Người Chết Không Ăn-TRUYỆN NGẮN – HỒ THỦY

Van Pham

TRUYỆN NGẮN – HỒ THỦY

Người Chết Không Ăn

Vừa mới sáng sớm, bên nhà người láng giềng đã nhộn nhịp chuẩn bị làm đám giỗ chung cho cả ông bố và bà mẹ; nghe nói chết cũng đã chục năm nay, và năm nào cũng làm đám giỗ thật lớn, mời xóm giềng, bạn bè, người thân rồi còn anh em bà con… đông lắm, đâu chừng mười bàn lận đó.

Gia đình tôi dọn về đây chưa tới một năm, nhà tôi sát ngay bên phải nhà “cố cựu” mà hôm nay có đám giỗ; ông bà chủ nhà tên là Hướng, mẹ tôi thường nói:

– Bà con xa không bằng láng giềng gần.

Rồi mẹ còn dạy thêm một câu:

– Bán anh em xa mua láng giếng gần.

Vì vậy khi vừa mới dọn về mẹ đã qua làm quen, chào hỏi và dần dần thân thiện với nhà bên ấy.

Hôm qua, bà Hướng mời cha mẹ và luôn cả mấy chị em tôi trưa nay qua nhà bà “ăn đám giỗ”, sáng nay, mẹ đi chợ mua một giỏ trái cây loại ngon nhất và sai tôi đem qua trước để cúng, mẹ dặn dò tôi:

– Con phải thắp nhang vái lạy cung kính trước bàn thờ Ông Bà, rồi về nhà phụ với mẹ nấu cơm cho các em, biết rằng người ta mời cả nhà mình nhưng mình cũng phải giữ ý giữ tứ, mẹ qua bên ấy phụ với bác gái, chừng cha đi làm về thì qua sau, còn các con thì ăn cơm ở nhà.

Nhà bác ấy khá rộng, có hai tầng lầu, đám giỗ đãi mười bàn, phía trong phòng khách kê được sáu bàn, còn bốn bàn thì kê nhờ trước hiên nhà của hai bên hàng xóm. Thời đại mới này; hơn nữa lại ở Sài Gòn thì cái chuyện người nhà phải lo nấu nướng mỗi khi có đám tiệc là coi như:-“xưa rồi Diễm”, chỉ cần Alô cho dịch vụ nhóm nấu ăn là được đáp ứng ngay, món gì cũng có, tùy theo túi tiền của gia chủ mà ngon nhiều hay ngon ít.

Tôi không còn nhỏ, cũng chưa hẵn là lớn, nhưng trí óc thì cũng đã biết nhận định được nhiều điều phải và không phải. Mang trái cây sang nhà bác và đặt trước bàn thờ ông bà cụ, tôi thắp ba cây nhang rồi cung kính vái lạy ba cái như lời mẹ dạy, khói nhang nghi ngút làm cay sè chảy nước mắt, nhưng tôi cũng ráng cố gắng nhìn lên mặt hai cụ, bởi vì tôi có tánh xấu ưa tò mò quan sát nọ kia, mặc dù tôi là con gái, hình hai ông bà cụ được lộng chung vào một cái khung viền vàng lộng lẫy, trong hình không ai cười mà nét mặt lại rất nghiêm nghị, ánh mắt có vẻ buồn.

Trước bàn thờ của ông bà cụ đã bày sẵn một cái bàn; trên bàn bày biện rất nhiều thức ăn ngon, lạ, nhìn thôi cũng đủ thèm, thật là hấp dẫn, lại có thêm một bình trà, rượu và ly tách chén bát bông hoa, trái cây… không thiếu thứ gì.

Hình như hai cụ… khóc thì phải?… hình như tôi thấy trong bốn khóe mắt của hai cụ long lanh bốn giọt nước?… và hình như nó sắp sửa… rơi ra?… Tự nhiên tôi nổi da gà, lạy hai cụ thêm một lạy và chạy nhanh ra khỏi phòng thờ. Có mấy người đang đi vào thắp nhang xá xá mấy cái. Không biết có ai thấy điều tôi vừa thấy? Hay tại tôi tưởng tượng mà ra?

Người đến “ăn” đám giỗ của hai cụ đông quá trời, đàn ông đàn bà ai nấy cũng quần là áo lượt, cũng son phấn chưng diện ngất trời, xịt nước hoa thơm phưng phức… đến ăn giỗ của người chết mà như đi ăn đám cưới của người sống vậy đó, mọi người nói cười rôm rã, họ đang cố nhớ ra một kỷ niệm nào đó đã có với người chết; vui hay buồn gì cũng được, miễn là có để kể cho nhau nghe, nhưng mà ông bà cụ già lắm rồi – ngoài bà con, con cháu và một số rất ít người hàng xóm biết về hai cụ – còn những người khác khi được mời đến ăn giỗ thì phần đông họ còn trẻ, hoặc mới dọn đến như gia đình tôi, câu đầu tiên khi nhắc hoặc kể về hai cụ hầu như đều bắt đầu bằng ba chữ: “ – Tui nghe nói…”.

Đám giỗ vui thật, rất ồn ào náo nhiệt, tôi nghĩ thầm trong đầu: mỗi năm nên làm một lần để nhớ đến người đã khuất bóng, nhưng mà…

Mẹ tôi qua nhà bác, thật giản dị trong cái áo bà ba và quần xoa đen, mẹ đẩy tôi về nhà, mắng nhỏ vào tai tôi:

– Về nhà mà ăn cơm với các em, đứng chi ở đây đặng mà nhiều chuyện. Để mẹ vào phụ với bác gái.

Thật tình thì mẹ cũng biết rỏ là tôi ham đông vui. Nhưng sao hai giọt nước trong hai khóe mắt của các cụ cứ ám ảnh tôi mãi. Tôi và hai đứa em lóng ngóng nhìn qua nhà bác Hướng, phê bình khách này khách nọ đẹp xấu…lung tung, có một bà sồn sồn trắng trẻo sang trọng, hình như là Việt kiều thì phải, bà ta ngồi gần mẹ tôi, nói cười thật rôm rã và hào hứng, tôi nghe câu được câu mất nhưng nếu gom góp lại thì cũng biết chút chút…

Những người đàn ông cùng nhau nâng ly lên, “hồ hỡi phấn khởi” mà hét to:

-…Dô… “chăm” phần “chăm”…dô…uống hết à nghen, không hết là bị phạt à nghen…dô…

Mặt người nào người nấy trông đỏ như gấc. Bia rượu khui ra không tiếc tay, thức ăn ê hề phủ phê. Một sự thừa mứa không nên có.

Em gái kế tôi nói:

– Chị Hai nè, nhà bác ấy làm đám giỗ lớn quá ha, em thấy nhà mình cha mẹ có bao giờ làm đám giỗ cho ông bà nội ngoại lớn như vậy đâu, năm nào cũng chỉ đãi chừng hai hoặc ba bàn thôi hà, mà chỉ toàn là bà con…

Em trai út ngây thơ trả lời thay tôi:

– Tại cha mẹ đâu có nhiều tiền như nhà bác ấy…chị Hai nhỉ. Mà sao làm đám giỗ hai người cùng một ngày?

Tôi không trả lời, tôi nghĩ không phải tại cha mẹ tôi không có nhiều tiền để làm đám giỗ to, cũng như tôi không biết tại sao hai cụ cùng được giỗ chung một ngày.

Tàn đám giỗ mẹ tôi lại phụ bác gái dọn dẹp nhà cửa. Nhờ được mời “ăn giỗ” hôm nay nên mẹ tôi biết được rất nhiều chuyện bên nhà bác Hướng; vì đây là lần đầu tiên mẹ tôi được bác mời qua nhà (ăn đám giỗ).

Bốn giọt nước trong bốn khóe mắt của hai ông bà cụ rơi xuống, lọt ra ngoài khung hình rồi nhập lại thành một giọt nước to đùng, giọt nước ấy lăn tròn… lăn tròn… nhảy nhót lưng tưng như trái pingpong dội trên nền xi măng, lúc đầu nó tròn vo sau đó thì méo mó biến dạng, nó bám theo chân bàn rồi trườn lên những dĩa thức ăn đặt trước bàn thờ, nó luồn lách, lùng sục, ngọ ngoạy và ngoáy sâu vào kẻ hở của tất cả những món ăn, hết đĩa này nó lại bò qua đĩa khác; không bỏ sót một dĩa nào, rồi từ dưới lòng những dĩa thức ăn đó nó laị rướn mình chui ra để leo lên ly rượu, và như một cái lưởi dài nó liếm quanh miệng ly; quậy sâu xuống đáy ly, sau đó thì nó bò qua dĩa trái cây, biến dạng thành hình lưỡi dao nhọn để chui vô trong ruột của từng trái, cuối cùng thì nó lảo đảo ngả nghiêng té nhào vào tách nước trà…

Giọt nước mắt rong chơi trên mâm cơm cúng chừng như cũng đã thỏa thuê, nó quay lại bò lên bàn thờ, tách ra làm bốn giọt nước nhỏ như trước rồi trườn lên khung hình để trở về vị trí cũ, nơi nó đã thoát ra: đó là bốn khóe mắt của hai ông bà cụ…\

Tôi giật mình tỉnh dậy, trán đẩm mồ hôi, thì ra đây chỉ là giấc mơ, một giấc mơ kỳ quặc hết sức nhưng cũng làm tôi sợ điếng người. Các em tôi đã ngủ say, tôi lần mò trong bóng tối để xuống bếp kiếm nước uống…

Có tiếng nói chuyện của cha mẹ tôi, dù rất nhỏ nhưng trong đêm khuya thanh vắng tôi nghe thật là rõ…

– Mình à, ông bà cụ nhà bác Hướng tội nghiệp ghê vậy đó. Em nghe kể mà thương.

– Úi chà, em lúc nào mà chẳng thương vay khóc mướn.

– Anh kỳ quá đi… em nghe kể chuyện về ông bà cụ ấy mà xót xa, anh để yên nghe em kể lại…

…Cụ có ba người con, hai gái một trai, hai người con gái ở nước ngoài, thay nhau mỗi người về một lần vào dịp đám giỗ, mà lạ lắm anh, cụ bà mất trước cụ ông một năm nhưng ngày mất thì xê xích nhau chút đỉnh nên chi gộp chung lại làm đám giỗ hai ông bà một ngày cho tiện.

Cha tôi cười:

– Hì hì…em đúng là bà tám…

– Đã nói im nghe người ta kể…

– Kể ngắn gọn thôi, anh buồn ngủ lắm rồi đó nghen…

– Ừ, thì nghe tiếp đây, lúc còn trẻ hai cụ nghèo khổ lắm. Ông đạp xích lô còn bà bán ve chai, nhờ chịu khó với lại cần kiệm nên từ từ tích cóp được ít tiền mua một cái nhà rách trong hẻm, rồi lại chịu thương chịu khó cần kiệm để dành tiền phá cái nhà rách xây được ngôi nhà nhỏ…nói chung hai ông bà giỏi tiết kiệm, dè xẻn từng đồng, lại chịu khó lo làm lụng vất vã nuôi con ăn học, từ từ bán nhà trong hẻm, mua nhà mặt tiền đường rồi mở cửa hàng buôn bán, ngày càng giàu. Bác Hướng là con trai lớn có cấp bằng cử nhân lận đó anh, bác vừa ra trường là có việc làm và ngay lập tức bác cưới vợ, ông bà cụ cho ra riêng nhưng vợ bác ấy làm ăn thất bại, họ bán nhà quay về xin ở chung với hai cụ để gọi là “phụng dưỡng cha mẹ già”…

– Chuyện bình thường thôi, có gì đâu mà tội nghiệp ông bà cụ?

Mẹ tôi gắt:

– Anh này, yên nghe em kể tiếp… còn hai cô con gái lấy chồng rồi theo chồng ra nước ngoài; người thì vượt biên, người thì đi theo diện đoàn tụ, hai bà này cũng thương bố mẹ, bảo lãnh cho hai cụ qua định cư ở Mỷ, vì vậy hai cụ giao hết nhà cửa cho anh trai lớn. Nhưng qua Mỹ buồn quá chịu không nổi vì suốt ngày phải ở trong nhà, cứ luân phiên tháng này thì ở nhà đứa này, tháng sau qua nhà đứa khác…như con thoi, mà qua nhà người nào đi nữa thì cũng chỉ ở trong nhà, đâu dám ra đi ra đường, một tiếng Mỹ cắn đôi cũng không biết, gặp thằng Mỹ nào hỏi gì thì chỉ gật gật lắc lắc: – ô kê… ô kê… dét… dét…nô…nô…

…Cuối cùng hai ông bà về lại VN, ở lại trong chính căn nhà của mình nhưng nay là nhà của con trai và con dâu. Anh à, em đâu ngờ chị Hướng mà ghê gớm đến như vậy, còn anh Hướng thì quá nhu nhược và sợ vợ. Hai ông bà cụ ở chung mà ăn riêng đó nghen, cái phòng của hai cụ bị dời lên trên lầu, ông bà cụ nhờ khéo chắt chiu dánh dụm, cất dấu nên có được một ít tiền rồi đem gởi tiết kiệm, lấy lời hàng tháng để tiêu xài, không ngữa tay xin xỏ con cái. Thời gian đầu họ cũng có chăm lo cho ông bà cụ, nhưng từ từ những bữa cơm trở nên trễ nải, lắm khi hai cụ phải chờ đợi, chầu chực…còn về phần thức ăn thì…nghe nói tội lắm anh, con dâu nấu gì ăn đó, đôi khi vợ chồng con cái bác ấy ăn đâu ngoài đường toàn là thứ ngon, nhưng về nhà chỉ luộc cho ông bà cụ cái hột vịt dằm với nước mắm…Thời gian sau cô con dâu lấy cớ bận rộn nên không nấu nướng cơm nước hầu hạ bố mẹ chồng được, thôi thì ai ăn người đó nấu cho tiện, vậy nên chi trên lầu, ngoài phòng hai cụ có thêm cái bếp…từ đó hai ông bà già lụm cụm lủi thủi lo cho nhau…

Bây giờ thì có tiếng thở dài của cha tôi, mẹ tôi kể tiếp:

– Bà cụ bịnh rồi mất, nghe đâu lúc mất cũng bảy sáu tuổi, một năm sau thì ông đi theo bà…Em nghe nói đám ma của cụ ông lớn lắm anh à, tốn hết mấy cây vàng lận đó.

Cha tôi thở hắt ra thật mạnh nên tôi nghe thật rõ:

– Sống không cho ăn uống đàng hoàng đầy đủ, chết rồi thì làm đám ma cho lớn, đám giỗ linh đình mà chi, người đã chết rồi nào có ăn được gì đâu, trước tiên là để cho ruồi bu kiến đậu, sau đó tới phiên mình ăn… Người già khi còn sống cũng chẳng ăn được nhiều, chừng hai lưng chén cơm là cùng, khi chết rồi… khỏi ăn được luôn.

Mẹ tôi nói một cách mĩa mai:

– Có lẻ bác ấy nghĩ rằng phải lo hầu hạ…một năm đến ba trăm sáu mươi lăm ngày thì…mệt, thôi thì dồn lại để dành đến lúc chết, mổi năm chỉ lo một ngày Giỗ thôi, vậy nên phải làm cho linh đình để mọi người biết mình có hiếu với cha mẹ.

