EM BÉ TRÊN ĐẠI LỘ KINH HOÀNG NĂM XƯA.

Em bé Trần thị Ngọc Bich trên đại lộ Kinh Hoàng năm xưa

Thanh Phong – Thời Báo

Đại lộ kinh hoàng ở Quảng Trị Mùa Hè Đỏ Lửa 1972 - Highway of Horror in ...

 

Câu chuyện sau 41 năm kết thúc tốt đẹp, Trần Thị Ngọc Bích đúng là viên ngọc quý trên Đại Lộ Kinh Hoàng như ý nguyện của người đã cứu mạng em, vì chính cô đã làm vẻ vang cho dân tộc Việt khi cố gắng học hành để trở nên người lãnh đạo xuất sắc trong Quân Lực Hoa Kỳ, một quân lực hùng mạnh vào bậc nhất thế giới .

 

EM BÉ TRÊN ĐẠI LỘ KINH HOÀNG NĂM XƯA.

Vào mùa hè đỏ lửa năm 1972, một em bé 4 tháng tuổi nằm trên xác mẹ trên Đại Lộ Kinh Hoàng; em đang trườn người trên bụng mẹ tìm vú để bú nhưng mẹ đã chết từ bao giờ. Một người lính Quân Cụ chạy ngang, bồng em bé bỏ vào chiếc nón lá rồi chạy qua cầu Mỹ Chánh, trao lại cho một Thiếu úy Thủy Quân Lục Chiến đang hành quân.

Bao năm trôi qua, em bé mồ côi mẹ nay trở thành Trung Tá trong Quân Lực Hoa Kỳ còn người Thiếu úy TQLC sang Hoa Kỳ theo diện HO nay đang định cư tại tiểu bang New Mexico. Hai người vừa gặp nhau sau 41 năm bặt vô âm tín. Ngày Thứ Ba 2 tháng 4, 2013 vừa qua, nhân dịp sang California dự lễ cưới, người Thiếu Úy TQLC này đã kể cho phóng viên Viễn Đông câu chuyện cảm động và ly kỳ ngay tại khách sạn nơi ông đang tạm cư ngụ.

Người Thiếu Úy TQLC tên là Trần Khắc Báo. Vào thời điểm 1972 ông còn độc thân và phục vụ tại Đại Đội Vận Tải Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến, được biệt phái sang Phòng 4 của Sư Đoàn làm sĩ quan phụ trách chuyển vận. Vào sáng 1 tháng 5 năm 1972, Thiếu Úy Báo được lệnh cấp trên, cùng một số đồng đội mở cuộc hành quân để giúp di chuyển Tiểu Đoàn 7 TQLC ra khỏi vùng vừa bị thất thủ thuộc tỉnh Quảng Trị vì một số đông quân nhân bị thất lạc không tìm thấy vị chỉ huy của họ. Ngoài ra, ông cũng xin lệnh giúp di tản các Quân, Dân, Cán Chính khác đang tìm đường chạy về phía nam sông Mỹ Chánh là nơi quân đội VNCH còn đang trấn giữ; ông được cấp trên chấp thuận.

 

Người quân nhân binh chủng Quân Cụ và người sĩ quan TQLC Trần Khắc Báo đã thể hiện tinh thần của một quân nhân Quân Lực VNCH, luôn đặt Tổ Quốc – Danh Dự và Trách Nhiệm trên hết.

 

 

 

     

Khi đơn vị ông đến cầu Mỹ Chánh (Quảng Trị) thì nơi đây là phòng tuyến cuối cùng của VNCH để ngăn chặn quân Bắc Việt tràn xuống phía Nam. Ông đã chỉ huy 20 quân xa GMC thực hiện cấp tốc cuộc di tản suốt ngày. Đến khoảng 4 hay 5 giờ chiều ông Trần Khắc Báo nhìn thấy thấp thoáng bên kia cầu còn một người đang ôm chiếc nón lá thất thểu đi qua với dáng điệu hết sức mỏi mệt.

Trân khắc Báo khi còn là một người lính trẻ miền Nam Việt Nam.

Ảnh của BAO TRAN / ANH DO

Ông định chạy qua giúp người này nhưng vị Thiếu Tá Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 5 TQLC đang trách nhiệm trấn giữ tại đó la lớn: “Trần Khắc Báo. Cây cầu tao đã gài mìn, có thể nổ và sẵn sàng phá hủy khi thấy chiến xa Việt Cộng xuất hiện, đừng chạy qua, mày sẽ bị bỏ lại bên đó không về lại được đâu nghe!”.
Ông cố nài nỉ: “Đại Bàng chờ em một chút, cho em cứu người cuối cùng này.”
Và ông chạy đến đưa người này qua cầu. Thấy người này đi không nổi, thất tha thất thểu mà tay còn cố ôm vòng chiếc nón lá, Thiếu Úy Báo nói đùa: “Đi không nổi mà còn mang theo vàng bạc châu báu gì nữa đây cha nội?”

Vietnam War 1972 - MỸ CHÁNH - Photo by Richard Blystone | Flickr

Người ôm vòng chiếc nón lá nói: “Em là lính Quân Cụ thuộc Tiểu Khu Quảng Trị, trên đường chạy về đây em thấy cảnh tượng hết sức thương tâm này, mẹ nó đã chết từ bao giờ không biết và nó đang trườn mình trên bụng mẹ nó tìm vú để bú, em cầm lòng không được nên bế nó bỏ vào chiếc nón lá mang đến đây trao cho Thiếu Úy, xin ông ráng cứu nó vì em kiệt sức rồi, không thể đi xa được nữa và cũng không có cách gì giúp em bé này.”

Nói xong anh ta trao chiếc nón lá có em bé cho thiếu úy Báo.
Ngừng một chút, ông Báo nói với chúng tôi: “Mình là người lính VNCH, mình đã được huấn luyện và thuộc nằm lòng tinh thần ‘Tổ Quốc – Danh Dự – Trách Nhiệm’ nên lúc đó tôi nghĩ trách nhiệm của mình là lo cho dân nên tôi nhận đứa bé và nói với người lính Quân Cụ: ‘Thôi được rồi, để tôi lo cho nó, còn anh, anh cũng lo cho sức khỏe của anh, lên GMC đi để chúng tôi đưa anh về vùng an toàn.’”

Sau đó, người sĩ quan TQLC ôm em bé leo lên chiếc xe Jeep chạy về Phong Điền, cách đó khoảng 20 cây số. Trên đường đi, ông Báo cảm thấy rất bối rối vì em bé khóc không thành tiếng vì đói, khát mà ông thì còn là một thanh niên trẻ (lúc đó mới 24 tuổi) chưa có kinh nghiệm gì nên ông hỏi người tài xế, bây giờ phải làm sao?

Người tài xế tên Tài trả lời: “Ông thầy cho nó bú đi! Ông thầy không có sữa thì lấy bi đông nước chấm đầu ngón tay vào nước để vào miệng nó cho nó bú.”
Ông Báo làm theo lời chỉ và em bé nín khóc rồi nằm im cho đến khi ông đưa em vào Phòng Xã Hội của Lữ Đoàn TQLC. Tại đây, gặp Thiếu tá Nhiều, Trưởng Phòng 4 TQLC, ông trao em bé cho Thiếu tá Nhiều và nói: “Thiếu tá, tôi có lượm một em bé ngoài mặt trận, xin giao cho Thiếu tá.”

Ông này nhìn ông Báo cười và nói: “Mày đi đánh giặc mà còn con rơi con rớt tùm lum!”. Ông Báo thanh minh: “Không! Tôi lượm nó ngoài mặt trận; nó đang nằm trên xác mẹ nó.”

Thiếu tá Nhiều bảo: “Thôi, đem em bé giao cho Phòng Xã Hội để họ làm thủ tục lo cho nó.” Sau đó, ông Báo đưa em bé cho một nữ quân nhân phụ trách xã hội. Cô này nói với ông: “Thiếu úy giao thì Thiếu úy phải có trách nhiệm, vì em bé này ở ngoài mặt trận thì Thiếu úy phải cho nó cái tên và tên họ Thiếu úy nữa để sau này nó biết cội nguồn của nó mà tìm.”

Lúc đó, ông còn độc thân nhưng trong thâm tâm ông vốn nghĩ rằng sau này khi ông cưới vợ, nếu có con gái ông sẽ đặt tên là Bích, nếu con trai ông sẽ đặt tên là Bảo, nên sau khi nghe người nữ quân nhân nói, ông Báo đặt ngay cho em bé cái tên là Trần Thị Ngọc Bích.

Sau đó ông trở về đơn vị và cuộc chiến ngày càng trở nên khốc liệt cho tới tháng 3/1975, đơn vị ông bị thất thủ cùng Lữ Đoàn 2 TQLC ở Huế và ông Báo bị bắt làm tù binh. Mãi đến năm 1981 ông được thả về. Tháng 9/1994 ông được sang định cư tại thành phố Albuquerque, tiểu bang New Mexico…

EM BÉ MỒ CÔI GẶP MAY MẮN

Em bé Trần Thị Ngọc Bích được Phòng Xã Hội Sư Đoàn TQLC đem đến Cô Nhi Viện Thánh Tâm Đà Nẵng giao cho các Dì Phước chăm sóc. Số hồ sơ của em là 899.

Một hôm có ông Trung Sĩ Hoa Kỳ thuộc binh chủng Không Quân phục vụ tại phi trường Đà Nẵng tên là James Mitchell vô Cô Nhi Viện xin nhận một trong các em tại đây làm con nuôi. Em Trần Thị Ngọc Bích may mắn lọt vào mắt xanh của ông James Mitchell và trở thành thành viên của gia đình này từ đó đến nay.
Sau khi rời khỏi binh chủng Không Quân, ông James Mitchell trở về Hoa Kỳ vào cuối năm 1972. Ông quyết định mang theo đứa con nuôi Trần Thị Ngọc Bích, lúc đó em mới được 6 tháng.

James Mitchell cùng sơ Angela Nguyễn và em bé Trần Thị Ngọc Bích (Precious Pearl). Mitchell đã nhận nuôi đứa trẻ sơ sinh và đưa cô bé đến Hoa Kỳ vào năm 1972. Ảnh Kimberly Mitchell.

James Mitchell cùng sơ Angela Nguyễn và em bé Trần Thị Ngọc Bích (Precious Pearl). Mitchell đã nhận nuôi đứa trẻ sơ sinh và đưa cô bé đến Hoa Kỳ vào năm 1972. Ảnh Kimberly Mitchell.

Hai ông bà Mitchell đặt tên Mỹ cho em là Kimberly Mitchell. Em ở tại trang trại của gia đình tại Solon Springs, tiểu bang Wisconsin. Kimberly Mitchell lớn lên tại đây và được bố mẹ nuôi rất thương yêu, coi như con ruột. Em được đi học, tham gia thể thao và vào hội thanh niên. Lớn lên em vừa đi học vừa phụ giúp cha mẹ nuôi bò và làm phó mát. Cái tên Trần Thị Ngọc Bích đã bị quên lãng từ đó, và Kimberly Mitchell cho biết, mỗi khi nghe ai nói gì về Việt Nam, cô thường tự hỏi, Việt Nam là đâu nhỉ?

                                Ông Báu diễn tả lại hoàn cảnh lúc cứu em bé sơ sinh cho Kimberly Mitchell nghe.

Khi đã có trí khôn, Kimberly Mitchell nhận thấy mình không phải người Mỹ như bố mẹ, không phải con lai, không phải người Tàu. Cô không biết mình là người nước nào và cứ mang cái thắc mắc đó mãi mà không ai có thể trả lời cho cô.
Một hôm, Kimberly Mitchell đánh bạo hỏi bố: “Con muốn biết con là người gì, nguồn gốc con ở đâu? Tại sao con lại là con bố mẹ?”

Bố nuôi James giải thích cho cô: “Con là người Việt Nam, bố mẹ xin con từ trong viện mồ côi ở Đà Nẵng, Việt Nam. Nếu con muốn tìm nguồn cội của con, con có thể về Đà Nẵng, may ra tìm được tông tích của gia đình con.”

Ngay từ khi Kimberly còn học lớp ba, bố nuôi em đã muốn sau này cho Kimberly gia nhập Không Quân nhân khi cô được chọn tham dự hội thảo về nghệ thuật lãnh đạo dành cho những học sinh xuất sắc. Nhưng rồi định mệnh xui khiến, cô lại theo Hải Quân. Trong thời gian theo học, Kimberly Mitchell phải bỏ học một năm vì bố nuôi qua đời năm 1991 trong một tai nạn tại trang trại của gia đình. Sau đó cô trở lại trường và tiếp tục học. Năm 1996 cô tốt nghiệp Cơ Khí Hàng Hải và phục vụ trong Hải Quân Hoa Kỳ và hiện nay mang cấp bậc Trung Tá, Phó Giám Đốc Văn Phòng Trợ Giúp Quân Nhân và Thân Nhân tại Ngũ Giác Đài.

Năm 2011, Kimberly Mitchell trở về cố hương với tư cách một nữ Trung Tá Hải Quân, Quân Lực Hoa Kỳ, mong gặp lại người thân. Đến Viện Nuôi Trẻ Mồ Côi Thánh Tâm ở Đà Nẵng, cô may mắn gặp được Sơ Mary, người tiếp nhận cô năm 1972 từ một nữ quân nhân Phòng Xã Hội Sư Đoàn TQLC. Giây phút thật cảm động, nhưng Kimberly chỉ được Sơ Mary cho biết:

“Lúc người ta mang con tới đây, con mới có 4 tháng và họ đặt tên con là Trần Thị Ngọc Bích. Họ nói mẹ con đã chết trên Đại Lộ Kinh Hoàng, con được một người lính VNCH cứu đem đến đây giao cho Cô Nhi Viện rồi đi mất, vì lúc đó chiến tranh tàn khốc lắm.”

Kimberly không biết gì hơn và cô quay trở lại Mỹ. Sau khi đã biết mình là người Việt Nam, thỉnh thoảng cô viết trên website về câu chuyện của mình.

GẶP LẠI CỐ NHÂN

Ông Trần Khắc Báo đưa cho chúng tôi xem một số hình ảnh, một số báo tiếng Việt và mấy tờ báo tiếng Anh đăng hình cuộc gặp gỡ giữa gia đình ông và cô Trần Thị Ngọc Bích, và nói:

“Sau khi ra tù Việt Cộng, tôi cũng cố tìm hiểu xem em bé Trần Thị Ngọc Bích nay ra sao, kể cả người lính Quân Cụ năm xưa, nhưng tất cả đều bặt vô âm tín. Một hôm tình cờ tôi đọc được một bài viết của tác giả Trúc Giang trên tờ Việt Báo Hải Ngoại số 66 phát hành tại New Jersey, tác giả kể lại câu chuyện đi Mỹ của một em bé trong cô nhi viện Đà Nẵng mang tên Trần Thị Ngọc Bích. Đọc xong tôi rất xúc động pha lẫn vui mừng, vì có thể 80, 90% cô Ngọc Bích đó là do mình cứu và đặt tên cho cô.”

Sau đó, ông nhờ người bạn tên là Đào Thị Lệ làm việc trong New York Life, có chồng người Mỹ và có em cũng ở trong Hải Quân Hoa Kỳ, liên lạc tìm kiếm Mitchell. Và chính cô Đào Thị Lệ là người đầu tiên trực tiếp nói chuyện với Trần Thị Ngọc Bích đang làm việc tại Ngũ Giác Đài.

Ở nhà ở Albuquerque, Bảo Trần xem album ảnh Kimberly Mitchell làm cho anh và gia đình (Anh Đỗ / Los Angeles Times)

Ở nhà ở Albuquerque, Bảo Trần xem album ảnh Kimberly Mitchell làm cho anh và gia đình (Anh Đỗ / Los Angeles Times). Ảnh của:THỜI BÁO LA

Theo ông nghĩ, có thể cô Mitchell bán tín bán nghi, không biết chuyện này có đúng không hay là chuyện “thấy người sang bắt quàng làm họ” như ông cha mình thường nói. Nhưng sau khi nói chuyện với ông Trần Khắc Báo, Mitchell quyết định tổ chức một cuộc hội ngộ trước các cơ quan truyền thông. Cô xin phép đơn vị và mời được 7 đài truyền hình cùng một số phóng viên báo chí từ Washington, D.C cũng như nhiều nơi về tham dự.

Cuộc hội ngộ, theo ông Báo cho biết, hoàn toàn do cô Kimberly Mitchell quyết định, địa điểm là trụ sở Hội Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia New Mexico vào Thứ Sáu, ngày 29.8.2012. Cô đến phi trường vào tối Thứ Năm 28.8, gia đình ông Báo ngỏ ý ra phi trường đón nhưng cô cho cô Đào Thị Lệ biết là cô không muốn gia đình đón ở phi trường cũng như đưa vào khách sạn. Cô muốn dành giây phút thật cảm động và ý nghĩa này trước mặt mọi người, đặc biệt là trước mặt các cơ quan truyền thông, và cô muốn ông Báo mặc bộ quân phục TQLC như khi ông tiếp nhận cô đưa đến Phòng Xã Hội Sư Đoàn TQLC cách nay 41 năm.

GIÂY PHÚT XÚC ĐỘNG

Gia đình ông Trần Khắc Báo gồm vợ và con gái cùng có mặt. Khi ông Chủ Tịch Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia hỏi cô Kimberly Mitchell: “Cô đến đây tìm ai?”. Cô trả lời: “Tôi muốn tìm ông Trần Khắc Báo.”

Vị Chủ Tịch quay sang ông Báo đang mặc quân phục và giới thiệu: “Đây là ông Trần Khắc Báo.”

Lập tức, Kimberly Mitchell Trần Thị Ngọc Bích tiến lại ôm lấy ông Báo và cả hai cùng khóc nức nở.

Giây phút xúc động qua đi, cô Kimberly hỏi ông Trần Ngọc Báo: “Ông là người đã cứu mạng tôi, tôi mới có ngày hôm nay; tôi xin cám ơn ông, và bây giờ ông muốn gì ở tôi?”

Ông Trần Khắc Báo nói: “Thực sự bây giờ tôi chỉ muốn cô nói với tôi một lời bằng tiếng Việt, cô hãy kêu tôi là “Tía”. Vì tất cả các con tôi đều gọi tôi bằng Tía, tôi xem cô cũng như con tôi, tôi chỉ mong điều đó.” Và Kimberly Mitchell đã gọi “Tía”. Ông nói với chúng tôi: “Bấy giờ tôi thực sự mãn nguyện.”

Trả lời các câu hỏi của chúng tôi, ông Trần Khắc Báo cho biết, cô Kimberly chưa lập gia đình và cô có hứa sẽ thường xuyên liên lạc với gia đình ông. Ông có nhắc cô Kimberly điều này, rằng cô không phải là đứa trẻ bị bỏ rơi. Cô đã được những người lính VNCH có tinh thần trách nhiệm cứu sống trên bụng mẹ cô đã chết, và chính ông đã đặt tên cho cô là Trần Thị Ngọc Bích. Ông cũng mong rằng sau này, cô có thể trở lại Quảng Trị, may ra có thể tìm ra tung tích cha cô hoặc người thân của mình. Ông Trần Khắc Báo cũng cho biết, ông mất liên lạc với người lính Quân Cụ từ lúc hai người giao nhận đứa bé đến nay.

Graduating from USNA

Trong cuộc hội ngộ, trả lời câu hỏi của các phóng viên Hoa Kỳ, nữ Trung Tá Kimberly Mitchell cho biết, cô có hai cái may. Cái may thứ nhất là cô được tìm thấy và mang tới trại mồ côi. Cái may thứ hai là được ông bà James Mitchell bước vào trại mồ côi và nói với các Sơ rằng, ông muốn nhận em bé này làm con nuôi.”

Câu chuyện sau 41 năm kết thúc tốt đẹp, cô Trần Thị Ngọc Bích đúng là viên ngọc quý trên Đại Lộ Kinh Hoàng như ý nguyện của người đã cứu mạng em, vì chính cô đã làm vẻ vang cho dân tộc Việt khi cố gắng học hành để trở nên người lãnh đạo xuất sắc trong Quân Lực Hoa Kỳ, một quân lực hùng mạnh vào bậc nhất thế giới.

THANH PHONG

Nguồn: THỜI BÁO (The Vietnamese Newspape)

From: Phi Phuong Nguyen

Lời Bàn của Kẻ đi tìm:

Chính nghĩa VNCH và tinh thần cao cả của Quân Lực VNCH được minh họa rõ ràng qua câu chuyện của Trần Thị Ngọc Bích – Kimberly Mitchell

 

 

 

 

 

 

1

Tấm lòng bảo vệ dân chiến đấu vì dân của một chiến sĩ trong QLVNCH đã cớ kết quả tốt đẹp trong câu chuyện này. Em bé sơ sinh trên đại lộ “Kinh Hoàng” được cứu sống trong hoàn cảnh tuyệt vọng của cuộc rút lui di tản chiến thuật từ Quảng Trị về Mỹ Chánh, Đông Hà. Dù quá khó khăn nguy hiểm nhưng tấm lòng nhân của thiếu úy Thủy Quân Lục Chiến Trần khắc Báo còn lơn hơn sự an nguy của chính mình.

 

2

Một người lính Hoa Kỳ khi mãn hạn về nước đã cưu mang em bé mồ côi xuất xứ từ đại lộ Kinh Hoàng.

Tấm lòng quảng đại vô vị lợi của người dân Hoa Kỳ sát cánh bên người dân Miền Nam, vốn lúc đó, đang chịu sự xâm lấn của chủ nghĩa ngoại lại Cộng Sản Marx – Lenin qua bàn tay nhuốm máu của lính Bắc Việt. 

 

 

 

3

Mong cho một ngày chính nghĩa VNCH được rạng ngời trên quê hương còn đang trong quá trình hòa giải, khi mà vào lúc này đang có một bộ phận cán bộ trong đảng Cộng Sản Việt Nam, nhất là cán bộ ở Miền Nam như ông Võ văn Kiệt, họ bắt đầu coi cuộc chiến tranh Việt Nam là cuộc chiến ý thức hệ Quốc Cộng, huynh đệ tương tàn chứ không phải là cuộc chiến đấu thần thánh chống thực dân mới như họ từng lầm lẫn.

