dám hy sinh và khiêm tốn như rơm, khởi đầu công việc, nhưng sau đó âm thầm lui đi và nhường lại vinh quang cho người khác?

Bạn nói đến một điều mà tôi chưa bao giờ nghĩ tới. Đó là sự trống rỗng của rơm. Trong lòng cọng rơm không chứa gì. Chính cái trống rỗng ấy làm cho rơm trở nên hữu ích. Bạn kể cho tôi nghe ngày xưa khi chưa có những địa bàn tối tân như ngày nay, người Trung Hoa đã xỏ kim nam châm vào trong một cọng rơm và thả xuống mặt nước yên lặng. Cọng rơm sẽ chỉ cho người ta biết hướng Nam hướng Bắc. Từ hình ảnh ấy, bạn nói cho tôi nghe cái cần thiết của sự trống rỗng. Hầu như ít có người biết tự làm trống mình. Tâm trí người ta thường chất chứa nhiều thứ lắm: tham vọng, mưu tính, hận thù, tranh chấp, thiên kiến… Những thứ ấy làm cho đầu óc và trái tim người ta chật chội, từ đó khó có những nhận định chính xác. Khi không có được nhận định chính xác, người ta không thể tự hướng dẫn mình và hướng dẫn người khác. Cọng rơm mà đặc thì không thể dùng để xỏ kim nam châm vào, để chỉ cho người ta biết hướng Bắc, Nam.

*

Bạn còn nói với tôi về sự đáng yêu trong cái tầm thường của rơm. Chúa Hài Nhi yêu sự khiêm hạ nên khi giáng thế Ngài đã chọn một hang đá nghèo hèn lạnh lẽo, và ngự trên một máng đựng cỏ, rơm. Vinh dự thay cho rơm, thụ tạo tầm thường “rơm rác” của trái đất, lại là vật đầu tiên được đụng chạm đến Thánh Thể Hài Nhi. Đâu còn vinh dự nào sánh bằng?

Và tôi thấy thích rơm hơn nữa. Tôi muốn giống rơm. Vì thế, tôi đã cầu nguyện với Chúa rằng: “Lạy Chúa, xin cho con biết hiền lành, khiêm tốn như một cọng rơm, để con được gần Chúa và được Chúa yêu. Xin cho trái tim con trống rỗng như một cọng rơm, để tình Chúa đổ xuống ngập tràn con tim ấy.”

Quyên Di

ĂN NĂN

Võ Hữu Nhậm

ĂN NĂN

Hôm qua nhà vợ có đám giỗ, vợ bảo nhà không làm cỗ, chỉ bày chút hoa quả cúng tổ tiên thôi. Anh về cũng được, nếu bận thì thôi. Vợ nói thì nói vậy, tôi tự thấy vẫn nên về.

Vợ chồng tôi sắp li hôn, sau 2 năm yêu nhau và 16 năm chung sống. Chúng tôi đến với nhau từ thời tôi còn hai bàn tay trắng. Hai vợ chồng trầy trật tạo dựng sự nghiệp, cuối cùng rồi cũng có ngày phát triển như hôm nay. Nhưng khi kinh tế đã đủ đầy thì tình yêu cũng thay đổi.

Thực ra là do tôi đã nguôi dần cảm xúc với vợ. Tôi ngoại tình và tự thấy cuộc sống hôn nhân quá tẻ nhạt. Sống chung thực ra chỉ làm vợ tôi thêm đau khổ, vậy nên tôi nghĩ li hôn là giải pháp. Vợ tôi ngày xưa rất cá tính và ương bướng, giờ làm ăn nên cũng trở nên khá gan lì.Cô ấy tất nhiên không chịu, nhưng sự im lặng kéo dài cũng khiến cô ấy ngột ngạt. Phụ nữ thực ra không giỏi chịu đựng như người ta tưởng, nhất là về phương diện tình cảm, nếu không níu được họ vẫn biết sẵn sàng buông.

Bố mẹ vợ đón tôi vẫn bằng nụ cười như mọi khi nhưng có vẻ hơi khách khí. Có lẽ vì biết chúng tôi sắp chia tay nên họ đón tôi như khách, không cho tôi động tay động chân việc gì. Mẹ vợ nhìn tôi lạnh nhạt, còn bố vợ đối với tôi vẫn thân tình niềm nở.

Bố vợ tôi là người ít nói. Từ ngày làm rể ông, chưa bao giờ tôi thấy ông can thiệp vào chuyện gia đình con cái. Nhưng lần này có vẻ như ông muốn nói. Ông bảo: Từ trước giờ bố vẫn đối với tôi như hai người đàn ông với nhau. Nhưng hôm nay bố muốn nói chuyện với tôi là tư cách bố vợ. Giọng ông chậm rãi, đều đều, nhỏ đủ để tôi nghe:

“Ngày xưa hồi cái Bống nó yêu con, bố mẹ không đồng ý. Bố mẹ chỉ có mình nó là con, bao yêu thương chăm sóc dồn cho nó cả. Tính nó từ bé đã ương bướng vì được bố mẹ nuông chiêu, cưng như hoa như trứng. Bố vẫn nghĩ nó lớn lên trong đủ đầy sẽ không thể nào chịu được khốn khó. Ngày nó nói yêu con và muốn lấy con, bố đã cản ngăn, không phải vì chê con mà vì sợ con gái bố nông nổi. Nó quen ăn sung mặc sướng, con thì thiếu thốn khổ nghèo. Nó vốn quen đón đưa, con thì một mái nhà để ở cũng không có. Nó yêu con, tưởng tình yêu là vĩ đại lắm, tưởng phong ba gì cũng vượt được, nhưng khi đối mặt với thực tại cơm tiền có chịu nổi không? Bố chỉ sợ nó lấy con rồi, được dăm bữa nửa tháng sẽ chạy về nhà than rằng con không quen chịu khổ, như vậy sẽ rất thiệt thòi cho con.

Dù vậy nó vẫn kiên quyết lấy, nó khóc lóc suốt ngày, nó quỳ lạy van xin. Làm cha mẹ, không thể thấy con mình yêu sống yêu chết mà nỡ can ngăn. Thôi thì nó lớn rồi, tự làm tự chịu.

Các con về với nhau, nhà phải đi thuê. Ba lần bảy lượt bố nói các con về sống chung, nó bảo không về. Nó không muốn con cảm thấy xấu hổ vì cậy nhờ nhà vợ, ăn không dám ăn, nói không dám nói. Rồi trong lúc khốn khó, con tập tành kinh doanh. Nó cũng nghỉ việc nhà nước hỗ trợ con. Nó mang bầu trong thời gian làm ăn nhiều thất bại. Đôi bận nó về nhà, người lả đi vì suy nhược, nhưng nó giấu con, không muốn con nghĩ ngợi mông lung.

Cuối cùng thì có công trồng cây cũng đến ngày hái quả. Các con dần có của ăn của để. Đứa trước lớn lên, đứa sau ra đời. Bố mẹ nhìn vào, cảm thấy hạnh phúc vì con mình đã trưởng thành, cứng cáp.

Lâu rồi nó về nhà, mấy lần trốn trong nhà tắm khóc. Mẹ con biết mới cố tra hỏi, nó bảo chồng con ngoại tình. Nó bảo nó không khóc trước mặt chồng, không muốn tỏ ra yếu đuối. Bố cũng không ngờ đứa con gái cá tính và bướng bỉnh ngày xưa nay lại trở nên yếu mềm như vậy. Từ bé tới lớn, người có thể làm nó khóc cũng chỉ có con.

Người ta nói, khó khăn thử thách lòng chung thủy của đàn bà. Giàu có thử thách lòng chung thủy của đàn ông. Khó khăn không làm lung lạc ý chí và tình yêu của vợ con, nhưng tiền bạc đã làm con thay đổi.

Bố không biết rốt cuộc là con gái bố đã làm sai điều gì với con, nó không biết ăn ở hay đối nhân xử thế tệ bạc? Nó ăn chơi trác táng hay bỏ bê chồng con? Là nó không tốt ở chỗ nào, hay chỉ vì đơn giản là con khát thèm sự mới mẻ?

Con nhìn xem, người phụ nữ đầu ấp tay gối với con 16 năm qua. 16 năm tuổi thanh xuân đẹp nhất cuộc đời nó dành để cùng con mưu sinh bươn chải. 16 năm nó bận bịu cho chồng cho con đến quên cả đòi hỏi. Giờ đến khi kinh tế đủ đầy rồi thì lại đối diện với cảnh chia ly. Người phụ nữ đã vì con mà từ bỏ đầy đủ ấm êm. Vì con mà cam tâm chịu khổ. Vì con mà mạnh mẽ, cũng vì con mà yếu đuối. Cuối cùng con lại làm khổ nó chỉ vì một người phụ nữ chưa một ngày vì con mà hao tâm tổn sức.

Người phụ nữ con đang yêu hiện tại, bố nghĩ nó chẳng có gì hơn vợ con, ngoại trừ tuổi trẻ. Tuổi trẻ vợ con cũng đã từng có, nhưng nó đã dành hết cho con rồi. Tiền bạc mà người phụ nữ kia đang được hưởng từ con, cũng có một phần mồ hôi và nước mắt của vợ con trong đó.

Là đàn ông bố biết, bản năng chinh phục ẩn giấu trong mỗi người. Nhiều khi chúng ta nhìn con mồi nằm gọn trong hang của mình rồi thì thèm khát những con mồi đang tung tăng ngoài kia. Ta thường đứng bên này đồi rồi ngó sang bên kia đồi xuýt xoa “ở bên kia cỏ sao mà xanh thế”. Thực tế thì đứng núi này chắc chắn sẽ thấy núi khác cao hơn.

Bố không muốn trách móc con. Nhưng bố là bố, cũng như con đối với con của mình. Làm bố, không thể thấy con mình khổ đau mà làm ngơ, không thể thấy con mình chịu ấm ức mà không lên tiếng.

“Làm bố của một cô con gái, ngay cả khi thấy nó cười vẫn cảm thấy bất an”.

Chưa bao giờ tôi thấy bố vợ tôi nói nhiều như vậy, cũng chưa bao giờ ông uống nhiều như vậy. Cả buổi tôi không nói một lời nào, chỉ sợ mỗi câu mình nói ra sẽ trở nên vô duyên vô dụng.

Vợ tôi từ đâu chạy ra, giật chén rượu trên tay bố: “Bố ạ, bố đừng uống nữa, đừng nói những chuyện vô nghĩa như thế nữa. Con đã giữ đúng lời hứa với bố ngày xưa, dù khổ cực đến đâu cũng không phụ anh ấy. Bố xem con gái bố mạnh mẽ thế này, con có khóc đâu mà bố lại khóc”.

Trong giây phút ấy theo lời kể của ông, bao nhiêu kí ức hiện về trong trí nhớ như một cuộn phim quay chậm lại từng chi tiết. Người ta vẫn thường nói không sai :

“khi bình yên, người ta thường quên đi những lời thề trong giông bão”