Cha tôi tiếp lời:

– Em…cũng “bà tám” thật đó, nhưng thôi, anh khuyên em không nên qua lại nhiều với nhà bác ấy, cũng như không nên “tám” chuyện với hàng xóm láng giềng, dễ sinh mích lòng, mình chỉ nên sơ giao thôi em à. Chuyện thị phi nói mấy cũng không vừa bụng thiên hạ, ai thì cũng ưa bới móc cái xấu của nhau ra để hạ bệ nhau… “Đèn nhà ai nấy sáng”, biết đâu họ cũng xầm xì bươi móc chuyện nhà mình? Anh sợ nhất những bà ưa ngồi lê đôi mách…đốt nhà người ta cháy như chơi…

– Em biết rồi…anh nè, cũng may lúc Tứ Thân Phụ Mẫu của tụi mình còn sống, anh thì lo cho cha mẹ em đầy đủ nên được tiếng là “Rễ thảo”, còn em thì lo cho cha má anh chu đáo nên được khen là “Dâu hiền”, tụi mình đều không để cho cha mẹ hai bên phải thiếu thốn thèm thuồng…

Mẹ hỏi cha một câu làm cho tôi phát ớn sau gáy:

– Anh có để ý hình của cha mẹ hai đứa mình không? Đôi con mắt của các cụ lúc nào cũng vui, mỗi lần nhìn vào là em thấy như các cụ đang cười. Còn đôi mắt của hai ông bà cụ bên ấy…lúc lên thắp nhang…em thấy mắt các cụ ướt như là muốn khóc, nó buồn rười rượi ghê vậy đó; anh à.

Cha tôi trở mình trên giường và trả lời mẹ:

– Người già rất nhạy cảm và thường dễ tủi thân, mà ai thì cũng phải già…mà thôi…ngủ đi em, khuya lắm rồi.

Mẹ tôi cố nói thêm một câu cuối cùng nhưng rất quan trọng:

– Làm con phải để chử Hiếu lên hàng đầu, trả Hiếu cho cha mẹ thì phải trả lúc cha mẹ còn sống, không chỉ là “cơm bưng nước rót” mà còn là cách đối xử có đạo nghĩa hay không? Có làm vừa lòng đẹp ý cha mẹ hay không?. Đạo Chúa hay Đạo Phật cũng dạy con người ta phải “ làm tròn chữ Hiếu mới là Đạo con”, đừng nên lấy sự bận rộn ra mà làm cái cớ để trốn tránh bổn phận làm con…thôi, em ngủ đây.

Tôi thức một đêm để suy nghĩ, câu chuyện cha mẹ nói trong đêm khuya mà tôi tình cờ nghe lóm được, nó như một thông điệp gởi đến cho tôi, rồi từ nơi tôi nó sẽ đến với các em của tôi. Tôi thật sự rất xúc động và vui mừng. Sẽ không muộn màng khi tôi biết được điều mình CẦN, NÊN và PHẢI làm đối với cha mẹ lúc NGƯỜI còn sống.

Gần sáng tôi mới viết xong một lá thư gởi cho cha mẹ đọc, lá thư tôi đẩy vào khe cửa phòng ngủ của cha mẹ, thế nào cha mẹ tôi cũng đọc nó trước khi ra khỏi phòng.

Thư rằng:

“Cha mẹ kính yêu, con biết con phải làm gì để báo hiếu cho cha mẹ rồi, con sẽ làm cho cha mẹ vui lòng đẹp ý. Cầu xin Chúa Mẹ ban cho cha mẹ có được nhiều sức khỏe để sống lâu với tụi con, con cũng sẽ dạy hai em con biết giữ tròn chử HIẾU ngay lúc cha mẹ còn sống. Mai sau khi cha mẹ qua đời, đến ngày giỗ của cha mẹ chúng con sẽ không làm cho lớn đâu, vì khi đó cha mẹ chết rồi, đâu có ăn được. Bây giờ chúng con sẽ cố gắng học thật giỏi, giúp đỡ cha mẹ công việc nhà… Mai này khi học xong đi làm có tiền con sẽ không để cha mẹ phải thiếu và thèm cái gì hết.

Con thương cha mẹ vô cùng.”

Không cần viết tên tôi vào đó, vì cha mẹ tôi đâu còn lạ gì nét chữ của tôi, chữ tôi viết không đẹp cho lắm nhưng rất rõ ràng, dễ đọc. 

“Không ai ưa người thông minh hơn mình, nhứt là lại khoe cái khôn ấy.”

“Không ai ưa người thông minh hơn mình, nhứt là lại khoe cái khôn ấy.”

Tác giả:Nguyễn Tuấn 

Tôi kinh ngạc khi em nghiên cứu sinh dứt khoát không chịu liệt kê trong luận án những giải thưởng (awards) mà em ấy từng được trao trong thời gian làm nghiên cứu. Ở nước ngoài các nghiên cứu sinh đều được khuyến khích làm như thế, nhưng lạ lùng là ở Việt Nam thì không (?).

Em ấy giải thích rằng ở đâu thì không rõ, nhưng ở đây (Việt Nam) mà liệt kê mấy giải thưởng trong luận án sẽ được ngầm hiểu là khoe khoang, rất rất bất lợi cho nghiên cứu sinh. Tôi quả thật không hiểu tại sao lại có suy nghĩ như vậy. Mình làm người hướng dẫn và thấy học trò có giải thưởng thì phải mừng chớ. Trường đại học cũng mừng vì học sinh có giải thưởng danh giá. Hội đồng thẩm định cũng nên mừng vì sắp có một ‘ngôi sao’ trong chuyên ngành. Nhưng tôi sai. Nói chuyện với vài nghiên cứu sinh khác, ai cũng nói như trên: liệt kê giải thưởng có thể là một tai hoạ cho cá nhân.

Thật lạ lùng!

Nhưng suy đi nghĩ lại, tôi thấy quyết định của em nghiên cứu sinh đó rất phù hợp với cách ứng xử của người Á Đông thời xưa. Có lẽ nhiều người trong độ tuổi tôi nhớ đến nhân vật Dương Tu thời Tam Quốc bên Tàu. Dương Tu có thể hiểu là một bậc trí thức, vừa học giỏi, vừa thông minh, nhưng ông ấy chết chính vì cái thông minh của ông.

Chuyện xưa kể rằng khi Tào Tháo được mời đến cho ý kiến về khu vườn mới được xây dựng, ông ta chẳng khen hay chê gì cả mà chỉ viết 1 chữ thôi: HOẠT. Ai cũng ngẩn ngơ, chẳng hiểu ý của Tào Tháo là gì, nhưng chỉ có Dương Tu là hiểu. Họ Dương phân tích rằng trong cửa mà viết chữ ‘hoạt’ thì nó thành chữ ‘khoát’, mà ‘khoát’ có nghĩa là rộng; Tào Tháo chê cửa vườn rộng quá. Mấy người thợ sau đó làm lại cái cửa cho nó hẹp hơn, và khi Tào Tháo đến xem, ông ta kinh ngạc hỏi ai mà biết ý của ông ta. Khi biết Dương Tu là người đằng sau của sự thay đổi cánh cửa, Tào Tháo đã không ưa họ Dương.

Vài sự kiện sau đó thể hiện sự thông minh hơn người của Dương Tu càng làm cho Tào Tháo ghét họ Dương. Khi quân của Tào Tháo đang trong thế tiến thoái lưỡng nan ở Tà Cốc, một tướng vào dinh để nghe khẩu lệnh trong ngày và ngay lúc đó Tào Tháo đang cầm cái chân gà có gân nhưng chưa ăn, ông ta bèn nói “Gân gà, gân gà”. Viên tướng bèn truyền khẩu lệnh ‘Gân gà’ cho quân lính. Chỉ có Dương Tu hiểu ý của họ Tào và lí giải rằng cái gân gà không có thịt, bỏ thì tiếc mà ăn thì chẳng có gì là ngon; như vậy họ Tào có ý rằng tấn binh thì không được vì bị Mã Siêu chận, còn lui binh thì mất mặt với nước Thục, thôi thì rút quân về nhà còn hay hơn. Thành ra, Dương Tu hiểu cái khẩu lệnh đó và cho quân lính chuẩn bị quay về cố quốc. Tào Tháo khi thấy quân lính chuẩn bị ‘quay xe’ như thế bèn kinh ngạc hỏi ai mà hiểu được ý của ông, thì câu trả lời là Dương Tu. Thế là họ Tào có có cái cớ để đem Dương Tu ra chém đầu vì tội “làm loạn lòng quân”.

Dương Tu chết vì đã thể hiện trí thông minh của mình không đúng chỗ. Dương Tu có vẻ quên chữ “Lễ” trong văn hoá Á Đông. Lễ của người Á Đông là đạo xử thế. Có thể nói không ngoa rằng tất cả thuật xử thế của người Á Đông đều ở trong một chữ Lễ.

Nói theo ngôn ngữ ngày nay, Lễ là sự khiêm cung, nhún nhường, không làm tổn hại đến sự tự ái của người khác. Lễ cũng có nghĩa là che cái xấu, giấu cái dở, và biểu dương cái đẹp cái hay của người khác. Dương Tu đã chạm đến lòng tự ái của Tào Tháo, một người vốn rất thông minh và nghĩ mình thông minh, và họ Dương đã phải trả cái giá bằng sanh mạng của mình. Cũng có thể nói họ Dương chết là do cái lòng đố kị của người Á Đông.

Thật vậy, nếu Dương Tu ở phương Tây ngày nay thì có lẽ ông đã được trọng dụng. Ở phương Tây, người ta khuyến khích biểu hiện tài năng và sự thông minh. Ngay từ cấp tiểu học và trung học, các thầy cô đều tìm mọi cách để phát hiện và khen tặng các tài năng. Họ tìm những cá nhân có thành tích xuất sắc để trao giải thưởng và vinh danh trước tất cả học sinh, thậm chí trong cộng đồng. Ở cấp nghiên cứu sinh, hầu như luận án tiến sĩ nào cũng có phần liệt kê các giải thưởng mà nghiên cứu sinh đã được trao trong thời gian nghiên cứu, và xem đó là một niềm tự hào, một chứng từ quan trọng rằng việc làm của họ đã được công nhận bởi đồng nghiệp. Trong các tổ chức, người đứng đầu lúc nào cũng tìm người thay thế mình, và họ xem sự tiếp nối là một thành công cá nhân.

Nếu chịu khó đọc qua trang ‘profile’ các nhà khoa học và giảng sư của đại học phương Tây chúng ta sẽ thấy họ liệt kê những giải thưởng, những vinh dự, hay những phần thưởng mà họ đã được các hội đoàn chuyên môn trao tặng. Mới đọc qua thì tưởng là đương sự ‘nổ’ (dùng chữ của Việt Nam ngày nay), nhưng thật ra họ chỉ viết ra những gì họ có hay đạt được và đó là một cách để thể hiện họ là ai.

Quay lại trường hợp em nghiên cứu sinh không chịu liệt kê giải thưởng, tôi hiểu rằng em ấy đã hành xử theo chữ Lễ trong văn hoá Á Đông thời xa xưa. Còn em ấy có làm theo chữ Lễ thời nay hay không thì tôi không chắc. Thời nay, có rất nhiều người trẻ không biết khiêm cung hay nhún nhường là gì, và họ hăng hái bóc tách khiếm khuyết nhưng lại dìm những cái hay của người khác, họ càng không ngại xoáy vào nỗi đau khổ cho bản ngã của người khác. Họ ghét những ai tài giỏi hơn họ, và đó có lẽ chính là lí do tại sao em nghiên cứu sinh không dám thể hiện thành tựu của mình.

Tóm lại, bài học ứng xử ở Việt Nam là đừng tỏ ra mình tài giỏi hơn người vì đó có thể là một tai hoạ.

Tác giả:Nguyễn Tuấn

Thằng Khùng – Tiểu Tử

Thằng Khùng – Tiểu Tử

Không biết hồi thời trước thằng cha đó làm nghề gì, chớ bây giờ – nghĩa là đôi ba năm sau cơn lốc tháng tư năm 1975 – hắn đã trở thành một “sản phẩm rất ấn tượng” của cuộc đổi đời vĩ đại!

Sáng nào cũng thấy thằng cha đó đứng ở góc đường Chợ Cũ chỉ đông chỉ tây, mắt lim dim miệng lầm bầm những gì không rõ. Lâu lâu hắn vỗ hai tay vào nhau nghe cái “chát” rồi xuống tấn đi một dọc đường quyền. Hắn làm như hè phố không có ai hết. Cứ thản nhiên tiến thoái, tung chưởng bên tả, đá cước bên hữu, ai tránh thì tránh ! Những lúc đó, mặt hắn thật là “an nhiên tự tại”, mắt nhìn theo hai tay đẩy ra thâu vào nhịp nhàng… giống như chẳng có chuyện gì xảy ra hết ! Vậy mà một lát sau lại đứng thẳng, lầm bầm chỉ đông chỉ tây !

Sau vài “tua” như vậy, hắn khoan thai bước vào tiệm nước gần đó ăn điểm tâm. Lúc nào cũng vào tiệm đó, không thay đổi. Và lúc nào cũng ăn một tô hủ tiếu uống một tách cà phê đen. Thành ra trong tiệm, khi thấy hắn ngồi vào bàn là nấu ngay tô hủ tiếu và pha ngay tách cà phê mà không cần hỏi ! Hắn ăn, giống như người bình thường. Nhìn hắn, không ai nghĩ rằng trước đó năm mười phút hắn đã là “một người khác” ở ngoài kia. Chỉ có điều là khi thấy ai nhìn mình, hắn trừng mắt nhìn lại, mặt gân gân, hàm hất hất, giống như muốn nói: “Mầy không biết tao là ai sao mà nhìn ? Hử ?”

Ăn xong, hắn trả tiền đàng hoàng rồi thả bộ đi loanh quanh. Tôi lén đi theomột lần thì thấy hắn như người bình thường, khi dừng xem cửa hàng này lúc dừng xem cửa hàng nọ. Rất thư thả, tự nhiên. Giáp cái vòng Chợ Cũ là hắn lại vào tiệm nước hồi nãy để nhăm nhi một ly chanh đường. Chẳng thấy hắn bắt chuyện với ai, mà cũng chẳng nghe hắn nói một tiếng nào với nhân viên trong tiệm ! Lúc nào hắn cũng làm thinh. Người trong tiệm chắc đã quen quá rồi với cái “trình tự lớp lang” của hắn nên cũng chẳng thấy chào đón hỏi han gì hết.

