CUỘC ĐỜI THĂNG TRẦM CỦA NỮ BÁC SĨ ĐẦU TIÊN CỦA VIỆT NAM: HENRIETTE BÙI QUANG CHIÊU

nguồn: chuyenxua.net

  Khi thực dân Pháp chiếm Việt Nam làm thuộc địa, cùng với đó là sự du nhập của văn hoá Tây Âu là phương pháp chữa bệnh theo Tây Y.

Ban đầu, Tây Y và bác sĩ chỉ phục vụ cho quân Pháp và gia quyến đi cùng.

Dân Việt vẫn chỉ chữa bệnh, sinh đẻ theo các bài thuốc, phương pháp Đông Y cổ truyền từ thầy lang và bà đỡ.

Tuy nhiên cùng với quá trình thâm nhập sâu rộng của văn hoá Pháp vào đời sống dân Việt, hệ thống bác sĩ, bệnh xá lần lượt được xây dựng và phát triển.

Những vị bác sĩ Tây Y người Việt tiên phong cũng lần lượt xuất hiện, nhưng đặc biệt nhất có lẽ phải kể đến nữ bác sĩ đầu tiên của Việt Nam Henriette Bùi Quang Chiêu.

Tài năng và tên tuổi của bà một thời từng là niềm tự hào của người Việt trước sự lấn lướt, khinh miệt của người Pháp.

Giống như hầu hết những tri thức thời kỳ này, bà Henriette xuất thân trong một gia đình quyền quý.

Cha bà Henriette là chính khách nổi tiếng ở Nam Kỳ, nghị viên Bùi Quang Chiêu.

Trước năm 1945, Ông Chiêu là một nhân vật tích cực trong giới chính trị, ông tham gia thành lập Đảng Lập Hiến, đấu tranh cho quyền bình đẳng cho người Việt, quyền tự do báo chí, hỗ trợ nhiều du học sinh người Việt sang Pháp du học,… Thời trẻ, ông Chiêu cũng từng là du học sinh Pháp, là người Việt đầu tiên có bằng kỹ sư canh nông của Pháp. Ông cũng là người Việt duy nhất được đưa vào thăm vua Hàm Nghi khi vua bị Pháp đày sang Algérie.

Em gái của ông Bùi Quang Chiêu chính là bà nội của Trần Lệ Xuân (phu nhân của Ngô Đình Nhu).

Mẹ bà Henriette là bà Vương Thị Y, vốn là con gái trong một gia đình gốc Hoa giàu có ở Nam Kỳ. Ông Bùi Quang Chiêu và bà Vương Thị Y có 6 người con chung, bà Henriette là con thứ.

Gia đình Bùi Quang Chiêu. Ảnh gia đình chụp năm 1921 tại Phú Nhuận. Từ trái sang: Madeline, Henriette, ông Bùi Quang Chiêu, Louis, Camille và Helène.

HỌC VẤN XUẤT SẮC – SỰ NGHIỆP RỰC RỠ

Dù có gốc gác Nam Kỳ, lớn lên ở Sài Gòn nhưng bà Henriette lại được sinh ra ở Hà Nội vào ngày 8 tháng 9 năm 1906.

Ngay từ nhỏ, cô bé Henriette đã được giáo dục kỹ lưỡng theo truyền thống học hành của gia đình.

Thời tiểu học, Henriette được gửi vào học tại trường St Paul de Chartres (tức trường Nhà trắng) tại Sài Gòn (ngày nay ở đường Tôn Đức Thắng).

Vốn thông minh và hiếu học, năm 1915, khi vừa tròn 9 tuổi, Henriette được thi vượt cấp vào trung học, nhận bằng Certificat d’Études sớm 2 năm so với các bạn cùng trang lứa.

Ngôi trường tiếp theo Henriette theo học là trường Collège des Jeunes Filles (tức trường Trung Học Gia Long Sài Gòn và là trường Nguyễn Thị Minh Khai ngày nay), sau đó là trường Lycée Marie Curie.

Bà đậu bằng Certificat d’Études với thứ hạng cao, rồi sau đó nằng nặc đòi thân phụ cho đi học ngành Y khoa ở Paris như người anh Louis Bùi Quang Chiêu của bà.

Người cha Bùi Quang Chiêu đành phải nhượng bộ cho Henriette sang du học ở Agen, một thành phố ở miền nam nước Pháp, và đã phải thuê một vị giáo sư để đi cùng với cô con gái bé bỏng Henriette ra bến tàu Sài Gòn, để chăm lo việc sinh hoạt và học tập của bà.

Bà xuất ngoại mùa Hè 1921, khi chưa tròn tuổi 15. Bà học rất giỏi, ngoài tiếng Việt, tiếng Pháp và Trung Hoa, bà còn thông thạo nhiều ngôn ngữ khác như tiếng Anh, Tây Ba Nha, Ý và cả những cổ ngữ như La Tinh và Hy Lạp. Việc học của bà bị gián đoạn một năm vì bệnh đau mắt (trachoma), tuy nhiên bà cũng tốt nghiệp bậc trung học tại Lycée d’Agen và Bordeau năm 1925, thuộc miền Tây Nam nước Pháp, và lấy bằng tú tài năm 1926 dưới sự giám hộ của giáo sư triết Madame Meyerson.

Từ niềm kính phục, trân trọng người anh của mình là Louis Bùi Quang Chiêu – một bác sĩ chuyên về bệnh Ho lao nổi tiếng tại Sài Gòn, và cũng vì người mẹ đã mất vì bệnh tật, năm 1927, bà vào học trường Đại Học Y khoa Paris. và trong thời gian này, bà được giới thiệu rồi trở thành thân thiết với nhà bác học Marie Curie và nhà sử học Charles Seignobos.

Ngoài một số người ngoại quốc, bà còn quen biết với nhiều nhân vật nam nữ người Việt Nam du học tại Pháp mà sau này sẽ đóng những vai trò rất quan trọng trên các lĩnh vực chính trị, ngoại giao, văn hóa và giáo dục trong nước.

Về phía nam giới, bà quen biết với vua Bảo Đại đang theo học tại Pháp; ông Nguyễn Văn Xuân, sinh viên trường École Polytechnique, sau này là Trung tướng Nguyễn Văn Xuân (Thủ tướng Chính phủ Quốc Gia Việt Nam đầu tiên vào năm 1948); Hoàng Xuân Hãn, sinh viên Polytechnique, sau này là Bộ Trưởng Giáo Dục trong Chính phủ Trần Trọng Kim; ông Ngô Đình Nhu, sinh viên École de Chartres, sau này là cố vấn chính trị của Tổng thống Ngô Đình Diệm,…

Về phía nữ giới , bà là bạn của bà Hoàng Thị Nga, em gái của Giáo sư Hoàng Cơ Nghị, vị nữ tiến sĩ khoa học đầu tiên của Việt Nam; bà Nguyễn Thị Bính, vợ của Thạc sĩ Hoàng Xuân Hãn, vị nữ dược sĩ đầu tiên của Việt Nam,…

Trong những năm cuối cùng tại trường Y, bà đã chọn những ngành chuyên môn như: pathological anatomy, obstetrics, gynecology, podiatry và infant care.

Cũng giống như các vị nữ bác sĩ thời đó, bà chuyên về việc chữa trị các bệnh đàn bà và trẻ em trong thời gian nội trú tại các bệnh viện la Charité, Beaujon, Cochin và Bichat tại Paris.

Năm 1932, bà tốt nghiệp đại học. Sau hai năm thực tập, bà là người phụ nữ Việt Nam lấy bằng bác sĩ y khoa đầu tiên ở Pháp.

Khi tốt nghiệp, bà dự định viết một luận án về đề tài “thụ tinh nhân tạo cho những người bị hiếm muộn”, tuy nhiên vào thời đó thì đề tài này quá mới mẻ và gây nhiều tranh cãi cho một người phụ nữ trẻ tuổi, do đó bà đã nghe lời khuyên của các vị giáo sư mà đổi sang một đề tài “truyền thống” hơn: “The Phebitis of Gestation”. Bài luận án của bà đã được Hội đồng giám khảo khen ngợi và tưởng thưởng huy chương vào năm 1934.

Năm 1935, ngay sau khi tốt nghiệp và nhận tấm bằng bác sĩ, bà Henriette trở về Việt Nam. Cũng trong năm này, bà được giao giữ chức Trưởng khoa hộ sinh ở bệnh viện Chợ Lớn (nay là bệnh viện Từ Dũ). Bà trở thành người phụ nữ Việt Nam đầu tiên được giao trọng trách quan trọng trong hệ thống bệnh viện Tây y của Việt Nam.

Không chỉ dốc lòng cho công việc cứu người, bà Henriette còn không ngừng trau dồi và phát triển chuyên môn của mình.

Năm 1957, bà từng có thời gian đến Nhật để học thêm về các phương pháp châm cứu, áp dụng trong sản khoa.

Bà cũng là người phụ nữ Việt Nam đầu tiên thành lập Bảo Sanh Viện trên đường Richeaud (nay là đường Nguyễn Đình Chiểu)

Trong suốt hơn 40 năm hành nghề, đặc biệt là trong những năm tháng làm việc tại Việt Nam, bà Henriette đã nhiều lần công khai chống đối cấp trên người Pháp, đấu tranh cho quyền lợi của các bác sĩ và bệnh nhân người Việt trước những bất công và sự đối xử thiếu công bằng từ ban lãnh đạo bệnh viện người Pháp.

Ví dụ như cùng là bác sĩ tốt nghiệp từ trường Đại học Y khoa Paris, cùng chức phận và công việc như nhau nhưng trong khi bác sĩ người Pháp được trả 1.000 đồng một tháng thì bác sĩ người Việt chỉ được trả lương 100 đồng một tháng;

Hay việc bệnh nhân người Pháp luôn được ưu tiên và đối xử tử tế hơn bệnh nhân người Việt;

Sự đối xử thiếu tôn trọng, thậm chí là thái độ khinh miệt kẻ cả của những y bác sĩ người Pháp đối với đồng nghiệp người bản địa; Hoặc như có lần ông giám đốc bệnh viện người Pháp yêu cầu bà phải mặc đầm khi đến bệnh viện làm việc để nhận được sự tôn trọng từ những đồng nghiệp người Pháp, bà đã thẳng thừng từ chối, kiên quyết mặc áo dài truyền thống đi làm.

Năm 1970, sau khi từ Pháp trở lại Việt Nam và trước khi quay trở lại Pháp vào năm 1971, bà đã quyết định đến làm việc không lương ở Khoa hộ sản và nhi khoa tại bệnh viện Phú Thọ.

Sau 5 năm quay lại Pháp hành nghề y, bà nghỉ hưu vào năm 1976, khi vừa tròn 70 tuổi. Cả cuộc đời cống hiến cho nghề không mệt mỏi, về già Henriette bà không ngần ngại hiến tặng luôn biệt thự riêng của mình ở số 28 đường Testard (nay là đường Võ Văn Tần) làm cơ sở cho trường Đại Học Y Khoa thuộc viện Đại Học Sài Gòn.

Địa điểm này ngày nay nằm trong khuôn viên của Bảo Tàng Chứng Tích Chiến Tranh, căn nhà cũ của Henriette (cũng là trụ sở đại học Y Khoa cũ) đã bị đập bỏ.

Villa địa chỉ số 28 đường Testard (sau 1954 là đường Trần Quý Cáp, nay là Võ Văn Tần 

BI KỊCH GIA ĐÌNH

Như đã nhắc ở trên, bà Henriette mồi côi mẹ từ năm 16 tuổi khi đang du học tại Pháp, tuy nhiên nỗi đau đó chưa phải là lớn nhất khi cuối năm 1945, một tấm bi kịch khủng khiếp khác một lần nữa đổ xuống gia đình bà.

Ông Bùi Quang Chiêu do từng giữ chức Viện Trưởng Hội Đồng Quản Hạt Nam Kỳ (trước năm 1939) và đại biểu Nam Kỳ tại Thượng Hội Đồng Pháp quốc hải ngoại, ông bị lực lượng Việt Minh kết tội làm tay sai cho thực dân Pháp. Và kết cục là ngày 29 tháng 9 năm 1945, tại Chợ Đệm (Bình Chánh, Sài Gòn), ông Bùi Quang Chiêu cùng năm người khác trong đó có ba người con trai và con gái của ông đã bị kết án tử.

Ông Bùi Quang Chiêu

Lúc sinh thời, ông Bùi Quang Chiêu là người nhiệt thành ủng hộ phong trào Duy Tân của Phan Châu Trinh cũng như phong trào Đông Du của Phan Bội Châu. Ông đã đọc trước mồ cụ Phan Châu Trinh: “Tây Hồ anh ơi, tôi xin thề hy sanh cho chủ nghĩa Pháp Việt đề huề”. Năm 1919 ông đứng ra thành lập Đảng Lập hiến Đông Dương, là một chính đảng hoạt động ở Nam Kỳ trong thập niên 1910 đến 1930, vận động đòi tự trị cho Việt Nam để lần hồi giành lại độc lập hoàn toàn cho người Việt. Đảng Lập Hiến dùng 3 tờ báo: La Tribune Indochinoise (Báo Đông Dương), L’Echo Annamite và Đuốc Nhà Nam làm diễn đàn. Tuy gọi là Đảng nhưng những Đảng Lập hiến lại tổ chức giống như một câu lạc bộ chính trị của giới điền chủ, nghiệp chủ, công chức người Việt ở Nam kì. Bùi Quang Chiêu cũng là đảng viên đảng Cấp tiến và Xã hội Chủ nghĩa Cấp tiến của Pháp, nên nhân lúc Alexandre Varenne của đảng Xã hội Cấp tiến Pháp được bổ nhiệm làm toàn quyền vào năm 1926 với hứa hẹn cải tổ cai trị ở Đông Dương, Bùi Quang Chiêu lại sang Pháp vận động chính giới Pháp với loạt bài “Pour le Dominion Indochinois”. Ông đưa ra “Bản yêu sách 9 điều khoản” gồm: Tự do ngôn luận, Tự do báo chí, Tự do hội họp và lập hội, Tự do đi lại, Cải cách giáo dục, Điều chỉnh chế độ lương bổng cho công bằng giữa người Pháp và người Việt, Nới rộng quyền đại diện chính trị, Nâng cao đời sống lao động, Bãi bỏ độc quyền kinh tế. Với thanh thế đó, ông về lại Sài Gòn tranh cử cuộc bầu cử tháng 10 năm 1926. Kết quả là ông cùng 9 đảng viên đảng Lập Hiến đắc cử Hội đồng Quản hạt Nam Kỳ, chiếm trọn 10 ghế của người bản xứ. Ông được bầu làm Phó chủ tịch Hội đồng. Năm 1927 nhờ sự vận động của ông cùng các nhân sĩ khác như Phan Văn Trường, Huỳnh Thúc Kháng, Nguyễn An Ninh, Vũ Đình Dy và Nguyễn Phan Long, người Pháp mới bãi bỏ điều kiện Pháp tịch cho những học sinh muốn sang Pháp du học. Cũng vì quan tâm đến việc giáo dục, ông mở tư thục “An Nam Học đường” ở Sài Gòn. Hoạt động chính trị của ông bị nhà chức trách cho là bài Pháp nên ông và báo La Tribune Indochinoise bị liệt danh vào “sổ đen” của mật thám Pháp. Ở phía ngược lại, ông cũng bị Việt Minh kết tội là tay sai cho Pháp.

THOÁT KHỎI NHỮNG SẮP XẾP VÀ ĐỊNH KIẾN 

Bà Henriette kết hôn lần đầu tiên theo sự sắp xếp của cha vào năm 1935 ngay sau khi du học trở về nước. Bà kể về lần kết hôn này như sau: 

“Hồi đó, ngay cả ở Pháp, phụ nữ học ngành y cũng rất ít. Ra trường, cũng không ít nữ bác sĩ bỏ nghề vì phải lấy chồng, sinh con. Tôi cũng không thoát khỏi định kiến xem thường phụ nữ thời ấy. Vừa tốt nghiệp bác sĩ, tôi đã bị cha triệu về Việt Nam để gả chồng…”

Như bao gia đình quyền quý khác, ông Bùi Quang Chiêu chọn cho cô con gái cưng một người chồng vô cùng “môn đăng hộ đối”, xuất thân trong một gia đình quyền quý không kém gia đình ông. Đó là luật sư Vương Quang Nhường, cháu ruột của thái hậu Từ Dũ, tiến sĩ Luật Khoa người Việt đầu tiên, đồng thời là thành viên Đảng Lập Hiến Đông Dương do ông Bùi Quang Chiêu sáng lập.

Tuy nhiên, với bà Henriette, cuộc hôn nhân khiên cưỡng này lại hoàn toàn không mang lại cho bà hạnh phúc. Đặc biệt là tư tưởng của hai người cực kỳ khác biệt, trong khi ông chồng chỉ muốn bà ở nhà nội trợ, sanh con đẻ cái với tuyên bố:

“Tôi là trạng sư, lương đủ cho bà ở nhà, đi chơi”, thì bà lại kiên quyết theo đuổi công việc bác sĩ của mình: “Tôi thích làm, không thích chơi”.

Sau hai năm gắng gượng duy trì cuộc hôn nhân đầy những bất đồng, bà Henriette quyết định đưa đơn ly dị chồng, giải phóng cho bản thân, bất chấp những lời dị nghị. Không chỉ thẳng thắn và quật khởi trong hôn nhân, vượt qua những định kiến về giới, bà Henriette trở thành người phụ nữ đầu tiên mua và lái xe hơi trên đường phố Sài Gòn trước bao ánh nhìn và lời bàn tán của mọi người.

Sau cuộc hôn nhân đầu tiên thất bại, đạp lên mọi luồng dư luận và bất chấp những ý kiến trái chiều từ gia đình, bà quyết định tái hợp và chung sống với mối tình sâu đậm nhất của mình mà không cần bất cứ hôn lễ hay tờ hôn thú nào.

MỐI TÌNH SÂU NẶNG VÀ CUỐI CÙNG

Người chồng thứ hai của bà Henriette là ông Nguyễn Ngọc Bích, cũng là mối tình sâu đậm, dài lâu và cuối cùng trong cuộc đời bà.

  Nguyễn Ngọc Bích, con trai Đốc phủ sứ Nguyễn Ngọc Tương 

Đó là những năm tháng du học tại Pháp, mùa đông Paris lạnh giá và khắc nghiệt, cậu em họ xa Nguyễn Ngọc Bích thường xuyên đau bệnh, nên người chị họ Henriette vốn là một sinh viên y khoa giàu kiến thức đã tận tình qua lại chăm sóc cho sức khoẻ của cậu em.

Bất chấp những định kiến, lễ giáo về quan hệ họ hàng, hai người dần nảy sinh tình cảm lúc nào không hay. Khi tình cảm vừa chín tới, cũng là lúc bà Henriette tốt nghiệp phải về nước lấy chồng theo lệnh cha.

Nói về ông Nguyễn Ngọc Bích, đây cũng thực sự là một người đàn ông tài giỏi, thông minh hiếm có khiến bà Henriette không chỉ yêu mà còn nể phục.

Ông Nguyễn Ngọc Bích là con trai thứ của đốc phủ sứ Nguyễn Ngọc Tương (về sau là Giáo Tông của Ban Chỉnh Đạo Hội Thánh Cao Đài). Tuy nhỏ tuổi hơn bà Henriette đến 5 tuổi (sinh năm 1911) nhưng ông cũng được gia đình gửi đến Pháp du học từ sớm cùng hai người anh trai và đậu vào ngành kỹ sư cầu đường tại đại học École Polytechnique, ngôi trường danh tiếng hàng đầu tại Paris, nơi chỉ tuyển những sinh viên xuất sắc nhất.

Năm 1936, ông Nguyễn Ngọc Bích tốt nghiệp đại học và về nước làm việc tại sở Thuỷ Lợi tỉnh Sóc Trăng.

Sau khi bà Henriette ly hôn chồng, gặp lại ông Nguyễn Ngọc Bích và rồi tình cũ không rủ cũng tới, hai người quyết định dọn về chung sống cùng nhau mà không cần bất cứ lễ cưới nào, bất chấp sự phản đối của cả hai gia đình.

