Love Story, Bản Tình Ca Bất Hủ và Chuyện Tình Muôn Thuở

Vương Trùng Dương

(Đặc San Lâm Viên)

“Un amour éternel en un moment conçu”

(Félix Arvers)

“Tình trong giây phút mà thành thiên thu”

(Khái Hưng)

Trong bài thơ Ngập Ngừng của nhà thơ Hồ Dzếnh, in trong thi phẩm Quê Ngoại năm 1943, đến nay đã tròn 80 năm. Trong đó có mấy câu, nhiều người đã nhớ:

“Tình mất vui khi đã vẹn câu thề

Ðời chỉ đẹp những khi còn dang dở

… Cho nghìn sau… lơ lửng với nghìn xưa”.

Tập thơ nầy đã tái bản ở Sài Gòn năm 1969, và bài thơ được nhạc sĩ Trần Thiện Thanh phổ nhạc thành ca khúc Chuyện Hẹn Hò, nhạc sĩ Anh Bằng phổ thành bài hát Anh Cứ Hẹn… Ngoài ra, vài bài thơ của ông đã phổ nhạc: Hoa Mẫu Đơn (Anh Bằng) “Ước chi sống lại thời xưa ấy. Để ta trẻ mãi, để hẹn nhau”, Chiều (Dương Thiệu Tước) “Nhớ nhà châm điếu thuốc. Khói huyền bay lên cây”.

Trong ca khúc Khi Đã Yêu của nhạc sĩ Phượng Linh (Nguyễn Văn Đông) có câu: “Bao ước mơ còn trong đợi chờ. Cho nghìn sau nối lại nghìn xưa”.

Từ xưa đến nay và Đông, Tây có nhiều tác phẩm đề cập đến tình yêu ngang trái (diabolik lovers), đó cũng là lẽ thường tình trong cuộc sống. Trong các bộ tiểu thuyết kiếm hiệp của nhà văn Kim Dung trong chốn võ lâm, thu hút độc giả không chỉ chuyện đấu chưởng, kiếm pháp, bí kiếp độc tôn thiên hạ… mà những mối tình ngang trái. Không có mối tình nào ngang trái trong đời sống đầy oan nghiệt như trong truyện kiếm hiệp. Nào là cuộc tình xảy ta giữa hai phái hắc/bạch, thù hận không đợi trời chung giữa các môn phái, hận thù chủng tộc, hiềm khích bởi là con, đệ tử của kẻ thù, cuộc tình tay ba ôm hận trong lòng… (Hai thập niên trước, tôi có viết về Những Mối Tình Ngang Tái Trong Tác Phẩm Kim Dung). Chính những cuộc tình ngang trái oái ăm nầy đã lôi cuốn độc giả từ chương nầy đến chương khác.

Ngày 16/12/1970, phim Love Story (Chuyện Tình) với nhạc phẩm chủ đề của Francis Lai được trình chiếu đầu tiên ở Hoa Kỳ thu hút khán giả trong 4 tuần liên tục. Nhiều nhà phê bình cho rằng Love Story là bản nhạc xuất sắc, xứng đáng được liệt vào hàng kiệt tác. Theo bình chọn của American Film Institute, nhạc phẩm Love Story của Francis Lai, nằm trong 100 bản nhạc phim hay nhất mọi thời đại. Nhạc phim Love Story đứng hạng thứ 9, chỉ thua các nhạc phim kinh điển như Casablanca, Cuốn Theo Chiều Gió, West Side Story, Bác Sĩ Zhivago… nhưng lại vượt qua mặt My Fair Lady.

Phim Love Story lần đầu tiên được chiếu tại rạp Rex ở Sài Gòn vào tháng 3/1971, khán giả đông nghẹt suốt 6 tuần lễ, hầu hết ở giới trẻ… tuy thời kỳ chinh chiến nhưng trào lưu lãng mạn từ phương Tây dã ảnh hưởng đến miền Nam VN vào thập niên 1960s.

Tác phẩm Love Story, tiểu thuyết lãng mạn của nhà văn người Mỹ Erich Segal, nhà xuất bản Harper & Row, ra mắt đúng ngày Lễ Tình Yêu, 14 tháng 2 năm 1970. Tác phẩm gồm 22 chương, vừa ấn hành đã thuộc loại best seller, bán chạy nhất trong năm 1970 tại Mỹ và được dịch ra hơn 25 ngôn ngữ (Chuyện Tình qua bản dịch của Phan Lệ Thanh).

Thông thường thì đạo diễn dựa vào tác phẩm ăn khách để dựng thành phim nhưng kịch bản của Erich Segal viết cho hãng phim Paramount Pictures về cuộc tình lãng mạn và bi thương giữa đôi tình nhân trẻ Oliver (tài tử Ryan O’Neal) và Jenny (minh tinh Ali MacGraw) thời còn sinh viên. Sau đó, hãng Paramount Pictures và đạo diễn Arthur Hiller đã yêu cầu Erich Segal viết thành tiểu thuyết để giới thiệu với độc giả, vì vậy tác phẩm xuất hiện cùng năm 1970, trước khi phim ra mắt.

Nhạc sĩ người Pháp Francis Lai (1932-2010) theo học tại đại học Harvard, Yale ở Hoa Kỳ, giáo sư văn học ở đại học Princeton, Dartmouth… đại học Oxford ở Anh, đại học Munich ở Đức. Nhưng tên tuổi ông lừng lẫy với nhạc sĩ sáng tác, khoảng 600 nhạc phẩm và hơn 100 ca khúc cho phim.

Phim Love Story được đề cử 7 giải Oscar năm 1970 nhưng chỉ đoạt được 1 giải cho nhạc phim. Lúc đó, nhạc phim không có lời, khi phim được trình chiếu, lời của Carl Sigman (dựa theo tình tiết trong phim để viết thành ca khúc) với tiếng hát của danh ca Andy Williams trở thành tình khúc bất hủ.

Tại giải Trái Cầu Vàng 1971, phim Love Story được đề cử 7 giải (phim hay nhất, đạo diễn, kịch bản, nam nữ diễn viên vai chính, nam diễn viên vai phụ, nhạc phim) và đoạt 5 giải (phim hay nhất, đạo diễn, kịch bản, nữ diễn viên vai chính, và nhạc phim).

Trong khi đó tác phẩm Love Story, khoảng 130 trang, được bán chạy nhất ở Hoa Kỳ và qua các bản dịch cũng thuộc loại best seller nhưng không có nhà phê bình văn học nào ca ngợi đến nó.

Điều trùng hợp giữa nhạc sĩ Francis Lai và nhà văn Erich Segal đều mất cùng năm 2010.

Theo lời kể của nhạc sĩ Francis Lai, nguồn cảm hứng của ông tìm được khúc nhạc Love Story vào lúc nửa khuya. Ca khúc Love Story với giai điệu và tiết tấu nhẹ nhàng, khoan thai, lâm ly, réo rắt… hình dung được nỗi buồn man mác.

Nhạc phẩm Love Story của Farncis Lai được Phạm Duy chuyển sang ca khúc Chuyện Tình, ấn hành trước năm 1975, in cả 3 tiếng Việt, Pháp và Anh.

Biết dùng lời rất khó, để mà nói rõ

Ôi biết nói gì, cuộc tình lớn quá

Chuyện tình đáng nhớ, tuy cũ như là biển già trắng xoá

Cuộc tình quý giá như những ngọc ngà nàng dành cho ta

Ôi biết nói gì ?

Với một lời quý mến, mà nàng nói đến

Khi bước chân vào cuộc đời vắng ngắt

Cuộc tình thứ nhất, muôn kiếp muôn đời là tình vĩnh viễn

Vì nàng đã hiến đôi cánh tay mềm nghìn đời quyến luyến

ĐK:

Lòng ta đầy kín, lòng ta đầy kín

Là muôn nghìn chuyện yêu đương, câu hát thần tiên

Và những mộng huyền mênh mang, đầy kín hồn hoang

Man mác tình duyên

Thôi hết cuộc đời im tiếng

Ðời lẻ loi đã tan, ta đã được nàng

Làm gì còn tiếng than, nắm đôi tay thiên thần

Ði suốt mùa Xuân…

Sẽ còn được biết mấy? Một đời luyến ái

Yêu sẽ lâu dài hoặc là quá ngắn? Thật là khó đoán

Nhưng vẫn cho rằng cuộc đời có hết, loài người có chết

Sao sáng trên trời ngày nào sẽ tắt

Em vẫn gần ta!

Với cuộc tình bi thương muôn thuở, tác phẩm Love Story của Erich Segal cũng na ná như những tác phẩm cổ điển với cuộc tình thơ mộng của giới trẻ nhưng gặp ngang trái bởi gia đình còn quan niệm lạc hậu “môn đăng hộ đối” (Oliver, con nhà quý tộc, Jenny giai cấp bình dân, gốc Italy, thân phụ là tù binh Italy, được đưa sang Mỹ và sau đó xin lưu trú) nhưng với sức mạnh của tình yêu đã vượt qua vòng cương tỏa đó. Cuối cùng khi Jenny sang Paris, tiếp tục theo học cao học về âm nhạc nhưng không may bị bệnh hoại huyết (leukemia) không có tiền chữa trị. Oliver ở Hoa Kỳ linh cảm điều gì không may xảy ra cho người yêu nên sang Paris, nhưng Jenny từ chối việc nhờ vả bên gia đình chồng và chỉ cần được sống những ngày cuối đời bên nhau.

Khi ông Barett, cha của Ollier biết được hoàn cảnh bệnh tình của Jenny và con trai xin tiền chữa trị cho vợ, ông mang theo số tiền lớn cho con, nhưng đã muộn.

Tại bệnh viện, Oliver gặp cha, cho biết “Jenny chết rồi!”. Ông Barett tỏ lời ân hận, nhưng đã muộn!. Bóng tối phủ kín!. (Nếu) Jenny được cứu sống thì không có 3 tác phẩm (truyện, phim và ca khúc) để lại cho đời. Trước đó chuyện tình Lan và Điệp trong tác phẩm Tắt Lửa Lòng của nhà văn Nguyễn Công Hoan (1933), với ca khúc của các nhạc sĩ Lê Dinh, Minh Kỳ và Anh Bằng. Và, tuồng cải lương làm đẫm lệ. Hay chuyện tình Lương Sơn Bá, Chúc Anh Đài vào thế kỷ thứ tư đời Đông Tấn với tuồng cải lương buồn da diết.

Thấm thoát đã gần sáu thập niên, lúc đó ở phố cổ Hội An, người bạn thân với tôi đang có mối tình rất đẹp với cô nữ sinh học dưới hai lớp, khi anh khoác áo chiến y thì gia đình ngăn cấm không muốn con gái sớm chít khăn tang, cuộc tình tan vỡ! Anh tình nguyện phục vụ trong đơn vị tác chiến ở núi rừng Tây nguyên, nơi đó sống chết với đồng đội cho bớt cô đơn “Nhưng không chết người trai khói lửa. Mà chết người em nhỏ hậu phương” (Chuyện Hoa Sim – Anh Bằng). Thời gian trôi qua với bao thăng trầm nhưng “cái thuở ban đầu” đó vẫn “Ngàn năm hồ dễ mấy ai quên” (Thế Lữ). “Aimer c’est mourir un peu!.. C’est la vie”.

Nay quý cụ, tuổi già thường mất ngủ, trằn trọc làm gì cho khổ tâm, lấy iPhone, vào YouTube, hoài cố nhân với Love Story “Cố nhân xa rồi, có ai về lối xưa” (Hoài Cảm – Cung Tiến) và cho giấc mơ “lơ lửng với nghìn xưa”.

Little Saigon Aug 2023

Vương Trùng Dương

(Đặc San Lâm Viên)

Nghe nhạc phẩm Love Story với tiếng Violin và Piano:

Nhiệm Mầu-Truyện ngắn

Trong thế chiến thứ hai, người đàn ông tên Martin Wall là một tù nhân chiến tranh bị giam tại trại tù binh ở Siberia, từ đó anh phải rời xa quê hương Ukraina, bỏ lại người vợ Anna và cậu con trai Jacob của mình. Martin và gia đình mỗi người một phương, bặt vô âm tín, thậm chí sau khi anh bị bắt một thời gian, đến cả việc người vợ Anna sinh thêm một đứa con gái tên là Sonia mà anh cũng không hề hay biết.

Vài năm sau, Martin được trả tự do, lúc này anh kiệt quệ cả về thể chất lẫn tinh thần, nhìn vẻ bề ngoài của anh lúc bấy giờ như một ông già lọm khọm. Không những vậy, trên tay và chân của anh còn lưu lại nhiều vết sẹo, điều khiến anh đau lòng hơn nữa, là anh không còn khả năng sinh con.

Sau khi được ra tù, chuyện đầu tiên mà Martin làm là tìm kiếm vợ con mình. Cuối cùng, anh cũng nghe ngóng được tin tức của họ từ hội Chữ Thập Đỏ, người ta nói rằng vợ con anh đã chết trên đường đi tới Siberia. Martin đau khổ tột cùng và anh vẫn không hay hề biết rằng mình còn có một cô con gái trên thế gian này.

Thật ra, không lâu sau khi Martin bị bắt, Anna đã may mắn đưa được con trai Jacob chạy trốn đến nước Đức. Cô gặp được một đôi vợ chồng nông dân tốt bụng tại đó, đôi vợ chồng này đã cho mẹ con cô ở lại. Vì vậy, Anna sống yên ổn tại đó, đồng thời cô cũng giúp họ làm việc đồng áng và dọn dẹp nhà cửa. Cũng vào thời gian này, cô sinh đứa con gái Sonia. Anna tin rằng, chỉ cần Martin còn sống, họ nhất định sẽ trùng phùng, nhất định có thể tạo lập một cuộc sống mới. Nhưng, cuộc đời vốn không ai có thể biết trước. Vài năm sau đó, cuộc chiến tranh tàn khốc đã đưa nước Đức đến bờ vực của sự thất bại. Anna và con tin rằng sẽ có cơ hội để đoàn tụ với Martin.

Tuy nhiên, điều họ không ngờ là, Hồng quân Liên Xô đã tập trung những người dân di cư như họ lại, đưa họ lên một con tàu đông đúc như tàu chở súc vật, nói rằng sẽ đưa họ về nhà, nhưng thực chất là đưa họ đến trại tập trung đầy chết chóc ở Siberia.

Sau khi biết chuyện, hi vọng của Anna vụt tắt, cô cảm thấy tuyệt vọng, rồi sinh bệnh nặng. Cô biết mình không thể sống được bao lâu nữa, chỉ ngày qua ngày cầu nguyện: “Cầu xin ông trời, hãy phù hộ cho hai đứa trẻ bất hạnh của con!”. Một ngày nọ, Anna gọi Jacob đến bên cạnh và nói: “Con trai của mẹ, mẹ bệnh nặng lắm rồi, có lẽ không sống được bao lâu nữa. Mẹ sẽ ở trên trời phù hộ các con. Jacob, con phải hứa với mẹ, không bao giờ được bỏ rơi em gái Sonia”.

Sáng sớm hôm sau, Anna qua đời. Người ta đem thi thể của cô chất lên xe hàng và chở đến một khu nghĩa địa đầy rẫy những ngôi mộ vô danh. Còn hai đứa trẻ thì bị đem lên tàu hỏa, đưa đến một cô nhi viện gần đó.
Về phần Martin, người đang chìm đắm trong tuyệt vọng, lúc này đang làm việc như cỗ máy trong một nông trang. Một buổi sáng, Martin gặp Greta, một cô gái làm cùng nông trang với anh. Greta luôn mỉm cười để ý đến anh. Martin không ngờ rằng, cô gái luôn lạc quan yêu đời, thông minh lanh lợi này lại là bạn học ngày xưa của mình. Bôn ba nhiều nơi, trải qua bao biến cố thăng trầm, mà họ lại có thể gặp nhau ở đây, cả hai đều cảm thấy đúng là duyên phận.

Chẳng bao lâu sau, họ tổ chức hôn lễ. Martin cảm thấy cuộc sống của mình tìm lại được ánh mặt trời, cuộc sống lại trở nên có ý nghĩa. Greta cũng cảm thấy vô cùng hạnh phúc. Nhưng cô luôn mong mỏi có một đứa con để yêu thương, chăm sóc.

Đến một ngày, Greta nói với chồng: “Martin, có nhiều đứa trẻ trong cô nhi viện, chúng ta hãy nhận một đứa về nuôi có được không?”. Martin phản bác: “Greta, sao em lại có ý nghĩ như vậy, anh không thể chịu thêm bất cứ sự đả kích nào nữa, em có hiểu không?”. Greta vô cùng buồn bã.

Nhưng cuối cùng mong muốn mãnh liệt được trở thành một người mẹ của cô đã thuyết phục được Martin. Vào một buổi sáng, Martin nói với Greta: “Em hãy đến cô nhi viện nhận nuôi một đứa trẻ đi”. Greta vui mừng khôn xiết, cô lập tức lên tàu đi đến cô nhi viện.