Sau ly chanh đường, hắn bước ra rồi đi thẳng qua vỉa hè phía đối diện. Đường phố đã đông ken. Tiếng máy xe, tiếng kèn xe… inh ỏi. Vậy mà hắn đi qua đường giống như đi giữa đồng trống, cứ đi xâm xâm, mặc cho xe cộ thắng, lách, mặc cho thiên hạ chửi thề, văng tục. Đến bên kia, hắn đứng thẳng nhìn xa xăm, bất động như một pho tượng. Một lúc sau, hắn bỗng soạt chân ra, rùn rùn người, xàng qua xàng lại, đầu gật gù, hai tay thay nhau xỉa xói về phía trước, miệng nói lớn từng câu ba chữ bắt vần có ca có kệ … vừa giống thầy pháp đọc thần chú lại vừa giống người đang lên đồng ! Tất cả các động tác của hắn đều ăn khớp với nhau và nhịp nhàng linh động theo từng câu hắn nói chớ không thấy một chút rối loạn nào hết. Nhứt là hai tay, một xỉa ra thì một thâu về, chậm rãi giống như người ta tập Thái cực quyền, và mỗi cái xỉa ra là chấm dứt đúng một câu. Cứ như vậy đều đặn, hắn nói dài dài có dây có nhợ, mắt trừng trừng, mặt gân gân… Hết đoạn này, hắn bắt qua đoạn khác, lòng vòng lòng vòng ! Nói… đã một hồi rồi hắn bỏ đi về phía bờ sông, đi mất. Để sáng sớm hôm sau lại có mặt gần như đúng giờ ở góc đường Chợ Cũ, diễn lại trò hôm qua, tuần tự lớp lang…

Thiên hạ gọi hắn là “thằng khùng”. Quen quá rồi nên chẳng thấy ai để ý tới, ngoại trừ vài người không thuộc dân khu phố bất chợt đi qua.

Thật ra, nhìn thằng cha đó, không thấy có vẻ gì khùng hết, nghĩa là hắn không giống mấy người khùng loại… “cổ điển”. Râu tóc cạo gọt chải gỡ sạch sẽ, mặt mũi đều đặn phương phi, sơ-mi trắng ngắn tay bỏ trong quần đàng hoàng, quần tây thẳng nếp và nhứt là đôi giày bát-két còn mới tinh cột dây tề chỉnh.

…Một hôm, vì tò mò, tôi lắng nghe bài “kệ” của hắn. Mặc dù tiếng ồn ào hỗn tạp của xe cộ, giọng sang sảng của hắn nghe rõ mồn một. Tôi có dịp ghi lại một đoạn:

“Nói có sách
“Mách có chứng
“Đứng có chỗ
“Đổ có nơi
“Ngồi có kiểu
“Tiểu có xô
“Hô có nhịp
“Bịp có tiếng
“Diện rất quê
“Chê rất giỏi
“Nói rất dai
“Khai rất kỹ
“Lý luận xằng
“Loại kỳ nhông
“Ông kỳ đà
“Cha cắc ké
“Trẻ không tha
“Già không chê
“Quê đứng trước
“Dốt đứng trên
“Đen nói trắng
“Đắng nói ngọt
“Lột thằng dân
“Trần như nhộng
“Giọng Tào Tháo
“Đạo đức giả
“Dạ sài lang
“Nói một đàng
“Làm một nẻo

Đọc đi đọc lại bài “kệ”, tôi thấy lời lẽ mạch lạc rõ ràng, và những điều “thằng khùng” đó nói, thiên hạ ai cũng thấy, cũng biết hết nhưng không ai dám “đứng ra giữa đường mà nói”. Như vậy, hắn đâu phải khùng ! Có lẽ tại vì thiên hạ thấy hắn là không giống ai hết nên cho là hắn khùng đó thôi !

Rồi tôi tiếp tục lý luận theo lề lối đã được học tập sau cuộc đổi đời vĩ đại :

– Thiên hạ tỉnh mình anh khùng, hay thiên hạ khùng mình anh tỉnh, cũng vậy thôi. Đó là hai mặt của tấm gương. Đứng phía trước hay đứng phía sau gì tấm gương vẫn là tấm gương (“biện chứng” chắc nịch như vậy, không chối cãi ! ).

– Cũng giống như thiên hạ đều trắng chỉ có một mình anh đen. Anh không giống ai, đành rồi, nhưng anh là cái chấm đen trong cái tổng thể trắng, làm cho cái trắng đó không hoàn toàn trắng được. Có hại !

– Nói một cách khác: trong luồng người cùng đi tới, mình anh đứng lại, dù cố ý hay không cố ý gì đi nữa, anh vẫn là biểu tượng của sự “phản động”. Bởi vì anh làm “rối” – chưa nói đến “loạn”, còn nặng hơn nữa – cái trật tự đang được di động về một chiều.

– Vậy, để có sự thuần nhứt trong toàn bộ – nghĩa là khùng hết hay trắng hết hay đi tới hết – phải thủ tiêu anh hay cải tạo anh ( nghĩa là làm cho anh phải giống như mọi người ).

Đến đây, tôi bỗng thấy lo cho thằng khùng Chợ Cũ. Nhưng rồi tôi nghĩ lại: xưa nay ai không biết rằng thằng khùng nào cũng làm bậy nói bậy hết, đếm xỉa làm chi.

Có lẽ đúng. Bởi vì tôi thấy “thằng khùng Chợ Cũ” cứ phây phây “phát biểu” dài dài…

Kể ra, ở thời buổi này và trong cái xã hội này, được thiên hạ dán cho nhãn hiệu “thằng khùng” cũng sướng chớ !

Tiểu Tử 

Câu Chuyện Về Cây Chuối

Câu Chuyện Về Cây Chuối

Nguyễn Ngọc Duy Hân

Người Việt ta chắc không ai xa lạ gì với cây chuối. 

“Gió đưa bụi chuối sau hè,

Anh mê vợ bé, bỏ bè con thơ” 

là câu ca dao não lòng rất nhiều người biết. Thế giới đã có ngày dành riêng gọi là Ngày chuối Quốc gia NATIONAL BANANA DAY vào thứ Tư tuần lễ thứ ba trong tháng 4 hàng năm. Về dinh dưỡng, các em bé mới 4 tháng thôi là có thể dùng được miếng chuối chín rồi. Người già thì vẫn có thể ăn chuối cách dễ dàng dù răng không còn. Có hơn 1.000 giống chuối được trồng ở hơn 150 quốc gia, sản phẩm được chế biến ra đủ loại, đủ kiểu. Vì thế hôm nay mời bạn cùng tôi bàn về cây chuối đa dụng này nhé.

Chuối là loại cây sống ở vùng nhiệt đới, nên ở Canada xứ lạnh tình nồng này chuối sẽ chết vào mùa đông mà không sống lại được vào mùa Xuân, nếu thích quá thì phải trồng chuối kiểng trong nhà mà thôi. Theo các nhà khảo cổ thì chuối đã hiện diện từ 5000 đến 8000 năm trước công nguyên. Chuối được trồng nhiều nhất ở các nước Nam Á, những đảo quốc Nam Thái Bình Dương, Caribbean, Châu Phi, Nam Mỹ….

Thế giới hàng năm tiêu thụ khoảng gần 2 triệu tấn chuối. Ấn Độ, Trung Hoa, Phi Luật Tân là 3 nước sản xuất chuối hàng đầu, Việt Nam ta đứng thứ hạng 14. Các nước Trung Mỹ xuất cảng chuối sang Hoa Kỳ và Canada. Việt Nam xuất cảng chuối sang Trung Quốc, Nhật.

Hình ảnh đẹp của mảnh vườn miền quê là “Chuối sau, cau trước”. Bụi chuối thường um tùm, lại dễ trồng không quý lắm nên thường chỉ được nằm ở sau vườn, nhưng chuối là loại trái cây được ưa chuộng và không thể thiếu trong vườn. Về hình dáng, chuối có thân cây hình trụ, tán lá dài, xanh, rễ chùm ăn sâu dưới đất. Tùy theo giống mà buồng chuối to nhỏ khác nhau, có loại cho cả nghìn quả dài đến tận gốc.

Có rất nhiều giống chuối, nào là chuối sứ, chuối ngự, chuối cau, chuối tiêu, chuối lùn, chuối hột, chuối già hương, chuối bom, chuối tiêu hồng, cau lửa, chà bột, chuối cơm, chuối xiêm, chuối lá, chuối kiểng là cây để trồng cho đẹp, không có trái… Nhiều lắm, tôi tin bạn có thể kể thêm cả chục loại nữa, nhất là các giống chuối mới ở ngoại quốc sau này.

Tất cả bộ phận của cây chuối đều có thể sử dụng được. Đó là đặc điểm mà không phải loại cây nào cũng có: lá để gói nhiều loại bánh, thân, quả, gốc đều có thể làm thức ăn cho người và thú vật. Trái chuối ngoài ăn tươi còn được chế biết thành đủ món ngon và là vị thuốc có thể chữa nhiều loại bệnh, làm mặt nạ dưỡng da….Thân chuối rỗng nổi trên mặt nước nên người xưa hay dùng thay cho phao, trẻ con hay dùng chơi trò cưỡi ngựa. Bạn có thích ăn bánh gai không? Bánh gai được gói bằng lá chuối khô. Bắp chuối hay hoa chuối thì làm nộm gỏi, hoặc cắt nhỏ ăn kèm với bún như rau sống. Trái chuối xanh hoặc củ chuối được nấu với ốc hoặc lươn vừa khử tanh lại vừa làm cho món ăn thêm đa dạng.

Lá chuối khô còn có thể dùng như củi làm chất đốt, ở nông thôn người ta lấy lá chuối khô quấn làm nút chai rượu.

Sáu dưỡng chất quan trọng có trong quả chuối gồm lượng calo lớn, có chất đạm, chất đường, chất xơ, chất béo và carb. Về mặt dinh dưỡng, chuối có giá trị hơn cả khoai tây và tương đương với thịt, giúp ích cho xương cốt, là trái cây lý tưởng cho những vận động viên. Trái chuối có chứa Kali giúp tăng cường khả năng hoạt động của não bộ. Hàm lượng chất xơ cao giúp ngăn chặn táo bón. Nhờ hàm lượng đường cao, chỉ cần ăn 2 quả chuối sẽ có đủ năng lượng cho 90 phút luyện tập thể dục nặng, nhưng người bị tiểu đường thì phải cẩn thận. Đối với những người có vấn đề về tâm lý thất thường, nếu ăn chuối thường xuyên có thể được cải thiện tâm trạng nhờ những hóa chất đặc biệt trong trái chuối.

Trái chuối được chế biến ra kem chuối, chè chuối, chuối khô, kẹo chuối, chuối chiên hay luộc, xay thành nước sinh tố, kể cả làm ra bia rượu, chuối chế thành rượu rhum cũng thơm ngon nổi tiếng.

Buồng chuối có hoa cái ở phía dưới và hoa đực ở ngọn. Thời gian trồng chuối từ ngày đầu đến lúc thu hoạch vào khoảng 13 tới 14 tháng. Buồng chuối thường mất khoảng 4 tháng từ lúc còn bé đến lúc lớn ăn được. Mỗi cây chuối chỉ trổ buồng một lần.

Ngoài chuối ăn, còn có loại chuối rừng Musa Coccinea có hoa đỏ và chuối Musa Textilis trồng để lấy sợi ở Philippine.

Chuối Ngự là thứ chuối quý ngày xưa được kén chọn để dâng lên cho vua. Hồi ấy áo vua mặc gọi là ngự bào, thầy thuốc chữa bệnh cho vua gọi là ngự y. Chuối Ngự chỉ to hơn ngón tay cái, vỏ vàng óng và mỏng như như lụa, ruột mềm với hương thơm đặc biệt.

Chuối hột còn được gọi là chuối chát là loại chuối có rất nhiều hột nằm trong trái, đúng với tên của nó, chuối hột có … nhiều hột, vị chát, chẳng ai muốn ăn tươi mà thường dùng làm món rượu chuối hột.

Xuất hiện trên thị trường Việt Nam những năm gần đây là loại chuối đỏ Dacca, được rất nhiều người tìm mua để bày trên mâm ngũ quả ngày Tết. Chuối Dacca có xuất xứ từ nước Úc, tuy giá cao nhưng loại chuối này vẫn rất hút khách. Cũng lạ, một số người miền Nam lại phát âm chữ chuối ra thành “chúi”, tức là chúi nhũi nên kiêng không chưng trên mâm hoa quả ngày Tết. Thế mới thấy quan niệm, suy nghĩ của người ta rất khác nhau, đừng bắt ai cũng nghĩ như mình, ngược lại cần thông hiểu để hành xử cho xứng hợp.

Ngoài các giá trị dinh dưỡng và kinh tế, chuối đã rất gần gũi và đi vào thơ ca một cách rất nhẹ nhàng thân thương. Trong thi ca, các bức họa đồng quê luôn có hình ảnh bụi chuối. Trong văn hóa, cây chuối được so sánh với “mẹ già như chuối chín cây” vì người mẹ phải hi sinh rất nhiều để chăm lo cho con cái, cũng như khi buồng chuối chín dần thì thân cây khô héo, người mẹ nuôi con được trưởng thành thì cũng là lúc mẹ đã già đi.

Bụi chuối là nét đẹp thanh bình của nông thôn Việt Nam. Trong “Quốc âm thi tập” của Nguyễn Trãi đã có bài thơ về BA TIÊU (Cây chuối)

“Tự bén hơi xuân, tốt lại thêm

Đầy buồng lạ, mầu thâu đêm

Tình thư một bức phong còn kín.

Gió nơi đâu gượng mở xem.”

Ca dao thì có nhiều câu:

“Chuối khoe rằng chuối đồng trinh

Chuối ở một mình sao chuối có con”

Mẹ già như chuối chín cây

Gió đưa mẹ rụng, con rày mồ côi.

Nhà em không hiếm chi hoa

Chanh chua, chuối chát, cải cà nhiều hung

Ai đem con két vô vườn

Cho nên con két ăn buồng chuối tiêu

Mẹ già như chuối ba hương

Như xôi nếp mật, như đường mía lau

Chị em như chuối nhiều tàu

Tấm lành che tấm rách, đừng nói nhau nặng lời

Gió đưa bụi chuối sau hè,

Anh mê vợ bé, bỏ bè con thơ

Con thơ tay ẵm tay bồng

Tay dắt mẹ chồng, nách cặp con dao.

Mang theo con dao để làm gì thì ca dao không nói thêm, bạn nghĩ nách cặp thêm con dao là nghĩa gì, tôi thì chắc chắn sẽ mang theo con dao phay thật lớn trong trường hợp này.

Ông bà ta cũng chia sẻ kinh nghiệm:

Trẻ trồng na, già trồng chuối.

Cuộc đời khi cùng cực lao đao thì được ví là “te tua như tàu lá chuối”.

Mối tình giữa Chí Phèo và Thị Nở cũng được Nam Cao miêu tả là “Trong một lần uống rượu say, gặp Thị Nở ngủ quên tại vườn chuối, Chí Phèo và Thị Nở đã có một đêm sống như vợ chồng”, mối tình quê nảy nở giữa một vườn chuối bạt ngàn trong trăng đêm tình tứ đâu dễ là trải nghiệm của dân nhà giàu.

Tôi ráng tìm trong mấy ngàn câu Kiều của cố thi hào Nguyễn Du, nhưng không thấy nhắc đến chuối.

Bây giờ mời bạn trả lời câu hỏi: Chuối còn xanh, vừa chín hay chín rục, loại nào tốt nhất?