Dù sao thì ngày mai tôi vẫn phải đến tòa án. Đến tòa để rút lại đơn li hôn.

~~~Sưu tầm~~~

Người Lạc Mất Đường Về-TRUYỆN NGẮN – Nguyễn Thị Thêm

Van Pham

TRUYỆN NGẮN – Nguyễn Thị Thêm

Người Lạc Mất Đường Về

Người mẹ vừa chạy vừa thở dồn dập. Chiếc váy màu tim tím bay phần phật dưới cơn gió lạnh buổi tối. Cái áo sát nách tung tăng bộ ngực trần. Bà không kịp thay bộ đồ mặc ở nhà. Đôi dép hai quai mà người ta thường gọi là đôi dép lào kéo xoàn xoạt trên vĩa hè dành cho người đi bộ. Bà vừa chạy vừa thở, hai mắt nhìn chong về phía trước. Đôi mắt muốn chọc thủng màn đêm, xuyên suốt qua tận cùng cuối của con đường. Bà mong thấy một bóng người đang đi, hay ít nhất một cái gì đen đen nho nhỏ phía trước có hình dáng của một bóng người. Chiếc chìa khóa lắc lay trên tay. Một tay cầm chắc chiếc phone tay. Bà ngừng lại nghỉ mệt. Hơi thở đứt quãng. Bà bước chậm lại, rồi lại vội vã chạy về phía trước.

Bắt gặp 3 cặp trai gái đang đứng ôm nhau bên lề side walk. Một thoáng suy nghĩ lóe ra trong đầu:

– Có nên hỏi chúng không? Chúng có để ý đến những gì trước mặt không? Nếu không hỏi ngộ lỡ chúng thấy thì sao?

Bà dừng lại, vừa thở vừa hỏi:

– Xin lỗi. Làm ơn cho hỏi. Mấy em có thấy một ông già Á Châu , cao cở này đi bộ ngang đây không? Một thằng nhìn bà bằng đôi mắt dò hỏi rồi trả lời.:

– Có, tao thấy nó đi về phía trước.

– Cám ơn.

Và bà tiếp tục chạy, càng chạy nhanh hơn. Hy vọng tìm thấy chồng. Ông chồng tội nghiệp của bà đã bỏ nhà ra ngoài và chắc chắn ông không hề biết đường về nhà.

Con đường dường như dài hun hút. Không một bóng người phía trước. Tới ngã tư đèn xanh bà dừng lại. Nhìn bên phải, ngõ side walk im ắng trống trơn. Bà nghĩ: Không lẽ ổng đi xa vậy. Ngõ này bà chưa dẫn ông đi qua lần nào. Hay mình nhìn không kỹ trong nhà. Biết đâu ông ấy vẫn còn ở ngoài sân sau.

Bà lại vội vã chạy về như lúc chạy đi. Hai chân đã mỏi, hơi thở dồn dập. Bà mong mau tới nhà, niềm hy vọng nhen nhúm. Nghĩ tới lúc gặp ông đâu đó ở trong nhà bà nhẹ hẳn người.

Mở cửa bước vào bà bật đèn và kêu to ”Ông ơi, ông!” Nhà vắng vẻ, im lìm. Bà vào phòng, lấy đèn pin và rọi khắp nơi. Ra sân sau, bà tìm mọi góc xem ông có ngồi đâu đó hay không. Vẫn màn đêm chập choạng trả lời bà. Bà thật sự sợ hãi. Bà thật sự lo một điềm bất lành nào xảy ra.

Bà lại khóa cửa đi tìm ông ở một hướng khác. Bà bắt phone. Gọi con gái lớn, con gái thứ, con trai và hai vợ chồng em trai. Bà báo động và trả lời bằng tiếng nói dồn dập hơi thở theo bước chân đi:

– Ba đã đi đâu mất- Khoảng nửa giờ – Ba mặc áo jacket màu xám tro, quần đùi đen – Má ra thay nước uống cho con Lucy, trở vào thì không thấy ba đâu. -Hả! Má tìm vòng xóm rồi. – Ờ! ờ! Con đi lẹ lên tìm phụ má! Cậu đi gấp tìm phụ chị. Chị mệt quá rồi. Không biết anh đi đâu .

Vậy là đứa con gái thứ bỏ dang dở bữa ăn vừa dọn ra. Vợ một xe, chồng một xe. Hai đứa con được phân công một theo cha, một theo mẹ để ngồi trong xe nhìn ra ngoài tìm ông ngoại. Đứa con gái lớn đang ngồi tụng kinh ở chùa cũng bỏ ngang lấy xe đi tìm ba. Thằng con trai cũng vội vã phóng xe ra freeway đi về nhà. Hai vợ chồng thằng em cũng mỗi người một xe đi tìm anh rễ. Còn bà, bà chỉ biết đi tìm, hết đi rồi chạy vòng những con đường quanh xóm. Trời lạnh mà mồ hôi bà tươm ra. Bà mệt muốn ngất nhưng hai chân vẫn cứ từng bước mê mãi. Bắt gặp người nào trên đường bà cũng chặn lại hỏi và cho số điện thoại cầm tay:

– Làm ơn gọi lại dùm tôi ở số này nếu gặp một người đàn ông lớn tuổi cao cở này, mặc đồ… dáng …v. v…

Con đường vòng xóm quanh co cũng đưa bà về lại nhà. Bà ngồi bệt xuống bực thềm bằng gạch của vòng đai trồng hoa phía trước. Bà đoán những nơi nào ông sẽ đi qua. Ông chồng tội nghiệp của bà đã bị bệnh lãng quên từ mấy năm nay. Ông không thể nhớ đường về nhà, ông nói không rõ tiếng. Trời tối chập choạng này sẽ làm ông sợ hãi. Ông lại bị bệnh Parkinson chân tay run rẩy, có gì xảy ra ông làm sao biết đường xoay sở.

Những cú phone liên tục của gia đình gửi tới cho bà từ nhiều phía. Sáu chiếc xe loanh quanh trên mọi ngã đường khu vực nhà của bà cũng không tìm thấy bóng dáng ông đâu. Bà gọi con gái bảo đến chở má đi tìm chứ chân má quá mỏi rồi, không bước đi được nữa.

Chiếc xe ngừng trước cửa và bà lên xe, cùng con đi tìm những nơi khả dĩ ông sẽ đến. Hai mắt bà căng ra soi vào các bóng cây, gốc hoa ,vĩa hè bên lề đường để tìm xem ông có sợ quá ngồi núp ở đó không? Khi đi ông mang dép, quần chưa thay và không có mang theo bên mình một cái gì tùy thân. Trên tay ông chỉ duy nhất là chiếc lắc tay. Chiếc lắc đó ghi tên họ, số nhà, số điện thoại của bà và con gái. Một bên khác ghi rõ bệnh tình của ông. Bà cầu nguyện một người nào đó gặp ông và gọi cho bà. Mỗi lần phone reo là bà run lên hồi hộp.

Hơn một tiếng đồng hồ tìm kiếm, cuối cùng cả đoàn người trở về với đôi mắt thất vọng và gương mặt lo âu. Một lần nữa mấy đứa con quyết định lội bộ đi tìm lần chót những nơi khả dĩ ông sẽ tới. Tin về vẫn vô ích. Đứa con gái đi về lạnh run lên vì đi tìm ba ở những nơi thật vắng trong trường học. Lần trước ông cũng bỏ nhà đi, tìm mãi, tìm hoài khắp các nơi mà không gặp. Cuối cùng, con gái chạy vào sân sau của ngôi trường Tiểu học gần nhà, tìm được ông đang ngồi ở một băng ghế trước một lớp học. Hỏi sao ông ở đây? Ông nói đón mấy đứa tan học, mà sao giờ cô giáo chưa cho ra. Cho nên lần này con gái lớp chạy đi vòng khắp nơi để tìm nhưng vẫn bặt tin. Một đứa khác thì vào khu trung tâm thương mại sáng choang gần đó xem ba có vào mua cái gì hay không, mặc dù ông không mang theo tiền.

Biện pháp cuối cùng là gọi báo cảnh sát. Giả thuyết đặt ra, Ông không bị tai nạn. Vì nếu có tai nạn thì khi đi tìm gia đình đã thấy. Ông không gặp cảnh sát vì nếu gặp thì cảnh sát sẽ theo địa chỉ và số phone trên chiếc lắc tay mà gọi tới, Vậy ông chỉ có thể lang thang ở một nơi nào đó mà không biết đường về. Thằng út một lần nữa lại phóng xe đi.

Trong lúc chờ chiếc xe thằng út về là sẽ báo cảnh sát, cả nhà ra phía trước đứng ngóng tin. Người mẹ cứ nhìn con đường hun hút trước nhà hy vọng thấy bóng ông lù lù đi về.

Bỗng, một chiếc xe màu đỏ chạy tới, chậm chậm như tìm đường và quẹo vào nhà bà. Một người Mễ thò đầu ra ngoài dọ hỏi:’

– Có phải nhà này có một người đi lạc? Bà hối hả bước tới và nhìn vào trong xe.

– Yes! Yes! Trời ơi. Ba về rồi nè!

Cám ơn, cám ơn nhiều lắm! Bà cám ơn cuống quít người tài xế và chạy lại mở cửa xe. Ông ngồi phía trước, bình tỉnh cười cười như chẳng có chuyện xảy ra. Bà kéo chân ông ra khỏi xe và dìu ông đứng dậy. Cả nhà xúm lại hỏi thăm . Người tài xế mở cửa bước ra và vui vẻ trả lời.

Ông ta kể. Ông ta thấy một ông già Á Châu cứ loay hoay đi tới đi lui, dáng dấp như tìm đường mà không biết lối ra. Anh ta bước tới hỏi thăm và chỉ nhận được những tiếng thều thào run run theo tiếng nói không ra lời vì gió lạnh. Kết nối những tiếng đó anh ta nghe được chữ MountainView. Đó là con đường và cũng là cái tên trường Tiểu học con anh ta đang học. Anh ta đoán có lẽ ông già này ở đường Mountain View. Thế là anh đỡ ông già vào ngồi băng trước và lái xe đi, mong tìm đúng nhà lão già đi lạc. Đến đây anh ta thấy một nhóm người Á Châu đang đứng lóng ngóng như chờ đợi ai đó. Thế là anh ta tấp vào và hỏi. May quá đã trúng địa chỉ. Anh ta vui trong cái vui đoàn tụ của gia đình. Cả nhà cám ơn rối rít người Mễ tốt bụng. Không có gì mừng hơn tìm được người bị bệnh Alzheimers đi lạc về nhà.

Để tỏ chút lòng biết ơn, Bà gửi cho anh ta chút đỉnh gọi là phụ tiền xăng. Anh ta không nhận vì từ nhà anh đến đây cũng không xa lắm. Cả nhà cùng nói vào và năn nỉ. Cuối cùng anh ta nhận và chào mọi người lên xe ra về.

Đem ông chồng vào nhà, đầu tiên là bà pha cho ông ly nước ấm. Kéo ghế cho ông ngồi và giúp ông yên tỉnh lại. Bà xoa đôi tay lạnh cóng của ông, xoa đôi vai gầy gò cho ấm và khoác lên đôi vai một cái khăn cho ông bớt lạnh.

Thế nhưng, trái với sự lo lắng của toàn gia đình, ông lại là người bình tỉnh vui vẻ hơn ai hết. Ông cười cười nhìn một loạt cả nhà. Khi con gái hỏi:

– Ba đi đâu về vậy?

– Đi chơi

– Có vui không? Ông vui vẻ trả lời:

– Vui chớ! Đi ngoại quốc.

– Ba có nhớ đường về nhà không?

– Tìm không ra .

– Ba có sợ không?

– Sợ gì? Mà tối quá không biết nhà ở đâu.

– Ba nói tên nhà mình đi.

Ông trả lời từng chữ lấp bấp, thều thào và vui vẻ thấy mình cũng rất giỏi. Mình giỏi lắm. Mình biết rõ ràng tên đường và nhà mình. Tại cái tên Mễ kia không hiểu tiếng Việt. Mình đi chơi và đã về nhà bình yên.

Bà nhìn ông trong lòng dâng lên một niềm vui khó tả. Bà biết ông đang mừng lắm nhưng không nói ra mà chỉ cười cười. Bà nghĩ đến lúc ông đối diện bóng đêm và xung quanh là cây cối và những dãy nhà giống nhau. Có thể ông không dự định bỏ nhà ra đi, có thể chỉ vui bước chân hay ông nghĩ sẽ đi theo con đường đi bộ quen thuộc. Cũng có thể ông đi tìm bà vì không thấy bà bên cạnh. Thương ông biết chừng nào!

Ông là một cựu sĩ quan quân lực VNCH, đã từng là Đại đội trưởng tác chiến, phục vụ ở tiểu đoàn đối đầu với bao nhiêu trận chiến. Những nơi ông qua, những địa điểm ông đến ông đều ghi nhớ rất rõ ràng. Làm một người chỉ huy cái quan trọng là nắm bắt tình hình và bén nhạy với mọi tình huống, nguy cơ xấu có thể xảy ra. Ông từng nói với bà như vậy và luôn luôn nhạy bén với tình hình, mặc dù ông không còn là lính.

Ông rất thông minh nhất là tìm địa chỉ. Ngày xưa lúc bà mới quen ông, bà đi trọ học ở một xóm dệt ngoằn ngoèo trong ngõ hẻm ở quận Phú Nhuận.Tin rằng ông không thể nào tìm tới. Thế nhưng một buổi sáng chủ nhật từ trên gác bước xuống bà đã thấy ông ngồi đợi với nụ cười nửa miệng nửa mừng rỡ, nửa trêu chọc bà.

Ngày mới đến Mỹ, mới có bằng lái, đường xá chưa biết, ông vào tiệm bán xăng, mua bản đồ và trải ra giữa bàn, hí hoáy ghi ra giấy lộ trình đi và cuối tuần lái xe đưa cả nhà đi thăm những người bạn tù cũ hay đồng đội ở xa. Sống với ông bao nhiêu năm, bà biết rõ tính chồng và luôn khâm phục về cách tìm địa chỉ. Chỉ một tấm bản đồ chi chít những chữ nhỏ xíu, ông cũng tìm đúng nơi, đúng chỗ muốn tìm. Thời đó chưa có GPS hay Iphone, Ipad để tìm đường. Mọi việc chỉ nhờ những tấm bản đồ bằng giấy chi chít lằn ngang lằn dọc.

Bây giờ, chỉ một đoạn đường đi bộ vòng quanh xóm ông đã lạc đường. Càng nghĩ bà càng thương cảm, càng thấy cuộc đời thật là một vòng tròn huyền bí. Ông đã trở về vùng trời bình yên, khoảng trống vô tư của một đứa bé, thật an bình và cũng thật oái oăm. Bà cũng không hiểu sao cơ duyên nào mà ông có thể nhớ được địa chỉ nhà để người Mễ tốt bụng kia đưa ông về.

Thằng con lại gần bóp vai cha và xoa hai bàn tay đã trở nên giá lạnh của ông. Nó không có những cảm nghĩ như bà, vì khi nó ra đời và hiểu biết thì cha nó là một người cha nghiêm khắc, cứng rắn. Cái dĩ vãng oanh liệt của ông nó chỉ nghe nhưng chưa bao giờ thấy. Nó tự hào về ông nhưng những câu hỏi của nó về chiến tranh về tù đày, nó đã nghe ông trả lời nhưng không thể tưởng tượng ra được sự kinh hoàng của cuộc sống nơi đó.

Trước mặt nó là một người cha bệnh hoạn tội nghiệp, một người chỉ có một đoạn đường ngắn mà cũng không biết tìm về. Nhìn cha, nó thương ông biết bao nhiêu. Nếu không có người Mễ tốt bụng kia thì giờ này ông đang lạnh run trong bóng đêm và sợ hãi vì không biết lối về.

Ba đã về nhà bình yên. Con gái nhìn cha và vuốt lại lớp áo nhăn nhúm của ông:

– Tạ ơn Trời Phật, ba đã về nhà nguyên vẹn, không mất đi một miếng thịt nào. Nó nói xong cười vui vẻ xen lẫn một chút ngậm ngùi.

Phải rồi. Câu nói của nó nghe ngang phè lẫn chút tiếu lâm nhưng rất đúng. Những ngã tư đèn xanh, đèn đỏ. Những nút bấm dành cho người đi bộ mà ông không thể nào biết để sử dụng. Bóng đèn đường lấp loáng, xe cộ về đêm ai biết được chuyện gì có thể xảy ra. Càng nghĩ càng thấy sợ .

Người chồng, người cha, người anh như ông, không biết được tai hại của một lần bước ra khỏi nhà mà không biết đường về. Chỉ biết hôm nay mình đi xa, xa lắm, đi mỏi cả chân, gặp người lạ và giờ về nhà với đông đủ mọi người.

Người mẹ trong câu chuyện đã thấy cái sai của mình khi một chút lơ đãng đã không lock cửa kỹ càng. Người con trong câu chuyện thấy mình cần phải gần gũi cha hơn để cùng chăm sóc cho an toàn . Thấy mình có lỗi đã để mẹ chạy đi bao nhiêu đoạn đường tìm kiếm trong nỗi bất an. Mọi người dù mệt mỏi, đói và lo lắng nhưng vẫn thấy mình đã sai một điều gì đó. Chỉ có người tạo ra biến cố vẫn vui vì có một buổi tối thật lạ. Ông cười cười và bước từng bước mệt nhọc vào phòng và lẫm bẫm:

– Không biết hôm nay sao hai chân tui mỏi quá.

Mọi người tan hàng ra về. Người mẹ đưa chồng vào phòng và tắm rửa cho ông sạch sẽ. Ông lên giường và đi vào giấc ngủ thật say. Buổi tối lại trở về bình yên như có bàn tay vô cùng tuyệt diệu của ơn trên đã sắp xếp mọi thứ.

Bà mẹ vẫn chưa ngủ được, bà ngồi bên ông, lặng yên nhìn chồng. Gương mặt ông thay đổi theo giấc ngủ, khi thì nhìn thật an lành, lúc châu mặt lại nhăn nhúm. Có lúc rên khe khẻ hay hốt hoảng giật mình, người co rúm lại, tay chân giựt liên hồi. Bà nắm tay ông giữ thật chặt những lúc như vậy. Cả một quá khứ thương tích đã dìm ông vào những bi ai. Có khi ông ngồi nói chuyện hàng giờ một mình với những người đồng đội hay bạn tù khuất mặt. Có khi ông tươi cười bảo bà chuẩn bị quần áo vì ông có một buổi họp quan trọng ở Trung Đoàn. Đôi lúc đi loanh quanh tìm mẹ già và đoan chắc là bà vẫn còn sống. Cũng có nhiều khi bảo bà nấu nướng làm một bữa liên hoan có mấy đứa về chơi. Mấy đứa đây là nhóm đàn em lính tráng từng một thời sống chết với ông.