Greta bước trên hành lang tối tăm của cô nhi viện, nhìn về phía lũ trẻ đang xếp thành hàng, chăm chú quan sát, cân nhắc. Nhìn thấy những khuôn mặt trầm mặc, những ánh mắt cầu xin của lũ trẻ, Greta chỉ muốn mở rộng vòng tay ôm lấy tất cả chúng vào lòng và đưa về nhà. Nhưng cô biết rằng, điều đó là không thể.

Đúng vào lúc này, có một đứa trẻ cười thẹn thùng bước về phía cô. Greta quỳ xuống, xoa đầu đứa trẻ: “Cháu à, cháu có đồng ý đi theo cô không? Đến một nơi có cả cha lẫn mẹ?”.

“Đương nhiên cháu đồng ý, nhưng cô đợi chút, cháu đi gọi anh trai. Chúng cháu phải đi cùng nhau, cháu không thể bỏ lại anh trai mình được”.

Greta cảm thấy vô cùng băn khoăn, bất lực lắc đầu: “Nhưng cháu à, cô chỉ có thể đưa một mình cháu đi thôi”. “Không, cháu muốn đi cùng anh trai mình. Trước đây chúng cháu cũng có mẹ, khi mẹ qua đời đã dặn anh trai không được bỏ rơi cháu”.

Lúc này, Greta cảm thấy bản thân không muốn chọn bất kì đứa trẻ nào khác, bởi vì đứa trẻ trước mặt cô vô cùng đáng yêu, đã thu hút toàn bộ sự chú ý của cô. Tuy nhiên, cô nghĩ rằng mình phải về thương lượng lại với Martin.
Khi về đến nhà, Greta lại khẩn cầu Martin: “Martin, có một chuyện em muốn thương lượng với anh. Em phải nhận nuôi hai đứa trẻ, bởi vì đứa trẻ mà em chọn có một người anh trai, nó không thể rời bỏ anh trai của mình. Em mong anh đồng ý nhận nuôi đứa trẻ này được không?”

“Greta, vậy sao em không chọn đứa trẻ khác, mà lại nhất quyết là bé gái này? Theo anh thấy thì tốt nhất đừng chọn đứa nào cả”.

Lời nói của Martin khiến Greta vô cùng đau lòng, cô thậm chí còn không muốn đến cô nhi viện nữa. Nhìn thấy bộ dạng buồn bã của Greta, trong lòng anh chợt trào dâng niềm thương cảm. Tình yêu rốt cuộc lại giành chiến thắng.

Lần này, Martin và Greta cùng đi đến cô nhi viện, Martin cũng muốn gặp đứa bé gái đó. Đứa bé gái ra ngoài hành lang tiếp đón họ, lần này, cô bé nắm chặt tay cậu bé đi cùng. Đó là một cậu bé gầy gò, trông rất yếu ớt, nhưng đôi mắt của cậu bé lại ngập tràn sự dịu dàng và lương thiện. Lúc này, cô bé mở to đôi mắt sáng, nhẹ nhàng hỏi Greta: “Cô đến đón chúng cháu phải không?”

Greta chưa kịp trả lời, thì cậu bé đứng bên cạnh đã mở lời: “Cháu đã đồng ý với mẹ là sẽ không bao giờ bỏ rơi em gái. Khi mẹ cháu mất, cháu đã hứa như vậy. Vậy nên, đáng tiếc là em gái cháu không thể đi cùng với hai người”.

Martin âm thầm quan sát hai đứa trẻ vừa đáng yêu lại đáng thương này. Một lát sau, anh tuyên bố đầy quả quyết: “Chúng tôi nhận cả hai đứa trẻ này”. Martin đã bị cậu bé gầy gò ốm yếu trước mắt lay động bởi tình yêu thương của mình dành cho em gái.

Vậy là Greta đưa hai anh em đi thu dọn quần áo, Martin đến văn phòng làm thủ tục nhận nuôi. Sau khi Greta thu dọn đồ đạc, đưa hai đứa trẻ đến văn phòng, liền thấy Martin bần thần lúng túng đứng ở đó. Gương mặt trắng bệch, đôi tay run rẩy, dường như không dám kí vào thủ tục nhận nuôi.

Greta sợ hãi hỏi: “Martin! Anh làm sao vậy? Martin?”

“Greta, em nhìn những cái tên này xem!”. Greta nhận lấy tờ thủ tục nhận nuôi có ghi tên hai đứa trẻ: “Jacob Wall; Sonia Wall, Mẹ: Anna (Bartel) Wall; Cha: Martin Wall”.

“Em có biết không Greta, hai đứa trẻ này là con ruột của anh! Một là đứa con trai mà anh tưởng rằng đã chết từ lâu, một là đứa con gái mà anh chưa từng gặp mặt!”

Martin xúc động đến nỗi nước mắt nhạt nhoà, anh vừa nói vừa quỳ xuống, ôm chặt hai đứa trẻ vào lòng, anh xúc động thốt lên: “Kỳ tích, thật là kỳ tích! Ôi! Cảm ơn trời đất đã phù hộ chúng con. Greta, nếu như không phải em đã thỉnh cầu anh nhận nuôi chúng, nếu như không có trái tim nhân ái của em, có lẽ anh đã không thể gặp được kỳ tích này rồi”.

Sự thiện lương của Martin, lòng nhân ái của Greta và lời hứa đầy trách nhiệm của cậu bé Jacob, tất cả đã tạo nên một kỳ tích. Hạnh phúc thực sự luôn tồn tại, chỉ cần bạn biết tin tưởng và sống đúng với con người thật của chính mình, phép màu của số phận có thể sẽ đến với bạn trong tương lai.

From: NguyenNThu

Hàng xóm-Truyện ngắn

Ngày 29 tháng Tư- 2023 đọc tin một anh chàng Texas sang nhà hàng xóm bên cạnh bắn chết 5 mạng vì “tội” họ đã  phàn nàn với anh ta bắn súng ở sân sau làm ồn khi con họ đang ngủ.

Vụ này tôi giật mình vì cũng có trường hợp tương tự nhưng may mắn hơn những nạn nhân này.

Hồi tôi mới dọn đến căn nhà đầu tiên, hàng xóm bên cạnh nuôi một con chó to lớn, mỗi lần thấy tôi ra vườn sau nó chồm chân lên hàng rào thấp ( loại mắt cáo bằng kim loại) vừa sủa vừa như muốn nhảy sang ăn tươi nuốt sống tôi làm tôi hết hồn và ngại không dám ra sân sau vì sợ chó. Vợ chồng tôi hậm hực bàn tính phải sang nói chuyện với chủ nhà để họ xích con chó lại kẻo có ngày mình thành nạn nhân của con chó dữ tợn này. Ngay như sân trước nhà tôi chưa kịp cắt khi cỏ hơi cao thì ông hàng xóm đối diện đã sang nhà nhắc nhở kẻo ảnh hưởng đến cảnh quan nhà ông ta và khu phố. Tôi đã vui vẻ cám ơn ông và hôm sau sân cỏ được cắt gọn gàng sạch sẽ, thì nay tôi cũng có quyền sang nhắc nhở hàng xóm nuôi chó kia chứ. Ở xứ Mỹ dân chủ này ai cũng có quyền phát biểu ý kiến, cả với tổng thống nói chi với hàng xóm quèn. Tôi nghĩ thế và hăm hở đợi dịp sang “phàn nàn” nhà hàng xóm.

Chiều hôm sau tôi nghe thấy tiếng ông Mỹ đang lao xao ở sân sau nhà ông, thế là tôi liền mở cửa ra vườn sau nhà mình, chuẩn bị tuôn ra hết những bực dọc lo âu bấy lâu. Tôi hăng hái tiến về phía hàng rào thì thấy ông Mỹ to con mặc áo thun sát nách, hai cánh tay ông ta xăm trổ đầy những hình thù quái dị, tay cầm ly bia uống dở mặt đỏ gay và bà vợ ngồi bên cạnh, gương mặt thuộc loại “bà chằn” đang hút thuốc lá phì phèo, chắc họ đang ăn nhậu và tôi là người phá đám cuộc vui của họ. Ông ta ngạc nhiên thấy tôi đến gần hàng rào và nhìn tôi bằng đôi mắt đỏ ngầu như thách thức tôi lên tiếng, con chó to lớn của họ đủng đỉnh đi qua đi lại như…dằn mặt tôi, nhưng dù con chó  to cao dữ dằn bao nhiêu chắc cũng… thua ông chủ. Bức tranh toàn cảnh gia đình ông Mỹ hàng xóm làm tôi phát… ớn,  những bực bội khó chịu trong tôi bấy lâu bỗng tan biến mất. Tôi khép nép líu ríu mỉm cười và… lễ phép:

– Xin chào… chào… ông bà.

Ông Mỹ hất hàm hỏi:

– Bạn có vẻ như muốn nói điều gì ?

Tôi… hiền dịu trả lời:

– Từ ngày gia đình tôi dọn đến đây tôi chưa gặp ông bà lần nào. Hôm nay tôi chỉ muốn chào ông bà một tiếng thôi. Chúc vui vẻ nhé.

Nói xong tôi vội quay vào nhà. Từ đó tôi không dám mơ ước khiếu nại vụ con chó nữa. Hai vợ chồng tôi bàn tính khi nào có tiền sẽ thay hàng rào khác cao hơn, an toàn hơn để không sứt mẻ tình hàng xóm.

Nhờ…sợ hàng xóm mà yên chuyện, nếu không biết đâu tôi cũng lãnh mấy viên đạn như vụ kia rồi.

“Tránh voi chẳng xấu mặt nào”, ông bà ta đã dạy thế. Là hàng xóm với nhau, mỗi người một chút chịu đựng, một chút hiểu chuyện thì cuộc sống an vui biết bao.

Hàng xóm ở Việt Nam tôi từng sống và lớn lên thật hiền hòa thân thiện, vì người ta sống lâu dài ở một địa chỉ, một khu xóm, có khi từ đời ông bà cha mẹ cho tới đời con cháu nên tình hàng xóm càng ngày càng gần gũi thân thuộc, đúng với câu “Tắt lửa tối đèn có nhau”. Ðầu trên xóm dưới đều là quen biết, người ta biết rõ ngọn nguồn gia cảnh của nhau, sang nhà hàng xóm mượn con dao, cái búa, cái thang hay mượn lon gạo, xin chén nước mắm khi nhỡ nhàng là chuyện thường tình. Có những anh hàng xóm, cô hàng xóm thuở nào còn làm ta nhớ mãi. Dĩ nhiên cũng có những hàng xóm không ưa nhau, bất hòa cãi vã nhưng không động chút là chém giết nhau.

Hàng xóm ở Mỹ thì ngược lại, may ra ta chỉ biết tên quen mặt vài nhà bên cạnh, họ không tình cảm như hàng xóm ở Việt Nam, có lẽ vì cuộc sống riêng tư khép kín của mỗi nhà, vì họ hay di chuyển dọn nhà đi, vì do khác màu da, khác ngôn ngữ nên chỉ có xã giao bề ngoài. Bởi thế thấy hàng xóm Mỹ luôn mỉm cười chào hỏi ta đừng vội mừng nhé. Gia đình chị Linh bạn tôi khi mới dọn đến căn nhà vừa mua, chị hàng xóm người Mỹ bên cạnh đã ân cần bước sang nhà với một hộp bánh cookie và lời chúc mừng hàng xóm mới. Chị Linh cảm động lắm. Thế rồi sau một thời gian quen biết nhau hơn, có dịp chuyện trò nhiều hơn chị Linh tưởng như gặp người tri kỷ, cao hứng và có cả chân tình kể cho chị hàng xóm Mỹ nghe nào căn nhà này vợ chồng chị mua tiền mặt, chỉ tốn vài trăm tiền ký giấy tờ là dọn vào ngay, nào chồng chị là kỹ sư lâu năm của hãng máy bay, nào con gái chị đang là sinh viên y khoa năm cuối, Linh kể tới đâu thì chị Mỹ kêu lên thán phục tới đó: ”Wow…very good”, “Wow, wonderful”.

 Thế mà tình hàng xóm đang nồng ấm bỗng hóa ra “hận thù” vợ chồng nhà Mỹ lạnh lùng ra mặt và thay đổi thái độ, bắt bẻ, khó dễ nhà hàng xóm Việt đủ điều. Vợ chồng Linh chán ngán đã nghĩ đến chuyện bán nhà đi nơi khác, may quá Linh chưa kịp thực hiện rao bán nhà thì gia đình nhà Mỹ đã …âm thầm dọn đi mất tiêu. Ít hôm sau thấy căn nhà của họ đã dán giấy “ foreclosed”. Họ trả nợ mortgage không nổi nên nhà bank lấy nhà. Biết đâu cả ti vi tủ lạnh, bộ sofa trong nhà cũng …toàn đồ trả góp? Thì làm sao họ vui vẻ cho được với nhà Châu Á di dân tị nạn trên đất nước họ đã thành công thế kia. Linh đã học được một bài học vô cùng quý giá.

Sống ở đâu phải theo nếp sống nơi ấy. Tôi chỉ muốn là một hàng xóm bình thường và dễ chịu của họ.

Tôi đã bán căn nhà trước và ở căn nhà hiện nay với vài kinh nghiệm về tình hàng xóm.

Một buổi chiều ngày lễ Tạ Ơn vợ chồng tôi đã trễ giờ hẹn, vội vàng mang món ăn ra xe để tới nhà người em, vừa lùi xe xuống đường thì một bà hàng xóm cách nhà tôi mấy căn chạy đến chặn xe lại nhờ vả. Có lẽ bà đứng ngoài sân nãy giờ chờ gặp ai thì nhờ người đó, bà làm mất cái cell phone đang tìm không ra nhờ tôi đến nhà giúp. Tôi thật sự đang nôn nóng tới nhà người em vì mọi người đang chờ nhưng chỉ vài giây suy nghĩ tôi quyết định xuống xe đi bộ theo bà vào nhà, lấy cell phone của tôi ra bấm số cell phone của bà, tiếng phôn của bà reo lên và bà đã tìm ra nó, bà cám ơn tôi rối rít. Thôi thì đằng nào cũng trễ giờ, cũng đến bữa tiệc muộn mà giúp được hàng xóm cũng vui, lòng khỏi áy náy.

Nhà tôi nằm đối diện ngay góc cua quẹo trái. Ðịa thế đẹp sáng sủa cho lũ trẻ bước vào xin kẹo mùa Halloween, bởi thế Halloween nào nhà tôi cũng sáng đèn cho trẻ đến nhà, hao kẹo nhưng vui người vui mình.

Tôi thích trồng hoa lá trước sân nhà, từ mùa Xuân cho tới tàn Thu có hoa Hồng, hoa Sứ, hoa Crepe Myrtle thay nhau nở hoa. Trước cửa nhà có thùng thư chung của dãy phố, ai đến lấy thư sẽ được ngắm hoa lá sân trước nhà tôi nở đẹp theo mùa. Không biết hàng xóm có ý nghĩ ấy không? Nhưng tôi vẫn cứ vui và tin rằng tôi trồng hoa làm đẹp nhà mình và làm đẹp lòng hàng xóm trong phút giây họ ra lấy thư.

Căn nhà đối diện nhà tôi là gia đình người Mỹ trẻ tuổi họ mới đến thuê căn nhà, khi bên này bên kia thấy mặt nhau họ đều giơ tay chào lịch sự. Họ cắt cỏ sạch sẽ làm đẹp một góc phố, thùng rác và thùng recycle tới ngày đổ họ mang ra để phía trước gọn gàng trước khi rời nhà đi làm. Một hôm trời đầy gió, thùng recycle sau khi đổ xong đã lăn lóc ra ngoài đường và gió lôi đi xa, tôi đã chạy theo kéo thùng recycle để ngay ngắn trở lại trên sidewalk nhà họ, vừa giúp nhà hàng xóm vừa…giúp đời, không còn vật cản trên đường cho xe cộ đi qua an toàn. Chẳng ai nhìn thấy, chẳng ai hay biết, chỉ có chồng tôi biết và khen “Hoan hô bà hàng xóm tốt bụng ”.

Nhà hàng xóm bên trái là một người mẹ độc thân với hai đứa con, thỉnh thoảng họ đi vacation đều qua nói với tôi một tiếng nhờ trông nhà giùm, tôi cảm thấy ấm áp lòng khi được hàng xóm tin tưởng…giao việc trông nhà giùm họ.

Nhà hàng xóm bên phải là gia đình người Mễ cũng trẻ tuổi ( Vậy là có mình gia đình tôi…già cả nhất góc đường này) Nhà Mễ làm phiền tôi nhiều nhất.