Sách vở đã nghiên cứu cẩn thận, chuối hườm xanh vừa chín tới chứa đầy tinh bột giúp giảm viêm và tăng cường tiêu hóa, thúc đẩy trao đổi chất, giảm nguy cơ béo phì và tiểu đường.

Nếu bạn muốn kiểm soát tốt mức đường huyết vì tiểu đường, hãy chọn chuối còn hườm xanh. Tuy nhiên, chuối xanh ít ngọt và dễ gây trướng bụng, đầy hơi.

Chuối chín vừa thường chứa ít tinh bột nhưng có nhiều đường. Dù có chỉ số đường huyết cao hơn chuối xanh, chuối vàng dễ tiêu hóa hơn và cơ thể hấp thụ các chất dinh dưỡng nhanh hơn. Chuối chín thì một vài chất dinh dưỡng bị giảm bớt, nhưng bù lại, chuối càng chín càng có nhiều chất chống oxy hóa mà hệ miễn dịch rất cần, hãy cất chuối chín trong tủ lạnh để tránh mất các vi chất dinh dưỡng.

Chuối chín rục thâm kim nhiều thì lượng tinh bột chuyển đổi thành đường càng nhiều, giàu chất chống ôxy hóa phòng chống ung thư.

Nghiên cứu của 2 nhà khoa học Nhật bản Haruyo Iwasawa và Masatoshi Yamazaki, chính các đốm thâm kim xấu xí này lại sinh sản ra các chất có chức năng tiêu diệt tế bào bất thường như khối u, tăng số lượng bạch cầu trong máu, ngăn ngừa và phòng chống ung thư.

Tuy nhiên, kết quả này cần nhiều dữ liệu để chứng minh thêm.

Vậy thì ta nên ăn chuối nào? Câu trả lời phụ thuộc vào mục đích của bạn. Nếu bạn muốn cơ thể tiêu thụ ít đường và nhanh no, hãy chọn chuối xanh. Nếu muốn dễ tiêu và tăng cường chống ung thư, đừng chê chuối chín và chuối thâm kim.

Tuy ích lợi cho sức khoẻ, người ta khuyên chỉ nên ăn một quả chuối mỗi ngày vì có thể làm mình vượt quá nhu cầu calo hoặc carbohydrate, hay bỏ lỡ chất dinh dưỡng từ các nguồn thực phẩm khác. Người ta cũng khuyên nên kết hợp chuối với sữa chua, các loại hạt hoặc phô mai tươi để nhận được vừa đủ lượng chất béo và protein lành mạnh. Nói túm lại là cái gì cũng phải vừa vừa phải phải, đừng quá lạm dụng, kể cả tiền cũng không nên có nhiều quá mà!

Hồi nãy kể tên các loại chuối, nhưng còn thiếu ít nhất một loại đặc biệt tên là chuối cô đơn. Đây là loại chuối mới đầu được phát hiện bởi người thiểu số trên cao nguyên Việt Nam xa xôi. Ngày nay, chuối cô đơn khá phổ biến ở Quảng Nam, Lâm Đồng, Gia Lai, Kom Tum, … Loại chuối này có thể giúp điều trị sỏi thận, chữa tiểu đường, trị sưng tấy, chữa táo bón rất tốt. Chuối cô đơn hay còn gọi là chuối bạc hà có tên khoa học là Ensete glaucum, có thân xanh mọc đơn độc không nhảy cây con trong quá trình sinh trưởng, khi chết thì cây héo cô đơn một mình, trái chỉ cho vài hạt nhưng lại to hơn đầu đũa, muốn sinh sản thì phải dùng hột để ương ra cây con. Nước cốt của bẹ chuối cô đơn giúp giải một số loại chất độc nhẹ hiệu quả, nó còn giúp giải rượu hiệu quả.

Chuối Ensete glaucum. a, b, Cây và hoa; c, Hoa; d, Bẹ; e, Quả; f, Hoa còn non;
g, Bên trong bẹ chuối; h, Hoa đực; i, Hoa cái; j, Hột.

Trên thế giới, có loại chuối lông Musa Velutina là một loài chuối rừng có nguồn gốc từ Assam và đông Himalayas. Quả dài khoảng 8 cm, màu hồng và có lông tơ, buồng chuối mọc ngược chỉa thẳng lên trời. chuối Musa velutina ra hoa khi còn nhỏ rất đặc biệt.

Musa Coccinea là loại chuối kiểng buồng cũng mọc thẳng lên trời, nhìn rất đẹp mắt.

Củ chuối nấu ăn cũng ngon, nhưng đừng để bị chê mắng là đồ “cái thằng củ chuối” nhé! Bẹ chuối tươi gấp đôi lại bó con gà vào trong mà nướng thì ngon ơi là ngon. Bẹ chuối khô cũng được sử dụng trong đồ thủ công mỹ nghệ, làm dây buộc. Lá chuối trong bánh chưng, bánh đúc, gói giò, bánh gai, bánh ú, để gói xôi, gói bún là cách rất hay dùng trong ẩm thực hằng ngày. Lá chuối khô cũng được dùng gói thuốc rê, thuốc xỉa. Có người đã chia sẻ kỷ niệm thời thơ ấu đứng chờ mẹ đi chợ về, nếu trong thúng có mẩu lá chuối xanh thì rất mừng vì biết trong đó thường là mấy cái bánh đúc, bánh hỏi, hoặc là bún. Bây giờ thì thức ăn gói bằng túi ni lông cho tiện, mất hết cái thi vị ngày xưa. Chuối cũng có thể cắt mỏng đem chiên hay nướng để ăn giống chip. Chuối cũng được nghiền thành bột chuối. Thân cây chuối cũng dùng để tấn những bó rạ trồng nấm rơm, để rẻ em ôm tập bơi lội. Bắp chuối xiêm thường được dùng để nấu canh chua, trộn gỏi hoặc làm rau ghém ăn với món bún bò Huế, bún riêu. Giá của hoa chuối ở hải ngoại thì mắc thập bội so với trái chuối, sang lắm mới dám mua.

Ngoài ra công dụng mới phát hiện là chuối có thể thay vải hay tơ lụa làm áo quần nữa cơ đấy. Có lẽ tư tưởng này xuất phát qua chuyện cổ tích Trần Minh khố chuối. Chuyện là Trần Minh nhà nghèo đến độ không có vải may cái khố che thân, mà phải dùng lá chuối. Tôi đoán phải là lá chuối phơi khô cho dai, vì lấy lá tươi làm khố thì hơi nguy hiểm! Câu chuyện này được soạn giả Thế Châu viết thành tuồng cải lương “Bên cầu dệt lụa” rất nổi tiếng. Chuyện kể rằng nàng tiểu thơ Quỳnh Nga, con của quan huyện đã đem lòng yêu thương Trần Minh, một chàng trai nghèo nhưng tài giỏi, hiếu thảo. Dù hai gia đình trước đây đã từng hứa hôn cho Trần Minh – Quỳnh Nga, nhưng vì gia đình Trần Minh suy sụp, quan huyện hủy bỏ lời giao hôn ngày nào. Quỳnh Nga nhất định theo Trần Minh ra ngoài chăn tằm dệt lụa giúp Trần Minh ăn học. Sau này Trần Minh đã đỗ trạng nguyên, là bài học ca tụng sự chung thủy, không tham phú phụ bần. Ngày nay cũng có các cô trình diễn thời trang làm bằng lá chuối, bạn có thích thì nhớ mua vé để xem rồi chụp hình bỏ lên “phây” cho chúng tôi xem ké nhé.

Sách gia chánh đã có tới gần 500 món làm từ chuối, nào là bánh chuối nướng, bánh chuối hấp, chuối bọc nếp nướng, chè chuối, chuối xào dừa, làm nhân nấu bánh tét, bánh dừa, nấu kiểm, kẹo chuối, chuối ép phơi khô, chuối xiêm sống luộc ăn với mắm sặc, làm rượu chuối… Chuối Mỹ Tho, chuối phơi khô chùa Bà Đanh rất nổi tiếng,

Việt sử có ghi lại vào năm 1418 khi Lê Lợi khởi nghĩa ở Lam Sơn – Thanh Hoá chống giặc Minh, có lần bị vây hãm ở núi Chí Linh phải ăn củ mài, củ chuối để sống qua ngày.  Người nông dân đã có kinh nghiệm không nên trồng chuối xiêm gần cây chuối hột, vì trái chuối xiêm sẽ bị lây có hột, đúng là “gần mực thì đen, gần đèn thì sáng”, chúng ta đừng tiếp cận với người ác, cái ác, kẻo bị lây hay trở nên trơ lì vô cảm.

Theo kinh nghiệm đau thương của một tù “cải tạo” kể lại, ngày ấy phải đi lao động đói khát, có người bạn khi lên rừng chặt chuối nuôi heo cho cán bộ đã lén ăn sống lỏi cây chuối mỗi ngày, ít lâu sau bụng anh bị sưng to, cộng thêm các điều kiện khắc nghiệt khác nên đã chết thật tội nghiệp.

Bạn có biết một loại chuối tên là Nàng Tiên, nửa giống chuối sứ nửa giống chuối già; không quá ngọt, đặc biệt là lúc nào cũng dòn không bị mềm nhũn. Ngày xưa khi ở Tây Ninh, ba má tôi trồng rất nhiều chuối Nàng Tiên, bây giờ nghe nói chuối Nàng Tiên rất hiếm, không chừng bị tuyệt giống. Má tôi ngày ấy quý các linh mục, có buồng chuối Nàng Tiên nào to nhất, ngon nhất thì đem biếu các cha, tôi… tiếc hùi hụi!

Ở quê cũng nổi tiếng có loại chuối chà bột, chất chuối không chắc mà mềm như có bột ít ngán. Chữ CHÀ trong tên của chuối nầy có nghĩa là Ấn Độ, giống như “anh Bảy Chà” vì nghe nói giống chuối này phát xuất từ Ấn.

Những năm Việt Nam bị nạn đói thì củ chuối đã được dùng nhiều, thân chuối non thì cắt mỏng ra ngâm nước muối làm dưa, heo và người đều nhờ vào chuối để sống. Rồi những khi nạn lụt lan tràn thôn xóm, cây chuối sẽ được dùng làm bè để có thể nổi trên nước.

Người ta thống kê cây chuối to khổng lồ có thể cao tới 20 mét và một quả nặng tới vài ký. Buồng chuối lớn nhất đạt kỷ lục thế giới có 473 quả chuối, được trồng trên quần đảo Canary ở Tây Ban Nha nặng 130 kg.

Cây chuối rẻ quạt thuộc nhóm cây cảnh lá, thường được trồng ở các khu vui chơi giải trí, khu resort, công ty, trường học để trang trí. Những cây chuối rẻ quạt còn nhỏ được trồng trong chậu trang trí trong nhà. Hình như chuối này không bao giờ trổ hoa, sinh trái.

Khi người ta đứng ngược đầu xuống đất gọi là “trồng cây chuối”, tại sao lại dùng hình ảnh chuối ở đây mà không là cây khác thì tôi không hiểu, bạn nào biết xin mách dùm. Trong một show diễn, cô Lady Gaga đã mặc áo đầm làm bằng thịt tươi, trồng cây chuối trên sân khấu đã trở thành “vang bóng một thời”.

Trong mùa dịch, loại sợi lấy từ cây chuối Abaca ở Philippines đã thay thế thành phần nhựa mà chế tạo ra hàng triệu chiếc khẩu trang để chống lại SARS-CoV-2.

Có hơn 1.000 giống chuối được trồng ở hơn 150 quốc gia. Cavendish là giống được thương mại hóa nhiều nhất, chiếm khoảng 47% sản lượng toàn cầu. Có khoảng 50 tỷ tấn chuối Cavendish được sản xuất trên toàn cầu mỗi năm. Người ta… đếm, có hơn 100 tỷ quả chuối được ăn mỗi năm trên thế giới, khiến chúng trở thành sản phẩm nông nghiệp phổ biến thứ tư. Người Mỹ ăn trung bình 27 pound chuối mỗi người mỗi năm. Hơn 96% gia đình tại Mỹ mua chuối ít nhất một lần một tháng, 51% chuối được ăn vào bữa sáng. Mức tiêu thụ chuối bình quân cao nhất trên thế giới là ở Ecuador, nơi người dân ăn trung bình 218 pound chuối mỗi người mỗi năm.

Một người đàn ông ở Ấn Độ đã từng ăn 81 quả chuối trong vòng nửa giờ để được ghi vào chuyện lạ thế giới. Sức bạn tới đâu? Dù sao muốn thử kỷ lục này cũng dễ hơn thử ăn giun, ăn những côn trùng sống ghê tởm!

Tôi ráng moi óc, nhưng không biết bài hát nào nhắc đến chuối, nghe nói có bài Lý Cây Chuối, bạn biết thì cho chúng tôi hay nhé.

Chuối trong chính trị: “Banana Republic”

Riêng tôi thì luôn nhớ kỷ niệm thời còn nhỏ, ra vườn sau hái lá chuối xé thành sợi nhỏ làm tóc cho búp-bê. Mỗi khi sang Cali thăm gia đình anh chị, các cháu bên đó, tôi đều được ăn chuối trồng tại nhà hoặc mang về Toronto nhâm nhi.

Nói về chuối thì rất nhiều điều, điều khó có thể nhạt phai trong tâm tưởng là hình ảnh bụi chuối tại quê nhà, nơi góc vườn mà mình đã cùng cha mẹ, gia đình sinh sống thật đơn sơ, thanh bình, không xô bồ rắc rối như đời sống hiện đại hại điện ngày nay. Chúc bạn luôn đầy sức khoẻ, niềm vui và ngọt ngào như trái chuối chín vàng với thân cây cao thẳng vững vàng trước cạm bẫy, cám dỗ trong cuộc sống.

Nguyễn Ngọc Duy Hân

From: Tu-Phung

Tình Mẹ Con – Tác giả Lê Ngọc Huyền.

Lời phi lộ :

Bài này hơi dài , ai từng Vượt Biên đọc để nhớ về

Ai còn trẻ , đọc để biết

Bài viết với nhiều kịch tính , đầy Nghiệt Ngả , Đa Đoan

Kết cuộc là Tình Mẹ Con nói lên Tấm Lòng.

Happy Ending .

Đọc bài này tui nhớ tới anh bà con của tui là KQ Nguyễn Văn Nhơn du học Mỹ , bay phi cơ vận tải C-130 vượt biên cùng với vợ con, mất tích trên biển.

Nhớ KQ Nguyễn Văn Lý , kế nhà tui , bạn thân với gia đình tui , du học Mỹ , bay phi cơ phản lực A-37 vượt biên , mất tích trên biển

Nhớ KQ Lê Xuân Trường , du học Mỹ , HLV trực thăng bán phản lực UH-1 vượt biên cùng với vợ con , mất tích trên biển

Nhớ KQ Nguyễn Văn Phát , du học Mỹ , HLV trực thăng bán phản lực vượt biên cùng với vợ , mất tích trên biển .

Thân mến

TQĐ

– Vào bài :

Thằng bé mới một tuổi rưỡi, nhảy tưng tưng trên đùi mẹ, nó đưa mấy ngón tay bụ bẫm lên sờ mặt mũi mẹ, vừa bập bẹ nana… nana, nó đang mọc răng nên dãi nhớt chảy đầy miệng, nhỏ xuống dưới người mẹ, bà lấy khăn chùi miệng cho nó, xiết nó vào lòng, hôn lên đôi má bầu của nó:

-Thằng chó cưng của bà! Không bao giờ ngồi yên được cả… Thôi ra chơi với mẹ mày đi!