Bà nhớ lại cách đây không lâu, một dịp hai vợ chồng lên thăm thằng con đang phục vụ tại Nevada, base cũng gần Las Vegas. Cuối tuần vợ chồng nó dẫn cha mẹ đi ăn rồi đi mua sắm ở khu outlet. Bà lúc nào cũng nắm tay ông sợ ông đi lạc. Trời tháng 7 vùng đất sa mạc này nóng kinh hồn. Những cột nhỏ phun nước được bố trí dài theo hành lang khu shopping để giảm nhiệt.

Con dâu đẩy chiếc xe nhỏ của con, bà dẫn chồng kè kè một bên nên cũng không hứng thú mấy khi chọn đồ. Đứa con dâu chọn một cái áo thật dễ thương, nó hỏi ý kiến của bà. Bà quay sang cầm chiếc áo săm soi rồi trả lại cho con dâu và phát hiện ông chồng đã mất.

Bà hỏi thằng con, nó nói :

– “Ba mới đứng bên con mà”

– “Vậy ổng đi đâu?”

Thế là thằng con chạy đi tìm, ngược về đoạn đường mới đi qua. Bà đi ngược lại đoạn đường trước mặt. Hai mẹ con trở lại cũng không thấy bóng dáng ông đâu. Lại túa ra đi tìm. Ôi chao, trời thì nóng, phố xá đông người, các tiệm trùng điệp từng dãy, kẻ ra người vô. Bà cứ mở cửa một tiệm, ngó dáo dác xong lại đi qua tiệm khác. Thằng con cũng vậy. Con dâu thì cháu con quá nhỏ không dám ra nắng nhiều đành ở điểm hẹn nhận tin tức. Cuối cùng thằng con phải đi báo “tìm người thất lạc” tại trung tâm mua sắm. Trong lúc đi tìm bà cũng thấy những người security đi các tiệm và dọ hỏi tìm : “ông già người Á Châu đi lạc đội cái mũ in chữ Laker, mặc quần áo… “

Khi trở lại gặp con dâu, bà run cả người, tim đập mạnh muốn ngất vì mệt và vì sợ. Ai đã từng đi Las Vegas hay khu mua bán này thì đều biết người đi như trẩy hội, xe cộ chạy như mắc cửi. Chỉ bước xuống đường là xe có thể cán ngay thôi. Con dâu tìm đủ cách trấn an bà, mua nước cho bà uống và giao bà coi chừng cháu để nó đi. Bà biết đó là cách con dâu bắt bà ngồi lại nghỉ mệt. Mãi lúc sau mới thấy thằng con và dâu dẫn ông lù lù đi về. Hỏi ra mới biết có một bà trong tiệm vóc dáng giống bà đi ra nên ông đi theo. Bà ta đi nhanh và mất hút trong các cửa tiệm. Thế là ông lang thang đi tìm bà. Đi mãi, đi mãi quá khát nước ông ngồi một góc ghế khuất để nghỉ mệt. Thằng con đi qua lại tìm ở đó mấy dạo mà không thấy ba. Có lẽ tầm mắt bị che bởi những người du khách. Nhìn ông hốc hác mệt mỏi vì khát và nóng, các con mất cả hứng thú mua sắm. Sau khi cho ông nghỉ mệt, uống nước và báo tin đã tìm được ông cho tổng đài mọi người lên xe đi về.

Hỏi ông có sợ không? Ông lắc đầu nói: Sợ chi, người ta đông vui quá mà. Hỏi sao ông bỏ đi. Ông nói Ba đi tìm má con rồi ông cười. Nụ cười vô tư lẫn chút ngờ nghệch.

Thế là thằng con tìm trong web để mua cho ba những dụng cụ dành cho người già hay bị thất lạc. Rất nhiều thứ nhưng rất khó để ông chịu giữ trong mình. Cuối cùng đành mua tấm lắc đeo tay có ghi tên, họ, bệnh trạng, số phone và địa chỉ nhà để lỡ có việc gì cũng có người xem và giúp ông hay gọi liên lạc về gia đình.

Bà ngồi trầm tư, thương ông quá mà không biết làm sao.Cuộc đời bà gắn vào ông như hình với bóng một phút không rời. Đó là may mắn hay bất hạnh bà cũng không biết nữa. Nhưng tin chắc là bà không thể sống như các bạn bè trang lứa, về già hưởng những ngày hạnh phúc bên nhau Cùng đi chơi chỗ này chỗ kia trên thế giới, tham dự các buổi họp mặt liên hoan hay cùng nhau đi dạo, hàn huyên tâm sự.

Bà không biết ai là cái bóng của ai? Bà hay ông? vì thật ra bà không dám rời ông nửa bước. Người chồng của bà thật im lìm, ngớ ngẩn và bệnh hoạn, đôi khi không biết bà là ai và luôn cảm thấy bà cản trở mọi ước muốn. Bà là cái bóng của một cái hình lạc mất đường về nên bóng cũng chông chênh. Đôi lúc bà thấy mình rất tội nghiệp, nhưng nhìn ông, bà lại càng tội nghiệp ông hơn. Những con người, những nạn nhân của chiến tranh, tù tội, tuổi già và dường như đó là hậu chấn của cơn động đất ý thức hệ dân tộc.

Tháng 6 là tháng của cha. Người cha tội nghiệp trong câu chuyện tôi viết lên đây là thật. Người cha trong số những người cha, người mẹ đã đến tuổi già hay mang chứng bệnh Alzheimers. Họ đang sống trong thế giới mông lung của một bộ não đã lãng quên nhiều thứ. Họ đã bỏ lại sau lưng một quá khứ vàng son hay một cuộc đời đầy bất trắc để sống vô tư và mênh mang trong tiềm thức.

Hãy yêu thương và bảo vệ họ bằng tất cả trái tim chân thành và chịu đựng. Hãy cho họ một cuộc sống được bảo bọc và chia sẻ. Biết rằng chăm sóc họ là cả vấn đề nhưng tình gia đình, sự hiếu thuận của con cái là tất cả những gì cần phải có. Để những lúc bất ngờ như câu chuyện trên ta không cảm thấy bực bội hay giận hờn mà là mừng rỡ niềm vui đoàn tụ.

Hãy cho người cha, người mẹ tội nghiệp một bờ vai, một nắm tay ấm êm hạnh phúc.

Như ngày xưa. Vâng! như ngày xưa khi các con còn bé xíu nằm êm ấm, hạnh phúc trong vòng tay thương yêu bất tận của hai đấng sinh thành.

BLIND MAN

BLIND MAN

Anh bị mù từ lúc mới sinh ra. Tức là thế giới xung quanh anh chỉ là một màu đen kịt. Thậm chí anh không có cả khái niệm về màu sắc nữa, chỉ biết mẹ anh bảo đó là màu đen.

Mù bẩm sinh ít có cơ hội để phục hồi cho nên những lần đi khám, chữa bệnh thường kỳ đối với cha mẹ anh cũng chỉ là phương pháp để an ủi và nuôi hy vọng cho con mình mà thôi…

Điều mà họ có thể mang lại lợi ích thiết thực nhất cho anh là gửi anh vào một trường học chữ cho người mù …

Từ khi biết đọc, anh hình dung được vạn vật mà không nhất thiết phải dùng đến tay để sờ mó…

Anh rất thích những bông hoa vì thấy nó mềm mại, và có mùi thơm khác nhau… Người ta nói, những người bị mù thì thường các giác quan khác cực kỳ phát triển, điều này rất đúng với anh. Hàng chục các loại hoa khác nhau, chỉ cần đưa lên mũi là anh có thể nói tên vanh vách.

Người ta thường khen hoa đẹp, mà chẳng bao giờ thấy ai chê… cho nên anh có ước mơ: Nếu được nhìn thấy ánh sáng cho dù chỉ một lúc thôi thì ngoài cha mẹ ra anh sẽ chọn những bông hoa để ngắm nhìn chiêm ngưỡng…

Từ khi biết đọc, anh còn biết thêm hoa còn là biểu tượng khi người ta ngưỡng mộ tôn sùng lẫn nhau …

Năm nay anh đã 17 tuổi, trong thế giới đen kịt của anh bỗng thỉnh thoảng lại lóe lên những “tia chớp” có màu khang khác, không phải màu đen. Thấy lạ, anh kể với bố mẹ. Họ lập tức đưa con trai đi khám… Sau 2 ngày xem xét kỹ các kết quả khám nghiệm, bác sĩ chuyên ngành gọi riêng cha mẹ anh đến để nói chuyện:

– Con trai của ông bà bị mù bẩm sinh là do thiếu tác động của một loại hormone , chúng tôi đã dùng nhiều loại thuốc để kích hoạt nhưng không có hiệu quả…Năm nay cháu 17 tuổi, tuổi dậy thì. Nội tiết tố trong cơ thể thay đổi, nếu cháu tự nhiên nhìn thấy những tia sáng, điều này chứng tỏ hormone đã có những tác đông tích cực đến thị lực của cháu. Đây là một điều rất đỗi khả quan cho chúng ta…Nếu ông bà đồng ý tôi sẽ gửi các mẫu xét nghiệm của cháu ra nước ngoài. Vạn sự mà được như ý thì chỉ sau một cuộc phẫu thuật của họ, ánh sáng sẽ đến với con trai của ông bà …Có điều là, chi phí cho việc này rất tốn kém, nếu gia đình  không có điều kiện thì tôi cũng không thể giúp được điều gì hơn…

Tất nhiên là cha mẹ anh đồng ý ngay lập tức, đối với họ việc này không cần phải suy nghĩ vì họ chỉ có với nhau một đứa con trai. Còn chuyện tiền nong thì họ có thể lo được, nếu cần thì sẵn sàng bán đi tất cả để đổi lấy ánh sáng, đã từ lâu tối mờ trong gia đình của mình…

Bác sĩ bổ sung thêm:

– Trong thời gian chờ đợi có khi tới khoảng 2 tháng. Tôi nghĩ, con trai của ông bà phải sống tại trại điều dưỡng và phục hồi khuyết tật cho người mù của chúng tôi, để được theo dõi thường xuyên và kỹ lưỡng hơn. Và đặc biệt trong thời gian này, cháu nó tuyệt đối không được khủng hoảng về tinh thần, như tức giận, đau buồn, thất vọng …Tôi nói vậy chắc ông bà hiểu…Tất cả chúng ta phải cố gắng cùng nhau tạo cho cháu một môi trường sống thật bình yên và vui vẻ…
……………………………………………………………………………………………….

Cô cũng bị “mù”, nhưng chỉ là tạm thời, đó là kết quả của 1 va chạm trong một tai nạn giao thông…

Cô vào trạm điều dưỡng này đã hơn 3 tuần. Theo lời các bác sĩ thì tiến trình phục hồi của cô rất kém bởi vì cô hay khóc và tức giận mỗi khi chạm vào những vết sẹo chưa lành hẳn trên cơ thể và chỉ nhìn thấy trước mặt mình một màn tối đen …

Hôm nay, đang ngồi thừ ra suy nghĩ “chuyện đời” thì cô được bác sĩ trưởng khoa gọi lên phòng khám, nghe nói ông này là chuyên gia lẫy lừng đã mang lại “ánh sáng” không biết cho bao nhiêu người…

– Cháu ngồi xuống đi – Bằng giọng nói đầy truyền cảm và thuyết phục bác sĩ nói với cô gái:

– Đáng lẽ ra cháu được xuất viện từ lâu rồi, nhưng chỉ vì thiếu lạc quan với cuộc đời và hay khóc cho nên cháu cho đến giờ vẫn ngồi trước mặt chú đấy

– Nhưng…Cô định nói gì đó nhưng ông đã ngắt lời:

– Thôi bỏ qua chuyện đó đi, hôm nay chú có một chuyện khiến cháu sẽ vui và không bao giờ khóc nữa, bệnh của cháu chẳng mấy chốc mà lành. Cháu sẽ được giao một nhiệm vụ rất quan trọng và sẽ không còn cảm giác là người thừa khi vào đây nữa

Cô bắt đầu thấy tò mò và lần đầu tiên kể từ khi bị tai nạn cô mỉm cười :

– Nhiệm vụ gì thế hả chú ?

– Ngày mai sẽ có một chàng trai trạc tuổi với cháu nhập viện để chờ một ca mổ tại nước ngoài, anh ấy thật đáng thương vì bị mù cả 2 mắt từ lúc mới sinh ra, nhưng lại rất lạc quan và yêu đời , đặc biệt có rất nhiều tài năng mà người bình thường không thể có. Tiếp xúc với anh ấy, cháu sẽ thấy rất thú vị cho mà xem …Nhiệm vụ của cháu là chủ động tiếp cận làm quen, chia sẻ mọi chuyện buồn vui, mục tiêu là để anh ấy không bị rơi vào trạng thái khủng hoảng tinh thần do nhớ nhà và cô đơn gây ra

Thấy mình được người lớn tin cậy và cũng vì sự tò mò của một cô gái mới lớn chưa có người yêu, cô gật đầu đồng ý.

Trước khi cô ra về bs còn nói với theo “ Bằng mọi giá cháu nhé, nhớ đấy! Chú rất hy vọng ở cháu!”

Nhiệm vụ được giao đã hoàn thành một cách xuất sắc. Chỉ có vài ngày mà họ đã thân quen như đã từng biết nhau từ thủa thiếu thời…

Chưa bao giờ cô thấy có một “nhiêm vụ” nào mà nó đáng yêu đến thế! … Chàng trai luôn làm cô ngạc nhiên về tài sử dụng các giác quan khác của một người khiếm thị bẩm sinh … Chỉ cần sờ lên các đồ vật là anh biết ngay chúng được làm bằng gỗ, nhựa hay sắt thép.. Hỏi, “tại sao anh biết?” thì nghe câu trả lời rất đơn giản “chúng nóng lạnh khác nhau mà”.

Nhất là tài phân biệt các loại hoa thì cô phục sát đất luôn! Cô hay được bố mẹ, bạn bè mang hoa đến tặng, anh ngửi chúng và gọi tên chẳng bao giờ sai. Thậm chí hoa tulip và thược dược chẳng có mùi vị gì mà anh cũng phân biệt được …

Anh thì cũng “mê” cô chẳng kém, mê từ giọng nói, tiếng cười, đặc biệt là cái sở thích “yêu hoa” của cô rất giống anh. Qua các câu chuyện của cô, thế giới không những trở nên nhiều màu mà nó còn có thêm cả vị nữa, đó chính là vị ngọt của tình yêu mà anh chưa được biết…

Hai tuần đã trôi qua…Tình yêu là bản năng gốc của con người không phận biệt ngoại lệ, nó đã đến là không ai có thể né tránh được…Anh và cô cũng vậy, họ yêu nhau từ lúc nào mà chẳng biết … Gặp nhau từ sáng đến tối mà họ vẫn thấy “thiếu” nhau kinh khủng, màn đêm trong đôi mắt anh luôn luôn có chớp giật, nhất là những khi họ cầm tay, dắt nhau đi chơi…

Tất nhiên nhiệm vụ nào mà chẳng có “sự cố” …. Đó là lần anh bỗng nhiên ôm cô thật chặt, cô muốn kêu lên và đẩy anh ra nhưng nhớ lại lời dặn của bác sĩ, cô nhanh trí nói nhỏ vào tai anh “Em bị tai nạn, cơ thể vẫn còn đau lắm, tạm thời mình đừng làm thế anh nhé!” …

Vị bác sĩ đôi khi cũng muốn hỏi cô về cái nhiệm vụ ấy đã làm được đến đâu, nhưng hàng ngày vẫn được nghe tiếng cười của họ từ hành lang vọng vào phòng khám, ông lại thôi và chỉ mỉm cười mãn nguyện…

Một lần anh đợi cô ở trước cổng viện, bỗng có một thứ mùi rất đặc biệt của các loại hoa trộn lẫn nhau… Anh cất tiếng gọi:

– Này! Người bán hoa ơi! Làm ơn lại đây cái nào! …

Bà bán hoa chạy lại:

– Cậu gọi tôi à? không nhìn thấy gì sao mà biết được nhỉ?”

Anh chỉ mỉm cười:

– Bà làm ơn bán cho cháu mấy bông hoa màu vàng và màu tím có được không ạ? Cô ấy thích hai màu này lắm …

Cầm lấy bó hoa nhỏ anh đưa lên mũi hít từng hơi thật dài, cô cũng vừa chạy tới, anh đưa hoa cho cô rồi nói:

– Anh thấy trong sách họ viết, hoa là biểu tượng cho sự tôn sùng và ngưỡng mộ lẫn nhau, em cầm lấy đi, đây là lần đầu tiên anh tặng hoa cho một cô gái đấy …

Cô cầm hoa rồi bẽn lẽn dụi đầu vào ngực anh:

– Em cũng thế, lần đầu tiên được một người đàn ông tặng hoa, em sẽ giữ nó mãi anh nhé!”….

Một tháng trôi qua, cô đã bình phục, hình dáng của anh đã rõ nét chứ không còn “lờ mờ” như xưa, anh cao lớn, đẹp trai còn hơn cả cô tưởng tượng… Đôi khi cô còn chạnh lòng “To cao đẹp giai vậy,sau này khỏi bệnh chắc gì đã đoái hoài đến mình!!”

***

Và tin vui của anh cũng đã đến trước thời hạn… Bên kia họ điện về bảo bệnh nhân phải sang gấp để khỏi bỏ lỡ cơ hội “ngàn năm có một ” . Bệnh của anh là đề tài nghiên cứu khoa học của rất nhiều người cho nên được miễn phí. Gia đình anh chỉ cần phải lo chuyện đi lại ăn ở mà thôi…

Ngày chia tay, thấy anh có vẻ buồn khi cùng cha mẹ bước ra khỏi cổng viện… Cô gọi, anh quay lại, họ ôm chặt lấy nhau, cô thì thào:”anh hãy vui lên, đừng buồn, thành công hay thất bại em cũng vẫn sẽ đợi anh về với em”, nói rồi cô đặt lên môi anh một nụ hôn vụng về nhưng nồng cháy…Lần đầu tiên anh được biết “nụ hôn” có sức mạnh ghê gớm như thế nào. Toàn thân anh như bốc lửa, màn đêm trong mắt anh lại nổi cơn giông tố đầy màu sắc…

Lại một tuần trôi qua, không có ngôn từ nào có thể lột tả hết niềm vui không giới hạn của anh khi được tháo băng trên mắt. Trong cái phòng tối đó, lần đầu tiên trong đời, anh nhìn thấy mọi người và các đồ vật ở xung quanh mình…

Rồi, tất cả đi ra, chỉ còn anh và bố mẹ ở lại ôm nhau mà khóc, nước mắt được nhân ba trong một niềm vui đang nức nở…