 

Made in Việtnam- tác giả Tiểu Tử

Made in Vietnam

Tiểu Tử

Guide to use telephone services in Danang city, Vietnam ...

Lẽ ra bữa nay bác sĩ Lê không nhận bịnh nhân vì là ngày nghỉ trong tuần của ông. Nhưng hôm qua, trong điện thoại, nghe giọng cầu khẩn của người bịnh ông không nỡ từ chối. Người đó – ông đoán là một cô gái còn trẻ – nói chuyện với ông bằng tiếng Mỹ. Cô ta hỏi ông nhiều lần :
– Có phải ông là bác sĩ Lee không ?

Tên ông là Lê. Cái tên Việt Nam đó ở xứ Mỹ này người ta viết là ” Lee “, nên ông được gọi là ” ông Lee ” ( Li ).
Ông ôn tồn trả lời nhiều lần :
– Thưa cô, phải. Tôi là bác sĩ Lee đây.
– Phải bác sĩ Lee chuyên về châm cứu và bắt mạch hốt thuốc theo kiểu á đông không?
– Thưa cô phải.
– Có phải phòng mạch của bác sĩ ở đường Green Garden không ?

Bác sĩ Lê, đã ngoài sáu mươi tuổi, tánh rất điềm dạm, vậy mà cũng bắt đầu nghe bực ! Tuy nhiên, ông vẫn ôn tồn :
– Thưa cô phải. Xin cô cho biết cô cần gì ?

Giọng cô gái như reo lên :
– Vậy là đúng rồi ! Con Cathy bị bịnh suyễn nói bác sĩ chữa bịnh hay lắm. Cả nhà nó, kể luôn ba má ông bà nó đều đi bác sĩ hết.

Đến đây thì ông bác sĩ già đó không kềm được nữa, ông xẵng giọng :
– Cám ơn cô. Bây giờ xin dứt khoát cho tôi biết coi cô muốn cái gì ?

Giọng bên kia đầu dây như lắng xuống :
– Tôi xin lỗi bác sĩ. Xin lỗi. Tôi muốn xin bác sĩ cái hẹn cho ngày mai. Tôi bịnh…
– Mai là ngày nghỉ trong tuần, phòng mạch không có mở cửa. Ngày khác vậy.
– Ngày mai cũng là ngày nghỉ của tôi nữa, bác sĩ à.
– Cô đã bịnh thì cứ xin nghỉ để đi bác sĩ, ngày nào lại không được !

Một chút im lặng ở đầu dây bên kia rồi giọng người con gái bỗng nghe thật buồn :
– Họ đâu có cho nghỉ, bác sĩ. Họ nạt vô mặt :” Mầy muốn nghỉ thì mầy nghỉ luôn đi. Thiếu gì đứa muốn vào làm chỗ của mày. Mày biết không ?”

Giọng nói như nghẹn ngang ở đó, rồi tiếp :
– Không có việc làm là chết, bác sĩ à…

Ông bác sĩ già làm thinh, suy nghĩ. Đầu dây bên kia, cô gái van lơn :
– Xin bác sĩ thông cảm. Tôi sợ bịnh nặng hơn, không đi làm nổi nữa là mất việc. Xin bác sĩ thông cảm. Xin thông cảm.
– Ờ thôi, để tôi ráng giúp cô. Sáng mai, chín giờ. Phòng mạch của tôi ở số…
– Cám ơn bác sĩ. Cám ơn ! Con Cathy có chỉ phòng mạch của bác sĩ rồi.
– Xin lỗi. Cô tên gì ?
– Kim. K, I, M.

Bác sĩ Lê vừa ghi vào sổ hẹn vừa nghĩ :” Tội nghiệp ! Chắc lại đi làm lậu nên mới bị người ta hâm he như vậy. Theo cách phát âm thì cô này có vẻ là người á đông. Tên Kim chắc là Đại Hàn. Để mình phải phone lại cô Cathy hỏi cho chắc ý kẻo gặp thứ lưu manh thừa dịp ngày nghỉ không có cô phụ tá, nó ‘su’ mình thì khổ ! “

 

8 địa chỉ khám và phẫu thuật đục thủy tinh thể bằng Phaco uy tín ở Hà Nội

 

 

 

Đúng chín giờ, chuông cửa phòng mạch reo. Ông bác sĩ già bước ra mở cửa. Đứng trước mặt ông là một cô gái á đông còn trẻ, ăn mặc theo kiểu ” punk ” : quần áo có tua có tụi, tóc dựng đứng hỗn loạn như con gà xước, đeo nhiều vòng sên bằng bạc to như dây lòi tói, đầy cổ đầy hai cườm tay, mang cái xắc đỏ cũng có tua có tụi. Bác sĩ Lê, quá đỗi ngạc nhiên, chưa kịp hỏi gì, thì cô gái nói bằng tiếng Mỹ rất lưu loát :

– Chào bác sĩ. Tôi là Kim, bịnh nhân đã gọi điện thoại cho ông hôm qua. Tôi có làm cho bác sĩ chờ không ?

Bác sĩ Lê chưa hết ngạc nhiên, trả lời một cách máy móc :” Không ! Không !”. Rồi ông bước tránh qua một bên :” Mời cô !”

Vào phòng mạch, ông đưa cho cô cái áo blouse trắng ngắn tay :
– Cô đến phía sau bình phong bỏ hết quần áo chỉ mặc quần lót thôi, rồi khoác ngược áo blouse này, lưng áo nằm về phía trước.

Trong lúc cô gái loay hoay làm theo lời dặn, ông bác sĩ già gọi phone về nhà, nói bằng tiếng Việt :
– Bịnh nhân của anh tới rồi, đang thay đồ. Chắc một giờ nữa là xong. Em đợi anh về rồi mình đi chợ.

Cô gái bỗng ló đầu ra khỏi bình phong mỉm cười nhìn ông, gương mặt thật rạng rỡ, định nói gì nhưng rồi không nói, thụt đầu vào tiếp tục cởi quần áo.
Một lúc sau cô ta bước ra, mắt ngời lên sung sướng, nói bằng tiếng Việt, giọng như reo lên :
– Bác sĩ là người Việt Nam mà con cứ tưởng là người Tàu ! Tên ” Lee ” nghe Tàu trân !
– Ủa ! Vậy mà tôi cứ nghĩ cô là người Đại Hàn chớ !

Rồi cả hai cùng cười, cái cười rất sảng khoái. Tình đồng hương trên đất khách bỗng thấy thật ấm, thật đầy…Ông bác sĩ già nhìn cô bịnh nhân trẻ mặc áo blouse trắng đứng trước mặt ông mà không còn thấy cô gái ” punk” hồi nãy nữa !
Ông đưa cho cô cái dĩa, rồi vừa chỉ cái giường cao vừa nói :
– Cô cởi hết đồ nữ trang để vào đây, rồi lên nằm trên này để tôi chẩn mạch.

Cô gái làm theo như cái máy.
Phòng mạch được trang trí rất đơn sơ, nhưng thật yên tịnh. Trong không khí có mùi thơm dìu dịu của moxa ( ngải cứu, đốt lên để hơ huyệt ). Cái giường khám bịnh cao ngang tầm tay của bác sĩ. Ở một đầu giường có gắn thêm một vòng bằng da để chịu cái đầu của bịnh nhân, và khi bịnh nhân nằm sấp để châm cứu trên lưng thì mặt người bịnh nằm trọn trong vòng da. Như vậy, người bịnh không cảm thấy khó chịu nhờ khoảng trống ở giữa vòng da giúp người bịnh vẫn thở đều đặn và mắt được nhìn thoải mái xuống sàn nhà.

Bác sĩ đặt hai bàn tay lên cánh tay trần của cô gái, ôn tồn hỏi :
– Cô bịnh làm sao ? Nói tôi nghe.
– Con ngủ không được, đêm nào cũng trằn trọc tới khuya. Hay bị chóng mặt.

Đang đứng làm việc, tự nhiên muốn sụm xuống làm sợ toát mồ hôi. Con lo quá, bác sĩ. Mất việc làm chắc con chết quá, bác sĩ !

Ông Lê bóp nhẹ cánh tay bịnh nhân :
– Cô yên tâm. Có tôi đây. Mà…cô có uống rượu không ?
– Không. Dạ thưa không.
– Cô có hút thuốc không ?
– Dạ thưa có. Hút cũng nhiều…
– Cô có xì ke ma túy gì không ? Nói thiệt tôi nghe.
– Mấy thứ đó con không dám rớ. Hồi ở bên nhà thằng anh con chết vì ba cái thứ ôn dịch đó, bác sĩ à. Vì vậy, con sợ lắm !
– Cô le lưỡi tôi coi.
– Ùm. Được rồi. Bây giờ cô nằm yên, để hai tay xuôi theo thân mình, nhắm mắt, thở đều đặn.

Ông bác sĩ già đứng cạnh giường đặt mấy đầu ngón tay lên cườm tay cô gái, chăm chú bắt mạch. Một lúc sau, ông bước vòng qua phía đối diện bắt mạch tay bên kia. Bộ mạch nói lên một sự rối loạn tâm thần. Cô gái này chất chứa quá nhiều ẩn ức nên sanh bịnh. Ông nhìn cô gái đang nhắm mắt thở đều : gương mặt Việt Nam đó, bỏ đi món tóc “punk”, vẫn toát ra nét nhu mì dễ thương. Ông cảm thấy tội nghiệp cô bịnh nhân trẻ này và thắc mắc không biết hoàn cảnh nào đã đưa đẩy cô ta trôi qua xứ Mỹ để có một cuộc sống mà ông đoán là thật bấp bênh, qua cuộc nói chuyện trong điện thoại. Ông nói :
– Bây giờ, cô nằm sấp xuống để tôi châm trên lưng.

Cô gái mở choàng mắt nhìn ông, mỉm cười, một nụ cười đầy tin tưởng. Ông bác sĩ nói tiếp :
– Cô đừng sợ. Châm không có đau. Còn nhẹ hơn kiến cắn nữa.

Cô gái trở mình nằm sấp, hai vạt áo blouse rớt xuống hai bên, bày ra cái lưng thon thon với nước da ngà ngà. Theo thói quen, trước khi châm, bác sĩ vuốt lưng bịnh nhân vài lần để bịnh nhân đỡ bị stress. Lần này, khi vuốt xuống thắt lưng, ông để ý thấy dưới làn vải mỏng của quần lót có một vết bầm nằm vắt ngang phía trên của mông. Ngạc nhiên, ông hỏi :
– Cô bị ai đánh hay sao mà bầm vậy ?

Cô gái cười khúc khích :
– Bác sĩ coi đi !

Ông già kéo quần lót xuống một chút, thì ra không phải vết bầm mà là hàng chữ xâm màu chàm : Made In VietNam ! Ông bật cười, vừa kéo lưng quần lót lên vừa nói :
– Cha…Bạo quá há !

Cô gái hơi rút cổ cười khúc khích vài tiếng nữa rồi im. Chắc cô đang sống lại với một vài kỷ niệm nào đó. Ông bác sĩ già áp hai lòng bàn tay lên lưng bịnh nhân, nhưng bây giờ sao ông không còn thấy cười được nữa. Hàng chữ ” Made In VietNam” nhắc cho ông rằng con người nằm đây là sản phẩm của quê hương ông, cái quê hương đã mấy chục năm xa cách, cái quê hương mà ở đó ông không còn ai để nhớ, nhưng ông còn quá nhiều thứ để nhớ. Những thứ cũng mang dấu ấn ” Made In VietNam “, từ con trâu cái cày, từ mảnh ruộng vườn rau, từ hàng cau rặng dừa, từ con đường đất đỏ đến con rạch nhỏ uốn khúc quanh quanh…Chao ơi ! Bỗng nhiên sao mà nhớ thắc thẻo đến muốn trào nước mắt…
Ông bác sĩ vuốt lưng cô bịnh nhân thật chậm để cho niềm xúc động lắng xuống tan đi. Ông có cảm tưởng như ông đang sờ lại được quê hương, có chỗ cao chỗ thấp, có phù sa đất mịn…Tự nhiên, ông muốn nói lên một tiếng ” cám ơn “. Ông muốn cám ơn cô bịnh nhân đã mang quê hương đến với ông bằng hàng chữ nhỏ xâm trên bờ mông, chỉ vỏn vẹn có một hàng chữ nhỏ. Và ông cũng muốn nói với cô, nói một cách thật tình, không văn chương bóng bẩy, nói như ông nói cho chính ông, vỏn vẹn chỉ có một câu thôi :” Tôi cũng made in VietNam đây !”.

Nhưng rồi ông làm thinh tiếp tục vuốt lưng người bịnh. Ông biết rằng cô gái không thể nào hiểu được ông, một bác sĩ già vừa quá sáu mươi, đã gần nửa tuổi đời lưu vong trên xứ Mỹ, có đầy đủ tiền tài danh vọng mà cũng xâm hàng chữ ” Made In VietNam”, xâm ở trong lòng…

Bác sĩ im lặng dò huyệt châm kim. Bỗng cô bịnh nhân nói, giọng buồn buồn, làm như cô vừa xem lại hết một đoạn phim đời nào đó :
– Thằng bồ của con xâm cho con để làm kỷ niệm hồi tụi này còn ở Louisiana.

Ảnh là thợ xâm…
– Ủa ! Rồi sao bây giờ cô ở đây ?
– Con theo ba má con dọn về Cali, ổng bả nói ở Cali bạn bè nhiều làm ăn dễ.
– Ờ…người Việt mình thích ở miền nam Cali lắm.

Ngừng một chút bác sĩ lại nói, trong lúc hai tay vẫn tiếp tục châm kim :
– Ở Cali khí hậu tốt hơn nhiều tiểu bang khác. Mà…ba má cô làm gì ?
Cô gái làm thinh một lúc mới trả lời, giọng ngang ngang :
– Qua đây rồi ổng bả đá đít nhau. Bả lấy thằng Mễ chủ pressing , còn ổng thì chó dắt ổng ôm được một bà Mỹ goá chồng có tài sản.
– Vậy rồi cô ở với ai ?
– Với ba con. Bà Mỹ cho con đi học college, ba con lái xe đưa rước.
– Vậy mà sao hôm qua, trong phone, cô nói cô đi làm ?

Giọng cô gái như nghẹn lại :
– Khổ lắm bác sĩ.

Cô ngừng một chút để nén xúc động rồi nói tiếp :
– Ba con ỷ có bà Mỹ nuôi, không chịu đi làm. Tối ngày cứ đi nhậu với bạn bè, rồi nay đổi xe, mai đổi xe…Con nói ổng, chẳng những ổng không nghe mà còn chửi con: “Tiên Tổ mày ! Tao đem mày qua đây đặng mày dạy đời tao hả !”

Lại ngừng một chút mới nói được, nói như trút hết ẩn ức còn lại :
– Có lần ổng xáng cho con mấy bạt tay đau điếng…
Rồi nghẹn ngào :
– Lần đó, con bỏ nhà đi hoang…
Nói xong, hít một hơi thật sâu rồi thở hắt ra một cái như vừa làm xong một việc gì thật khó !

Ông bác sĩ im lặng, tiếp tục châm, mà nghe thương hại cô bịnh nhân vô cùng. Cô ta cỡ tuổi con gái út của ông. Con gái út của ông đang học đại học, còn cô này thì đang sống trong hoàn cảnh quá bấp bênh. Cả hai đều Made In VietNam hết !

Châm xong, ông đặt tay lên cánh tay trần của bịnh nhân, vuốt vuốt như vuốt tay một đứa con đang cần được vỗ về an ủi :
– Cô cứ nằm yên như vầy độ mười lăm phút, nghen.
Tiếng ” dạ ” bỗng nghe như đầy nước mắt.

Ghim của Thuy Chung Trinh trên Nhiệt Ba ciu | Phong cách thời trang ...

Sau khi gỡ kim, ông bác sĩ bóp tay bóp chân bịnh nhân một lúc rồi nói :
– Bây giờ thì cô mặc quần áo vào được rồi.
Cô gái ngồi lên nói ” cám ơn ” mà đôi mắt vẫn còn mọng nước. Cô bước vào sau bình phong, chậm rãi mặc quần áo, làm như cô muốn những xúc cảm hồi nãy có thời gian để thấm sâu vào lòng…

Khi cô bước ra, gương mặt cô đã trở lại rạng rỡ. Cô mỉm cười nhìn ông bác sĩ, rồi, vừa mở cái xắc đỏ vừa hỏi :
– Bao nhiêu vậy, bác sĩ ?
– Không có bao nhiêu. Chừng chữa xong rồi cô hãy trả.
– Bác sĩ cho con trả mỗi lần, chớ đợi hết bịnh, tiền đâu con trả. Cái thứ đi làm lậu như con…

– Cô yên tâm. Rồi mình tính.
Ông bác sĩ đưa dĩa  nữ trang :
– Cô đừng quên mấy thứ này.
Cô gái phì cười, không đeo vào người mà trút hết vào xắc, rồi hỏi :
– Chừng nào con trở lại nữa, bác sĩ ?
– Tuần tới, cũng ngày này giờ này.

Bác sĩ mở tủ thuốc, chọn lấy ra hai chai có dán nhãn sẵn, trao cho bịnh nhân :
– Trên nhãn có ghi liều lượng: mỗi ngày, cô uống sáng trưa chiều, mỗi thứ hai capsule.

Ra đến cửa phòng mạch, ông bác sĩ già cầm bàn tay cô bịnh nhân trong hai bàn tay của ông, lắc nhẹ :
– Bớt hút thuốc đi, nghen ! Từ từ rồi tôi sẽ chữa cho cô vụ ghiền thuốc nữa.

Ngập ngừng một chút rồi ông nói, giọng ôn tồn :
– Tôi muốn nói với cô điều này…

Cô gái chớp chớp mắt chờ. Chắc là lần đầu tiên cô được một ông già cầm tay một cách ân cần như vậy. Bác sĩ nói :
– Mình là người Việt Nam, ăn mặc theo ” punk ” không hạp với con người với bản chất của mình chút nào hết. Cô đâu có xấu mà cô làm cho xấu đi, uổng lắm ! Mình phải xứng đáng là Made In VietNam, chớ cô.

Cô gái nhìn vào mắt ông bác sĩ, không nói gì hết, chỉ siết tay ông già một cái thật mạnh, rồi bước ra xe, một chiếc xe hơi cũ mèm phải đề tới bốn lần mới nổ máy !

 

Ông bác sĩ Lê ngồi uống cà phê với tôi ở khu Phước Lộc Thọ ( Orange County – Nam Cali ). Ông kể tiếp :
– Anh biết không, lần sau cô Kim đến phòng mạch, ăn mặc chải gỡ rất dễ thương. Chẳng có chút gì ” punk ” hết ! Lần khám bịnh đó, tôi có hỏi cổ sao không về sống với thằng bồ ở Louisiane có phải hơn là sống cù bơ cù bất ở Cali.

Cổ nói như mếu :” Ảnh có vợ rồi “. Tôi biết : như vậy là cổ kẹt thiệt. Tôi đem chuyện này kể cho vợ tôi nghe. Bả cảm động lắm nên đề nghị giúp tiền cho cổ học một cái nghề gì đó, uốn tóc, làm nail chẳng hạn, để có công ăn việc làm  vững chắc hơn là đi làm lậu tầm bậy tầm bạ.

Tôi nói chen vào :
– Chắc gì cổ chịu. Nghe anh kể, tôi đoán chị này cũng tự ái lắm.
– Anh nói đúng. Cổ từ chối hoài. Sau nhờ vợ tôi mời cổ về nhà khuyên nhủ, coi như là trong thân tình, cổ mới chịu. Hôm đó, cổ ôm vợ tôi vừa khóc vừa nói :”

Con cám ơn ông bà. Cám ơn ông bà “.
– Sau đó cổ có đi học thiệt không ?
– Có. Học làm nail. Học giỏi nữa là khác.
– Cổ bây giờ ra sao rồi ?
– Mới đầu làm thợ, làm công cho người ta. Bây giờ vừa làm thợ vừa làm chủ. Khá lắm !
– Mừng cho cổ, há !
– Cổ xách đồ nghề tới làm nail cho vợ tôi, con út và hai con dâu tôi thường lắm.

Làm không lấy tiền. Cổ cứ nói với mấy con tôi :” Tôi chịu ơn ông bà bác sĩ biết đời nào mới trả cho hết, mấy cô biết không ? Tôi không dám nói ra, chớ mỗi lần tôi cầm bàn tay của bà bác sĩ để làm nail, tôi vẫn nghĩ không có bàn tay này thì làm gì tôi thoát ra khỏi hoàn cảnh của tôi hồi đó để có những gì tôi có hôm nay…”
– Dễ thương quá !
– Noel, ngày Tết…cổ đều mang quà đến tặng vợ chồng tôi.
– Con người ở có tình có nghĩa quá, anh há !
– Đã hết đâu ! Cổ còn nhớ đến ngày giỗ của ba má tôi nữa. Mấy ngày đó tụi con tôi có đứa quên chớ cô ta không bao giờ cô ta quên. Ngày đó, cô đem đồ tới cúng và ở lại phụ vợ tôi nấu nướng dọn giẹp nữa. Cho nên vợ tôi quí cô ta lắm !

Phuoc Loc Tho - a photo on Flickriver

Nói xong, bác sĩ Lê vỗ vai tôi, cười :
– Anh thấy không ? Cô ta mới đúng là ” Made In VietNam ” đó ! Còn nguyên chất, hè !

Ông Lê vui vẻ cầm tách cà phê vừa nhâm nhi vừa nhìn quanh. Người Việt Nam đi đầy trong thương xá. Cung cách có hơi khác nhưng nói năng thì y hệt như ở bên nhà. Một vài tiếng chửi thề rớt rơi đâu đó, nghe rất tự nhiên. Bỗng ông quay sang hỏi tôi mà nghe như ổng tự hỏi ổng :
– Không biết ở xứ Mỹ này, đồng hương lưu vong, có ai lâu lâu nhớ lại rằng mình “Made In VietNam “, không ?