Bà bế đưa cho tôi:

– Con trông nó nhé, mẹ sửa soạn đi công chuyện đây…

Tôi đang ngồi học bài, ngẩng đầu lên nhìn mẹ:

-Con đã nói với mẹ bao nhiêu lần rồi… Mẹ muốn “giữ” nó thì mẹ trông nó đi! Con mắc học thi, không có thì giờ với nó đâu!… Mẹ muốn con rớt khóa này hay sao?

-Mẹ sẽ cho nó bú một bình sữa, ru nó ngủ, con không cần làm gì cả, chỉ khi nào nó thức dậy nửa chừng, khóc thì con hãy bế nó, chơi với nó một chút, chờ mẹ về… mẹ trông cháu cho…

-Thật phiền quá… Con đã nói là bỏ nó đi từ hồi bên đảo rồi mà!

Mẹ nhìn tôi với cặp mắt trách móc nhưng dịu lại ngay, vẫn không nói gì. Bà cố gắng chịu đựng những lời nói cay đắng như xát muối vào tim của tôi vì bà muốn đền bù cho tôi đã phải cực khổ mang cái bào thai của những tên đầu trâu mặt ngựa mất nhân tính trên đảo khi tàu chúng tôi được tàu Thái Lan vớt và đưa vào một đảo của đất nước này.

Tôi biết những lời nói của tôi thật hỗn hào, làm nhói lòng mẹ, nhưng tôi không thể kiềm chế mình được, không thể tự chủ được mỗi lần mẹ bảo tôi trông nó! Nó dễ thương thật nhưng… nhìn thấy thằng bé, tôi không thể nào quên được quá khứ nhục nhã ấy:

Lúc ấy tôi mới chỉ 15 tuổi, cái tuổi mới lớn dậy thì của đứa con gái Việt Nam, chưa hiểu hết về vấn đề tình dục, nhìn tôi bé nhỏ ai cũng tưởng tôi chỉ 10 tuổi thôi. Thế mà tôi đã bị những tên man rợ trên đảo hãm hiếp trong một buổi chiều khi tôi đi giặt đồ ở suối, cuối con đường của những lều dân tỵ nạn. Tôi đi với mấy chị nữa, khi giặt xong chúng tôi cùng về, nhưng vừa đứng lên thì một chiếc dép của tôi bị đứt quai, tôi đành phải ngồi lại để cột; chỉ trễ có năm phút thôi, tôi thấy từ xa có hai tên cầm dao đi đến, mặt mày đỏ như gấc, mùi rượu nồng nặc.

Tôi hết hồn vơ cái chậu quần áo bỏ chạy, vì đôi dép mới cột chưa chắc lắm, làm tôi trợt chân, té sóng soài trên bờ đá, lăn xuống ngay trước mặt hai tên ấy. Chúng vừa thấy tôi, như con hổ lâu năm bị nhốt trong chuồng, đói và thiếu thốn, nay được xổ chuồng, chúng nắm lấy tôi ngay, cười khoái trá, con dao kè cổ, tôi không dám kêu la sợ bị giết chết… Hai tên đó coi như tôi không là con người, chúng cứ tha hồ vui sướng trên thân thể nhỏ bé mỏng manh của tôi, tôi ráng chống cự hết sức bình sinh, nhưng làm sao có thể chống lại hai tên khỏe mạnh ấy! Đến khi tôi không thể chịu đựng nổi nữa, đã ngất đi bên bờ suối, và khi người trong làng đem tôi về lều cho mẹ thì trong lòng tay tôi còn mãi nắm sợi dây đeo cổ bằng những sợi dây chỉ thết lại của một trong hai tên dã man khốn kiếp ấy.

Khi biết mình mang thai, tôi đã khóc vật vã, muốn phá cái thai, muốn dứt bỏ nó. Tôi luôn tay đập vào bụng mình, tôi gào thét, ném đồ, đã bao lần cắt tay tự vẫn… nhưng mẹ đã cầu xin tôi, nắm chặt hai cánh tay tôi, nài nỉ van lơn tôi hãy giữ nó lại làm phước, đừng giết một mạng người, nó còn chưa ra đời nữa mà!

Khi nó được chào đời, được một tháng tuổi, tôi đã lén mẹ trong một buổi trưa khi mẹ vắng nhà, đi một khoảng khá xa làng tôi ở, đặt nó dưới một gốc cây, rồi vội vã quay trở về làng. Vừa đi vừa chạy thật nhanh vì sợ nó khóc, người ta sẽ tìm ra tôi… Tôi vừa chạy vừa khóc, hai tay bịt tai sợ nghe tiếng khóc của nó, nước mắt đầm đìa, trong lòng tôi hình ảnh bé nhỏ đỏ hỏn của nó hiện ra, đôi mắt nhắm thật yên bình, đôi môi mấp máy mút mút như đang bú sữa vậy. Tôi có ác quá không? Quá tàn nhẫn khi bỏ nó một mình dưới gốc cây? Lỡ nó bị ai lấy đi và đem bán cho người xấu thì sao? Bao nhiêu câu hỏi lo lắng đầy lấp tâm trí tôi. Không nỡ tâm, tôi lại lính quýnh quay lại nơi tôi đã bỏ nó. Thằng bé vẫn nằm yên đó, nhắm mắt ngủ thật an lành!

Tôi nhặt nó lên, nhìn kỹ vào mặt nó. Nó không mang một chút nét nào của tôi, như một kẻ xa lạ, nhưng nó vẫn chỉ là một đứa bé vô tội! Hình như tôi có nợ với nó! Tôi lại bế nó về lều, không hé môi kể chuyện này cho mẹ nghe. Tôi không phải thù ghét nó, nhưng cứ nhìn thấy nó là kỷ niệm nhơ nhuốc kia lại hiện ra. Tôi không biết tôi giận ai, giận cái gì! Chỉ biết tôi ghét cái thân thể đã bị vùi dập này, tôi thù cuộc đời cay nghiệt này, tôi không thể nào ôm nó vào lòng nựng nịu như tôi đã từng bế và yêu con búp bê bằng bông của tôi khi chưa có nó!

Nhưng kỳ diệu thay, từ ngày có nó, gia đình ba người của tôi gặp nhiều điều rất may mắn: Một Hội Thánh Tin Lành ở Canada muốn tạo phước lành, họ muốn nhận nuôi bảo trợ vài gia đình đi tàu vượt biên có con nhỏ nhất ở đảo Thái Lan. Họ sẽ chịu trách nhiệm nuôi ăn ở, sinh hoạt trong vòng bảy năm. Tên của ba người chúng tôi có trên danh sách ấy và được đi ngay trong vòng một tháng sau khi làm thủ tục giấy tờ.

Họ đưa chúng tôi đến Calgary, Canada, xứ của những cây lá phong thật đẹp vào mùa Thu, chúng tôi được mục sư cho rất nhiều quần áo cũ của nhà thờ, dẫn chúng tôi đến ở một cái ấp khá rộng rãi chỉ có một phòng ngủ thôi, nhưng chúng tôi kê thêm giường ngoài phòng khách cho tôi ngủ để đừng bị thằng bé khóc làm phiền, sáng hôm sau tôi phải dậy sớm đi đưa báo từ 6 giờ sáng và tối thì đi học để sau này ra trường sẽ tự lập và nuôi gia đình.

Khi làm giấy tờ bên đảo để đi Canada, lúc bấy giờ mẹ mới đặt tên cho thằng bé là Kora (để kỷ niệm tên đảo Koh Kra). Vì sợ thằng bé làm phiền đến danh phận của tôi, nên ai hỏi, mẹ cũng đứng ra nhận đại nó là con trai của mẹ cho qua chuyện! Mẹ còn rất trẻ, mới gần 40, nên ai cũng tin nó là con của mẹ, em tôi! Mẹ dạy nó gọi tôi là dì, gọi mẹ bằng bà, nhưng trên giấy tờ thì nó thực sự là con tôi. Mẹ nói bây giờ nó còn nhỏ thì cứ cho là vậy, sau này lớn lên đi học, thì tính tiếp!

Ở xứ tự do, không khí trong lành này, thằng Kora lớn như thổi, thông minh, láu cá, nó ăn nhiều và rất ngoan, ít khóc và hiểu chuyện. Nó dần chuyển hóa tình cảm của tôi đối với nó. Mỗi lần nghe tiếng chìa khóa lách cách mở cửa, đang chơi đồ chơi, nó ném hết xuống, vội vàng chạy ra mở cửa cho tôi, chưa biết nói nhiều, nó ê a lấy tay đập đập vào chiếc ghế gần đấy ý bảo tôi hãy ngồi xuống, rồi nó chạy đi tìm đôi dép cho tôi thay, xong chạy vào bếp lấy ly nước cho tôi uống đỡ khát. Nó mới gần ba tuổi thôi nhưng biết để ý người lớn làm gì rồi bắt chước làm lại cho người khác, rất dễ yêu. Ai thấy nó đều không thể nào không khen được!

Sự dễ yêu của Kora làm các bạn trong nhà trẻ yêu mến, làm nhiều lúc tôi cũng quên đi nó chính là con của kẻ đã hại tôi. Sự ghét bỏ, lạnh nhạt với nó ngày càng vơi đi, nhưng tôi vẫn cảm thấy không thể nào ôm lấy nó hôn như những cử chỉ âu yếm của người mẹ đối với con được, cái tình mẫu tử thiêng liêng vẫn chưa nảy nở trong trái tim tôi.

Ngày tháng trôi qua, tôi bận rộn từ sáng sớm đưa báo đến tối về thật trễ vì lấy course đêm học, nhiều lúc không có thì giờ nhìn mặt thằng bé. Sáng thì thằng bé chưa dậy, còn về đến nhà thì nó đã đi ngủ. Cuối tuần tôi lại bận rộn đi chợ búa nhanh nhanh với mẹ rồi phóng lên thư viện học bài cho những lần thi cử…

Thằng bé quấn lấy bà ngoại như người duy nhất có thể bảo vệ nó. Nó sợ làm phiền tôi, sợ bị tôi la, sợ bị tôi hất hủi. Tôi nhớ có một lần tôi đang mải mê học bài trong phòng, bỗng nghe tiếng vỡ toang của ly nước sau lưng, quay lại thấy nó, mặt xanh mét đứng yên, tôi la lên:

-Tại sao lại vào đây? Ai cho phép vào! Đi ra!

Thằng bé òa khóc nức nở, nói trong tiếng nấc:

-Con muốn… con muốn đem… nước… vào cho dì…

-Có ai nhờ đem nước đâu! Có thấy là vỡ ly rồi đó không! Thiệt là…

Nó khóc to hơn nữa vì sợ hãi và muốn cầu cứu. Mẹ tôi chạy vào thấy cảnh thằng bé bị la đến nỗi thất thần, đã tè ra nhà, ly nước bể toang dưới chân, mảnh chai văng tung tóe trên sàn, còn tôi thì đứng la um sùm.

Mẹ bế nó vào lòng vỗ về:

-Con yêu của bà, nín đi, không sao rồi, ai bảo con đem nước vào phòng dì vậy?

-Con thấy dì… học bài… mệt nên… đem nước cho dì… con xin lỗi… bể ly…

-Con ngoan lắm, để bà nói dì mà, con nín đi và đừng làm phiền dì nhe, dì bận học nên la con thôi…

-Tại sao dì… ghét con hả bà?

-Không đâu! Dì không ghét con đâu, con thật là một cậu bé ngoan lắm, chỉ tại dì bận học, bây giờ phải quét vụn thủy tinh vỡ rơi đầy nhà nữa thấy chưa! Con làm cho dì phải bận thêm nữa…

-Con… xin lỗi… Bà ơi… Bà đừng ghét con như dì nhe bà!

Thằng bé mếu máo gào to hơn và ôm chặt cổ bà để tìm sự thương yêu nơi bà.

Lúc ấy trái tim tôi se lại, một tình yêu thương nào đó len lén vào tim, nhưng tôi vẫn không thể đưa tay ra ôm, vỗ về nó như mẹ tôi đang làm được, tôi cảm thấy chút gì căm hận, xa lạ thế nào ấy! Lại quay mặt đi, trốn nhìn cảnh đáng thương của thằng bé.

Năm tôi 21 tuổi, sắp ra trường đại học về hành chánh, thằng bé Kora lên sáu tuổi vào lớp một, tôi vừa bước vào nhà vì đi học và đi làm về muộn, tôi thấy nó vẫn chưa ngủ, ngồi vẽ trong phòng dường như đợi tôi. Khi thay quần áo xong, tôi bưng bát cơm vào vừa ăn vừa thăm nó:

-Sao giờ này con chưa ngủ mà còn vẽ gì thế? Ngày mai con phải dậy sớm đi học nữa mà!

Nó phụng phịu nhìn tôi:

-Dì ơi! Con… không muốn đi học nữa!

-Tại sao? Ai ăn hiếp con hả?

-Không ai dám ăn hiếp con đâu… chỉ là…

-Là sao?…

-Con muốn nhờ dì…

-Làm gì?

-Nhờ dì làm… Mẹ con…

– … ??

-Ngày mai họp lớp, các bạn con đều có cha mẹ nó đi họp! Chỉ mình con chẳng có ai… Vậy mẹ con ở đâu hả dì?

-Ngày mai… dì đi học và làm cả ngày, để dì sẽ nói bà đi họp lớp cho con nhé!

-Không được đâu, cô giáo nói phải là cha mẹ cơ!… Tại sao con không có cha cũng chẳng có mẹ chứ?… Dì có biết cha mẹ con ở đâu không?

Khi nghe nó nhắc đến cha, niềm căm phẫn tự dưng dâng trào:

-Cha con đã chết mất xác rồi! Dì không có tin của ông ta, còn mẹ con…

Thằng bé mở to mắt đầy hy vọng, tôi quanh co:

-Mẹ con… đi làm thật xa, nên dì và bà mới nuôi con đây!

-Vậy có bao giờ mẹ về không dì?

-Khi nào rảnh, hết việc mẹ mới về chứ!

-Sao… con chả bao giờ thấy mẹ hết công việc vậy? Mẹ… làm gì mà bận vậy?

Tôi gắt ngang:

-Dì sẽ nói bà đi họp cho con!

-Không! con muốn… nhờ dì…

-Đã nói là dì bận mà!… Dì không muốn đi!

Thằng bé cúi mặt nhìn xuống đất, hai tay xoắn vào nhau, không dám cãi lời tôi, nó phụng phịu ngồi yên vẽ những con rồng phun nước với những chiếc móng nhọn hoắt như trái tim nó đang bị cào cấu, hờn dỗi. Phải chăng nó đã quen với những lời nói thẳng thừng chẳng chút tình cảm nào của tôi từ bé đến bây giờ, nên không dám nài nỉ hay trả treo như những đứa con được yêu thương khác.