Vài ngày sau anh đã được tiếp cận với mặt trời. Việc đầu tiên là anh ra vườn trước cổng bệnh viện để ngắm những bông hoa…

Nếu như mặt trời rực rỡ gấp trăm lần trong tiềm thức , thì những bông hoa còn đẹp hơn gấp nghìn lần so với trí tưởng tượng của anh hồi ấy….

Và anh nghĩ đến cô, anh không biết cô trông như thế nào nhưng tấm lòng cô dành cho anh có lẽ còn đẹp hơn gấp vạn lần mặt trời và hoa…

Anh nhắm mắt lại, trong vườn rất nhiều hoa, nhưng anh không tìm thấy mùi vị của những bông hoa mà anh đã tặng…

Ngày bay về nước, mẹ nói với anh: ”Cha mẹ đã sinh ra con lần thứ nhất trong bóng tối nhưng may mắn thay con lại được người ta tái sinh lại dưới ánh mặt trời, con có biết những người ấy là ai không?” Anh trả lời không chút ngần ngừ
– Đó là bác sĩ trưởng khoa viện mắt TW “…
– Còn ai nữa?”
Anh lắc đầu, thì mẹ nói:
– Là người yêu của con đấy, hơn một tháng chờ đợi phẫu thuật, cô ấy đã đem hết tình yêu, lòng bao dung của người phụ nữ dành cho con, để cảm giác hạnh phúc không rời con nửa bước mặc dù đáng nhẽ ra cô ấy đã được ra viện từ lâu

Bây giờ anh mới hiểu, và càng cảm thấy nhớ cô hơn…Mẹ lại nói:
– Chuyện con lành bệnh mọi người đã biết cả rồi. Họ quyết định ra sân bay để đón con đấy, liệu con có thể dùng trực giác của mình như xưa để tìm ra họ được không?
Anh nói giọng quả quyết
– Con sẽ làm được mà, hãy tin ở con đi…

Qua khỏi hàng rào kiểm soát, trước mắt anh là cả một rừng người, hoa nhiều vô số, họ đang ngóng đợi người thân của mình trở về…

Thấy anh có vẻ hoang mang mất phương hướng, mẹ anh động viên:
– Con hãy tìm đi! họ đứng ở hai nơi khác nhau nhưng đều mang theo những dấu hiệu riêng mà con còn nhớ…

Anh nhắm mắt lại suy nghĩ gì đó rồi nói với mẹ:
– Mẹ lấy cái khăn và bịt mắt con lại đi !”

Mẹ anh làm theo, cả thế giới ngày xưa lại trở về… Anh đi lang thang giữa dòng người…

Thấy chuyện lạ nhiều người quên cả việc đón thân nhân, nhìn anh theo dõi…Bỗng anh dừng lại, cởi khăn che mắt rồi quỳ gối trước một người đàn ông tuổi trung niên giọng ngẹn ngào:
– Chú ơi, con đã về với chú đây này! Cám ơn chú đã đem lại cho con điều rực rỡ nhất của cuộc sống con người là ánh sáng mặt trời…

Người đàn ông vội đỡ anh dậy:
– Con vấn giỏi giang như xưa, chỉ cần chú mặc bộ blu của bệnh viện có mùi thuốc mà hàng ngày con phải uống là đã nhận ra rồi. Bây giờ thì con hãy đi tìm tình yêu của mình đi, mau lên!”

Anh lại buộc khăn che mắt và đi tiếp vào dòng người, họ như biết chuyện của anh, tất cả đứng im lặng để cổ vũ …

Cô vội đỡ anh lên, vì cô không muốn anh phải quỳ… Anh cũng không cởi khăn vì chỉ muốn cho cô biết rằng cô luôn xinh đẹp và cao cả như xưa, tấm lòng của anh bây giờ dành cho cô vẫn là tấm lòng của thằng mù hồi ấy và sẽ không bao giờ thay đổi theo thời gian…

Họ ôm hôn nhau trong tiếng vỗ tay của tất cả những ai hôm đó đã từng có mặt tại sân bay này…

Có một điều khó hiểu đối với nhiều người là tại sao anh lại tìm ra cô dễ dàng đến như vậy? Chuyện này đối với anh thật đơn giản, anh đi theo mùi vị đặc biệt của một bó hoa mà cô đang cầm ở trên tay, bó hoa mà hôm đó anh đã tặng cô ở cổng bệnh viện, nó đã khô lại nhưng hương vị thì vẫn chưa phai mờ…

From: KimBang Nguyen

SỰ KỲ DIỆU CỦA TÌNH YÊU THƯƠNG…!

SỰ KỲ DIỆU CỦA TÌNH YÊU THƯƠNG…!

Giống như bất kỳ người mẹ nào, khi Karen biết mình mang thai, cô làm tất cả những gì có thể để giúp đứa con trai 3 tuổi, Michael, chuẩn bị tâm lý chào đón một thành viên mới trong gia đình.

Thành viên mới này là một bé gái. Ngày ngày, Michael hát cho đứa em gái còn trong bụng mẹ nghe. Cậu bé đã xây dựng tình yêu thương đối với em gái mình ngay cả trước khi cô bé ra đời.

Thai kì tiến triển bình thường. Theo thời gian, những cơn đau chuyển dạ đến. Mỗi năm phút, ba phút rồi một phút một lần. Tuy nhiên, biến chứng nghiêm trọng phát sinh, Karen chuyển dạ hàng giờ. Cuối cùng, em gái của Michael chào đời. Nhưng cô bé lại trong tình trạng rất nguy kịch. Tiếng còi hú trong đêm, xe cứu thương vội vàng chở đứa trẻ sơ sinh đến khu chăm sóc trẻ sơ sinh tại bệnh viện St. Mary, Knoxville.

Thời gian trôi dần… Tình trạng của bé trở nên tồi tệ hơn. Các bác sĩ nhi khoa nói với cha mẹ Michael rằng có rất ít hy vọng, hãy chuẩn bị tinh thần cho tình huống xấu nhất…!

Karen và chồng liên lạc với một nghĩa trang địa phương để chuẩn bị cho việc chôn cất. Họ đã chuẩn bị một căn phòng đặc biệt trong nhà cho em bé mới, nhưng giờ phải lên kế hoạch cho một đám tang…!

Tuy nhiên, Michael đã van nài cha mẹ cho cậu vào gặp em gái mình. Cậu bé nói: “Con muốn hát cho em ấy nghe…!”.

Tuần thứ hai trong phòng chăm sóc đặc biệt. Michael tiếp tục nài nỉ để được hát cho em gái mình, nhưng trẻ con không được phép vào phòng chăm sóc đặc biệt.

Karen quyết định đưa Michael vào thăm em mình cho dù bệnh viện có đồng ý hay không. Nếu giờ cậu bé không được nhìn thấy em gái mình, thì có thể sẽ không bao giờ còn cơ hội nữa. Michael mặc bộ quần áo quá khổ và được dẫn đến phòng chăm sóc đặc biệt. Trông cậu bé giống như một giỏ đựng quần áo di động.

Người y tá trưởng nhận ra cậu bé và hét lên: “Đưa nó ra khỏi đây ngay. Trẻ con không được phép vào!”

Bản năng làm mẹ trong Karen trổi dậy và người phụ nữ bình thường hòa nhã nhìn trừng trừng vào mắt người y tá trưởng, với một giọng đanh thép, cô nói: “Cậu bé sẽ không rời khỏi cho đến khi nó hát cho em gái mình nghe…!”

Sau đó, Karen kéo Michael đến bên giường cô bé. Cậu bé nhìn chằm chằm vào đứa em đang yếu dần trong cuộc chiến giành lấy sự sống…! Sau một lúc, cậu bắt đầu cất giọng. Bằng giọng trong veo của một đứa trẻ 3 tuổi, Michael hát:

“You are my sunshine, my only sunshine, you make me happy when skies are gray.” (Bé là ánh nắng, ánh nắng mặt trời duy nhất của anh, bé làm anh hạnh phúc dẫu bầu trời xám xịt.)

Ngay lập tức, cô bé dường như có phản ứng. Mạch bắt đầu trở nên ổn định.

“Tiếp tục đi Michael”, Karen động viên, mắt ngấn lệ.

“You never know, dear, how much I love you, please don’t take my sunshine away.” (Bé con à, em không biết anh thương em thế nào đâu, xin đừng lấy đi ánh nắng mặt trời đi.)

Khi Michael hát, hơi thở rời rạc, yếu ớt của em bé trở nên nhịp nhàng. “Tiếp tục đi, con yêu…!”

“The other night, dear, as I lay sleeping, I dreamed I held you in my arms”. (Bé con ơi, một đêm nọ, khi anh nằm ngủ, anh mơ được ôm em trong vòng tay.)

Em gái của Michael bắt đầu thư giãn như đang ngủ. “Tiếp tục đi, Michael.” Lúc này, nước mắt đầm đìa trên gương mặt của người y tá trưởng hống hách. Karen thì cảm thấy ấm lòng.

“You are my sunshine, my only sunshine. Please don’t take my sunshine away…” (Bé là ánh nắng, ánh nắng mặt trời duy nhất của anh. Xin đừng lấy ánh nắng ấy đi …)

Ngày hôm sau, ngay ngày hôm sau…, một thời gian ngắn tiếp theo…, cô bé đã đủ khỏe để trở về nhà…!

*Thế mới hiểu: “Nơi nào có tình yêu thương chân thành thì nơi đó, luôn có điều kỳ diệu đáp đền…!”*

❁ Trần Hồng Điệp

*Dịch từ truyện ngắn The miracle of love, true story.

(Đinh Trực sưu tầm)

TRUYỆN NGẮN – BỬU UYỂN…. Chiếc Áo Len

Van Pham

Chuyện tình tuổi học trò… vì thế nó thơ mộng, mộng mơ nửa như thật, nửa như ảo ảnh. Thôi thì bạn cứ đọc để tìm vui, để mơ về một thủa ngày xưa ấy…

***

TRUYỆN NGẮN – BỬU UYỂN…

Chiếc Áo Len

Năm 1969, Minh học lớp Đệ Nhất trường Quốc Học Huế. Gia đình Minh ở Vỹ Dạ, một vùng ngoại ô quen thuộc đối với người Huế. Năm nay Minh đã 19 tuổi, nhưng Minh rất nhút nhát trong việc giao thiệp với người khác phái, vì vậy cho đến nay, Minh vẫn chưa có bạn gái.

Minh có một sở thích khá lạ lùng, là mỗi buổi sáng, anh thích đứng trước nhà, nhìn người qua lại một lúc trước khi đạp xe đạp đi học. Môt thời gian sau, anh đã nhớ mặt bác đạp xích lô, với chiếc áo nhà binh đã bạc màu, chị bán bánh dầy, một bà đứng tuổi với gánh bún bò thơm ngát…

Nhưng cái đặc biệt mà Minh nhớ nhất là việc chú ý đến một cô gái gánh đậu hủ trên vai, nhẹ nhàng thoăn thoắt đi bên kia đường. Anh không nhìn rõ mặt cô gái , vì chiếc nón lá che khuất nửa khuôn mặt của cô ấy; anh chỉ nhìn được chiếc lưng thon nhỏ của cô. Cô gái mặc một chiếc áo dài vải thô màu hạt dẻ, ôm lấy thân hình mảnh mai của cô. Minh ngạc nhiên , vì đang mùa đông lạnh lẽo mà sao cô ấy ăn mặc sơ sài quá vậy.

Từ đó, mỗi buổi sáng, Minh ra đứng trước cửa nhà, nhưng anh không còn nhìn vẫn vơ như trước nữa, anh đã có đối tượng để trông chờ, đó là cô gái bán đậu hủ. Từ xa, anh đã thấy cô gái đang đi tới, cô vẫn mặc chiếc áo dài cũ kĩ, mỏng manh. Tự nhiên, Minh thấy lạnh, không phải anh lạnh vì thời tiết , nhưng anh cảm nhận cái lạnh từ cô gái…Một ý nghĩ đáng yêu thoáng qua trong trí óc anh: “tại sao mình không tặng cho cô âý chiếc áo len, để cô đỡ rét trong những ngày đông giá lạnh nầy”.

Minh đánh liều , xin mẹ anh đan cho anh một chiếc áo len con gái. Mẹ anh mĩm cười :” Đã có chuyện rồi đây!”. Ba ngày sau, mẹ anh trao cho anh chiếc áo len mịn màng , màu cánh sen. Minh lí nhí cám ơn mẹ.

Hôm sau, anh ra đứng trước cửa sớm hơn thường lệ, tay ôm chiếc áo len, lòng rộn ràng…Minh đã thấy cô gái đi đến, với dáng điệu quen thuộc . Minh thu hết can đảm , băng qua bên kia đường để đón cô gái. Minh đứng chắn ngang đường , làm cô gái bỡ ngỡ dừng lại ngạc nhiên nhìn anh. Đây là lần đầu tiên anh được đứng gần cô gái và nhìn rõ mặt cô ấy, lòng anh lâng lâng như vừa uống một ly rượu mạnh. Chàng nhỏ nhẹ nói với cô gái:”Tôi tặng cô chiếc áo len nầy.. ” và trao chiếc áo cho cô gái. Ngần ngừ một chút, cô gái mới đón chiếc áo len. Cô nhìn Minh, cảm động nói : “Cám ơn anh”. Cô khoác chiếc áo len vào người, thong thả đặt gánh đậu hủ lên vai, rồi từ từ bước đi. Minh ngẩn ngơ nhìn theo cô gái, anh thấy lòng mình rộn rã, chơi vơi…anh đang sống những giây phút đẹp nhất mà anh chưa bao giờ có trong đời.

Hôm sau, và hôm sau nữa, mỗi buổi sáng, Minh lại ra cổng đứng nhìn cô gái đi qua. Mấy hôm nay, anh thấy hình như cô gái có ngước nhìn anh, khi đi ngang qua chỗ anh đang đứng, chỉ có thế mà anh vui vẻ suốt ngày, anh cảm thấy cuộc sống thật hạnh phúc.

Tuy nhiên, những ngày hạnh phúc đó sớm qua đi, chỉ mấy tháng, sau khi anh đậu Tú Tài toàn phần, anh nhận được giấy gọi nhập ngũ. Anh theo học khóa Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức. Giữa năm 1970, anh ra trường với cấp bậc Chuẩn Úy. Anh được điều động về phục vụ ở Tiểu khu Phong Dinh, anh xa Huế từ đó. Anh được cử giữ chứcTrung Đội trưởng, rồi Đại Đội Trưởng Địa Phương Quân ở Chi khu Phụng Hiệp, thuộc Tiểu khu Phong Dinh ( Cần Thơ).

Những lúc đi hành quân, hay những đêm ngủ ngồi trên bờ kinh…anh nhớ cô gái ấy lắm. Nhưng đời binh nghiệp trong thời chiến đã giữ chân Minh, ngày đêm sống chết với mãnh đất nầy, anh chưa có cơ hội nào để về thăm lại “người yêu”.

Rồi ngày 30 tháng 4 -1975 ập đến. Cũng như các Sĩ Quan khác của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, anh bị bắt đi tù cải tạo. Anh bị chuyển từ trại nầy qua trại khác ở Miền Tây , cho đến năm 1985, anh được trả tự do. Trước khi được tha về, họ hỏi anh “về đâu” để họ viết vào “Giấy Ra Trại”. Anh trả lời : “Nhà của tôi ở Huế đã bị họ lấy, cha mẹ tôi đều đã qua đời”. Họ lại hỏi “Trước khi đi lính, anh ở đâu?” Anh trả lời :” Ở Huế ..” Và họ ghi vào giấy ra trại của anh “Về trình diện chính quyền thành phố Huế”

Ở trại giam ra, họ phát cho anh 16 đồng. Minh mua vé xe đò, đi về Sàigòn, xin tạm trú ở nhà một người bà con. Người nầy cho anh biết, mẹ của anh qua đời năm 1979, sau khi bà mất, họ cướp luôn căn nhà của anh.

Trong mấy ngày ở Sàigòn, anh đi lang thang hết đường nầy , đến đường khác. Tình cờ anh đi ngang qua Nhà Thờ Ba Chuông, anh đi vào nhà thờ. Chung quanh anh, nhiều người đang quì gối đọc kinh, cầu nguyện. Nhìn lên Chúa chịu nạn trên bàn thờ, anh lâm râm cầu nguyện với Chúa: “Lạy Chúa, con biết Chúa yêu thương con, Chúa đã phù hộ, nâng đỡ con từ nhỏ, cho đến hôm nay. Nhưng lạy Chúa, con đã mất tất cả mọi sự ở đời nầy, nhưng phúc cho con còn có Chúa. Lạy Chúa, con biết làm gì bây giờ, xin Chúa chỉ cho con.” Anh vô cùng ngạc nhiên khi nghe một tiếng nói mơ hồ, từ sâu thẳm vọng lại :”Con nên đi về Huế”

Minh như sực tỉnh, anh mua ngay vé xe lửa để về Huế. Qua một đêm, sáng hôm sau xe dừng lại ở ga Huế. Hành khách vội vã xuống xe; nhưng Minh cứ ngồi thừ ra đó, vì anh không biết đi đâu bây giờ. Bỗng anh có ý nghĩ là hãy về xem lại căn nhà cũ của mình…

Căn nhà quen thuộc của anh, nay đã thay đổi, hoàn toàn xa lạ. Anh đứng trước nhà, lơ đãng nhìn người qua lại. Bỗng anh tái mặt, run rẫy khi thấy từ xa, một cô gái gánh đậu hủ đang đi đến. Anh quá bối rối, không tin ở mắt mình nữa. Nhưng kìa cô gái đã đến gần, anh vội vã đi qua bên kia đường, đứng đón cô ấy. Một điều làm anh vô cùng sững sốt là cô gái lại mặc chiếc áo len màu cánh sen mà năm xưa anh đã tặng cho người con gái anh thương, nhưng khi nhìn kỹ, Minh thấy cô gái nầy còn trẻ quá, khoảng 15, 16 tuổi, không thể là người mà anh đã thầm yêu, trộm nhớ. Thế còn chiếc áo len ?

Minh đánh bạo hỏi cô gái : “Cô ơi, cô có thể cho tôi biết, ở đâu mà cô có chiếc áo len nầy ?” Bỗng nét mặt của cô gái tươi hẵn lên. Cô không trả lời anh, cô lại nhìn vào khoảng không và nói như reo :”Tạ ơn Trời Đất, chắc mẹ tôi vui mừng lắm, vì tôi đã gặp dược ngươì mà mẹ tôi trông chờ từ bao năm nay!” Cô gái nhìn Minh và thân mật nói :”Nếu ông muốn biết ở đâu mà tôi có chiếc aó len nầy, ông đi theo tôi..”