– Có chớ anh ! Nhưng cũng có người chẳng những không nhớ mà còn tự đóng cho mình con dấu ” Made In USA ” nữa, anh à. Thứ đó bây giờ thấy cũng nhiều !
Tôi đưa tách lên môi uống ngụm cà phê cuối cùng, bỗng nghe cà phê sao mà thật đắng…

Câu chuyện kể có thật của Buu Nguyen

Nguyễn Hoành

Ba tôi qua đời bất ngờ năm 1964, nhỏ em út còn trong bụng Má. Tôi phải nghỉ học, tìm việc làm ngày đêm để phụ giúp Má tôi nuôi sáu đứa em còn nhỏ dại.

Đầu năm 1965, tôi được mời đến dạy kèm Toán cho cô con gái lớn một gia đình người Việt ở Nam Vang. Mỗi ngày 2 tiếng, từ 7 đến 9 giờ tối, từ thứ Hai đến thứ Sáu. Em học trường Providence, còn gọi là trường Bà Phước, lúc đó chỉ dành cho nữ sinh. Em nhỏ hơn tôi một tuổi nhưng mới ở lại Cinquième, trong khi tôi đã đậu Brevet d’Études du Premier Cycle hai năm trước.

Có lẽ vì là con gái nhà khá giả nên em hơi… làm biếng học, nhất là toán, géometrie và algèbre. Lúc đầu, tôi hơi nản lòng vì… em nhìn bài vở như thấy ma, tôi thường phải làm bài giùm em, nhưng từ từ em nghe lời tôi khuyên, chịu làm bài, chịu học bài, và được lên lớp mỗi năm.

Đầu năm 1968, em học Troisième, chuẩn bị thi Brevet. Tôi kèm em từng môn, giúp em làm những bài vở mà đúng ra tôi không cần giúp. Em trả ơn bằng cách mời tôi ở lại ăn cơm tối.

Tôi cho em mượn những quyển sách mà tôi đã học qua, trong một lần trả sách, em kèm theo tấm giấy chỉ viết một câu “cho moi làm amie intime của toi nha”. Tôi gật đầu vì sợ em giận, em không thèm học nữa. Từ đó, em hẹn tôi đi chơi cuối tuần, tôi cũng gật đầu với điều kiện là em phải xin phép Ba Má đàng hoàng và phải ráng học.

Tôi biết em thương tôi, tôi cũng thương em. Tôi gọi em là “cô Tiên” vì em có dáng dấp qua cầu gió bay, có bước đi lả lướt nhẹ nhàng như các nàng tiên nữ trong vũ khúc nghê thường, vì em đã mang đến cho tôi những cảm xúc mà người trần gian chưa từng cho tôi trước đó.

Những ngày mưa, không đi chơi được thì tôi ngồi hát em nghe bên mái hiên nhà:

Một chiều cuối tuần mưa bay lất phất và mây trắng giăng giăng

Em đến thăm anh vì trời mưa mãi nên không kịp về

Bên anh, em lặng nhìn bầu trời và ánh mắt mộng mơ

Sợ người yêu khóc, khe khẽ bên tai anh kể chuyện ngày xưa.

Chuyện xưa kể rằng trên thiên giới ấy ngày vui kết hoa đăng

Thiên Quốc đang vui một nàng tiên nữ làm rơi ly ngọc ngà

Đang say nên trời bèn đọa đày nàng tiên xuống trần gian

Làm người dương thế không biết bao lâu mới được quay về trời.

Em ơi nàng tiên ấy xuống dương trần một chiều mưa bay nhiều

Và vì thương trần thế, thương kiếp sống phong sương

Nên dù rằng một hôm Thiên Quốc trời sai

Gom mây hồng làm xe đưa tiên về

Tiên nói dối tiên còn đang giận trời nên tiên chẳng về đâu.

Nàng tiên giáng trần không đôi cánh trắng giờ đang ngắm mưa bay

Đang đứng bên anh thầm cầu mưa mãi cho tiên đừng về

Anh ơi lỡ mà trời gọi về thì tiên chẳng về đâu

(Bài hát “Huyền Thoại Một Chiều Mưa”)

Nhưng tôi luôn nhớ mình là con trai nhà nghèo, chỉ có chiếc Mobylette cà tàng làm chân đi kiếm cơm mỗi ngày. Em là con gái nhà khá giả, đi học có xe đưa rước, về nhà không làm động móng tay vì đã có chị bếp, chị bồi, chị vú lo toan mọi việc. Nếu hai đứa thành vợ thành chồng, em cực thân là cái chắc.

Trong một lần kề vai nhau đi quanh công viên Chùa Tháp, trời bỗng dưng mưa. Tôi bật dù che hai đứa nhưng mưa càng lúc càng nặng hột, em bỗng xoay người lại ôm hôn tôi dưới mưa. Tôi than thầm trong bụng “gặp oan gia truyền kiếp rồi”.

Năm đó, em thi đậu Brevet và tôi nghỉ dạy vì vừa xin được cái job thư ký kế toán ở hãng L’UCIA, Nam Vang.

Lúc trước gặp nhau 5 ngày mỗi tuần, có nhiều thì giờ để nói với nhau những gì muốn nói. Giờ phải chờ đến cuối tuần mới được gặp nhau vài tiếng, nhớ ơi là nhớ. Tôi bắt đầu làm thơ “nhớ em”…

Nhớ lúc xưa kia mới biết nhau

Rồi thương rồi nhớ suốt đêm thâu

Ðêm nào cũng vái cho mau sáng

Nhớ quá trời ơi! Nhớ phát rầu.

Nhớ những chiều em qua phố vắng

Dáng hồng xen lẫn bóng hàng cau

Mân mê vạt áo, em e lệ

Những lúc anh nhìn, má đỏ au.

Nhớ lúc mình đan tay đếm bước

Em run run hỏi: – Sẽ ra sao ?

Anh cười, anh nói như đinh đóng:

– Anh sẽ yêu em đến bạc đầu!

Đưa bài thơ cho em, em bỏ túi nói sẽ về nhà đọc. Tuần sau gặp nhau, em không nhắc gì về bài thơ của tôi mà hỏi tôi nghĩ gì về cuộc sống hai đứa sau này.

Tôi nói là nhà tôi nghèo, em nói em biết rồi, tôi phải đi làm giúp Má nuôi các em còn nhỏ, em nói em cũng biết rồi, nếu mình cưới nhau thì em sẽ cực thân hơn là sống với Ba Má em…

Em trả lời làm tôi chưng hửng “hiện nay, cái khổ nhất mà “moi” phải chịu đựng hàng ngày là nhớ “toi”, cái cực nhất mà moi phải chịu đựng hàng ngày là làm sao để gặp toi sớm hơn, nên moi không sợ gì cả. Trời sanh voi sanh cỏ”.

Tôi khuyên em nên kiên nhẫn, nói cho em hiểu lúc này là thời gian đẹp nhất trong cuộc tình hai đứa, cái nhớ cái thương bây giờ sẽ làm mình gắn bó nhau hơn sau này…

Em nghe lời tôi và chuyện hẹn hò của chúng tôi kéo dài cho tới đầu năm 1970.

Tướng Lon Nol lật đổ vua Sihanouk, tự phong là tổng thống xứ Kampuchea (Cao Miên).

Một số người Miên quá khích thừa nước đục thả câu, “cáp duồn” (nghĩa là chặt người Việt) lẻ tẻ. Đang đêm, họ đến gõ cửa nhà người Việt ở những vùng thôn quê hẻo lánh. Một số người Việt không may đã bị họ chặt đầu, xác thả trôi sông về tới Tân Châu, Hồng Ngự… Nhiều người Việt có chút của ăn của để ở Cao Miên bán tháo tài sản để về Miền Nam Việt Nam lánh nạn. Ba Má em cũng không ngoại lệ.

Em gặp tôi bàn chuyện này. Tôi đem việc này hỏi ý kiến ông giám đốc hãng L’UCIA. Ông giám đốc đưa hai đứa tôi về biệt thự do hãng mướn cho ổng ở trên đại lộ Norodom, ngay trung tâm thủ đô Nam Vang. Ổng nói: “nhà tao có 2 người bồi bếp, có 2 con chó berger giữ nhà. Nhà có 5 phòng, tao ở chỉ một phòng. Nếu hai đứa thấy ở nhà mầy không an toàn thì đến đây ở với tao. Tao tin tưởng và cần thằng B. giúp tao giữ gìn sổ sách của hãng nên hai đứa mầy muốn ở phòng nào, muốn ở bao lâu cũng được”.

Nghe vậy, chúng tôi yên tâm và quyết định ở Nam Vang dù Ba Má em có về Sàigòn.

Em về xin Ba Má cho hai đứa làm đám cưới. Má em có cảm tình với tôi nên gật đầu. Ba em im lặng vì biết tôi nghèo, sợ con gái cưng của ông sẽ cực khổ khi về làm vợ tôi. Em nói với Ba Má em “nếu Ba Má không tổ chức đám cưới cho hai đứa con, tụi con sẽ tự lo. Con muốn làm vợ anh B. danh chánh ngôn thuận”.

Và hai đứa tôi tự tổ chức lễ cưới của mình.

Sáng ngày 24/02/1970, Má tôi và tôi mang trầu cau và phẩm vật đến xin cưới em. Chúng tôi lạy bàn thờ tổ tiên nhà em, xin quý ngài chứng giám cho chúng tôi thành vợ thành chồng. Tôi mướn xe Mercedes để rước “cô Tiên” xuống trần.

Tối đến là tiệc cưới tại nhà hàng La Lune, đối diện State Olympic, với 200 quan khách, họ hàng và bạn bè nhà trai, nhà gái. Dĩ nhiên là có nhạc sống do mấy tên bạn tôi tự mang đồ nghề đến giúp vui. Đêm đó, hai đứa tôi khiêu vũ và cụng ly với bạn bè gần tới sáng.

Sau ngày chúng tôi thành hôn thì tình hình chính trị giữa hai nước Kampuchea và Miền Nam Việt Nam biến chuyển dồn dập. Ông bà nhạc tôi và gia đình bay về Sàigòn vài ngày sau đó. Vợ chồng tôi vẫn ở Nam Vang. Tôi vẫn đi làm ở L’UCIA .

Khi xác nhiều người Việt trôi về tới Hồng Ngự, Tân Châu, ông Nguyễn Cao Kỳ – lúc đó là Phó Tổng Thống VNCH – ra lệnh cho Quân-đoàn 3 tràn qua biên giới, lấy cớ là để “bảo vệ kiều bào VN”. Trung tướng Đỗ Cao Trí nhận lệnh với lời tuyên bố làm chấn động chính phủ Cao Miên: “Cho tôi 24 tiếng, tôi sẽ chiếm Nam Vang”.

Ông Lon Nol nghe muốn té đái. Mới làm tổng thống có mấy ngày, nếu để QLVNCH chiếm Nam Vang thì mất mặt bầu cua. Ông gọi điện năn nỉ chính phủ VNCH đừng chiếm Nam vang nên Quân-đoàn 3 dừng lại ở Neak Luong (người Việt mình gọi là Hố Lương), một bến phà chỉ cách Nam vang 60 cây số.

Nghe tin QLVNCH tràn qua biên giới, cả trăm ngàn kiều bào VN ở Cao Miên, trong đó có vợ chồng tôi, bỏ tất cả tài sản, dắt díu nhau vào các trại tị nạn. Các sân trường trung học, chùa, nhà thờ bỗng trở thành những trại tị nạn khổng lồ. Vợ chồng tôi vào trường Seminaire, nơi tôi đã học năm cuối chương trình Tú tài Pháp hai năm trước.

Trong trại Seminaire, người ta chia ra nhiều nhóm, mỗi nhóm 10 gia đình, trước hết là để lãnh nước uống, sau là thức ăn, lúc đó chỉ có khô cá lóc do Red Cross cung cấp. Tôi làm trưởng nhóm 31.

Đầu tháng 5/1970, ông Nguyễn Cao Kỳ bay lên Nam Vang, nói là thăm xã giao tướng Lon Nol nhưng thật sự là đi thanh tra các trại tị nạn. Tối đêm trước, tôi và các trưởng nhóm được lệnh phải thu tất cả những những gì có thể coi như là vũ khí gồm dao, gậy,… và cùng nhiều người thức gần sáng đêm để dựng cái sân khấu dã chiến.

Khi ông Kỳ vào trại Seminaire, ông đến từng lều, bắt tay và hỏi thăm từng người. Điều làm mọi người chú ý là 2 anh đại-úy cận vệ. Họ cao hơn ông Kỳ 1 cái đầu, mặc đồ bay, mang súng ngắn dưới nách, nhưng không cản trở khi kiều bào đến bắt tay, thậm chí ôm hôn ông Kỳ.

Ông Kỳ lên sấn khấu, nói vài lời thăm hỏi xã giao rồi hứa: “Tôi sẽ đưa tất cả đồng bào về quê hương!”

Ông nhận được những tràng pháo tay như sấm động của mấy ngàn người trong trại Seminaire. Nhiều bà lão bò ra khoảng trống trước sân khấu lạy ông Kỳ như tế sao.

Vài ngày sau, chúng tôi được phát thịt heo lần đầu, dù không ai biết ai cho nhưng mọi người nghĩ là từ chính phủ VNCH. Tuần sau, một đoàn “tàu há mồm” của Hải quân VNCH cặp bến sông Mekong.

Danh sách từng nhóm được gọi để rời trại xuống tàu về nước. Vợ chồng tôi thuộc danh sách thứ 31 nên gần cuối tháng 5/1970 mới được rời trại. Sau 1 ngày lênh đênh trên sông Tiền (hay sông Hậu?) thì về tới trại Đồng Tâm, Mỹ Tho, lúc đó là hậu cứ của Sư-đoàn 7 BB.

Vợ chồng tôi chỉ ở trại Đồng Tâm 5 ngày. Làm giấy tờ nhập cảnh xong thì Ba em lái xe xuống rước về Sàigòn.

Cuộc sống chúng tôi từ ngày về Sàigòn không còn… tà tà như lúc ở Nam Vang. Cũng như tất cả Việt kiều hồi hương lúc đó, tôi được hoãn dịch 18 tháng. Thời gian không nhiều nên tôi làm ngày làm đêm. Em cũng đi làm. Cuối tuần hai đứa đưa nhau đi ăn mì xào dòn, hay ăn nghiêu luộc.

Mỗi tối đi đàn về, tôi chạy thẳng vô Chợ Lớn mua cho em cái bánh bao Ông Cả Cần của Bà Năm Sa-Đéc. Lúc này em không còn thơ thẩn, mà ngược lại… em ăn rất bạo. Dù không nói ra, tôi biết em đang chuẩn bị cái bụng cho đứa con đầu lòng của chúng tôi, dù không biết lúc nào nó sẽ tượng hình.

Nhiều người trong gia tộc hai bên thường trề môi nói “thằng B. con nhà lính tính nhà quan, mới ở Nam Vang về tay trắng mà vợ nó muốn gì được nấy”….

Mấy người này không biết là lúc còn độc thân, tôi đã đọc một câu định nghĩa “người phụ nữ lý tưởng” của một người đàn ông như sau: “Người phụ nữ lý tưởng của một người đàn ông là người bạn, người tình và là người vợ của người đàn ông đó”.

Hồi đọc câu đó, tôi chưa gặp cô Tiên nên tôi đã tự hỏi ngược lại là “tôi có thể vừa là người bạn, vừa là người tình, và là chồng của vợ tôi không”. Ông nào muốn biết cái vụ này nó khó cỡ nào cứ thử cua một cô bạn gái rồi cưới cổ về làm vợ thì sẽ hiểu câu… “chưa thấy quan tài chưa đổ lệ”.

Nhưng khi gặp rồi thương yêu cô Tiên, cái định nghĩa xưa tự nó cho tôi lời giải đáp.

Lúc mới thương nhau, tôi thường kể em nghe chuyện bồ bịch của tôi lúc trước. Em chẳng những không ghen hờn, mà còn góp ý đôi khi rất tiếu lâm, rồi hai đứa cười hí hí. Lúc hai đứa đi chơi, gặp cô nào có “ngực tấn công, mông phòng thủ” là tôi hay quay lại nhìn, em im lặng nắm tay tôi, đợi cô đó đi khỏi tầm mắt mới hỏi “bộ toi hổng thấy cổ đi hai hàng hả?”. Khi vào tiệm bán sách, tôi có cái tật (hổng biết xấu hay tốt) là đứng hơi lâu trước mấy cái đặc san người lớn như PlayBoy. Em im lặng đứng bên tôi, đến khi rời tiệm sách em mới phê bình… “nhỏ này vú đẹp, cô kia mông teo…”. Chỉ khi đến kệ bày mấy cuốn Salut les Copains, em mới thò tay lựa cuốn mới nhất và tự ra quầy trả tiền.

Em chưa bao giờ bắt tôi trả tiền những gì em mua cho riêng em. Em chưa bao giờ lớn tiếng hay dùng lời lẽ không lịch sự với bất cứ ai, dù đôi khi tôi hay ai đó vô tình hoặc cố ý làm em giận.

Ba em nói với em “Ba thấy nó đi nhảy đầm, tay trái một con, tay mặt một con”. Em trả lời “những gì ảnh làm lúc còn độc thân là quyền của ảnh, con không cần biết (thật ra tôi đã kể em nghe hết rồi). Chỉ cần biết hiện giờ hai đứa con thương nhau thật lòng là được rồi”.

Em có cách hôn, chỉ phớt nhẹ, làm tôi hồn phi phách tán. Khi thấy tôi buồn, em cầm tay tôi, xoa nhè nhẹ lên mu bàn tay, khiến tôi quên hết mọi phiền não. Sau này thành vợ thành chồng, em vẫn là người tình tuyệt vời. Em biết cách làm tôi quên những nghiệt ngã mà tôi đã trải qua trong ngày hôm đó.

Em biết tiết kiệm, vén khéo với số tiền mà chúng tôi kiếm được. Em không se sua, dù luôn ăn mặc thanh lịch. Mỗi lần hai đứa ra đường là tôi phải ngó trước nhìn sau, coi có tên nào nhìn lén em không. Khi đứa con đầu lòng của chúng tôi chào đời năm 1972, em tự nguyện bỏ bớt chuyện mua sắm cho riêng mình, để có đủ tiền cho con chúng tôi bú sữa Guigoz 3 năm liên tục.

Cô Tiên đã là một người bạn, một người tình và là người vợ tuyệt vời của tôi.

Được một người vợ như cô Tiên, em muốn gì được nấy không có gì quá đáng.

Bán nhà cho em cũng được, huống chi là ba cái lẻ tẻ.

Tháng 4/1972, tôi hết hạn hoãn dịch, phải đi lính cho tới ngày tan hàng.

Sau 75, có ngày hai đứa phải ăn sáng bằng… cơm nguội, nhưng em luôn dành 1 hoặc 2 đồng cho con chúng tôi có gói xôi nóng hay tô cháo huyết.

Cực nhất là lúc chúng tôi về quê tôi sống từ năm 1976 đến năm 1979. Má tôi cho hai công ruộng và nửa công vườn, đủ cho gia đình chúng tôi sinh sống, không cần phải đi làm mướn, làm thuê. Nhưng không may là hai năm 77-78, lũ lụt tràn vào ngập ruộng trước khi lúa chín. Nông dân vùng Tân châu đói thể thảm. May mà tôi cất nhà sàn, cao khoảng 1.5m, nên nước ngập lé đé sàn nhà.

Nhiều nông gia ở nhà đất, phải kê tủ giường lên cao, có người kê giường tới gần đụng nóc nhà.

Mỗi ngày, cô Tiên ngồi trên sàn nước, miệt mài câu từng con cá chốt, cá sặc, cá lòng tong. Tôi không dám nhìn lâu. Đến bữa ăn chỉ có món cá kho thập cẩm vậy mà thằng con khen “má kho cá ăn ngon”. Tôi mắc nghẹn từng hồi. Rồi cũng qua.

Ở quê, em không cho con đi học, nói mấy ổng dốt mà dạy cái gì! Vợ chồng tôi thay nhau dạy con nói và viết tiếng Việt, tiếng Pháp. Bài học tiếng Việt đầu tiên là bốn câu thơ của ngài Lý Thường Kiệt :

Nam quốc sơn hà Nam đế cư

Tiệt nhiên phận định tại thiên thư

Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm

Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.

Tiếng Pháp thì chúng tôi dạy con nói và viết những câu chào hỏi thông thường, không ngờ khi qua Úc nó học tiếng Anh nhanh hơn những bạn tị nạn khác nhờ tiếng Pháp và tiếng Anh có nhiều chữ giống nhau.

Qua năm 79, tôi trúng mùa. Bán mấy chục giạ lúa, thêm chút tiền dành dụm, mua được cái ghe nhỏ, tính chuyện lớn. Khoang ghe chỉ vừa đủ cho hai người lớn và một đứa nhỏ chen vai nhau ngủ. Tôi không biết chèo, tập cả tháng sau mới chèo được hai chèo. Em không biết lội nhưng nhất quyết đòi đi đến những nơi có thể cho chúng tôi thấy được tương lai. Em nói “mình đã sống mấy năm ‘có miệng không nói lại câm, hai hàng nước mắt chan dầm như mưa’. Đủ rồi, phải đi tìm tương lai cho mình và cho con”.

Vậy là đi. Chèo từ Tân châu tới Long xuyên mất hai ngày. Nghỉ xả hơi một ngày rồi chèo tiếp tới Ô Môn, Cần Thơ, Ngã 7, Sóc Trăng, Hộ Phòng, Gành Hào, và sau cùng là ngã 3 cây Tàn. Ở ngã 3 cây Tàn hơn một tháng vì có người mướn tôi đào ao nuôi cá. Đào ao một tháng được hai giạ gạo và một mớ tiền. Chúng tôi trở ra Gành hào vì thấy nơi này là nơi lý tưởng để ra đi. Tôi giấu dưới khoang ghe cái máy đuôi tôm, thường ngày không dám sử dụng, sợ người ta dòm ngó, định khi nào đi mới xài.

Ở Gành Hào đêm trước, thì đêm sau bị bão.