Tôi bước ra khỏi phòng, vừa cảm thấy bị phiền toái, vừa cảm thấy lương tâm cắn rứt! Trong thâm tâm nó, tôi chỉ là một người dì không hơn không kém, nên nó đâu thể mè nheo với tôi được. Nghĩ cũng tội nghiệp, từ nhỏ đến lớn đã thiếu tình thương của cha, cả người mẹ ở ngay trước mặt nó, mà nó cũng chẳng hay biết! Đã sáu năm nó vẫn sống trong sự hất hủi của chính người mẹ ruột, sáu năm nó cố gắng làm hết sức để mua chuộc tình cảm của mẹ nó mà vẫn mãi bị từ chối! Nó có tội tình gì không? Hay nó cũng chỉ là nạn nhân của một cuộc đời nghiệt ngã thôi? Càng nghĩ tôi càng thấy một chút xót xa dâng lên se thắt trái tim.

Ngày họp phụ huynh đã đến, tôi tới trễ, cả lớp các học sinh ai cũng có cha mẹ dẫn đi, duy chỉ có Kora là đi với bà ngoại. Tất cả các em cùng phụ huynh ngồi bên ngoài, chờ cô giáo điểm danh mới bước vào phòng trong để nghe cô giáo nói về hạnh kiểm và học lực của mỗi em cho phụ huynh biết.

Thằng bé thấy tôi bước vào, khuôn mặt bật vui tươi rạng rỡ đứng dậy, tôi nhẹ nhàng vào ngồi bên cạnh nó, ánh mắt nó sáng ngời nhìn tôi trong vui sướng và đầy biết ơn. Mẹ tôi quay qua hỏi:

-Sao hôm nay con được nghỉ buổi chiều à?

-Vâng! Con đã xin nghỉ để… đi họp cho Kora!

Mẹ ngạc nhiên nhìn tôi dò hỏi, vì đã sáu năm nay tôi chẳng bao giờ đi họp cho nó, có nhắc đến tôi cũng tỉnh bơ bỏ qua coi đó không phải là chuyện của tôi! Mẹ nói:

-Con có chắc chắn sẽ… họp với nó chứ? Con…

Mẹ chưa hết câu thì tiếng cô giáo đã gọi:

-Kora Nguyen…

Thằng bé đứng bật dậy, mắt nó nhìn tôi cầu khẩn. Cả mẹ và tôi cùng đứng lên một lúc, chúng tôi nhìn nhau. Tiếng cô giáo lại vang lên:

-Who is Kora’s mother? (Ai là mẹ của cháu Kora?)

Cả hai chúng tôi đều trả lời:

-Me! (Tôi)

Cô giáo ngạc nhiên nhìn mẹ và tôi, sau đó mẹ tôi mới chỉ vào tôi nói:

-I’m sorry, it’s her! (Xin lỗi, chính bà này mới là mẹ của Kora)

-Go inside please (Xin mời vào bên phòng trong)

Kora sung sướng nhét bàn tay bé xíu của nó vào lòng bàn tay tôi, níu tôi vào bên trong phòng. Nó tự tin ra mặt và nói ngay với cô giáo:

-Thưa cô, đây là mẹ con!

Cô giáo nhìn tôi một lúc rồi hỏi:

-Bà là mẹ của Kora?

-Vâng!

-Mấy lần tôi hỏi Kora về mẹ của nó… Nó thường trốn tránh trả lời câu hỏi này của tôi, bà không gần gũi cháu vì bận làm à?

-…

Rồi cô giáo khen thằng bé học giỏi, thông minh, biết chia sẻ kiến thức và giúp đỡ bạn bè… Thằng bé lúc nào cũng đứng nhất lớp nhưng nó lại rất ít kể về tình gia đình. Cô giáo nói với tôi rằng ở tuổi của nó phải được cười đùa cùng lũ bạn, đàng này cô thấy nó thỉnh thoảng rút lui vào một góc, vẽ những bức tranh kỳ quái nói lên tâm hồn của nó bị dầy vò vì một điều gì khó tả lắm! Cô giáo khuyên tôi nên bên cạnh nó, tâm sự và đi chơi nhiều hơn với nó.

Họp xong, tôi dắt tay Kora ra khỏi lớp. Nó rút nhẹ bàn tay bé nhỏ ra khỏi tay tôi.

Tôi giữ chặt lại không để nó rút ra, ngồi xuống nhìn thẳng vào mắt nó:

-Sao… con lại không muốn để tay con trong tay dì?

-Vì… mình đã đóng kịch xong rồi mà! Con cám ơn dì đã giả làm… mẹ con thật hay lắm!

-Con có muốn dì mãi mãi là mẹ thật của con không?

-Làm sao có thể được? Con sẽ làm phiền dì, dì cũng… không thích con mà!?

Nước mắt nhạt nhòa trên mặt, ôm nó vào lòng, lần đầu tiên tôi ôm chặt lấy thân thể bé nhỏ của nó; lẽ ra tôi đã bỏ, đã vứt, đã muốn giết nó khi nó mới chỉ là phôi thai, tôi cảm thấy cả trái tim thổn thức, cả tâm hồn lay động. Tôi thật hối hận, tôi đã lầm lỗi bao lâu nay! Phải chi tôi ôm nó một lần trong quá khứ thì chắc nó sẽ chuyển hóa được tình cảm của tôi rồi, trái tim nhỏ của nó đập nhẹ nhàng bên cạnh lồng ngực tôi, tôi thì thầm:

-Kora yêu quý của mẹ!

-…!!

-Kora hãy tha thứ cho mẹ… Mẹ rất yêu con, mẹ chính là mẹ ruột của con, chứ không phải là dì như từ trước đến giờ con gọi dì đâu! Con có muốn gọi mẹ là mẹ không?

-Thật không? Có thật dì là… mẹ con không? Con không nằm mơ chứ? Con mong có được một người mẹ lắm. Mẹ ơi, mẹ ơi…

Nó choàng hai tay bụ bẫm quanh cổ tôi, không hề hỏi han tại sao dì bỗng nhiên biến thành mẹ nó như thế. Nó mừng vui đến nỗi vừa khóc ré lên, lại vừa cười sung sướng trong tiếng nấc:

-Từ đây… con có mẹ rồi. Mẹ hứa ở bên con mỗi ngày nhe mẹ! Con sẽ nói với các bạn rằng con là đứa con ngoan ngoãn nhất nên ông Trời đã cho con một người mẹ hiền và đẹp nhất trong đám bạn… Mẹ ơi…

Cả hai trái tim chúng tôi cùng một nhịp đập. Tôi ôm nó thật chặt như sợ sẽ không bao giờ còn dịp để giữ chặt nó bên tôi nữa.

Montreal, Canada 07 tháng 3 , 2022

Lê Ngọc Huyền.

 

 

Tác giả bài này là cô Lê Ngọc Huyền chủ bút tờ báo NGỌN ĐUỐC ở Montreal , Canada viết

Đính kèm là hình của cô Lê Ngọc Huyền :

 

 Bố tôi có tất cả 3 đời vợ

Kimtrong Lam

 Bố tôi có tất cả 3 đời vợ.

Mẹ tôi là người đầu tiên ông kết hôn và chỉ vài tháng sau khi nên vợ thành chồng, mẹ tôi là người đệ đơn ly hôn. Lúc đó bà đang mang thai đứa con duy nhất là tôi.

Hơn 40 năm sống trên đời, tôi chưa từng nghe thấy mẹ than vãn, oán hận hay trách móc gì chồng cũ. Có lẽ bởi vậy nên tôi, đứa con chỉ gặp bố với số lần đếm trên đầu ngón tay cũng không cảm thấy quá uất ức khi bố mình chẳng có chút xíu trách nhiệm nào với con cái.

Mẹ tôi ở vậy nuôi tôi thành người. Mặc dù là phụ nữ nhưng tôi luôn tự nhủ mình phải có trọng trách chăm sóc bà cả đời. Thật may mắn, khi lập gia đình chồng tôi rất hiều và thông cảm cho vợ. Thậm chí, anh còn coi mẹ tôi như mẹ đẻ vì mẹ anh mất sớm.

Tuy không ở với bố và cũng không gặp ông nhiều nhưng vì ở cùng một thành phố, đôi khi tôi vẫn nghe được rất nhiều thông tin về ông. Có lẽ vì hoàn cảnh tác động, giữa tôi và bố dường như chẳng có nổi một sợi dây liên kết nào…

Sau khi ly hôn với mẹ tôi, ông cũng rất nhanh chóng tìm kiếm được hạnh phúc mới. Bố tôi và người vợ thứ hai có đến 3 mặt con. Những tưởng cuộc hôn nhân này đã viên mãn nhưng bất ngờ thay bố tôi và người vợ thứ 2 cũng ly hôn sau gần chục năm chung sống.

Nếu tôi nhớ không nhầm thì vào năm ông ở tuổi ngũ tuần liền quyết định cưới thêm một lần nữa. Điều đáng nói, người vợ thứ 3 của ông bằng tuổi tôi. Thật là oan gia ngõ hẹp khi “mẹ kế” này và tôi lại làm cùng một công ty.

Tôi và đồng nghiệp kia chưa kịp nếm trải những khó xử khi thường xuyên phải đối mặt với nhau ở nơi làm việc thì bố tôi và người vợ thứ ba này đã nhanh chóng đường ai nấy đi. Khi biết tôi là con cả của ông, “mẹ kế” ban đầu còn ái ngại nhưng cổ nhân có câu “kẻ thù của kẻ thù là bạn mình” nên dần dà cô ấy bắt đầu coi tôi là đối tượng để tâm sự.

Có lẽ vì cô ấy nghĩ chắc hẳn mẹ con tôi cũng hận thù bố tôi như cái cách mà 3 mẹ con cô ấy đã phải chịu đựng nên luôn tìm tôi để kể tội ông ấy. Cũng bởi vì những màn nói xấu chồng cũ không hồi kết này của “mẹ kế” mà tôi biết được lý do vì sao mẹ tôi lại quyết tâm ly hôn khi bụng mang dạ chửa.

Bố tôi là một người đàn ông trăng hoa.

Mẹ tôi vì biết chuyện bố có qua lại với người phụ nữ khác, cũng chính là người vợ thứ hai của ông sau này nên đã quyết tâm đơn phương ly hôn. Thì ra đây là lý do mà ông rất nhanh chóng tìm đến cuộc hôn nhân mới khi tôi chỉ mới vừa tròn 1 tháng tuổi.

Chuyện này tương tự lặp lại với người mẹ kế thứ hai. Và kết thúc cũng không khác với lần đầu tiên là mấy.

Không thể phủ nhận rằng cô đồng nghiệp của tôi lấy người đáng tuổi bố mình với mong ước thoát khỏi cuộc đời lam lũ. Nhưng kể cả có là như vậy thì cô cũng chưa từng làm chuyện có lỗi với chồng và 2 đứa con.

Cứ tưởng rằng bố tôi lấy vợ trẻ thì phải tối ngày lo giữ vợ thế nhưng mọi chuyện lại ngược lại hoàn toàn. Khi sinh bé thứ hai, “mẹ kế” này của tôi bàng hoàng phát hiện bố tôi đã có quan hệ ngoài luồng với người phụ nữ khác, thậm chí kẻ đó cũng đã sinh cho ông 1 đứa con.

Tôi không còn nghe được những thông tin về “chiến tích” của bố mình nữa vào năm ông bước qua tuổi 60. Gần đây, tôi thấy người ta bảo bố tôi sức khoẻ yếu đi nhiều rồi, thi thoảng phải nhập viện vì nhiều căn bệnh tuổi già. Mỗi lần đều tự đi một mình, tự về một mình, chẳng có ai chăm sóc.

Vậy là ở cái tuổi tóc hoa râm, người đàn ông có 3 đời vợ, 7 đứa con cả trong và ngoài giá thú lại chỉ có thể lẻ loi một mình. Tôi không biết trong những ngày cô độc như thế, ông ấy đã nghĩ gì, liệu có hay không 1 lần hối hận vì tuổi trẻ phóng khoáng của mình?

Chiều nay, tôi tăng ca nên đi làm về khá muộn. Mở cửa liền thấy mẹ đang tết tóc cho đứa cháu lớn, thằng út thì mè nheo đòi bà chiên gà cho nó ăn. Những bộn bề cuộc sống bỗng trở nên thật nhẹ nhàng vào khoảnh khắc này.

Tôi chưa từng oán hận bố mình nhưng để có thể ở bên cạnh chăm sóc ông thì tôi không thể sẵn sàng…

Ngẫm: Ước Mơ Của Con

NGẪM…!!!!

Ước Mơ Của Con

 

Sau bữa tối, một cô giáo tiểu học bắt đầu chấm bài cho học sinh. Chồng cô ngồi bên cạnh, dán mắt vào màn hình điện thoại di động, cố gắng phá vỡ kỷ lục trò Candy Crush Saga anh đã dày công nghiên cứu cả tháng trời. Bỗng nhiên, bầu không khí yên lặng bị phá vỡ bởi tiếng sụt sịt của người vợ. Thấy mắt cô đang rơm rớm, anh vội quay sang vợ hỏi nhỏ:

“Này em, sao tự dưng lại khóc? Có chuyện gì à?”

Người vợ thổn thức trong nước mắt: “Hôm qua em giao bài tập làm văn cho tụi nhỏ lớp 1, viết về chủ đề “Điều ước của con”… ”

“Anh hiểu rồi, nhưng vì sao em khóc?” – Người chồng tiếp tục gặng hỏi trong khi mắt vẫn không rời khỏi trò chơi đang đến hồi gay cấn.

“Bài văn cuối cùng này đã làm em khóc”.

Không giấu nổi sự tò mò, anh chồng bèn ngẩng mặt lên hỏi đầy ái ngại: “Bài văn của một đứa trẻ con cũng khiến em khóc được sao?”

“Anh nghe này…” – Người vợ chậm rãi đọc, nước mắt vẫn không ngừng rơi.

“Ước mơ của con là trở thành một chiếc điện thoại di động. Bố mẹ con yêu điện thoại di động lắm. Đến mức con cảm thấy bố mẹ quan tâm đến điện thoại còn hơn quan tâm đến con. Khi bố đi làm về, dù rất mệt mỏi nhưng bố vẫn chỉ ngồi bấm điện thoại di động chứ chẳng nhớ gì đến con. Khi bận bịu việc gì quan trọng, nếu bất chợt có chuông điện thoại reo, bố mẹ sẽ ngay lập tức nhấc máy nghe. Thế nhưng lúc con khóc thì bố mẹ lại chẳng sốt sắng đến thế. Bố mẹ thích chơi trò chơi trên điện thoại di động chứ chẳng muốn chơi cùng con. Khi nói chuyện với ai đó trên điện thoại, bố mẹ cũng chẳng bao giờ thèm nghe con nói gì, cho dù con có chuyện rất quan trọng muốn chia sẻ. Vì thế, con chỉ ước được làm một chiếc điện thoại di động”.

Sững lại vài giây khi nghe xong bài văn, người chồng rụt rè hỏi vợ:

“Trò nào viết bài này vậy em?”

Ngước cặp mắt dâng đầy nước lên nhìn chồng, cô nghẹn ngào:

“Con trai của chúng ta”.