Không chờ Minh trả lời, cô gái nhẹ nhàng gánh đậu hủ lên vai, và đi ngược lại hướng chợ Vỹ Dạ. Anh lặng lẽ đi theo cô gái, anh không biết chuyện gì sẽ xảy đến với anh đây. Cô gái đi vào một căn nhà xưa cũ, cô đặt gánh đậu hủ xuống trước sân. Bỗng có tiếng từ trong nhà vọng ra: “Ủa ! bửa nay sao con về sớm rứa mà có ông nào đi với con vậy ?”. Cô gái hớn hở nói lớn:”Mạ ơi, mạ có tin vui, có ông nầy hỏi con ở đâu mà con có chiếc áo len nầy, nên con đưa ông ấy về nhà đây”

Im lặng một lúc, rồi một ngươì đàn bà khoảng 40 tuổi xuất hiện ở ngưỡng cửa. Khi nhìn thấy Minh, bà không dấu được sự xúc động tột cùng của mình, bà cảm động thốt lên : “Ông Trời không phụ tấm lòng của tôi, tôi đã đợi chờ ngày nầy, từ 20 năm nay!” Minh nhìn kỹ ngươì đàn bà, anh nhận ra ngay đây là cô gái mà anh đã yêu từ lúc còn đi học. Người đàn bà nhỏ nhẹ nói với Minh : “Mời ông vào nhà”

Trước đây, dù yêu nàng, nhưng anh đã không đủ can đảm để hỏi tên của nàng. Và nàng cũng không biết anh là ai. Nhưng Ông Trời đã sắp đặt cho hai người yêu nhau. Trải qua biết bao biến đổi của cuộc đời, hôm nay Minh được đứng cạnh người mình yêu và nhìn thẳng vào đôi mắt của nàng. Minh thầm nghĩ, đây là mộng hay thực?

Một giọng nói âu yếm vang lên, cắt ngang tư tưởng của Minh: “Ngày ấy sao anh không hỏi tên em?’ Minh ngập ngừng trả lời: “Lúc đó, anh là một đứa con trai mới lớn, dù đã để ý đến em, nhưng anh luôn luôn xem em như một nàng tiên, anh sợ đến gần em, hỏi han em.. có thể nàng tiên sẽ bay đi mất. Anh chỉ đứng bên nầy đường nhìn em đi ngang qua, cũng đã cảm thấy hạnh phúc lắm rồi “

Cô gái bùi ngùi nói với Minh: “Anh biết không, vì sự lãng mạn của anh , đã làm cho em phải chờ đợi anh qua bao năm tháng. Tinh thần và thể xác của em đã quá mõi mòn. Vì vậy, cách đây khoảng hai năm, em đã chuyển nghề bán đậu hủ nầy cho con gái của em. Em bắt cháu mỗi khi đi bán, phải mặc chiếc áo len mà anh đã tặng cho em, với lời dặn dò con rằng nếu có ông nào hỏi con về lai lịch của chiếc áo len nầy, thì người ấy là mối tình đầu của mẹ đó. Em mong chờ, em hy vọng..

Tạ ơn Trời Đất, hôm nay em đã được gặp anh!”Cô gái thân mật hỏi Minh: “Thế bây giờ anh có muốn biết tên của em không ? Tên của em là Nga” Minh đáp ngay:”Còn tên của anh là Minh”. Nga vui vẻ hỏi Minh: “Tại sao lúc đó, tự nhiên anh biến mất vậy? Mỗi buổi sáng khi đi ngang qua nhà anh, không thấy anh đứng đó, em buồn lắm!”. Minh thổn thức: “Năm đó, anh đậu Tú Tài toàn phần, chỉ mấy tháng sau, anh bị gọi động viên đi Thủ Đức. Ra trường, anh được điều động về phục vụ ở Tiểu Khu Phong Dinh. Đời binh nghiệp đã giữ chân anh ở đó, cho đến năm 1975, anh bị đi tù cải tạo, vừa mới được tha về từ tuần trước đây.” Minh buồn buồn tâm sự với Nga: “Nhà của anh đã bị họ lấy mất, người mẹ thân yêu của anh cũng đã qua đời khi anh còn trong trại tù. Giờ đây anh là một kẻ tứ cố vô thân!”

Giọng Nga trầm hẳn xuống: “Vậy em mời anh ở lại đây với mẹ con em nhé !”. Hạnh phúc chợt đến quá bất ngờ, làm Minh ngây ngất. Anh âu yếm nắm lấy tay Nga. Thân hình của nàng bủn rủn ngã vào lòng anh, hai hàng nước mắt chảy dài xuống má Nga.

Minh ôm Nga vào lòng mà ngỡ như mình đang sống trong mơ.

Ngoài vườn, ánh nắng lung linh, reo vui…

TÁI HỢP TÌNH ĐẦU SAU 2/3 THẾ KỶ

TÁI HỢP TÌNH ĐẦU SAU 2/3 THẾ KỶ

Khi nhận được tin bà vẫn còn trên đời, người đàn ông 91 tuổi nói với con trai 63 tuổi: Hãy đưa ta đi gặp bà ấy để ta nói với bà là ta không phản bội bà, bỏ rơi bà… 70 năm qua ta vẫn nhớ bà vẫn giữ những tấm ảnh của bà ở bên ta.

TÁI HỢP TÌNH ĐẦU SAU 2/3 THẾ KỶ

Năm 1953, trước khi Chiến tranh Triều Tiên kết thúc, một quân nhân Mỹ lên kế hoạch sống chung với người yêu là một cô gái Nhật.

Thế nhưng ý định không thành, phải đến gần 7 thập niên sau họ mới gặp lại. Chuyện tình đẹp này đã gây xúc động cộng đồng mạng thời gian gần đây.

ĐỊNH MỆNH CHIA LÌA

Trong gần 70 năm, cựu binh Hải quân Hoa Kỳ, Duane Mann, sống với trái tim nặng trĩu. Khi còn là một sĩ quan trẻ đóng quân ở Nhật Bản, ông đã yêu một thiếu nữ tên là Peggy Yamaguchi, và hai người có ý định đi đến hôn nhân.

Thế nhưng, định mệnh đã chia cắt họ. Không quên quá khứ, ở tuổi 91, Mann quyết tâm truy tìm mối tình đầu của mình.

Trong một bài đăng ngày 1/5/2022 trên Facebook, Mann đã kêu gọi cộng đồng mạng giúp đỡ tìm kiếm Yamaguchi kèm theo là một bức ảnh ông đã chụp Yamaguchi 70 năm trước.

Ông viết, “Tôi đã không ngừng tìm kiếm cô gái Nhật Bản này hoặc một trong những thành viên gia đình của cô ấy”. Sau đó, ông kể ra câu chuyện đáng chú ý và đau lòng của họ.

Năm 1953, Mann lúc đó 22 tuổi cùng đơn vị đóng quân tại Nhật Bản. Khi ở Tokyo, ông gặp Yamaguchi, cô gái 21 tuổi làm việc trong phòng kiểm tra mũ của một câu lạc bộ sĩ quan. Buổi tối nọ, ông làm quen với Peggy và cả hai bắt đầu khiêu vũ trong những điệu nhạc lãng mạn.

Mann viết trên Facebook: “Chúng tôi khiêu vũ rất ăn ý khiến nhiều người xem thích thú. Không mất nhiều thời gian, tình yêu đến chỉ chưa đầy 6 tháng sau gặp gỡ”. Yamaguchi biết tiếng Anh, giúp dịch các cuộc trò chuyện giữa các thành viên câu lạc bộ và người dân địa phương.

Chẳng bao lâu sau khi đôi tình nhân quyết định đi đến hôn nhân, Yamaguchi có thai. Nhưng trước khi họ có thể kết hôn, chiến tranh Triều Tiên kết thúc và đơn vị của Mann được lệnh trở về Mỹ. “Khi lên tàu rời Nhật, tôi đã để lại một cô gái đang mang thai, đầm đìa nước mắt”, Mann viết trên Facebook, “Tôi đã trấn an cô ấy rằng đừng quá lo lắng. Ở quê nhà tôi có một số tiến tiết kiệm và sẽ gửi cho cô ấy ngay khi có thể để lo cho đứa con ra đời”. Nhưng mọi thứ không diễn ra theo cách mà Mann đã trù tính.

KHÔNG QUÊN HÌNH BÓNG CŨ

Khi trở về nhà ở Pisgah, bang Iowa, Mann phát hiện tiền của mình đã không còn nữa. Mann đã để tiền trong tài khoản ngân hàng đứng tên cha mình, phòng trường hợp ông bị tử trận, nhưng cha ông đã tiêu sạch số tiền này. Mann nói với The Washington Post: “Không còn gì cả. Nếu biết không còn tiền, tôi đã không về nhà”.

Mann viết thư cho Yamaguchi và giải thích tình trạng hiện nay của mình. Ông kiếm được một công việc trong lĩnh vực xây dựng và bắt đầu tích lũy tiền để lo cho người yêu sang Mỹ. Nhưng rồi Yamaguchi bỗng bặt thư từ với ông, sau cùng Mann nhận được một lá thư từ cô ấy nói rằng đứa con của họ đã mất và cô kết hôn với người khác.

“Sau này, tôi mới phát hiện mẹ tôi đã thủ tiêu các bức thư gửi đến của Peggy vì bà không muốn tôi lấy một cô gái Nhật Bản”, Mann viết trên Facebook. Mẹ ông hy vọng ông sẽ kết hôn với một cô gái ở địa phương của họ.

Không trông mong gì ở Yamaguchi sau thời gian mất liên lạc, Mann đã kết hôn hai lần và có sáu người con nhưng vẫn không bao giờ quên người yêu ở Nhật Bản.

Ông viết trên Facebook, “Tôi đã dành 70 năm qua để cố gắng tìm Peggy, bởi vì điều ám ảnh nhất đối với tôi là có thể cô ấy cho rằng tôi đã bỏ rơi cô ấy!”

TÁI HỢP

Internet đã giúp Mann làm được điều ông muốn. Bài đăng của ông nhanh chóng lan truyền rộng rãi trên mạng, được phát trên các đài của thành phố, thậm chí còn được đưa tin ở Nhật Bản.

Lời cầu xin của Mann đã làm rung động trái tim của một cô gái ở Vancouver, Canada tên là Theresa Wong, đang làm việc cho mạng truyền hình History Channel. Cô bắt đầu tìm kiếm Peggy Yamaguchi và phát hiện bà sống ở Escanaba, bang Michigan, chỉ cách nhà của Mann ở Iowa 14 giờ lái xe vượt sông Mississippi. Khi được cho xem bức ảnh thời trẻ của Mann, Peggy Yamaguchi, hiện là Yamaguchi Sedenquist, nói: “Tôi vẫn nhớ anh ấy”. Đúng như những gì đã nói với Mann, bà kết hôn vào năm 1955 và có ba con trai. Nhưng bà vẫn không quên người yêu ngoại quốc của mình. Trên thực tế, bà đã đặt tên đệm cho con trai đầu của mình là “Duane”.

Biết bà còn sống, Mann kiên quyết đi gặp trực tiếp người yêu cũ. Con trai cả của Mann, Brian Mann, 63 tuổi, đã cùng ông tham gia cuộc hành trình. Hai cha con lái xe khoảng 14 giờ từ Iowa đến Michigan cho cuộc gặp ngày 1 tháng 6 năm 2022 vừa qua.

Thế là gần 70 năm sau cuộc chia tay đẫm nước mắt, Duane Mann và Peggy Yamaguchi Sedenquist đã tái hợp. Họ ôm nhau cùng hồi tưởng về những điệu nhảy ở Nhật Bản.

“Tôi đến đây để nói với bà rằng tôi không hề bỏ rơi bà. Tôi bị mất liên lạc với bà”, Duane nói với Yamaguchi trong cuộc hội ngộ của họ.

Mann đã cho Yamaguchi xem tất cả những bức ảnh của bà mà ông giữ kỹ trong ví suốt 70 năm.

“Cảm ơn ông đã nhớ và lưu giữ tất cả những bức ảnh, ông hẳn đã rất yêu tôi”, Yamaguchi đáp lại khi ôm và hôn Mann. Trái ngược với sự lo lắng của Mann, Yamaguchi Sedenquist không hề nuôi dưỡng sự oán hờn hay bất bình nào, cũng không hề cảm thấy bị người yêu bỏ rơi.

Đối với cụ Mann 91 tuổi, đó là một kết thúc có hậu. Ông nói với tờ The Washington Post: “Bây giờ tôi mới cảm thấy thực sự bình yên. Không còn canh cánh với mặc cảm bỏ rơi bà ấy. Tuy nhiên, tôi rất muốn được khiêu vũ với bà ấy một lần nữa, chỉ một lần nữa thôi”.

Băng Tâm

Theo: Allthatsinteresting

Duane Mann cùng Peggy Yamaguchi 70 năm trước và hiện nay

From: Tham Nguyen & KimBang Nguyen

Câu Chuyện Cho Những Ai Đã Là Vợ Chồng

Câu Chuyện Cho Những Ai Đã Là Vợ Chồng

Chồng chị là một kỹ sư giỏi, chị yêu anh vì sự vững chãi, chín chắn của anh, chị yêu cái cảm giác ấm áp mà chị có mỗi khi chị tựa đầu vào vai anh. Và sau 3 năm tìm hiểu, anh chị đã đi đến hôn nhân.

Nhưng đến hôm nay, sau hai năm là vợ chồng, chị bỗng thấy mệt mỏi với những cảm giác mà chị phải trải qua khi chung sống với anh. Những lý do khiến chị yêu anh trước đây, bỗng biến thành những lý do tạo nên sự đổi thay trong chị.

Chị là một phụ nữ nhạy cảm, và rất dễ bị thương tổn trong tình yêu, chị luôn khao khát những khoảnh khắc lãng mạn, giống như là bé gái nhỏ thèm khát kẹo ngọt. Nhưng anh lại trái ngược với chị, anh không có sự nhạy cảm, và hoàn toàn không quan tâm đến những khoảnh khắc lãng mạn trong cuộc sống vợ chồng, điều này đã làm cho chị càng chán nản hơn.

Và chuyện gì đến phải đến, một hôm chị quyết định cho anh biết rằng chị muốn ly dị, rằng chị không thể chung sống với anh thêm một giờ phút nào nữa. Rất bất ngờ khi nghe chị yêu cầu như thế, anh chỉ biết hỏi:

– Tại sao?

– Em cảm thấy mệt mỏi, không có lý do nào cho mọi thứ trên thế gian này! Chị trả lời.

Anh không nói gì thêm nữa, nhưng suốt đêm đó, anh không ngủ, và chìm sâu vào những ưu tư, khắc khoải với ánh sáng lập lòe của điếu thuốc gắn trên môi. Sự im lặng của anh càng làm cho cái cảm giác thất vọng trong chị tăng lên, đấy là một người đàn ông không thể biểu lộ gì ngay cả đến lúc gặp tình huống khó khăn như lúc này, còn gì nữa để mà chị hy vọng ở anh! Cuối cùng rồi anh cũng lên tiếng, anh hỏi chị:

“Anh có thể làm gì để thay đổi ý định của em?”

Ai đó đã nói đúng. “Rất khó khăn để thay đổi tính cách của một con người” và chị nghĩ rằng chị không thể nào thay đổi cách sống của anh. Nhìn sâu vào mắt anh, chị chậm rãi trả lời: 

“Đây chính là câu hỏi, nếu câu trả lời của anh có thể thuyết phục em, em sẽ thay đổi ý định ly dị. Nếu em nói, em muốn bông hoa ở phía bên kia vách núi, và cả hai chúng ta đều biết rằng khi anh cố hái bông hoa đó cho em thì anh sẽ chết, anh có vẫn cố làm cho em hài lòng chứ?”

Anh đáp: 

“Ngày mai anh sẽ trả lời câu hỏi cho em…” 

Những hy vọng của chị hoàn toàn bị chìm xuống khi nghe câu trả lời của anh.

Sáng hôm sau, chị tỉnh giấc và nhận ra anh đã đi rồi. Chị nhìn thấy một mảnh giấy với dòng chữ ngoệch ngoạc của anh, được dằn dưới ly sữa, trên chiếc bàn ăn gần cửa…. và chị bắt đầu đọc….

“Em yêu, Anh sẽ không thể nào hái bông hoa đó cho em, nhưng hãy cho anh giải thích những lý do mà anh không thể”.

Ngay những dòng đầu đã làm tan nát trái tim chị, chị tiếp tục đọc….

“… Khi em sử dụng máy vi tính, anh luôn sắp xếp phần mềm cho em dễ sử dụng, và khi em kêu lên trước màn hình khi có sự cố, anh luôn chuẩn bị những ngón tay để có thể giúp em phục hồi lại những chương trình. Em thường bỏ quên chìa khóa cửa, nên anh luôn chuẩn bị đôi chân để sẵn sàng chạy về mở cửa cho em. Em rất thích đi du lịch, nhưng lại thường hay bị lạc đường trong những thành phố xa lạ, nên anh phải chuẩn bị đôi mắt của mình để chỉ đường về cho em. Em thường đau bụng trong mỗi lần gần đến tháng, nên anh luôn chuẩn bị lòng bàn tay mình để sẵn sàng xoa bụng cho em để em dịu cơn đau. Khi thấy em luôn thích ở nhà, anh lo rằng em sẽ có thể bị mắc bệnh tự kỷ, vì thế anh phải luôn pha trò và chuẩn bị những câu chuyện vui để em quên đi nỗi buồn chán. Khi em luôn chăm chú vào màn hình vi tính, anh sợ như vậy có hại cho đôi mắt của em, nên anh phải để dành đôi mắt của anh để khi chúng ta già, anh sẽ có thể giúp cắt móng tay, và nhổ những sợi tóc bạc cho em. Anh có thể nắm bàn tay em đi tản bộ trên bãi biển, để em thưởng thức cảnh mặt trời mọc và bãi cát xinh đẹp… và anh sẽ cho em biết rằng màu sắc của những bông hoa cũng rực rỡ như gương mặt tươi tắn của em… Vì vậy, em yêu, trừ phi em chắc chắn rằng có ai đó yêu em hơn anh đã yêu em… nên bây giờ anh không thể hái bông hoa đó cho em, và chết…/.”

Nước mắt của chị không ngừng rơi trên trang giấy, làm nhạt nhòa những dòng chữ của anh… Chị đọc tiếp:

“…Bây giờ, nếu em cảm thấy hài lòng thì hãy mở cửa ra, vì anh đang đứng đó với bánh mì và sữa tươi cho buổi sáng của em, những món ăn mà em thích…”

Chị lao đến cửa và mở bung nó ra, trông thấy anh với gương mặt lo lắng, chị nắm chặt tay anh, cùng với ổ bánh mì và chai sữa, bây giờ chị biết chắc rằng không ai yêu chị như anh đã yêu chị, và chị quyết định quên đi bông hoa ở bên kia vách núi… đó là cuộc sống và tình yêu.

Khi được sống trong sự đầy đủ, dư thừa của tình yêu, thì cái cảm giác sôi nổi trong tình yêu thường bị khô héo đi, và người ta không còn có thể nhận thức được đâu là tình yêu chân thật và đâu là tình yêu giả dối, giữa cảm giác bình yên và buồn chán đó.