Mưa như trút nước, sấm chớp đầy trời. Chiếc ghe tôi lắc lư như người say rượu, nửa đêm đứt dây buộc sào trôi ra giữa sông. May là lúc đó nước lớn, nước từ ngoài biển đổ vô sông, nếu ngược lại thì có thể bão đã đưa chúng tôi qua Thái Lan hay hổng chừng… vô bụng cá. Tôi cột sợi dây quanh bụng, cố gắng lội vô bờ.

Hình như… lúc không còn cái gì để sợ nữa thì mình mạnh hơn bình thường nên tôi đã kéo chiếc ghe tới dưới dạ cầu chợ Gành hào. Buộc dây ghe lại đàng hoàng là tôi ngã lăn ra thở dốc, lạnh run cầm cập. Em lau mình cho tôi và đưa tôi cái bánh bía, hổng biết em mua lúc nào, đúng là cô Tiên. Ăn cái bánh bía đêm đó, hương vị thơm ngon còn phảng phất tới bây giờ.

Bye bye Gành hào, tôi gắn máy đuôi tôm chạy về Long Xuyên. Chúng tôi ở Long Xuyên gần ba năm. Tôi làm bất cứ chuyện gì, miễn là lương thiện, để có tiền nuôi vợ con. Có lúc đạp xe lôi, có lúc vác lúa gạo ở các nhà máy xay lúa, có lúc làm tạp nhạp.

Đến tháng 2/1982, em tìm được đường dây ra nước ngoài vừa với khả năng của vợ chồng tôi lúc đó. Cái may là chúng tôi chỉ đi một lần là tới Mã Lai. Ở Bidong một tháng rưỡi là được phái đoàn Úc nhận. Qua trại chuyển tiếp Sungei Besi2, ngoại ô Kuala Lumpur để khám bệnh, bổ túc hồ sơ. Ba tháng rưỡi sau là chúng tôi có list đi Úc.

Vài ngày sau khi đặt chân lên đất Úc, lúc đó chúng tôi chỉ biết tiếng Pháp chưa biết tiếng Anh. Em nói với tôi “moi không thích nhờ thông dịch, nhà mình phải có một người giỏi tiếng Anh, toi phải đi học. Moi sẽ đi làm nuôi toi và con”! Nghe ghê chưa?

Mà em cũng không biết tiếng Anh thì đi làm cái gì? Em quên mình từng là một tiểu thơ được cơm bưng nước rót, em quên mình từng đi học có xe đưa rước, em quên mình là… cô tiên của tôi. nên ai mướn gì làm nấy. Quét dọn nhà cửa cho người Úc, chăm sóc con em của đồng hương, làm chả giò bán sĩ (không biết em học ở đâu mà làm chả giò và đổ bánh xèo ngon nhất Darwin).

Tôi cũng đi làm ban ngày, đi học ban đêm. Bảy năm ròng rã, tôi lấy được 2 cái Certificates về kế toán và quản trị địa ốc và xin được cái job “Security Administrator” tại trường đại học Charles Darwin University ở Darwin đầu năm 1985. Tôi làm việc tại CDU liên tục hơn 27 năm, đến khi nghỉ hưu cuối năm 2012.

Em không đi học tiếng Anh một ngày nào nhưng sau này… lại làm thông dịch cho bạn bè, nhiều nhất là mấy cô lấy chồng Úc, mới qua Úc chân ướt chân ráo, tìm đến em nhờ giúp đỡ. Em chở họ đi làm hồ sơ nhập cư, điền đơn xin tiền an sinh xã hội… Bà xã tôi thương đồng hương nên ai nhờ thì giúp, cứ ăn cơm nhà vác ngà voi, không đòi hỏi ai phải trả đồng bạc nào dù biết làm thông dịch cũng được trả tiền. Mấy cô vợ Úc thương em lắm, cuối tuần là ghé nhà tôi xào xào nấu nấu … thật vui.

Hỏi em mới biết, em học tiếng Anh bằng cách theo dõi các chương trình Play School trên TV. Chương trình này dạy con nít Úc nói/viết tiếng Anh để chuẩn bị vô mẫu giáo. Em đọc báo tôi mang về mỗi ngày. Không hiểu chữ nào, đoạn nào thì em hỏi tôi hay tra tự điển.

Tiếu lâm nhất là khi bà hàng xóm nhờ em làm thông dịch. Bà này gốc Ý (Italy), có chồng gốc Tây Ban Nha (Spain). Bà ta đến Úc theo diện vợ chồng năm 1978 và không đi học ngày nào. Khi rảnh rỗi bà ta qua nói chuyện với bà xã tôi. Bà ta nói “broken english” với giọng Ý nên tôi và mọi người không ai hiểu cả. Vậy mà bà xã tôi hiểu nên mỗi lần bà hàng xóm cần đi bác sĩ, hay bất cứ cơ quan công quyền nào ở Darwin là qua năn nỉ nhà tôi theo làm thông dịch.

Một năm sau ngày đến Úc, tôi được bầu làm tổng thư ký Hội Người Việt Tự Do tại Darwin, sau đổi tên thành CĐNVTD Bắc Úc cho tới bây giờ. Tôi dính với các sinh hoạt của CĐ mình cho tới năm 2017 mới rút chân ra được. Suốt thời gian này, bất cứ tôi làm cái gì đều có sự giúp đỡ, yểm trợ khi công khai khi âm thầm của cô Tiên.

Đứa con thứ hai của chúng tôi chào đời năm 1984 tại Darwin. Nhìn em cho con bú, tắm rửa cho con, nâng niu thằng nhỏ như vàng như ngọc, tôi nhớ lại những ngày hai đứa mới thương nhau, mỗi lần bên nhau là bàn chuyện mai này… tôi viết bài thơ tặng em.

Bí quyết treo tranh trong phòng ngủ để vợ chồng hoà thuận - Vatlieu.info

Một chiều lãng đãng ánh tà dương

Em kể anh nghe chuyện mộng thường

Đôi mắt em nhìn xao xuyến quá

Như sao lấp lánh một trời thương.

Từ đó đời mình hết lẻ loi

Đan tay qua phố bước chung đôi

Em cười rạng rỡ như tiên nữ

Tiên nữ của anh – cũng được rồi.

Từ đó đời mình ươm ước mơ

Từng đêm anh cắn bút làm thơ

Mỗi dòng ôm ấp ngàn thương nhớ

Thương nhớ lớn theo nổi đợi chờ.

Từ đó mình bàn chuyện lứa đôi

Mai này, mình có hai con thôi

Trưởng nam, phần nó lo hương hỏa

Em nó, cô Ba – có rượu mời.

Từ đó mình bàn chuyện cưới nhau

Anh giành chọn áo cưới cô dâu

Màu vàng, hoàng hậu lòng anh đó

Em nói : – Màu hồng, áo cô dâu!

Từ lúc về làm vợ của anh

Âm thầm mình kết mộng ngày xanh

Trưởng nam bật khóc, cưng như ngọc

Đứa kế trai luôn, quý tựa vàng.

Nhiều đêm nằm gác tay lên trán

Anh cám ơn Trời, cám ơn em

Bảy nổi ba chìm mình chẳng ngán

Vì em có anh, anh có em.

 

Từ năm 2005 đến năm 2015, chúng tôi tổ chức những bữa ăn cứu trợ Thương Phế Binh còn sống khổ sở nơi quê mình bằng cách… tổ chức BBQ tại nhà tôi. Thức ăn do bà xã tôi và vài người bạn thân cùng chung sức nấu nướng, tôi bỏ tiền túi mua bia và nước giải khát. Ăn uống free. Tôi để 1 cái “Thùng Cứu trợ” trên bàn, ai cho bao nhiêu, tôi gởi về VN giúp anh em thương phế binh bấy nhiêu, theo tiêu chuẩn mỗi người 100 Úc kim.

Cây Mùa Xuân Thương Phế Binh VNCH: Cám Ơn Anh người Thương Phế Binh ...

Vì số người Việt ở Darwin rất khiêm nhường, chỉ có vài trăm người, nên lúc đầu chỉ được vài ngàn. Từ từ, bà con tin tưởng nên khi có dịp đi ngang nhà tôi là họ bỏ tiền vô thùng thơ, không đợi đến Bữa ăn Cứu trợ.

Gõ máy tới đây, bỗng nhiên làm biếng… không muốn gõ máy nữa, vì đang nhớ cô Tiên, nhớ quá xá nhớ.

Cô Tiên của tôi đã về trời sau khi đã cùng sống chung với cha con tôi 43 năm, 3 tháng, 27 ngày hạnh phúc. Em quy tiên sau một cơn bạo bệnh. Từ một người mạnh khỏe bình thường, đúng 5 tuần sau thành người thiên cổ.

Trong những ngày cuối của cuộc sống nơi dương thế, khi thấy hai con đứng nhìn em, nước mắt lưng tròng, em cầm tay con lắc lắc, mỉm cười nói: “Chúa cũng chết, Phật cũng chết, thì Má cũng chết. Má đã trả xong món nợ ân tình với Ba con và các con thì Má đi. Con trai khóc… xấu lắm”. Con tôi quẹt nước mắt… miệng cười méo xẹo.

Trong Hospice Hospital, nơi dành cho những bệnh nhân… “terminally ill”, mỗi ngày có y tá đến đánh răng và lau mình cho em. Có một lần em cám ơn họ “Thanks so much for keeping my body clean. I know it’s shutting down”. Cô y tá người Úc trợn mắt nhìn em, rưng rưng nước mắt. Sau này, cô nói với tôi “Tao chưa thấy ai sắp chết mà còn lịch sự và tỉnh táo như vợ mầy”.

Khi biết mình sắp trả xong cái nghiệp ở dương gian, em nắm tay tôi dặn dò phải tổ chức tang lễ em như thế nào. Thỉnh vị tăng ni nào chủ trì tang lễ, xong phải hỏa thiêu và chỉ giữ tro cốt 100 ngày. Sau đó mang tro cốt em rải trên sông Parramatta, đoạn gần Opéra House ở Sydney, là nơi em thích đi dạo mỗi lần đi thăm con. Em nói nhỏ nhẹ như đang lo tang lễ của ai khác. Tôi chỉ biết im lặng gật đầu, ráng kềm cho nước mắt đừng chảy ra. Tôi đã làm đúng theo lời em dặn.

Từ ngày cô Tiên về trời, cha con tôi đứt ruột đứt gan, tan nát trong lòng. Tôi đã sống những ngày như người chết chưa chôn.

Câu chuyện kể có thật của Buu Nguyen

Levanquy(st)


 

 TRÁI TIM BỒ TÁT – Truyện ngắn-Pha Le

 Xin đọc bài viết này cho đến cuối để thấy mình quá may mắn và tự nghĩ mình có thể làm gì để giúp vơi đi một phần rất nhỏ đau khổ của những người bất hạnh.

****

Jenny, cô phóng viên Mỹ tuổi đời chưa quá 30.

Ra trường đại học Stanford với số điểm khá cao, sau vài năm lăn lóc với những tờ báo địa phương, Jenny được thâu nhận làm phóng viên tại một tòa báo nổi tiếng tại Chicago.

Chuyến đi xa làm phóng sự đầu tiên của cô là bay sang Nhật, để viết về sự hồi sinh và công cuộc trùng tu của thành phố Miyako, một thành phố đã phút chốc bỗng trở thành bình địa khi cơn sóng thần Tohoku Tsunami khủng khiếp ập tới vào tháng 3, 2011.

Cô đã đi lòng vòng khắp nơi, điều làm cô sửng sốt nhất, là ở nhiều nơi, từ trong thư viện cho đến các nhà hàng, trên những bức tường, người ta vẽ hình một cậu bé Nhật với câu chuyện về nghĩa cử cao đẹp của cậu trong những ngày tang thương của thành phố.

Jenny vẫn còn nhớ đó là chuyện một cậu bé khoảng trên 10 tuổi, trong khi cậu bé đang xếp hàng chờ đợi tới phiên mình được lãnh hàng cứu trợ thì bỗng một người lính cứu hỏa đến bên cạnh và đưa cho cậu một gói khá to với dấu Red Cross đóng bên trên, Đó là một gói hàng cứu trợ nhưng có đầy đủ những đồ gia dụng cần thiết và có cả một ít hiện kim cho một cá nhân. Khẽ nghiêng mình kính cẩn cám ơn, và trước đôi mắt ngạc nhiên của người lính cứu hỏa, cậu bé bước tới góc phố, nơi người ta đã đặt sẵn một thùng giấy to để quyên góp những phẩm vật sẽ được gởi đi cho những người kém may mắn khác. Nhón chân đặt gói quà vào trong thùng, cậu bé lặng lẽ bước về chỗ cũ và kiên nhẫn sắp hàng chờ đợi.

Câu chuyện thật đơn giản nhưng vô cùng xúc động đó đã nhanh chóng được loan truyền trên khắp thế giới. Hằng trăm hằng ngàn ý kiến, những lời cảm thông chia xẻ, cùng những câu ca ngợi nghĩa cử của cậu bé đã được gởi tới tấp trên internet, trên truyền thông truyền hình như những lời an ủi động viên trước những bất hạnh và khổ đau sau thảm họa sóng thần Tohoku Tsunami.

Sau một ngày lang thang trên đường phố Miyako, Jenny cảm thấy thật phí công khi cô phải viết bài phóng sự về sự hồi sinh và công cuộc xây dựng tái thiết của thành phố Miyako, Jenny thầm nghĩ: “Người Nhật rất quật cường và dũng cảm, họ là một dân tộc biết biến đau thương thành sức mạnh, viết lời ca ngợi hoặc tán dương họ cũng bằng thừa. “cho nên cô chợt nẩy ra ý tưởng mới, là viết về tầm ảnh hưởng từ hành động cao cả của cậu bé đó với những người trẻ hôm nay.

Kết quả: Bài viết của Jenny khi phổ biến làm người đọc xúc động, tòa báo hài lòng. Ông chủ bút vui vẻ gợi ý cô có thể viết thêm về những người trẻ ở khắp nơi trên thế giới. Wow, cô mừng rỡ và quyết định cô sẽ tới Việt Nam.

Việt Nam, một đất nước tuy xa mà lại rất “gần” với cô. Rất gần vì Brittney Nguyen, người bạn thân nhất của cô trong 4 năm đại học, là người Việt Nam. Năm đầu tiên cô và Brittney cùng chia sẻ chung một phòng trong đại học xá. Brittney rất giỏi và rất lanh lẹ, nhưng điều mà Jenny cảm phục ở cô không phải sự thông minh, mà chính là tinh thần lạc quan của Brittney. Trong bất cứ tình huống nào, cô bạn này luôn tin rằng “Tomorrow will be better than today / ngày mai sẽ tốt hơn hôm nay”! Lỡ tình trạng vẫn chưa “khá” hơn, thì Brittney lại cắt nghĩa hoặc bằng một câu khôi hài nào đó, hay bằng một câu chuyện tiếu lâm mà cô luôn có sẵn trong đầu.

Brittney thì dễ thương như vậy, mà gia đinh cô thì càng tuyệt vời hơn nữa. Những ngày cuối tuần Jenny vẫn theo Brittney về nhà cô, một căn hộ chung cư 3 phòng ngủ cho 5 người! Dù căn nhà khá chật chội và hơi thiếu tiện nghi nếu so với căn nhà rộng thênh thang của Jenny ở Chicago, nhưng chính nơi đây Jenny mới hiểu được thế nào là tình gia đình. Cô đã được thưởng thức những món ăn Vietnam, được hưởng những sự thương yêu, chăm sóc, lo lắng từ những người thân của Brittney. Cô đã rưng rưng nước mắt khi gọi gia đình Brittney là gia đình thứ hai của cô.

Khi nghe Jenny nói như thế, Brittney trả lời với một nụ cười tươi tắn trên môi:

– Nếu đây là gia đình thứ hai, thì Jenny sẽ có thêm một đất nước thứ hai, đó là Vietnam, right?

Đúng như vậy, và bây giờ Jenny đang ngồi trên một chuyến bay, bay về Vietnam, một đất nước tuy xa xôi, nhưng lại rất gần gũi với cô. Trước ngày đi, ông chủ bút tờ báo đã nhấn mạnh là cô chỉ có một tuần. Trừ ngày bay đi, bay về, chỉ còn đúng ba 3 ngày thôi đấy nhé.

***

Sau gần 2 tiếng đồng hồ chờ đợi thủ tục để lấy được hành lý, Jenny chậm chạp kéo lê chiếc vali bước ra phía cổng phi trường. Cô thắc mắc tại sao mọi người cứ phải xô đẩy, chen lấn không sắp hàng, chính điều này càng khiến mọi công việc trở nên phức tạp và mất nhiều thời gian hơn.

Khi cánh cửa phi trường vừa bật mở, Jenny gần như dội ngược về phía sau bởi hơi nóng hừng hực từ bên ngoài như táp vào mặt cô. Ngần ngừ vài giây, cô bước ra, bên ngoài khung cảnh thật tấp nập, xô bồ, mọi người bước đi vội vã như ma đuổi!

Hình như 24 tiếng đồng hồ vẫn không đủ cho người VN, đó là cảm nhận đầu tiên của Jenny về đất nước này. Cảm thấy thật mệt mỏi vì chuyến bay quá dài, cộng với sự chờ đợi không cần thiết nơi cửa phi trường, Jenny giơ tay vẫy chiếc taxi, cô quyết định về nghỉ tại khách sạn đêm nay, ngày mai sẽ bắt đầu một ngày mới cho bài phóng sự của cô về những người trẻ Vietnam.

Bây giờ Jenny đang ngồi trong phòng ăn của khách sạn để dùng bữa điểm tâm với một người thông dịch.

Trước khi lên đường sang Việt Nam, cô bạn Brittney đã khăng khăng bắt Jenny phải có một hướng dẫn viên, vừa phải là người bản xứ, vừa phải biết tiếng Anh, để giúp cô đi thăm viếng thành phố, và Brittney đã giúp bạn tìm được người đó. Bà Hằng, một phụ nữ trung niên tuổi trên 50, khuôn măt khả ái với nụ cười dịu dàng đằm thắm trên môi, và nhất là cách phát âm tiếng Anh của bà khá chính xác khiến Jenny thật hài lòng. Khi Jenny nói điều này, bà Hằng chỉ mỉm cười khiêm tốn khẽ đáp:

– Tôi là giáo sư Anh văn của một trường đại học thành phố.

Jenny ngạc nhiên:

– Giảng sư dạy đại học mà tại sao bà lại làm thêm công việc này?

Hơi bất ngờ vì câu hỏi của Jenny, bà Hằng ngập ngừng vài giây rồi nói:

– Thật ra đây là cơ hội cho những người dạy Anh văn như chúng tôi luyện giọng. Ngày xưa, khi tôi còn là học sinh, ngoài giờ học chính, chúng tôi thường ghi danh học thêm những course Anh Văn bên ngoài. Trước đây trung tâm Hội Việt Mỹ thường có những phòng thính thị cho chúng tôi luyện giọng, bây giờ thì khộng còn nữa.

Rồi bà bỗng đổi giọng vui vẻ nói:

– Dù sao đi nữa đây là một công việc vừa giúp tôi trau giồi nghiệp vụ, vừa được trả lương, còn gì bằng!

Vừa nghe xong câu đó, Jenny bật cười thoải mái.

Khi nắng chiều đã nhạt dần và cái nóng đã bớt gay gắt, Jenny và bà Hằng đang ngồi nơi quán ăn ở một góc đường. Cô đã đi lang thang qua nhiều dãy phố, đã thu vào ống kính của cô nhiều hình ảnh của đất nước này. Là một phóng viên, cô đã đi nhiều nơi trên thế giới, nhưng điều làm cô kinh ngạc hơn hết là sự tương phản rất rõ nét giữa cái giàu và cái nghèo tại đây.

Trên đường phố chật hẹp, cô luôn nhìn thấy vài chiếc xe hơi thật đắt giá sang trọng đang cố luồn lách, chèn lấn để vượt qua những dòng xe hai bánh, lẫn lộn cả những chiếc xe đạp trầy sơn cũ kỹ. Ở đây tất cả mọi người đều hối hả, hấp tấp, vội vàng khiến Jenny cảm thấy chóng mặt, và cổ họng cô thật khô rát, Jenny quay lại nhờ bà Hằng gọi cho mình một “ly chanh đường”. Cô phát âm bằng tiếng Việt 3 chữ đó khá rõ ràng khiến bà Hằng thoáng ngạc nhiên. Có gì đâu, Jenny mỉm cười kể:

– Nhiều lần Brittney vẫn nói nếu có dịp trở về Saigon, cô sẽ gọi một ly chanh đường vì cô vẫn thường nghe các ông nhạc sĩ rên rỉ “…uống ly chanh đường, uống môi em ngọt…” nên cô muốn thử xem sao!

Bà Hằng bật cười thành tiếng, nhưng hình như trong đáy mắt bà chợt thoáng hiện một chút tiếc nuối xót xa.

Jenny nhìn quanh quan sát, cũng vẫn chỉ là khung cảnh cũ với những cụ già hay những em bé mệt mỏi với xấp vé số trên tay đang cố mời chào mọi người mua giúp. Những người hành khất già nua, bệnh hoạn ngồi la liệt chờ sự bố thí của người qua lại, chợt Jenny bắt gặp hình ảnh khiến cô khựng lại. Nơi cuối dãy bàn sát tường, một cậu bé đang ngồi bó gối im lìm, cạnh cậu bé là một chú chó nhỏ.

Hình ảnh này khiến Jenny chợt nhớ đến phim Charlie Chaplin cô vẫn coi ngày còn bé. Cái anh chàng Charlie này thường đóng cảnh nghèo khổ với một khuôn mặt rầu rĩ, thiểu não, bên cạnh cũng có một chú chó con. Đua máy ảnh lên chụp cậu bé qua vài góc cạnh, Jenny quay sang bà Hằng ngỏ ý cô muốn gặp cậu bé. Khẽ gật đầu, bà Hằng lặng lẽ bước về hướng cậu nhỏ đang ngồi.