From: Tham Nguyen & KimBang Nguyen

Câu chuyện tình lâm ly  

Câu chuyện tình lâm ly  

Bửu Uyển

Vào dịp cuối năm 1994, một buổi họp mặt các cựu tù nhân chính trị được tổ chức ở San Diego. Xướng ngôn viên của buổi lễ cho biết: “Khi tôi xướng tên trại nào, nếu quý anh là trại viên của trại đó, xin đứng dậy và tự giới thiệu tên của mình để các anh em khác được biết”. Nhiều trại cải tạo ở miền Bắc được lần lượt xướng tên như “Phong Quang”, “Yên Báy”, “Vĩnh Phú”, “Thanh Cẩm”, “Lý Bá Sơ”, “Nam Hà”, “Phú Sơn” v.v Trại nào cũng có năm bảy anh đứng dậy và giới thiệu tên của mình. Khi xướng tên trại Nam Hà, tôi đứng dậy và có thêm bốn anh nữa , trong đó có một anh, tự giới thiệu tên của mình là Lê Trung Đạo. Tôi lẫm nhẫm Lê Trung Đạo, Lê Trung Đạo… sao tên nghe quen quá, hình như anh ấy ở chung đội với tôi thì phải. Khi phần giới thiệu các anh em trại Nam Hà chấm dứt, tôi đi đến bàn của anh Đạo, đứng đối diện và nhìn kỹ anh ấy. Tôi nhận ra anh Đạo ngay. Tôi ôm chầm lấy anh, và anh ấy cũng ôm tôi trìu mến. Tôi thì thầm bên tai Đạo: “Em còn nhớ anh không? ” Đạo trả lời ngay: “Anh Uyển, mà sao em có thể quên được, thật vui mừng được gặp lại anh. Em trông chờ ngày này đã lâu lắm rồi!”

Khi cùng sống trong cảnh đọa đày nơi trại Nam Hà, phân trại C, tôi và Đạo nằm gần nhau. Ra đồng, bắt được con cua, con cá, tôi và Đạo cùng chia sẻ với nhau. Đạo là một Thiếu Úy Cảnh Sát Đặc Biệt, mới ra trường, không biết làm Trưởng G hay H gì đó… mà bị đày ra cải tạo ở miền Bắc. Anh còn quá trẻ, khoảng 24, 25 tuổi. Tôi xem anh như một người em của tôi và tôi rất quý mến anh. Đạo chưa lập gia đình. Anh chỉ còn một mẹ già đang sống ở Vĩnh long. Vì vậy, từ ngày bị đưa ra Bắc, Đạo chưa bao giờ nhận được quà của thân nhân từ trong Nam gởi cho anh. Anh sống hiền hòa, vui tính, nên anh em trong đội ai cũng mến anh. Đạo xem tôi như một người anh trong gia đình, anh tâm sự với tôi : “Đời em chẳng còn gì nữa, chỉ có một người mẹ, mà từ ngày bị đày ra Bắc, đã trên 5 năm rồi em chẳng có tin tức gì của mẹ em. Không biết bà còn sống hay đã ra người thiên co. Đạo nắm tay tôi và cảm động nói: “Giờ đây em chỉ có anh là người duy nhất thương mến em, cho em chút an ủi để sống qua ngày!”

Như có một động lực nào thúc đẩy, Đạo tâm sự với tôi : “Anh ạ, mình phải sống chứ anh, mà muốn sống, dù là cuộc sống thấp nhất, cũng phải có một ước mơ gì đó để mà mộng tưởng, để tiếp sức cho mình. Các anh em ở đây , dĩ nhiên ai cũng mơ ước sớm được trở về với gia đình. Ngoài xã hội thì kẻ này mơ trúng số, kẻ kia mơ nhà cửa, ruộng vườn v.v. Nhưng sống nơi địa ngục trần gian này, anh em mình mơ ước điều gì đây? Tất cả đều nằm ngoài tầm tay của mình. Em chợt nhớ lại một câu chuyện cổ tích của Pháp, tựa đề là “Un Peu De Soleil Dans L’eau Froide” kể lại câu chuyện một ông lão nghèo khổ, sống cô đơn một mình trong căn lều nhỏ bé, trống trước, trống sau. Bổng một bà tiên hiện ra và cho ông một điều ước. Bà tiên cứ nghĩ, thế nào ông lão nghèo nàn này cũng sẽ ao ước có một căn nhà, hoặc ao ước có nhiều tiền bạc..v..v. Nhưng bà tiên vô cùng ngạc nhiên, khi ông lão nghèo khổ ấy chỉ xin “Một Nụ Cười”
Đạo như chợt tỉnh, ông lão bất hạnh trong câu chuyện cổ tích, đã chỉ cho Đạo một mơ ước, mà dù trong hoàn cảnh nào cũng có thể đạt được, đó là một nụ cười. Không cần phải là nụ cười của giai nhân, mà chỉ cần một nụ cười thân ái của ai đó, chân thành trao cho anh, vì yêu mến anh, có thế thôi.

Cuộc sống tù đày cứ kéo dài triền miên trong đói khổ, vô vọng. Nhưng khi nghĩ đến một nụ cười, Đạo thấy tâm hồn mình có chút an ủi, nhẹ nhàng. Hằng ngày , Đạo ước mơ nhận được nụ cười. Đêm đêm Đạo cũng ước mong trong giấc mơ, anh sẽ gặp được một nụ cười. Nhưng buồn thay, những giấc mơ đến với Đạo chỉ là những cơn ác mộng mà thôi.

Nhưng thật kỳ diệu, từ ngày Đạo ôm ấp ước mơ có được một nụ cười, anh thấy cuộc đời của anh có chút ý nghĩa, vì dù sao anh cũng có một ước mơ, để mà thương, mà nhớ, mà mong chờ.

Một hôm, đội được dẫn đi gặt lúa, khi đi ngang qua cổng cơ quan, Đạo thấy nhiều chiếc áo vàng đứng ở đó. Nhìn lướt qua, Đạo chợt thấy một nữ cán bộ nhìn anh mỉm cười. Anh không tin ở mắt mình, anh nghĩ rằng có thể cô ta cười vu vơ gì đó, chứ đâu phải cười với anh. Anh quay lại nhìn một lần nữa, vẫn thấy cô ta nhìn anh và mỉm cười.

Từ ngày ấy, mỗi khi đội đi ngang qua cỗng cơ quan, Đạo đều bắt gặp nụ cười của người nữ cán bộ dành cho anh. Vì vậy khi đi lao động, Đạo luôn luôn đi cuối hàng để dễ đón nhận nụ cười của cô nữ cán bộ. Đạo cũng cười đáp lễ với cô ta. Đạo bắt đầu thấy cuộc đời của mình, có một chút gì thi vị, đáng sống. Khi ăn, khi ngủ, nụ cười đó luôn luôn theo anh, cho anh niềm an ủi, và chút lạc quan để sống. Anh em trong đội đều biết mối tình mắt nhìn mắt và trao đổi nụ cười của Đạo và cô nữ cán bộ.

Không những Đạo nhớ đến nụ cười, anh còn nhớ đến đôi mắt như muốn nói với anh muôn ngàn lời, anh nhớ đến người con gái ấy. Ban đầu anh nghĩ rằng cứ giả bộ vui vẻ cho qua ngày. Nhưng trong tâm trí anh, luôn luôn nhớ đến cô gái ấy và anh nhận ra rằng anh đã yêu cô ta. Đạo nhớ lại ngày xưa Elvis Presley đã hát một bài hát nỗi tiếng là bài Don’t Gamble With Love nay thật đúng như trường hợp của Đạo. Bây giờ Đạo không còn cho rằng lao động là khổ sai nữa, mà anh trông chờ mỗi buổi sáng được đi ngang qua cổng cơ quan, để đón nhận nụ cười của người nữ cán bộ. 

Một buổi chiều khi đi lao động về,nghe các anh em Công Giáo tập hát bài “Đêm Đông lạnh lẽo Chúa sinh ra đời”, Đạo mới biết, đêm nay là đêm Noel. Khi cửa phòng giam đóng lại, anh em Công Giáo vội vã thiết trí một ngôi sao Giáng Sinh và hàng chữ “Mừng Chúa Giáng Sinh” ở vách tường cuối phòng. Họ nắm tay nhau ca hát, đọc kinh, cầu nguyện. Đạo nằm mơ màng, lơ đãng nhìn về cuối phòng, chung quanh hàng chữ “Mừng Chúa Giáng Sinh”, Đạo tưởng tượng như có những bóng đèn màu chớp sáng. Anh mơ hồ nghe như có tiếng nhạc bài Silent Night dịu dàng thoảng đi trong gió…Anh thiếp đi trong giấc ngủ yên lành.

Vào một buổi sáng chúa nhật, chúng tôi được gọi ra sân để nhận quà của thân nhân từ trong Nam gởi ra. Thường thì 80 đến 90 phần trăm anh em đều nhận được quà. Riêng Đạo thì chưa bao giờ nhận được quà của thân nhân. Nhưng thật bất ngờ, hôm nay cán bộ lại kêu tên Đạo lên nhận quà, ai cũng ngạc nhiên và mừng cho Đạo. Anh nhận một gói quà bình thường, nhưng cách gói quà, khác với những gói quà từ trong Nam gởi ra. Đạo sửng sốt nhận gói quà, đem về phòng, cẩn thận mở ra. Một mảnh giấy nhỏ nằm trên những gói đồ ăn, anh đọc vội hàng chữ “Trìu mến gửi anh Đạo – Em : Kim Chi”. Với mấy chữ ngắn gọn đó, Đạo biết ai gởi cho anh món quà tình nghĩa này. Anh ôm gói quà vào lòng. Anh không ngờ người nữ cán bộ có nụ cười dễ thương đó, lại dám liều lĩnh gởi quà cho anh. Hai hàng nuớc mắt chảy dài xuống má, đây là những giọt nước mắt hạnh phúc mà từ lâu anh không hề có.

Trại Nam Hà, Phân trại C, nơi chúng tôi đang ở, phía sau là con đường làng. Trại chỉ ngăn cách với bên ngoài bởi những bụi tre thấp và hàng rào kẽm gai. Dân chúng đi ở ngoài, chúng tôi có thể thấy họ. Thường vào buổi chiều, sau khi ăn cơm xong , chúng tôi hay ra ngồi chơi ở sân sau đó, nhìn người qua lại. Một hôm, chúng tôi thấy cô cán bộ Chi đi lui, đi tới ở ngoài hàng rào, rồi thình lình quăng vào trong một cái gói nhỏ. Chúng tôi biết cô ấy gởi gì đó cho Đạo, chúng tôi mang vào cho anh. Đạo không biết Chi gởi gì cho anh, nhưng anh cảm động lắm. Anh em hiếu kỳ đứng quanh giường của của Đạo, để xem cô Chi đã gởi gì cho anh: đó là một gói xôi và một con gà vàng rộm. Đối với tù nhân, đói triền miên như chúng tôi, thì gói xôi gà này là cao lương mỹ vị bậc nhất trên thế gian này. Đạo rất hào phóng, anh chia đều xôi, gà cho tất cả 32 anh em trong đội, mỗi người được một muỗng xôi và chút ít thịt gà. Có người ăn ngay, nhưng cũng có vài anh em để đó, hít hít mùi thịt gà cho đỡ thèm.

Đạo thấy thương Chi quá, vì yêu anh, nàng đã gan liều làm những việc như vậy, vì nếu bị phát giác, nàng ở tù như chơi. Đạo càng thương Chi khi nghĩ đến tương lai : một cán bộ công an yêu một sĩ quan cảnh sát ngụy… thì đời nào có thể sum họp được. Anh thở dài!

Vào một sáng chúa nhật, một anh trật tự đến phòng chúng tôi, bảo anh Đạo chuẩn bị ra có người thăm nuôi. Chúng tôi rất ngạc nhiên, vì từ bao năm nay, Đạo thuộc diện con mồ côi, chưa hề có ai gởi quà cho Đạo, nói gì đến chuyện thăm nuôi.Thế mà hôm nay, lại có người thân nào đó đến thăm Đạo. Chúng tôi mừng cho Đạo. Khoảng 9 giờ sáng, anh được cán bộ dẫn ra nhà thăm nuôi. Chúng tôi hồi hộp chờ Đạo trở vào để xem anh nhận được những quà gì của thân nhân đem đến.

Nhưng chúng tôi chờ mãi… đã ba, bốn giờ chiều rồi, vẫn chưa thấy Đạo trở vô trại. Thường một trại viên được gặp mặt thân nhân khoảng 15, 20 phút, tối đa là nửa giờ. Thế mà , Đạo ra nhà thăm nuôi đã hơn bốn, năm tiếng rồi mà chưa thấy vô. Chúng tôi bắt đầu lo lắng cho Đạo, không biết chuyện gì đã xảy ra cho anh, lành hay dữ. Và từ đó, chúng tôi không còn biết tin tức gì về Đạo nữa.

Hôm nay gặp lại Đạo, tôi đem chuyện ấy ra hỏi Đạo, anh đã kể cho tôi nghe câu chuyện sau đây:

“Anh nhớ không, ngày chúa nhật hôm đó, em được dẫn ra nhà thăm nuôi, nói là có thân nhân đến thăm. Em vô cùng ngạc nhiên vì em đâu có thân nhân nào từ trong Nam có thể ra thăm em. Bước vào nhà thăm nuôi, em thấy Chi và một ông Thượng Tá công an ngồi ở đó. Chi vội vã đứng lên giới thiệu: “Đây là cậu Du của Chi, đang công tác ở tỉnh Thái Bình, em nhờ cậu ấy đến thăm anh.” Đạo bối rối nhìn Chi, nhìn ánh mắt, nụ cười của Chi. Chi mặc đồ công an, trên cổ áo có đeo quân hàm Thiếu Úy. Chi biết Đạo ngỡ ngàng, thắc mắc nên cô nói ngay: “Anh đừng lo, em bảo anh làm gì thì cứ làm theo, chớ có hỏi han gì hết.” Chi dẫn Đạo vào một căn nhà ở gần nhà thăm nuôi, nhà không có ai cả. Chi bảo tôi cởi bộ áo quần tù ra, và mặc ngay bộ đồ công an đã để sẵn ở đó; ngoài áo quần, có cả nón, cặp da và giấy chứng nhận đi công tác miền Nam. Tôi như trên trời rớt xuống, nhưng không có thì giờ để hỏi Chi, việc gì đang xảy đến cho tôi. Khi tôi đã mặc xong bộ đồ công an, Chi nhìn tôi mỉm cười, rồi kéo tôi ra ngõ, bảo tôi leo lên một chiếc xe Jeep nhà binh đậu sẵn ở đó, và chạy ra ga xe lửa Phủ Lý. Chi bảo tôi cứ ngồi trên xe, Chi vào mua vé xe lửa đi về Sài Gòn.