Trong khi bà Henriette tiếp tục công việc bác sĩ tại Sài Gòn thì ông Bích đi đi về về với công việc tại Sóc Trăng.

Năm 1940, ông Bích nghỉ việc tại Sóc Trăng, trở về quê nhà Bến Tre, gia nhập lực lượng Việt Minh và nhanh chóng trở thành thành viên chủ chốt.

Một mình ở lại Sài Gòn, bà Henriette vẫn dành trọn tình yêu và chờ đợi những chuyến về thăm của chồng.

Năm 1944, bà Henriette đón nhận cú sốc từ người chồng mà bà nhất mực yêu thương. Ông Nguyễn Ngọc Bích có con riêng với một cô sinh viên trường nữ công gia chánh ở Sóc Trăng.

Tuy nhiên, đó chỉ là một mối tình say nắng, trót dại của ông Bích, dù hai người không có hôn thú, ông Bích vẫn nhất quyết không bỏ vợ. Cô gái kia biết chẳng thể chia cắt ông bà cũng đành đi lấy chồng khác.

Bà Henriette dù rất đau khổ, vẫn bao dung và điềm tĩnh giúp ông thu vén mọi chuyện gọn gàng.

Năm 1947, bà Henriette tiếp tục phải đối mặt với một biến cố khác từ chồng.

Trong một trận càn quét vào vùng kháng chiến ở Sóc Trăng, ông Nguyễn Ngọc Bích bị quân đội Pháp bắt làm tù binh. Lúc này, ông đang giữ những vị trí khá quan trọng trong chính quyền Việt Minh, là Khu bộ phó Khu 9 (vùng Tây Nam Bộ), đại biểu quốc hội khoá 1 VNDCCH, Uỷ viên dự khuyết Ban thường trực Quốc hội.

Ban đầu, ông Bích bị kết án tử hình. Tuy nhiên, nhờ ông Bích có quốc tịch Pháp và những mối quan hệ giao tế với nhiều nhân vật có tiếng nói tại Pháp đã gây sức ép lên chính quyền quân sự Đông Dương, khiến họ không thể ghép ông vào tội tử hình chỉ với những cáo buộc “phản loạn”. Đổi lại, ông Bích bị buộc phải rời khỏi Việt Nam, đến cư trú tại Paris và chịu sự giám sát của chính quyền Pháp. Bà Henriette lại một lần nữa, nén nỗi đau, gom góp tiền bạc, tiễn chồng sang Pháp.

Tại Paris dưới sự động viên và hỗ trợ của vợ từ quê nhà, ông Bích cùng bạn mở một nhà xuất bản sách tiếng Việt mang tên Minh Tâm.

Đầu thập niên 1950, ông Bích tiếp tục theo học y khoa và trở thành bác sĩ ung thư tại Pháp.

Đầu thập niên 1960, nhiều thông tin trong chính giới vận động ông như một ứng viên sáng giá có thể thay thế tổng thống đương nhiệm Ngô Đình Diệm trên chức vụ Tổng thống Việt Nam Cộng hòa qua cuộc bầu cử năm 1961.

Tuy nhiên, hồ sơ ứng cử tổng thống của ông đã bị chính quyền Sài Gòn tuyên bố không hợp lệ vào giờ chót vì “lý do kỹ thuật”.

Năm 1961, vợ chồng bà Henriette quyết định chuyển đến Pháp làm việc, mở phòng mạch riêng và chung sống cùng chồng. Những năm cuối đời, ông Bích mắc bệnh ung thư vòm họng, bà đưa ông trở về Việt Nam dưỡng bệnh và chăm sóc ông cho đến tận ngày ông qua đời vào ngày 4 tháng 12 năm 1966 tại Thủ Đức.

Đối với người con trai riêng của chồng là Nguyễn Ngọc Châu, chính bà là người gợi ý và tận tình hỗ trợ ông bảo lãnh con trai sang Pháp du học và sinh sống cùng khi anh tới tuổi thành niên.

Chính vì vậy mà dù sau khi cha mất, Nguyễn Ngọc Châu vẫn luôn coi bà Henriette giống như mẹ của mình. Khi được hỏi về người chồng quá cố, ở tuổi 101, bà Henriette vẫn minh mẫn trả lời một cách rõ ràng và rành mạch:

“Tôi biết cô hỏi tôi yêu ông Bích vì cái gì phải không? Tình yêu thật kỳ lạ. Người ta yêu nhau không phải vì cái gì cả, chỉ biết là chúng tôi đã yêu thương nhau, cùng nương tựa nhau đi qua những thăng trầm của lịch sử, đời người. Nhưng tôi thương ông Bích vì ông ấy thông minh. Tôi muốn giúp người thông minh, học giỏi đi đến cùng ước mơ của họ. Và vì thế mà tôi sẵn sàng tha thứ, chia sẻ với nỗi khổ tâm rất riêng tư của chồng tôi. Tôi vẫn yêu ông ấy, ngay cả khi ông không còn trên cõi đời này nữa. Vì lẽ đó mà mỗi lần gặp Nguyễn Ngọc Châu, tôi rất vui, vì Châu là phiên bản của chồng tôi. May mà còn có Ngọc Châu. Cuộc sống vẫn kỳ diệu hơn điều người ta nghĩ, phải không?!”.

Những năm cuối đời, bà Henriette sống trong một nhà dưỡng lão cao cấp tại Pháp, đồng thời bày tỏ ý nguyện sẽ dành tặng toàn bộ số tiền tiết kiệm cho một tổ chức từ thiện sau khi bà qua đời.

Ngày 27 tháng 4 năm 2012, bà Henriette mất tại Paris ở tuổi 106.

chuyenxua.net biên soạn

From: TU-PHUNG

EM LÀ AI!!!

Tình Ca Tây Bắc

Em là ai giữa cuộc đời giông gió

Tấm thân gầy đã biết tỏ cùng ai

Bước chân đi trên khắp nẻo đường dài

Cơm áo thiếu vẫn miệt mài em sống….

Có biết không giữa biển người rất rộng

Em một mình gồng gánh những lo toan

Rằng đêm nay giấc ngủ có an toàn ?

Ai ôm ấp giữa màn đêm lạnh giá ?

Rồi ngày mai thiếu cơm em đói lả

Ai thương tình chia cả những miếng ăn ?

Tuổi thơ ngây chịu bao nỗi nhọc nhằn

Ai thấu hiểu giọt lệ lăn trên má ?

Cùng tuổi em người ta đang hối hả

Mải ăn chơi biết vất vả gì đâu

Là em đây nào dám ước sang giàu

Và hạnh phúc là niềm đau thầm lặng…..

Tuổi thơ ngây em dãi dầu mưa nắng

Và tâm hồn trong trắng sớm nặng mang

Là ai kia khiến em phải lỡ làng ?

Một kiếp sống với muôn vàn khốn khó..

Thơ: Thu Hà

KV-QPAN. St

Hột Xoàn – Trần Thị Diệu Tâm

Trần Thị Diệu Tâm

 Trong đời sống đơn sơ tầm thường giản dị ở chốn bếp núc, người đàn và như chị biết rất nhiều loại ngũ cốc, nôm na là biết nhiều loại hột, kể sao cho xiết. Nhưng thật tình mà nói, chị chỉ thích có một thứ, loại này không có khả năng nẩy mầm cho hoa cho trái, nhưng có khả năng làm sảng khoải tâm hồn chị.

Đó là hột xoàn.

Hột xoàn là thứ hột cho ánh sáng lấp lánh, nhìn nó phát mỏi mắt, nhìn nó mà mê tơi. Không có ánh sáng nào đẹp bằng thứ ánh sáng của hột xoàn. Đàn bà ai chả thích, đâu phải một mình chị. Trong lúc ngồi ăn cơm, chị thật thà đem chuyện thích hột xoàn nói với chồng cho vui. Chồng chị gắt “ Chồng không yêu, lại đi yêu hột xoàn, đừng có dại !”

Chị cụt hứng, nhưng chị không dại mà cũng không điên. Vì khi biết mình còn ham mê, nghĩa là biết mình còn ham sống, còn yêu cuộc đời này lắm. Niềm ham mê ấy chị giữ riêng, một mình chị biết một mình chị hay. Chị dành dụm tiền mặt mỗi tháng một ít, vì chẳng bao giờ biết dùng chi phiếu hay thẻ ngân hàng, chồng đưa tiền mặt cho chị đi chợ mỗi đầu tháng. Như con kiến tích trữ lương thực, suốt hai năm liền. Các tủ nhà đều không có chìa khóa, chị phải dấu số tiền ấy mỗi nơi một ít, không nên để chung một chỗ. Nhưng sau thời gian hai năm, trí nhớ của chị có đôi chút lãng đãng, vì có nhiều góc khuất kín đáo. Thấy mẹ lục lọi như tìm kiếm, cô con gái hỏi mẹ “Mẹ tìm gì vậy? nói con tìm cho “. Chị trả lời ” Dọn dẹp đồ đạc cho gọn gàng thôi”. Chồng chị thắc mắc “Em sao cứ dọn hoài vậy”. Chị không trả lời, cho biết làm gì chứ, con, chị không tin, huống chi tin chồng. Chờ dịp cả hai không có ở nhà, chồng đi làm, con bận đi học, chị sắp xếp lại tất cả các tủ áo quần, các ngăn kéo. Cái gì không dùng nữa còn tốt chị cho vào một xắc riêng đem cho hội từ thiện. Chị thấy cũng có lý do tốt cho việc tim kiếm. Thật là một công đôi việc. Và rồi chị cũng tìm ra hết những gói tiền cất dấu lâu nay. Chị thở ra ” thật mừng như tiền ai cho”. Sau khi kiểm kê tài sản, chị xếp lại mớ tiền theo thứ tự mặt trước mặt sau. Bản tính vốn cẩn thận với những tờ tiền chi tiêu, chị rất thích tiền giấy ơ-rô, vì nó có nhiều kích cở và màu sắc khác nhau, nếu sau này mắt mù, mình cũng có thể đếm được tiền. Đếm đi đếm lại cũng được vài ngàn. Chị cuộn tròn xấp tiền lấy sợi giây thun buộc lại cho gọn, cử chỉ này làm chị nhớ ngày xưa quê nhà mẹ chị cũng cất giữ tiền như thế.

Chị sẽ thực hiện điều ao ước bấy lâu nay, chị sẽ mua chiếc nhẫn hột xoàn lấp lánh ấy. Chiếc nhẫn nằm trong tủ kính cửa hiệu có tên Eternelle. Chị vốn không mấy giỏi tiếng bản xứ, nhưng cũng lờ mờ hiểu rằng có nghĩa là mãi mãi. Ai mà không quý trọng những gì có tính mãi mãi, bất diệt. Biết bao nhiêu cặp tình nhân, bao nhiêu cặp vợ chồng đám cưới đều tặng người mình yêu dấu chiếc nhẫn kim cương hột xoàn lấp lánh, hy vọng chiếc nhẫn  sáng ngời soi sáng cho tình yêu họ đến suốt cuộc đời. Nếu họ có bỏ nhau, không phải tại chiếc nhẫn xinh đẹp vô tội kia, mà vì chính họ là người thay lòng đổi dạ. Chứ chiếc nhẫn hột xoàn là một thứ thủy chung muôn đời bất diệt.

Trước đây, mỗi lần vào trung tâm mua sắm, chị luôn đến trước cửa hiệu Eternelle, ngắm nghía mãi mê mấy chiếc nhẫn lóng lánh kia, ước chi một ngày nào đó, chị sẽ đeo một chiếc vào ngón tay mình. Chị không hề biết loại nào tốt nhất, nước sáng xanh hay sáng tím, nhưng chiếc nhẫn sẽ kèm theo một một hóa đơn ghi giá trị số tiền. Từ ao ước đến khi được chiếm hữu là một tiến trình tâm lý rất tự nhiên của con người, không có chi lạ. Do đó nó phải ở trong tay chị, chị là sở hữu chủ, chị không cần phải đi qua mấy chuyến tàu mê-trô mới gặp nó nằm yêu kiều trong tủ kính.

Chị đi vào cửa hiệu một cách tự tin, không e dè như trước đây. Cô gái bán hàng trông như thờ ơ, có lẻ biết người đàn bà Á Đông này đã nhiều lần đến xem, cô nhiều lần đón tiếp, nhưng bà ta chỉ  lắc đầu đi ra. Nhưng lần này thì khác. Chị chỉ vào chiếc nhẫn đã từng chọn sẵn, thích hợp với số tiền trong túi, hình như nó đang chờ đợi chị, không ngoài ai khác. Cô bán hàng liền nở nụ cười tươi, nhẹ nhàng mở tủ kính, duyên dáng hỏi chị rất lịch sự:

– Thưa bà, muốn chiếc này?

Chị cười gật đầu, cô ân cần đưa chị đến ghế ngồi có đèn chiếu sáng rất rực rỡ. Cô lại ân cần cầm bàn tay chị, xỏ chiếc nhẫn vào ngón tay chị, thật là vừa khít, tuồng như chiếc nhẫn được tạo ra đúng khuôn.

Cô bán hàng reo lên: Ồ, chiếc nhẫn thật là thích hợp với tay bà!

Đúng, đó là sự thật không chối cãi, chị rất mãn nguyện, lại cảm thấy như mình là một thượng đế trong giây phút ấy, được đối xử trang trọng và lịch sự. Chị hân hoan đưa xấp tiền và đếm một cách cũng trang trọng không kém. Thực hiện điều mơ ước bấy lâu nay, chị vui thú biết bao. Khoảng đường từ Eternelle về đến nhà là thời gian chị được sống hạnh phúc nhất, mãn nguyện nhất. Về đến nhà chị vẫn còn đắm đuối với chiếc nhẫn tuyệt với đó.

Nhưng thời gian sau, mỗi lần đeo vào ngón tay, chị nhận thấy chiếc nhẫn lóng lánh kia làm nổi bật bàn tay xương xẩu nhiều gân xanh, một bàn tay nhiều công việc vất vả. Bàn tay của những tháng năm mòn mỏi bổn phận. Bỗng dưng bàn tay co lại như muốn che dấu, chị xúc động toàn thân, nhận thấy rõ bàn tay mình không có ngón tay thuôn đẹp để mang chiếc nhẫn kim cương tuyệt vời ấy. Viên kim cương này có thực sự làm tăng thêm  giá trị cho người đeo không? Chị mơ hồ, mình không thích hợp. Tuy nhiên chị nghĩ rằng đó chỉ là cảm giác nhất thời trong lúc mệt mỏi.

Để đánh tan mặc cảm, chị luôn đeo nó khi đi chợ ra phố xá, tuy nhiên chẳng một ai trên đường phố biết rằng chị đang đeo trên ngón tay một chiếc nhẫn có giá trị cao. Niềm mơ ước ấy nay có giá trị thực không. Chị nghi hoặc về nó và hoài nghi luôn cả về chính mình, đúng hay sai. Có thể chị nhầm lẫn, nhầm lẫn điều gì, chị không biết trả lời cho mình. Chỉ thấy hơi buồn. Bao nhiêu kỳ vọng về một ước mơ, nay mơ ước đạt được, nó đang ở trước mắt, nó đang thuộc về mình, bỗng dưng soi rõ một điều bất ngờ vô cùng, chị không thuộc về nó. Một mâu thuẩn khó giải thích. Có lẻ chị không phải là một mẫu người sang trọng, quý phái thích hợp loại trang sức đắt tiền kia.

Và, chị thấy nó không còn hấp dẫn như trước đây. Có một buổi tối, chị đem chiếc nhẫn ra ngắm nghía, trong bóng đêm, viên hột xoàn không còn chiếu sáng, chị tức thời hiểu ra, chiếc nhẫn chỉ có thể lấp lánh chói lòa khi nhận được ánh sáng từ bên ngoài chiếu vào. Tự thân nó không có hào quang, nó phải nhờ, phải phụ thuộc vào ánh sáng đèn hay ánh sáng mặt trời để có thể khoe khoang vẻ đẹp. Nó thật sự chỉ là một viên sỏi đá, chị nghĩ như thế. Lúc chiếc nhẫn nằm ở trong tủ kính, sao đáng mê thế, bây giờ nằm trong lòng bàn tay chị, không còn quyến rũ nữa. Chị thấy mình bỗng dưng thở dài khi nhớ đã mua với số tiền dành dụm không nhỏ.

Không gian nhà bếp là nơi chốn thân thương nhất với chị, chị sống trong đó nhiều giờ nhất trong mỗi ngày, nên chị muốn cất chiếc nhẫn nơi này cho dễ nhớ, khi cần thì lấy ra dễ dàng. Chị bọc nó vào túi ny-lông nhỏ nhét vào lon bột nếp dùng làm bánh, chắc chắn bọn trộm cắp không bao giờ nghĩ ra. Nghe nói dạo này bọn nó cứ tìm đến các nhà có đàn bà Á Đông tấn công.

Thời gian sau, nhân dịp cùng chồng đi dự đám cưới con nhà bạn, chị lo chuẩn bị áo quần, chợt nhớ tới chiếc nhẫn quý báu, nhủ thầm ít ra mình cũng có chút gì đeo vào cho nhấp nháy với đời. Dạ tiệc cưới đầy ánh sáng, chắc hẳn chiếc nhẫn của chị sẽ rực rỡ hơn ngày thường gấp bội, chị thấy phấn khởi. Nhưng tìm mãi không thấy lọ đựng bột nếp nằm nơi đâu, tìm suốt buổi sáng, nhưng nó biệt tăm.  Chị nghi ngờ về trí nhớ của mình, lo sợ một chứng bệnh quên lãng đến sớm.

Buổi chiều khi cô con gái về nhà, Chị nói: Mẹ định làm bánh bột nếp, nhưng tìm mãi không thấy lon bột, con vô bếp tìm giúp mẹ”. Tức thời con gái trả lời:

–  Mấy hôm trước con thấy lon bột có con gián bò vào, nên đem vất ra thùng rác rồi ! Mẹ cẩn thận phải xịt thuốc trừ gián gấp.”

Câu trả lời của con làm chị hoảng hốt, bần thần, nhưng chị không dám nói ra sự thật. Đã dấu thì dấu luôn, nếu không sẽ bị chồng con chỉ trích là khờ dại. Chị  nghẹn ngào muốn khóc, thấy mình đã làm vợ, đã làm mẹ rồi mà sao ngu quá.

Lỗi tại mình. Đáng lý ra chị không nên mơ tưởng nó, nó không phải là thứ thích hợp cho phận mình. Nó có ý nghĩa thực sự gì cho chị ? Mơ ước làm vui cho tâm hồn, nhưng giờ đây chị không dám mơ ước. Chị vừa trải qua một thứ thử thách đắt giá làm chị đau xót, cả về vật chất lẫn tinh thần đúng nghĩa. Một nhầm lẫn tai hại cho chính chị. Trước mặt chị, đối mặt chị là căn phòng bếp thân thương hằng ngày, là nơi đem lại ấm áp cho chị và gia đình, là chủ nhân thực sự. Nơi đây các thứ gia vị nấu nướng được bày biện trong những chai lọ thủy tinh trong suốt cũng bắt mắt cho người đàn bà nội trợ. Hiện tại là điều gì đáng quý nhất, đáng trân trọng nhất. Hiện tại mới là cuộc sống thực sự của chị. Tại sao chị đi tìm đâu xa xôi cái bóng bẫy lấp lánh huyễn hoặc không thuộc đời chị. Chị tự hỏi và cũng không biết câu trả lời.