***

Bước tới và đứng sát cạnh bàn Jenny, nhưng cậu bé vẫn cúi gằm mặt và hai tay buông thõng, chỉ có chú chó con vẫn hồn nhiên vẫy đuôi chạy loanh quanh. Jenny lặng lẽ kín đáo quan sát, cô thấy tim mình nhói đau khi nhìn thân hình gầy gò của cậu bé trong chiếc áo thun rộng thùng thình và rách lỗ chỗ. Cậu bé chắc chỉ khoảng trên 10 tuổi, Jenny thầm nghĩ, cô khẽ rút trong túi áo một khoản tiền và nhẹ nhàng nhét vào tay cậu bé. Cô nhờ bà Hằng nói với cậu những câu vỗ về an ủi. Bây giờ cậu bé mới ngẩng mặt lên lý nhí cám ơn, Jenny thoáng giật mình, vì trên khuôn mặt lem luốt xanh xao, là đôi mắt sáng, trong veo, đen láy toát lên sự linh hoạt, thông minh. “Đôi mắt là cửa sổ của tâm hồn“, Brittney thường hay đùa nói với cô như thế.

Sẵn trên bàn còn vài chiếc bánh bao, Jenny với tay đưa cho cậu bé hai chiếc bánh, đưa hai tay đón nhận, cậu cúi đầu thật thấp thay cho lời cám ơn và quay bước trở về góc tối nơi cậu ngồi lúc nãy. Jenny đưa máy hình lên, cô đã sẵn sàng chụp những bức hình cậu bé và chú chó nhỏ cùng ngẫu nghiến ăn chiếc bánh, nhưng ô kìa, Jenny bỏ máy hình xuống sững người nhìn.

Cậu bé mở chiếc túi ny lông cậu vẫn đeo bên hông, bỏ một chiếc bánh vào. Tần ngần vài giây, cậu lại bẻ chiếc bánh còn lại làm đôi, bỏ trở lại bao và cột lại cẩn thận. Còn nửa chiếc bánh trên tay, cậu bé vừa ăn vừa đút cho chú chó nhỏ nãy giờ vẫn ngoan ngoãn đứng chờ.

Bây giờ Jenny cảm thấy thật tức giận, tại sao cậu bé có thể “ăn chận” phần bánh của chú chó bé nhỏ như vậy. Cô nhớ tới bên Mỹ, nhà cô có hai chú chó, hằng tuần mẹ cô vẫn phải khệ nệ bưng về những bao thức ăn được biến chế đặc biệt cho từng loại chó khác nhau với những “khẩu vị” khác nhau, khi thì cá, lúc thì bò hay gà. Rồi cứ hai tuần một lần, mẹ cô phải chở hai chú chó nhỏ này đến những trung tâm để họ chăm sóc, o bế bộ lông và cắt tỉa bộ móng của chúng, “Pets are people too! Thú vật cũng là con người!” Jenny luôn đươc nhắc nhở và bảo ban như vậy.

Nhìn chú chó vẫn đang liếm láp thèm thuồng, không dằn lòng nổi, Jenny cầm nguyên chiếc bánh bước về phía cậu bé, trước đôi mắt ngỡ ngàng của bà Hằng và cái nhìn sững sờ của cậu, cô đút cho chú chó trọn vẹn chiếc bánh, nhưng Jenny cũng kịp nhìn thấy đôi môi mím chặt của cậu bé, trước khi cậu quay mặt nhìn về hướng khác.

Trời đã bắt đầu tối đen, Jenny vẫn ngồi nói chuyện với bà Hằng, nhưng cô mơ hồ cảm thấy bà trở nên tư lự và khép kín hơn, giọng nói của bà không còn cởi mở, vồn vã như lúc ban đầu. Bây giờ cậu bé đang đứng trước mặt Jenny, cậu nhờ bà Hằng cám ơn cô về những cái bánh, và nhất là cô đã cho chú chó nhỏ của cậu một bữa tối no nê, đêm nay chắc chắn nó sẽ ngủ yên không làm phiền cậu.

Khẽ mỉm cười, Jenny giảng nghĩa cho cậu bé hiểu chó là người bạn vừa thân thiết, vừa trung thành với con người, cho nên cậu phải thương yêu và đối xử vừa đặc biệt, vừa công bằng với chúng. Bà Hằng thông dịch những câu nói đó cho cậu bé, nhưng đôi mắt bà xót xa như muốn nói thật nhiều những ý nghĩ trong đầu bà, nhưng bà đành khẽ thở dài cúi mặt.

Cúi đầu chào Jenny, cậu bé và chú chó quay bước, hối hả băng qua đường. Chăm chú nhìn theo bóng dáng vội vã của cậu bé, bỗng Jenny nẩy ra một ý định táo bạo, cô quay sang vắn tắt nói với bà Hằng cô sẽ đi theo và tìm xem chỗ ở của cậu bé và chú chó nhỏ. Không kịp chờ ý kiến của bà, Jenny đã đứng bật dậy và phóng theo cậu bé.

Khẽ thở dài, bà Hằng đành lật đật tất tả bước theo bóng Jenny. Không mấy khó khăn, Jenny đã bắt kịp cậu bé, nhưng không muốn cậu biết có người theo dõi, cô cố giữ một khoảng cách khá xa.

Sau khi băng qua hai góc phố, vài con đường, cuối cùng cậu bé và chú chó nhỏ dừng lại dưới mái hiên của một tiệm sách đã đóng cửa. Jenny và bà Hằng vội nép mình sau một gốc cây cách đó không xa, cô cố nhướng mắt nhìn về phía trước. Hình như cậu bé đang tìm ai, cậu nhớn nhác ngó quanh, chú chó cũng sủa lên vài tiếng.

Bỗng từ trong góc tối một bóng người xuất hiện, đúng ra là một người đàn ông, nhưng ông “lê bước” ra bằng hai bàn tay, bởi đôi chân ông đã cụt qua quá khỏi đầu gối. Bên cạnh ông là một bé trai nhỏ khoảng 3, 4 tuổi. Cậu bé vội bước tới khẽ dìu ông và dắt tay người em trai nhỏ. Họ cùng ngồi xuống bên vệ đường, cậu mở vội chiếc túi và lôi ra chiếc bánh cậu để dành ban nãy đưa cho người đàn ông, xong cậu quay sang ôm người em nhỏ vào lòng, cậu từ tốn đút từng mếng bánh nhỏ cho em. Điều kỳ lạ là chú chó nhỏ vẫn đứng yên lặng vẫy đuôi, dường như đây là hình ảnh rất quen thuộc mà nó thấy mỗi ngày.

Jenny gần muốn như ngã khụyu khi nhìn hình ảnh đó, cô phải ngồi bệt ngay xuống bên vệ đường. Cô chợt nhớ lại lời khuyên của cô với cậu bé khi nãy là hãy thương yêu loài vật, rồi cô lại liên tưởng những tháng ngày cô còn bé. Chỉ một bữa ăn sáng không đúng ý, chỉ vì không có đôi giầy đồng mầu với chiếc váy, cô đã giận mẹ cô cả tuần, không nói năng, thậm chí có lúc cô còn muốn “run away from home”, bỏ nhà đi bụi đời! Những lời cô vừa cao giọng giảng giải cho cậu bé thật lố bịch biết bao. So sánh với cậu bé, Jenny cảm thấy mình chỉ như là một giọt nước trước một đại dương bao la.

Thò tay vào túi vét hết tất cả những đồng tiền cuối cùng, Jenny quay sang bà Hằng. Bà vẫn ngồi bó gối im lìm, đầu cúi thấp, bóng tối che khuất nên Jenny không thể nhìn thấy khuôn mặt bà cũng đang nhạt nhòa nước mắt.

Vừa dúi vào tay bà những tờ tiền, có tờ còn hơi ướt vì thấm nước mắt của cô, Jenny thổn thức nói:

– Hãy nói với cậu bé ấy là tôi xin lỗi, hãy tha thứ cho tôi.

Trước khi bà Hằng kịp trả lời, cô đã vụt đứng lên và chạy ngược về phía khách san.

Suốt ngày hôm sau, Jenny và bà Hằng đã ngồi chờ cậu bé tại quán ăn, cô cũng quay lại góc phố đêm qua, đi loanh quanh mong sao gặp lại được cậu bé và chú chó, nhưng cậu bé vẫn biệt tăm.

Sáng nay khi chia tay với bà Hằng, cô đã để lại số phone riêng của cô, hy vọng bà sẽ tìm ra cậu nhỏ và chú chó.

Khi nghe Jenny hứa sẽ quay lại đây và sẽ ở lại lâu hơn, bà Hằng nhẹ nhàng nói:

– Đến với VN, đôi khi một ngày cũng quá đủ, nhưng lắm lúc một trăm ngày vẫn cảm thấy thiếu!

Nói xong bà khẽ xiết chặt tay cô và chúc lời thượng lộ bình an.

Đưa tay cột lại giây an toàn, Jenny khẽ tựa đầu vào ghế. Cô chợt nhớ đến hình ảnh cậu bé người Nhật của Miyako, và cậu bé Vietnam của Saigon. Cả hai đều có một tấm lòng vị tha bao la, nghĩ đến người khác hơn nghĩ đến mình, cả hai đúng là có trái tim thật nhân ái tuyệt vời. Nhưng rồi cô bỗng so sánh, cùng bằng nhau số tuổi, nhưng 2 hình ảnh, 2 cuộc đời sao quá khác biệt.

Cậu bé người Nhật rất có thể ngay ngày hôm đó, cậu sẽ được đưa tới một nơi tạm trú, cậu có thể vẫn có những bữa ăn nóng sốt, chăn ấm nệm êm, từ những trung tâm cứu trợ, hay từ chính những người hàng xóm tốt bụng đầy lòng nhân ái.

Có thể cậu phải hứng chịu những sự đau thương, mất mát những người thân yêu của cậu, nhưng chắc chắn Cậu bé vẫn được sống lại trong vòng tay che chở, ấp ủ thương yêu của những người thân còn lại trong gia đình. Cậu rồi sẽ vẫn chân sáo đến trường, những khổ đau rồi cũng sẽ chìm dần vào quá khứ. Cậu bé vẫn có một tương lai tươi sáng trước mặt.

Còn cậu bé VN đáng thương kia, đừng nói đến tương lai với cậu, với cậu chỉ có ngày mai là làm sao kiếm đủ thức ăn cho người cha già tàn tật và cho cậu em nhỏ dại.. Cậu bé là cần câu cơm cho cái gia đình khốn khổ dù cậu chỉ mới hơn 10 tuổi, cái tuổi mà đáng lẽ cậu chỉ biết học hành vui chơi. Đôi mắt trong sáng đầy ắp tình thương kia liệu có biến đổi trước những tàn bạo khắc nghiệt của đường phố, hay những bầm dập của cuộc đời.

Jenny cảm thấy như có bàn tay ai đang bóp nát trái tim cô. Nước mắt đoanh tròng, Jenny khẽ kéo tấm che cửa sổ máy bay lên, bên ngoài mặt trời vừa ló dạng, ánh lên những tia sáng ban mai trên những đám mây vàng rực rỡ, chợt Jenny nhớ đến một bài nhạc mà cô đã hát bao lần trong đại học:

We are the World,
We are the children,
We are the ones who’ll make a righter day,
So let’s start giving
. . .
It’s true we’ll make a better day
Just YOU and ME

Phải, chính bạn và tôi, chúng ta sẽ tạo nên những ngày tươi đẹp hơn. Jenny cảm thấy như chợt có một làn hơi ấm áp đang len nhẹ vào hồn cô. Cô chưa biết mình sẽ phải viết thế nào về cậu bé Việt Nam nhưng biết rõ đây là nơi cô sẽ còn trở lại. Chắc phải rủ cô bạn thân Brittney cùng trở lại và ở lại lâu hơn.

Jenny nhè nhẹ khép đôi mắt và chìm dần vào giấc ngủ thật êm đềm có lẽ vì “con tim đã vui trở lại!

Thật ra khi Jenny ca ngợi cậu bé người Nhật và cậu bé VN, cô gọi đó là những người có trái tim nhân ái tuyệt vời, nhưng cô đâu biết, chính cô cũng là người có trái tim thật từ bi. Cô cũng không biết người Việt chúng ta thường gọi những tấm lòng nhân ái, từ bi là ‘Trái Tim Bồ Tát.”

PHA LÊ.

From: ctkd-k & NguyeNThu

Người Đứng Bên Cầu – Truyện ngắn

Việtbáo

Đào Ngọc Phong

Tôi vừa nhận được một bì thư của con gái tôi, Amelia, gởi từ thành phố New York, đựng một xấp hình mới chụp trong khuôn viên đại học, và một lá thư viết tay bằng chữ Việt, nét chữ nắn-nót, tròn- trịa. Con gái báo cho mẹ biết đã được cấp một học bổng cho bậc cao học, để mẹ khỏi lo tiền bạc cho con nữa. Sở dĩ con viết tay là để mẹ vui vì con không quên tiếng mẹ đẻ; hai nữa, để nói mẹ biết về một ý định của con trong tương lai. Sau nhiều đêm suy nghĩ, con chưa muốn đi làm ngay, mà muốn học cao hơn nữa, vì muốn làm tròn ước nguyện mà mẹ không thực hiện được trong đời mẹ; nhưng điều quan trọng nhất, có lẽ con sẽ không lập gia đình, vì chỉ sợ lại rơi vào bi kịch mà mẹ chịu đựng suốt đời, mặc dù có vài bạn trai đứng- đắn tỏ ra yêu thích con.

Một giọt nước mắt rỏ xuống làm nhòe một chữ trên trang thư. Tôi có lầm lỗi không, khi nói hết sự thực cho Amelia? Không, trước khi nói điều đó, tôi đã suy nghĩ 8 năm trời đằng –đẵng. Bây giờ tôi đang ngồi trên một ghế xếp bên cầu đọc thư con gái; nhưng suốt tám năm, tôi chỉ đứng bên cầu nhìn giòng nước chảy, một tiếng đồng hồ mỗi sáng chủ nhật.Amelia sinh năm 2000 tại Orange County tiểu bang California.

Năm 2018, tốt nghiệp trung học, rời gia đình vào đại học, coi như đã trưởng thành; tâm trí đủ vững vàng đối diện với thực tế đời sống; bốn năm học xong BA, tự mình xoay-xở mọi việc; không, tôi không nên tự trách; việc tôi kể chuyện đời của mẹ vào lúc con trưởng thành vào đời là điều cần thiết.Sáng chủ nhật trước khi Amelia lên máy bay vào thứ hai, bốn năm trước, tôi và con gái ngồi bên cầu nói chuyện. Đây là một cây cầu ngắn, bắc qua một giòng suối nhỏ, nước chảy quanh năm trong một công viên quốc gia rừng nguyên sinh. Chỗ này vắng vẻ, ít du khách qua lại.

****

Tôi sanh năm 1975 tại Sài Gòn. Năm sáu tuổi, tôi đã biết giúp mẹ nhiều việc để kiếm tiền nuôi bà nội và hai mẹ con. Mẹ tôi dậy từ bốn giờ sáng để tráng bánh cuốn, bày bán trước cửa nhà trong một xóm lao động ngoại ô Sài Gòn. Mẹ làm bánh cuốn ngon, bà con trong xóm đều thích; thường chỉ đến 10 giờ sáng là bán hết. Vừa đi học vừa tập làm bánh cuốn, tôi dần lớn lên, thạo nghề, đỡ mẹ vất vả. Mẹ thường nói, bố mất sớm trong trại cải tạo, mẹ con mình phải cố gắng mưu sinh nuôi bà ; nhưng con phải hứa học cho giỏi, bán bánh cuốn chỉ là tạm thời.

Từ 10 tuổi trở lên, tôi đã thay mẹ dậy từ sáng sớm, tráng một mẻ bánh cho mẹ bán buổi sáng; nếu trưa còn khách, mẹ tráng thêm một ít để buổi chiều đi học về tôi mang hàng đi giao cho khách ở xa.   Nhờ đi giao hàng đây đó, tôi thấy việc học Anh ngữ thật cần thiết để giao dịch. Vì vậy tôi chuyên tâm học tiếng Anh. Tôi len lỏi vào những cửa hàng nước ngoài, những khách sạn đê chào hàng; khách hàng của tôi đông lên dần. Mẹ phải xin phép phường khóm cho đặt bàn trong nhà. Hai năm cuối trung học, tôi phải tập trung vào việc học để thi vào đại học, nên mẹ phải mướn thêm người giúp việc. Nhưng 4 giờ sáng tôi vẫn phải dậy sớm tráng bánh.

Tôi định hướng tương lai của tôi là trở thành giáo viên Anh ngữ, nên tôi nộp đơn thi vào Đại Học Sư Phạm.  Làm bài thi đầy tự tin, tôi hy vọng chờ đợi kết quả trúng tuyển, nhưng ngày tuyên bố kết quả lại không có tên. Mẹ tôi buồn lắm, năm sau bà nhất định không cho tôi dính vào buôn bán nữa, chỉ có học và học. Lại một lần tự tin, lại một lần thất bại. Nhưng khi xem những ai trúng tuyển, tôi ngạc nhiên thấy có những bạn học rất thường mà đậu.

Tôi đành phải đi dạy học tư, mở lớp dạy ở nhà, kiếm được khá để giúp mẹ; nhưng bà vẫn ấm ức trong lòng. Bất ngờ một lần tôi gặp một cô bạn thân hồi lớp 11 cùng tuổi tên là N. xinh- xắn dễ mến. N, là con gái của một cán bộ cao cấp; sau 75, ông được cấp một căn biệt thự trên đường Tú Xương mà chủ nhân đã bỏ ra nước ngoài. Gia đình N. thuộc loại giai cấp thượng lưu mới.

N, gặp tôi mừng lắm, hỏi sắp ra trường đi dạy chưa; tôi buồn buồn nói hai năm làm bài tự tin nhưng đều trượt; N.có vẻ ngạc nhiên, nói để sẽ nhờ cha cô hỏi Sở Giáo Dục xem sao; về phần cô thứ năm sau sẽ sang Mỹ học.

Một tuần sau cô mời tôi đi ăn kem nói chuyện. N. có vẻ buồn nói : “Ba mình đã hỏi cho cậu rồi; ông nói điểm cậu rất cao, nhưng vì….lý lịch cậu có cha là sĩ quan chế độ cũ nên bị gạc đi”.

Vừa nghe xong, tôi bỗng cảm thấy người tôi lạnh ngắt; nhưng tôi cố kìm không bật lên tiếng khóc. N. ôm lấy vai tôi: “Mình cũng vậy, khi vừa nghe xong điều đó mình không giữ được bình tĩnh; mình gay gắt nói bố của cô ấy đã chết trong tù của quí vị, đã trả nợ quí vị rồi, sao còn bắt tội con của ông ấy? Cô ấy cũng như con đây sinh năm 1975 có biết gì về các việc của quí vị trước 75 đâu? Ba mình chỉ yên lặng. Mình chán cái não trạng bộ lạc, bỏ đi sang Mỹ sống cho thoải mái”.

Khi N. sắp xuất ngoại, gởi thiếp nhiệt tình năn- nỉ tôi đến dự party tiễn đưa, tổ chức tại biệt thự nhà cô. Tối rất quí N. nên miễn cưỡng nhận lời.

Tất nhiên khách của N, toàn là “cậu ấm cô chiêu” thuộc giai cấp mới. Đó là vào   1998, tôi đã 23 tuổi. N. kéo tôi giới thiệu với một thanh niên : “Đây là anh K, anh họ mình, làm nghề bán xe hơi ở Mỹ, mới về thăm nhà. Còn đây là H. bạn thân của em, giỏi tiếng Anh lắm; hy vọng hai người “đấu” với nhau nhiệt tình nhá”

Có lẽ K. ở Mỹ lâu, nói tiếng Việt không sõi lắm, nên gặp tôi “đấu” tiếng Anh thì anh tỏ ra thích thú vô cùng. Anh khen tôi giỏi, và anh bám lấy tôi suốt buổi. N. rất hài lòng, cám ơn tôi đã tiếp khách giùm cô.

Cửa hàng bánh cuốn của mẹ phát đạt, nên tiền bạc gia đình tương đối rủng- rỉnh.

Một đêm, mẹ tôi kéo tôi vào phòng ngủ thì thầm “Mẹ đã để giành ít tiền, muốn lo cho con du học Mỹ như người ta. Thời buổi này cứ tiền thôi con ạ, cửa nào cũng lọt”. Tôi mừng rỡ ôm mẹ, cám ơn mẹ, nhưng con đi xa chỉ sợ mẹ già và bà nội cô đơn trống trải. Mẹ nói bố con ngày xưa là  giáo sư toán kiếm tiền như nước, con nhất định phải lấy bằng đại học thì bố mới vui mà không trách mẹ không lo được cho con ăn học đến nơi đến chốn.

Tôi tăng giờ dạy học để có thêm tiền lo việc. Tôi vô phỏng vấn, trót lọt mọi đường. Đầu năm 1999, tôi đặt chân lên xứ Mỹ, cám ơn mẹ kính yêu của con; tự hứa nhất định phải hoàn thành ước mơ đại học, một ước mơ bị tàn lụi nơi quê nhà.

Một mình đến xứ lạ, tôi mới cảm nghiệm sâu xa ý nghĩa của câu “Bơ vơ thân gái dặm trường”. Tuy nhiên, tôi bương chải từ năm sáu tuổi, nên mọi sự khốn khó tôi dều vượt qua. May mắn, tôi được bạn của mẹ đón về cho “share” một phòng trong một căn nhà nhỏ ở vùng Little Sai gòn. Con gái của bà giúp tôi học lái xe và dẫn đi mua một xe cũ.

Duyên nợ kiếp nào đưa đẩy, khiến cô dẫn tôi đến một trung tâm bán nhiều xe cũ gọi là “used car”. Vừa gặp người “dealer”, tôi nhận ra ngay K., anh họ của bạn tôi N. K mừng rỡ, nói không ngờ gặp tôi ở đây.

Anh chọn cho tôi một xe khá tốt vừa túi tiền. Từ ngày đó, chúng tôi thường đi ăn với nhau.  Việc học của tôi trôi chảy, và tôi thich nghi mau với đời sống Mỹ. K hơn tôi năm tuổi, tức là năm ấy anh 29 tuổi vẫn thích sống độc thân trong một căn “mobile home” quanh khu Phước Lộc Thọ, phố Bolsa. Tôi gọi cho N. lúc ấy đang sống ở San Francisco.