Gia đình Mễ đông người, ngoài mấy đứa con còn có cha mẹ già, đã thế họ còn giữ trẻ kiếm thêm thu nhập, mỗi lúc mấy bà mấy cô đồng hương Mễ của họ mang con tới gởi và đón con về là xe đậu tràn lan sang cả lề đường nhà tôi và nhà đối diện. Có lần tôi lùi xe từ sân nhà mình để xuống đường, ngó phía sau bên phải, bên trái và đối diện bên kia đều có xe đậu lề đường quây lại thành một hình chữ U làm tôi de xe vất vả khó khăn chỉ sợ đụng chạm xe họ. Tôi hồi hộp lo lắng nhưng khi chị Mễ bên cạnh lơn tơn ra sân thấy tôi de xe nhúc nhích từng chút một chị ái ngại hỏi “Are you OK ?” tôi cũng ráng nở nụ cười trả lời ngon lành: “Ok No problem”. Vẫn còn bản tính người Việt Nam khách sáo nhún nhường để làm vừa lòng người khác, thay vì “mặt sưng sỉa lên” nói thẳng nói thật lòng mình rằng:” Tôi chán cảnh đậu xe của khách khứa nhà chị lắm rồi”.

Thoát ra khỏi vụ de xe tôi sung sướng chạy thong dong trên đường tới chợ và hy vọng rằng lúc quay về nhà thì xe hàng xóm Mễ cũng đã “di tản” bớt, trả lại không gian lòng lề đường nhà tôi cho tôi dễ dàng lái xe lên drive way an toàn.

Nhà Mễ này lại có máu văn nghệ nữa cơ, qua khe hở hàng rào sân sau tôi thấy trong cái patio rộng là dàn trống to như một ban nhạc. Thỉnh thoảng họ tụ tập bạn bè ăn uống và ca hát đàn trống rộn ràng tới khuya. Căn phòng ngủ của tôi “vô phước” nằm gần ngay hàng rào nên tôi phải thưởng thức nhạc ngoài mong muốn, có hôm âm nhạc ru hồn tôi lạc vào giấc ngủ muộn, có hôm tôi lơ mơ ngủ nửa thức nửa tỉnh.

Những ngày cuối tuần tôi thường tha hồ thức khuya dậy muộn, nhưng có buổi sáng sớm tôi đang say ngủ bỗng choàng tỉnh giấc vì tiếng máy cắt cỏ giòn giã vang lên. Thì ra anh Mễ hàng xóm đang cắt cỏ khi mới 8 giờ sáng. Chắc anh ta muốn cắt cỏ giờ này cho mát mẻ vì trời Texas mùa hè nóng sớm mà vô tình phá hủy giấc ngủ ngon trớn của tôi.

Chưa bao giờ tôi có ý nghĩ sẽ sang nhà hàng xóm Mễ “phàn nàn” họ làm ầm ĩ khiến tôi mất ngủ cả. Vụ con chó dữ trước kia tôi còn chào thua thì vụ thỉnh thoảng mất ngủ chỉ là chuyện nhỏ.

Ngoài nhà anh Mễ, thêm một hàng xóm mà tôi chưa biết mặt bao giờ cũng góp phần làm tôi mất ngủ.

Ðằng sau vườn nhà tôi là một khu apartment, chỉ cách nhau một hàng rào, có đêm tôi nghe ai đó to tiếng cãi vã, đêm vắng lặng nên những âm thanh dữ dội vọng sang càng rõ, có vẻ như hai vợ chồng cãi nhau, họ lôi nhau chạy ra ngoài chửi bới nhau cả khu xóm cùng nghe.

Nhưng dù nhà Mễ bên cạnh chơi nhạc tới khuya hay bên kia apartment người ta cãi nhau nửa đêm về sáng thì hàng xóm làm tôi mất ngủ vẫn ít hơn …chính tôi làm tôi mất ngủ, trằn trọc thao thức chỉ vì một câu văn chưa vừa ý hay một câu thơ chưa tròn.

Hàng xóm của tôi dù là màu da nào, dù họ là ai, dưới mắt tôi họ vẫn là những hàng xóm dễ thương cho tôi thêm niềm vui trong cuộc sống này.

NTTD

From: Tu-Phung

Chuyện nhà, chuyện người

Bác Lộc (Giao Chỉ) có Vài hàng gửi cháu Nam và Yến.

1)Bác hiện bắt đầu sống trong giai đoạn bác gái 87 tuổi mở đầu bước vào bệnh Alzheimer. Hoàn toàn không nhớ chuyện thông thường. Luôn luôn hỏi bác mọi chuyện. Nói xong là quên ngay. Suy nghĩ sai lầm vì bộ óc như máy điện tử bị hư. Bác Lộc trai bắt buộc phải cố gắng học tập để trở thành người chồng tốt nhất thế giới. Tuyệt đối không làm bà xã buồn. Bác Lộc tuyệt đối không nói KHÔNG với bà xã. Và nói dối liên tục. Em thích ông Trâm, anh cũng thích ông Trâm. Em thích ông Bai, anh cũng thích ông Bai.

2)Bác đã theo dõi bệnh của anh Phạm Phú Nam. Bị Cancer ai cũng nghĩ rằng Nam không qua khỏi. Nhưng sống đến ngày nay quả nhiên là phép lạ. Cancer với Alzheimer là chỗ quen biết. Chúng nó rủ nhau đến thăm bệnh nhân. Nhưng rồi ai cũng sẽ có ngày cuối cùng. Trong thời gian qua bộ máy điện tử xuất sắc của Phạm Phú Nam đã bắt đầu sinh chuyện. Tất cả mọi ý kiến của Nam về việc tổ chức bác đều chiều theo nhưng thực sự đã đến lúc Nam phải nghỉ ngơi. Người duy nhất trên thế giới này phải hoàn toàn thay đổi để giúp Nam là cô Yến. Người vợ. Tuyệt đối không tranh cãi, không đóng góp ý kiến. Hãy trở thành người khác. Không quan tâm đến thiên hạ sự. Không quan tâm đến bất cứ chuyện bên ngoài. Chỉ cố giữ cho người chồng lý tưởng vui vẻ, dù bất cứ hoàn cảnh nào. Tất cả mọi người đều công nhân Nam là người gương mẫu và lương thiện. Nam được mọi người yêu quý và đang cần cháu Yến trông nom săn sóc. Không cần quan tâm đến chuyện phải trái đúng hay sai. Tất cả đều cố gắng là làm cho Nam vui vẻ. Tuyệt đối không nhắc chuyện không cần thiết. Giữ cho chính mình thanh thản và truyền cho người thân sự bình yên. Phật dạy rằng hãy Buông mọi nỗi ưu phiền của cuộc đời. Chúa dạy rằng Lỗi tại ta mọi đường.

Bác Lộc xin gửi bài viết về ông bà Nguyễn Đình Tạo cho cháu đọc.

Thiên hạ đón người về, đây là chuyện người vợ ngồi chờ chồng ra đi.

Bác Lộc vừa đi thăm bạn cùng khóa là bác Nguyễn đình Tạo.

Hình ảnh đẹp đẽ nhất là bác Tạo nằm trên ghế dài như bộ xương khô 90 tuổi. Bác Tạo gái còn trẻ ngoài 70 ngồi vuốt nhưng sợi tóc thưa cho chồng. Chị ngồi chờ mấy hôm nay cho đến giây phút anh đi. Thực sự ông Tạo đã không còn nhận ra ai từ 2 năm qua. Bệnh Alzheimer. Sống là xác thực nhưng hồn thiêng đã phiêu du cõi ngoài. Nguyễn Đình Tạo bỏ đất Bắc ra đi từ Hà Nội ngày 1 tháng 3 năm 1954. Vào Đà Lạt học võ bị với 300 anh em Bắc kỳ 20 tuổi. Hiệp định Geneve chia đôi đất nước. Bạn cùng khóa nhiều người đón được gia đình di cư. Anh Tạo hoàn toàn mất liên lạc và tiếp tục cô đơn theo đời lính. Lập gia đình có thêm con và sự nghiệp cuối là trung tá quận trưởng 75 đã ở lại đi tù cộng sản 9 năm. Khi được tự do, ông quận trưởng ngày xưa gặp vợ cũ đã có gia đình mới nên đành chia tay. Nguyễn đình Tạo chỉ còn duy nhất một con đường vượt biên.  Ông đem theo cậu con trai gan dạ ngon lành nhất đi đường bộ qua Cam Bốt. Bao nhiêu gian nan vất vả nhưng không thành công. May mắn bố con còn quay về được. Lại tìm đi đường biển.  Bố đi trước.Thằng con gan dạ hơi teo nên tạm chờ. Ông Tạo qua Mỹ nhưng mất thằng con yêu quý và gan dạ. Thấy bố đi êm, nó bèn lên đường. Cháu ở lại biển Đông. Ông Tạo làm thợ giặt ủi và đi bỏ báo để sống mà tìm con. Con ông sẽ không bao giờ tìm thấy những ông tìm được có vợ mới. Ngày xưa ở Đà Lạt có quen cô gái trẻ, ai mà biết được bây giờ nàng cũng đã có gia đình tan vỡ nhưng lại độc thân tại chỗ ở San Jose. Anh Tạo trở thành nhà thơ Đông Anh làm phụ tá giám đốc IRCC và làm thơ tán tỉnh cô Đông Em. Anh em cùng khóa tổ chức đám cưới cho cặp tình Rổ giá cặp lại với thực đơn bánh mì cầm tay. Đám cưới đứng ngồi vui vẻ cùng với ngày họp khóa đoàn viên. Ông Tạo nhận thêm hội Văn Thơ Lạc Việt đang tạm thời nghỉ mát. Ông gầy dựng cho sống lại huy hoàng. Các bạn tù như Hà Thượng Nhân và nhiều người tham dự. Cô vợ trẻ Đà Lạt tự lực cánh sinh bước từ thợ nail lên bà chủ. Mỗi lần hỏi gia cảnh nàng lại thưa rằng nhà em cứ thơ thẩn suốt ngày, chết em thôi. Ông Tạo vừa làm thơ với 9 năm ngục tù, vừa tiếp tục tìm con chết và làm hồ sơ đoàn tụ tất cả những đứa con sống còn ở Việt Nam. Ông bà mua nhà nhỏ rồi chuyển qua nhà rộng hơn. Khi ông về hưu thì bà vợ trẻ Đà Lạt vẫn trông nom cửa tiệm Nail còn nhiều tương lai. Một hôm mới sáng ra ông trung tá quận trưởng kiêm chỉ huy liên đoàn địa phương quân nhìn cô vợ lên tiếng hỏi rằng: Bà là ai, đến đây có chuyện gì. Em tưởng anh nói đùa hóa ra anh nói thật. Anh chẳng biết em là ai. Có lần đang ngồi bên nhau anh Tạo đứng lên đòi người đưa anh về. Về nhà. Đây không phải nhà mình. Em biết đưa anh về đâu. Chuyện người thân đóng vai khách lạ kéo dài suốt 2 năm. Rồi anh yếu dần. 911 đưa anh đi rồi em lại chở anh về. Tuần qua, nhà thơ Đông Anh được 911 chở đi lần cuối. Vợ chồng bác Lộc vào thăm anh chị Tạo. Ông quận trưởng kiêm chỉ huy địa phương quân anh hùng trên đường đi Đà Lạt nằm như bộ xương khô. Cô vợ trẻ, người tình năm xưa ngồi vuốt những sợi tóc thưa. Hỏi rằng vậy thì sau cùng sống bên nhau ra sao sau một kiếp người. Sao trông cô quá hốc hác mệt mỏi. Em không sao. Chỉ phải thức nhiều canh giây phút anh ra đi. Tiệm Nail ra sao. Phải ở nhà nên giao cho người ta rồi. Tuy anh Tạo không biết nhưng nghĩ rằng em là người quen mặt. Không thấy em anh ấy buồn. Tuy bệnh này hồn lìa khỏi xác. Vậy mà thấy người quen mắt anh Tạo tươi hơn đôi chút. Tôi chợt nhớ câu thơ ai viết.

Thiên hạ bao nhiêu người, sao anh chỉ thấy mình em. Tóc thưa sợi ngắn, sợi dài. Vẫn còn 2 sợi biết mình thương nhau…

Mở máy chợt thấy Elvis Phương dài hơi hát nhạc Lê Hựu Hà Yêu nhau, thương nhau, thương nhau, thương nhau. Giờ này còn yêu đương gì nữa. Chỉ thương nhau thôi. Tóc còn 2 sợi biết mình thương nhau…

Giao Chỉ, San Jose.

From: Tuan Ba Cao & KimBang Nguyen

MÙA XUÂN BÊN KHUNG CỬA -Truyện ngắn

Nguyễn Thị Thêm

Người lính già ngồi nhìn ra khung cửa. Nắng rực rỡ ngoài kia. Những hạt nắng nhảy nhót lung linh.

Ông đưa tay lên gãi đầu. Ông lại cười một mình. Ông biết cái đầu ông bây giờ tức cười lắm. Hôm qua bà vợ già đã đặt cái ghế giữa nhà, kéo ông ngồi xuống và hớt tóc cho ông. Bà đâu phải là thợ, bà cũng chưa hề hành nghề này bao giờ thế mà hôm nay bà ra tay “Đè đầu cưỡi cổ” ông. Ông ngồi yên. Mà ông không ngồi yên cũng không được bởi bà đã choàng cái khăn bà may giống ở tiệm, quấn kín cổ cho ông. Bà cười lỏn lẻn:

– Ông chịu khó ngồi yên nghen. Ông mà cựa quậy lung tung, tôi lỡ tay sẽ biến ông thành sư cọ.

Ông tức cười quá nhưng không dám trả lời. Ông mà mở miệng, nước miếng lại trào ra thành dòng. Thôi thì mặc kệ, bả muốn chơi kiểu nào cũng được. Đời ông từ lâu đã giao phó cho con gà mái dầu dễ thương này rồi.

Bà vừa hớt vừa xoay trở, bờ ngực đè lên vai ông cọ qua cọ lại nhiều lần. Ông cũng thấy xuân tình nổi lên, nếu mà ngày xưa bà sẽ chết dưới tay ông. Nhưng cũng nhưng mắc dịch, cái tông đơ đã lâu không sử dụng nó nghiến cái tóc ông đau từng hồi. Ông tự nhủ: “Thây kệ! ráng chịu đau, la lên lại chảy nước miếng”. Cái máy rè rè, bà nghiêng bên này, nghiêng bên kia, lúc dùng lược lúc dùng dao cạo, sửa tới sửa lui. Ông rọ rạy khó chịu. Bà nhét tay ông vào trong khăn dỗ dành:

– Ráng chút nữa, tui sẽ biểu bầy nhỏ mua cái máy khác. Máy mới nó đi ngọt hơn. Đừng! đừng… ông lại rọ rạy, tui dớt bên này sâu hơn rồi nè. Phải sửa lại bên kia cho nó đều. Ông thiệt là…

Một hồi sản phẩm của bà cũng xong, bà đứng ra phía trước nghiêng người ngắm nó ra vẻ hài lòng. Lột khăn choàng ra. Kéo ông đứng dậy bà cười:

– Bi giờ ông giống lính mới tò te nhập quân trường. Thôi đi vào ghế nằm nghỉ ngơi một lát, dọn dẹp xong, tui tắm cho ông.

Vào phòng tắm bà lại lôi máy cạo râu chơi một vòng lả lướt trên mặt ông trước khi lột sạch đồ và đưa ông vào bathtub. Bà lấy cái ghế nhỏ kéo ông ngồi xuống. Bà bước hẳn vào trong, thử nước vừa ấm và cẩn thận gội đầu cho ông. Bà cười giọng reo vui:

– Đại Úy, tóc cắt kiểu này không sai luật quân trường phải không? Tui cắt tóc cũng chiến lắm chứ bộ.

Ông làm thinh nhớ đến quân trường ngày đầu nhập ngũ, nhớ những lần tập huấn:”Quân trường đổ mồ hôi, chiến trường bớt đổ máu” Nhớ cái nhìn sửng sốt lẫn thương cảm của mẹ nhìn thấy con trai cái đầu húi cua và gương mặt sạm nắng.

– Ông nè, hớt tóc ở nhà đỡ cho ông khỏi phải chờ đợi ở tiệm đau cả lưng. Dẫu tui hớt có xấu đi một chút, nhưng già rồi mình đâu có đi đâu mà ngại. Mà ông đừng lo, lần đầu chưa quen tay, tui hớt chưa đều, mai mốt tui lành nghề mấy ông già hàng xóm thấy mê, qua đòi tui hớt và tắm rửa ông đừng có ghen nha.

Ông cố nín cười về câu pha trò của bà, bà cũng kéo ông về thực tại về những lần phải đi hớt tóc ngoài tiệm. Phải rồi, ông nhớ lại mỗi lần đi tiệm hớt tóc, bà vợ ông đã gọi trước lấy hẹn để ông khỏi phải chờ. Nhưng lần nào chú thợ cũng bận hớt một hoặc hai người trước ông. Ông ngồi xuống ghế, bà ngồi ghế kế bên luôn chậm nước miếng và đỡ cho đầu ông không gục xuống. Cái lưng ngồi lâu lại đau thắt cả người. Bà lại dìu ông đứng dậy rồi đỡ ông đi loanh quanh bên ngoài.