Paris, tiết Lập Xuân

Trần Thị Diệu Tâm

Vượt Biển Một Mình – Nguyễn Trần Diệu Hương

Kimtrong Lam – Lương Văn Can 75

Nguyễn Trần Diệu Hương

Ngày 30 tháng Tư 1975, Saigon sụp đổ. Những gia đình đang ở trong các cư xá sĩ quan, cư xá công chức bị đuổi ra khỏi nhà. Cùng chung số phận, gia đình chúng tôi bị đuổi khỏi mái nhà thân yêu trong cư xá, nơi chúng tôi có một thời nhỏ dại êm ả. Mẹ đưa chúng tôi về căn nhà riêng Ba Mẹ đã xây nên bằng công sức của Ba Mẹ, nhưng nhà này cũng bị tịch thu. Sau hai lần mất nhà, chúng tôi lớn lên như câu ca dao “Còn cha gót đỏ như son, mất cha lăn lóc như lon sữa bò.” Ba chúng tôi còn sống, nhưng đang bị đầy ải trong trại cải tạo ở núi rừng âm u đầy chướng khí của miền Bắc. Những ngày u ám đó in hằn vào đầu óc của chúng tôi, khiến chúng tôi trưởng thành sớm hơn tuổi của mình, vì chỉ được xã hội cho nếm mùi cay đắng.

Đầu thập niên tám mươi, trước những bế tắc không lối thoát, Mẹ thu xếp gởi anh chị em chúng tôi, từng đứa, vượt đại dương để đến một vùng đất tự do, ở đó không có khủng bố tinh thần, ở đó không có trại cải tạo giam giữ những người hoàn toàn lương thiện, và ở đó chúng tôi sẽ được học hành thành người. Cũng như rất nhiều người vợ lính khác, Mẹ đảm đang, xuôi ngược nuôi chúng tôi, nuôi Ba trong các trại tù cải tạo từ Bắc vào Nam. Tất cả những điều đó đẩy chúng tôi đến đường cùng, không còn lựa chọn nào khác hơn là phải đưa chính mạng sống của mình đánh cuộc với định mệnh, với đại dương. Còn nhớ thời đó, người dân miền Nam Việt Nam vẫn truyền miệng một câu ngạn ngữ của thời đại “Một là con nuôi mẹ, hai là mẹ nuôi con, ba là con nuôi cá.” Cứ thế một hai ba Mẹ lo cho con một mình vượt biển. Khả năng vượt thoát chỉ là một phần ba. Ròng rã gần mười lăm năm dài, từ cuối năm 1975 đến đầu năm 1990, hàng trăm ngàn thuyền nhân (hay theo như cách gọi của UNHCR United Nations High Commissions for Refugees, Cao Uỷ Tỵ nạn Liên Hiệp Quốc là “Boat People”) đã đến được bờ bến tự do. Cùng lúc, hàng trăm ngàn thuyền nhân khác gởi thân vào lòng đại dương.

Chưa qua khỏi tuổi thơ, nước mất, nhà tan, chúng tôi, không có thời mới lớn, tự động bước vào tuổi trưởng thành trước những khó khăn của Mẹ, vượt quá nỗi khổ của bà Tú Xương ở thế kỷ mười chín, vừa nuôi chồng trong tù cải tạo, vừa nuôi một bầy con dại còn ở Tiểu học hoặc ở những năm đầu Trung học. Từng đứa một, khi có điều kiện, Mẹ gởi chúng tôi ra đi.

Đến phiên tôi, Mẹ chỉ đưa được tôi ra bến xe liên tỉnh để đi Vũng Tàu. Cả hai mẹ con đều đội nón lá rộng vành để che những giọt nước mắt lã chã rơi không ngừng. Mẹ khóc nhiều hơn những lần đưa các anh em trai của tôi ra đi, vì tôi là con gái duy nhất trong nhà, thân gái dậm trường. Ngồi trên xe đò từ Saigon về Vũng Tàu, trong một góc xe đò, tôi úp nón lên mặt, để che đôi mắt sưng đỏ vì khóc của mình.

Gần một tuần lênh đênh trên đại dương, chỉ có trời và nước, xanh thẫm ban ngày, đen kịt ban đêm, không có cả một cánh chim, tôi nhớ Ba, nhớ Mẹ quay quắt, nhưng vẫn hài lòng với chọn lựa của mình. Hai ngày đầu, như mọi người trong lòng thuyền, tôi bị say sóng, nôn ra cả mật xanh, mật vàng. Đó là lần đầu tiên trong đời, tôi hiểu thế nào là “mửa mật”. Vậy mà chỉ hai ngày sau, quen dần với cảm giác bập bềnh của con thuyền nhỏ trước lực đẩy của nước ở đại dương, tôi tỉnh táo lại hoàn toàn với đầy đủ sinh lực của “tuổi mười bảy bẻ gãy sừng trâu” mặc dù đã hai ngày không ăn uống. Khi thuyền ra hải phận quốc tế, chúng tôi được lên khoang thuyền hít thở không khí trong lành đầy vị mặn của đại dương, hình như có thoang thoảng mùi vị của tự do.

May mắn hơn những người tỵ nạn khác, chúng tôi đi bình yên, không gặp một thuyền nào khác. Trời êm biển lặng vào tháng sáu đầu mùa hè đưa chúng tôi đến thẳng đất liền của Mã Lai sau năm ngày sáu đêm lênh đênh trên biến.

Lên tới đất liền, cùng với chú lái tàu, tôi phải vận dụng vốn liếng tiếng Anh hạn chế đã tích lũy trong những tháng năm chuẩn bị vượt biên để giải thích cho nhân viên Cảnh sát Mã Lai biết chúng tôi là ai, tại sao chúng tôi đặt chân đến đây. Đó chỉ là lần đầu, một khởi đầu kéo dài mãi cho đến bây giờ, phải giải thích tương tự cho rất nhiều người khác nhau thuộc nhiều chủng tộc hiểu tại sao chúng tôi phải bỏ quê hương ra đi để sống đời lưu vong.

Những giờ phút đầu tiên trên đất liền, chúng tôi lại bị “say đất”. Quen với trạng thái bồng bềnh, trôi nổi trên mặt nước; khi trở lại mặt đất bằng phẳng, mỗi lần đặt bước chân xuống, tôi có cảm giác mặt đất chao đảo như còn trên mặt sóng nhấp nhô. Sau hai ngày bận rộn với đủ thứ giấy tờ khai báo với cảnh sát địa phương Mã Lai, chúng tôi được đưa ra trại Pulau Bidong, trại tỵ nạn chính thức của Cao ủy tỵ nạn Liên Hiệp quốc đặt trên lãnh thổ Malaysia để thành một người tỵ nạn chính thức có số căn cước thuyền nhân, chờ được phỏng vấn định cư ở một nước thứ ba. Lần này, hành trình từ đất liền ra đảo Pulau Bidong vững chắc hơn trên một thuyền khá lớn của UNHCR, có tên là “Blue Dart”, khoảng cách lại ngắn, nên chúng tôi không bị say sóng.

Trại tỵ nạn Pulau Bidong đã dược xây dựng tương đối đầy đủ khi chúng tôi đến đảo vào giữa thập niên 80, có đủ trường Tiểu học, Trung học cho trẻ em, trường huấn nghệ (Vocational School) cho người lớn, có thư viện, có cả Chùa, Nhà thờ trên “đồi tôn giáo”, có Bệnh viện với cái tên khá ngộ nghĩnh và dễ nhớ là “Sick Bay”. Chúng tôi được đón tiếp với những thùng mì ăn liền vĩ đại hãy còn bốc khói, giống hệt như những thùng mì Liên Hiệp Quốc phân phàt cho nạn nhân của thiên tai Tsunami ở South Asia cuối năm 2004.

Lần đầu tiên ăn đồ cứu trợ, sống bằng lòng nhân đạo của người khác, một thân một mình ở trại tỵ nạn của một đất nước khác, nước mắt tôi lăn dài, nghĩ đến Ba vẫn đang mỏi mòn trong ngục tù cải tạo ở núi rừng âm u đầy chướng khí của miền Bắc vẫn thiếu ăn, thiếu mặc; nghĩ đến Mẹ đang vò võ một mình ở nhà, chắc là vẫn đang cầu nguyện cho bầy con đã tứ tán mỗi đứa một quốc gia, một phương trời khác nhau, ở tuổi chưa đến hai mươi.

Tưởng là mình đã rất can đảm khi dám chấp nhận cảnh “thân gái dặm trường”, không ngờ, ở trại tỵ nạn Pulau Bidong, đến khu vực Cô nhi (Minor Refugees Residential Section), dành cho các em dưới mười sáu tuổi đến trại tỵ nạn một mình, tôi thấy em nhỏ nhất chỉ mới sáu tuổi.

Ở đó, có Hanh, chỉ mới mười một tuổi, thông minh, đầy cương nghị, có Bố đang bị “học tập cải tạo” -như Ba tôi- được Mẹ gởi đi vượt biển một mình trên một thuyền bị hải tặc, mọi người đói lả gần ba ngày trước khi đến được trại tỵ nạn. Ở trại tỵ nạn, cậu bé tuy mới mười một tuổi nhưng có sự khôn ngoan và nét chửng chạc cúa một người ngoài hai mươi học hành chăm chỉ, hết học Anh Văn lại quay qua học Toán, quanh quẩn cả ngày ở trường Trung học trên đảo Pulau Bidong.

Ở đó, có Huyên, một em gái mới mười ba tuổi, cả gia đình mất tích trên biển khi thuyền bị lật. Như một phép màu, Huyên bám được một thùng plastic rỗng, trôi nổi bồng bềnh giữa đại dương gần nửa ngày, trước khi được một tàu tỵ nạn khác đi ngang vớt lên. Người ta đã thấy cô bé Việt Nam nhỏ bé mắt nhắm nghiền, gần như hôn mê bất tĩnh. thân xác mỏng manh như chiếc lá khô, hai tay vẫn còn bám chặt cái thùng nhựa rỗng bồng bềnh trên đại dương.

Ở đó, có Việt, rất thâm trầm, dù mới mười lăm tuổi, nhà cửa bị tịch thu, Ba bị giam ở khám Chí Hòa vì “tội nhà giàu”, Mẹ gởi em ra đi với nhà hàng xóm để thoát khỏi tương lai đen tối của giai cấp “tư sản mại bản”.

Còn biết bao các em khác nữa. Mười một tháng sau đó ở Pulau Bidong, với vốn liếng Anh ngữ từ những năm ở trường Trung học, và những sách vở của thư viện trên đảo, tôi đã có cơ hội giúp cho UNHCR và cả các phái đoàn Mỹ, Canada, Úc trong việc thông dịch mỗi khi họ đến phỏng vấn thuyền nhân.

Mãi đến bây giờ, tôi vẫn còn cảm giác xót xa khi nhớ lại những lần thông dịch cho những người đàn bà, con gái Việt Nam bị làm nhục bởi hải tặc trên đường vượt biển, em nhỏ nhất chỉ mới mười hai tuổi. Hồi đó, Cao ủy trưởng Alan ở Pulau Bidong chỉ định tôi chuyên làm công việc thông dịch đàn bà con gái trong các cuộc phỏng vấn các thuyền vượt biển bị hải tặc. Đó là một công việc rất tế nhị và đầy xót xa. Đến một độ nào đó, nỗi đau vượt quá sức chịu đựngi, người ta mất cảm giác. Nhiều người nữ thuyền nhân, mặt còn đầy nỗi kinh hoàng nhưng kể lại từng chi tiết ô nhục mà chính mình phải gánh chịu với giọng đều đều, thản nhiên, lạnh lùng như nói chuyện trời mưa, trời nắng, trong khi chính tôi và cô May, Cao ủy của UNHCR đã giọt ngắn giọt dài. Mỗi lần dịch hay viết xong một hồ sơ tàu tỵ nạn bị cướp, tay áo tôi ướt đẫm vì nước mắt. Tôi vẫn tự hỏi thủ phạm trực tiếp cho nỗi đau này là hải tặc Thái Lan, thủ phạm gián tiếp thực sự là ai?

Đó là khoảng thời gian rất bận rộn với công việc thông dịch ban ngày giúp cho nhân viên Cao ủy Tỵ nạn. Ban đêm, tôi còn dạy thiện nguyện cho các em, chỉ nhỏ hơn tôi vài tuổi, ở trường Trung học trên trại Tỵ nạn. Trường chỉ dạy hai môn Anh văn và Toán. Sách học là những quyển sách đơn giản tương dương trình độ của bộ “English for Today” quyển I đến quyển III. Trước ngày ra đi, tôi chỉ mới học xong quyển IV ở Việt Nam, nhưng nhờ làm việc, tiếp xúc nhiều với các nhân viên UNHCR, và bằng lòng thương yêu các em chân thành như em ruột của chính mình, tôi mang hết kiến thức và hiểu biết của mình truyền lại cho các em, mặc dù tôi chưa hề được qua một trường lớp nào về Sư phạm. Chúng tôi, những người dạy thiện nguyện ở trường Trung hoc. vẫn đùa với nhau là mình đã theo một “trường phái sư phạm mới”, lối dạy “mèo nhỏ tha chuột lớn”

Có lần, giải nghiã cho các em một từ mới, “dignity” -có nghĩa là phẩm giá- tôi không biết làm thế nào để giảng cho các em hiểu, đành viết lên bằng câu thí dụ “We lost everything, but never lose our dignity”. Viết đến đó, tự dưng nước mắt tôi lăn dài, các em ở tuổi mười bốn, mười lăm lúc đó cũng khóc theo. Những giọt nước mắt đó vẫn còn đọng trong tâm khảm tôi cho đến bây giờ, cùng có niềm tin ở một thế hệ trẻ lưu vong có đầy đủ đầu óc và trái tim Chắc chắn, các em học sinh lúc đó, trên bước đường tha hương sau này, sẽ nhớ và hiểu nghiã chữ “dignity” hơn ai hết, và các em sẽ sống xứng đáng với lòng kỳ vọng của thân sinh các em, khi Ba Mẹ các em đã phải đứt ruột gởi con ra biển một mình.

Mỗi tuần hai lần, tàu “Blue Dart” của UNHCR cho nước ngọt, mì gói, gạo và thực phẩm tươi gồm gà và rau cải, đôi khi còn có dưa hấu hay thơm vào cho thuyền nhân.

Hầu hết chúng tôi đến trại tỵ nạn chỉ với một bộ quần áo dính trên người. Chúng tôi được phát áo quần từ một kho áo quần “second hand”, tương tự như áo quần cũ bán trong Goods Will ở Mỹ. Áo quần thường rộng thùng thình, quá khổ, nhưng chúng tôi tự sửa lại đúng với kích thước của mình. Cao ủy tỵ nạn Liên Hiệp quốc đã rất là chu toàn trong việc bảo vệ và chăm lo cho những người tỵ nạn chính trị,

Đến lúc được chuyển qua trại chuyển tiếp Bataan ở Philippines để được hướng dẫn về đời sống văn minh của Mỹ trước khi chính thức đến Mỹ như một người tỵ nạn, chúng tôi được huấn luyện chương trình buổi sáng, buổi chiều làm “Teacher Aid” cho các giảng viên người Phi. Ở đó, đời sống đầy đủ hơn, và lạc quan hơn vì chúng tôi biết chắc chắn ngày mình được định cư ở Mỹ. Và cũng ở đó, tôi có thì giờ tự học nhiều hơn cho chính mình, chuẩn bị một thời kỳ gian nan khác, một khởi đầu từ con số không ở quê hương thứ hai. Một vài lần được về chơi ở Manila (thủ đô của Philippines), những chuyến du lịch đặc biệt bằng xe bus dành riêng cho các “Teacher Aid”, chúng tôi vẫn ngậm ngùi thương cho sự lạc hậu của đất nước mình ngay cả khi so sánh với các nước Á châu khác như Philippines.

“Nỗi buồn nhược tiểu” đó càng tăng cao khi trên đường bay qua Mỹ, tôi được dừng chân hai ngày ở Tokyo- Nhật, thủ đô của nước Á châu giàu mạnh nhất sau khi nếm bài học xương máu với hai cột khói trắng hình nấm khổng lồ ở Hiroshima và Nagasaki cuối thế chiến thứ hai. Tokyo văn minh sáng rực ánh đèn ban đêm tương phản với Saigon lạc hậu tranh tối, tranh sáng, nước mắt tôi lại chảy xuống cho sự thụt lùi của quê hương đã bị bỏ lại sau lưng.

Tôi đến Mỹ một tuần trước lễ Giáng sinh, cùng một thuyền nhân Việt Nam khác, hoàn thành nhiệm vụ cuối cùng được giao từ UNHCR, giúp đoàn người tỵ nạn gồm 85 người kể cả một vài người Lào và Cambodia cũng trốn chạy khỏi quê hương như chúng tôi. Giữa những hành khách Mỹ tự tin, cao to, với nhiều hành lý cồng kềnh về nước đoàn tụ với gia đình nhân dịp Giáng sinh và Tết dương lịch, rất dễ nhận ra những người tỵ nạn nhỏ bé, mảnh mai mắt mở to vui mừng lẫn ngơ ngác, chỉ có hai bàn tay trắng với những túi xách của UNHCR và IOM (International Organization for Migration) chỉ có giấy tờ nhập cư vào Mỹ và giấy tờ tùy thân .

Được chuẩn bị đầy đủ với gần 6 tháng học về “American Culture Orientation” ở trại chuyển tiếp Bataan, Philippines, với trình độ Anh văn tương đối sau một năm tiếp xúc và làm thông dịch viên cho nhân viên Cao ủy Tỵ nạn LHQ, tôi không đến nỗi bị lâm vào cảnh”mán về thành”, nhưng thật sự đời sống ở Mỹ khác xa với đời sống ở quê nhà như mặt trời với mặt trăng, như ngày với đêm.

Hình ảnh của Ba với mái tóc bạc trắng ở tuổi năm mươi trong lao tù cải tạo, hình ảnh Mẹ với đôi mắt buồn trong những ngày chuẩn bị gởi chúng tôi ra đi là nguồn nghị lực không bao giờ cạn, tiếp sức cho chúng tôi trong thời gian chân ướt chân ráo ở quê hương thứ hai.

Từ nhiều trại tỵ nạn ở nhiều nước khác nhau: Thái Lan, Indonesia, Malaysia, Philippines, anh chị em chúng tôi đến Mỹ trong nhiều thời gian khác nhau, được trùng phùng, như trăm sông đổ về biển, và mang sức sống của tuổi hai mươi lao vào đất nước của tự do và cơ hội.

Một người bạn cũ của Ba, qua Mỹ từ năm 1975, đang làm ở tổ chức thiện nguyện USCC, giúp tôi có được trợ cấp một lần là 650 dollars dành cho người tỵ nạn mới đến, bác viết cho tôi một reference letter và từ đó “I am on my own way”. Bác cũng giới thiệu cho tôi đến tìm việc làm ở một vài nơi. Trời thương, “thánh nhân đãi kẻ khù khờ”, tôi được nhận vào làm full time ở một công ty lớn chỉ hai tuần sau ngày đến Mỹ. Lúc đó là đầu tháng giêng, giữa mùa Đông ở Mỹ, trời lạnh buốt, buổi sáng tôi thức dậy từ sáu giờ ba mươi, trời còn tối, ra đứng chỗ xe bus ở đầu đường, trời lạnh cóng, dưới 40 độ Fahrenheit, tôi phải mặc ba bốn lớp áo, nhưng áo quần cũ chị em chúng tôi đã mua từ Goods Will để vừa với túi tiền của mấy chị em lưu lạc quê người, chỉ có hai bàn tay trắng, với lòng tin của Ba Mẹ đặt ở mỗi chúng tôi. Một tuần sau, chịu không nổi cái lạnh gần đông đá , từ 32 đến 39 độ Fahrenheit của mùa đông thứ nhất ở Mỹ, tôi dùng cái paycheck đầu tiên của mình thuê người dạy lái xe và dốc hết tiền trợ cấp một lần cho người mới đến mua một cái Toyota Celica đã mười bốn tuổi, để đi học và đi làm.

Đời sống lúc đó, còn nhỏ, là một hình tam giác với ba đỉnh là nhà, trường học và sở làm không hề có giải trí, không có cả thời gian để buồn và nhớ nhà.