TẢN MẠN TUỔI MỘNG MƠ

Van Pham 

TẢN MẠN TUỔI MỘNG MƠ

Cái Thuở Ban Đầu Lưu Luyến Ấy…

Hàn Thiên Lương

Trong thời thế chiến thứ 2, đất nước mình rất xáo trộn, nhất là lúc quận Nhựt vào chiếm đóng , thành phố Saigon, Đồng Minh dội bom liên tục, gia đình tôi phải tản cư về quê Đức Hòa, kịp đến cuối năm 1945 Nhựt Bổn đầu hàng, quân Pháp trở lại tấn chiếm Việt Nam. Lệnh Uỷ Ban Việt Minh ra lệnh tiêu thổ kháng chiến, gia đình tôi phải rời quận chạy trốn vào vùng sâu, chiến khu Việt Minh và kẹt ở nơi đó.

Đến năm 1949 nhân cuộc hành quân lớn của Pháp, gia đình tôi thoát về thành. Từ đó tôi đựơc đi học lại, năm tôi học tại trường trong xóm, cũng nhờ ông cậu Mười tôi hướng dẫn, tôi tiến bộ rất nhiều! Đến năm 1950 cậu tôi cho tôi học lớp nhứt (lớp năm) trường Việt Nam Học Đường. Ngôi trường thật khang trang lớn đẹp, Thầy Nghi, thầy giáo đầu tiên, thầy dạy rất hay dễ hiểu, cuối năm đó tôi đậu tiểu học ,là một sự bất ngờ đối với mẹ và cậu tôi, nhưng ai cũng mừng và tôi rất vui sướng.

Trong lớp Nhất nầy tôi học chung với các chị Lê, Nhung, Minh Trí và Văn. Những người nầy học chung với tôi đến lớp đệ tứ (lớp 9), nay ai tóc cũng ngã màu sương tuyết!

Nhưng có một nữ sinh Việt Nam Học Đường học sau tôi một lớp (lớp đệ Ngũ), lại là người hàng xóm của tôi để lại dấu vết cái thuở ban đầu cho tôi đến nay chưa phai mờ!

Gia đình tôi về ở nhà ông ngoại tôi khu Phú Nhuận năm 1949, thì gia đình Hiền dọn đến ở căn phố cuối xóm. Gia đình nay chỉ có ba người, người mẹ chừng bốn mươi tuổi và hai cô con gái người chị khoảng 20 tuổi, cô em chừng 13tuổi. Gia đình sống lặng lẽ mẹ và chị trên hai bàn máy chăm chỉ may quần áo hàng xóm để độ nhựt. Cô em là Hiền rất nhu mì, lúc đó mới học lớp Nhì ( lớp 4).

Chẳng bao lâu mẹ tôi và chị tôi thân với mẹ và chị của Hiền. Gia đình tôi là khách hàng may của mẹ Hiền. Nhờ đó mà tôi và Hiền là hai láng giềng tuy chưa thân mà không xa lạ! Hằng ngày Hiền, em gái tôi và tôi thường đi bộ theo đường Võ Di Nguy lên cầu Kiệu đến trường. Thường Hiền và em gái tôi đi trước và tôi lững thửng đi sau trong nắng ấm buổi bình minh. \

Sau đó một thời gian em gái tôi đậu vào trường Gia Long. Tôi và Hiền cởi xe đạp đến trường, sáng nào hai đứa cũng chờ nhau cùng đi một lượt. Đó là niềm vui nhỏ thời tuổi dại, dường như có cái gì mơ hồ lưu luyến trong lòng !

Đến cuối năm Đệ ngũ của tôi và đệ lục của Hiền, hai đứa được lãnh thưởng, đều có thêm phần thưởng về toán của thầy Kinh. Có nỗi mừng vui chung nên tình cảm gần nhau lúc nào không biết . Vào thời tôi học lớp đệ tứ và Hiền học lớp đệ ngũ, chiến tranh dữ dội, rồi hòa bình, rồi Saigon xáo trộn, người từ Bắc di cư vào Nam, có người trong Nam âm thầm tập kết ra Bắc…

Cuối năm học đó (1955) tôi thi đâu Trung Học, lúc tôi thi vấn đáp Hiền cũng đi theo xem…Có mấy bạn theo hỏi: -Em gái của Tâm đó hả? Tôi thấy Hiền thẹn cúi mặt thật tội nghiệp!.

Sau đó chúng tôi có những ngày Hè thật vui…Hiền thường cỡi xe vào chợ Lớn để mua chỉ cho mẹ thì tôi cũng cỡi xe đi theo. Một lần hai đứa cỡi xe lên tận Lái Thiêu, đi dạo trong vườn măng, lúc trở về ghé quán uống nước, tôi chợt thấy gương mặt nàng buồn , nhìn tôi Hiền nói: -Nếu ngày nào mình phải xa nhau chắc buồn lắm phải không anh?

Tôi với tay nắm tay nàng nói : -tức là buồn lắm! nhưng sao có ngày đó được Hiền!

Nàng nhìn tôi, chớp mắt, cúi xuống như tránh đôi mắt tôi, nhưng lúc ra lấy xe tôi nhìn Hiền thấy mắt nàng ứa lệ!

Niềm vui thật qua mau, tôi về Đức Hòa một tuần dự đám tang của Bác tôi khi trở xuống, Chị Hai tôi cho tôi biết: – Hiền nó đi xa rồi, có người đến rước nó xuống Cao Lãnh tập kết với Ba ra Bắc; dường như Ba Hiền làm lớn trong Việt Minh, Hiền có gửi thư lại cho em, chị của Hiền đưa chị nhờ trao lại cho em.

Tôi mở thư ra chỉ có câu :

“Anh ơi em phải theo Ba, Anh ở lại bình an, lúc nào em cũng nhớ anh!”- Hiền

Lúc đó hồn tôi như dại như khờ, đúng là: Người đi một nửa hồn tôi mất, Một nữa hồn tôi bỗng dại khờ.

Thời gian như dòng nước cứ lặng lờ trôi. Còn tôi cứ bước đi theo dòng đời nghiệt ngả…Cái thuở ban đầu ấy thành dấu vết trong hồn tôi mãi mãi!

Đoạn kết một chuyện tình

Đoạn kết một chuyện tình

Ngày đẹp trời, một cặp vợ chồng khoảng trên 60 tuổi đến văn phòng luật sư. Họ muốn làm thủ tục ly hôn.

Cũng vẫn là một chuyện tình 

Lúc đầu, vị luật sư vô cùng ngạc nhiên, nhưng sau khi nói chuyện với đôi vợ chồng, ông đã hiểu đầu đuôi câu chuyện. Trong 40 năm chung sống, cặp vợ chồng này luôn cãi nhau và dường như chẳng bao giờ quyết định gì cho đúng đắn. Họ chịu đựng nhau đến bây giờ là vì các con. Bây giờ con cái của họđã lớn, đã có gia đình riêng, nên hai vợ chồng già không còn điều gì lo lắng nữa. Họ muốn được tự do sau những năm tháng dài không hạnh phúc. Cả hai vợ chồng đều đồng ý ly hôn. Hoàn tất thủ tục ly hôn cho cặp vợ chồng này là điều không dễ vì tình sâu nghiã nặng.

Vừa ký xong giấy tờ, người vợ già vừa nói với chồng: “Tôi thực sự yêu ông, nhưng tôi không thể chịu đựng hơn được nữa. Tôi thành thật xin lỗi”.“Không sao, tôi hiểu.”, ông chồng già đáp lại. Nhìn cảnh này, ông luật sư đề nghị mời hai vợ chồng một bữa cơm tối. Người vợ trả lời: “Sao lại không? Dù ly hôn, ta vẫn sẽ là bạn cơ mà”. Bên bàn ăn, bầu không khí im lặng, nặng nề đến khó thở. Món ăn đầu tiên được mang ra là món gà quay. Người chồng lập tức gắp một miếng đùi gà cho vợ: “Bà ăn đi, đây là món bà ưa thích.” Nhìn cảnh này, vị luật sư nghĩ “vẫn còn cơ hội cho họ hàn gắn lại”. Không ngờ người vợ cau mày, đáp lại: “Đây là vấn đề. Ông luôn chủ quan quá nên không bao giờ hiểu được tư tưởng của tôi. Ông không biết tôi ghét đùi gà chừng nào à?” 

Điều người vợ không nhìn thấy được là trong bao nhiêu chung sống, người chồng luôn luôn cố gắng làm vui lòng bà, dù là người thiếu nhận xét hay khéo léo. Bà không biết là đùi gà là món yêu thích nhất của ông, cũng như ông không biết bà ghét đùi gà. Dù ông chỉ muốn dành những miếng ngon nhất theo khẩu vị của ông, nhường những thứ tốt nhất cho bà, bà chưa bao giờ cảm nhận được là ông hiểu bà. Đêm hôm đó, cả hai ông bà đều không ngủ được.

Sau nhiều giờ trằn trọc, người chồng không thể chịu đựng nỗi nhớ nhung nữa. Ông hiểu rằng ông yêu bà và không thể sống thiếu bà. Ông muốn van bà quay trở lại làm vợ chồng. Ông muốn xin lỗi, muốn nói “Anh yêu em” thật nhiều. Ông nhấc điện thoại lên và bấm số của bà. Tiếng chuông reo không ngừng, nhưng bà không nhấc. Ông lại cố gắng bấm máy, suốt tối. Đầu bên kia, bà vợ cũng rất buồn. Bà không hiểu điều gì đã xẩy ra trong những năm tháng sống cùng nhau. Sau 40 năm, ông ấy vẫn chẳng hiểu bà. Bà vẫn yêu ông nhưng bà không thể chịu đựng cuộc sống tẻ nhạt như thế nữa. Mặc cho chuông điện thoại reo liên hồi, bà không thèm trả lời, dẫu biết rằng người gọi là ông. Bà tự nghĩ: “Nói làm gì nữa khi mọi chuyện đã xong xuôi hết rồi. Mình quyết định ly hôn mà. Bây giờ đâm lao thì phải theo lao, nếu không mất mặt lắm”. 

Chuông điện thoại vẫn cứ reo rồi bà quyết định tháo dây điện thoại ra. Trong khi đầu bận suy nghĩ rối bời, bà quên bẵng đi là ông bị đau tim… Sáng hôm sau, bà nhận được tin ông qua đời. Như một người mất trí, bà lao thẳng đến căn nhà của ông, để nhìn thấy thân thể ông trên chiếc divan, tay vẫn giữ chặt máy điện thoại. Ông buồn bã, thất vọng suốt đêm khi bà không cho cơ hội tỏ nỗi lòng và tim ông đã buông suôi.

Bà đau đớn vì hối hận. Một cảm giác mất mát quá lớn bao trùm lấy tâm khảm bà. Khi thanh toán tài sản của ông, bà tìm thấy trong ngăn kéo một hợp đồng bảo hiểm ông ta đã mua cho bà, từ ngày họ cưới nhau. Kèm vào đó, là một lá thư: “Gửi người vợ thân yêu của anh. Lúc em đọc lá thư này, chắc hẳn anh không còn trên cõi đời này nữa. Anh đã mua bảo hiểm này cho em, anh hy vọng nó có thể giúp anh thực hiện lời hứa của mình khi chúng ta lấy nhau.

Đến khi anh không còn ở bên cạnh để chăm sóc cho em nữa thì mong số tiền này có thể giúp anh tiếp tục đùm bọc cho em. Đó là điều anh ước nguyện sẽ được làm suốt cuộc đời anh. Anh sẽ mãi mãi bên em và yêu em thật nhiều”. Nước mắt bà tuôn chẩy hai hàng. Bà cảm thấy yêu ông hơn bao giờ hết. Bà muốn nói vạn lời xin lỗi, muốn nói ngàn lời yêu thương nhưng ông không còn nghe được nữa.

From:Truong Le

Nội Ơi Đừng Khóc – TRUYỆN NGẮN – PHƯƠNG LAN…

 Van Pham

TRUYỆN NGẮN PHƯƠNG LAN…

***

Nội Ơi Đừng Khóc

Trời mới hửng sáng, bà Năm đã trở dậy. Căn nhà im lặng như tờ, giờ này mọi người còn đang ngủ. Bà lặng lẽ đến bên bàn thờ, thắp nhang cho chồng. Tay run run, nhưng bà vẫn cố gắng không để tàn nhang rơi xuống thảm. Con dâu đã dặn bà chỉ được dùng nhang điện, nến điện, vì nó sợ mùi nhang và sợ tàn nhang làm hư tấm thảm đắt tiền. Nhưng bà nghĩ, không có hương khói, người chết biết đường đâu mà về? Bà chỉ an tâm, sung sướng khi có ông bên cạnh, mặc dù ông bây giờ chỉ là một hồn ma. Hương khói làm ấm lòng bà, ấm lòng cả người đã khuất, bà không thể để bàn thờ chồng hương khói lạnh tanh.

Sợ con dâu phiền hà, mỗi lần thắp nhang cho ông, bà cứ phải rình những lúc nó vắng nhà hoặc đang ngủ, lén lén lút lút giống y như một tên trộm. Duyên mà biết được, thể nào cũng sinh chuyện. Phải nghe nó nhiếc móc đến nhức xương, bà sợ lắm, nên trừ việc thắp nhang cho chồng, nhất nhất mọi việc khác, bà đều không dám làm trái ý nó. Thân ăn nhờ ở đậu, bà biết phận mình phải chiều theo ý chủ nhà.

Dạo này thấy hai vợ chồng nó lục đục hay cãi nhau, bà hiểu là tại bà, con dâu không muốn sự có mặt của một người thứ ba xen vào đời sống riêng tư vợ chồng nó. Duyên biểu lộ sự khó chịu bằng bộ mặt lạnh tanh và những cái lườm nguýt, những câu mỉa mai, bóng gió. Bà giả vờ như không nghe, không thấy, tính bà vốn hiền lành, xuề xòa, chín bỏ làm mười cho vui cửa vui nhà, dâu con có hỗn hào cũng là tại bà đã làm ảnh hưởng đến hạnh phúc của vợ chồng nó.

Thật lòng bà không ghét con dâu, bà hiểu nếp sống khác biệt của hai thế hệ già trẻ ở chung trong một nhà đã tạo ra những xung khắc không thể tránh. Từ xưa đến nay, chẳng con dâu nào ưa thích sống chung với mẹ chồng. Nó bực mình cũng có thể hiểu được, bà biết nó cũng phải chịu đựng bà, như bà đã chịu đựng nó. Duyên đang mang bầu đứa con thứ hai, nó có nóng nảy, cáu kỉnh đôi chút thì cũng bỏ qua, bà tự nhủ không nên để nó tức giận, ảnh hưởng có hại tới đứa bé trong bụng.

Nhưng bà đã cố gắng nhẫn nhục, trong khi cô con dâu lại ưa kiếm chuyện, vì vậy bà phải cố tránh những cơ hội chạm mặt nó. Khi Duyên ở nhà, chỉ trừ những bữa ăn phải ngồi chung bàn, thường thì bà vẫn lánh mặt ở trong phòng riêng cho nó khỏi gai mắt và bà cũng khỏi phải nghe những câu nói cạnh nói khoé, chửi chó mắng mèo của nó, những câu nói hỗn hào mà bà cứ phải nhắm mắt làm ngơ cho qua chuyện. Làm mẹ chồng thời nay khổ hơn là làm dâu thời xưa.

Đức không để ý gì đến mẹ. Cuộc sống vất vả, khó khăn, hắn bận đi làm tối mắt để nuôi gia đình. Bà Năm chưa bao giờ mở miệng than thở với con trai. Hắn có bao nhiêu chuyện phải lo. Bà không muốn Đức phải bận tâm thêm vì bà. Bà Năm lặng lẽ sống những ngày cuối đời trong ngôi nhà sang trọng, giữa những người thân mà bà cảm thấy cô đơn như đang sống trong sa mạc. Trong nhà, chỉ có đứa cháu nhỏ là còn thương bà, đứa cháu bà vẫn bồng ẵm từ lúc còn nằm nôi. Con bé kháu khỉnh, giống bố như tạc là nguồn an ủi duy nhất của bà. Chỉ cần nghe giọng nói ngây thơ và nhìn khuôn mặt dễ thương, đẹp như thiên thần của nó là bà quên hết bao nhiêu muộn phiền. Nhưng bé Hân mỗi lúc một xa bà hơn, vì nó đã đến tuổi đi học, quên dần tiếng mẹ đẻ và mặc dù vẫn rất yêu bà, nhưng nó ít có thì giờ quấn quít bên bà như xưa.

Bà thở dài, nếu ông còn sống, bà còn có người tâm sự, nhưng ông chết đã lâu rồi, từ khi Đức mới lên mười tuổi. Mặc dù còn trẻ và có nhan sắc, bao nhiêu người theo đuổi, nhưng bà không tái giá, ở vậy tảo tần nuôi con. Nhờ chịu thương chịu khó và trời thương phật độ, bà buôn bán phát tài, lo cho con một cuộc sống đầy đủ, không thua kém những đứa trẻ còn đủ cả cha mẹ. Bà chỉ có mình Đức là đứa con duy nhất, nên bao nhiêu tình thương và tiền của đều dồn cho nó hết. Thuở nhỏ, Đức ngoan ngoãn, chăm học và học khá giỏi. Năm mười tám tuổi, Đức được học bổng đi du học ở Mỹ. Sắp tốt nghiệp thì xảy ra biến cố Tháng Tư 1975, Đức ở lại luôn bên đó, mẹ con xa cách nhau từ đấy.

Mãi tới khi Mỹ bang giao với Việt Nam, Đức mới về Việt Nam thăm mẹ. Xa cách hơn mười năm mới gặp lại, bà Năm vui mừng thấy đứa con trai gầy gò thư sinh của bà ngày nào bây giờ trở thành một chàng thanh niên to cao, khỏe mạnh. Nhưng tính tình Đức cũng đổi khác. Hắn ham mê vật chất và chỉ thích làm giàu. Thấy mẹ ở một mình trong ngôi nhà rộng thênh thang, Đức bàn tính, khuyên mẹ nên bán nhà đi, để qua ở với vợ chồng nó, vì lúc bấy giờ đang có chương trình đoàn tụ. Bà vui vẻ làm theo lời con, còn gì sung sướng cho bằng, khi về già được sống chung với con cháu. Gặp vận may nhà đất đang lên, căn nhà của bà bán rất được giá. Tiền bán nhà bà chỉ giữ lại một ít để tiêu vặt, còn bao nhiêu bà cho hai vợ chồng nó hết, bà già rồi, giữ tiền nhiều mà làm gì.

Đức làm giấy bảo lãnh cho mẹ sang Mỹ. Lúc này hắn đã có vợ và một đứa con gái mới tám tháng. Gia đình hắn sống trong sang giàu. Đức có tất cả những thứ mà người đàn ông nào cũng mơ ước: Vợ đẹp, con khôn và một ngôi biệt thự khang trang, có hồ bơi sau vườn. Để trả giá cho những tiện nghi sang trọng đó, cả hai vợ chồng hắn đều phải làm việc khá vất vả.