Tới phiên ông vào cắt, ông không thể nào ngồi vào cái ghế dễ dàng dù ghế đã hạ thấp xuống hết cỡ. Chú thợ và bà phải nâng ông lên trên ghế và xoay cho ông ngồi ngay ngắn. Cũng tội nghiệp chú thợ, đầu ông cứ ngọ ngoạy và gục xuống vì mỏi cổ. Có khi ông ngủ gục, giật mình một cái khiến chú thợ hết hồn. Cho nên lần nào ông đi hớt tóc bà vợ cũng kè một bên nâng đầu ông lên cho thẳng. Tóc ông hớt bay vào  người bà,  mỗi lần đi tiệm về, tắm ông xong bà cũng phải tắm luôn cho mình.

-Xong rồi. Sạch sẽ, đẹp trai. Mời đại úy bước ra.

Bà lại dìu ông bước ra khỏi bathtub trần truồng như nhộng. Nhìn vào gương ông không khỏi chạnh lòng. Ông già này là ông đó sao? Ông muốn khóc cho mình, cho số phận chua chát của  kiếp người, một người lính già bệnh tật. Hai tay vịn vào bàn ông giang chân hơi rộng ra để bà mang tã. Ông lại đứng yên nhìn mình trong gương. Cảm xúc lúc nãy biến mất dường như ông không quen người này, cái gã lạ mặt cứ nhìn chăm chăm vào ông.

– Giơ chân lên đi ông, chân này trước nè

Bà vỗ vỗ ở chân làm ông giật mình. Ông giơ chân lên để bà mặc quần, hết vỗ chân này bà lại vỗ chân kia, nếu không chân ông cứ dính chặt trên nền không nghe ông sai bảo. Mặc áo cho ông xong xuôi, bà cầm tay ông lên ngắm:

– Móng tay ông đã dài nữa rồi. Thôi sẵn nó mềm tui cắt luôn cho đủ bộ.

Bà dắt tay ông dìu ngồi trên cái bồn toilet đã được đậy nắp lại:

– Đưa tay trái đây ông.

Bàn tay bà nắm lấy tay ông  kéo về phía mình và ngồi xuống tẩn mẩn cắt từng móng tay, móng chân cho ông. Cái đầu bà cúi xuống chăm chỉ.

Chăm chỉ như khi bà mới về làm dâu nhà ông, lau thật kỹ bộ lư đồng bàn thờ. Cô dâu mới miền Nam đôi mắt ngây thơ sợ sệt bước vào gia đình ông. Một gia đình miền Trung cổ hũ, thân phận dâu cả phải lo kỵ giỗ, gia nương mồ mả nhà chồng.

Những móng tay bị cắt kêu tách tách. Ông nhớ những ngày quê nhà, bà hí hoáy bên nồi bánh Tết, lửa trong bếp sáng rực, kêu lách tách như vậy. Giòn giã hơn, vui tươi hơn. Còn bây giờ tiếng kêu như những nhịp đau thương từ trái tim ông reo lên thương cảm. Người vợ 43 năm chung thủy của ông có được gì đâu chớ. Chỉ nhận được từ ông bao nỗi cay đắng truân chuyên. Nước mắt ông ngân ngấn nhưng tay đã bị bà giữ chặt. Bà giữ cuộc đời ông bằng tất cả trái tim của một người vợ lính.

Xoa hai bàn tay lại với nhau, bà cười cười:

-Tất cả sạch sẽ, tươm tất. Đại úy ơi! xin cho tiền típ.

Ông cười, nước miếng lại chảy ra thành dòng. Bà với tay, lấy cái khăn chùi sạch, nhẹ nhàng chọc quê,:

– Thấy gà mái dầu xấu xí thèm gà móng đỏ phải không?.

Rồi bà dìu ông vào phòng, để ông ngồi lên giường, ôm ông xoay người cho ông nằm xuống. Bà kéo chăn đắp lên người ông, nâng giường cho đầu ông vừa tầm. Bà nói:

– Thôi ngủ một giấc cho khỏe đi ông! Tui đi tắm rồi tui xuống nấu cơm.

Và vậy bà đã xuống phòng ăn. Ông nằm im nhìn lên trần nhà buồn vui lẫn lộn. Có ai ngờ cuộc đời ông lại như thế này. Ông thường thấy bạn bè về bên ông tâm tình. Ông thấy thằng bạn trèo lên lợp nhà trong trại Thanh hà bị sét đánh chết. Ông nhìn thấy con rắn đang bò đến bên ông khi hai tay ông đang ôm bó tre thật lớn. Ông thấy bạn, thấy thù. Thấy những cái nón cối, thấy đầu súng kè kè bên hông ông. Ông thấy mình đói, cái đói cồn cào kinh hoàng như tiêu diệt từng tế bào của con người. Cái đói người tù giết mòn ý chí và nghị lực. Cái đói đến từng đêm dù bây giờ ông vẫn ăn no đủ. Những giấc mơ không đầu không đuôi vùi dập ông mỗi đêm. Những hình ảnh bạn bè thân quen đến với ông hàng ngày. Ông chìm vào thế giới đó và mênh mang trong cuộc sống. Đôi khi ông vô tình quên hẳn sự hiện hữu của bà.

Hôm nay, sao ông lại thấy bầu trời đẹp, thấy bà thật dễ thương. thấy thèm một dĩa cà và vã ăn với mắm ruốc hay một tô bún bò huế thật cay nghi ngút khói. Ông nhớ ngày bà ra Huế thăm ông, Ông chở bà bằng xe đạp đi loanh quanh thành nội thăm bà con. Thời kỳ chiến tranh căng thẳng, VC hay pháo kích bất ngờ. Nhưng thây kệ, mấy khi vợ lính ra thăm chồng, mấy khi ông được nghỉ phép đặc biệt. Cuộc sống lính tráng biết sao được ngày mai, hạnh phúc trong tay cứ hưởng. Thế là hai vợ chồng trẻ trên chiếc xe đạp đi khắp nơi. Tình yêu ngọt ngào tưởng như vô tận. Ông lại chép miệng thật thèm, thèm đủ thứ và tưởng chừng như có bà một bên để ông ôm siết bà thật chặt. ” Ôi! cô giáo của riêng ông!”

Ông lại sờ lên đầu. Cái đầu mới hớt của anh lính mới tò te, râu ria nhẵn nhụi. Cả một thời trai trẻ lại về. Ông nhắm mắt lại, nhớ mùa xuân quân trường. Nhớ nụ hôn ngọt mềm: “Em đến thăm anh vào một ngày đẹp nắng…”

Nguyễn Thị Thêm

From: Tu-Phung


 

Chuyện về người phụ nữ Việt lấy chồng thuộc bộ tộc kỳ lạ nhất nước Mỹ

Kimtrong LamLương Văn Can 75.

Chuyện về người phụ nữ Việt lấy chồng thuộc bộ tộc kỳ lạ nhất nước Mỹ

Người phụ nữ Việt kể chuyện lấy chồng thuộc bộ tộc kỳ lạ nhất nước Mỹ. Nguyễn Yến Nhi- Một người phụ nữ Việt chia sẻ, chồng chị xuất thân từ tộc người Amish. Cộng đồng này từ chối các tiện nghi của thế giới hiện đại, không dùng điện, đi xe ngựa và chú trọng phát triển nông nghiệp.

Trước khi kết hôn với người đàn ông Mỹ John Lapp (39 tuổi), chị Nguyễn Yến Nhi (35 tuổi, quê Kiên Giang) chưa từng biết đến chuyện giữa lòng nước Mỹ giàu có và phát triển bậc nhất thế giới có một cộng đồng trung thành với lối sống tối giản, từ chối gần như mọi tiện nghi của nhân loại.

Họ không sử dụng điện, không dùng tivi, không dùng radio, không chụp hình, không dùng pin sạc, không dùng máy tính kết nối mạng. Trong cuộc sống của họ cũng không có sự hiện diện của điện thoại di động.

Cả cộng đồng đi lại chủ yếu bằng xe ngựa, coi nông nghiệp và nghề mộc là nền tảng cơ bản… Họ cho rằng, công nghệ sẽ ảnh hưởng đến văn hóa, khiến các thành viên trong cộng đồng xa cách nhau và bị đồng hóa với bên ngoài.

Những người đặc biệt này thuộc tộc người Amish. Tộc Amish có khoảng 300.000 người sống rải rác ở các bang Pennsylvania, Ohio, Indiana, New York của Mỹ.

Chị Nguyễn Yến Nhi đang sinh sống ở Mỹ.

Bộ tộc Amish xuất hiện ở Mỹ từ thế kỷ 18. Họ có những quy tắc truyền thống nghiêm ngặt được duy trì suốt hàng trăm năm. Người nào làm ngược lại với các quy tắc đó sẽ bị xem là “tội lỗi”.

Chia sẻ về người chồng của mình, chị Yến Nhi cho biết, trước đây, anh John Lapp sống ở bang Pennsylvania, nơi tập trung đông đảo người Amish.

Theo truyền thống của cộng đồng, anh chỉ học hết lớp 9 và đi làm nghề mộc, dựng các ngôi nhà bằng gỗ. Người đàn ông này không được phép lái xe, không sở hữu ô tô. Thi thoảng đi đâu xa, anh được phép sử dụng các phương tiện công cộng.

Vì không dùng điện nên nhà của John Lapp chỉ có các thiết bị chạy bằng gas như bếp gas, tủ lạnh gas. Gia đình anh cũng không có tivi. Anh có máy tính nhưng chiếc máy tính này đã bị lược bỏ hết các thiết bị có thể kết nối mạng.

“Trước đây, gia đình anh không sử dụng điện thoại. Nhưng sau này, để phục vụ cho việc truyền tin, ba bốn gia đình đã lắp một chiếc điện thoại bàn để ở một căn chòi độc lập”, chị Nhi kể.

Xe ngựa là phương tiện di chuyển của người Amish.

Cộng đồng người Amish sinh sống rất đoàn kết và tôn trọng các yếu tố thuộc về tình yêu, gia đình. Tuy nhiên, giữa sự phát triển không ngừng của thế giới hiện đại, nhiều người trẻ Amish đã lựa chọn rời bỏ cộng đồng để trải nghiệm thế giới bên ngoài. “Sau nhiều lần suy nghĩ, tôi cũng đã đưa ra quyết định khó khăn ấy”, John nói.

Năm 2018, người đàn ông này rời bỏ cộng đồng của mình. Điều này đồng nghĩa rằng, mối quan hệ của anh với gia đình và nhà thờ không còn như trước nữa. Anh không được ăn cùng bàn nếu dùng bữa chung, không được tham gia vào những buổi tiệc của gia đình.

Trước đây, theo quy tắc của cộng đồng, anh John chỉ học hết lớp 9. Vì vậy, khi bước chân ra ngoài, người đàn ông này không có bằng cấp, không có nhiều lựa chọn công việc.

“Sau đó, anh xin vào làm ở một công ty về in ấn 3D và máy móc. Anh dần làm quen với các tiện nghi, đi máy bay, du lịch, sử dụng điện thoại di động, máy tính kết nối mạng”, người phụ nữ Việt nói.

Chuyện tình xuyên biên giới của cặp đôi vợ Việt – chồng Amish

Khoảng thời gian này, người đàn ông Mỹ cũng mở rộng các mối quan hệ, giao lưu kết bạn nhiều hơn. Anh được một người bạn Việt Nam giới thiệu làm quen với chị Yến Nhi.

“Khi ấy, tôi đang sống ở Kiên Giang, còn anh sống ở Mỹ. Chúng tôi trò chuyện qua mạng”, chị Yến Nhi nhớ lại.

Thời gian này, chị Yến Nhi đang tham gia một chuyến đi hỗ trợ trẻ em tại Campuchia nên có nhiều chuyện hơn để chia sẻ với John Lapp. Hai người tìm thấy ở nhau sự đồng điệu, niềm tin và cùng có chung mong muốn hỗ trợ những trẻ em có hoàn cảnh khó khăn.

John với những câu chuyện về cộng đồng kỳ lạ Amish càng khiến người phụ nữ Việt cảm thấy tò mò. “Khi quen John, tôi mới biết đến người Amish. Tôi rất bất ngờ khi nghe anh kể về bộ tộc kỳ lạ”, chị Nhi nhớ lại.

Qua cách John chia sẻ, chị Yến Nhi cảm thấy anh luôn day dứt và đã phải suy nghĩ rất nhiều khi đưa ra quyết định rời khỏi cộng đồng. Những tâm sự, nỗi niềm cứ thế khiến họ xích lại gần nhau.

Cả hai trò chuyện, cập nhật hình ảnh thường xuyên cho nhau. Đến một ngày, khi nhận ra, Yến Nhi như một phần tất yếu không thể thiếu với mình, người đàn ông Mỹ quyết định nói lời tỏ tình.

Tháng 2/2019, John đến Việt Nam để gặp gỡ Yến Nhi. Người phụ nữ Việt chưa từng nghĩ mình sẽ yêu và lấy một người ngoại quốc. Trong gia đình, Yến Nhi còn được xem là trụ cột. Tuy nhiên, sự kiên trì và tình cảm chân thành của anh đã khiến chị rung động.

Trong năm 2019, John còn quay lại Việt Nam thêm 4 lần nữa để thăm người yêu. Họ quyết định kết hôn vào đầu năm 2020, sinh sống ở bang Pennsylvania.

Tự xây nhà, làm vườn, sống tự cung tự cấp

Sau một thời gian đi làm ở công ty in ấn, anh John nhận thấy nếu tiếp tục làm công việc này, anh sẽ không có nhiều thời gian dành cho gia đình. Hơn nữa, mức thuế đóng cao khiến anh nghĩ tới việc muốn được làm chủ chính mình.

Nỗi nhớ lối sống xưa khiến người đàn ông Mỹ lên kế hoạch nghỉ việc. Anh tìm một nơi ở mới để xây nhà và thực hiện cuộc sống tự cung tự cấp như cộng đồng mình trước đây.

Tháng 7/2021, vợ chồng chị Yến Nhi mua mảnh đất rộng ở 8ha ở bang Tennessee, thuộc khu vực rừng nguyên sinh cũ, vắng dân cư và rất ít xe cộ qua lại. Nơi đây có thời tiết ít lạnh hơn và mức thuế phải đóng thấp hơn ở bang cũ.

Cả hai tự xây nhà, sử dụng các vật liệu thân thiện môi trường thay vì sử dụng công nghệ xây nhà hiện đại phổ biến tại Mỹ.

Anh John tự xây dựng ngôi nhà bằng gỗ theo kỹ thuật của người Amish.

Thời gian đầu, để có lối vào đất, John phải thuê người đổ một con đường nhỏ từ ngoài đường lớn vào nơi dựng nhà. Đây là một trong những lần ít ỏi họ thuê người khi xây nhà. Tất cả mọi hoạt động xây dựng sau đó đều do người đàn ông Mỹ đảm nhiệm. Anh tự thiết kế, đo đạc, dựng vách, làm mái…

Chị Yến Nhi nhớ lại những tháng đầu vất vả nhất: “John tự đào đất, đào hầm, lái máy phát cây, chặt rễ. Anh ấy cũng tự mua gỗ về cắt và dựng vách. Dù chỉ mới học hết lớp 9 nhưng với kinh nghiệm dựng nhà của người Amish, anh thiết kế được một ngôi nhà 2 tầng rất chắc chắn”.

Anh John tự tay thiết kế ngôi nhà chắc chắn.

Thời điểm cặp vợ chồng Việt – Mỹ xây nhà, John vẫn phải dành khoảng 2/3 thời gian trong tháng đi làm ở bang cũ (cách bang Tennessee 10 giờ di chuyển ô tô – PV) để có tiền trang trải cuộc sống.

Mỗi tháng, họ dành khoảng 7-10 ngày cho việc dựng nhà. Có lần, vì muốn tiết kiệm chi phí, họ dựng lều ngủ tại công trình. Nhưng vì đêm quá lạnh, con trai 10 tháng tuổi lại ốm sốt, nên cả hai sau đó đành phải thuê nhà nghỉ cách đó nửa tiếng đi xe. “Tiền nhà nghỉ, tiền ăn khá tiêu tốn. Đó là một áp lực lớn với vợ chồng”, chị Yến Nhi nói.

Vì anh John không có bằng kỹ sư xây dựng nên trong suốt quá trình thi công, đại diện của giới chức địa phương đã nhiều lần tới kiểm tra về độ an toàn của ngôi nhà. Tất cả các hạng mục từ dựng hầm, làm vách, lợp mái, hệ thống đường điện… đều được nghiệm thu chuyên môn.

Đầu năm 2022, cặp vợ chồng chính thức chuyển vào ngôi nhà mới ở. Ngôi nhà không kết nối được hệ thống nước sạch, cả hai tự đào giếng để lấy nước sinh hoạt. Song, nguồn nước bị phèn không thể sử dụng. Họ nghĩ ra cách mua bồn chứa nước mưa và tận dụng thêm nguồn nước tự nhiên từ suối.