Đến Mỹ muộn màng, sau gần mười năm miền Nam sụp đổ, biết thân phận mình là “trâu chậm”, chúng tôi lao đầu vào học, không dám để phí thêm một giờ phút nào. Mùa hè, học phí cao hơn, tôi chỉ ghi danh theo học một lớp, và làm part time cho một trạm bán xăng ở gần nhà Nghĩa là lúc đó, tôi đi làm full time, đi học full time quanh năm. Nhiều lúc quá mệt mỏi, tôi lại tự nâng đỡ tinh thần mình bằng câu nói cửa miệng của người Mỹ “No pain, no gain”, và nhớ đến kỳ vọng của Ba Mẹ đã đặt ra cho chúng tôi. Buồn nhất là những lần bất chợt nghe được những câu hát rất đúng với tâm trạng của mình “Ai trở về xứ Việt nhắn giùm tôi người ấy ở trong tù …..”, nghĩ đến Ba, nước mắt tôi vẫn lăn dài, và tự bảo lòng mình phải cố gắng học giỏi hơn để Ba Mẹ vui hơn, đủ nghị lực sống trong đời sống bị khủng bố tinh thần thường xuyên ở quê nhà.

Có lần được phát biểu cảm tưởng với thời gian ba phút trong một lần nhận học bổng, tưởng là sẽ cảm ơn đủ tất cả mọi người và hứa với “scholarship foundation” sẽ cố gắng nhiều hơn, nhưng tôi chỉ nói được gần hai phút:

– Xin cảm ơn tất cả thầy cô đã có công dạy dỗ tôi, xin cảm ơn Hội đồng trao tặng học bổng cho tôi. Xin tri ân đất nước Hoa Kỳ đã cưu mang và cung cấp một đời sống tự do, no đủ cho tất cả những người tỵ nan, lưu vong. Vinh dự hôm nay xin được dành riêng cho tất cả những người đã nằm xuống cho chúng tôi có được ngày hôm nay, và xin đặc biệt dành riêng cho Ba tôi, người vẫn con đang bị đày ải trong lao tù Cộng sản vì đã ở trong một quân đội bảo vệ tự do, xin được dành riêng cho Mẹ tôi, người đã rất chu toàn trong việc nuôi dậy con cái một mình.

Một phút còn lại, tôi không nói được vì cử tọa trước mặt đã mờ đi sau màn nước mắt, mùi vị đắng cay sau năm 75 ở quê nhà vẫn kéo về với đầy nỗi xót xa, ngay cả trong giờ phút ngọt ngào nhất. Một thầy giáo người Mỹ gốc Ba Lan đã tỵ nạn Cộng sản từ cuối thập niên 60, dạy tôi từ năm đầu Đại học, hiểu rất rõ tâm trạng của một người tỵ nạn, đã lên diễn đàn giúp tôi hoàn tất lời phát biểu. Lần đó, tôi được đặc cách đề cử trực tiếp cho học bổng niên khoá kế tiếp, mà không phải qua những thủ tục bình thường. Món tiền tuy không lớn, cũng đủ để trang trải chi phí sách vở, học phí, ăn ở cho một năm học, là một yểm trợ vật chất lớn lao cho tôi trong ba năm đầu chân ướt chân ráo ở quê người.

Có những điều hằn sâu trong ký ức, lúc nào cũng tưởng như mới vừa xẩy ra, như chuyện say sóng đến độ “mửa mật” của những ngày lênh đênh trên đại dương vẫn ám ảnh tôi không nguôi. Cho nên, có lần được chọn là “Employee of the year” được tặng vé cho một chuyến đi cruise trên biển một tuần cho hai người, nhớ lại cảm giác đắng nghét ở miệng, cảm giác mất thăng bằng của những ngày mới đặt chân lên đất liền, tôi đã nhường lại phần thưởng đó cho “the runner up” trước con mắt ngạc nhiên của mọi người làm cùng chỗ.

Đó không phải là điều duy nhất người bản xứ không hiểu những người tỵ nạn, những người Mỹ gốc Việt lưu vong. Họ cũng không hiểu tại sao rất nhiều người Việt Nam nhỏ bé ốm yếu vẫn đội mưa đội gió hàng giờ giương cao những tấm biểu ngữ “Human Right for VietNam”, “Freedom for VietNam” ở một góc đường nào đó trong đời sống lạnh lùng, đầy tất bật của đất nước Hoa kỳ.

Sau khi đã ổn định, -đã có một “career” đàng hoàng thay cho cái “job” để kiếm sống – có thời tôi đi dạy thiện nguyện cho một trường Việt ngữ ở điạ phương, học sinh là các em teenagers. Dù cùng tuổi nhưng học trò của tôi bây giờ vô tư, ngây thơ, khác xa các em trong trại tỵ nạn chững chạc, trưởng thành trước tuổi.

Ở trường Việt ngữ, ngoài bài giảng từ sách của trường, thì giờ còn dư, chúng tôi giảng trích đoạn từ tác phẩm “Mùa hè đỏ lửa” của nhà văn Phan Nhật Nam, từ bài thơ bất khuất “Nếu ai hỏi” của nhà thơ Nguyễn Chí Thiện để các em hiểu rõ hơn giá trị của tự do, và biết yêu thương cha mẹ hơn, biết ơn cha mẹ các em đã hy sinh rất nhiều để các em có được ngày hôm nay.

Đời sống ở Mỹ vốn tất bật, nhưng một phút bình lặng nào đó của tâm hồn, dù đang bị kẹt xe trên một xa lộ xe cộ tất tả ngược xuôi hay đang ở trong một cuộc họp ở sở, đầu óc tôi vẫn lang thang về với quê nhà, và buồn thay, bao giờ cũng vậy, mùi vị đắng nghét như đang bị “mửa mật”, mùi vị chua cay của một thời vẫn hiện về, rõ ràng, mồn một như chuyện hôm qua.

Và có một lần “chuyện hôm qua” càng rõ nét hơn. Đến thăm Massachusetts Institute of Technology (MIT) nổi tiếng về chuyên ngành Toán và Kỹ thuật, đang ngồi chờ người bạn ở cafeteria của trường, bỗng một sinh viên người Á châu đi qua, đi lại trước mặt tôi nhiều lần. Sau cùng, anh ta dừng lại, lịch sự hỏi bằng tiếng Mỹ:

– Xin lỗi, chị có phải là cô Thuyên ở trường Trung học Pulau Bidong năm 1988 không?

Tôi trả lời bằng tiếng Việt:

– Đúng rồi, em có thể nhắc cho tôi nhớ em là ai không?

Người thanh niên vui mừng, rồi bằng một thứ tiếng Việt rõ ràng và lễ độ, anh ta trả lời:

– Em là Hanh đây chị, em học cùng lớp với Huyên và Việt ở Pulau Bidong. Chị nhớ em không?

Hanh vẫn nhận ra tôi sau mười lăm năm không gặp, nhưng tôi thì không thể nhìn ra được anh thanh niên cao lớn chững chạc trước mặt mình là cậu bé đen nhẻm, chững chạc, chăm học ở trại tỵ nạn năm xưa.

Hanh lúc đó đang ở năm cuối của chương trình Tiến sĩ Toán, như ước mong ngày nào em đã trình bày trong một giờ thực tập nói tiếng Anh ở lớp học nhỏ xíu, mái lợp tôn thô sơ giữa đảo Pulau Bidong. Hanh kể cho tôi nghe về chuyện em đến Mỹ một mình ở tuổi mười hai, cùng với một nhóm người Việt Nam tỵ nạn đặt chân đến Mỹ ở phi trường San Francisco, Hanh đổi máy bay về Massachusetts. Đi một mình, dưới mười lăm tuổi, nên Hanh được một cô Stewardess đích thân dắt lên máy bay trước.

Ra đón cậu bé tỵ nạn Việt Nam ở phi trường Logan Boston- là đại diện của một tổ chức thiện nguyện và cha mẹ nuôi của Hanh. Đó là một gia đình ngươi Mỹ gốc Tiệp Khắc, qua Mỹ tỵ nạn từ thập niên 60s. Dù chưa bao giờ có ý định xin con nuôi, nhưng thấy Hanh là một cậu bé mới mười một tuổi vượt biển một mình, không có thân nhân, nên họ muốn đưa Hanh vê nuôi. Cả hai ông bà đều dạy Trung học. Ông dạy Toán, bà dạy Home Economics (tương tự như môn Nữ công gia chánh ở Việt Nam). Người con duy nhất đi học xa, ông bà vẫn làm việc thiện nguyện ở một Nhà thờ Tin lành vào cuối tuần. Khi thấy tên Hanh, một em nhỏ tỵ nạn Việt Nam mới mười một tuổi, không có thân nhân ở Mỹ, được nhà thờ tìm người bảo trợ, họ xin nhận Hanh làm con nuôi. Vẻ chín chắn cùng sự khôn ngoan trước tuổi của Hanh đã chinh phục được lòng thương yêu của bố mẹ nuôi người Mỹ từ lúc đầu. Vì cả hai ông bà đều là nhà giáo, Hanh lại có căn bản về cả tiếng Anh lẫn học lực, lại chăm chỉ học hành nên em được vào thẳng lớp bảy như các học sinh bản xứ mà không gặp trở ngại nào.

Lên Trung học, Hanh tốt nghiệp thủ khoa Trung học. Với sự hướng dẫn quý báu của cha mẹ nuôi, với thành tích học tập xuất sắc trong bốn nâm Trung học, cậu bé Hanh tỵ nạn năm xưa nhận được học bổng toàn phần của MIT, trong niềm hãnh diện của cha mẹ nuôi ở Mỹ lẫn cha mẹ ruột ở Việt Nam.

Giữa thập niên 90s của thế kỷ hai mươi, ba mẹ sinh thành cùng hai em của Hanh được qua Mỹ theo chương trình nhân đạo HO. Vậy là Hanh có đến hai ông bố, hai bà mẹ, và hai gia đình cùng ở tiểu bang Massachusetts, trong hai thành phố kế cận nhau

Không muốn làm mất lòng gia đình nào, và để được tập trung học tập, Hanh vào nội trú trong MIT. Mỗi thứ bảy về với cha mẹ ruột, ăn món ăn Việt Nam do mẹ nấu, nghe ba kể về những đọa đày ông phải gánh chịu trong các trại “cải tạo”. Và mỗi chủ nhật, về lại căn phòng thân thuộc mà cha mẹ nuôi đã dành cho Hanh từ ngày cậu bé Việt Nam, da còn đậm màu nắng gió của trại tỵ nạn, chân ướt, chân ráo đến Mỹ. Căn phòng dù không còn được dùng hường xuyên, nhưng trong closet vẫn còn treo hai bộ áo quần kỷ niệm của Hanh, một bộ Hanh mặc khi mới đến Mỹ được người bảo trợ ra đón, và bộ kia là bộ áo quần đầu tiên Hanh được bố mẹ nuôi mua cho. Ở một góc bàn học, vẫn còn cái lọ thủy tinh có cắm hai lá cờ nhỏ, một sọc trắng đỏ với năm mươi ngôi sao của Mỹ, một màu vàng với ba sọc đỏ của Việt Nam. Trên tường vẫn còn hình Hanh năm mười tám tuổi, chững chạc trong áo mũ và dây choàng thủ khoa (valedictorian) ngày tốt nghiệp Trung học.

Một chi tiết rất cảm động trong câu chuyện của cậu bé tỵ nạn ở Pulau Bidong năm xưa là hồi mới đến Mỹ mỗi lần được cho kẹo chocolate, Hanh chỉ ăn một phần nhỏ và để dành hầu hết kẹo để gởi về Việt Nam cho hai em và cho các bạn Điều “bí mật” đó bị phát hiện khi hai ông bà Mỹ thấy cậu con nuôi ăn uống rất chừng mực từ tốn nhưng luôn luôn xin được mua thêm chocolate. Kẹo “để dành” thường được Hanh gói cẩn thận trong những túi nylon dán kín để trong một góc tủ áo quần. Halloween đầu tiên ở Mỹ, đi học về, làm xong bài vở, trời vừa sụp tối, Hanh xin phép ba mẹ nuôi cho đi xin kẹo. Cậu bé miệt mài đi bộ một mình trong thời tiết se lạnh đầu mùa thu ở miền Đông Bắc trên bốn năm con đường, gõ cửa từng nhà xin kẹo. Kết quả rất khả quan, sáng hôm sau Hanh gởi được một thủng kẹo mười hai lbs (khoảng 5kg) về Việt Nam mà cước phí còn cao hơn cả tiền mua kẹo. Có nguồn gốc là người Tiệp Khắc, một thời đã phải sống dưới chế độ Cộng sản, bố mẹ nuôi của Hanh hiểu ngay mọi chuyện. Và ông bà càng quý Hanh, cậu bé Việt Nam tuổi còn nhỏ nhưng tấm lòng đã rất lớn.

Đến phiên tôi, tôi cũng kể cho Hanh nghe giòng đời đã đẩy đưa tôi từ trại tỵ nạn năm xưa đến California như thế nảo. Có nằm mơ, tôi cũng không tưởng tượng nổi mình gặp lại được cậu học trò đen nhẻm vì vị mặn của gió biển ở Mã Lai, có đôi mắt sáng nhưng lúc nào cũng buồn ở trường Trung học trên đảo Bidong ngày nào.

Ước gì tôi cũng gặp được Huyên và Việt, cũng như đã hội ngộ rất bất ngờ với Hanh ở một góc trường MIT ở miền Đông Bắc nước Mỹ. Nhưng dù chưa hay không có dịp tái ngộ với Huyên và Việt, tôi vẫn tin hai em đã rất thành công như Hanh, chứng minh mình có thể làm được nhiều điều, chẳng hạn như chuyện học hành, mà có một thời ở trong nước, sau tháng 4/75, chình quyền không cho phép mình làm.

Tất cả chúng tôi dều giống nhau ở chỗ phải xa nhà, bỏ đất nước ra đi một mình, dù lúc nào trong tâm tưởng của chúng tôi cũng có một vị trí trang trọng cho quê hương chôn nhau cắt rốn đã phải bỏ lại sau lưng. Chúng tôi đã phải mang cả sinh mạng của mình ra đánh cuộc với định mệnh, với đại dương; một cái giá không một khoán tiền nào, dù lớn đến đâu có thể mua được. Những được mất với cuộc đời hãy còn ở trước mặt, nhưng chắc chắn chúng tôi sẽ cố gắng không ngừng để xứng đáng với cái giá mình phải đánh đổi.

Chia tay Hanh hôm đó, tôi mang theo câu nói của Hanh với khuôn mặt rất nghiêm trang, già trước tuổi, và vẫn với đôi mắt buồn xa vắng như lần đầu tiên tôi gặp em ở trường Trung học trên đảo tỵ nạn:

– Điều em vui nhất là đã đền đáp được phần nào ơn nghĩa sinh thành của cha mẹ ruột và ân tình cưu mang của bố mẹ nuôi. Em vẫn cố gắng hết mình, cố gắng đến hết cuộc đời để luôn làm cho cả Ba Mẹ lẫn Mommy, Daddy của em vui Điều duy nhất không chắc em có làm được hay không, là “gánh sơn hà” mà đôi lúc Ba em và các bác, các chú cùng thời vẫn nửa đùa nửa thật là đã trao lại cho thế hệ của mình.

Hanh dừng một chút rồi hỏi một câu mà đến bây giờ tôi vẫn chưa biết cách trả lời:

– Gánh sơn hà nặng lắm một mình em hay cả hai chị em mình không thể nào gánh nổi! Chị ơi, làm thế nào để cả thế hệ của mình đủ sức gánh nổi sơn hà hả chị?

Câu hỏi đó cứ quanh quẩn trong tôi và chắc là phải còn lâu, lâu lắm, tôi mới biết được câu trả lời chính xác Nhưng tôi tin là chỉ cần một phần mười của một thế hệ Việt Nam (cả ở hải ngọai lẫn trong nước) biết đoàn kết, có nhiệt tâm gánh vác non sông với chí khí của Trần Quốc Toản, với lòng yêu nước của Nguyễn Thái Hoc. và với đầu óc của Lê Quý Đôn thì gánh sơn hà sẽ nhẹ nhàng như cái cặp đi học rất thân thuộc của một thời đèn sách.

Nguyễn Trần Diệu Hương

(Viết cho Lan Hương, Tiến, Tuấn và những thuyền nhân “đi biển” một mình)

Người đàn bà trên cầu Nitelva – Phạm Tín An Ninh

Phạm Tín An Ninh

Thực ra cây cầu không có tên, nhưng có lẽ vì nó bắc ngang qua đoạn quanh co và đẹp nhất của dòng sông Nitelva, nên người dân ở địa phương này thường gọi như thế. Đây là đoạn cuối cùng của một con sông lớn trước khi đổ ra biển.

Sau khi các con đã trưởng thành và có cuộc sống riêng, vợ chồng tôi bán ngôi nhà rộng cũng nằm bên bờ sông này, nhưng ở tận vùng Fjerdingby xa xôi, về đây mua căn nhà nhỏ trong một khu apartment, nằm khá xa thành phố. Chỉ làm việc thêm một năm là đến tuổi về hưu. Sống trong vùng ngoại ô tĩnh mịch này,  cả ngày không biết làm gì, ngoài cái thú đọc sách và đi bộ. Ở đây khá lâu rồi, nhưng lúc ấy còn phải đi làm, mùa hè thì bận bịu chuyện sửa sang nhà cửa, mùa đông thì chỉ nằm nhà hoặc bay sang Mỹ thăm con nhân dịp nghỉ lễ Phục Sinh, nên chúng tôi không biết gần bên nhà có một con đường đi bộ đẹp và thơ mộng đến như thế. Sau này, khi đã về hưu, nhờ ông bà láng giềng người bản xứ giới thiệu và rủ đi bộ, chúng tôi mới biết.
Con đường tráng nhựa đen bóng, lớn như những tỉnh lộ trong vùng, nhưng đặc biệt chỉ dành riêng cho người đi bách bộ.  Chạy quanh co xuyên qua cánh rừng đầy những loại hoa dọc theo bờ sông Nitelva, đến khúc sông đẹp nhất, là một chiếc cầu đúc bắc qua để tiếp tục đến một khu rừng khác, nhưng bây giờ là cánh rừng thông với những hàng cây cao, thẳng tắp, che kín cả mặt trời.

Chúng tôi khởi sự đi bộ vào đầu mùa hè, bởi mùa đông con đường và cả khu rừng ngập đầy tuyết, dòng sông đóng cứng băng, chẳng ai có hứng thú. Chúng tôi thường đi vào buổi chiều tàn, vắng người.  Mùa hè Bắc Âu trời tối muộn. Có những hôm, đến 12 giờ đêm mà vẫn còn chói chang ánh nắng mặt trời. Hôm đầu tiên và suốt cả tuần sau đó, khi đến giữa cây cầu, chúng tôi thấy một người đàn bà Á châu. Không biết bà đã đến đây từ lúc nào, nhưng khi vừa bước lên cầu chúng tôi đã thấy bà đứng bất động bên thành cầu nhìn đăm đăm xuống dòng sông, như không hề để ý đến mọi điều chung quanh. Muốn chào, hỏi thăm bà đôi câu, nhưng không dám, ngại làm mất đi cái không khí yên tĩnh riêng tư của bà.

Mãi một hôm, trên đường trở về, khi đến gần đầu cầu, trời đang nắng bỗng đổ xuống một cơn mưa rào, chúng tôi chạy vào trú mưa dưới một tàn cây khá lớn, bất ngờ gặp bà đứng sẵn ở đó. Bà gật đầu chào và kéo bà xã tôi đứng sát bên bà để tránh mưa tạt. Rất vui khi biết bà là người đồng hương, đến định cư ở nước Bắc Âu xa xôi này từ khá lâu, năm 1979. Nhìn mái tóc bạc, tôi đoán bà cao tuổi hơn mình. Trông bà hiền lành, nói năng từ tốn, thỉnh thoảng nở nụ cười, nhưng khó tìm được nét vui nào, bởi đôi mắt thật buồn. Và không ngờ cơn mưa rào hôm ấy đã đưa chúng tôi trở thành những người bạn già đồng hương sống đời lưu lạc.

Bà cho biết, bởi hoàn cảnh đặc biệt, nên hơn hai mươi năm nay, từ khi dọn về sống ở vùng  này, bà không quen biết ai. Bà muốn sống yên lặng một mình trong căn nhà nhỏ, riêng tư với những nỗi niềm quá lớn của mình.
-Tôi vẫn muốn giữ lấy quá khứ buồn bã cho riêng mình, cứ sợ chia sẻ với người khác thì mình sẽ chẳng còn lại cái gì hết.