Thương các con bận rộn, bà Năm cố gắng chia sẻ bớt công việc. Trước đây, hồi mới sang, bà lãnh nhiệm vụ trông cháu, và nấu ăn cho cả nhà. Nhưng chỉ được vài năm, từ khi bước qua tuổi bảy mươi, bà thấy trong người yếu đi nhiều, tay chân run rẩy, làm việc gì cũng đánh đổ đánh vỡ tứ tung và nhất là hay quên tắt bếp. Con dâu sợ cháy nhà nên khóa gas, không cho bà nấu nướng nữa.Những việc dễ dàng như đi đón cháu, bà cũng không làm được,vì bà không biết lái xe,cũng không biết tiếng Anh để giúp cháu làm bài tập.Bà buồn rầu thấy mình trở thành người vô dụng, một gánh nặng cho con cái.

Tục ngữ có câu: “Cha mẹ nuôi con bằng trời bằng bể, con nuôi cha mẹ con kể từng ngày” thật chẳng sai chút nào. Phải sống nhờ con cũng tủi nhục lắm. Con dâu vốn dĩ không ưa mẹ chồng, nay thấy bà ở không suốt ngày, lại càng chướng mắt. Duyên để lộ sự khó chịu ra mặt và gây với chồng, cho rằng Đức phải chịu trách nhiệm về những xáo trộn trong gia đình. Từ ngày chàng đem mẹ về đây, mọi thứ, mọi chuyện đều thay đổi, cô cảm thấy mất hết tự do thoải mái. Sự bực bội của Duyên mỗi ngày một tăng, giống như một quả bóng căng hết cỡ, chỉ cần đụng nhẹ vào là nổ tung… Không khí trong gia đình trở nên ngột ngạt, làm mọi người đều khó thở.

Thế rồi việc phải đến đã đến, một hôm Đức nói với mẹ:

– Duyên và con đã bàn với nhau, tụi con sắp bán cái nhà này, để mua một căn nhỏ hơn. Kinh tế khủng hoảng, tiền mất giá, mọi thứ đều gia tăng mà đồng lương thì vẫn vậy, tụi con không kham nổi căn nhà lớn.

Thoạt đầu chưa hiểu rõ ý định của con, thấy nó nói vậy, bà gật đầu ngay:

– Ừ, các con tính cũng phải, ở thu gọn lại cho đỡ tốn.

Đức cúi mặt không dám nhìn mẹ:

– Duyên đã tìm được một căn ưng ý lắm, gần sở làm của cô ấy, trường học cũng trên đường đi, tiện việc đưa đón cháu Hân. Nhưng ngặt nỗi…

Bà ngước mắt chờ đợi, Đức đắn đo một lúc rồi mới tiếp tục:

– Căn nhà này hơi nhỏ má à, chỉ có ba phòng…

– Nhỏ thì nhỏ, có sao đâu? Bà chợt ngưng lại, nhìn con dò xét… Hay con có ý gì khác, cứ cho má biết.

Bà hỏi giọng run run, bây giờ bà đã lờ mờ đoán hiểu, nhưng không chắc lắm.

Đức gãi tai, hơi có vẻ lúng túng:

– Con sợ ở chật chội quá, má sẽ không thoải mái. Nhà con lại sắp sanh, cần có phòng riêng cho đứa bé…

Bà Năm cố gượng một nụ cười méo xệch:

– Má hiểu rồi, ý con muốn nói là nhà chật, không có chỗ cho má phải không?

Đức chậm rãi vừa nói, vừa lựa lời:

– Con nghĩ má cần có một nơi ở thích hợp với má hơn. Tụi con đi làm suốt ngày, má ở nhà một mình chắc cũng buồn, má cần có bạn để chuyện trò, giải khuây…

Bà cười cay đắng, có thật là nó quan tâm đến bà không? Có lần đi làm về, thấy mẹ đang ngồi xem phim cải luơng, nó gắt:

– Má tắt đi, nghe hoài nhức đầu lắm. Con ghét cái giọng rên rỉ đó, má coi chi mà coi tối ngày?

Lần khác, một người bạn của bà gọi đến, bà chưa kịp nhấc điện thoại thì con dâu đã giằng lấy, thản nhiên trả lời:

– Hỏi má chồng tôi hả? Bả đi vắng rồi, không có nhà.

Lúc đó Đức cũng có mặt, chỉ thấy nó hơi chau mày, nhưng không nói gì. Đức vẫn thường làm ngơ, mỗi khi chứng kiến vợ nó hỗn hào với mẹ.

Bây giờ, bà im lặng nghe con nói tiếp:

– Mấy tháng nay tụi con đã để ý tìm cho má một nơi ở tốt lắm. Ngôi nhà rộng rãi mát mẻ, có vườn tược, cây cối để má dạo chơi, có người nấu ăn, hầu hạ và có khối các cụ già để má tha hồ bầu bạn…

– Có cả y tá và nhân viên điều dưỡng nữa, phải không con?

Bà cười nhạt, nơi đó thì má biết rồi, con khỏi phải dài dòng nữa.

Ôi chao, nó đang tả cái viện dưỡng lão đấy, nơi chứa những xác chết chưa chôn, những thây ma biết đi. Người ta vào đó với tấm thân tàn tạ và đi ra trong một cái quan tài. Bà rùng mình, gì chứ phải sống giữa những người bệnh tật lê lết, những người xa lạ khác màu da, không cùng chung ngôn ngữ, phong tục, bà sợ lắm. Viện dưỡng lão từng là nỗi ám ảnh kinh hoàng của các cụ già cô đơn. Nhưng bà có cô đơn đâu? Bà có gia đình, có con, có cháu, vậy mà…

Bà xua tay ra hiệu cho Đức đừng nói thêm nữa, bà hiểu rồi, con bà đang tìm cách mời khéo bà đi chỗ khác. Tim bà như thắt lại, một cảm giác đau đớn dâng lên, lan nhanh khắp ngực, làm bà choáng váng muốn nghẹn thở. Bà thả rơi người xuống cái ghế xa lông nệm da êm ái, hai tay bà bám chắc lấy thành ghế, mặc cho những móng tay khô cứng làm trầy sát lớp da bọc mịn màng, cái ghế xa lông mà thường ngày bà không dám ngồi, sợ con dâu xót của, cằn nhằn, háy nguýt…

Bà ngồi im, chờ cho cơn đau qua đi. Khi gượng lại được, bà đưa mắt nhìn đứa con trai đang đứng trước mặt, giọt máu duy nhất của người chồng đã qua đời để lại, đứa con mà bà thương yêu hơn cả thân bà, đứa con mà bà đã hy sinh cả cuộc đời của bà, để mưu cầu hạnh phúc cho nó. Vậy mà bây giờ nó trả hiếu cho bà bằng cách đó ư? Bà nhắm mắt cố nén cơn đau, dĩ vãng như một khúc phim lại hiện về…

Hai ông bà hiếm hoi, lấy nhau gần tám năm mới sanh ra Đức mà lại sanh thiếu tháng. Lúc mới sanh, Đức chỉ nặng có hơn một ký, phải nuôi trong lồng kính, dây dợ chằng chịt đầy người, bác sĩ cũng lắc đầu, bảo khó hy vọng. Bà đã đi hết Chùa nọ đến đền kia, để cầu nguyện cho nó, bà van vái Phật trời, xin đổi mạng mình cho con được sống. Thế rồi như một phép lạ, Đức qua cơn nguy kịch và bình phục dần. Sau ba tháng nằm bệnh viện, bà sung sướng bế con về nhà.

Vì sanh thiếu tháng nên thuở nhỏ Đức hay đau ốm, quặt quẹo luôn, chăm lo săn sóc cho nó thật là vất vả. Bà không quản ngại nhiều đêm thức trắng, ẵm bồng, hát ru cho con dễ ngủ. Hàng ngày bà cầu nguyện cho nó hay ăn chóng lớn, khỏi hết mọi bệnh tật, đau ốm… Bà cầu nguyện cho nó khi lớn lên sẽ học giỏi, đỗ đạt, thành công, có một địa vị cao trong xã hội, một địa vị mà bà không thể vươn tới vì ít học. Bà cầu cho con bà có đủ mọi thứ mà nó mơ ước.

Thế rồi ông mất đi, bà phải lăn xả vào cuộc sống, làm ăn vất vả để nuôi nó. Bà đã quên mình, quên tuổi xuân, quên hạnh phúc riêng tư của bà, để chỉ nghĩ đến con. Nếu có thể làm gì, bà sẽ làm tất cả để cho nó được sung sướng. Suốt đời bà đã hy sinh cho nó, lần này cũng vậy…

Cố ngăn nước mắt cứ chực trào ra, bà nghẹn ngào nói với con:

– Khỏi phải nói nhiều, má sẽ đi khỏi đây, nếu điều đó làm cho cuộc sống của con dễ thở hơn.

Đức cúi mặt, dấu vẻ ngượng ngùng:

– Ồ không má ơi! Con làm vậy là vì má đấy chứ, con nghĩ môi trường mới sẽ tốt cho má hơn.

– Má hiểu cả, con không cần nói thêm nữa. Nhưng quãng đời còn lại của má, má sẽ tự quyết định lấy, con khỏi bận tâm.

Nói xong bà ra hiệu cho Đức lui ra. Bấy giờ bà mới để mặc cho hai dòng lệ chảy tràn trên đôi má hóp. Bà lặng lẽ khóc, chưa bao giờ bà khóc nhiều thế, bà khóc cho tình đời đen bạc, bà khóc cho thân phận cô đơn của bà và bà khóc cả cho Đức nữa… Bà biết từ nay nó sẽ sống trong ray rứt mỗi khi nghĩ đến mẹ, bởi vì con người ai cũng có lương tâm, bà cầu cho lương tâm nó được yên ổn.

Cuộc đời còn lại của bà nào đáng kể, bà đã hơn bảy mươi rồi, chẳng bao lâu nữa, tấm thân tàn tạ này rồi sẽ đi vào lòng đất sẽ trở thành cát bụi theo qui luật tự nhiên của tạo hóa, con người khởi điểm từ hư vô thì sau chót cũng trở về hư vô. Bà nghĩ thầm, giá chết được thì may quá, nhưng trời chưa cho chết, bà rùng mình nghĩ tới ngày mai… Con bà không tha thiết đến mẹ thì sự sống hay chết của mẹ cũng chẳng làm nó quan tâm, bà có thân phải tự lo liệu lấy.

Sau nhiều ngày suy nghĩ, bà Năm thấy chỉ có một giải pháp tốt nhất là về lại quê hương, ở với người em gái út không chồng, đi tu từ thuở nhỏ. Dì Út là sư bà, hiện đang trụ trì trong một ngôi Chùa bên Gia Định. Bà sẽ xin nương náu nơi cửa Phật, mặc áo nâu sồng, mượn câu kinh tiếng kệ, quên hết chuyện thế gian. Thu xếp xong xuôi mọi việc, bà mới nói cho dâu, con biết quyết định của bà. Đức xẻn lẻn không dám nhìn mẹ, còn Duyên thì không dấu được sự vui mừng lộ ra nét mặt.

Mấy tuần lễ cuối cùng rồi cũng trôi qua nhanh chóng. Hôm nay là ngày bà rời khỏi căn nhà này và sẽ không bao giờ quay lại nữa, con bà mời bà đến chỉ là bất đắc dĩ và bây giờ cũng chính nó mời bà ra khỏi nhà. Một cảm giác tủi thân làm bà rưng rưng, bà cô đơn lắm, chẳng có ai để kể lể, tâm sự những lúc vui buồn, ngoài người chồng đã khuất.

Nhìn khói hương bay tỏa, bà thấy lòng ấm lên đôi chút, có cảm tưởng ông đang quanh quẩn ở đâu đây, rất gần. Bà ngước nhìn lên khung ảnh của chồng, cái hình đã cũ lắm, ngả màu vàng ố vì thời gian. Dưới ánh nến lung linh, trông ông linh động như người thật, mắt ông đang nhìn bà đăm đăm như an ủi, vỗ về… Run run vì cảm động, bà chắp tay lên ngực, thì thầm khấn vái:

– Tôi biết mình vẫn ở bên tôi, mình không bao giờ bỏ tôi… Hôm nay tôi phải rời khỏi nơi đây, mình theo tôi về quê, mình nhé?

Mắt bà mờ đi, chẳng biết vì khói nhang hay nước mắt. Mấy cây nhang đã cháy gần tới chân, chỉ còn vài đốm đỏ vẫn còn đang ngún khói. Bà đợi khi đốm nhang cuối cùng đã tắt, rồi mới run run cầm lấy khung hình của chồng, gói vào một cái khăn mềm, cho vào va li, đóng nắp lại. Bà mở cửa sổ cho khói nhang bay ra, rồi thay quần áo, và đi xuống nhà dưới.

Ngang qua phòng khách, bà thấy cô con dâu đã thức và đang ngồi xem TV. Nghe tiếng chân bà, cô ta chỉ hơi ngẩng đầu, liếc bà một cái thật nhanh rồi lại thản nhiên xem tiếp, coi như không có sự hiện diện của mẹ chồng, nét mặt nó lạnh lùng, không biểu lộ một cảm xúc nào cả. Mặc kệ, bà đã quá quen với cảnh đó, nên cũng chẳng buồn để ý.

Đi thẳng xuống bếp, bà lấy một nhúm trà cho vào cái ly, rồi đổ nước sôi lên. Trong khi chờ trà ngấm, bà đưa mắt nhìn ra cửa sổ, ngoài kia nắng đã lên, có vài con bướm đang bay lượn quanh giàn mướp trổ đầy bông màu vàng. Bà thừ người đứng ngắm, giàn mướp này do chính tay bà trồng và chăm lo vun xới, nên xanh tốt lạ lùng. Bà biết Đức thích ăn món lá mướp non xào thịt bò, còn bố nó ngày xưa thích ăn cá kho tộ và canh mướp nấu với mồng tơi, tôm khô, nên trong vườn nhà bà lúc nào cũng có một giàn mướp. Hạnh phúc của bà là được sống giữa những người thân, chăm lo săn sóc từng miếng ăn, giấc ngủ cho họ được sung sướng.

Nhưng nay thì không được nữa rồi, bà đã mất tất cả… Sẽ chẳng bao giờ bà còn được nấu nướng những món ngon cho chồng con, và đã hết rồi cơ hội được bồng ẵm cháu. Ông đã bỏ bà, ông đi không bao giờ về, con cái cũng hắt hủi, xua đuổi mẹ. Bà sắp phải xa mái ấm gia đình, xa đứa con trai duy nhất, xa đứa cháu nội mà bà thương yêu và nó cũng rất thương bà.

Mải suy nghĩ, bà không nghe tiếng chân trẻ con chạy nhanh trên cầu thang và chỉ một thoáng, đứa cháu gái bé bỏng đã xuất hiện ngay sau lưng bà.

***

Sáng nay vừa thức dậy, Hân đã cảm thấy một sự gì hơi khác thường. Cô bé nhìn quanh phòng, không có ai cả, căn nhà dường như vắng hơn mọi ngày. Ngoài kia nắng đã lên rực sáng khung cửa sổ, vậy là muộn rồi đấy, cô bé vội vã đi ngay xuống nhà dưới. Hân thấy mẹ đang ngồi xem TV, nhưng nó không dừng lại mà đi thẳng xuống bếp. Bà nội đang đứng tựa cửa nhìn ra ngoài vườn. Không hiểu bà nhìn cái gì mà chăm chú thế? Hân nhìn theo, chẳng thấy có gì đáng chú ý cả. Cô bé nhìn vào mắt bà nội và phát sợ lên, lạ quá, bà ở đây mà hồn như đi vắng, trông bà giống như người đang mộng du. Cặp mắt vô hồn của bà làm Hân sợ hãi, cô bé rụt rè nắm lấy áo bà giật giật, khẽ gọi:

– Nội ơi!

Bấy giờ bà Năm mới giật mình sực tỉnh, quay lại thấy cháu, thì mỉm cười:

– Hân mới dậy đó à, có đói không? Bà làm bữa sáng cho cháu nhé?

Hân gật đầu, nhưng thấy bà vẫn đứng yên, chẳng nghe bà hỏi cháu muốn ăn gì như mọi ngày. Hôm nay bà làm sao vậy, trông ngẩn ngơ như người mất hồn…

Cô nhắc:

– Cháu muốn uống sữa và ăn bánh sandwich với thịt nguội.

Bà lật đật mở tủ lạnh lấy sữa và nướng sandwich cho cháu, rồi kẹp vô mấy miếng jambon và cà chua. Xong xuôi, bà ngồi uống trà, âu yếm nhìn cháu ăn. Con bé đang đói, nên ăn ngấu nghiến, vừa ăn nó vừa hỏi:

– Bố đâu rồi bà?

– Bố cháu đi đổ xăng.

– A! Hân reo lên mừng rỡ, bố sắp đưa cả nhà đi chơi, phải không bà?

Nó hỏi vậy, bởi vì mỗi sáng chủ nhật, bố vẫn dậy sớm sửa soạn xe, để đưa cả nhà đi chơi xa, ra khỏi thành phố để thay đổi không khí.

Hân hơi thất vọng, khi bà nội lắc đầu:

– Không, cháu ơi! Hôm nay chỉ mình bà đi thôi, lát nữa bố sẽ đưa bà ra phi trường.

– Bà đi phi trường làm gì vậy?

– Bà về Việt Nam.

– Việt Nam có xa không bà?

– Xa lắm cháu ạ.

Ngẫm nghĩ thế nào, Hân vụt hỏi:

– Bà đi lâu không?

– Ờ, lần này thì… hơi lâu đó. Mà cháu hỏi làm gì?

– Cho cháu đi với!

– Không được đâu, Hân phải đi học chứ.

Thấy cháu phụng phịu, bà dỗ:

– Hân ở nhà ngoan, bà sẽ gởi đồ chơi ở Việt Nam sang cho cháu.

– Thế bà không về nữa à?

Tới đó thì có tiếng xe ngừng ngay trước nhà. Đức đang bước vô cửa, thoạt nghe thấy thế thì khựng lại, cau mày rầy con:

– Hân không được hỏi nữa.

Và chàng quay sang mẹ, sửa soạn xong chưa má? Mình đi sớm một chút, đề phòng kẹt xe.

– Má sẵn sàng rồi.

Bà nói và khoác cái áo len mỏng lên người. Thấy đứa cháu bé bỏng đang nhìn mình bằng ánh mắt van nài, bà Năm nói với Đức:

– Cho Hân đi tiễn má, con nhé? Chẳng biết bao giờ bà cháu mới gặp lại, má nhớ nó lắm.

Đức hơi lưỡng lự rồi gật đầu, quay sang con:

– Được, đi thay quần áo đi! Nhưng phải nhanh lên đấy.

Chỉ chờ có thế, Hân vội phóng ngay lên thang lầu vào phòng thay quần áo. Khi nó trở xuống, Duyên uể oải đứng dậy, đi theo con ra cửa. Lúc bấy giờ cô con dâu mới tiễn biệt mẹ chồng bằng một câu nhạt nhẽo:

– Má đi mạnh giỏi.

– Ờ, con ở nhà giữ gìn sức khỏe. Chừng nào sanh, nhớ chụp hình đứa nhỏ gởi cho má.

– Việc đó thì đã hẳn, má đừng lo.

Nói xong Duyên quay sang chồng, dặn:

– Lúc về, mình nhớ ghé chợ Tàu, mua cho em con vịt quay.

– Anh biết rồi.

Đức lên lầu, đem vali xuống, bỏ vào cốp xe phía sau, rồi ngồi vào tay lái. Bà Năm quay nhìn một lần chót căn nhà bà đã sống với con, cháu mấy năm cuối đời. Một cảm giác nao nao làm bà thấy lòng như quặn lại, mắt mờ lệ, bà cúi xuống xách cái giỏ, theo con trai ra xe. Bé Hân đã nhảy tót lên xe trước, hai bà cháu cùng ngồi ở băng sau.