Hoàn thiện ngôi nhà 2 tầng, chị Yến Nhi cùng chồng bắt tay vào khai hoang, làm vườn, trồng các loại cây ăn quả, cây rau. Họ ăn uống đơn giản với những thứ mình tự trồng được.

Chị Nhi tham gia các phiên chợ nông sản đều đặn mỗi tuần.

“Nhiều người hỏi tôi, lấy chồng Mỹ sao phải cực thế?”

Từ sau khi chuyển về nơi ở mới sinh sống, John quyết định nghỉ hẳn việc ở nhà làm nông nghiệp cùng vợ. Vì vẫn lưu giữ tư tưởng của người Amish nên anh muốn dành thời gian cho gia đình và giữ nhiều thói quen của cộng đồng.

Kinh tế gia đình họ chủ yếu dựa vào nông nghiệp theo truyền thống của người Amish. Tính trung bình, họ thu được khoảng 400-800USD/tuần, tùy vào lượng nông sản bán ra.

Ngoài việc lựa chọn lối sống nông nghiệp, cặp vợ chồng Việt – Mỹ còn học các bí quyết bảo quản thực phẩm, rau củ quả theo cách của người Amish để trữ các loại thực phẩm từ 2 đến 3 năm. Họ cũng không sử dụng tivi trong nhà vì cho rằng xem tivi sẽ rất mất thời gian. Cả hai hạn chế đến bệnh viện, chữa bệnh bằng thảo dược.

Thấy con gái lấy chồng Mỹ nhưng lại tự xây nhà, hàng tuần đi chợ bán rau quả kiếm thêm thu nhập, gia đình của chị Nhi ở Việt Nam rất sốc. “Mọi người nói, tưởng lấy chồng Mỹ phải sướng chứ sao lại sống cực như vậy? Nhiều bạn bè cũng hỏi tôi sao phải chọn con đường đó?”, chị Yến Nhi kể.

Chị Yến Nhi thừa nhận, việc chồng xuất thân từ tộc người Amish đã ảnh hưởng không nhỏ đến lối sống của họ. Chính những điều khác thường khiến nhiều người bàn tán. Có người thì lo lắng, thương cô thật lòng, nhưng cũng có người coi rằng, lựa chọn của vợ chồng Nhi là kỳ dị.

Yến Nhi chia sẻ câu chuyện của gia đình qua kênh “Vợ Việt chồng Amis”, nhiều người không khỏi bất ngờ về cuộc sống của cặp đôi.

Trước những lời bàn tán, chị Yến Nhi dường như không bận lòng. Người phụ nữ Việt tâm sự, ban đầu nghe chồng kể, chị cũng có những suy nghĩ không tích cực về tộc người Amish. Nhưng lâu dần, chị lại thấy yêu thích và tôn trọng lối sống của họ. Người Amish luôn đặt tình yêu và sự tha thứ lên hàng đầu. Họ có nhiều thói quen tốt, sống thân thiện với môi trường.

Đặc biệt, những người Amish truyền thống thường không muốn lấy bất cứ thứ gì của người khác nên rất hạn chế nhận trợ cấp. Họ cũng không muốn người khác nghĩ mình là người nghèo. Họ tự lao động và dù khó khăn vẫn nhường phần trợ cấp cho những người không có khả năng lao động.

“Tôi thấy điều này thể hiện rất rõ ở con người John. Nhiều thời điểm khó khăn nhưng chưa khi nào anh nghĩ đến việc sẽ ngồi không nhận sự trợ giúp từ ai đó. Bản thân tôi hoàn toàn hài lòng với cuộc sống hiện tại và cảm thấy rất hạnh phúc”, chị Yến Nhi cho hay.

VietBF@ sưu tập


 

ANH TÔI – (Nguyễn Thị Thái Hòa)

ANH TÔI – (Nguyễn Thị Thái Hòa)

TamAn

Sau ngày mất nước người anh còn lại bị bắt đi “cải tạo”.

Anh tôi cũng như ba tôi trước sau đều phục vụ thuộc tại tiểu đoàn 12 Pháo Binh. Tuy là sĩ quan cấp úy, nhưng không hiểu sao anh tôi lại bị đưa ra Bắc.

Đầu năm 1977 gia đình tôi mới nhận được tin và xin giấy đi thăm nuôi. Gia đình đơn chiếc, nên tôi phải thay Mẹ làm “thân cò” lặn lội ra Bắc tìm anh Hai.

Nói là đi tìm vì thực sự tôi chưa biết đích xác là anh tôi đang ở đâu? Sau tháng tư Đen, trong miền Nam cũng như ngoài Bắc nhà tù CS mọc lên như nấm dại. Có những nhà tù chúng nó dựng lên chưa kịp đặt tên thì những người Lính miền Nam “bị gảy súng” đã đầy ắp và người Tù cũng bị di chuyển liên miên.

Tuy rằng khi nhận tin thân nhân mình ở chổ này, nhưng khi ra tới nơi thì họ đã bị chuyển đi nơi khác nên mỗi khi đi

thăm nuôi mà gặp ngay được người nhà của mình đúng như lời nhắn thì thật là họa hiếm.

Tôi nghe ngóng, lần mò hỏi thăm mười mấy người lối xóm và theo họ đi ra Bắc tìm thăm thân nhân. Ai cũng tay xách nách mang, trên mặt người nào cũng đầy vẻ lo âu mệt mỏi. Phương tiện di chuyển là xe lửa, xe đò nhưng rất khó khăn nên phải mất hơn mười ngày mới ra tới Hà Nội. Chưa ra tới nơi, chưa kịp gặp thân nhân thì những giỏ quà của chúng tôi bị bọn công an dọc đường tịch thu hơn phân nữa. Có người mất sạch!

Trong đoàn người đi tìm thăm thân nhân này có tôi là trẻ nhất, ốm yếu nhất . Hỏi thăm đủ nơi, đủ chổ, có khi mất thêm đôi ba ngày nữa mới tìm tới được nơi nhốt thân nhân của mình. Cũng là may mắn, một số người đi chung tìm được thân nhân của họ tôi thì tìm được nơi anh tôi bị giam giữ là một vùng đất xa tít tuốt trên Cao Bằng, Lạng Sơn.

Tới nơi thì trời đã sẩm tối, đoàn người ngồi chờ trong một cái chòi tranh phía ngoài trại tù . Đâu chừng một giờ sau, một gã công an xuất hiện. Với cái giọng Nghệ An trọ trẹ nặng như đeo đá, gã gọi từng người, trình đủ thứ giấy tờ, hạch hỏi đủ thứ chuyện, rồi đến cái màn lục xét những giỏ đồ thăm nuôi, và sau cùng mới gọi người tù ra.

Tôi sốt ruột vì ai cũng được gọi gặp thân nhân mà tên của anh tôi thì chẳng nghe . Lo âu, mệt & đói, làm hai mắt hoa lên, đầu óc nặng trỉu, hết đứng lên ngồi xuống, trong lòng như lửa đốt.Thấy những người cùng đoàn đang khóc mừng , tíu tít hỏi thăm thân nhân họ, trong lòng tôi cứ như bị kim châm.

Ngơ ngác chưa biết tìm ai để hỏi. Bỗng có một gã công an đến gần tôi ra lệnh :

– Người nhà của cô bị nhốt chỗ khác, xách đồ đi theo tôi…

Như có sức mạnh vô hình, tôi quên mệt. Rất nhanh, đứng dậy xách hai giỏ đồ đi theo .

Trời tối như mực. Gã công an mang súng đi trước với cái đèn pin nhỏ

Quanh co một đổi quảng chừng năm mười phút cách nhà tù. Tôi hỏi: Thưa ông, gần tới chưa?

Gã không trả lời lầm lũi đi tiếp.

Thêm một đoạn nữa cũng đâu chừng năm phút gã dừng lại, tôi nghe như có tiếng nước chảy của một con suối nhỏ, một tên đứng phía dưới khoát nước lên nói : ê, đừng lại đây đi!

Có tiếng xì xào của vài tên công an nữa đang chờ sẳn ở đó. Chúng nó hỏi gã dẫn đường

Tới rồi à?

Gã công an dẫn đường ra dấu cho tôi đứng lại.

Tôi sốt ruột hỏi :

Dạ thưa ông chừng nào thì tới chổ anh tôi ở?

Chúng nó phá lên cười rồi nói:

Gấp gì, đằng nào cô cũng gặp người nhà mà, ở đây “ủng hộ” chúng tôi một tí đi… đã!

Chúng nó kéo dài chữ “đã” ra và cười hô hố…

Tôi chưa kịp phản ứng gì thì chúng đã xúm lại , giựt hai giỏ xách đồ của tôi liệng ra xa, lột áo quần, đè tôi xuống, hai

thằng trong bọn chúng đứng phía trên đầu tôi, mỗi thằng một bên, dùng hai chân đạp mạnh lên hai cánh tay giang thẳng của tôi cho một thằng khác hảm hiếp.

Sau mỗi một thằng, chúng nó bắt tôi xuống con suối nhỏ đó rửa ráy, rồi leo lên cho thằng khác làm tiếp….

Giữa núi đồi hoang vu, giữa đồng mông hiu quạnh, kêu trời, trời chẳng thấu, kêu đất , đất chẳng nghe.

Với bản năng sinh tồn tôi cắn răng mềm người chịu đựng, nước mắt ứa ra nhưng không dám kêu la, không dám kháng cự mặc cho một lũ “đười ươi” sáu, bảy thằng “phóng uế” lên thân xác mình… Lòng thầm mong sao cho chóng qua tấn tuồng bỉ ổi này!

Trước khi kéo nhau đi, chúng vổ vai nhau cười ngả nghiêng, cười thỏa mãn, cười man rợ, giọng cười của lũ ác quỷ hiện hình, một tên trong bọn chúng quay lại hăm dọa:

-Liệu mà câm mồm lại nhá…

Khi chúng bỏ đi, tôi lăn mình xuống suối để rửa cho hết những vết dơ trên người. Mặc lại áo quần, mò mẩm trong bóng tối tìm lại hai giỏ đồ…

Lạnh lẻo, run rẫy, toàn thân tôi đau đớn vô cùng , hai cánh tay tôi như muốn gẩy nát, tôi không đi nổi, tôi lết từng đoạn, nhắm hướng mà lết và không biết bao lâu, khi lết tới được trại tù thì trời cũng gần sáng.

Tôi mong mặt trời lên, mong nhìn thấy được anh Hiệp của tôi mong trao được giỏ quà và để theo kịp đoàn người thăm tù trở về Nam.

Vậy mà chờ cũng gần tới trưa chúng nó mới cho gọi anh Hiệp ra.

Bằng cái giọng rất đểu cáng, một tên công an vờ vịt nạt nộ tôi:

– Đi đâu cả đêm qua bây giờ mới mò tới? Hết giờ thăm nuôi rồi biết chửa?!

Rồi chúng nó bảo là đã qua giờ thăm nuôi, nên tôi chỉ được đứng bên ngoài hàng rào kẽm gai 15 phút và được gởi giỏ đồ ăn lại.

Có gã công an dẫn đường đêm qua đứng gần đó , hai con mắt cú vọ của nó gờm gờm nhìn tôi..

Dù tôi không được nói ra được nhưng nhìn thần sắc thiểu não, nhìn bộ đồ nhầu nát lấm sình đất chưa kịp khô trên người tôi, anh Hiệp cũng đoán được chuyện gì đã xẩy ra cho em gái mình.

Tôi biết đêm qua, khi tấm thân của tôi bị vùi dập bởi loài quỉ đỏ thì lòng dạ anh Hiệp cũng nôn nóng từng giây chờ gặp tôi. Anh Hiệp nhìn tôi, hai mắt đỏ rực, những tia máu trong mắt anh như muốn nổ tung. Anh cắn chặt vành môi . Tay đấm mạnh vào ngực, rồi nghiến răng, hai con mắt như tóe lửa quay qua nhìn tên công an.

Hai chữ  “trời ơi” của anh không thoát ra khỏi cổ họng, mà sao tôi nghe rõ mồn một, như xoáy vào tim óc tôi, nghe như tiếng rên siết của trái tim anh.

Tôi biết anh Hiệp đau khổ đến cùng độ. Anh nhìn tôi với anh mắt đau đớn, thương xót đứa em gái bất hạnh khốn khổ của mình.

Hai anh em chỉ cách nhau có một hàng rào kẻm gai, mà sao như cách xa ngàn dậm không sao vói tới. Một tay anh bấu vào hàng rào kẻm gai đến chảy máu, tay khác cố thò ra ngoài tỏ dấu muốn nắm lấy tay tôi. Đầu anh gục xuống sát hàng dây kẻm gai miệng thì cứ rên siết có một câu : Ti ơi, Ti ơi …

Tôi không nói được gì hết, chỉ nhìn anh mà khóc.Tiếng khóc uất nghẹn của tôi như một lời xác nhận khiến anh Hiệp càng đau, càng điên thêm. Rồi thì anh té nhào xuống, ngất đi. Bạn Tù khiêng anh vào trong . Tôi đứng chết trân nhìn theo, khóc nghẹn, tôi thấy máu trong lòng bàn tay anh tươm ra. Trời hởi, trời ơi

Bọn công an đuổi tôi về. Tôi không muốn về. Tôi kêu gào, tôi van xin chúng cho tôi được ở lại với anh tôi.

Những người đi chung trong đoàn, thấy hoàn cảnh thê lương của tôi, họ thương hại, họ dỗ dành, an ủi, họ bảo nhau cố nán lại chờ tôi về cùng. Họ xúm lại dìu tôi đi.

Tôi đành phải theo họ ra về mang theo tủi hờn và nét mặt đau đớn của anh Hiệp…

Đó là lần gặp gở sau cùng của anh em tôi.

Trở về nhà, tôi sống trong những ngày tháng đau đớn trên thân xác. Kinh hoàng trong tâm tưởng. Âm thầm đau khổ. Không dám than thở với ai, kể cả người mẹ thân yêu của mình.

Trời hởi, trong đoàn người cùng đi thăm chồng, thăm cha, thăm anh em của họ, tại sao chỉ có mình tôi trở thành nạn nhân của loài quỉ đỏ? Tại sao lại là tôi? Tại sao lại là tôi chứ? Tại sao tôi phải nhận chịu tai họa ghê tởm đó?

Có ai hiểu thấu tâm trạng của một người đàn bà trẻ yếu đuối sa cơ thất thế, khi rơi vào tay những tên công an độc ác!

Nhưng trong muôn ngàn cay đắng, tôi thầm tạ ơn Trời Đất, vì đã không có một giọt máu nào của loài quỉ dữ thành hình trong tôi. Tôi chỉ biết lấy đó làm điều an ủi…

Và rồi mỗi lần đến kỳ thăm nuôi, trong lòng tôi cứ đắn đo, lo lắng, suy nghĩ. Những đôi mắt cú vọ của những tên công an khốn kiếp, cái cảm giác kinh hoàng cứ lẩn khuất trong tâm tưởng không thôi… Nhưng mà trời hởi, tôi không thể không đi, bởi hình ảnh ghẻ lở ốm đói của những người tù mà tôi được nhìn thấy làm tôi chạnh lòng , tôi đau xót, nghĩ rằng biết đâu anh của mình cũng sẽ như thế nên tôi không nở, nên lại tất tả ngược xuôi mua sắm và chuẩn bị cho lần ra đi tới… Tôi không thể ích kỹ, tôi nhớ tới anh Lộc, anh Kính, hai người anh tôi đã chết cho tôi được sống trong tết Mậu Thân 68.

Hai tháng sau cái đêm khốn nạn đó, tôi ra thăm lần nữa thì mới hay anh Hiệp đã bị bắn chết ngay tại hàng rào sau trại chỉ vài hôm sau khi tôi ra về. Về sau bạn tù của anh kể lại : Khi tôi ra về rồi, một lúc sau thì anh Hiệp tỉnh lại. Lầm lì mấy ngày không nói. Trong một buổi “học tập chính trị” anh tôi đã không giữ được bình tỉnh, chửi bới công an khốn kiếp, lợi dụng, hiếp dâm thân nhân của tù cải tạo, thì ngay tối hôm đó anh tôi bị lôi ra khỏi chổ nằm. Không ai biết anh Hiệp bị đưa đi đâu. Đang đêm họ nghe hàng loạt tiếng súng. Họ đoán trước được số phận của anh tôi.

Sáng sớm hôm sau, trước giờ “lao động” Bạn Tù thấy xác anh Hiệp nát bấy bên cạnh hàng rào sau lưng trại tù. Chúng phao tin là anh âm mưu trốn trại nên bị bắn hạ.

Họ được lệnh bó chiếu chôn cất anh…

Vô tình và oái oăm, Bạn Tù chôn anh ngay trên phần đất mà tôi bị hảm hiếp hai tháng trước.

“Anh Hiệp ơi, Anh Hiệp ơi…”

Bạn Tù của anh để mặc tôi kêu gào, rũ rượi bên nấm mồ mới đắp sơ sài của anh. Trước mặt mấy tên công an, họ không dám nói lời an ủi tôi, họ không dám khóc anh.