Lần đầu tiên, khi đến thăm chúng tôi bà tâm tình như thế.

Tôi nói như để an ủi bà:

-Người ta thường nói lời phân ưu, chia buồn. Nhưng thực ra cũng chỉ là một cách an ủi thôi. Chứ làm sao có thể chia sớt được nỗi buồn của người khác. Tuy nhiên, khi nói ra cũng là cách để làm nhẹ bớt những gì cứ đè nặng trong lòng mình đi chị ạ.

Sau đó bà thường đến chơi và càng lúc càng thân tình với vợ chồng tôi. Bả bảo thấy rất hợp với chúng tôi, vì có cùng những hoàn cảnh, hoạn nạn, và giờ thì đang cùng “sống ở cuối trời quên lãng” tận xứ Bắc Âu này. Sau lần vợ chồng tôi gật đầu trước đề nghị khi bà muốn được kết nghĩa chị em, bà ôm chầm lấy chúng tôi nước mắt sụt sùi, bảo là bà chỉ có một cô con gái, nhưng phải sống ở trong Trung Tâm dành cho người bị bệnh tâm thần, mất trí nhớ.

Trung Tâm này khá lớn nằm trong khu vực chúng tôi đang ở. Chúng tôi đã từng đi qua lại rất nhiều lần, nhưng không biết đó là một trung tâm như thế.

Chiều hôm sau, chúng tôi cùng đi bộ theo bà đến thăm cô con gái. Không ngờ đây là một cơ sở rất qui mô, có nhiều bác sĩ đảm trách. Cứ một bác sĩ phụ trách mười bệnh nhân, và mỗi bệnh nhân có riêng một y tá trực tiếp săn sóc, dẫn dắt đi chơi, mỗi năm có hai lần đi du lịch nước ngoài tùy theo hoàn cảnh, xuất xứ của mỗi người.

Cô bé trông khá xinh, nhưng đôi mắt thất thường. Có khi đang thật buồn, bất ngờ trở nên giận dữ. Dường như đôi lúc vẫn còn nhận ra mẹ, nên sau vài phút xa lạ, lại ôm vai và vuốt tóc mẹ. Khi mới đến, cả bà và vợ chồng tôi đã được dặn dò, bất cứ tình huống nào cũng luôn nở nụ cười. Có khi cô bé cũng cười với chúng tôi, nhưng bất chợt sa sầm nét mặt. Tôi nhìn thấy bà cười, nhưng có dòng lệ ứa ra từ khóe mắt. Trên đường về, thấy bà trầm ngâm, chúng tôi tìm cách đi sau bà, tôn trọng sự yên lặng và những suy nghĩ trong đầu bà. Đã có hẹn trước, chúng tôi mời bà về nhà dùng cơm tối với chúng tôi. Biết sở thích của bà, bà xã tôi đã cuốn sẵn chả giò, về nhà chỉ chiên lên là xong.

Tối hôm ấy, bà ở lại với chúng tôi, và ngồi kể lại cuộc đời mình. Bà cho biết đây là lần đầu và cũng là lần duy nhất bà kể những điều này, bởi bà xem chúng tôi như người thân trong nhà, và có thể sau này có đôi điều cần thiết phải nhờ đến chúng tôi.

Trước ngày mất nước, chồng bà là thiếu tá Pháo Binh thuộc Quân Đoàn I. Ông là bạn học cùng lớp với ông anh cả của bà. Hai người làm đám cưới ở Nam Định, lúc bà vừa đúng 18 tuổi. Sau đó theo về sống cùng nhà chồng, ở thành phố Hải Phòng. Nhưng chỉ mấy tháng sau thì  xảy ra chuyện Hiệp Định Genève, chia đôi đất nước, bà theo gia đình chồng xuống tàu há mồm di cư vào Nam, trong lúc cả gia đình của bà vẫn còn kẹt lại. Ngoài cha mẹ, bà chỉ có một người anh duy nhất, là bạn cùng học ở Hà nội với ông chồng.
Vào miền Nam, chỉ có một lần duy nhất bà nhận được tấm bưu thiếp của gia đình với đôi dòng vắn tắt, rồi bặt tin luôn. Nuốt bao đau đớn vào lòng, bà cố quên đi nỗi buồn chia ly, để cùng gia đình chồng tìm kế sinh nhai trên vùng đất mới, giúp chồng tiếp tục con đường học vấn dở dang.

Sau ba năm đại học, ông đi dạy toán ở một vài trường trung học tư thục để lo cho gia đình. Khi ấy ông bà cũng vừa có đứa con trai đầu lòng. Mấy năm sau, do tình hình chiến tranh ngày một leo thang, ông theo lệnh gọi nhập ngủ vào Trường Sĩ Quan Thủ Đức. Sau đó được chọn theo học Ngành Pháo Binh.

Ra trường, ông lần lượt chuyển về phục vụ tại các đơn vị Pháo Binh của các Sư Đoàn Thuộc Vùng 3, rồi Vùng 2.  Khi thăng cấp Thiếu Tá, đang làm Tiểu Đoàn Phó, ông được chọn sang Mỹ học một khóa chuyên môn. Về nước, được bổ nhiệm về Trường Pháo Binh Dục Mỹ để đảm trách huấn luyện. Năm 1971, tình hình chiến sự Vùng 1 trở nên quyết liệt, sau những thiệt hại nặng nề trong cuộc hành quân Hạ Lào Lam Sơn 719, ông được chọn bổ sung cho Pháo Binh Quân Đoàn I. Bà và ba đứa con di chuyển theo ông, thuê căn nhà nhỏ ở thành phố Đà Nẵng. Bà lo việc học hành cho mấy đứa nhỏ, ông ở đơn vị, mỗi tuần một đôi lần về thăm. Có khi bận hành quân cả tháng mới về được một lần rồi vội vã ra đi.

Đầu tháng ba 75, thấy tình hình có nhiều dấu hiệu bất lợi, ông  thu xếp cho vợ và ba đứa con về lại Sài gòn, tá túc tạm thời với gia đình người em, một sĩ quan Hải quân, đang làm việc ở Hải Quân Công Xưởng. Hôm đưa ra phi cơ, ông ôm bà và hai đứa con thật chặt, không muốn rời nhau.  Không ai ngờ đó lại là dấu hiệu của chia ly.

Ngày 11.3  Ban Mê Thuột thất thủ. Cuộc di tản từ Pleiku theo tỉnh lộ 7 B đã kết thúc số phận của các đơn vị thuộc Quân Đoàn II, từng tạo nên những chiến công hiển hách , đặc biệt đã đánh tan mấy Sư đoàn Cộng quân của Mặt Trận B3, để giữ vững Kontum và Tây Nguyên trong suốt mùa hè khói lửa 1972. Rồi tiếp theo là lệnh bỏ Quân Đoàn I của vị tướng lừng danh Ngô Quang Trưởng. Không mấy ai tin là ông sẽ bỏ vùng đất địa đầu từng thắm đẫm máu đào của hàng vạn sinh linh, đồng đội, một thời trấn giữ, giành lại từng tấc đất, để dựng cờ trên Cổ Thành Quảng Trị. Vậy mà cuối cùng đã bỏ, bỏ thật. Mọi người, từ quân tới dân đều bàng hoàng, hụt hẫng.

Kế hoạch di tản và sự phối hợp, chỉ huy tồi tệ của một số tướng lãnh, đã tạo nên một cuộc bại trận đớn đau bi phẫn nhất trong lịch sử chiến tranh. Một cuộc lui quân đẫm máu trên bờ biển Thuận An, mà có những người lính gọi đó là pháp trường cát. Một vùng biển máu ngập những xác người, cả dân và đủ mọi sắc lính. Một quân đoàn với ba sư đoàn bộ binh thiện chiến, nhiều Liên Đoàn Biệt Động Quân dạn dày lửa đạn, những Thiết Đoàn Kỵ Binh với hỏa lực hùng mạnh, hai  Lữ Đoàn TQLC của một đơn vị Tổng Trừ Bị vang danh, từng tạo những chiến tích lẫy lừng ở các trận chiến Mậu Thân, Quảng Trị, giờ phải lâm vào bước đường cùng, không còn lối thoát, không còn đạn để có thể chiến đấu. Nhiều người tự sát trong tiếng cười ngạo nghễ, nhiều người bị giết khi vừa bắn đi viên đạn cuối cùng, và tất cả số còn lại bị bắt bởi những tên du kích!

Chồng bà là một trong hàng vạn người lính bất hạnh ấy. Vị thiếu tá Pháo Binh đã phải phá hủy hết các khẩu pháo, từng bao nhiêu năm sống chết với mình, để chỉ tự vệ bằng cây súng cá nhân M16, rồi cuối cùng cũng phải vất đi để chiến đấu với sóng biển, với số phận, khi tìm cách bơi ra những chiến hạm Hải Quân lắc lư xa tít ngoài khơi, dưới xích sắt của những chiến xa M113 cũng lội sóng đi tìm sinh lộ.

Ở Sài gòn, mỗi ngày bà ra bến Bạch Đằng hỏi tin tức chồng mình, nhờ người em Hải quân liên lạc các chiến hạm công tác tại Vùng I, nhưng tất cả đều không thể cho bà một tin tức nào cụ thể. Trong cái mất mát quá lớn và khủng khiếp ấy, cá nhân một ông thiếu tá, chồng bà, trở nên vô cùng nhỏ nhoi hơn bất cứ lúc nào.

Cuối cùng thì Cộng quân cũng vào đến Sài gòn. Người Mỹ có lệnh phải ra đi. Những người làm việc cho Mỹ hoặc có liên quan đến họ bắt đầu được ưu tiên di tản khỏi Việt nam bằng phi cơ. Tướng Lê Minh Đảo chỉ huy Sư Đoàn 18 BB của ông cùng các lực lượng Thiết Giáp, Nhảy Dù, Biệt Động Quân, Địa Phương Quân tăng phái, đã chiến đấu thật dũng mãnh, kiêu hùng, ngăn chặn hằng mấy quân đoàn địch tràn vào Long Khánh, làm cả thế giới ngạc nhiên, thán phục. Nhưng cũng chỉ cầm chân được hơn một tuần. Địch quân tránh đụng độ, mở đường sang hướng Biên Hòa để bao vây, uy hiếp Sài gòn.

Tối ngày 29.4, người em chồng từ Hải Quân Công Xưởng mang xe về nhà đón vợ con xuống tàu. Anh thúc hối bà và ba đứa con theo ông di tản. Nhưng bà nhất quyết cùng con ở lại chờ chồng.

Miền Nam mất vào tay Cộng Sản đã hơn một tháng, chồng bà vẫn biệt tăm. Bà nghĩ chắc ông đã bị bắt, lặn lội ra Đà Nẳng tìm. Vào các trại tù nhốt những sĩ quan miền Nam hỏi thăm, nhưng không ai biết chồng bà. Bà tìm đến nhà anh tài xế cũ, nhờ đưa bà đi thăm một số đồng đội  của chồng. Cuối cùng, một anh trung sĩ, người lính thân cận của ông, cho biết là ông đã chết trên biển. Chính anh cùng bơi ra với ông và nhìn thấy ông bị thương do pháo kích của địch, rồi chìm xuống biển, nhưng anh không thể nào cứu được, bởi lúc ấy, anh cũng không nghĩ là mình có thể sống sót. Bà nhờ anh trung sĩ đưa bà ra bờ biển và chỉ nơi nào ngoài khơi mà ông đã ra đi. Nhìn những cánh hải âu lượn lờ trên mặt nước, tưởng như hóa thân của chồng mình, bà quỳ xuống khóc nức nở.

Cuộc đổi đời đã dìm bà và cả ba đứa con xuống vực thẳm. Nhà ngươi em bị tịch thu, kẻ chiến thắng đuổi mẹ con bà không chỉ ra khỏi nhà mà ra khỏi cả Sài gòn. Bà dắt con chạy lên Long Khánh tá túc nhà một người bạn thân có vườn cây ăn trái, rồi mua lại một căn nhà tranh bên cạnh để sống qua ngày. Nhờ người bạn giúp, bà theo buôn bán trái cây. Cả ba đứa con phải nghỉ học, ở nhà khai khẩn thêm đất hoang, làm vườn, trồng khoai, trồng sắn.

Lo âu khốn khổ chất chồng, bà không còn biết đến thời gian. Mấy năm sau, nhờ những thùng quà của người em chồng từ Mỹ gởi về, mẹ con bà có được chút vốn làm ăn, cậu con trai lớn tập tành buôn bán thuốc tây. Bớt khổ một chút.

Nhưng đùng một cái, khi cậu con trai đầu lòng này vừa tròn 22 tuổi, thì trận chiến biên giới với Campuchia bùng nổ, Trung Cộng đòi dạy cho Việt nam một bài học. Thằng bé bị bắt “thi hành nghĩa vụ quân sự”. Bà phản đối, nêu lý do nó là con của “ngụy” sao các ông tin mà cho vào “Quân Đội Nhân Dân”. Nhưng họ vẫn nhất quyết cưỡng bách, bảo là đáng lẽ phải đi cả hai anh em, như vậy là nhân đạo lắm rồi. Cũng có thể thằng bé phải thế chỗ cho một thằng nào có tiền bạc chạy chọt hoặc quen biết bà con với đám chính quyền. Năn nỉ xin xỏ không được, bà khóc hết nước mắt tiễn con đi, làm lính cho kẻ thù. Bà đau lòng lắm, chỉ cầu mong Trời Phật và vong linh chồng bà phù hộ cho nó. Nhưng chỉ ba tháng sau, bà nhận giấy báo, đứa con trai đầu lòng của bà đã trở thành liệt sĩ! Không biết xác thân nằm ở nơi nào.Người ta chỉ mang đến cho bà tấm bằng Tổ Quốc Ghi Công. Họ vừa ra khỏi nhà, bà xé nát rồi cho vào bếp lửa. Trong ngôi nhà tranh bé nhỏ giờ có hai cái bàn thờ, leo lét ánh đèn dầu.

Giữa năm 1979, muốn cướp tài sản của những người gốc Hoa, Cộng Sản bày ra chương trình “Ra đi bán chính thức”. Nhờ người em chồng ở Mỹ, liên lạc được một người lính thuộc cấp thân cận cũ gốc người Hoa Chợ Lớn, nhờ ứng vàng và lo lót cho công an, làm giấy tờ giả cho ba mẹ con bà ra đi. Ông sẽ hoàn tiền lại khi họ đến Mỹ.

Chiếc thuyền mới đóng, lớn và chắc chắn, nhưng mới ra khơi hai ngày thì hỏng máy. Hai người thợ máy đi theo lại chẳng biết gì về máy tàu, nên cuối cùng chiếc thuyền như thả trôi giữa biển mênh mông, mang theo số mạng của hơn hai trăm người. Tất cả chỉ còn cầu nguyện để mong có một chiếc tàu nào cứu thoát. Nhưng bao nhiêu lời cầu xin vẫn chưa làm động lòng Trời. Chiếc thuyền trôi dạt trên hai mươi ngày, lương thực đã cạn, và vì do không điều khiển được nên bị sóng đánh, nhiều lúc như muốn chìm. Nước tràn vào trong khoang. Mặc dù không còn sức, nhưng tất cả đàn ông đều được gọi lên trên mạn thuyền để thay nhau tát nước.

Một số tháo những thanh gỗ trên đài chỉ huy, thu góp tối đa áo quần, chăn mền mang theo, đốt lên tạo thành cột khói để làm dấu hiệu cấp cứu. Con thuyền nghiêng ngả, những đợt sóng lớn đánh vào mạn thuyền, kéo theo một số người xuống biển khơi. Sinh mạng con người lúc này thật nhỏ nhoi. Ai cũng nghĩ rồi sẽ đến lượt mình. Khi tàu sắp chìm, thì Thượng Đế xuất hiện. Một chiếc tàu chở dầu của Vương quốc Nauy đã cứu họ.

Thủy thủ đoàn trên tàu rất nhân đạo, tận tình cứu vớt. Họ thi nhau dùng dây đu xuống chiếc thuyền bị nạn, ưu tiên cõng theo con nít và đàn bà, và giúp những người đàn ông cố bám theo chiếc thang lưới, leo lên tàu. Ngay trên sàn tàu, họ sắp xếp đàn ông vào một khu, đàn bà một khu khác, rồi dùng vòi nước ngọt “tưới” lên những người bị nạn để giúp họ tỉnh táo lại, và phát quần áo mới để thay.

Sau khi hoàn hồn, không tìm thấy cậu con trai, bà và cô con gái chia nhau đi tìm nhưng không ai biết. Cả anh lính Hải quân đã giúp mẹ con bà cũng mất tích. Bà và cô con gái ôm nhau khóc nức nở, đòi nhảy xuống biển. Vị thuyền trưởng người Nauy biết chuyện nên lệnh cho cô bác sĩ  đưa mẹ con bà vào phòng y tế săn sóc và bảo đảm sự an toàn. Bà bảo, nếu không nghĩ đến cô con gái út, bà đã nhảy xuống biển.

Đến định cư ở Nauy, một đất nước giàu có và đầy lòng nhân đạo, bà và cô con gái được ưu tiên sắp xếp cho định cư ngay tại thủ đô Oslo. Mẹ con được cấp một căn nhà mới khang trang, hai phòng ngủ có đầy đủ tiện nghi. Cô con gái được theo học một trường Gymnas (trung học đệ nhị cấp) sau một khóa học ngôn ngữ Nauy dành cho người ngoại quốc.

Bà cũng được theo học tại một trường Voksengymnas (trung học dành cho người lớn). Hằng tháng, với số tiền trợ cấp đặc biệt, hai mẹ con không những sống đầy đủ mà còn dành dụm trả dần cho vợ người lính Hải quân tiền tương ứng với số vàng mà người em chồng của bà đã hứa với người thuộc cấp cũ. Người lính ân nhân này cũng đã chết trên biển cùng với đứa con trai của bà.

Cuộc sống tưởng chừng yên ả, sau khi những đau thương mất mát tạm lắng xuống, thì cô con gái trở nên kỳ lạ, thất thường sau những cơn ác mộng. Ở nhà, ban ngày chỉ đóng cửa nằm suốt trong phòng, ban đêm thức giấc la hét thất thanh. Bà phải đưa con tới trường, nhưng nhiều hôm cô bé la hét và vất tung sách vở chạy ra ngoài. Được đưa vào bệnh viện tâm thần chữa trị, nhưng không thuyên giảm. Bệnh tình ngày càng trầm trọng, mất dần trí nhớ. Thấy cô bé không còn làm chủ được mình, có thể nguy hại đến bản thân và cho người khác, Hội đồng Y khoa quyết định đưa vào một trung tâm đặc biệt dành chữa trị lâu dài. Bà không chịu, khóc lóc xin cho cô con gái được sống ở nhà, bà sẽ tự chăm sóc cho con, nhưng mọi người đều khuyên bà nên để cho cháu vào sống ở Trung tâm, để có thể chữa trị và giúp bà tự lo được cho mỉnh. Hơn nữa, mỗi tuần Trung Tâm sẽ sắp xếp cho bà hai lần vào thăm và ở lại với con khoảng ba tiếng đồng hồ.

Đúng vào lúc này bà lại nhận thêm một tin buồn. Người em chồng vừa qua đời ở Mỹ do một tai nạn giao thông. Bà không thể sang dự tang lễ được.
Trung Tâm đặc biệt này nằm trong khu vực chúng tôi đang ở. Bà thì đã dọn về đây từ lâu rồi, sau ngày cô con gái được đưa vào sống ở đây.