N. chúc mừng tôi và hẹn sẽ xuôi Nam hội ngộ. Cuộc hội ngộ này là cuộc hội ngộ định mệnh cho đời tôi. Sau một tuần đi chơi chung, N. bỗng đề nghị K. và tôi nên kết duyên đi.

Cả K và tôi đều sửng- sốt, vì cả hai đều chưa hề nghĩ tới cái việc “kinh khủng” này. Bởi vì, sau một thời gian giao thiệp với K, tôi thấy anh chàng này sống phóng túng, khó mà khép anh ta vào một khuôn khổ; còn tôi thì dĩ nhiên, sự nghiệp chẳng có gì, cần phải học ít nhất ba năm nữa cho xong cử nhân mới tìm việc làm đàng hoàng. Đời nào mẹ tôi chấp nhận.

N, gặp riêng tôi, nói tôi nên thực tế theo lối Mỹ, đừng có nghĩ theo kiểu Việt Nam, muốn bằng cấp này nọ, vô tích sự; ôm cái bằng cử nhân ra đời xứ Mỹ chưa chắc tìm được việc làm bằng một người “technician”. Cứ đi làm có tiền sống đã rồi dần học lên. Vả lại, nếu tôi lấy K. thì tôi sẽ có quốc tịch sớm, giúp cho tiền học phí của tôi nhẹ nhàng và được nhiều phúc lợi khác của xã hội Mỹ.

Tôi viết thư về cho mẹ, trình bày theo ý của N. Mẹ tôi quả là có óc thực tế, chấp nhân liền. Bà thấy rõ phí tổn tiền bạc rất lớn cho một du học sinh. Không biết N. thuyết phục thế nào mà K đồng ý. N. đúng là bà mai cho cuộc hôn nhân này.

Chúng tôi thành hôn và năm sau sinh bé Amelia. N. nói tôi cố gắng khép K vào nề nếp. Năm năm đầu chúng tôi có hạnh phúc trong hôn nhân.

Nhưng hầu như ngựa quen đường cũ; K chỉ chi tiền nhà hàng tháng còn bao nhiêu tiền bạc kiếm được cứ vung theo bạn bè; buổi chiều ít khi về nhà, cuối tuần miệt- mài trong vũ trường. Tôi muốn học cho xong BA để xin chân giáo viên mau có nghề tương đối ổn định, nên cố nhẫn nhục chịu đựng. Tôi gởi bé Amelia vào trường mẫu giáo để có thì giờ đi học.

Tôi không dám hé răng than thở với mẹ. May là năm sau, tốt nghiệp rồi, tôi xin được chân phụ giáo, sống đỡ, dù đồng lương khiêm tốn.

Tiền bạc eo hẹp không đủ nuôi con, tôi bật ra ý nghĩ thử quay lại nghề bánh cuốn xem sao. Thế là tôi âm thầm sắm đủ đồ nghề; ở trường về, tôi cặm cụi tráng bánh, rồi đem đi mời chào cô bác trong khu mobile home phần lớn là đồng hương Việt. Y như ngày xưa mẹ tôi vào nghề, bánh cuốn của tôi vừa rẻ vừa ngon, khiến dần dần cả khu mobile home đặt tôi làm. Tôi có đồng ra đồng vô; bèn nghĩ cách quảng cáo trên báo, kết hợp với xã giao, tôi được nhiều khách đặt hàng. Hóa ra nghề bánh cuốn của mẹ cứu tôi, chứ không phải cái bằng BA.

The Carpenters Apartment Complex | California Curiosities

Thế là suốt năm năm cho tới khi Amelia mười tuồi, năm 2010, tôi có chồng mà như chẳng có chồng. Nhưng như có phép lạ, khi bé vào trung học, thì K bỗng mỗi buổi chiều trở về tỏ ra săn sóc mẹ con; nhưng tuyệt đối, tôi tránh việc chăn gối. Bản thân tôi thấy mình lạnh rồi; việc làm bánh cuốn để sinh nhai đã làm tôi mệt nhoài rã rời thân thể; mà tâm hồn tôi cũng không còn coi K như chồng nữa. Tuy nhiên sự hiện diện của anh mỗi tối cũng làm cho Amelia vui vẻ.

Tôi đi giao bánh hàng ngày ở nhiều địa chỉ, khiến tôi quen nhiều khách hàng mến tôi. Nhờ vậy tôi mới khám phá một việc “động trời “về K. Khách hàng chỉ cho tôi một căn nhà mà K hay lui tới vào ban chiều. Hóa ra K thuê căn nhà đó cho một cô bồ mà hình như đã có một đứa con trai. Tôi suy nghĩ đối chiếu hành xử của K, đi đến kết luận K. về nhà thăm bé Amelia chỉ là đóng kịch.

Vì tương lai của bé, tôi cũng sẽ đóng kịch. Những bữa cơm chiều diễn ra có vẻ chan hòa đầm ấm. K hầu như không hề biết tôi đã khám phá ra chân tướng của anh. Nhưng cũng từ ngày đó, lòng tôi tan nát. Làm sao để tôi không suy sụp trước khi bé trưởng thành?. Tôi chỉ sợ tôi không giữ nổi vai kịch từ năm này sang năm khác.

Mom and Her Little Daughter on a Bench in the Park. Stock Image - Image ...

K. không bao giở ở nhà ngày chủ nhật, viện cớ chủ nhật đông khách.Tôi dẫn bé Amelia vào một công viên và khám phá ra môt giòng suối có cây cầu xinh xinh. Trong khi bé vui chơi trên cỏ, tôi đứng tựa bên cầu nhìn giòng nước chảy.

Có lúc nước trong veo, có lúc hơi đục vì kéo theo vài cành lá mục; có lúc chảy xiết, có lúc lờ đờ; có lúc nước đầy gần chạm cầu, có lúc gần như cạn sát đáy, trơ cát. Mắt tôi cứ dán vào giòng nước, mà tâm tư tôi trôi theo đời tôi từ hồi sáu tuổi dọn bàn, sắp ghế bán bánh cho mẹ, san chai nước mắm, pha ớt thêm đường.đi giao hàng khắp phố phường, đi thi vào đại học, đi dạy tư kiếm thêm tiền…rồi qua Mỹ, lấy chồng……Tôi nhìn giòng tâm tư trôi đi, y như nhìn giòng nước dưới cầu; nước cứ chảy, cầu cứ thản nhiên nhìn xuống. Tôi bỗng thấy tâm tôi như cây cầu thản nhiên nhìn giòng đời.  Lòng tôi êm ả, bao nhêu buồn bã, phiền muộn tan đi. Tôi khám phá ra phương pháp đứng vững nhìn giòng dời. Tôi không còn buồn về chồng, không còn lo về con,

Tôi cảm thấy tự tin điều khiển giòng đời theo ý mình, không để cho ngoại cảnh chi phối.

Tôi thấy rõ tôi phải làm gì để tự cứu; không ai cứu tôi được.  Tiền kiếm được, tôi chắt-chiu dành-dụm; trong bảy năm tôi có tạm đủ số tiền để “down” một căn nhà kiểu townhouse hai phòng ngủ cho hai mẹ con; tôi không muốn phụ thuộc vào căn mobile của K nữa.

Tôi bí mật ra luật sư làm sẵn giấy tờ ly dị.

Khi con sắp hết lớp 12, tôi âm thầm “book” vé cho con rời gia đình sang tiểu bang khác vào đại học, dặn dò con kín tiếng không cho ai hay. Cha con cũng chẳng quan tâm con đã học đến đâu. Ngày mai thứ hai, khi con lên máy bay rồi, mẹ sẽ báo cho cha con biết, và mẹ sẽ dọn nhà ngay, trả lại ông ấy căn mobile home.

Bốn năm trước vào sáng chủ nhật bên cây cầu này, hai mẹ con tôi nói chuyện như thế. Tôi nhớ khi nói hết câu chuyện, Amelia òa khóc, ôm chặt lấy tôi, nói con không muốn đi đâu hết, không để mẹ một mình. Tôi an ủi, khich lệ con, nói tương lai của con là lẽ sống của đời mẹ, con phải can đảm ra đi.

****

Tôi nhớ thứ hai buổi chiều, chồng tôi về, không thấy Amelia, tỏ vẻ ngạc nhiên. Tôi lạnh lùng mời anh ra phòng khách; tôi nói màn kịch đã chấm dứt; tôi biết từ lâu anh đã có phụ nữ khác hợp với anh, nhưng cám ơn anh đã đóng kịch khéo để cho Amelia an lòng học hết trung học, không bỏ lớp giở -dang; trong tám năm tôi đã cần lao tự lực mua được căn nhà riêng cho hai mẹ con rồi, ngày mai tôi sẽ dọn ra, trả lại căn mobile này mà không đòi hỏi gì; tôi sẽ thuê người lại làm sạch sẽ hoàn toàn; cám ơn anh đã cho mẹ con tôi tá túc bao năm. Hiện giờ Amelia đã vào cư xá sinh viên bên New York rồi. Đây là đơn ly dị, xin anh ký vào.

K. không nói một lời nào, anh lặng- lẽ ký giấy, rồi bỏ vào phòng. Nghĩ cho cùng, tôi không giận anh, vì hai chúng tôi chưa đủ tình yêu với nhau trước hôn nhân. Thì tôi đã nói, duyên nợ kiếp nào đã buộc chúng tôi vào nhau một thời gian.

Pin by JAN ITA on photography | college grad | College photography ...

Bây giờ ngồi bên cầu, tôi giở xem xấp hình Amelia trong khuôn viên đại học. Nhin giòng nước êm đềm trôi, tôi cám ơn cây cầu và giòng suối đã giúp tôi đứng vững giữa giòng đời . Hồ sơ bảo lãnh mẹ tôi đã xong, tôi chờ ngày đoàn tụ với mẹ, vì bà nội tôi đã mất mấy năm nay rồi.

Amelia text cho tôi, nói con còn một tháng nghỉ ngơi trước khi vào khóa học, sẽ bay về ở với mẹ, sẽ cùng mẹ ra ngồi bên cầu bốn chủ nhật, vì mẹ đã đứng mấy trăm lần bên cầu rồi.

From: giang pham&KimBang Nguyen


 

Saigon, một thời VéloSolex

VéloSolex trên đường phố Saigon xưa (file photo)

Thư về cho bà con, bạn học cũ ở miền Nam Việt Nam, khi viết bì thư, lần nào Hà cũng thấy lòng xao lên một nỗi bất an: Hà muốn viết thật to cái tên thành phố Saigon, nhưng sợ thư mình sẽ đi mà không đến. Do đó càng ngày thư càng ít về với thành phố cũ, nhất là khi đã có điện thư.

Saigon, nơi đã dung dưỡng Hà suốt một thời hoa niên. Hồi di cư vào Nam chị chỉ là một cô bé học lớp Đệ Lục trường Trưng Vương. Cô bé này vào loại nhỏ nhất trong lớp vì sau chiến tranh, gia đình cô hồi cư về Hà Nội rất sớm và cô trở lại trường ngay, nên bạn cùng lớp có người lớn hơn cô đến năm, ba tuổi. Niên học nào cô cũng phải ngồi bàn trên. Mấy năm đầu, học trò Trưng Vương còn phải học nhờ trường Gia Long, mỗi sáng các cô đứng chờ ở cổng trường nhìn các chị học trò Gia Long phóng xe Mobylette, ống quần rộng bay phần phật, mấy cô nhỏ Bắc Kỳ nhìn nhau cười ngặt nghẽo.

Nhưng chỉ ít lâu tình nghĩa Bắc Nam lại khăng khít. Lý do là Trưng Vương học từ sáng tới buổi trưa. Trước khi về, các cô để lại tình thư trong hộc bàn cho bạn Gia Long học lớp chiều và sáng sau vào lớp lại tìm trong hộc bàn hi vọng có thư hồi âm của người bạn mới. Có khi tình thư lại kèm theo vài cái kẹo hay quả ô mai mà cô bạn Nam Kỳ gọi là xí muội. Tình bạn như thế cũng kéo dài cho đến hết niên học, mà có khi chẳng thấy mặt nhau lần nào.

Sau một niên học ngày ngày phải cuốc bộ từ nhà tới trường, một buổi tối mẹ bảo hai anh cô dẫn em đi mua chiếc xe đạp mới. Nhớ lại hôm đó lòng cô vui như mở hội nhưng sao hai anh lại có vẻ nôn nóng hơn cô? Ngoài hai anh em, lại còn có cả mấy anh bạn xung phong đi theo tháp tùng. Các anh đưa cô đến một cửa hàng bán xe đạp gần đầu đường Gia Long.

Tới nơi, cô thấy cửa hàng sầm uất, đèn néon sáng trưng. Một thiếu nữ xinh đẹp đứng ở cửa hàng tiếp khách, với mái tóc đen mượt óng ả chảy dài xuống tận thắt lưng. Cô nhỏ tò mò nhìn mái tóc cánh phượng nghiêng nghiêng một bên mái đầu mà cô đoán có lẽ nó phải được giữ bằng hàng chục cái kẹp tóc.

Cô gái yểu điệu, tươi cười với các anh và âu yếm hỏi cô: Em muốn chiếc xe nào? Cô không nhớ các anh cô có dám đề cập gì đến giá cả nhưng cuối cùng cô cũng đem về một chiếc xe đạp mới, khung màu xanh lá mạ, ghi-đông và chuông mạ kền sáng bóng. Mãi sau cô mới biết tên thiếu nữ con chủ tiệm là Phước Liên, rất nổi tiếng và học trên cô mấy lớp. Hèn chi sứ mạng dẫn em đi mua xe đạp được các anh cô và cả mấy người bạn hăng hái tham gia.

Cô là em út trong gia đình. Được các anh chị thương nhưng ai cũng có cái quyền dạy dỗ đe nẹt cô, nhiều khi cô cũng thấy khổ sở. Bù lại, hai anh cô lại có nhiều bạn, mẹ cô cũng hiếu khách coi bạn con như con cháu nên họ rất thoải mái, chiều chuộng cô như em. Các anh đều sắp lên đại học nên coi con bé gầy gò, mặt mũi tinh nghịch như em út của mình.

Gặp bữa, người nhà vừa đặt lên bàn ăn đĩa đậu rán chiên giòn thơm phức, các anh tiện tay nhón ăn ngon lành khiến chị giúp việc trợn mắt ngạc nhiên. Các anh cũng giúp cô trong việc học như anh Tín hàng xóm giải dùm những bài toán khó, anh Bích giảng cho cô những ý hay nét đẹp của những bài thơ cổ, các anh Hiệp, anh Bảo đạp xe đưa cô đi xem lớp xem trường trước ngày thi Trung Học Phổ Thông.

Có những buổi chiều hè, gió mát thổi qua giàn hoa ti-gôn trước mái hiên căn nhà nhỏ, các anh thổi sáo, hòa đàn. Anh cô có ngón đàn Hạ Uy Di lâm ly thánh thót, anh thường hát bài Tà Áo Văn Quân thật lãng mạn mà cô còn nhớ đến bây giờ: “Tư Mã người ơi, dừng đàn bên Văn Quân, nâng phím hào hoa kề làn môi giai nhân”. Có khi anh hứng chí hát bài Cô Hàng Nước: “Mẹ tôi nói rằng: Quyết chí hỏi vợ cho con a, quyết chí tìm nàng dâu ngoan a…” thật tức cười.

Còn có anh Dư rất đẹp trai khi anh kéo vĩ cầm bản Em Tôi, Chiều Tà, mái tóc anh xõa xuống một bên trán trông thật nghệ sĩ. Nghe đâu sau này anh lấy vợ là con một nhà văn của nhóm Tự Lực Văn Đoàn. Cô Út bị sai bưng nước cam, xá xị, kem soda… túi bụi mà cũng không thấy phiền hà. Cô cũng nghe các anh thường suýt xoa nhắc đến những người đẹp của Saigon thời đó, nào là Bảo, Chất, Châu Phố, Châu Qui… Nhưng hình ảnh các anh cho là đẹp nhất là “Cô Thiều áo trắng đi VéloSolex”. Với cái nhìn của cô bé 13 tuổi, hình ảnh áo trắng và VéloSolex là biểu tượng cho nét đẹp trong sáng của thời đó.

Vài năm sau, các anh lớn lên, đi học xa hay ra trường đi làm nên nhà cô cũng bớt khách, và có lẽ cô cũng đã lớn hơn nên các bạn anh cô cũng sinh ra dè dặt. Chỉ còn ít người thỉnh thoảng tới nhà. Cô còn nhớ có một anh, hình như lúc đó mới vào đại học. Anh có cái Vespa Italy hay đến chở anh cô đi chơi. Mẹ cô hay nói “thằng ấy nó hiền”, nhưng cô không chắc anh ta có hiền thật không vì thỉnh thoảng cô bắt gặp anh chở mấy cô gái đàng sau xe Vespa, hôm thì tà áo xanh, hôm thì tà áo hồng tung bay trong gió. Cô cũng không kể lại với mẹ vì thấy chẳng liên hệ gì tới mình.

Ngày ngày cô và đám bạn nhỏ trong trường vẫn đạp xe nói cười nhăng nhít. Thấm thoắt đã đến kỳ thi Trung Học Phổ Thông. Không đủ tuổi, anh cô phải làm giùm đơn xin miễn tuổi. Môn toán đại số vốn là khắc tinh của cô thì may sao, anh Hai của cô được nghỉ phép về nhà cả tháng để sửa soạn sang Mỹ học. Anh la mắng dạy dỗ ra sao mà đến kỳ thi ấy cô đậu Bình thứ.

Để làm quà thưởng, mẹ cô mua cho một chiếc xe Solex kiểu mới. Mẹ nói, ra ý không phải nuông chiều cô út, nhưng vì “trường nó sắp dọn về gần Sở thú, đi xe đạp thì hết ngày giờ”. Chiếc xe trong mộng của cô không biết được mua lại của ai nhưng trông rất mới, nước sơn đen vẫn còn bóng loáng, máy nổ dễ dàng, xe chạy êm ru. Thế là bắt đầu từ nay cô đã ung dung lướt xe VéloSolex dưới những trận mưa lá me dọc con đường Nguyễn Bỉnh Khiêm.

Xe VéloSolex, cũng gọi là Solex, không giống như những chiếc xe gắn máy của Nhật tràn ngập Việt Nam sau này, cũng khác với những chiếc Mobylette nặng nề cục mịch, máy mạnh hơn, tiếng kêu rất to. Xe Solex của cô gần giống như khung xe đạp, có gắn một bộ máy hình trụ nhỏ đằng trước dưới ghi đông. Xe thường sơn mầu đen, trông  thanh nhã, tiếng máy kêu cũng nhẹ nhàng, êm dịu. Cô nghĩ xe Solex rất hợp với thiếu nữ Việt Nam, nhất là khi mặc áo dài. Các cô học trò thường thả tà áo trắng ra sau cho gió thổi bay bay như phượng múa trên đường phố.

Từ năm này cô đã thuộc vào lớp lớn, lên học đệ nhị cấp là trên cả bốn lớp đàn em. Đã có một số bạn lớp cô bỏ trường bỏ lớp theo chồng, mà nhìn lại cô vẫn là một con bé 15 tuổi không đáng để ý.

Ở nhà thì vẫn có “anh Vespa” vẫn đến chơi với anh cô. Hình như anh ta cũng chẳng để ý đến cô, và cô cũng bận với đám bạn học, cũng chẳng để ý đến anh.

Chỉ nhớ một lần, mới gội đầu, cô ra ngồi ở bàn học với hộp đựng gương lược và kẹp tóc. Anh đi qua, tò mò đứng nhìn cô nhỏ 15 tuổi nghiêng đầu chải tóc. Cái nhìn của anh có gì là lạ, làm cô mắc cỡ, vội ôm cả gương lược chạy vào phòng trong, vẫn thấy tiếng anh cười nói, không biết với ai “cái con nhỏ, có thế mà cũng…”

Thời đó nhiều cậu thanh niên Saigon có cái mốt mỗi ngày vào giờ tan học là đến “trồng cây si” ở các cổng trường con gái.  Còn các cô học trò thì sợ nhất là các anh lẽo đẽo theo sau rồi hỏi han này nọ, ai mà nhìn thấy về mách là chết đòn hay ít ra cũng bị mắng trơ mặt mũi. Nguyệt, cô bạn ăn diện rất thời trang kể lại với đám bạn là vừa bị mẹ mắng “Tại mày cứ ăn mặc vào chúng nó mới hay theo”. Bà muốn nói con gái cứ diện bộ trang điểm nên đám con trai mới để ý mà chòng ghẹo. Mấy cô ghé tai nhau thầm thì “không ăn mặc gì nó càng theo nữa” rồi cười khúc khích với nhau.

Hồi này cô cũng mắc cỡ vì có một cây si rất trung thành. Ra khỏi cổng trường, quay đi quay lại đã thấy anh ta đứng đâu đó lặng lẽ nhìn theo cô ríu rít với đám bạn. Có lần muốn đánh lạc hướng, cô chạy xe lên nhà bạn hay ghé các cửa tiệm, tưởng thoát nhưng lúc đi ra đã thấy anh ta với chiếc Mobylette màu xám đứng chờ đâu đó.

Cô sợ không bao giờ dám nhìn thẳng vào mặt anh ta nhưng hình như anh ta hay mặc quần áo màu xám, mái tóc hơi quăn cũng xám và có lẽ mặt mũi anh cũng xám như chiếc Mobylette của anh. Cô tức tối nghĩ thầm người đâu mà lì quá. Nhưng anh ta không bao giờ đến gần hay nói năng gì nên cô không biết làm sao, chỉ coi anh ta như “một nỗi ám ảnh không rời”.

Nhiều năm sau, khi đã có gia đình, vợ chồng cô tình cờ gặp lại anh Mobylette ở nhà một chị bạn cũ. Té ra anh cũng là một dược sĩ đồng nghiệp với chị bạn.  Anh già hơn ngày xưa một chút, mập hơn một chút. Anh không còn cái xe Mobylette màu xám và anh vẫn chưa lấy vợ.  Anh nói chuyện nhưng hình như đầu óc để đâu đâu. Anh nhìn cô, hai mắt hơi buồn “Có lẽ không bao giờ tôi lấy vợ”. 