Hơn một tuần lễ ở lại trong buôn làng của người Nùng , sau mọi thủ tục tiền và vàng lo lót, chúng chịu để yên cho tôi mướn người đào mộ lên, mướn họ đem xác anh tôi đi thiêu .

Có lẽ vì có tính toán trước dùm tôi , nên Bạn Tù chôn anh rất cạn.

Khi thấy xác anh Hiệp được cất lên, tôi có cảm tưởng như anh tôi bị chôn sống như những người trong gia tộc hồi tết Mậu Thân.

Thêm một lần phải chứng kiến cái cảnh nát lòng này.

Trời hởi, những cái chết đau thương vẫn không buông tha những người ruột thịt thân yêu của tôi!

Đêm hôm đó, giữa núi rừng lạnh lẽo, cô đơn ngồi nhìn đống lửa thiêu rụi thi thể anh tôi. Đống lửa cao ngất trời. Lửa hỏa ngục ở trần gian. Lửa thiêu đốt thân xác người anh thân yêu của tôi. Lửa đang đốt cháy trái tim tôi.

Tôi thấy nét mặt anh tôi ẩn hiện trong ngọn lửa.. Nét mặt rạng rỡ của tuổi thanh niên. Nét mặt sạm nắng của thời lao vào bom đạn. Dáng dấp anh trong bộ đồ lính trận, giọng nói ồ ề mỗi lần về phép. Từ đầu thềm nhà đã lên tiếng gọi : Ti ơi, anh về nè

Anh Hiệp ơi, sao không là Mẹ, là Ba, là ông bà Nội , không là ai khác, mà gọi con Ti đầu tiên?

Trước khi bị bắn gục anh cũng gọi “Ti ơi” có phải không?

Trời ơi, cho tới bây giờ, tôi vẫn không thể nào quên được đôi mắt đỏ ngầu của anh tôi, vẫn không quên được cái âm thanh thê thiết của bốn chữ “Trời ơi, Ti ơi”. Cho tới bây giờ tôi vẫn nghe rõ, rõ lắm.

Nhưng mà tiếng tôi gọi “Trời ơi, anh Hiệp ơi” thì không ai nghe thấy hết…

Cho đến bây giờ tôi vẫn không thể nào quên được nét mặt đau đớn tột cùng của anh tôi khi biết đứa em gái nhỏ bé của mình bị hảm hiếp…

*** Khi viết lại những dòng chữ này, tôi thương, tôi nhớ vô cùng những người anh thân yêu của tôi. Những người anh cùng chung huyết thống. Những người anh bất hạnh, vắn số của tôi đã chết cho tôi được sống.

Anh tôi bị bắn chết đau đớn, chết không kịp trối trăn chỉ vì lên tiếng phản đối những tên công an quỉ dữ đội lốt người , đã hảm hiếp em gái mình.

Từ Cao Bằng, Lạng Sơn, mang tro cốt của anh Hiệp trở lại Huế. Tôi định gởi anh lại trong phần đất hương hỏa của Gia Tộc ở Phủ Cam, để cho anh nằm chung với những người anh khác. Sẽ về Long Khánh nói dối mẹ rằng Anh Hiệp vẫn còn sống. Nhưng không ngờ trên sân ga Huế, lũ công an mọi rợ xét giỏ xách của tôi, chúng đổ tung hai trái bầu khô mà người Nùng cho tôi để đựng tro cốt của Anh Hiệp xuống đất chỉ vì nghi tôi dấu vàng trong đó. Tìm không thấy vàng, chúng nó đá hai trái bầu khô văng xuống đường rầy xe lửa rồi bỏ đi…

Tôi quì, tôi bò xuống thềm ga mong hốt lại được phần nào tro cốt của anh tôi. Nhưng mà xác anh bay trong gió. Xác anh bị lôi theo bước chân của những người qua lại, vô tình.

“Anh Hiệp ơi, đừng đi. Đứng lại đi anh Hiệp…”

Tôi khóc, tôi kêu xin anh tôi.

Nước mắt tôi rơi theo mớ xương tro cốt tung tóe khắp nơi. Xác anh lẫn trong tóc, bám trên khuôn mặt đầy nước mắt của tôi. Trong lòng hai bàn tay của tôi chỉ còn được một ít thôi…

Trời hởi, cũng trên sân ga này, tôi đã từng ôm xác của Linh, đứa em khờ dại của tôi. Chỉ chưa đầy một năm sau, tôi lại ôm mớ hài cốt không trọn vẹn của anh Hiệp với một trái tim tan nát…

Bao nhiêu năm tháng qua rồi, nước mắt không bao giờ rửa sạch những nỗi đau trong lòng vì cái chết đau thương của anh Hiệp. Người anh đau khổ, người anh yêu dấu, người anh rất tội nghiệp của tôi.

***Năm năm trời ngược xuôi trên nhiều nẻo đường từ Nam ra Bắc vì thương cha già và những người anh sa cơ thất thế lọt vào tay quỉ dữ, tôi cố gắng làm tròn bổn phận của một đứa con, của một đứa em, mặc dù thân xác tôi chịu nhiều đắng cay tủi nhục. Đau đớn lắm, nhưng tôi không cho phép mình ngã quỵ khi những người thân yêu của tôi đang cần tôi.

Mỗi lần nhìn người mẹ có quá nhiều đau khổ, tôi không dám mở lời, tôi đành câm nín. Tôi tự nhủ phải đứng vững vì mẹ. Tôi không nỡ để mẹ bị đọa đày thêm trong nỗi đau khi biết dứa con gái độc nhất mà bà thương yêu trân quí phải hứng chịu những oan khiên khốn khổ…

Giờ đây, tôi tin là các anh của tôi luôn phù hộ cho tôi, đứa em gái bất hạnh, lắm nổi truân chuyên của họ nên tôi mới vượt qua mọi thăng trầm, mọi nỗi gian nan mà sống cho đến ngày hôm nay…

Thực tình, tôi không muốn khơi lại những vết đau cũ. Một đoạn đời hơn 35 năm sau ngày mất Nước, không đủ làm tôi nguôi ngoai, những vết đau vẫn còn mưng mủ, vẫn còn làm tâm trí tôi nhức nhối không thôi.

Với tôi, hình ảnh những người thân yêu có thể để ngủ yên trong tâm trí. Nhưng những hành động bỉ ổi man rợ của bè lũ CS & tay sai thì không thể tha thứ và không được quên !

Gia đình tôi, bản thân tôi chỉ là một trong muôn vạn những gia đình nạn nhân khác, nhưng khi viết lại những câu chuyện đau thương của chính mình, & gia đình tôi như một lời tâm sự, nhắc nhở, tôi mong nó được xem như một lời cảnh báo cho những thế hệ sau tôi về chế độ phi nhân phi nghĩa của CS mà hơn 40 năm trước đã có những lớp người trẻ cùng trang lứa tôi, các anh tôi, vì mù quáng, vì non dại vô tình bị gạt gẩm đã chạy theo chúng …

Tôi muốn tát vào mặt những người ăn cơm Quốc Gia thờ ma CS. Những người bán rẻ lương tâm mình cho Ác Quỷ . Bởi vì tôi thấy những đau khổ, oan khiên trong quá khứ của tôi vẩn còn dính chặt trên khuôn mặt hắc ám của bè lủ tác tạo ra nó.

Còn một điều khốn nạn nữa là ra tới hải ngoại này mà phải hít thở cùng một bầu không khí với những kẻ cơ hội chủ nghĩa, đón gió trở cờ, phải nhìn thấy những khuôn mặt bẩn thĩu của những người tự xưng là trí thức háo danh , tham lợi, biết CS là độc ác, vô luân mà vẫn chạy theo chúng, làm ngơ trước đau khổ của đồng loại…

Tôi đã trải qua mọi đọa đày, khổ ải, hiểm nguy, thiệt thòi, mất mát từ thể chất tới tinh thần.

Lớn lên trong chiến tranh nên sợ hải bao phủ trọn không gian ,thời gian của tuổi thơ. Mới chín, mười tuổi đầu, tai đã sớm nghe những lời rên siết, than van của ông bà, cha mẹ, đã dược dạy phải tránh né người này, phải xa lánh người kia, mà chẳng hiểu tại sao? Mắt đã sớm nhìn thấy những xác người cháy đen sau mổi lần xóm làng bị đạn pháo kích mà không hiểu từ đâu? Trái tim non nớt của tôi biết đau rất sớm mà không biết vì nguyên nhân nào? Tâm trí đặc quánh những sợ hải. Đầu óc đã biết phân vân tự hỏi, tại sao người ta lại giết nhau

Không ai giải thích cho trẻ con những việc làm của người lớn!

Tuổi thơ của tôi có rất nhiều đêm thảng thốt, giật mình khi nghe tiếng đại bác vọng về.Tuổi thơ của tôi là giữa đêm khuya ngơ ngác khi bị lôi tuột xuống giường đẩy vào hầm trú ẩn.Tuổi thơ của tôi đã nhìn thấy những chiếc quan tài phủ cờ chở về trong xóm…

Tuổi thanh xuân của tôi gắn liền với hình ảnh những thi thể không trọn vẹn được lôi lên từ những mồ chôn tập thể của tết Mậu Thân. Phải nhìn thấy những xác người bê bết máu, xác trẻ thơ vô tội, xác người sình thúi, lúc nhúc những ruồi bọ trên những con đường mà thường ngày mình đến trường.

Những giấc mơ trong tưổi thanh xuân của tôi là những đôi mắt mở trừng, những con mắt oán hờn, trách móc, của những người anh bị bắn chết trong nhà của ông bà nội…

Tuổi thanh xuân của tôi đặc kín những lo âu, buồn phiền, sợ hải, nghi ngờ…

Tôi đã sống như con ốc thu mình trong vỏ. Dè dặt với mọi người. Không dám đối diện những người bạn của các anh mình. Những người cùng lớp cùng trường, ăn cùng mâm, ngủ cùng chiếu. Mới hôm qua là bạn , nay là thù, đứng về phía bên kia hàng ngủ của lủ Quỉ Đỏ, quay lại cầm súng sát hại những người anh thân yêu ruột thịt của mình…

Cái chết là lẽ đương nhiên của con người, vì đâu có ai sống hoài.Thân xác nào rồi cũng phải nằm ngay ngắn trong qua tài, dưới ba tấc đất, nhưng nào ai muốn trở thành những thân xác co quắp, không toàn hình hài, bị vùi chung nhau một hầm!

Chỉ có bọn CS ác độc vô luân mới hành xử như thế với đồng loại của mình…

Tâm trí tôi đau đớn theo từng cái chết đau thương của từng người thân trong gia đình. Thân xác tôi là cái giá phải trả để đổi lấy giỏ quà thăm nuôi, từng viên thuốc, cho những người thân yêu trong gia đình đang mang thân tù tội.

Người dù đã chết trong đau đớn tủi nhục, bây giờ thân xác họ cũng đã thoát ra khỏi cảnh đời ô trọc này rồi. Nhưng người còn sống, không sao tự giải thoát mình khỏi những vết thương đã quá ăn sâu trong da thịt, trong tâm hồn… Nhắc lại chuyện đã qua chỉ thêm đau lòng. Nhưng mà khổ nổi, tôi không thể nguôi ngoai!

Brisbane 15-8-2005

Thái Hòa


 

CUỘC ĐỜI THĂNG TRẦM CỦA NỮ BÁC SĨ ĐẦU TIÊN CỦA VIỆT NAM: HENRIETTE BÙI QUANG CHIÊU

nguồn: chuyenxua.net

  Khi thực dân Pháp chiếm Việt Nam làm thuộc địa, cùng với đó là sự du nhập của văn hoá Tây Âu là phương pháp chữa bệnh theo Tây Y.

Ban đầu, Tây Y và bác sĩ chỉ phục vụ cho quân Pháp và gia quyến đi cùng.

Dân Việt vẫn chỉ chữa bệnh, sinh đẻ theo các bài thuốc, phương pháp Đông Y cổ truyền từ thầy lang và bà đỡ.

Tuy nhiên cùng với quá trình thâm nhập sâu rộng của văn hoá Pháp vào đời sống dân Việt, hệ thống bác sĩ, bệnh xá lần lượt được xây dựng và phát triển.

Những vị bác sĩ Tây Y người Việt tiên phong cũng lần lượt xuất hiện, nhưng đặc biệt nhất có lẽ phải kể đến nữ bác sĩ đầu tiên của Việt Nam Henriette Bùi Quang Chiêu.

Tài năng và tên tuổi của bà một thời từng là niềm tự hào của người Việt trước sự lấn lướt, khinh miệt của người Pháp.

Giống như hầu hết những tri thức thời kỳ này, bà Henriette xuất thân trong một gia đình quyền quý.

Cha bà Henriette là chính khách nổi tiếng ở Nam Kỳ, nghị viên Bùi Quang Chiêu.

Trước năm 1945, Ông Chiêu là một nhân vật tích cực trong giới chính trị, ông tham gia thành lập Đảng Lập Hiến, đấu tranh cho quyền bình đẳng cho người Việt, quyền tự do báo chí, hỗ trợ nhiều du học sinh người Việt sang Pháp du học,… Thời trẻ, ông Chiêu cũng từng là du học sinh Pháp, là người Việt đầu tiên có bằng kỹ sư canh nông của Pháp. Ông cũng là người Việt duy nhất được đưa vào thăm vua Hàm Nghi khi vua bị Pháp đày sang Algérie.

Em gái của ông Bùi Quang Chiêu chính là bà nội của Trần Lệ Xuân (phu nhân của Ngô Đình Nhu).

Mẹ bà Henriette là bà Vương Thị Y, vốn là con gái trong một gia đình gốc Hoa giàu có ở Nam Kỳ. Ông Bùi Quang Chiêu và bà Vương Thị Y có 6 người con chung, bà Henriette là con thứ.

Gia đình Bùi Quang Chiêu. Ảnh gia đình chụp năm 1921 tại Phú Nhuận. Từ trái sang: Madeline, Henriette, ông Bùi Quang Chiêu, Louis, Camille và Helène.

HỌC VẤN XUẤT SẮC – SỰ NGHIỆP RỰC RỠ

Dù có gốc gác Nam Kỳ, lớn lên ở Sài Gòn nhưng bà Henriette lại được sinh ra ở Hà Nội vào ngày 8 tháng 9 năm 1906.

Ngay từ nhỏ, cô bé Henriette đã được giáo dục kỹ lưỡng theo truyền thống học hành của gia đình.

Thời tiểu học, Henriette được gửi vào học tại trường St Paul de Chartres (tức trường Nhà trắng) tại Sài Gòn (ngày nay ở đường Tôn Đức Thắng).

Vốn thông minh và hiếu học, năm 1915, khi vừa tròn 9 tuổi, Henriette được thi vượt cấp vào trung học, nhận bằng Certificat d’Études sớm 2 năm so với các bạn cùng trang lứa.

Ngôi trường tiếp theo Henriette theo học là trường Collège des Jeunes Filles (tức trường Trung Học Gia Long Sài Gòn và là trường Nguyễn Thị Minh Khai ngày nay), sau đó là trường Lycée Marie Curie.

Bà đậu bằng Certificat d’Études với thứ hạng cao, rồi sau đó nằng nặc đòi thân phụ cho đi học ngành Y khoa ở Paris như người anh Louis Bùi Quang Chiêu của bà.

Người cha Bùi Quang Chiêu đành phải nhượng bộ cho Henriette sang du học ở Agen, một thành phố ở miền nam nước Pháp, và đã phải thuê một vị giáo sư để đi cùng với cô con gái bé bỏng Henriette ra bến tàu Sài Gòn, để chăm lo việc sinh hoạt và học tập của bà.

Bà xuất ngoại mùa Hè 1921, khi chưa tròn tuổi 15. Bà học rất giỏi, ngoài tiếng Việt, tiếng Pháp và Trung Hoa, bà còn thông thạo nhiều ngôn ngữ khác như tiếng Anh, Tây Ba Nha, Ý và cả những cổ ngữ như La Tinh và Hy Lạp. Việc học của bà bị gián đoạn một năm vì bệnh đau mắt (trachoma), tuy nhiên bà cũng tốt nghiệp bậc trung học tại Lycée d’Agen và Bordeau năm 1925, thuộc miền Tây Nam nước Pháp, và lấy bằng tú tài năm 1926 dưới sự giám hộ của giáo sư triết Madame Meyerson.

Từ niềm kính phục, trân trọng người anh của mình là Louis Bùi Quang Chiêu – một bác sĩ chuyên về bệnh Ho lao nổi tiếng tại Sài Gòn, và cũng vì người mẹ đã mất vì bệnh tật, năm 1927, bà vào học trường Đại Học Y khoa Paris. và trong thời gian này, bà được giới thiệu rồi trở thành thân thiết với nhà bác học Marie Curie và nhà sử học Charles Seignobos.

Ngoài một số người ngoại quốc, bà còn quen biết với nhiều nhân vật nam nữ người Việt Nam du học tại Pháp mà sau này sẽ đóng những vai trò rất quan trọng trên các lĩnh vực chính trị, ngoại giao, văn hóa và giáo dục trong nước.