Từ ngày thân tình bà luôn đi bộ với chúng tôi mỗi ngày trên con đường dọc theo bờ sông Nitelva. Nhưng khi đến giữa cầu bà dừng lại, đứng ở đó, chờ chúng tôi trở lại sẽ cùng về với nhau. Điều đặc biệt, thành chiếc cầu này là một tấm lưới bằng sắt sơn màu xám, trên đó có treo rất nhiều ổ khóa, cả mấy trăm chiếc. Có những cái nằm riêng một mình, có những cái khóa chung vào với hai, ba cái khác. Trên nhiều ổ khóa có khắc tên hai người,  một số có tên nhiều người. Đã mấy lần, vợ chồng tôi tò mò, đứng lại xem và đọc vài cái tên trên ấy. Chỉ toàn tên người bản xứ, Nauy. Tôi nghĩ có lẽ đây là nơi hẹn hò, thề non hẹn biển của những cặp tình nhân.

Buổi chiều, sau ngày đến thăm cô con gái và ở lại nhà chúng tôi, khi cùng thả bộ tới giữa cầu, bà dắt tay chúng tôi đến một chiếc ổ khóa lớn, nằm riêng rẻ trên tấm lưới thành cầu. Cái khóa đồng, có khắc đậm năm cái tên. Mặt trước là tên của vợ chồng bà, mặt sau là tên của ba đứa con.

Cũng lần đầu tiên, bà giải thích vì sao bà thường đứng một mình giữa thành cầu. Vì cứ mỗi lần nhìn xuống dòng sông phía dưới, bà đều nhìn thấy hiện lên khuôn mặt của chồng bà và hai đứa con trai. Trong gợn sóng, bà vẫn thấy họ mỉm cười với bà. Chính điều này đã giúp bà có nghị lực để sống tới hôm nay.

Mỗi năm, bà làm giỗ chung cho ba cha con vào giữa tháng ba, vì họ đều mất trong cùng tháng ba. Tháng ba, Bắc Âu đang mùa Đông, trời rất lạnh. Khoảng thời gian này, vợ chồng tôi lại thường sang Mỹ thăm ba cô con gái, và cũng để trốn lạnh. Nhưng năm nay, chúng tôi ở lại Nauy, theo mong muốn của bà. Ước nguyện của bà là sau kỳ giỗ này bà theo chúng tôi sang Tây Ban Nha, sống trên đảo nào đó vài hôm, để bà có thể mỗi ngày ngồi trước biển, nhìn ra đại dương xa xăm, hy vọng sẽ thấy được quê hương và hình ảnh chồng và hai đứa con trai. Bà nghĩ như thế.

Trong ngày giỗ, bà khẩn khoản nhờ chúng tôi, trước khi trao một tờ giấy ủy quyền, để khi bà qua đời, thân xác được thiêu, và chúng tôi sẽ mang tro cốt rải xuống dòng sông Nitelva, nơi mà bà thường đứng trên cầu, mỗi buổi chiều hè, nhìn xuống đó. Bà cũng dặn dò, nhờ chúng tôi bỏ hết mấy tấm ảnh của gia đình, chồng và các con vào quan tài để cùng thiêu với bà.
Bà đi với vợ chồng tôi sang Mallorca, một hòn đảo du lịch nổi tiếng của Tây Ban Nha và ở đây hai tuần. Bà bắt buộc chúng tôi phải để cho bà bao trọn chuyến du lịch này.

Theo ước muốn của bà, mỗi ngày sau khi ăn điểm tâm xong, vợ chồng tôi đưa bà ra biển, nơi có mô đất cao, được làm thành một vườn hoa rất đẹp. Bà ngồi trên ghế đá có dù che, nhìn ra một vùng biển trời mênh mông trước mặt. Không biết bà có nhìn thấy được chồng con và quê hương ở phía cuối chân trời? Chúng tôi ngại, không dám hỏi bà.

Sau chuyến đi khoảng ba tháng, bà bị bệnh. Chúng tôi đến thăm. Bà than mệt, thỉnh thoảng lên cơn ho. Tôi nghĩ bà chỉ cảm nhẹ, hoặc mùa này nhiều người bị dị ứng phấn hoa, nên đi mua thuốc cho bà. Khi mang cốc nước đến cho bà uống thuốc, tôi vỗ vai, an ủi:

– Bà chị đã trên 80 rồi, tất nhiên sức khỏe có yếu đi, hay mệt, hoặc có thể bị dị ứng phấn hoa, chứ chẳng có chuyện gì đâu”

Bà xã tôi dọn dẹp nhà cửa, nấu cơm, làm ít món ăn bà thích và dặn dò bà phải nghỉ ngơi, không được làm việc gì, nhà cửa, cơm nước để chúng tôi lo.
Không ngờ bệnh tình ngày một nặng hơn. Chúng tôi đưa bà vào bệnh viện. Sau khi khám và làm xét nghiệm, bác sĩ cho biết trong phổi bà có nước và có cả vi khuẩn. Tình trạng khá nguy hiểm.

Hơn một tuần sau bà mất. Là người thân duy nhất được bà ghi vào hồ sơ, chúng tôi được bệnh viện báo tin. Với tờ ủy quyền, chúng tôi nhận đứng ra lo việc an táng cho bà. Tôi đến Trung Tâm Tâm Thần, nơi cô con gái của bà ở, báo tin cho Bác sĩ Giám Đốc, và yêu cầu vào ngày tang lễ, xin Trung Tâm đưa cô con gái đến dự và chịu tang cho mẹ, theo truyền thống Việt nam
Đám tang tổ chức ngay tại nhà quàn bệnh viện.

Ngoài vợ chồng tôi, chỉ có cô con gái của bà và hai người của Trung Tâm Tâm Thần. Tôi cũng mời một vị sư đến niệm kinh cho bà. Cô con gái ăn mặc đúng phong cách, một bộ vest đen mới toanh, theo sự hướng dẫn của cô ý tá, cùng chúng tôi quỳ xuống trước linh cữu của bà. Không biết cô gái có biết điều gì đang xảy ra hay không? Chỉ im lặng cúi đầu. Khi vị sư choàng chiếc khăn tang vào đầu, cô đưa tay giật xuống. Không biết cô ý tá nói nhỏ với cô điều gì, rồi lấy chiếc khăn tang quấn lại trên đầu. Lần này cô bé yên lặng, chống hai tay cúi xuống.

Đúng một trăm ngày, theo ước nguyện của bà, cũng là đầu tháng bảy, mùa hè, chúng tôi mang tro của bà ra rải giữa dòng sông, dưới chiếc cầu Nitelva, cùng lúc với những cánh hoa hồng trắng được bỏ xuống. Loại hoa bà thường cắm trên bàn thờ chồng và hai đứa con trai của bà. Hôm ấy trời đang thật đẹp, bỗng bất chợt một cơn mưa rào. Mùa hè ở đây thường như thế. Vợ chồng tôi vội vàng chạy vào dưới tàn cây ở phía đầu cầu trú mưa, nơi mà lần đầu tiên chúng tôi đã thực sự gặp bà, để rồi sau đó trở thành thân thiết.

Chiều hôm sau, khi đi bách bộ, tôi mang theo chai Zip,  chùi sạch và đánh bóng lại ổ khóa của bà treo trên thành cầu, lấp lánh năm cái tên được khắc sâu trên ấy. Nước mắt tôi bỗng trào ra, khi nhớ tới bà và câu chuyện đau thương của gia đình bà. Cả một gia đình đều là nạn nhân của Cộng sản. Một chế độ man rợ đã gây nên biết bao chia lìa tang tóc cho đồng bào và hủy hoại cả quê hương đất nước. Và đó cũng chỉ là một trong muôn vàn thảm cảnh sau ngày CS cưỡng chiếm miền Nam, xích xiềng cả nước.
Từ hôm ấy, cứ mỗi lần đi bộ, chúng tôi đều dừng lại giữa cây cầu Nitelva này khoảng vài phút, đứng yên lặng bên thành cầu, tưởng niệm vợ chồng và hai đứa con trai bất hạnh của bà.

Bệnh viện cũng đã trao lại cho chúng tôi những di vật của bà. Trong đó ngoài hai thẻ ngân hàng và mấy tấm ảnh còn có lá thư ngắn viết cho vợ chồng tôi và tờ di chúc viết bằng tiếng Việt. Bà nhờ tôi dịch ra tiếng Nauy hai bản. nhờ bệnh viện chứng nhận. Một bản trao lại cho kommune (văn phòng thị xã), một bản cho Trung Tâm Tâm Thần. Trong đó bà quyết định, tất cả tài sản, căn nhà và tiền bạc trong ngân hàng, bà xin hiến tặng cho Trung Tâm, nơi nuôi nấng chăm sóc con gái của bà. Bà chỉ có một yêu cầu, khi nào con gái bà qua đời, xin cho thiêu xác và rải tro xuống dòng sông, giữa cầu Nitelva, để cháu được đoàn tụ với bố mẹ và hai anh, khi theo dòng sông chảy ra biển và cùng nhau trôi dạt về lại quê nhà.

Phạm Tín An Ninh

Cậu bé và chiếc giày

Ở Mỹ có một cậu bé sinh ra trong một gia đình nghèo, từ nhỏ đến khi đi học cậu chỉ mang mỗi một đôi giày rách. Cậu bé nghe nói vào lễ Giáng Sinh, khi đến bất cứ cửa hàng nào, chỉ cần nói với Thượng Đế thứ mình muốn thì chủ cửa hàng sẽ thỏa mãn yêu cầu của mình.

Vào hôm Giáng Sinh, cậu bé nhìn thấy trong một cửa hàng giày có bày bán những đôi giày rất đẹp nên đã bước vào cửa hàng và nói với ông chủ rằng: “Hôm nay là Giáng Sinh, cháu rất thích đôi giày này, chú có thể giúp cháu nói với Thượng Đế để Ngài cho cháu đôi giày này có được không ạ?”

Ông chủ nhìn xuống chân của cậu bé và hiểu ngay vấn đề, ông ấy cầm lấy đôi giày rồi nói: “Được thôi cháu bé, bây giờ ta sẽ nói với Thượng Đế”. Sau đó ông ấy cầm đôi giày và đi vào bên trong.

Một lúc sau, ông chủ đi ra, nhưng trên tay chỉ cầm có mỗi một chiếc giày rồi đưa cho cậu bé và nói: “Cháu bé, Thượng Đế nói rằng Ngài chỉ cho cháu một chiếc giày thôi, cháu phải tự nghĩ cách kiếm tiền để mua chiếc còn lại.”

Cậu bé hỏi: “Vậy cháu phải kiếm bao nhiêu tiền thì mới mua được chiếc giày còn lại?”

Ông chủ nói: “2 đô la.”

Cậu bé lại nói: “Được rồi ạ, cháu sẽ nghĩ cách kiếm tiền, nhưng chú nhất định phải giữ cho cháu chiếc giày còn lại nhé.”

Ông chủ cười nói: “Cháu cứ yên tâm.”

Sau khi về nhà và tiết kiệm được 2 đô la bằng cách nhặt ve chai, cậu bé vui vẻ chạy đến cửa hàng để trả tiền. Ông chủ đã khen ngợi cậu bé và đưa cho cậu chiếc giày còn lại. Kể từ đó, cậu bé đã có một đôi giày mới rất đẹp.

Khi lớn lên, cậu bé đã từng làm nhiều nghề như nhân viên cứu hộ, bình luận viên, phát thanh viên rồi bước vào giới nghệ thuật và trở thành một ngôi sao nổi tiếng. Vào năm 1980, cậu bé ấy đã trở thành Tổng thống thứ 40 của Hoa Kỳ, cũng chính là Tổng thống Ronald Reagan.

Trong nhiệm kỳ tổng thống của mình, có một lần ông Ronald Reagan được phóng viên hỏi về việc có ảnh hưởng lớn nhất đối với sự trưởng thành của ông là gì, ông đã kể về câu chuyện “Thượng Đế chỉ cho 1 chiếc giày” khi ông còn nhỏ.

Ông Reagan cho biết: “Sau này tôi mới biết được giá gốc của đôi giày đó là 38 đô la, một nửa giá cũng đến 19 đô la nhưng ông chủ cửa hàng chỉ lấy của tôi 2 đô la để dạy cho tôi một điều rằng:

“Thượng Đế sẽ không cho bạn tất cả những gì bạn muốn, Ngài chỉ cho bạn một phần mà thôi, bạn phải tự mình nỗ lực để lấy phần còn lại.”

Sưu tầm

My Lan Phạm

From: Tu-Phung


 

Bức Thư Cha Già Gửi Con Gái Nhân Ngày Father’s Day 

Đây là thư của người cha già gửi con gái nhân ngày Father’s Day, được viết với rất nhiều xúc động. Theo nội dung bài viết, tác giả là một vị cao niên đã 80 tuổi: cựu sĩ quan VNCH, cựu tù chính trị, cựu thuyền nhân, vượt biên tới Mỹ trước đây 18 năm (1987). Bài viết được chuyển tới bằng email, mong tác giả sẽ có thêm những bài viết mới và vui lòng bổ túc chi tiết tiểu sử và địa chỉ liên lạc. Father’s Day 2005.

* * *

Con gái của Ba,

Còn bốn tháng nữa con tròn 56 tuổi. Nhưng trong lòng Ba con vẫn còn trẻ như tuổi 15.

Ba nhớ lại cũng ngày nầy 18 năm về trước, cha con mình đùm túm dắt nhau đi vượt biên rồi sang Mỹ.

Ba nói là “đùm túm” vì hồi đó Ba từ trại tù cải tạo về thì con đã gần 40 tuổi.

Khổ. Nghèo. Nhìn con gái Ba héo úa dung nhan mà Ba khóc ròng.

Tại ba! Tại Ba hết thảy! Làm con gái của một “sĩ quan ngụy” nên từ trường Đại Học ra con không có việc làm.

Hàng ngày, ngồi ở góc chợ Bàu Hoa vùng Ngã Tư Bảy Hiền-Sài Gòn để bán từng tô bún mắm.

Cứ ba tháng một lần lặn lội ra Bắc thăm Ba.

Năm 1975 Mẹ con mới 50 tuổi. Người vẫn nghĩ rằng Ba chỉ đi “học tập ít ngày”. Thành ra, nghe Ba đi Bắc, Mẹ con bị shock. Cộng thêm bệnh cao huyết áp sẵn có Mẹ còn “nhất định nằm một chỗ!”. Thế là con gái của Ba vừa lo cho Mẹ, vừa lo cho Ba. Ba ở tù 8 năm thì Mẹ con mất. Phải đến 4 năm gian khổ đời con nữa Ba mới được trở về.

***

Buổi tối đoàn viên ấy, cha con mừng mừng tủi tủi. Nhìn ảnh Mẹ con vẫn như tươi cười Ba tan nát cả lòng.

Nhưng biết nói làm sao” Vận mệnh cá nhân mình gắn liền với vận mệnh quốc gia dân tộc.

Cả thời tuổi trẻ của Ba hầu như đi khắp 4 vùng chiến thuật. Mẹ con cứ bồi hồi theo dõi đường Ba đi. Không biết mình sẽ thành góa phụ lúc nào. Thời gian ở nhà của Ba rất ít. Con là con đầu lòng. Lại là con gái. Cảm ơn con gái của Ba. Một đứa con gái có lòng hiếu thảo.

Trong một lần thăm nuôi tại trại tù, con kể Ba nghe: Từ nhà mình tới chợ Bàu Hoa chừng non 1 cây số. Sáng nào con cũng bày hàng bún mắm ra. Mùi mắm kho thơm lừng. Có cả tôm thẻ lột, thịt quay, cà tím. Có cả những rau nhút, cây bông súng, rau đắng, húng cây, giá sống và bắp cải bào. Khách hàng đông lắm!

Con còn cười vui nói với Ba:

Khi nào Ba về con sẽ mở một tiệm bún mắm và rau VÂN KHANH cho Ba ngồi thu tiền.

Ba nghe với lòng se sắt.

***

Con gái của Ba,

Trớ trêu thay, lúc Ba về con đã là con gái lỡ thì. Ba buồn lắm. Nhờ ơn Thượng Đế mình vượt biên một lần trót lọt. Ba đặt chân đến đất Mỹ vào cái tuổi người ta sắp nghỉ ngơi. Chính vì vậy mà con lại khổ vì Ba. Con không muốn Ba đi làm ca đêm giữa trời rét buốt. Con nói cái lạnh miền Bắc Việt Nam đã cứa nát thịt da Ba cả chục năm trời cũng đủ lắm rồi. Ba hãy để con lo. Nhưng Ba đâu đành lòng như thế.

Buổi sáng con ra khỏi nhà là Ba cũng đi. Tiệm giặt ủi gần nhà mình quá mà. Ba nhận phần việc ủi và xếp quần áo. Đi tới đi lui xem máy giặt nào ngưng. Máy sấy nào đồ đã khô. Chỉ vậy thôi. Một ngày, tính ra Ba đi cũng gần 5 cây số. Tội nghiệp con gái của Ba. Lúc người ta báo tin Ba bị xỉu thì con khóc ròng. Ba về nhà ở không cho con nuôi tiếp. Thật người xưa nói đúng! “Trẻ cậy cha, già cậy con” mà.

***

Vân Khanh con,

Cho đến một buổi chiều, con đưa về nhà một trung niên trẻ. Trung niên mà Ba cho là “trẻ”. Vì Ba thấy diện mạo anh ta cũng dễ nhìn. Ba mừng vì con của Ba rồi cũng có một bến đợi để neo thuyền. Ba cầu mong cho con hạnh phúc.

Chồng của con cũng là chiến hữu của Ba. Gia cảnh cũng không may mắn giống như Ba. Vợ anh đã chết trong lần đi thăm chồng. Cả chiếc xe lăn xuống vực. Từ đó anh dở dở ương ương. Qua Mỹ rồi anh vẫn sống như người mộng du. Cho tới ngày gặp con. Tình yêu thật là kỳ diệu! Chẳng những khiến cho con gái của Ba trẻ lại mà anh chàng “dở hơi” kia cũng chừng như mới cải lão hoàn đồng.

Cứ 4 giờ khuya, anh thức dậy đi bỏ báo. Tới 9 giờ sáng về. Nghỉ ngơi rồi 5 giờ chiều đi vào hãng. 1 giờ đêm mới trở về nhà. Ba cảm ơn Thượng Đế lần nữa vì con có người chồng hiền lành và độ lượng. Chứ vào tuổi của Ba không bị đưa vào nhà dưỡng lão là hiếm lắm. Con nhớ gia đình Bác Th. không” Hai bác cưới vợ cho anh Cảnh từ lúc còn ở Việt Nam. Vậy mà qua Mỹ rồi Bác Thanh bị cô dâu xem như gánh nặng. Nhất định đòi anh Cảnh phải đưa Mẹ vào Nursing home cho đến chết.

***

Vân Khanh con,

Cả một thời trẻ tuổi của con đã dành để sống cho cha mẹ. Bây giờ con hãy sống cho con đi. Ba rất cảm động mỗi lần khách đến thăm nhà con hay nói: vợ chồng con có phước lắm nên suýt soát tuổi 60 mà vẫn còn có cha để phụng dưỡng. Phải ! Hồi đó ba khó nghĩ mỗi lần nghe người ta cho rằng sự sống con người tính theo công thức: 5 năm, 6 tháng, 7 ngày. Nghĩa là ở tuổi đời 5 bó, tuổi thọ tính theo năm. Đến 6 bó thì tính theo tháng , mà 7 bó thì tính theo ngày. Ba đã 80, chắc phải tính theo giờ quá!

Cảm ơn vợ chồng con đã chăm sóc Ba mỗi ngày.

Con nói: Ba ơi ! Với chúng con ngày nào cũng là Father’s Day cả.

Ba thật có lỗi với con. Hồi đó Ba vẫn buồn thầm trong lòng khi mẹ con sinh con là con gái. Ông Nội con sợ Ba chết trận thì không có con trai nối dõi tông đường. Còn nếu Ba già mà yếu đau thì con là gái không thể chăm cho Ba được.

***

Ca dao có câu:

Trai mà chi” Gái mà chi”

Con nào có nghĩa có nghì thì hơn.