Khi đưa tôi lên xe lửa, Chi ân cần căn dặn: “Không nên về nhà, cũng đừng liên lạc với mẹ, mà tìm một người bà con nào đó ở tỉnh khác xin trú ngụ vài ngày, rồi tìm đường vượt biên. Tốt nhất là đi đường bộ qua ngã Campuchia”. Chi đưa cho tôi một gói giấy và nói: “Đây là ít tiền để anh tiêu dùng, nhớ là phải vượt biên ngay nhé!”. Chi cầm tay tôi và chân thành nói : “Em là vợ của anh, anh đừng quên em!”. Tôi ôm Chi vào lòng, nước mắt ràn rụa. Chi cũng khóc trên vai tôi. Xe lửa từ từ lăn bánh, hình ảnh Chi cô đơn đứng một mình trên sân ga, nhỏ dần, nhỏ dần.. Tôi thấy nhiều lần Chi đưa tay lên lau nước mắt. Trong tim tôi, mối tình mà Chi dành cho tôi quá sâu đậm, đã chiếm trọn cuộc đời tôi. Tôi vỗ vỗ vào trái tim của mình “Đạo, Đạo, mày phải sống xứng đáng để đền ơn đáp nghĩa cho Chi nghe chưa.”

Khi xe lửa dừng lại ở ga Bình triệu, Sàigòn, tôi không về nhà tôi ở Vĩnh Long, mà đến nhà dì tôi ở Cần Thơ xin trú ngụ.Chồng của dì tôi là một Đại úy Công Binh Việt nam Cộng Hòa, trước năm 1975, ông phục vụ ở Tiểu Đoàn 24 Công Binh Kiến tạo, mới được trả tự do. Gia đình dì, dượng tôi đang âm thầm chuẩn bị vượt biên. Dì, dượng tôi vui vẻ chấp thuận cho tôi cùng đi theo. Tôi đã đưa gói tiền mà Chi trao cho tôi, cho dì tôi để bà tiêu dùng. Mở gói ra xem, dì bảo tôi : “Tiền đâu mà cháu có nhiều vậy?” Tôi trả lời ngay : “Của vợ con cho đó!”
 

Vào một đêm tối trời, ghe máy chở cả nhà ra cửa biển Đại Ngãi, vì tàu lớn đang đậu ở đó. Sau 3 ngày và 4 đêm, tàu của chúng tôi đã đến hải phận Thái Lan, được tàu tuần duyên của Thái Lan đưa về trại Sikiew. Trong cuộc phỏng vấn thanh lọc, nhân viên Cao Ủy Tị Nạn Liên Hiệp Quốc hỏi tôi rất ít. Tôi nghĩ là họ có đầy đủ hồ sơ cá nhân của ngành Cảnh Sát Đặc Biệt. Họ chỉ hỏi tôi là làm Trưởng G hay Trưởng H, tôi trả lời. Người nhân viên đó lấy trong tập hồ sơ ra một tấm ảnh, anh nhìn tôi rồi gật đầu.Thế là tôi vượt qua cuộc thanh lọc. Mấy tháng sau, họ chuyển tôi qua trại Pulau Bidong ở Mã Lai, để chờ chuyến bay đi định cư ở Mỹ.

Tôi mau chóng gởi thư cho má tôi ở Vĩnh Long, báo tin tôi đã bình yên đến trại Pulau Bidong ở Mã Lai, đang chờ chuyến bay để đi định cư ở Mỹ. Khoảng 2 tuần sau, tôi vui mừng nhận được thư hồi âm của má tôi, và một bất ngờ thú vị đến với tôi là có cả thư của Chi nữa! Má tôi đã viết cho tôi: “Đạo con, má rất vui mừng nhận được tin con đã đến nơi bình yên. Má cho con biết là Chi đang ở đây với má. Chi đã kể cho má nghe hết mọi chuyện. Má rất hạnh phúc có được một con dâu hiếu thảo như Chi, má mừng cho con.”

Đạo run run mở thư của Chi ra đọc: “ Anh Đạo yêu quý của em, nghe anh đã đến đảo và đang chờ chuyến bay để đi Mỹ, má và em mừng quá anh ơi. Khi anh đi về Nam chưa đầy một tháng, họ đuổi em ra khỏi ngành công an. Em đã về Vĩnh Long ở với má, em thay anh phụng dưỡng, săn sóc má, anh yên tâm ! “

Với lời lẽ chân tình, mộc mạc, tôi uống từng chữ, từng lời trong bức thư ngắn gọn của Chi, tôi áp bức thư vào ngực và đi vào giấc ngủ.
Năm 1982, tôi được đi định cư ở Mỹ. Khi có thẻ xanh, tôi đã làm hồ sơ bảo lãnh Chi. Trong thời gian ở với má tôi ở Vĩnh Long, không biết Chi hỏi thủ tục bảo lãnh ở đâu mà nàng ra Thái Bình, nhờ người cậu Thượng Tá Công An của nàng, làm một giấy hôn thú của tôi và Chi, có đầy đủ chữ ký và khuôn dấu đỏ xác nhận của chính quyền địa phương.

Năm 1987 khi tôi được nhập quốc tịch Mỹ, tôi đã bổ túc hồ sơ bảo lãnh. Chi đã nhanh chóng được phỏng vấn. Lúc này, những trường hợp gian dối chưa xảy ra nhiều, nên việc chấp thuận cho chồng bảo lãnh vợ tương đối dễ dàng nếu có đầy đủ giấy tờ chứng minh.

Vào một ngày se lạnh ở miền Nam Cali, tôi và vài bạn bè thân quen đến đón Chi ở phi trường Los Angeles. Tôi ôm Chi vào lòng, vì quá cảm động, tôi chỉ thốt lên được một tiếng “Em!” Chi cũng vậy, nàng thổn thức trên vai tôi “Anh!”. Chỉ 2 tiếng “Anh” “Em,” nhưng đã gói trọn cuộc tình mà chúng tôi nghĩ là không bao giờ có thể sum họp được. Tạ ơn Trời Đất!

Đạo xây qua người đàn bà ngồi bên cạnh anh, và giới thiệu với tôi : “Thưa anh, đây là Chi, vợ em” Chi bẽn lẽn cúi đầu, che dấu nụ cười đã đem lại sức sống và hạnh phúc cho Đạo.

Tôi đã được nghe , được biết nhiều mối tình ly kỳ, éo le lắm. Nhưng nếu nói đến một mối tình thật lãng mạn, mà người con gái đã dám hy sinh sự nghiệp và cả tính mạng mình cho người yêu, thì không thể không nói đến mối tình của nàng Kim Chi và chàng Trung Đạo.

Bửu Uyển.

From: Phi Phuong Nguyen

Nếu có một ngày… về VN “dưỡng già”

ĂN TRỘM DẠY CON

ĂN TRỘM DẠY CON

(Sưu tầm)

Xưa lắm rồi, có một gã đạo chích rất lành nghề. Bao nhiêu tiền kiếm được, gã đều dành dụm nuôi dạy đứa con trai độc nhất học hành nên người để không theo nghề của cha nữa.

Nhưng, con trai gã cứ nằng nặc ngỏ ý muốn học nghề của cha.

Biết đây là một nghề xấu nên người cha không muốn con nối nghiệp, nhưng khuyên thế nào cậu con trai cũng không từ bỏ ý định.

Một hôm, gã ăn trộm nghĩ ra kế, liền dẫn con đi theo để… thực tập.

Hai cha con đến một nhà giàu có, đánh bả cho lũ chó chết mê chết mệt xong, đạo chích đào ngạch, khoét vách dắt con chui vào nhà.

Cả nhà ngủ say như chết. Gã trộm thấy một cái rương to còn trống bèn giở nắp rương bảo con:

– Con chui vào đây, hốt hết đồ đạc bỏ vào bao cho cha.

Thằng con y lời, gã đạo chích liền đóng nắp gài khóa lại, rồi lẻn ra khỏi nhà, hô hoán lên ầm ĩ:

– Ăn trộm! Ăn trộm!

Chủ nhà bừng tỉnh, thấy nhà bị khoét vách, dáo dác tìm kiếm hồi lâu, không thấy động tĩnh liền đi ngủ lại

Con trai gã đạo chích nằm chết điếng trong rương, tái tê vì sợ và giận cha khôn tả.

Hồi lâu nó nghĩ ra một kế thoát thân, bèn lấy tay cào sột soạt vào thành rương và giả tiếng chuột kêu ‘chít… chít…’ để đánh lừa chủ nhà.

Nghe chuột kêu, chủ nhà vội thức giấc, đốt đèn mở rương đuổi chuột.

Thằng bé vụt nhỏm dậy, thổi tắt đèn, xô ngã chủ nhà, tông cửa chạy một mạch.

Chủ nhà vừa hô hoán vừa đuổi theo.

Thằng bé chạy đến đường cùng thì gặp cái giếng, nó vội vàng ôm một cục đá to liệng xuống giếng và tri hô:

– Thằng ăn trộm nhảy xuống giếng trốn rồi… Làng xóm ơi!

Mọi người đổ xô nhau kéo đến giếng để bắt trộm.

Thằng bé thừa lúc mọi người tìm kẻ trộm dưới giếng, chạy thẳng về nhà.

Gặp cha, thằng bé oà lên khóc và không tiếc lời oán trách cha.

Gã đạo chích để con khóc cho đã, mỉm cười hỏi:

–  Con hãy nói cho cha nghe lúc bị nhốt trong rương và lúc đang chạy trốn, con thấy thế nào?

Cậu con kể lại từ đầu đến cuối cho cha nghe.

Gã cười ha hả hỏi:

– Con có muốn cả cuộc đời mình phải sống trong cảm giác đề phòng, sợ hãi, trốn chui trốn nhủi như thế nữa không?

Cậu bé im lặng nhìn cha. Gã đạo chích tiếp:

– Cha cho con học hành đến nơi đến chốn mà quên khuyên con là:

Muốn ăn trộm, ăn cắp hay ăn cướp mà không sợ ai cả … Thì con học hành cho tốt, rồi gia nhập hàng ngũ “đầy tớ cho dân…!” – Lúc ấy, lấy hết tài sản, mọi thứ của chủ nhân cả nước mà vẫn an toàn, vẫn là người tử tế…

Nguồn: internet

From: phó nhòm U-Minh, thợ vườn

NHỤC-Truyện cực ngắn

Copy from Thái Bá Tân

Truyện cực ngắn

NHỤC

Hay tin, ông bỏ cả việc đang làm giở ở Sài Gòn, vội vàng bay ra Hà Nội.

Vừa đặt va-li xuống nền nhà, ông cao giọng hỏi vợ:

“Làm sao mà người ta trả lễ?”

“Vì con ông làm công an.”

“Công an thì sao mà trả lễ?”

“Ông đi mà hỏi người ta ấy.”

“Nhưng trước đồng ý, người ta đã biết nó là công an rồi cơ mà?”

“Tôi biết đâu đấy. Sao ông cáu với tôi?”

“Nhục!”

*

Con trai ông và con gái gia đình ông giáo phố bên học cùng nhau từ bé rồi yêu nhau và định lấy nhau. Cả hai đều ngoan, lại môn đăng hộ đối, tưởng chẳng còn gì nữa phải bàn. Thế mà khi nghe tin con ông vào Học viện công an, gia đình ông giáo có ý ngãng ra. May hai đứa yêu nhau thực sự nên cuối cùng cũng xuôi xuôi, và tuần trước họ đã đồng ý cho làm lễ dạm hỏi. Thế mà bây giờ… Trả thì trả, thành phố này thiếu gì con gái! ông nghĩ. Đành là thế, nhưng ông thấy bị sĩ nhục. Một gia đình như ông, với một thằng con hiền lành, tử tế như con ông mà bị trả lễ thì thật nhục. Hàng xóm sẽ khối anh được dịp đơm đặt.

Tối đến, ông gọi riêng con trai ra một chỗ, hỏi chuyện.

“Lý bảo bố mẹ cô ấy lần này làm căng, dứt khoát không chịu.” Anh con nói.

“Vì sao?”

Anh ta im một lúc mới đáp:

“Vì có ai đó nhìn thấy con hôm công an dẹp vụ cưỡng chế đất ở Cống Bầu.”

“Con ở đấy thật à?”

“Vâng.”

“Tưởng con lính văn phòng không phải làm những việc đó…”

“Bây giờ cần là người ta điều hết.”

“Thế con làm gì ở đấy?”

Anh con ngước mắt nhìn bố, vẻ ngạc nhiên:

“Làm những việc công an phải làm với bọn phản động. Bọn bị các thế lực thù địch kích động làm loạn…”

Đến lượt ông bố dướn mắt ngạc nhiên:

“Con có đánh người ta không? Thậm chí nổ súng?”

“Con thì không, vì chưa cần.”

“Còn nếu cần?”

Anh con không trả lời.

“Hôm dẹp mấy vụ biểu tình chống Tàu con có tham gia không?

“Có.”

“Có đánh ai không?”

“Không. Chỉ xô đẩy. Mà bố hỏi kỹ thế làm gì nhỉ? Đấy là việc của con. Nhiệm vụ của chúng con là bảo vệ đảng, bảo vệ đất nước, bảo vệ nhân dân.” Anh con thậm chí cao giọng, là việc xưa nay ông chưa từng thấy, vì nó vốn là đứa hiền và ngoan nhất nhà.

Rồi anh ta nói thêm:

“Trước bố đi bộ đội, cũng để bảo vệ đảng, bảo vệ đất nước và nhân dân như con bây giờ thôi. Việc bố xưa bố làm. Việc con nay con làm. Thế cả.”

Ông thấy vương vướng trong cuống họng.

“Không, khác hẳn. Xưa bố đánh giặc, đánh Mỹ. Nay chúng mày đánh nhân dân. Xưa nhà nước lấy đất người giàu chia cho người nghèo. Giờ thì ngược lại.”

Ông định nói thế. Thậm chí định tát và mặt thằng con ngoan của mình, nhưng nghĩ thế nào, ông im lặng bỏ vào phòng mình.

*

Ông nằm ngửa, mắt nhìn trân trân lên trần nhà.

Vậy là con ông đã thay đổi. Trong nhà với bố mẹ có thể nó vẫn như xưa, nhưng ra ngoài thì khác. Mà chỉ sau mấy năm học ở trường cảnh sát. Người ta đã dạy nó những gì nhỉ? Chắc các ông thầy ở đấy phải giỏi lắm mới thuyết phục được nó tin mấy ông bà nông dân chân đất mắt toét và mấy vị trí thức già yêu nước là phản động để xô đẩy và đánh họ. Hay đạp vào mặt họ. Hay thậm chí có thể bắn họ. Lúc nãy nó chẳng bảo “chưa cần” đấy thôi.

Láo! Nhục!

Hôm sau, ông nhẹ nhàng bảo vợ:

“Thôi, bà ạ. Người ta đã muốn thế thì mình cũng im đi cho xong. Chắc họ phải có lý do của họ. Nhục cũng phải chịu chứ biết làm thế nào.”

Bà vợ ông chỉ hiểu chữ “nhục’ theo nghĩa bẽ bàng với hàng xóm chứ không biết ông hàm ý cái nhục khác còn lớn hơn.

—–

VVT: Ngày trước, công an, quân đội còn nêu những khẩu hiệu cao cả: “vì tương lai đất nước”, “vì hạnh phúc của nhân dân”…

Ngày nay, công an trơ trẽn cái khẩu hiệu thấp hèn, ích kỷ, nịnh thối: “chỉ biết còn đảng còn mình” (ngòai ra, bất biết). Do đó, dân chúng dịch nghĩa “chỉ biết còn đảng còn tiền”.