Những năm sau, Saigon mất đi vẻ thanh bình, lúc nào cũng thấy sôi sục không khí chiến tranh với những cách mạng và chỉnh lý. Đã thành sinh viên của Đại học Saigon và xin được ít giờ dạy ở vài trường trung học tư, cô có phương tiện rủ các bạn chạy Solex lên Tân Định ăn mì bò viên Cây Nhãn, mua sách của Tự Lực Văn Đoàn… Cô cũng đã tham dự những Đêm Không Ngủ của sinh viên thảo luận về tình hình đất nước, khi thì cùng theo các anh chị lớn theo chiến dịch Xuống Đường để phản đối chế độ mà các người trẻ thời đó cho là lỗi thời, cần đổi mới.

Một buổi chiều, đang chạy xe trên đường Lê Văn Duyệt, cô chợt thấy một chiếc Vespa phóng nhanh đến cạnh. Quay sang, cô nhận ra “anh Vespa”, người bạn thân của anh cô trước đây hay đến nhà chở anh đi chơi, đi phòng trà, khiêu vũ. Những lúc sau này không thấy anh đến nhà thường như trước và không hiểu sao lòng cô lại hay nghĩ đến anh, người thanh niên gầy gầy cao cao, ít nói, nhưng có ánh mắt làm cô bối rối. Anh nói: “Ngày mai anh phải đi Nha Trang rồi!”. Cô không nhớ lúc đó anh còn nói những gì, nhưng trước khi bỏ đi, anh nói vội “Anh sẽ viết thư cho em”.

Cô biết anh vừa tốt nghiệp trường Hành Chánh thì được đưa ra quân trường Đồng Đế ở Nha Trang để huấn luyện quân sự trước khi được bổ nhiệm đi xa. Vài tuần sau, cô nhận được thư anh nhưng cô không trả lời. Sau gần một năm, cô nghe nói anh đã mãn khóa và trở lại Saigon. Cô cũng không thấy anh đến thăm. Chắc anh sợ cô thấy cái đầu tóc ngắn, da đen khét nắng, không còn nét thư sinh của anh?

Rồi anh được đổi ra làm việc ở đảo Phú Quốc, một đảo xa tít tắp phía Nam Việt Nam. Anh lại viết thư về. Trong thư anh không than thở về cảnh sống cô đơn nơi cuối bãi đầu ghềnh mà anh lại nói về sự quyến rũ của mùi nồng thơm biển cả, màu trắng xóa của những ngọn sóng bạc đầu và màu xanh của núi rừng. Anh gọi hòn đảo là “Lost Paradise” của anh. Anh cũng mong thư của cô và dần dần anh phác họa đời sống tương lai có cô dự phần trong đó. Rồi bỗng nhiên cô thấy mình chiều nào cũng mở radio nghe tin thời tiết, dù chỉ được nghe báo tin “Hôm nay Phú Quốc trời nhiều mây…” và để thấy lòng mình cũng xao xuyến như mây.

Ít lâu sau anh trở lại Saigon vẫn hình dáng cũ, nhưng trông đã đượm nét phong sương. Bây giờ cô nói chuyện với anh lâu hơn và rồi sau đó anh đến thăm cô luôn, ngay cả khi anh cô không có nhà. Mẹ cô thì vốn đã thích anh. Lúc này anh không còn xe Vespa, lần nào đi chơi với nhau cũng bằng taxi. Chiếc xe Solex của cô cũng được nghỉ hưu. Hai năm sau anh rời đảo, về Saigon làm việc trong một cơ quan chính phủ và cô cũng lên thuyền hoa theo anh, bỏ lại quãng đời thơ mộng mà cô gọi là quãng đời VéloSolex đã qua.

Saigon vẫn tiếp tục cảnh sống phồn vinh trong nỗi ưu tư của chiến tranh kề cận. Phố xá nhộn nhịp, phòng trà quán ăn đông đúc rộn rã tiếng nói cười, nhưng đêm đêm những đốm hỏa châu vẫn vụt lên chiếu sáng vùng ven đô, như báo trước những hiểm nguy sắp tới. Rồi đến một ngày hốt hoảng dồn hết tất cả những gì có thể mang theo được vào mấy cái va-li chạy ra bến tàu, mặc cho định mệnh đẩy đưa cả gia đình vào một tương lai vô định. Nước mắt nhạt nhòa, quay đầu nhìn lại thành phố cũ, biết rằng lần này ra đi là vĩnh biệt.

Không biết bao năm tháng đã đi qua nơi xứ người. Gặp lại những nam thanh nữ tú của Saigon năm nào, giật mình vì không thể nhận ra nhau. Mới hôm xưa còn trẻ trung nhanh nhẹn, nay nhìn lại đã thấy mái tóc muối nhiều hơn tiêu. Đúng như ngày xưa Lý Bạch đã ngậm ngùi: Buổi sáng tóc còn xanh như tơ, chiều đến đã trắng như tuyết.

Hình dáng thay đổi theo thời gian, mà định mệnh cũng vần xoay bao cuộc đời vào các ngả rẽ không ngờ. Tình cờ tìm ra một tấm hình kỷ niệm lớp Đệ Nhị ngày xưa, thấy cô bạn Vũ Hoàng Oanh thuở nào với gương mặt vui tươi như hứa hẹn một tương lai sáng lạn, thì sau 1975 ở lại Saigon đã phải vừa làm cô giáo vừa tảo tần buôn bán thêm để nuôi con khi chồng là nhà văn quân đội Dương Hùng Cường bị bắt vào trại học tập cải tạo rồi qua đời.

Sau đó Oanh cũng bị tai nạn trong khi long đong chạy hàng bán, và mất theo chồng để lại mấy đứa con còn thơ dại. Cùng đứng trong tấm ảnh ngày xưa có Thu Nhạn dung dị đoan trang mà những năm gần đây thường được thông tin trong nước nhắc đến là người vợ tận tụy sống một đời khép kín theo chồng là cố Thiếu tướng Việt Cộng Phạm Xuân Ẩn, một gián điệp nhị trùng nổi tiếng.

Gần đó trong hình là Bích Vân, người vợ xinh xắn hiền hậu của Đề đốc Hải quân VNCH Hoàng Cơ Minh, người đã thành lập tổ chức Kháng Chiến, trở lại Việt Nam lập chiến khu và nghe đâu đã hy sinh trong khu rừng Hạ Lào. Hai thiếu nữ ngây thơ trong sáng thuở nào vì nghịch cảnh lịch sử đã sống hai cuộc đời khác biệt, nay đứng trên hai chiến tuyến, biết có khi nào gặp lại nhau?

 Nguyễn Đặng Bắc-Ninh 

From: T. Nguyen

Nỗi Đau Của Tuổi Già – Huy Phương

Huy Phương

Ở đây, chúng ta không bàn chuyện đau nhức, cao máu, tiểu đường… nữa, vì đã có quá nhiều vị bác sĩ quan tâm tới tuổi già trên đất Mỹ này rồi.
Những loại đau trên đã có thuốc và có chính phủ Mỹ trả tiền, nhưng có những thứ đau khác không có thuốc chữa và cũng không ai kê vai gánh vác giùm.

Báo OC Register thứ sáu tuần trước có đăng tin một ông già bị người ta đem bỏ trước cổng một ngôi chùa ở thành phố Westminster.
Ông lặng lẽ ngồi trước hiên chùa suốt ngày.
Cảnh sát đến mang ông vào bệnh viện tâm thần.
Ông không có trong người bất cứ một thứ giấy tờ nào để biết được ông là ai, ở đâu.
Ông không nói một lời nào, chỉ biết lặng lẽ, đôi khi cười một mình như một người mất trí.
Ông là một người châu Á, Việt Nam cũng chưa chừng, như vậy ông không phải sinh ra ở đây, hay từ trên trời rơi xuống như cô bé Maika trong một tập phim Tiệp Khắc.
Vậy là có người chở ông tới và bỏ ông lại đây, không ai ngoài con cái hay thân thích của ông.

Lâu nay thỉnh thoảng người ta thấy có những thiếu phụ sinh con rồi đem con bỏ vào thùng rác, nhưng chưa thấy ai đem cha mẹ vứt bỏ ngoài đường.
Ông già chỉ cười vu vơ, trí nhớ của ông đã suy kiệt, nếu không ông sẽ đau khổ biết chừng nào?
Trước đây người ta kể chuyện có người chở bà mẹ già bỏ ở cây xăng, tôi không tin, tưởng là chuyện đùa, nhưng bây giờ thực sự lại có người “ đem cha bỏ chùa ”.

Cũng lại câu chuyện của một người già…
Tháng trước, trong một dịp đưa người thân đi Việt Nam, tại quầy vé China Airline ở phi trường Los Angeles tôi đã chứng kiến một cảnh khá đau lòng.
Trong khi mọi người đang xếp hàng trình vé, cân hàng thì một bà cụ người Việt cứ loay hoay lúng túng trước quầy vé với các thứ giấy tờ vương vãi, bề bộn trên sàn nhà.
Bà ngồi bệt xuống đất hết móc túi này đến túi nọ, vẻ mặt lo lắng.

Một nhân viên an ninh phi trường thấy tôi cũng là người Á Đông, ngỏ ý muốn tôi lên giúp bà cụ.
Nhân viên quầy vé cho biết bà có vé máy bay, một visa nhập cảnh Việt Nam nhưng không có passport hay thẻ xanh.
Tôi giúp bà moi từ đống giấy tờ ra chỉ thấy một cái hộ chiếu của Việt Nam cấp cách đây mười mấy năm khi bà đến Mỹ đã hết hạn và một cái ID của bà do tiểu bang Florida cấp.

Bà mới từ Florida đến phi trường LOS mấy giờ trước đây một mình và trình giấy tờ để lên máy bay đi Việt Nam.
Cuối cùng, bà cũng lên được máy bay, nhưng bà sẽ không bao giờ có thể trở lại Florida nữa vì trong tay bà không có passport của Hoa Kỳ, không thẻ xanh, không “entry permit”.
Đây là trường hợp một bà mẹ già, quê mùa bị con cái “mời khéo” về Việt Nam.

Tội nghiệp cho bà đã ngồi trên máy bay năm sáu tiếng đồng hồ để đến phi trường LAX, sắp tiếp tục chặng đường về Việt Nam nhưng không biết là mình không thể trở lại Mỹ và lòng bất nhân của con cái.
Hình ảnh bà già này cứ ám ảnh tôi mãi.
Bà vụng về, quê mùa, có lẽ cũng chẳng giúp ích được gì cho con cái mà chỉ thêm gánh nặng.

Thôi để cho bà đi, khi biết mình không trở lại Mỹ được thì chuyện đã rồi.
Tuổi bà có nằm lại trên quê hương cũng phải, sống chẳng giúp ích gì được cho ai, chết ở đây bao nhiêu thứ tốn kém.

Hai vợ chồng sang Mỹ từ hai mươi năm nay, đi làm nuôi con, mua được căn nhà đã pay off.
Khi các con đã có gia đình ra riêng thì ít năm sau ông cụ cũng qua đời.
Thấy mẹ hiu quạnh trong một căn nhà khá 1ớn, mà giá nhà đang lên, các con bàn với mẹ bán nhà đi rồi về ở với các con.
Bà mẹ bán nhà, thương con chia đều cho mỗi đứa một ít, còn dăm nghìn dắt lưng, rồi về ở với con.
Bà không biết lái xe, không biết chữ nghĩa, cũng không biết trông cháu làm homework, nên cha mẹ chúng phải nhờ người đưa đón.

Bà thích nấu ăn, gói bánh, kho cá, nhưng sợ nhà hôi hám, con cái không cho. Lúc đầu thì chẳng sao, lâu dần mẹ thành gánh nặng.
Buổi chiều, đứa con gái xô cửa trở về nhà, thấy mẹ đang gồi xem TV, nó hất hàm hỏi:
-“Có hiểu gì không mà thấy má ngồi coi suốt ngày vậy?”
Có lúc chuông điện thoại reo, đứa con nhấc máy, bên kia không biết ai hỏi gì, trước mặt bà già, nó trả lời nhát gừng:
-“Bả ấy đi khỏi rồi!”

Một bà mẹ khác, ở chung nhà với một đứa con nhưng nhờ một đứa con khác đưa đi bác sĩ.
Xong việc, nó đưa mẹ về rồi lẹ lẹ dọt xe đi làm.
Bà già vào tới cửa, móc túi mãi không tìm ra cái chìa khóa nhà. Bà không có chìa khóa, không cell phone, cũng không biết tiếng Anh, bà sợ sệt không dám gõ cửa hàng xóm.
Bà ngồi đó, trên bục cửa cho tới chiều, khi đứa con ở chung nhà đi làm về, thì bà đã kiệt sức vì khô nước, phân và nước tiểu đầy mình.

Đời xưa, người ta kể chuyện trong một gia đình, có hai vợ chồng đối xử với ông cha già đã run rẩy của mình tệ bạc, cho cha ăn trong cái “mủng dừa”.
Một hôm hai vợ chồng đi làm về thấy đứa con nhỏ của mình đang hì hục đẽo một cái gáo như thế, được cha mẹ hỏi, nó “thành thật khai báo” rằng “để dành cho cha mẹ lúc về già”.
Đâu phải ai nuôi con cũng nghĩ tới lòng cha mẹ, cũng như nhớ chuyện “trồng đậu có đậu, trồng dưa có dưa”.

Huy Phương

CẢM ƠN “CHIẾN HỮU” CỦA BA! – Tác giả: Nguyễn Xuân Hoàng

Tác giả: Nguyễn Xuân Hoàng 

Sau năm 1975, cả gia đình tôi từ Pleiku trở về quê mẹ Quảng Ngãi . Đó là những năm tháng cực kỳ khó khăn. Ruộng đã vào hợp tác . Đi làm công điểm thì nhiều nhưng cuối vụ lúa được chia rất ít. Mẹ chưa quen ruộng đồng, làm theo với người ta sức yếu nên thường đau ốm luôn. Bà từ nhỏ đi học rồi làm công chức nên cũng không biết ruộng mạ là gì. Nhà có cả thảy tám miệng ăn. Bữa đói, bữa no. Những đêm mùa đông lạnh rét dài, cái đói giày vò không ngủ được.  Để chống đói chị tôi “sáng kiến” món ” nem rau muống” : một cái bánh tráng sống nhúng nước rồi cắt làm bốn, gói được bốn cái “nem rau muống”, chấm với mắm cái.  Nhìn chị em tôi xúm xít quanh rổ rau muống, ba tôi im lặng, mắt nhìn nơi khác…Một hôm ba nói với mẹ: ” Chắc là anh phải kiếm một nghề gì đó làm thêm”. Nói là làm, dồn chút vốn liếng còn lại, vay mượn thêm một ít, ba tôi sắm chiếc xe đạp thồ.

Ngày đầu lạ nước lạ cái chưa quen khách hàng, bến bãi, ba đạp xe đi lơ ngơ suốt ngày vẫn không có khách.  Không nản lòng, hôm sau, rồi hôm sau nữa, từ sáng sớm ba đã dắt xe ra đường đến tối mịt mới về nhà. Từ ấy, ba làm nghề xe đạp thồ. Thỉnh thoảng chị em tôi đi học vẫn thường thấy ba gò lưng đạp xe trên đường, tấm áo ba mặc loang đầy mồ hôi bạc thếch. Có khi ba tôi chở khách, có khi chở mắm, chở heo hoặc chở cá từ biển Đức Lợi lên chợ Trạm, Sông Vệ. Những năm tháng ấy tuyến đường từ Đức Lợi lên chợ Trạm, Sông Vệ rất xấu. Mùa đông mưa dầm đường đầy bùn lầy, ổ gà, ổ voi. Ba và chiếc xe thồ lấm lem như trâu cui.  Mà đâu chỉ có lên chợ Trạm, Sông Vệ, ba còn chở khách đi chợ Chùa, lên tận những vùng heo hút Ba Tơ, Trà Bồng, Minh Long… Suốt 20 năm dường như ba chưa nghỉ một ngày nào.

Chị đầu tôi vào Đại học Qui Nhơn, ba tôi tất tả trên đường.  Chị kế tôi vào Đại học Sư phạm ngoại ngữ Đà Nẵng, ba tôi càng vất vả hơn. Rồi tôi và em tôi vào Đại học Tổng hợp Huế, ba tôi đã qua thời trai trẻ, người có yếu đi nhưng vẫn ngày ngày miệt mài đạp xe.  Tiền ăn học không gởi được đủ tháng cho mấy chị em, ba gởi gối đầu từng nửa tháng một. Tôi ra bưu điện Huế nhận tiền mà nhớ xé ruột gương mặt gầy gò cháy nắng của ba. Do đạp xe nặng nhọc, hai bàn chân cha bị sừng hóa, các đầu ngón biến thành hình tam giác. Ba thường lặng lẽ lấy nước muối để ngâm đôi bàn chân nứt nẻ ấy.

Mỗi bận hè về thăm nhà, ra lại trường, ba lại cặm cụi chở chị em tôi ra bến xe. Xe chạy xa rồi vẫn còn thấy dáng ba đứng nhàu úa thầm lặng bên chiếc xe đạp thồ. Không hiểu ba tôi lấy đâu ra sức lực để đạp xe ròng rã suốt 20 năm trời như vậy. Có những ngày đau ốm, cảm hàn chỉ ăn được cháo mà ba vẫn đạp xe, bởi tháng nào tiền ăn học của chị em tôi cũng tới liền liền.  Khi em út tôi vào Đại học Thủy sản Nha Trang, năm ấy ba tôi đã gần 60, sức yếu đi nhiều.  Ba nói em tôi ra trường sẽ treo xe giải nghệ. Ngày ba còn trẻ khỏe mạnh, mối đi xe của ba rất nhiều.  Đoạn sau này ba già yếu, người đi ít hơn. Ba cũng không chở nặng được nữa, nhưng cũng không nghỉ một ngày nào, chắt chiu gửi tiền nuôi em tôi ăn học.

Rồi em tôi ra trường, có việc làm, ba quyết định giải nghệ. Buổi sáng sớm ông dắt xe thồ ra ngoài sông Vệ, chăm chút rửa thật sạch. Có người muốn mua lại chiếc xe, ông chỉ lắc đầu cười. Ba thương chiếc xe – vât vô tri ấy bằng một tình cảm đặc biệt.  Ba thường gọi vui nó là ” chiến hữu” của ba. Treo chiếc xe lên xà nhà, ba buồn mấy tháng trời.

Năm rồi tôi về thăm nhà, ba khoe “Gia đình mình vừa được công nhận là gia đình hiếu học tiêu biểu”. Tôi cầm tấm bằng lớn bằng bìa cuốn vở học sinh ba đưa mà thấy lòng nặng trĩu. Nhìn lên xà nhà, “Chiến hữu” của ba vẫn còn đó với những chiếc căm đã gỉ rét, ghiđông sạm đen, mạng nhện giăng đầy khung xe. Ba cười bảo ” Chiếc xe bây giờ nó cũng già nua lụm cụm như ba”. 20 năm trời, ba tôi đã dùng nó để “thồ” năm chị em tôi đến giảng đường đại học.  Ừ, nếu có gia huy của gia đình, có lẽ gia huy của gia đình tôi sẽ là hình ảnh cách điệu một chiếc xe đạp thồ – ” Chiến hữu” thân thiết của ba.

Nói vui vậy mà lòng rưng rưng.  20 năm, 50 cây số trung bình một ngày, vị chi là bốn vạn cây số mà ba đã đi. Viết những dòng này, cho con thay mặt năm chị em cảm ơn ba 20 mươi năm trời nhọc nhằn vì chị em con. Và xin cảm ơn “CHIẾN HỮU” của ba.
N.X.H

CẬU TÔI – NGÔ TRƯỜNG AN-Truyện ngắn

NGÔ TRƯỜNG AN

Nhân chuyện lùm xùm sùng bái lãnh tụ của ông võ sư mấy ngày qua. Nay, mình kể chuyện ông cậu của mình, cũng một thời tôn thờ lãnh tụ khủng khiếp cho đến… năm 2005. (Lúc đó Internet cũng chưa phổ biến). Chuyện là vầy.

Cậu quê Quảng Ngãi, có vợ và ba đứa con. Năm 1954 cậu tập kết ra Bắc, mãi đến năm 1978 cậu mới về lại quê.

Mặc dù thống nhất đất nước năm 1975, nhưng cậu không hồi hương được là vì khi ra Bắc, cậu cưới vợ và có hai đứa con nữa. Điều này, bà vợ ở Quảng Ngãi không chấp nhận ông về sống chung. Vì vậy, sau đó ông ly dị với bà ngoài trở về sống với bà trong. Cậu nói: cuộc sống trong này sung túc hơn, đó là lý do cậu quay lại.

Cậu rất thần tượng bác Hồ. Đi đâu, ngồi đâu cậu cũng nói về bác. Những mẩu chuyện, những giai thoại không biết cậu cóp nhặt từ đâu mà mỗi lần nói về bác Hồ là cậu say sưa, huyên thuyên bất tận.

Tết năm 2005 mình về quê ngoại chúc tết. Lúc mình xuống nhà thăm cậu thì thấy cậu ngồi nói chuyện với những người hàng xóm sang chơi đầu năm. Vẫn điệp khúc về bác Hồ, cậu say sưa ca tụng.

(XEM TIẾP TRONG ATTACHMENTS KÈM THEO)

Khi khách về hết, mình hỏi cậu:

– Cậu nè, nếu bây giờ có một phép màu nào đó làm bác Hồ sống lại lãnh đạo ở miền bắc. Cũng với chính sách đưa dân vào hợp tác xã làm công ăn điểm. Cũng xếp hàng mua dầu hỏa, nước mắm, cá khô. Cũng phải xin giấy đi đường khi đến nơi khác. Cũng phải vác cuốc ra đồng khi nghe trống đánh, và cũng phải vác cuốc ra về khi nghe tiếng trống báo hiệu hết giờ làm việc. Rồi nuôi được con gà, con heo cũng phải bán cho hợp tác xã chớ không được bán cho ai khác… Đó là cuộc sống ở miền bắc sau năm 1954, do bác Hồ lãnh đạo. Vậy cậu có muốn sống lại thời đó dưới sự lãnh đạo của bác Hồ không? Cậu nói thật lòng đi! Đầu năm, đầu tháng đừng có nói dối nha cậu!