Về phía nam giới, bà quen biết với vua Bảo Đại đang theo học tại Pháp; ông Nguyễn Văn Xuân, sinh viên trường École Polytechnique, sau này là Trung tướng Nguyễn Văn Xuân (Thủ tướng Chính phủ Quốc Gia Việt Nam đầu tiên vào năm 1948); Hoàng Xuân Hãn, sinh viên Polytechnique, sau này là Bộ Trưởng Giáo Dục trong Chính phủ Trần Trọng Kim; ông Ngô Đình Nhu, sinh viên École de Chartres, sau này là cố vấn chính trị của Tổng thống Ngô Đình Diệm,…

Về phía nữ giới , bà là bạn của bà Hoàng Thị Nga, em gái của Giáo sư Hoàng Cơ Nghị, vị nữ tiến sĩ khoa học đầu tiên của Việt Nam; bà Nguyễn Thị Bính, vợ của Thạc sĩ Hoàng Xuân Hãn, vị nữ dược sĩ đầu tiên của Việt Nam,…

Trong những năm cuối cùng tại trường Y, bà đã chọn những ngành chuyên môn như: pathological anatomy, obstetrics, gynecology, podiatry và infant care.

Cũng giống như các vị nữ bác sĩ thời đó, bà chuyên về việc chữa trị các bệnh đàn bà và trẻ em trong thời gian nội trú tại các bệnh viện la Charité, Beaujon, Cochin và Bichat tại Paris.

Năm 1932, bà tốt nghiệp đại học. Sau hai năm thực tập, bà là người phụ nữ Việt Nam lấy bằng bác sĩ y khoa đầu tiên ở Pháp.

Khi tốt nghiệp, bà dự định viết một luận án về đề tài “thụ tinh nhân tạo cho những người bị hiếm muộn”, tuy nhiên vào thời đó thì đề tài này quá mới mẻ và gây nhiều tranh cãi cho một người phụ nữ trẻ tuổi, do đó bà đã nghe lời khuyên của các vị giáo sư mà đổi sang một đề tài “truyền thống” hơn: “The Phebitis of Gestation”. Bài luận án của bà đã được Hội đồng giám khảo khen ngợi và tưởng thưởng huy chương vào năm 1934.

Năm 1935, ngay sau khi tốt nghiệp và nhận tấm bằng bác sĩ, bà Henriette trở về Việt Nam. Cũng trong năm này, bà được giao giữ chức Trưởng khoa hộ sinh ở bệnh viện Chợ Lớn (nay là bệnh viện Từ Dũ). Bà trở thành người phụ nữ Việt Nam đầu tiên được giao trọng trách quan trọng trong hệ thống bệnh viện Tây y của Việt Nam.

Không chỉ dốc lòng cho công việc cứu người, bà Henriette còn không ngừng trau dồi và phát triển chuyên môn của mình.

Năm 1957, bà từng có thời gian đến Nhật để học thêm về các phương pháp châm cứu, áp dụng trong sản khoa.

Bà cũng là người phụ nữ Việt Nam đầu tiên thành lập Bảo Sanh Viện trên đường Richeaud (nay là đường Nguyễn Đình Chiểu)

Trong suốt hơn 40 năm hành nghề, đặc biệt là trong những năm tháng làm việc tại Việt Nam, bà Henriette đã nhiều lần công khai chống đối cấp trên người Pháp, đấu tranh cho quyền lợi của các bác sĩ và bệnh nhân người Việt trước những bất công và sự đối xử thiếu công bằng từ ban lãnh đạo bệnh viện người Pháp.

Ví dụ như cùng là bác sĩ tốt nghiệp từ trường Đại học Y khoa Paris, cùng chức phận và công việc như nhau nhưng trong khi bác sĩ người Pháp được trả 1.000 đồng một tháng thì bác sĩ người Việt chỉ được trả lương 100 đồng một tháng;

Hay việc bệnh nhân người Pháp luôn được ưu tiên và đối xử tử tế hơn bệnh nhân người Việt;

Sự đối xử thiếu tôn trọng, thậm chí là thái độ khinh miệt kẻ cả của những y bác sĩ người Pháp đối với đồng nghiệp người bản địa; Hoặc như có lần ông giám đốc bệnh viện người Pháp yêu cầu bà phải mặc đầm khi đến bệnh viện làm việc để nhận được sự tôn trọng từ những đồng nghiệp người Pháp, bà đã thẳng thừng từ chối, kiên quyết mặc áo dài truyền thống đi làm.

Năm 1970, sau khi từ Pháp trở lại Việt Nam và trước khi quay trở lại Pháp vào năm 1971, bà đã quyết định đến làm việc không lương ở Khoa hộ sản và nhi khoa tại bệnh viện Phú Thọ.

Sau 5 năm quay lại Pháp hành nghề y, bà nghỉ hưu vào năm 1976, khi vừa tròn 70 tuổi. Cả cuộc đời cống hiến cho nghề không mệt mỏi, về già Henriette bà không ngần ngại hiến tặng luôn biệt thự riêng của mình ở số 28 đường Testard (nay là đường Võ Văn Tần) làm cơ sở cho trường Đại Học Y Khoa thuộc viện Đại Học Sài Gòn.

Địa điểm này ngày nay nằm trong khuôn viên của Bảo Tàng Chứng Tích Chiến Tranh, căn nhà cũ của Henriette (cũng là trụ sở đại học Y Khoa cũ) đã bị đập bỏ.

Villa địa chỉ số 28 đường Testard (sau 1954 là đường Trần Quý Cáp, nay là Võ Văn Tần 

BI KỊCH GIA ĐÌNH

Như đã nhắc ở trên, bà Henriette mồi côi mẹ từ năm 16 tuổi khi đang du học tại Pháp, tuy nhiên nỗi đau đó chưa phải là lớn nhất khi cuối năm 1945, một tấm bi kịch khủng khiếp khác một lần nữa đổ xuống gia đình bà.

Ông Bùi Quang Chiêu do từng giữ chức Viện Trưởng Hội Đồng Quản Hạt Nam Kỳ (trước năm 1939) và đại biểu Nam Kỳ tại Thượng Hội Đồng Pháp quốc hải ngoại, ông bị lực lượng Việt Minh kết tội làm tay sai cho thực dân Pháp. Và kết cục là ngày 29 tháng 9 năm 1945, tại Chợ Đệm (Bình Chánh, Sài Gòn), ông Bùi Quang Chiêu cùng năm người khác trong đó có ba người con trai và con gái của ông đã bị kết án tử.

Ông Bùi Quang Chiêu

Lúc sinh thời, ông Bùi Quang Chiêu là người nhiệt thành ủng hộ phong trào Duy Tân của Phan Châu Trinh cũng như phong trào Đông Du của Phan Bội Châu. Ông đã đọc trước mồ cụ Phan Châu Trinh: “Tây Hồ anh ơi, tôi xin thề hy sanh cho chủ nghĩa Pháp Việt đề huề”. Năm 1919 ông đứng ra thành lập Đảng Lập hiến Đông Dương, là một chính đảng hoạt động ở Nam Kỳ trong thập niên 1910 đến 1930, vận động đòi tự trị cho Việt Nam để lần hồi giành lại độc lập hoàn toàn cho người Việt. Đảng Lập Hiến dùng 3 tờ báo: La Tribune Indochinoise (Báo Đông Dương), L’Echo Annamite và Đuốc Nhà Nam làm diễn đàn. Tuy gọi là Đảng nhưng những Đảng Lập hiến lại tổ chức giống như một câu lạc bộ chính trị của giới điền chủ, nghiệp chủ, công chức người Việt ở Nam kì. Bùi Quang Chiêu cũng là đảng viên đảng Cấp tiến và Xã hội Chủ nghĩa Cấp tiến của Pháp, nên nhân lúc Alexandre Varenne của đảng Xã hội Cấp tiến Pháp được bổ nhiệm làm toàn quyền vào năm 1926 với hứa hẹn cải tổ cai trị ở Đông Dương, Bùi Quang Chiêu lại sang Pháp vận động chính giới Pháp với loạt bài “Pour le Dominion Indochinois”. Ông đưa ra “Bản yêu sách 9 điều khoản” gồm: Tự do ngôn luận, Tự do báo chí, Tự do hội họp và lập hội, Tự do đi lại, Cải cách giáo dục, Điều chỉnh chế độ lương bổng cho công bằng giữa người Pháp và người Việt, Nới rộng quyền đại diện chính trị, Nâng cao đời sống lao động, Bãi bỏ độc quyền kinh tế. Với thanh thế đó, ông về lại Sài Gòn tranh cử cuộc bầu cử tháng 10 năm 1926. Kết quả là ông cùng 9 đảng viên đảng Lập Hiến đắc cử Hội đồng Quản hạt Nam Kỳ, chiếm trọn 10 ghế của người bản xứ. Ông được bầu làm Phó chủ tịch Hội đồng. Năm 1927 nhờ sự vận động của ông cùng các nhân sĩ khác như Phan Văn Trường, Huỳnh Thúc Kháng, Nguyễn An Ninh, Vũ Đình Dy và Nguyễn Phan Long, người Pháp mới bãi bỏ điều kiện Pháp tịch cho những học sinh muốn sang Pháp du học. Cũng vì quan tâm đến việc giáo dục, ông mở tư thục “An Nam Học đường” ở Sài Gòn. Hoạt động chính trị của ông bị nhà chức trách cho là bài Pháp nên ông và báo La Tribune Indochinoise bị liệt danh vào “sổ đen” của mật thám Pháp. Ở phía ngược lại, ông cũng bị Việt Minh kết tội là tay sai cho Pháp.

THOÁT KHỎI NHỮNG SẮP XẾP VÀ ĐỊNH KIẾN 

Bà Henriette kết hôn lần đầu tiên theo sự sắp xếp của cha vào năm 1935 ngay sau khi du học trở về nước. Bà kể về lần kết hôn này như sau: 

“Hồi đó, ngay cả ở Pháp, phụ nữ học ngành y cũng rất ít. Ra trường, cũng không ít nữ bác sĩ bỏ nghề vì phải lấy chồng, sinh con. Tôi cũng không thoát khỏi định kiến xem thường phụ nữ thời ấy. Vừa tốt nghiệp bác sĩ, tôi đã bị cha triệu về Việt Nam để gả chồng…”

Như bao gia đình quyền quý khác, ông Bùi Quang Chiêu chọn cho cô con gái cưng một người chồng vô cùng “môn đăng hộ đối”, xuất thân trong một gia đình quyền quý không kém gia đình ông. Đó là luật sư Vương Quang Nhường, cháu ruột của thái hậu Từ Dũ, tiến sĩ Luật Khoa người Việt đầu tiên, đồng thời là thành viên Đảng Lập Hiến Đông Dương do ông Bùi Quang Chiêu sáng lập.

Tuy nhiên, với bà Henriette, cuộc hôn nhân khiên cưỡng này lại hoàn toàn không mang lại cho bà hạnh phúc. Đặc biệt là tư tưởng của hai người cực kỳ khác biệt, trong khi ông chồng chỉ muốn bà ở nhà nội trợ, sanh con đẻ cái với tuyên bố:

“Tôi là trạng sư, lương đủ cho bà ở nhà, đi chơi”, thì bà lại kiên quyết theo đuổi công việc bác sĩ của mình: “Tôi thích làm, không thích chơi”.

Sau hai năm gắng gượng duy trì cuộc hôn nhân đầy những bất đồng, bà Henriette quyết định đưa đơn ly dị chồng, giải phóng cho bản thân, bất chấp những lời dị nghị. Không chỉ thẳng thắn và quật khởi trong hôn nhân, vượt qua những định kiến về giới, bà Henriette trở thành người phụ nữ đầu tiên mua và lái xe hơi trên đường phố Sài Gòn trước bao ánh nhìn và lời bàn tán của mọi người.

Sau cuộc hôn nhân đầu tiên thất bại, đạp lên mọi luồng dư luận và bất chấp những ý kiến trái chiều từ gia đình, bà quyết định tái hợp và chung sống với mối tình sâu đậm nhất của mình mà không cần bất cứ hôn lễ hay tờ hôn thú nào.

MỐI TÌNH SÂU NẶNG VÀ CUỐI CÙNG

Người chồng thứ hai của bà Henriette là ông Nguyễn Ngọc Bích, cũng là mối tình sâu đậm, dài lâu và cuối cùng trong cuộc đời bà.

  Nguyễn Ngọc Bích, con trai Đốc phủ sứ Nguyễn Ngọc Tương 

Đó là những năm tháng du học tại Pháp, mùa đông Paris lạnh giá và khắc nghiệt, cậu em họ xa Nguyễn Ngọc Bích thường xuyên đau bệnh, nên người chị họ Henriette vốn là một sinh viên y khoa giàu kiến thức đã tận tình qua lại chăm sóc cho sức khoẻ của cậu em.

Bất chấp những định kiến, lễ giáo về quan hệ họ hàng, hai người dần nảy sinh tình cảm lúc nào không hay. Khi tình cảm vừa chín tới, cũng là lúc bà Henriette tốt nghiệp phải về nước lấy chồng theo lệnh cha.

Nói về ông Nguyễn Ngọc Bích, đây cũng thực sự là một người đàn ông tài giỏi, thông minh hiếm có khiến bà Henriette không chỉ yêu mà còn nể phục.

Ông Nguyễn Ngọc Bích là con trai thứ của đốc phủ sứ Nguyễn Ngọc Tương (về sau là Giáo Tông của Ban Chỉnh Đạo Hội Thánh Cao Đài). Tuy nhỏ tuổi hơn bà Henriette đến 5 tuổi (sinh năm 1911) nhưng ông cũng được gia đình gửi đến Pháp du học từ sớm cùng hai người anh trai và đậu vào ngành kỹ sư cầu đường tại đại học École Polytechnique, ngôi trường danh tiếng hàng đầu tại Paris, nơi chỉ tuyển những sinh viên xuất sắc nhất.

Năm 1936, ông Nguyễn Ngọc Bích tốt nghiệp đại học và về nước làm việc tại sở Thuỷ Lợi tỉnh Sóc Trăng.

Sau khi bà Henriette ly hôn chồng, gặp lại ông Nguyễn Ngọc Bích và rồi tình cũ không rủ cũng tới, hai người quyết định dọn về chung sống cùng nhau mà không cần bất cứ lễ cưới nào, bất chấp sự phản đối của cả hai gia đình.

Trong khi bà Henriette tiếp tục công việc bác sĩ tại Sài Gòn thì ông Bích đi đi về về với công việc tại Sóc Trăng.

Năm 1940, ông Bích nghỉ việc tại Sóc Trăng, trở về quê nhà Bến Tre, gia nhập lực lượng Việt Minh và nhanh chóng trở thành thành viên chủ chốt.

Một mình ở lại Sài Gòn, bà Henriette vẫn dành trọn tình yêu và chờ đợi những chuyến về thăm của chồng.

Năm 1944, bà Henriette đón nhận cú sốc từ người chồng mà bà nhất mực yêu thương. Ông Nguyễn Ngọc Bích có con riêng với một cô sinh viên trường nữ công gia chánh ở Sóc Trăng.

Tuy nhiên, đó chỉ là một mối tình say nắng, trót dại của ông Bích, dù hai người không có hôn thú, ông Bích vẫn nhất quyết không bỏ vợ. Cô gái kia biết chẳng thể chia cắt ông bà cũng đành đi lấy chồng khác.

Bà Henriette dù rất đau khổ, vẫn bao dung và điềm tĩnh giúp ông thu vén mọi chuyện gọn gàng.

Năm 1947, bà Henriette tiếp tục phải đối mặt với một biến cố khác từ chồng.

Trong một trận càn quét vào vùng kháng chiến ở Sóc Trăng, ông Nguyễn Ngọc Bích bị quân đội Pháp bắt làm tù binh. Lúc này, ông đang giữ những vị trí khá quan trọng trong chính quyền Việt Minh, là Khu bộ phó Khu 9 (vùng Tây Nam Bộ), đại biểu quốc hội khoá 1 VNDCCH, Uỷ viên dự khuyết Ban thường trực Quốc hội.

Ban đầu, ông Bích bị kết án tử hình. Tuy nhiên, nhờ ông Bích có quốc tịch Pháp và những mối quan hệ giao tế với nhiều nhân vật có tiếng nói tại Pháp đã gây sức ép lên chính quyền quân sự Đông Dương, khiến họ không thể ghép ông vào tội tử hình chỉ với những cáo buộc “phản loạn”. Đổi lại, ông Bích bị buộc phải rời khỏi Việt Nam, đến cư trú tại Paris và chịu sự giám sát của chính quyền Pháp. Bà Henriette lại một lần nữa, nén nỗi đau, gom góp tiền bạc, tiễn chồng sang Pháp.

Tại Paris dưới sự động viên và hỗ trợ của vợ từ quê nhà, ông Bích cùng bạn mở một nhà xuất bản sách tiếng Việt mang tên Minh Tâm.