Nói đến đây Ba chợt nhớ loáng thoáng câu chuyện “Tấm đắp mông ngựa” mà Ba đã đọc từ rất lâu:

Chuyện kể :

Một người cha đã đem cả gia tài còn lại của mình cưới cho con cô vợ giàu, trẻ đẹp. Một thời gian đầu sống vui. Rồi những đứa cháu nội lần lượt ra đời. Người cha mỗi ngày một già yếu. Người con trai rất yêu và nể vợ. Dần dần quên đi trong nhà còn có người cha. Mùa Đông lạnh lẽo mà sức già chịu không thấu những ngày giá tuyết phũ phàng. Trong khi những con ngựa nuôi trong chuồng thì được giữ ấm bằng những tấm đắp mông. Đến chừng không thể chịu đựng được nữa người cha bèn gọi con trai để nói rằng:

– Con ơi , hãy cho cha một tấm đắp mông ngựa để cha dễ ngủ vì mùa Đông nầy lạnh quá!

Con dâu nghe được bèn nói với chồng:

– Anh hãy lấy tấm đắp cũ ngoài sân kia mà cắt cho cha một nửa.

Người con trai làm theo lời vợ. Trong lúc cố dùng sức cắt đôi tấm đắp ra thì đứa con nhỏ đến gần, hỏi:

-Cha ơi, sao không cho ông Nội cả tấm đi” Cha cắt ra làm chi “

Người cha trả lời:

– Để dành con à.

Hôm sau, người con trai thấy đứa con mình cũng đem tấm đắp mông ngựa khác cắt ra làm đôi. Người con trai giận dữ hỏi:

– Con làm cái gì vậy” Tại sao con cắt nó ra”

Đứa con nhỏ đáp:

– Nửa tấm nầy con cho ông Nội. Còn nửa nầy để dành khi nào cha già con sẽ cho cha.

Người cha giật mình hối hận. Từ đó, hết lòng chăm sóc cha mình cho đến cuối cuộc đời.

***

Vân Khanh,

Ba ước ao những người cha khác cũng có con hiếu thảo như con gái của Ba.

Ba rất tự hào về con. Trong lúc có biết bao gia đình, cha mẹ ngậm đắng nuốt cay vì những đứa con Việt Nam sống theo kiểu Mỹ. Rất tự do! Thậm chí đã khước từ hai chữ HIẾU KÍNH cha mẹ, làm cho các bậc sinh thành hàng ngày sống “nước mắt chan cơm” thì Ba đã được vợ chồng con hết lòng chăm chút từng miếng ăn, giấc ngủ.

Người xưa nói: “Hiếu thuận hườn sanh hiếu thuận tử. Ngỗ nghịch hoàn sinh ngỗ nghịch nhi”.

Ba ước nề nếp gia đình mình là như vậy.

Ba của con,

Father’s Day 

HOÀNG YẾN

Để thấy thương vợ nhà  hơn – Tràm Cà Mau – Truyện ngắn

 Tác giả: Tràm Cà Mau

Rất nhiều bà vợ hiểu biết, hiền lành, dễ thương, ngày đêm vun xới cho hạnh phúc gia đình. Bởi hạnh phúc gia đình, có thể nói là thứ quý báu nhất trên đời, khó có gì sánh bằng. Sống trên thế gian, ai ai cũng mưu cầu hạnh phúc, chỉ có người mất trí khôn mới không biết quý không khí êm ấm của gia đình. Nếu trong một đất nước, mà nhà nhà đều được hạnh phúc đơm đầy, thì quốc gia đó, đạt được lý tưởng mơ ước, không cần giàu, mạnh, hay tiếng tăm.

Người ta kiếm cho ra nhiều tiền, không kể nhọc nhằn, lao tâm khổ trí, cũng chỉ để mưu cầu hạnh phúc. (Họ tưởng tiền bạc có thể mua được hạnh phúc) Theo đuổi danh vọng, cũng là một thứ đi tìm hạnh phúc cá nhân, khoan kể đúng hay sai.

Tuy nhiên, có không ít bà vợ đã cố ý hay vô tình phá vở hạnh phúc êm đềm thường ngày, bằng cách làm khó chồng, đay nghiến, nói lời độc ác, hành động hoang loạn, bất mãn triền miên và chê bai chồng đủ điều. Các bà nầy, đã tự đập vở hạnh phúc đang có, và bỏ phí tháng ngày trời cho. Có thể, đến khi mất đi ông chồng dễ ghét đó, các bà mới chợt ý thức được hành động đáng trách của họ, và lúc đó tiếc thương thì cũng đã quá muộn màng.

Ai đã từng ít nhiều đau khổ vì bị vợ hành, xin đọc các trích đoạn sau đây.  Đoạn đầu là bản dịch chương 1 phần 6 của tập “Đắc Nhân Tâm” do học giả Nguyễn Hiến Lê dịch, nguyên tác của Dale Carnegie, sẽ thấy an ủi vô cùng. Vì thế gian đã có những danh nhân bị vợ hành gấp trăm mình.

Xin để thì giờ đọc, mà tìm đuợc chút an ủi và hạnh phúc. Nếu đã đọc rồi, cũng nên đọc lại, vẫn thấy hay vô cùng. Chương 1 phần 6 của cuốn Đắc Nhân Tâm viết  như sau:

Chôn sống hạnh phúc gia đình cách nào lẹ nhất?

Năm 1852, Hoàng đế Nã Phá Luân đệ tam say mê Nữ bá tước Mari Eugénie Ignace Augustine de Montiji, người đàn bà đẹp nhất thế giới và cưới nàng. Cận thần có người can gián Hoàng đế vì lẽ không được “môn đăng hộ đối”.

Nhưng Hoàng đế nói: “Có cần chi điều đó”. Cái duyên và vẻ đẹp lộng lẫy của nàng làm cho Hoàng đế mê ly như gặp tiên. Trong một bài diễn văn, Hoàng đế nói như thách cả nước Pháp: “Trẫm đã cưới một người đàn bà mà Trẫm yêu và ngưỡng mộ, như vậy còn hơn là cưới một người mà Trẫm không được biết”.

Hoàng đế và Hoàng hậu có đủ điều kiện để cuộc lương duyên hoàn toàn theo lý tưởng: Sức mạnh, tiền bạc, quyền thế quang vinh, sắc đẹp, tình yêu. Chưa bao giờ người ta thấy hạnh phúc thiêng liêng trong gia đình chói lọi rực rỡ như vậy.

Than ôi! Chẳng bao lâu, lửa thiêng đó chập chờn, lu mờ và tắt hẳn. Nã Phá Luân đã có thể làm cho nàng Eugénie thành một bà Hoàng hậu được, nhưng không có gì ở đời này, cả tình thương của ông, cả uy quyền của ông, có thể thay đổi nổi tính tình của người đàn bà đó.

Bà điên cuồng vì ghen tuông bị nghi ngờ nó giày vò bà, làm cho đời sống của ông không được mảy may tự do. Bà không kể gì tới mệnh lệnh của ông nữa, bà sồng sộc xông vào văn phòng của ông trong khi ông bề bộn việc nước; Trong lúc ông bàn kín việc quốc gia đại sự, bà cũng vào cho kỳ được mới nghe. Bà nhất định không bao giờ để cho ông ở một mình hết, luôn luôn sợ ông có ngoại tình.

Thường thường bà chạy lại nhà một bà chị để phàn nàn về chồng, trút hết tâm sự, khóc la, đe dọa. Có lắm lần bà đạp cửa vô thư viện của ông để chửi ông nữa. Cho nên, làm chủ mười hai tòa cung điện lộng lẫy mà Nã Phá Luân đệ tam không có lấy một cái tủ để trốn trong đó cho yên thân được.
Rồi sau xảy ra sao?

Đoạn văn bản này trích trong cuốn sách thú vị của E. A. Rheinhardt “Nã Phá Luân và Eugénie: Bi hài kịch của một đế chính” trả lời câu hỏi đó:
“Như vậy, rốt cuộc Nã Phá Luân có ngoại tình thiệt và ông luôn luôn lén lút ra khỏi cung, đội chiếc nón nỉ kéo sụp xuống che mắt, có độc một người hầu cận theo sau, để đi tới nơi hẹn hò với một giai nhân… Nếu không phải, như hồi còn hàn vi, để đi lang thang trong kinh đô, vơ vẩn dạo chơi trong những con đường mà các vị Hoàng đế chỉ được nghe tả trong sách…”.

Đó, cách cư xử của bà Eugénie đem tới kết quả như vậy đó. Đành rằng bà vẫn luôn luôn là Hoàng hậu nước Pháp. Đành rằng bà là người đẹp nhất thế giới. Nhưng khốn nạn thay, cả chức Hoàng hậu và sắc đẹp đó không đủ cứu vãn tình yêu bị ngạt trong không khí đầy chất độc, vì những cuộc bất hòa đó.

Phải, Eugénie cũng có thể kêu Trời như Job “Ghét của nào, Trời trao của đó”. Trời trao ư? Không đâu. Chính bà đã tự đem trút nó lên đầu bà vì cái máu ghen và những lời đay nghiến của bà. Đành hanh, nhiếc móc, giày vò, thứ khí giới tai hại nhất mà Diêm Vương đặt ra để tiêu diệt tình yêu. Khí giới đó chắc chắn có hiệu quả hơn hết cũng như nọc rắn hổ vậy, không ai thoát khỏi chết.

Bá tước phu nhân Tolstoi tìm thấy chân lý đó – nhưng trễ quá. Lúc lâm chung, bà thú với con gái bà rằng: “Chính má đã làm cho ba các con chết”. Con gái bà không biết trả lời ra sao, sa lệ. Vì biết rằng quả đúng như vậy: Ông Tolstoi chết vì bà đầu độc đời ông bằng những lời đay nghiến cay chua không ngớt, những cuộc xung khắc bất tận.

Mà cặp vợ chồng đó có đủ những điều kiện của hạnh phúc. Tolstoi là một văn sĩ nổi danh nhất hoàn cầu. Ngoài vinh quang đó ra, ông bà lại giàu sang, có địa vị quan trọng trong xã hội và có nhiều con. Không bao giờ một cuộc hôn nhân trổ bông dưới nền trời tươi sáng hơn nữa. Mới đầu, hạnh phúc của ông bà đầy đủ quá, hoàn toàn quá, đến nỗi có khi cả hai đều quỳ gối, cầu xin Thượng đế gìn giữ họ trong cảnh thần tiên đó.

Rồi thì một sự lạ lùng xảy ra. Lần lần Tolstoi biến đổi tính nết, thành một người khác hẳn. Ông xấu hổ về những danh tác ông đã viết, và bắt đầu từ lúc đó ông miệt mài viết những bài thuyết giáo về hòa bình và kêu gọi diệt trừ chiến tranh và khổ cực cho nhân loại.

Ông thú rằng hồi thiếu thời, ông đã mắc những tội lỗi không thể tưởng tượng được, cả tội giết người nữa và để chuộc tội, ông nhất định theo đúng giáo lý Cơ Đốc. Ông phân phát hết thảy những của cải của ông và thề sống trong cảnh nghèo. Ông làm lụng ngoài đồng, chặt cây, phơi cỏ, đóng lấy giày, quét lấy phòng, ăn trong đĩa bằng gỗ, ráng yêu cả những kẻ thù ông.
Đời của ông là một bi kịch, mà như vậy chỉ do hôn nhân của ông. Bà ưa xa hoa, ông thì ghét. Bà ham danh vọng, thích được tôn trọng, thích giao du, mà ông lại không màng gì tới những thú tầm phào đó. Bà đòi có nhiều vàng, sống một cuộc đời sang trọng, còn ông thì cho giàu có là một tội lỗi.
Trong nhiều năm, bà đay nghiến ông, thịnh nộ với ông, mạt sát ông, vì ông in sách cho không, không đòi quyền tác giả, mà bà thì không muốn bỏ những món tiền đó.

Khi ông chống lại thì bà phát cơn động kinh, lăn trên mặt đất, ngậm ở môi một ve thuốc phiện, thề sẽ tự tử hay dọa sẽ đâm đầu xuống giếng.
Có một chi tiết mà tôi cho là vô cùng thương tâm trong đời của ông bà. Như tôi đã nói, lúc mới cưới, cuộc tình duyên đó thiệt đẹp đẽ, vậy mà 48 năm sau, ông Tolstoi đến nỗi hễ trông thấy mặt bà là chịu không nổi… Có khi, buổi tối, bà già cô đơn đó thèm khát tình thương, lại quỳ bên ông và xin ông đọc cho nghe những đoạn dịu dàng cảm động, mà ông viết vô nhật ký để tặng bà, 50 năm trước.

Và khi ông đọc, sống lại những ngày tươi sáng rực rỡ, bây giờ đã tan như mây khói, cả hai đều rơi lệ. Than ôi! Thực trạng khác xa những mơ mộng thiếu thời một cách độc địa làm sao!

Sau cùng, năm 82 tuổi, Tolstoi không chịu nổi sự bất hòa ghê gớm trong gia đình nữa và một buổi tối, tháng 10 năm 1910, tuyết sa đầy trời ông trốn bà, đi xa, trong đêm tối và lạnh lẽo, không biết là đi về đâu.

Mười một ngày sau, ông đau phổi mà chết tại một nhà ga. Lời cầu xin cuối cùng của ông là đừng để ông thấy mặt vợ ông.

Đó, bà Tolstoi phải chuộc những cơn giận, lời dọa nạt, lời trách móc với cái giá đó.  Có lẽ độc giả tự nhủ rằng có nhiều chỗ bà phàn nàn cũng đáng. Phải. Nhưng vấn đề không phải ở đó. Vấn đề ở chỗ này: Bà phàn nàn có ích gì cho bà không? Hay là, trái lại, chỉ làm cho tình thế đã tệ hại còn tệ hại thêm nhiều?

Khi trễ quá rồi, bà mới tự thú: “Tôi tin chắc rằng hồi đó tôi điên”.

Bi kịch thảm thương nhất trong đời Lincoln cũng là cuộc hôn nhân của ông. Tôi nói rõ: Không phải là vụ ám sát ông mà là cuộc hôn nhân của ông. Khi tên Booth hạ sát ông bằng một viên đạn, ông không hay rằng người ta mới bắn ông, nhưng trong 23 năm trời, gần như mỗi ngày, ông được nếm “những trái cây chua chát của một duyên nợ đau khổ” như lời ông Herdon, người bạn ông đã nói. Thiệt vậy, trong gần một phần tư thế kỷ, bà Lincoln rút dần mạch sống của đời ông bằng cách khích bác, gây lộn, giày vò, đay nghiến ông.

Bà luôn luôn day dứt, đay nghiến rằng ông chẳng được vẻ gì: Nào là lưng thì gù, chân đi thì kéo lê như thằng mọi, dáng điệu cứng như que củi, gai mắt lạ lùng.

Bà nhại dáng đi của ông rồi nghiến răng hỏi ông sao không bắt chước dáng đi lịch sự của bà? Bà oán cả hai tai ông, vừa rộng vừa vểnh ra như tai voi. Bà chê ông mũi lệch, bà chê môi dưới ông trề ra, bà chê ông có vẻ ốm đói; Tay chân lớn quá mà đầu thì nhỏ quá! Hai ông bà trái ngược nhau về đủ mọi phương diện: Giáo dục, tính tình, thị hiếu. Chọi nhau hoài…

Một sử gia thông thạo nhất về đời sống Tổng thống Lincoln có viết: “Giọng nói the thé của bà Lincoln, ở ngoài đường cũng nghe thấy, và những cơn thịnh nộ của bà thì điếc tai hàng xóm. Mà không phải khi bà giận dữ, chỉ la hét mà thôi đâu, bà còn làm hung nữa, có nhiều chứng cớ không chối cãi được”.

Chẳng hạn, sau khi cưới, ông bà lại trọ nhà bà Farly, vợ góa một lương y, có nấu cơm tháng.

Một hôm lúc điểm tâm, ông Lincoln có một cử chỉ hoặc thốt một lời làm cho bà nổi giận. Không ai nhớ ông đã làm gì, nhưng người ta thấy bà Lincoln trong lúc cơn điên lên đến cực điểm, liệng một tách cà phê nóng vào mặt chồng, ngay lúc đông đủ các khách trọ khác.

Lincoln xấu hổ lắm, làm thinh ngồi trơ trên ghế trong khi bà chủ trọ đem chiếc khăn mặt ướt lại chùi má và quần áo ông.

Lòng ghen của bà Lincoln vô lý dữ tợn, và không thể tưởng tượng được, đến nỗi chỉ cần đọc những đoạn tả những cơn giận dữ, bi thảm làm cho ông mất mặt trước công chúng, phải, chỉ cần đọc những đoạn đó, 75 năm sau, cũng còn thấy kinh tởm rùng mình. Sau cùng, bà hóa điên. Người ta cho rằng tánh hạnh bà như vậy; Bởi vì bà mắc bệnh thần kinh. Không thể có lời nào nhân từ hơn để xét bà nữa.

Bây giờ ta hãy tự hỏi: Những cơn thịnh nộ đó, những lời đay nghiến đó, cái lối bù lu bù loa đó có cải thiện ông Lincoln chút nào không?

Một ngàn lần không. Nó chỉ giết hết tình cảm của ông đối với bà, nó làm cho ông suốt đời hối hận rằng đã cưới bà và chỉ muốn có mỗi một hành vi là đi khỏi nhà cho khuất mắt.

Tại tỉnh Springfield, là nơi gia đình Lincoln ở, có 11 ông luật sư. Vì đông quá, không thể kiếm ăn trong tỉnh đó được, họ phải đi ngựa từ tỉnh lỵ này qua tỉnh lỵ khác, theo sau ông tòa David Davis để cãi trong những lúc ông này xử án khắp trong miền. Nhưng trong khi bạn đồng nghiệp của ông Lincoln cứ cuối tuần lại trở về gia đình thì ông Lincoln không muốn về, vì rất kinh tởm sự ở gần bà vợ. Và trong ba tháng hè và ba tháng thu, ông ở xa biệt, không lai vãng gần miền Springfield.

Như vậy trong nhiều năm. Đời sống trong những quán trọ nhà quê đó không vui thú, cũng không đủ tiện nghi; Nhưng sống như vậy, ông còn thích hơn là về nhà để thấy bà Lincoln với những cơn tam bành, lục tặc của bà ấy.

Hành vi của bà Lincoln, Hoàng hậu Eugénie và Bá tước phu nhân Tolstoi có những kết quả như vậy. Chỉ mang lại bất hạnh cho gia đình và diệt hết nguồn ân ái mà mấy bà quý hóa nhất.

Sau khi bàn cãi trong 11 năm ở “Tòa chuyên xử các vụ lôi thôi trong gia đình ở Nữu Ước” và nghiên cứu cả ngàn vụ chồng bỏ nhà ra đi, bà luật sư Bessie Hamburger tuyên bố rằng đàn ông phải trốn vợ vì họ chán nghe vợ rầy rà, gây gổ. Như một văn sĩ đã nói: “Đàn bà đào huyệt chôn hạnh phúc gia đình bằng nanh vuốt của họ”.

Vậy, thưa quý bà, nếu quý bà muốn giữ sự vui vẻ hòa nhã trong gia đình, xin quý bà theo lời khuyên dưới đây: Đừng day dứt đay nghiến chồng!