Ra khỏi thành phố, Đức cho xe phóng nhanh trên xa lộ. Trời đã vào thu, lá cây đổi thành màu vàng thật đẹp. Bé Hân ngồi kề bên bà nội, thích thú ngắm các nhà cửa, cây cối hai bên đường, tất cả đều đang chạy thụt lùi. Trời hôm nay nhiều gió, gió rít ào ào bên ngoài nghe như ma hú.Gió làm chiếc xe hơi tròng trành, Hân ngồi sát vào bà nội. Bà ngồi im lìm, dáng cô đơn trông thật tội nghiệp, suốt ngày bà vẫn im lìm như thế, lặng lẽ như một chiếc bóng.

Bất giác Hân nhìn lên băng trước, bố nó đang nói chuyện với ai đó, qua điện thoại di động.Cả ngày bố lúc nào cũng bận rộn, ngay cả những lúc lái xe, còn mẹ thì gắt gỏng suốt ngày. Hân sợ phải nghe mẹ cằn nhằn và thấy bà nội khóc, mỗi lần như vậy, cô thường hay trốn vào phòng riêng, đóng cửa lại.Cô bé không dám chạy nhảy, đùa rỡn vô tư như trước vì thấy cả nhà ai cũng quạu cọ. Bà nội cũng không nấu nướng những món cô thích nữa. Dạo này Hân thấy bà âu sầu và hay thở dài. Đôi khi thấy mắt bà đỏ hoe, cô hỏi thì bà nói là bụi bay vô mắt, nhưng cô biết là không phải vậy. Hân thương bà, nhưng không biết phải an ủi bằng cách nào.

Cô bé nắm lấy tay bà, rồi chẳng hiểu nghĩ sao, Hân bỗng gọi bố:

– Bố ơi, con không muốn dọn về nhà mới đâu.

Đức nói tiếp cho xong câu chuyện với bạn rồi mới đặt điện thoại xuống, hỏi:

– Tại sao thế?

– Tại nhà mới không có chỗ cho bà nội.

Đức giật mình:

– Ai bảo con vậy?

– Mẹ nói nhà có ba phòng, một cho bố mẹ, một cho con, còn phòng kia dành cho em bé…

– Ừ, phải rồi.Nhà mới không được rộng như nhà này.

– Thế sao bố lại dọn đi?

– Tại ở đó rẻ hơn.

– Bà nội có về nhà mới với mình không bố?

– Không con ạ, bà sẽ về Việt Nam ở, nơi đó thích hợp với bà hơn.

– Bà ở đó một mình hả?

– Bà ở với một người bà con. Thôi con đừng hỏi nữa để yên cho bố lái xe.

Nhưng con bé vẫn dai dẳng:

– Con không muốn dọn nhà, con không muốn bà đi.

Đức cau mày khẽ gắt:

– Con nít đừng xen vào chuyện của người lớn. Con phải hiểu thời buổi bây giờ khó khăn, kinh tế xuống dốc, mọi người ai cũng phải tiện tặn. Mẹ lại sắp phải nghỉ việc vì sanh em bé, bố không kham nổi căn nhà lớn.

Hân lắc đầu, không hiểu gì hết. Quả vậy, những danh từ đó đối với nó rắc rối quá, khó hiểu quá. Cô bé ngây thơ chỉ nghĩ một cách đơn giản rằng, cha mẹ nó tìm cách mua nhà nhỏ, để lấy cớ không có chỗ ở cho bà nội. Nếu thật tình yêu thương bà, sao mọi người không chia sẻ? Hân sẵn lòng cho bà ở chung phòng, chỉ giản dị có thế, đâu cần phải đuổi bà?

Nhìn hai dòng nước mắt đang lặng lẽ bò trên đôi má nhăn nheo của bà nội, lòng cô thắt lại, cô nắm lấy tay bà dỗ dành, như bà vẫn dỗ dành cô những khi cô đau khổ:

– Nội ơi, đừng khóc!

Nhưng chính cô cũng không ngăn được nước mắt. Cô nhoài người sang, ngả đầu vào ngực bà, thổn thức. Cô biết rằng lần chia tay này là lần cuối cùng sẽ chẳng bao giờ cô còn được gặp bà nữa.

Buổi Học Cuối Cùng – Alphonse Daudet – Thân Trọng Sơn DịchThuật

Buổi Học Cuối Cùng – Alphonse Daudet – Thân Trọng Sơn DịchThuật

Alphonse Daudet (13/5/1840 – 16/12/1897) là một nhà văn Pháp và là tác giả của nhiều tập truyện ngắn nổi tiếng. Ông sinh ra ở Nîmes (thuộc miền Nam nước Pháp). Ông bắt đầu viết văn từ năm 14 tuổi, đến năm 18 tuổi Alphonse ra thi tập “Những Người Đàn Bà Đang Yêu” (Les Amoureuses, 1858) và được đón nhận ngay. Độc giả Pháp đặc biệt yêu mến ông qua các tiểu thuyết “Thằng Nhóc Con” (Le Petit Chose), gần như là thiên hồi ký của thời niên thiếu đau khổ của chính mình mà đôi khi cũng được ví với nhân vật trong tác phẩm “David Copperfield” của đại văn hào Charles Dickens của Anh. Những năm sau ông viết nhiều tiểu thuyết cũng thành công không kém, qua các đề tài xã hội của một nước Pháp dân chủ thay thế cho chế độ quân chủ. Cho đến cuối đời, Daudet dao động từ niềm vui thẳng thắn (Nhân vật huyền thoại Tartarin de Tarascon) đến sự mỉa mai như quất mạnh (Numa Roumestan), hoặc nỗi u sầu bệnh hoạn nhất.

Cùng lúc với một Daudet thi sĩ, lại có một Daudet duy thực chua chát, ngay cả theo xu hướng tự nhiên, theo dấu chân của những nhà văn cùng thời với ông, Emile Zola hoặc anh em nhà Goncourt (Edmond & Jules de Goncourt, với các tiểu thuyết theo tự nhiên, sáng lập ra hàn lâm viện Goncourt).

***

Sáng hôm ấy tôi tới trường trễ, rất lo sẽ bị la, nhất là vì thầy Hamel đã dặn sẽ dò bài về thể phân từ, mà tôi thì không hiểu chữ nào. Có lúc tôi đã nghĩ đến chuyện trốn học, bỏ đi lêu lổng ngoài đồng. Trời thì ấm áp và tươi đẹp quá thế này.

Nghe có tiếng chim ríu rít ở bìa rừng, và trên cánh đồng Rippert đàng sau xưởng cưa, đám lính Phổ đang tập trận. Những thứ này hấp dẫn tôi hơn cái món mẹo luật phân từ, nhưng tôi cũng còn cưỡng lại được, và tôi ba chân bốn cẳng chạy tới trường.

Khi đi ngang Toà Thị Chính, tôi thấy đám đông người đang tụ tập trước bảng cáo thị. Suốt hai năm qua, mọi tin xấu đều từ nơi đó mà ra, nào tin thua trận, nào là lệnh tuyển binh, rồi các chỉ thị của bộ chỉ huy, tôi tự hỏi, chân vẫn không dừng: “Lại chuyện gì nữa đây?”

Thế rồi, khi tôi vội vàng chạy qua khu quảng trường, bác thợ rèn Wachter đang đứng đọc bảng cáo thị với anh học việc, nói lớn với theo tôi:

“Chạy gì nhanh thế, cậu bé. cậu còn cả khối thời gian tới trường mà!”

Tôi nghĩ là bác ấy đang giễu cợt tôi, và tôi thở hổn hển khi tới được mảnh sân nhỏ của thầy Hamel.

Thông thường, khi bắt đầu giờ vào lớp, luôn có những âm thanh ầm ĩ, ngoài đường cũng nghe thấy, tiếng mở đóng hộc bàn, tiếng học trò ôn bài đồng loạt, rất ồn ào vì cứ bịt tai mà đọc để nghe cho rõ, còn cả tiếng thầy gõ thước lên bàn nữa.

“Tất cả im lặng nhé!”

Tôi hy vọng sẽ lợi dụng lúc chộn rộn này để vô lớp không bị ai nhìn thấy. Nhưng hôm nay sao lại yên lặng như đang là sáng chủ nhật thế này! Qua cửa sổ, tôi thấy các bạn đã ngồi vào chỗ đàng hoàng, còn thầy Hamel thì đang đi tới đi lui với cây thước kẻ bằng sắt đáng sợ kẹp dưới nách. Phải mở cửa bước vào trong không khí lặng lẽ đó. Bạn chắc là tưởng tượng ra mặt tôi đỏ rần và tôi run sợ như thế nào.

Thế nhưng, không. Thầy Hamel nhìn tôi không chút giận dữ và dịu dàng nói:

“Hãy vào chỗ ngồi nhanh đi, em Frantz. Lớp học bắt đầu mà vắng mặt em đó.”

Tôi nhảy qua băng ghế và ngồi xuống ngay bàn của mình. Đến lúc đó, khi đã bớt lo sợ tôi mới nhận ra là hôm nay thầy mặc cái áo khoác màu xanh thật đẹp, riềm lá sen gấp nếp mịn và đội cái mũ tròn bằng lụa đen thêu mà thầy chỉ mặc những hôm có thanh tra hoặc phát phần thưởng.

Thêm vào đó, hôm nay trường tôi có vẻ gì lạ lùng và trang nghiêm khác thường, nhưng điều làm tôi sững sờ hơn hết là trên mấy băng ghế đặt ở cuối lớp, mọi ngày bỏ trống, hôm nay lại thấy có mấy người dân trong làng đang ngồi lặng lẽ giống như chúng tôi vậy. Ông già Hauser với cái nón xếp ba góc, ông cựu thị trưởng, ông cựu bưu tá, và nhiều người khác nữa, ai trông cũng buồn rầu. Ông Hauser có mang theo quyển sách vỡ lòng cũ, góc đã quăn queo, ông mở sẵn trên đùi, đặt cái kính đeo mắt trên trang sách.

Trong khi tôi đang tự hỏi về tất cả những điều đó thì thầy Hamel ngồi vào ghế của mình, và cất tiếng, cũng với cái giọng nhẹ nhàng và nghiêm trang mà lúc nãy thầy nói với tôi:

“Này các con, đây là buổi học cuối cùng thầy dậy các con. Lệnh đến từ Berlin là tất cả các trường học ở Alsace và Lorraine chỉ được phép dùng tiếng Đức mà thôi. Ngày mai sẽ có thầy mới tới đây và hôm nay là buổi học tiếng Pháp cuối cùng. Thầy mong các con phải chú ý thực kỹ.”

Những lời ấy khác nào sấm sét giáng xuống đầu tôi! Ôi, bọn khốn! Thì ra đây là cái mà chúng đã dán ở Toà Thị Chính!

Buổi học tiếng Pháp cuối cùng của tôi sao! Tôi còn chưa biết viết nữa mà! Tôi không được học nữa sao? Phải ngưng hết việc học ngay lúc này sao? Tôi giận mình biết bao về thời gian bỏ phí bấy lâu, tôi đã trốn học để đi tìm trứng chim hay đi trượt ván ở Saar! Những cuốn sách mà mới khoảnh khắc trước tôi cho là thứ khô khan, mang vác nặng nề, sách ngữ pháp, sách lịch sử linh thiêng, giờ tôi coi như những người bạn cũ, khó khăn lắm mới rời bỏ được. Và thầy Hamel cũng vậy. Nghĩ đến việc thầy sắp sửa đi xa, tôi sẽ không còn gặp thầy được nữa là tôi quên hết những hình phạt, những đòn đánh thước kẻ của thầy trước kia.

Tội thầy quá!

Chính vì coi trọng buổi học cuối cùng này mà thầy đã mặc bộ đồ đẹp thường chỉ diện ngày chủ nhật, và lúc này tôi mới hiểu tại sao những vị bô lão trong làng đến ngồi trên những băng ghế nơi cuối lớp. Có vẻ như họ cũng hối hận rằng đáng lẽ họ phải đến trường siêng năng hơn. Đó là cách họ tỏ lòng tri ân thầy chúng tôi đã tận tuỵ suốt bốn mươi năm nay, và cũng để biểu lộ tình cảm ân nghĩa đối với tổ quốc nay đã mất đi.

Tôi đang nghĩ về những điều này bỗng nghe tiếng thầy gọi tên. Đến phiên tôi phải đọc bài. Tôi có thể đánh đổi gì để có thể đọc được hết cái quy tắc về phân từ lẫy lừng đó, đọc thật to, thật rõ, không vấp váp chút nào nhỉ? Tôi chỉ ấp úng được mấy chữ đầu tiên thôi, rồi đứng yên như trời trồng, chết dí nơi băng ghế, tim đập mạnh, chẳng dám ngước mắt lên. Tôi nghe thầy Hamel nói với tôi:

“Này Frantz, thầy không la con đâu, con bị trừng phạt thế là đủ rồi, con thấy chưa, ngày nào ta cũng tự bảo: ấy, ta còn khối thời gian mà, để ngày mai rồi học cũng được. Và con thấy kết quả ra sao rồi đó… Ừ, tai hoạ lớn nhất của xứ Alsace chúng ta là bao giờ cũng trì hoãn việc học đến ngày mai. Và giờ đây, những kẻ kia có quyền bảo chúng ta rằng: Thế nào! Các ngươi tự nhận mình là dân Pháp, thế mà sao các ngươi chẳng biết đọc biết viết được tiếng mẹ đẻ của mình! Trong chuyện này, trò Frantz à, con đâu phải là người tội lỗi nhất. Tất cả chúng ta đây đều phải tự trách mình cả đấy.

Bố mẹ các con không chăm lo lắm việc học hành của các con. Họ thích các con ra đồng làm việc hay vào nhà máy hơn để kiếm thêm chút tiền. Còn thầy đây, bộ thầy không có gì đáng trách à? Chẳng phải là thầy đã sai các con đi tưới hoa trong vườn thay vì bắt các con phải học bài. Và khi thầy muốn đi câu, thầy chẳng ngần ngại cho các con nghỉ học.”

Thế rồi, từ chuyện này bắt sang chuyện khác, thầy Hamel nói về tiếng Pháp, bảo rằng đó là ngôn ngữ đẹp nhất trên thế giới, trong sáng nhất, hợp lý nhất, vững vàng nhất, và cần bảo vệ nó, đừng bao giờ được phép quên điều đó, vì khi một dân tộc bị rơi vào vòng nô lệ, chừng nào còn giữ vững tiếng nói của mình thì không khác gì nắm được chiếc chìa khoá mở cửa tù giam. Rồi thầy mở sách ngữ pháp ra và đọc bài học cho chúng tôi nghe. Tôi ngạc nhiên thấy mình hiểu thật thông suốt. Những điều thầy nói nghe thật dễ hiểu, thực sự rất dễ hiểu. Tôi cũng thấy rằng tôi chưa bao giờ chú ý nghe thầy giảng chăm chú đến thế, mà thầy cũng chưa bao giờ giảng giải mọi điều một cách kiên nhẫn đến thế. Như thể là trước khi đi xa thầy muốn truyền cho chúng tôi tất cả kiến thức của mình, cố trút hết vào đầu óc chúng tôi tất cả một lần.

Sau bài ngữ pháp, đến bài tập viết. Hôm đó, thầy đã chuẩn bị những tờ mẫu mới toanh, trên đó có viết bằng chữ rông thật đẹp: France, Alsace, France, Alsace… Những tờ giấy tập viết như những lá cờ nhỏ bay khắp phòng học, treo trên những thanh gắn trên mặt bàn học chúng tôi. Bạn phải nhìn thấy mọi người chăm chú làm việc như thế nào, và lớp học im lặng ra sao! Chỉ còn nghe được tiếng ngòi bút cào trên giấy. Có lúc, có vài con bọ bay vào phòng, nhưng chẳng ai để ý đến chúng, ngay cả những thằng nhỏ bé nhất đang cố công vạch những nét sổ thẳng, toàn tâm, toàn ý, chừng như những nét sổ đó cũng là tiếng Pháp. Trên mái nhà, những con bồ câu gù gù nho nhỏ, tôi nghe tiếng chim và nhủ thầm:

“Liệu người ta có bắt cả chúng nó cũng phải hót bằng tiếng Đức không nhỉ?”

Có lúc đang viết ngước nhìn lên, tôi thấy thầy Hamel ngồi bất động trên ghế, mắt chăm chăm nhìn hết vật này sang vật khác, như muốn ghi sâu trong tâm trí mình tất cả hình ảnh ngôi trường nhỏ bé này. Thật lạ! Đã bốn mươi năm nay, thầy chẳng luôn ở đây, vẫn chỗ ngồi đó, vẫn sân chơi trước mặt, vẫn lớp học không đổi hay sao? Chỉ có mấy cái ghế, cái bàn sử dụng lâu ngày nay trơn mòn hơn, những cây hạt óc chó nay mọc cao hơn, và dây hoa bia do chính thầy trồng nay quấn quanh cửa sổ, leo lên tận mái nhà. Hẳn là thầy đau lòng lắm khi phải rời xa tất cả những thứ này, khi nghe tiếng cô em thầy ở tầng trên đang đi đi lại lại, đóng gói đồ đạc vào mấy cái rương, bởi vì họ phải rời khỏi xứ ngay ngày hôm sau.

Nhưng rồi thầy cũng can đảm dạy hết cả buổi học. Sau phần tập viết, chúng tôi học về lịch sử, sau đó các trò nhỏ bi ba bi bô đánh vần. Dưới kia, ở cuối lớp, cụ Hauser đeo cặp kính vào mắt, hai tay nâng sách vỡ lòng lên cùng đánh vần theo chúng. Ai cũng thấy là cụ cũng rất chăm chú, giọng run run vì xúc động, nghe rất buồn cười khiến chúng tôi vừa muốn cười vừa muốn khóc. Ôi chao, tôi nhớ buổi học cuối cùng ấy biết bao!

Đột nhiên chuông nhà thờ gõ mười hai tiếng. Rồi đến hồi chuông cầu kinh Đức Bà. Đồng thời tiếng kèn đồng của đám lính Phổ đi tập trận về vang lên dưới mấy cửa sổ phòng học. Thầy Hamel đẩy ghế đứng dậy, mặt tái xanh. Chưa lúc nào tôi thấy thầy cao đến vậy. Thầy nói:

“Các bạn, các bạn, tôi…tôi…”

Có cái gì đó làm thầy nghẹn lại, không nói hết câu được. Thầy xoay người về phía bảng đen, nhặt một mẩu phấn, và bằng hết sức mình ấn lên phấn, thầy viết hàng chữ to hết cỡ:

“NƯỚC PHÁP MUÔN NĂM.”

Thế rồi, thầy ngừng tay, đầu gục lên tường, không nói một lời, thầy xua tay ra dấu như bảo chúng tôi: “Lớp học kết thúc… mọi người về đi!”

Alphonse Daudet

(Thân Trọng Sơn dịch và giới thiệu theo nguyên bản tiếng Pháp, Les Contes du lundi / Chuyện kể ngày thứ hai).