Đầu thập niên 1950, ông Bích tiếp tục theo học y khoa và trở thành bác sĩ ung thư tại Pháp.

Đầu thập niên 1960, nhiều thông tin trong chính giới vận động ông như một ứng viên sáng giá có thể thay thế tổng thống đương nhiệm Ngô Đình Diệm trên chức vụ Tổng thống Việt Nam Cộng hòa qua cuộc bầu cử năm 1961.

Tuy nhiên, hồ sơ ứng cử tổng thống của ông đã bị chính quyền Sài Gòn tuyên bố không hợp lệ vào giờ chót vì “lý do kỹ thuật”.

Năm 1961, vợ chồng bà Henriette quyết định chuyển đến Pháp làm việc, mở phòng mạch riêng và chung sống cùng chồng. Những năm cuối đời, ông Bích mắc bệnh ung thư vòm họng, bà đưa ông trở về Việt Nam dưỡng bệnh và chăm sóc ông cho đến tận ngày ông qua đời vào ngày 4 tháng 12 năm 1966 tại Thủ Đức.

Đối với người con trai riêng của chồng là Nguyễn Ngọc Châu, chính bà là người gợi ý và tận tình hỗ trợ ông bảo lãnh con trai sang Pháp du học và sinh sống cùng khi anh tới tuổi thành niên.

Chính vì vậy mà dù sau khi cha mất, Nguyễn Ngọc Châu vẫn luôn coi bà Henriette giống như mẹ của mình. Khi được hỏi về người chồng quá cố, ở tuổi 101, bà Henriette vẫn minh mẫn trả lời một cách rõ ràng và rành mạch:

“Tôi biết cô hỏi tôi yêu ông Bích vì cái gì phải không? Tình yêu thật kỳ lạ. Người ta yêu nhau không phải vì cái gì cả, chỉ biết là chúng tôi đã yêu thương nhau, cùng nương tựa nhau đi qua những thăng trầm của lịch sử, đời người. Nhưng tôi thương ông Bích vì ông ấy thông minh. Tôi muốn giúp người thông minh, học giỏi đi đến cùng ước mơ của họ. Và vì thế mà tôi sẵn sàng tha thứ, chia sẻ với nỗi khổ tâm rất riêng tư của chồng tôi. Tôi vẫn yêu ông ấy, ngay cả khi ông không còn trên cõi đời này nữa. Vì lẽ đó mà mỗi lần gặp Nguyễn Ngọc Châu, tôi rất vui, vì Châu là phiên bản của chồng tôi. May mà còn có Ngọc Châu. Cuộc sống vẫn kỳ diệu hơn điều người ta nghĩ, phải không?!”.

Những năm cuối đời, bà Henriette sống trong một nhà dưỡng lão cao cấp tại Pháp, đồng thời bày tỏ ý nguyện sẽ dành tặng toàn bộ số tiền tiết kiệm cho một tổ chức từ thiện sau khi bà qua đời.

Ngày 27 tháng 4 năm 2012, bà Henriette mất tại Paris ở tuổi 106.

chuyenxua.net biên soạn

From: TU-PHUNG

EM LÀ AI!!!

Tình Ca Tây Bắc

Em là ai giữa cuộc đời giông gió

Tấm thân gầy đã biết tỏ cùng ai

Bước chân đi trên khắp nẻo đường dài

Cơm áo thiếu vẫn miệt mài em sống….

Có biết không giữa biển người rất rộng

Em một mình gồng gánh những lo toan

Rằng đêm nay giấc ngủ có an toàn ?

Ai ôm ấp giữa màn đêm lạnh giá ?

Rồi ngày mai thiếu cơm em đói lả

Ai thương tình chia cả những miếng ăn ?

Tuổi thơ ngây chịu bao nỗi nhọc nhằn

Ai thấu hiểu giọt lệ lăn trên má ?

Cùng tuổi em người ta đang hối hả

Mải ăn chơi biết vất vả gì đâu

Là em đây nào dám ước sang giàu

Và hạnh phúc là niềm đau thầm lặng…..

Tuổi thơ ngây em dãi dầu mưa nắng

Và tâm hồn trong trắng sớm nặng mang

Là ai kia khiến em phải lỡ làng ?

Một kiếp sống với muôn vàn khốn khó..

Thơ: Thu Hà

KV-QPAN. St

Hột Xoàn – Trần Thị Diệu Tâm

Trần Thị Diệu Tâm

 Trong đời sống đơn sơ tầm thường giản dị ở chốn bếp núc, người đàn và như chị biết rất nhiều loại ngũ cốc, nôm na là biết nhiều loại hột, kể sao cho xiết. Nhưng thật tình mà nói, chị chỉ thích có một thứ, loại này không có khả năng nẩy mầm cho hoa cho trái, nhưng có khả năng làm sảng khoải tâm hồn chị.

Đó là hột xoàn.

Hột xoàn là thứ hột cho ánh sáng lấp lánh, nhìn nó phát mỏi mắt, nhìn nó mà mê tơi. Không có ánh sáng nào đẹp bằng thứ ánh sáng của hột xoàn. Đàn bà ai chả thích, đâu phải một mình chị. Trong lúc ngồi ăn cơm, chị thật thà đem chuyện thích hột xoàn nói với chồng cho vui. Chồng chị gắt “ Chồng không yêu, lại đi yêu hột xoàn, đừng có dại !”

Chị cụt hứng, nhưng chị không dại mà cũng không điên. Vì khi biết mình còn ham mê, nghĩa là biết mình còn ham sống, còn yêu cuộc đời này lắm. Niềm ham mê ấy chị giữ riêng, một mình chị biết một mình chị hay. Chị dành dụm tiền mặt mỗi tháng một ít, vì chẳng bao giờ biết dùng chi phiếu hay thẻ ngân hàng, chồng đưa tiền mặt cho chị đi chợ mỗi đầu tháng. Như con kiến tích trữ lương thực, suốt hai năm liền. Các tủ nhà đều không có chìa khóa, chị phải dấu số tiền ấy mỗi nơi một ít, không nên để chung một chỗ. Nhưng sau thời gian hai năm, trí nhớ của chị có đôi chút lãng đãng, vì có nhiều góc khuất kín đáo. Thấy mẹ lục lọi như tìm kiếm, cô con gái hỏi mẹ “Mẹ tìm gì vậy? nói con tìm cho “. Chị trả lời ” Dọn dẹp đồ đạc cho gọn gàng thôi”. Chồng chị thắc mắc “Em sao cứ dọn hoài vậy”. Chị không trả lời, cho biết làm gì chứ, con, chị không tin, huống chi tin chồng. Chờ dịp cả hai không có ở nhà, chồng đi làm, con bận đi học, chị sắp xếp lại tất cả các tủ áo quần, các ngăn kéo. Cái gì không dùng nữa còn tốt chị cho vào một xắc riêng đem cho hội từ thiện. Chị thấy cũng có lý do tốt cho việc tim kiếm. Thật là một công đôi việc. Và rồi chị cũng tìm ra hết những gói tiền cất dấu lâu nay. Chị thở ra ” thật mừng như tiền ai cho”. Sau khi kiểm kê tài sản, chị xếp lại mớ tiền theo thứ tự mặt trước mặt sau. Bản tính vốn cẩn thận với những tờ tiền chi tiêu, chị rất thích tiền giấy ơ-rô, vì nó có nhiều kích cở và màu sắc khác nhau, nếu sau này mắt mù, mình cũng có thể đếm được tiền. Đếm đi đếm lại cũng được vài ngàn. Chị cuộn tròn xấp tiền lấy sợi giây thun buộc lại cho gọn, cử chỉ này làm chị nhớ ngày xưa quê nhà mẹ chị cũng cất giữ tiền như thế.

Chị sẽ thực hiện điều ao ước bấy lâu nay, chị sẽ mua chiếc nhẫn hột xoàn lấp lánh ấy. Chiếc nhẫn nằm trong tủ kính cửa hiệu có tên Eternelle. Chị vốn không mấy giỏi tiếng bản xứ, nhưng cũng lờ mờ hiểu rằng có nghĩa là mãi mãi. Ai mà không quý trọng những gì có tính mãi mãi, bất diệt. Biết bao nhiêu cặp tình nhân, bao nhiêu cặp vợ chồng đám cưới đều tặng người mình yêu dấu chiếc nhẫn kim cương hột xoàn lấp lánh, hy vọng chiếc nhẫn  sáng ngời soi sáng cho tình yêu họ đến suốt cuộc đời. Nếu họ có bỏ nhau, không phải tại chiếc nhẫn xinh đẹp vô tội kia, mà vì chính họ là người thay lòng đổi dạ. Chứ chiếc nhẫn hột xoàn là một thứ thủy chung muôn đời bất diệt.

Trước đây, mỗi lần vào trung tâm mua sắm, chị luôn đến trước cửa hiệu Eternelle, ngắm nghía mãi mê mấy chiếc nhẫn lóng lánh kia, ước chi một ngày nào đó, chị sẽ đeo một chiếc vào ngón tay mình. Chị không hề biết loại nào tốt nhất, nước sáng xanh hay sáng tím, nhưng chiếc nhẫn sẽ kèm theo một một hóa đơn ghi giá trị số tiền. Từ ao ước đến khi được chiếm hữu là một tiến trình tâm lý rất tự nhiên của con người, không có chi lạ. Do đó nó phải ở trong tay chị, chị là sở hữu chủ, chị không cần phải đi qua mấy chuyến tàu mê-trô mới gặp nó nằm yêu kiều trong tủ kính.

Chị đi vào cửa hiệu một cách tự tin, không e dè như trước đây. Cô gái bán hàng trông như thờ ơ, có lẻ biết người đàn bà Á Đông này đã nhiều lần đến xem, cô nhiều lần đón tiếp, nhưng bà ta chỉ  lắc đầu đi ra. Nhưng lần này thì khác. Chị chỉ vào chiếc nhẫn đã từng chọn sẵn, thích hợp với số tiền trong túi, hình như nó đang chờ đợi chị, không ngoài ai khác. Cô bán hàng liền nở nụ cười tươi, nhẹ nhàng mở tủ kính, duyên dáng hỏi chị rất lịch sự:

– Thưa bà, muốn chiếc này?

Chị cười gật đầu, cô ân cần đưa chị đến ghế ngồi có đèn chiếu sáng rất rực rỡ. Cô lại ân cần cầm bàn tay chị, xỏ chiếc nhẫn vào ngón tay chị, thật là vừa khít, tuồng như chiếc nhẫn được tạo ra đúng khuôn.

Cô bán hàng reo lên: Ồ, chiếc nhẫn thật là thích hợp với tay bà!

Đúng, đó là sự thật không chối cãi, chị rất mãn nguyện, lại cảm thấy như mình là một thượng đế trong giây phút ấy, được đối xử trang trọng và lịch sự. Chị hân hoan đưa xấp tiền và đếm một cách cũng trang trọng không kém. Thực hiện điều mơ ước bấy lâu nay, chị vui thú biết bao. Khoảng đường từ Eternelle về đến nhà là thời gian chị được sống hạnh phúc nhất, mãn nguyện nhất. Về đến nhà chị vẫn còn đắm đuối với chiếc nhẫn tuyệt với đó.

Nhưng thời gian sau, mỗi lần đeo vào ngón tay, chị nhận thấy chiếc nhẫn lóng lánh kia làm nổi bật bàn tay xương xẩu nhiều gân xanh, một bàn tay nhiều công việc vất vả. Bàn tay của những tháng năm mòn mỏi bổn phận. Bỗng dưng bàn tay co lại như muốn che dấu, chị xúc động toàn thân, nhận thấy rõ bàn tay mình không có ngón tay thuôn đẹp để mang chiếc nhẫn kim cương tuyệt vời ấy. Viên kim cương này có thực sự làm tăng thêm  giá trị cho người đeo không? Chị mơ hồ, mình không thích hợp. Tuy nhiên chị nghĩ rằng đó chỉ là cảm giác nhất thời trong lúc mệt mỏi.

Để đánh tan mặc cảm, chị luôn đeo nó khi đi chợ ra phố xá, tuy nhiên chẳng một ai trên đường phố biết rằng chị đang đeo trên ngón tay một chiếc nhẫn có giá trị cao. Niềm mơ ước ấy nay có giá trị thực không. Chị nghi hoặc về nó và hoài nghi luôn cả về chính mình, đúng hay sai. Có thể chị nhầm lẫn, nhầm lẫn điều gì, chị không biết trả lời cho mình. Chỉ thấy hơi buồn. Bao nhiêu kỳ vọng về một ước mơ, nay mơ ước đạt được, nó đang ở trước mắt, nó đang thuộc về mình, bỗng dưng soi rõ một điều bất ngờ vô cùng, chị không thuộc về nó. Một mâu thuẩn khó giải thích. Có lẻ chị không phải là một mẫu người sang trọng, quý phái thích hợp loại trang sức đắt tiền kia.

Và, chị thấy nó không còn hấp dẫn như trước đây. Có một buổi tối, chị đem chiếc nhẫn ra ngắm nghía, trong bóng đêm, viên hột xoàn không còn chiếu sáng, chị tức thời hiểu ra, chiếc nhẫn chỉ có thể lấp lánh chói lòa khi nhận được ánh sáng từ bên ngoài chiếu vào. Tự thân nó không có hào quang, nó phải nhờ, phải phụ thuộc vào ánh sáng đèn hay ánh sáng mặt trời để có thể khoe khoang vẻ đẹp. Nó thật sự chỉ là một viên sỏi đá, chị nghĩ như thế. Lúc chiếc nhẫn nằm ở trong tủ kính, sao đáng mê thế, bây giờ nằm trong lòng bàn tay chị, không còn quyến rũ nữa. Chị thấy mình bỗng dưng thở dài khi nhớ đã mua với số tiền dành dụm không nhỏ.

Không gian nhà bếp là nơi chốn thân thương nhất với chị, chị sống trong đó nhiều giờ nhất trong mỗi ngày, nên chị muốn cất chiếc nhẫn nơi này cho dễ nhớ, khi cần thì lấy ra dễ dàng. Chị bọc nó vào túi ny-lông nhỏ nhét vào lon bột nếp dùng làm bánh, chắc chắn bọn trộm cắp không bao giờ nghĩ ra. Nghe nói dạo này bọn nó cứ tìm đến các nhà có đàn bà Á Đông tấn công.

Thời gian sau, nhân dịp cùng chồng đi dự đám cưới con nhà bạn, chị lo chuẩn bị áo quần, chợt nhớ tới chiếc nhẫn quý báu, nhủ thầm ít ra mình cũng có chút gì đeo vào cho nhấp nháy với đời. Dạ tiệc cưới đầy ánh sáng, chắc hẳn chiếc nhẫn của chị sẽ rực rỡ hơn ngày thường gấp bội, chị thấy phấn khởi. Nhưng tìm mãi không thấy lọ đựng bột nếp nằm nơi đâu, tìm suốt buổi sáng, nhưng nó biệt tăm.  Chị nghi ngờ về trí nhớ của mình, lo sợ một chứng bệnh quên lãng đến sớm.

Buổi chiều khi cô con gái về nhà, Chị nói: Mẹ định làm bánh bột nếp, nhưng tìm mãi không thấy lon bột, con vô bếp tìm giúp mẹ”. Tức thời con gái trả lời:

–  Mấy hôm trước con thấy lon bột có con gián bò vào, nên đem vất ra thùng rác rồi ! Mẹ cẩn thận phải xịt thuốc trừ gián gấp.”

Câu trả lời của con làm chị hoảng hốt, bần thần, nhưng chị không dám nói ra sự thật. Đã dấu thì dấu luôn, nếu không sẽ bị chồng con chỉ trích là khờ dại. Chị  nghẹn ngào muốn khóc, thấy mình đã làm vợ, đã làm mẹ rồi mà sao ngu quá.

Lỗi tại mình. Đáng lý ra chị không nên mơ tưởng nó, nó không phải là thứ thích hợp cho phận mình. Nó có ý nghĩa thực sự gì cho chị ? Mơ ước làm vui cho tâm hồn, nhưng giờ đây chị không dám mơ ước. Chị vừa trải qua một thứ thử thách đắt giá làm chị đau xót, cả về vật chất lẫn tinh thần đúng nghĩa. Một nhầm lẫn tai hại cho chính chị. Trước mặt chị, đối mặt chị là căn phòng bếp thân thương hằng ngày, là nơi đem lại ấm áp cho chị và gia đình, là chủ nhân thực sự. Nơi đây các thứ gia vị nấu nướng được bày biện trong những chai lọ thủy tinh trong suốt cũng bắt mắt cho người đàn bà nội trợ. Hiện tại là điều gì đáng quý nhất, đáng trân trọng nhất. Hiện tại mới là cuộc sống thực sự của chị. Tại sao chị đi tìm đâu xa xôi cái bóng bẫy lấp lánh huyễn hoặc không thuộc đời chị. Chị tự hỏi và cũng không biết câu trả lời.

Paris, tiết Lập Xuân

Trần Thị Diệu Tâm