Không phải chỉ các danh nhân mới khổ vì vợ. Những người bình thường, cũng gặp hoàn cảnh ngang trái, như hai nhân vật trong tập truyện ngắn nhan đề “Hương Tóc Cố Nhân” của Tràm Cà Mau, trích từ trang 59:

Nhiệm sở đầu tiên trong đời làm việc của tôi là một cơ sở quốc doanh, một khu kỹ nghệ, tiền vốn do các quốc gia Liên Âu viện trợ phát triển công nghiệp. Ông tổng giám đốc của tôi là một người Việt có quốc tịch Pháp. Trong sở, ông chỉ nói bằng tiếng Tây, giọng oang oang, oai phong lắm. Lời ông nói, mới nghe thì rất chi là thực dân phong kiến. Câu nói nào của ông cũng có kèm theo những lời vô cùng dao búa chết chóc: “Ông chém mầy. Ông giết mầy. Ông bắn mầy”. Nghe lối nói của ông, chúng tôi hết hồn, run. Vì đa số chúng tôi thường được giáo dục trong lời ăn tiếng nói, tránh những ngôn từ không đẹp, không dám dùng lời thô lổ sống sượng, làm mất lòng người nghe. Những vị giám đốc dưới quyền, sợ ông tổng giám đốc như sợ cọp. Cả ông thầy cũ của chúng tôi đang là nhân viên trong sở, cũng lấm la lấm lét trước mặt ông nầy. Thì chúng tôi là cái “thá” gì, có gan bằng trời hay sao mà không sợ? Tôi hỏi một anh lớn tuổi hơn trong sở, tại sao ông tổng giám đốc có thái độ hung hăng dữ dằn như thế. Anh bảo tôi đừng thèm để ý lời ông nói, miệng ông phun toàn lời độc địa, nhưng tâm ông không xấu. Có lẽ vì ông là kỹ sư  đào mỏ, tốt nghiệp ở Pháp, ra làm việc với phu mỏ bên Tây, tiếp xúc toàn cả dân “trời ơi đất hỡi” bên đó, cho nên ăn nói không được thanh nhả, quen thói mạnh miệng. Từ bé cho đến tuổi đó, tôi chưa gặp một người nào có vẻ hung hăng như ông nầy. Thế mà, trước mặt bà vợ đầm, ông xìu như cái mền rách. Ấp a ấp úng, nói cà lăm, bao nhiêu hùng khí trong ông đều tiêu tan cả. Một lần nọ, trong buổi họp, ông đang ba hoa nói trời, nói đất, đang doạ dẫm chuyện nầy chuyện kia, thì vị bí thư của ông hé cửa phòng họp chạy vào, thầm thì với ông câu gì đó. Mặt ông chợt xám ngắt như chì, ông run lên thấy rõ, lính quýnh chưa kịp hành động gì, thì nghe tiếng la oang oang bên ngoài bằng tiếng Tây, giọng đầm:

“Thằng chó đẻ, thằng mọi rợ, thằng khốn nạn, hèn mạt, đê tiện, vô liêm sỉ,  bà xé xác mầy ra. Mầy trốn ở đâu bà cũng lôi đầu mày ra, bà trị cho chừa.”

          Tiếng rầm rầm bên ngoài phòng. Ông tổng giám đốc của tôi nói giọng run run khẩn cấp:

          “Chốt cửa lại. Chốt cửa lại”

          Một anh kỹ sư chạy mau về phía cửa, kê nghiêng cái ghế vào nắm tay cầm, gia cố cho chắc thêm. Bên ngoài , bà đầm đang hành hạ cánh cửa, đấm đá, dộng, đập. Tiếng ầm ầm như bọn cướp phá nhà. Bên trong, ông tổng giám đốc của tôi mặt xanh như tàu lá, sợ đến mồ hôi chảy thành giòng.  Bây giờ thì tất cả cái vẻ oai phong hống hách thường ngày của ông đều tan biến đâu cả. Ông lắp bắp :

          “Kêu cảnh sát, kêu cảnh sát, kêu.. kêu…” 

          Có lẽ ông giả vờ nói cho đỡ ngượng, bớt xấu hổ, chứ ai mà cả gan dám kêu cảnh sát vào bắt vợ ông. Chúng tôi án binh bất động, ngồi thừ ra, mặt anh nào cũng sượng sần, không dám cười, nói gì cả. Bên ngoài, tiếng thoá mạ, xỉ vả của bà đầm nghe léo nhéo, ồn ào liên tục. Đấm đá cánh cửa một hồi lâu không hiệu quả, mà bên trong im khe. Bà đầm rùng rùng chạy xuống lầu, ra sân đậu xe, khiêng một tảng đá lớn, bà dộng mạnh vào tấm kiếng trước của chiếc công xa sang trọng láng bóng mà ông thường sử dụng. Ầm một tiếng, tấm kiếng vở tan tành thành từng mãnh vụn nhỏ như hạt bắp khô. Tảng đá chui tọt vào trong lòng xe.  Anh tài xế đứng gần đó, ôm đầu la, tiếng thất thanh : “Ối trời ơi.”. Bà đầm đứng chống nạnh kêu gào, chửi bới, đá ầm ầm vào xe thêm một hồi lâu nữa, mới hậm hực lửng thửng bỏ đi. Ông tổng giám đốc tuyên bố buổi họp tạm chấm dứt. Có lẽ, ông không còn lòng dạ nào mà tiếp tục phiên họp. 

          Sau nầy, tôi nghe anh tài xế riêng của ông kể thêm rằng, khi bà con của ông tổng giám đốc có kỵ giỗ, đem mâm thức ăn đến biếu. Bà đầm nầy đứng ngay cửa, cầm cả mâm thức ăn liệng ra sân. Choang một tiếng, cả mâm đồng và chén dĩa bể loảng xoảng.  Bà đầm gào lên  rằng: “ Không có bà con chi với ai cả. Không ai ăn các thứ dơ bẩn nầy.”

          Ông tổng giám đốc đầy uy quyền, hống hách của tôi, tưởng đâu trên đầu không còn có ai, thế mà cũng chịu thua  bà vợ, thua đậm, thua hoàn toàn, thua không cách gì gỡ được. Lâu lâu, bà vào sở, làm náo loạn vài ba tiếng rồi ra về. Bị vợ đì đến thế, nhưng ông không hổ thẹn với ai cả. Bởi ông sợ vợ ông, chứ có sợ vợ người khác đâu . Cái hung hăng của ông đối với cấp dưới quyền vẫn không giảm đi chút nào. 

          Ông Tư là người chỉ huy trực tiếp của tôi, có dáng vẻ hiền lành, đứng đắn, ăn nói nhỏ nhẹ. Mỗi sáng bà vợ đi theo vào sở, ngồi trước mặt ông để canh chừng. Mỗi khi điện thoại reo, bà cầm lên nghe trước, hỏi xem ai bên kia dây, rồi mới trao cho ông. Những khi nghe giọng đàn bà bên kia đường dây, thì bà ghé tai sát vào ống nghe, để biết hai người đang nói chuyện gì. Bà ngồi từ sáng sớm đến chiều tối cùng đi, cùng về với ông. Đứa con còn nhỏ bà giao cho vú em săn sóc. Ông như một tù nhân bị giam lỏng. Mỗi khi có chuyện cần, ông đi qua phòng khác, lầu khác, thì bà lẽo đẽo đi theo như một cái đuôi. Bà đứng đợi ông nói chuyện xong, rồi dẫn độ ông về lại văn phòng. Những lần họp chung trong phòng ông tổng giám đốc, bà đứng canh trước cửa.  Thế cũng chưa đủ. Lâu lâu bà dùng điện thoại của phòng khác, kêu vào, và xin được nói chuyện với ông Tư. Nhiều khi tôi nghe ông Tư càu nhàu trên điện thoại: “ Bà làm phiền hoài. Người ta đang họp. Khổ quá, như thế nầy thì làm ăn chi được?” Có lẽ ông tổng giám đốc cũng nghe, nghe rõ, và thông cảm cho ông Tư hơn ai cả, vì cả hai ông đều chung hội chung thuyền, thuộc loại râu quặp vào bên trong, khổ vì vợ.

          Một lần tôi hỏi bà Tư:

          “Bác đứng canh bên ngoài cửa, ai vào ra bác đều biết. Có phải họp lâu, bác nhớ bác trai quá, nên kêu điện thoại để nghe tiếng cho đỡ nhớ phải không?”

          Bà xí một tiếng dài, nói mà hai hàm răng nghiến lại:

          “Nhớ cái khỉ. Tên già dịch đó, nhớ làm chi cho bận tâm. Tôi kêu điện thoại, vì sợ lão tụt ống máng xuống, trốn đi làm chuyện bất chính.”

          Tôi phì cười nói:

          “Ở trên lầu ba cao thế nầy, ai mà đủ can đảm tuột ống máng xuống. Té một cái là vỡ đầu chết ngắt. Mà cả sở đông đảo vào ra, thể diện đâu mà ông giám đốc Tư lại tụt ống máng giữa ban ngày ban mặt? Giả dụ như bác Tư thành công trong việc tuột ống máng đi nữa, làm sao mà leo trở lại được. Có là siêu nhân mang cánh bay chăng. Giả như ông ta xuống được, về lại được, thì thời gian cấp bách đó, đâu có làm được cái trò khỉ gì mà bác lo?”

          “Tôi vẫn cứ lo như thường. Trên đời nầy, chuyện gì vô lý nhất, cũng vẫn có thể xẩy ra. Muốn là được. Anh có nghe câu nói đó chăng?”

          Tôi thấy tội nghiệp cho bà, và tội cho cả ông Tư rất hiền lành. Tôi nắm tay bà, thân mật nói đùa:

          “Tôi cũng rất thù ghét cái bọn đàn ông trăng hoa, gạt vợ dối con. Tôi đứng về phe bác. Tôi sẽ canh ông Tư cho bác. Khi nào có họp, mà ông Tư lẻn đến cửa sổ, có vẻ muốn tuột máng xối xuống lầu, thì tôi sẽ chạy ra hô hoán, thông báo cho bác ngay. Bác yên chí lớn.”

          “Thật không? Anh không sợ ‘thằng chả’ trù ếm sao?”

          “Sợ cái quái gì? Không làm sở nầy, thì tôi đi làm sở khác. Việc chi sợ ai. Tôi chỉ sợ…chỉ sợ …”

          Tôi định nói chỉ sợ dàn bà con gái mà thôi, nhưng kịp giữ miệng không nói ra. Bà mừng rỡ, mắt sáng lên và nói:

          “Thật nghe! Anh đứng về phe tôi. Nếu thật, thì anh thề độc đi”

          “Tôi sợ chi mà không thề độc?”

          “Anh tử tế quá. Tôi sẽ giới thiệu cô em gái út của tôi cho anh. Đẹp, giỏi không ai bằng.”

          Nghe bà đòi giới thiệu em gái, mà tôi sợ tái mặt, lạnh cả người.

          Mấy lần, tôi thấy ông Tư đi làm, mà không có bà đi theo. Chưa kịp hỏi thăm xã giao rằng bà vợ của ông có được mạnh khoẻ không, thì nghe tiếng chân bà chạy xồng xộc bên ngoài, phóng vào phòng, áo quần xốc xếch, mặt mày hớt hải, mắt nhìn lơ láo. Bà hỏi anh thư ký riêng của ông Tư:

          “Nãy giờ ông ấy có đi đâu không?”

          “Thưa bà không.”

          “Có thật không? Hay là anh nói dối.”

          Bà bước mau qua phòng tôi ngồi, hỏi tôi có chắc ông Tư không đi đâu từ sáng đến giờ. Tôi xác nhận, và hỏi bà:

          “Sáng nay bác ngủ trể hay sao mà không đi chung với bác trai?”

          Bà ghé sát, tai thì thầm:

          “Tôi vờ nói mệt, sáng nay không đi theo được. Khi ổng vừa lái xe ra đi, tôi đang mang đồ ngủ, vội vã kêu taxi bảo rượt theo đến đây. Thấy xe của giả đậu trong sân, chắc chắn là không đi đâu khác, tôi chạy gấp về, thay mau áo quần, và kêu xe đến ngay đây.  Tôi sợ trong thời gian đó, giả trốn đi đâu khác.”

          Một lần, anh thư ký riêng bị ông Tư la rầy, anh giận, chờ dịp trả thù.  Lần đó, bà Tư cũng giả mệt, đến sở sau. Bà cũng hớt hải hỏi anh thư ký. Anh bảo rằng, ông có đi đâu đó một chốc. Quả thật ông có qua lầu khác bàn chuyện sở với đồng nghiệp. Thế là bà Tư nổi cơn tam bành lên, kêu gào, khóc lóc, la hét, chửi ông Tư bằng những lời tục tỉu. Từ chuyện nhỏ, xé thành lớn.

          Không biết ông Tư nỗi đoá, doạ dẫm bà thế nào, mà bà chạy ra đường khóc lóc, la hét. Bà nạy đá, cục lớn bằng nắm tay, pháo kích vào sở ào ào. Mấy ông lao công phải chạy ra ngăn cản, và doạ bà. Bà không sợ. Bà thét to từ ngoài vào sở rằng, ông Tư mang bằng kỹ sư giả từ Pháp về, dối gạt chính quyền. Bà yêu cầu bỏ tù ông Tư, vì ông có liên hệ đến bọn buôn hàng quốc cấm. Bà thoá mạ ông chồng đủ các thứ ngôn ngữ hàng tôm hàng cá, bình dân nhất. Bao nhiêu hư hại do bà pháo kích, ông Tư phải trả đủ, trừ vào lương.

          Ông Tư giận, sa thải anh thư ký riêng. Rồi ông bà cũng làm hoà nhau. Nhiều hôm tôi thấy bà mệt mỏi, ngủ gật, mặt mày phờ phạc. Tôi hỏi xã giao:

          “Bác có vẻ mệt đấy. Về nhà ngủ một giấc cho sướng. Để tôi canh ông Tư cho.”

          “Không được đâu. Cả đêm tôi không dám ngủ say, sợ giả lén dậy đi đâu. Phải nắm chặt tay giả cho chắc.”

          “Tội nghiệp bác. Chắc vì thương bác trai quá, nên ghen và khổ như vậy.”  

          Bà Tư nghiến răng nói như gào:

          “Thương! Thương cái xương không còn. Tôi ghét cay ghét đắng, hận thù thằng chả đến tận tim gan. Kiếp trước tôi mang nợ thằng chả, nên kiếp nầy khổ như thế đấy.”

          “Bác trai có làm điều gì bậy bạ, tổn thương đến tình nghĩa vợ chồng không?”

           “Phải chờ cho đến khi làm việc bậy bạ sao?”

          Tôi nói đùa:

          “Bác muốn ngủ yên mỗi đêm, thì cứ mua một sợi xích, khoá chân bác trai vào chân giường, cất kỹ chìa khoá.  Thế là bác tha hồ mà ngáy.”

          Bà Tư cười. Mấy hôm sau, ông Tư vào sở la lối om sòm, xổ giọng mầy tao với tôi. Tôi không ngờ bà Tư làm thật, muốn xích ông Tư vào giường như xích nô lệ. Ông không chịu, và hai vợ chồng gây gổ nhau. Tôi biết lỗi. Xin lỗi ông Tư nhiều lần ông mới tạm nguôi.

          Tôi tưởng bà Tư nguyên là thôn nữ, thất học ngu dốt nên ghen tuông bậy bạ. Ghen tuông một cách vô lý, dốt nát. Nhưng một lần có phái đoàn viện trợ đa quốc gia, tới thăm khu kỹ nghệ, để xem viện trợ của họ có được dùng hợp lý hay không. Gồm đại diện của Pháp, Anh, Đức, Ý và Tây Ban Nha. Trong buổi tiếp tân, bà Tư nói tiếng Đức, tiếng Ý, và tiếng Anh theo giọng Luân Đôn, nói rôm rốp như nói tiếng mẹ đẻ. Bà còn kể cả chuyện khôi hài, làm các ông cười vui nhộn. Sau đó, tôi mới biết bà được gởi đi du học bên Pháp từ thuở nhỏ. Chỉ học chuyên về sinh ngữ. Bà có khiếu, nói song suốt tám ngôn ngữ khác nhau.

Thưa các bạn đọc, bạn có thấy sung sướng khi so sánh vợ nhà với quý phu nhân nầy hay không? Thì ra, vợ mình cũng còn dễ thương quá, chưa đến nỗi nào./.

Tràm Cà Mau

From: Tu-Phung

Lòng trung thực đã ‘cứu rỗi’ hai người đàn ông

Lòng trung thực đã ‘cứu rỗi’ hai người đàn ông

Một người đàn ông đến ngân hàng để rút tiền tiết kiệm. Khi đếm lại số tiền nhận được, anh ta hơi sững lại. Thay vì 120.000 rupee (đơn vị tiền tệ của Ấn Độ, tương đương khoảng 36 triệu VNĐ) và trên giấy tờ cũng đã ghi nhận con số này, nhưng có lẽ giao dịch viên đã nhầm nên đã đưa cho anh ta tới 140.000 rupee.

Thế nhưng, khi người đàn ông liếc nhìn nam giao dịch viên thì thấy người này không có biểu hiện gì là đã nhận ra sai sót, còn lịch sự chào anh. Thấy vậy, người đàn ông đã lẳng lặng cho tiền vào túi, rời đi trong im lặng.

Vừa đi, anh ta vừa nghĩ, cái ngân hàng này lớn như vậy, mất có 20.000 rupee thì cũng chẳng ảnh hưởng gì tới hoạt động của họ. Mà có phải do anh cố tình đâu. Đây là sai sót của họ mà, họ chẳng có lý do gì để kiện tụng hay làm khó anh cả. Từ trước đến nay, anh cũng thi thoảng trả nhầm tiền cho người khác, nhưng có ai đến tìm anh để trả lại đâu. Vì sao anh phải trả lại tiền cho ngân hàng. Cứ như thế, người đàn ông đã nghĩ ra đủ thứ lý do cho việc “ỉm” số tiền trả thừa của ngân hàng.

Song càng về gần đến nhà, người đàn ông lại nhớ đến nụ cười lịch sự của giao dịch viên. Anh ta rất tử tế, hòa nhã và còn cảm ơn lúc anh rời đi nữa mà chẳng hề hay biết chuyện gì đang xảy ra. Không biết anh ta có phải đền số tiền này cho ngân hàng không nhỉ?

Người đàn ông bắt đầu cảm thấy hơi có lỗi. Hai mươi ngàn rupee không phải số tiền quá lớn, nhưng cũng chẳng phải số tiền nhỏ. Nó có thể là thu nhập một tháng của bất kỳ người dân nào. Chẳng phải anh đang lợi dụng sai lầm của người khác ư?

Vậy là người đàn ông bắt đầu bồn chồn, mồ hôi túa ra khi đấu tranh tư tưởng có nên giữ số tiền đó hay không. Anh cảm thấy hơi khó thở. Rồi cuối cùng, anh nhìn đồng hồ, chỉ còn 1 tiếng nữa là ngân hàng đóng cửa và quyết định đem 20.000 rupee quay lại. Chỉ đến lúc này, sự căng thẳng trong anh mới bắt đầu giảm đi.

Khi nhận xong số tiền thừa từ người đàn ông, người giao dịch viên mới bắt đầu thở phào và cảm ơn anh rối rít. Anh ta lấy 1000 rupee từ trong túi của mình để cảm ơn người đàn ông và nói: “Cảm ơn anh rất nhiều. Hôm nay anh đã giúp tôi 1 việc lớn đấy. Tôi đang lo sẽ phải bù tiền lương của mình vào chỗ tiền bị nhầm lẫn. Thật hiếm có người nào trung thực như anh. Anh hãy nhận số tiền ít ỏi này của tôi thay cho lời cảm ơn và mua bánh kẹo cho các con của anh nhé”.

Người đàn ông nghe những lời nói này, vừa xúc động vừa lại có chút hổ thẹn. Chẳng phải ban đầu, anh đã định ỉm đi hay sao? May mắn là cuối cùng, lương tâm của anh đã chiến thắng.

“Thực ra tôi mới là người phải cảm ơn anh đấy. Lẽ ra tôi mới là người phải tặng anh số tiền này. Vì thế, tôi xin phép không nhận món quà của anh”, người đàn ông từ tốn đáp.
Giao dịch viên này lấy làm lạ, mới hỏi lại vị khách tại sao lại nói thế.

“Hai mươi ngàn rupee anh trao nhầm đã cho tôi cơ hội được tự đánh giá bản thân mình. Nếu không có sự nhầm lẫn của anh, tôi sẽ không biết việc chiến đấu với lòng tham của bản thân lại khó khăn đến thế. Tôi đã mất hàng giờ để suy nghĩ, để đấu tranh tư tưởng, và may mắn là, cuối cùng tôi đã làm đúng. Tôi đã vượt qua được sự tham lam, ích kỷ để chiến thắng và giữ được sự trung thực. Đây đúng là 1 cơ hội hiếm có. Vì thế, người tôi muốn cảm ơn là anh”, người đàn ông thú nhận.

Sưu tầm.

From: Anh Dang & KimBang Nguyen