Không suy nghĩ, cậu trả lời ngay:

– Khùng điên gì muốn sống lại thời cực khổ đó mậy!

– Ủa, vậy sao cậu ca ngợi bác Hồ tài giỏi, nhân đức mà lãnh đạo để dân cực khổ vậy?

Cậu gay gắt:

– Thời đó đang chiến tranh nên phải chấp nhận cực khổ. Mầy không thể nói thế được!

– Dạ, thì con vẫn đang nói về thời ấy đấy. Nếu bây giờ cho cậu sống trong thời ông Diệm lãnh đạo ở miền nam. Thời đó người dân được quyền sở hữu đất đai. Được quyền đi lại và định cư bất cứ nơi đâu mà không cần phải xin giấy đi đường, giấy chuyển hộ khẩu, nhập hộ khẩu gì cả. Được quyền tiếp cận mọi thông tin… con nói ví dụ, ở miền bắc cậu mua được cái radio, cậu phải đăng ký với nhà nước và nhà nước chỉ cho phép cậu nghe mỗi đài của nhà nước phát thanh thôi. Còn trong nam, cậu có thể nghe bất cứ đài phát thanh nào nếu cậu muốn. Trong giai đoạn đó có rất nhiều đài quốc tế phát thanh Việt ngữ, như: BBC, ASIA, Phi Luật Tân, Trung Hoa Tự Do, Bắc Kinh… Ngoài ra, cậu có thể viết báo, viết truyện, hoặc làm thơ…mà không cần thông qua kiểm duyệt. Vậy cậu có muốn sống trong thời như thế không? Cậu nói thiệt đi!

Cậu trả lời cũng không suy nghĩ:

– Được sở hữu tài sản, được tự do đi đây đi đó mà sao không muốn? Nhưng vấn đề là mầy nói có đúng không!

Tôi xuống giọng chứng minh:

– Cậu à, khi cậu ra đi thì mợ và ba đứa em vẫn ở chung với bà ngoại. Sau đó thì mợ mới mua đất cất nhà và nuôi ba đứa con ăn học, trong đó có hai đứa đậu tú tài toàn phần. Ngôi nhà năm gian hoành tráng hôm nay được xây từ thời ông Diệm. Nếu chính sách ông Diệm, ông Thiệu cũng y chang chính sách bác Hồ, thì làm sao mợ xây được nhà và mua sắm tiện nghi như thế này phải hông cậu? Cũng bằng ấy thời gian, nhưng ngoài bắc cậu làm lụng vất vả vẫn chưa xây được nhà đúng không? Con nghe thằng Tư năm 1976 ra thăm cậu về nói, nhà ba ở như một cái chòi chăn vịt, xe đạp cũng chưa có mà đi.

Cậu vẫn chống chế:

– Nhưng bác Hồ là người lãnh đạo nhân dân đánh thắng đế quốc để giành độc lập, còn thằng Diệm chỉ là thằng rước voi về giày mả tổ!

– Cậu ơi, người lãnh đạo hơn người bình thường là ở cái tầm nhìn cậu ạ. Biết bao nhiêu nước bị đô hộ nhưng họ chẳng cần đánh nhau, rồi cuối cùng họ cũng giành được độc lập. Cậu thấy đó. Trên thế giới hiện nay chẳng còn nước nào bị đô hộ cả. Chiến thắng chẳng nói lên được điều gì khi mà sau chiến thắng ấy nhân dân lại lầm than trong cảnh đói nghèo, lạc hậu, mất tự do. Nhật Bản họ chấp nhận thua Mỹ, để rồi ngày nay họ thành cường quốc. Nếu ngày ấy, họ quyết đánh Mỹ đến người Nhật cuối cùng thì chẳng biết điều gì sẽ đến với đất nước họ hôm nay.

Cậu à, chắc cậu cũng nghe nói lại hoặc đọc báo hoặc xem phim tài liệu chứ ngoài đời làm gì gặp được bác Hồ, đúng không? Trong này bọn con cũng nghe nói ông Diệm, ông Thiệu chứ chưa ai gặp mặt bao giờ. Nhưng để biết một lãnh đạo tốt hay tồi, mình chỉ cần nhìn vào cuộc sống chung quanh mình thì hiểu. Cậu không nhất thiết phải trèo lên đầu nguồn để xem dòng nước trên ấy trong hay đục. Mà, cậu hãy nhìn dưới hạ lưu, nếu nước dưới hạ lưu đục thì nước trên đầu nguồn đục và ngược lại phải hông cậu?

Điều cuối cùng con muốn nói với cậu là, dù muốn hay không thì ông Hồ cũng là người của lịch sử và ổng đã qua đời. Vậy hãy để ông yên nghỉ chứ không nên nói nhiều về ông, một khi mình chưa hiểu tường tận.

Mình chào cậu ra về. Cậu thờ ơ gật đầu vẻ không vui. Đến tháng Chín âm lịch năm ấy mình vô dự giỗ ngoại và ghé nhà cậu, thì không thấy ảnh chân dung của bác – trước kia được treo trang trọng ở căn giữa, giờ không còn nữa.

Cậu mất năm 2014 thọ 85 tuổi.

Nhớ cậu!

NGÔ TRƯỜNG AN

18.04.2023

From: TRUONG LE

THẰNG ĐI MẤT BIỆT! ~ tác giả: Tiểu Tử ~Truyện ngắn

Thuy Tinh

~ tác giả: Tiểu Tử ~

Sáng nào, nếu trời không mưa, bà Hai cũng vắt cái khăn rằn lên vai, chụp cái nón lá đã tưa vành lên đầu, xách giỏ trầu đi ra phía vàm rạch trèo lên mô đất cao, ngồi chồm hổm vừa nhai trầu vừa nhìn qua bên kia sông, nhìn miết.

Mô đất nầy, cách đây hơn ba mươi năm -hồi thời kháng chiến chống Tây- chính tay bà và đồng bào trong xóm đã đắp lên làm ụ súng cho du kích bắn tàu Tây chạy ngoài sông Cái. Hồi đó, mô đất cao lắm. Bây giờ nó đã mòn lần nhưng vẫn còn đủ cao để bà Hai, dầu ở vị trí ngồi, vẫn nhìn thấu tuốt qua bên kia sông.

Bên kia sông là quận Gò Keo, ở đó có sở cao su của Năm Lượm, em út của bà. Bà còn nhớ rõ như in:

– Hồi nẳm, thằng Lượm làm cặp-rằng trong sở cao su của thằng tây Mi-Sên. Kế đến tây rút đi – đâu hồi một ngàn chín trăm năm mấy gì đó – thằng Mi-Sên kêu bán rẻ lại cho thằng Lượm. Thằng hên! Nó bán đi phần ruộng ông già để lại cho nó rồi chạy thêm mớ nợ, mua trọn gói sở cao su! Vậy rồi nó giàu ngang, mới tức cười!

Thường thì kể đến đây bà Hai hay ngừng lại để xỉa cục thuốc qua lại mấy lần rồi mới nói tiếp:

– Bây coi! Hồi thời ông gì đó, chỉ có Út Lượm là sắm được chiếc ca-nô tổ chảng, chạy lên chạy xuống tỉnh hà rầm. Lâu lâu còn cho mấy ông lớn mượn đi bắn le le nữa! Hồi ông nhà tao còn sống, nó hay lái ca-nô qua đây nhậu với ổng. Mẹ! Mỗi lần ca-nô nó vô tới đầu vàm rạch là nó hú còi nghe điếc con ráy, còn làm nổi sóng cho nước phóng lên bờ, bà con trong xóm ai cũng hay la ‘có ông Út qua’!

Bà thường ngừng ở đây để cười khịt khịt mà nghe sung sướng ở trong lòng, bởi vì trong ba thằng em trai, bà Hai thương thằng em út nầy nhứt. Bà hay nói:

– Thằng Lượm tuy ít học hơn hai anh của nó nhưng bụng dạ nó tốt lắm. Ăn ở có nhơn nên dân thợ trong sở cao su ai cũng thương. Hồi giàu lên rồi, nó cũng không quên ai hết. Như anh Ba của nó đi tập kết đâu tuốt ngoài bắc viết thơ về gởi gắm hết người nầy tới người kia cho nó, vậy mà nó cũng lén nuôi đàng hoàng. Còn thằng anh Tư của nó theo bên vợ làm thầy giáo ở Cần Thơ muốn mở trường tư thục gì gì đó, nó cũng mang tiền xuống giúp. Thằng tốt!

Trong làng Bình Quới nầy ai cũng biết vụ bà Hai ngày ngày ra ngồi trên mô đất nhìn miết qua bên kia sông. Chuyện xảy ra sau ‘giải phóng’, từ ngày người con trai út của bà – tên Trực – ở Sài Gòn về thăm bà và để cho hay là vợ con của Trực đã theo tàu hải quân di tản rồi, còn Trực thì phải lo khai báo với chánh quyền mới để có giấy tờ hợp lệ bởi vì Trực là sĩ quan của chế đõ cũ. Trực nói:

– Chừng có giấy tờ, con về đây ở với má. Chắc chừng vài ba bữa nửa tháng, hà!

Nghe vậy, bà Hai rất vui, têm trầu ăn liền liền! Bà nói:

– Tao chỉ có hai thằng con, mà Trời thương, thằng nào cũng được hết. Thằng Cang -thằng lớn- đi lính quốc gia. Nghe nói nó đánh giặc gan lỳ. Vậy mà không bao giờ nó nói động tới thằng cậu Ba nó ở ngoài kia. Còn thằng Trực -thằng út- thì thông minh học giỏi, vậy mà sau khi anh hai nó chết trận ở Công-tum Công-tiết gì đó, nó đang học đại học cũng bỏ học đi lính nói để trả thù cho thằng anh!

Bà hay ngừng một chút rồi mới nói tiếp, như để kết một câu chuyện:

– Bây giờ thì hết giặc rồi. Vài bữa thằng Trực về đây, tao sẽ chỉ nó lo chăm sóc cây trái vườn tược thế cho con Tư, để con nhỏ còn đi lấy chồng chớ!

Nói như vậy bởi vì mấy năm gần đây, từ ngày ông Hai nằm xuống, bà Hai hay ngã bịnh bất thường nên người em bà con ở bên quận gởi đứa con gái là cô Tư -ba mươi tuổi, chưa chông- qua ở với bà để lo cơm nước vườn tược v.v… Cô Tư kêu bà bằng Dì.

Sau khi Trực trở về Sài Gòn, một hôm đò ngang từ bên quận Gò Keo qua làng Bình Quới ngừng lại trước nhà bà Hai thả xuống một ông già lưng mang ba-lô, ốm nhom đen thui, đầu bạc trắng. Người lái đò chỉ tay nói lớn:

– Ông đi thẳng vô trong, cái nhà gạch nền đúc đó, đó!

Nghe lao xao, cô Tư nói:

– Dì Hai! Dì Hai! Có ai kìa!

Bà Hai nheo mắt nhìn, má bên trái của ông già có một nút ruồi với một sợi râu lăng quăng. Bà rớt nước mắt:

– Mầy còn sống hả Ba?

Vậy là hai chị em gặp lại nhau, vẫn nhìn ra được nhau sau hơn hai mươi năm xa cách! Út Lượm hay tin cũng xách ca-nô chạy qua thăm anh Ba, tủi tủi mừng mừng. Cô Tư dầu chưa biết ‘Cậu Ba‘ là ai nhưng trước cảnh gặp nhau đó, cô cũng nghe xúc động nước mắt chảy quanh….

Sau đó, để hàn huyên cho đã, nên ông Ba dự trù ở lại chơi thêm năm bảy hôm.

Bữa nọ lối mười giờ sáng, có tiếng ca-nô chạy xộc vô rạch. Thằng Kiên, con Út Lượm, u vào nhà, vừa thở vừa nói:

– Con qua rước bác Ba về can thiệp gắp vụ nầy, họ đang kiểm kê để tịch thâu sở cao su ở bển đó!

Ông Ba cười:

– Bây làm gì như Mỹ bỏ bom vậy?

Rồi quay qua bà Hai:

– Chị để em qua bển một chút. Em nói mấy tiếng rồi về, hà! Biểu con Tư nó nấu cho em miếng cháo gà ăn chơi!

Rồi ông xuống ca-nô qua quận. Bà Hai ở nhà đợi em. Càng lúc càng trưa, rồi đứng bóng, rồi xế bóng. Chừng đó mới thấy một chiếc xuồng nhỏ, với tiếng giầm khua nước lách chách, đâm đầu vào chân cầu thủy tạ trước nhà, ông Ba lò dò bước lên. Bà Hai và cô Tư chạy ra bươn bả:

– Ủa! Sao vậy cậu Ba? Còn ca-nô đâu?

Ông Ba lắc đầu:

– Tụi nó kiểm kê luôn rồi!

Bà Hai thở hắt ra:

– Còn thằng Út!

Ông Ba cười như mếu:

– Nhờ nó có công nuôi cách mạng nên mấy đồng chí đó giữ nó lại làm trong tổ kế hoạch, làm tổ viên thôi nhưng cũng có lương.

Bà Hai phun cốt trầu nghe cái phẹt:

– Hứ! Đồng chí với đồng rận! Lương với lậu!

Bà ngừng ở đó, nhai miếng trầu trong miệng như nhai cái tức ở trong lòng. Một lúc, bà mới nói:

– Tao tưởng mầy đi theo tụi nó mấy chục năm để làm được cái giống gì, té ra mầy cũng trớt quơ cũng bạch tuộc như mấy thằng cô hồn trôi sông lạc chợ chớ có hơn gì đâu? Hỏi chớ mầy đi theo tụi nó chi lâu vậy?

Ông Ba đốt điếu thuốc rồi ngồi bập liên miên, làm như khói thuốc có thể che cho ông đỡ ê mặt! Bà Hai xỉa cục thuốc qua lại, ấn mạnh vô răng như muốn kỳ cọ cho cái ‘lớp tức’ nó bong ra! Một lúc sau, bà nói với cô Tư, giọng thật trầm tĩnh:

– Tư! Mầy đẩy xuồng trong xẽo ra đưa cậu Ba qua sông, đi!

Cô Tư nhìn bà, ngạc nhiên. Nhưng người ngạc nhiên nhứt là ông Ba. Ông nuốt nước miếng rồi mới nói được:

– Bộ chị đuổi em hả chị Hai?

Bà Hai tằng hắng:

– Tôi đâu có đuổi! Ai mà dám đuổi cách mạng! Tôi… mời cậu ra khỏi nhà, chớ ở lại đây, thiên hạ cười tôi thúi mặt sao cậu?

Ngần ngừ một chút như định nói gì, nhưng rồi ông Ba lẳng lặng xách ba-lô cuối đầu đi thẳng ra bờ rạch, bước xuống xuồng mà nghe như trời đất ngã nghiêng chao đảo….

Thằng em đi rồi, bà Hai như người mất hồn. Tối ngày làm thinh, ngồi bó gối trên bộ ván nhỏ kê ngoài hàng hiên, vừa ăn trầu liên miên vừa nhìn đăm đăm ra phía rạch như đợi như chờ cái gì. Thấy kỳ, cô Tư hỏi:

– Bộ đợi ai sao dì Hai?

Một lúc, bà mới trả lời:

– Tao đợi thằng Trực! Nó nói nó đi năm ba bữa gì đó là về. Vậy mà đã hơn con trăng rồi sao hổng thấy bóng dáng gì hết.

Rồi bà lầm bầm:

– Thằng! Đi mất biệt!

Cô Tư nói:

– Con nghe nói…

Rồi ngừng ngang. Cô định nói là cô có nghe nói sĩ quan chế độ cũ đều bị đi cải tạo, chắc giống như đi ở tù… nhưng cô sợ dì Hai hết hồn nên cô bỏ lửng câu nói. Trong nhà, ngoài cô Tư ra, ông Út Lượm –lúc nầy lâu lâu chèo xuồng qua thăm chị Hai– cũng biết vụ ‘cải tạo’ nhưng ông không dám nói cho bà chị biết. Vì vậy, bà Hai cứ ngày ngày ngồi đợi thằng con. Và trách: «Thằng đi mất biệt!»

Mới đầu, bà còn ngồi chờ trên bộ ván hàng hiên. Thời gian sau, khi trời nắng ráo, bà hay đi tuốt ra ngoài vàm rạch lên ngồi trên mô đất để có thể nhìn thẳng qua bên kia sông. Như vậy, ‘khi nào thằng nhỏ nó về, mình thấy nó từ đằng xa, nó có đi đò, trong đám đông mình cũng nhìn ra được nó liền hà!’.

Vậy rồi ngày ngày bà ra ngồi trên mô đất, như một pho tượng. Thiên hạ trong làng đi ghe đi xuồng ngang qua, có hỏi thì bà trả lời, lúc nào cũng chỉ có một câu:

– Ợ… Tao đợi thằng đi mất biệt!

Không ai ngừng lại để hỏi tiếp coi ‘Thằng đi mất biệt’ là ai?. Riết rồi thành quen nên lâu lâu nghe có người chèo ngang qua hỏi cho lấy có: “Đợi thằng đi mất biệt hả bà Hai?”. Rồi đi tuốt….

Cái mô đất bà ngồi, bây giờ láng cón. Cỏ dại chỉ mọc cao ở dưới chân, bao quanh giống như một hàng rào. Người mẹ đợi con đó ngã bịnh rồi chết, hai năm sau. Bà nhắm mắt mà trong lòng chắc vẫn trách thằng con sao đi mất biệt. Lúc hấp hối, bà Hai còn rán thều thào:

– Bây chôn tao ở đầu vàm cho tao thấy thằng Trực trở về….

* * *

‘Thằng đi mất biệt’ được thả về sáu năm sau, nhờ học tập tốt. Đi đón Trực ở bến xe đò quận Gò Keo là ông Ba và ông Út. Ông Út, vì rầu sự nghiệp nên già khú, vẫn là công nhân nhà máy cao su. Ông Ba về thọ tang bà Hai rồi ở lại luôn Bình Quới để giữ ‘đất đai ông bà’ kẻo ‘mấy thằng ác ôn nó quen thói côn đồ đớp hết của người ta’, ổng nói như vậy! Bây giờ, ông Ba hay cười gằn, cầm cây rựa quơ quơ:

– Tụi nó có muốn vô nhà nầy phải bước qua xác của tao, nè!

Hai ông đưa Trực ra đầu vàm thăm mả bà Hai nằm cách mô đất không xa. Sau khi thắp nhang vái lạy, ông Ba kể cho Trực nghe chuyện bà Hai ngày ngày ra ngồi trên mô đất để trông ‘thằng đi mất biệt’.

Trực ngồi thụp xuống, úp mặt vào hai tay khóc ngất. Ông Ba chấp tay nói như nói trước mặt người chị:

– Chị Hai ơi! Thằng đi mất biệt của chị, nó về rồi nè!

Bỗng, mặt ông nhăn nhúm lại, giọng ông cao lên:

– Mà… thằng Trực đâu phải là thằng đi mất biệt đâu, chị Hai!

Rồi ông nấc lên, vứa đấm vào ngực vừa la lớn:

– Em mới là thằng đi mất biệt đây, chị Hai à!

Ông quì xuống ôm lấy mộ bia, gục đầu lên đó, nức nở. Cái đầu tóc trắng lắc qua lắc lại, nói lên tâm tư của một người không tìm ra đáp số cho bài toán khó.

Ông Út khom xuống, đặt tay lên vai anh bóp nhẹ:

– Anh Ba à! Anh nói được như vậy là anh đã thấy con đường về rồi đó, anh Ba!


 

Người con lai và chiếc vỏ ốc – Truyện ngắn- Hoàng Thanh

 Hoàng Thanh

Bước vào tiệm food to go, tôi thoáng thấy một phụ nữ da đen – mà tôi nghĩ ngay là người Mỹ đen hay Phi châu, đứng trước quầy thức ăn dường như đang lựa chọn. Như thường lệ, tôi đứng đợi tới phiên mình. Bỗng dưng nghe cô ta nói rất rõ ràng bằng tiếng Việt “Bán cho tui một phần cơm chiên nhỏ”, làm tôi ngạc nhiên quay lại nhìn, vì không ngờ cô ta nói tiếng Việt rành thế. Da cô này rất đen, đúng điệu là dân lai Mỹ đen chính hiệu. Khi tôi ra bàn ngồi ăn, cô gái bước đến rụt rè chỉ vào chiếc ghế bên cạnh tôi và hỏi “Tui ngồi đây được không?” Tôi gật đầu.

Trời Cali vào đông lành lạnh, ngồi gắp từng đũa mì Nam vang nóng mà nghe ấm cả lòng. Đang múc muỗng nước lèo thì chị da đen lên tiếng “Trời lạnh quá, ăn cái này ngon lắm mà không chắc bụng”. Tôi quay sang nhìn thì bắt gặp cô đen vừa đưa tay chỉ chỉ vào tô mì tôi đang ăn, vừa nói với ánh mắt có vẻ thèm thuồng. Chị đen nói với cái giọng chân chất rất nhà quê “Cơm chiên nó hổng ngon bằng nhưng nó chắc cái bụng, tui mới khiêng đồ nặng nổi”. Thấy ái ngại, tôi nói ngay “Chị ăn không, tôi kêu tặng chị một tô”. Chị đen lắc đầu “Giờ ăn hổng kịp đâu, trễ xe bus là cả tiếng nữa mới có chuyến sau”. Tôi hỏi “Chị làm gì mà phải khiêng nặng?”. Chị đáp “Tui lau chùi cầu tiêu, lau sàn nhà, chùi rửa hết tất cả phòng, sắp xếp đồ đạc lại ngay ngắn, khiêng bàn ghế, nhiều bàn ghế nặng lắm, cái gì tui cũng làm hết đó, để mười giờ người ta vô thì mọi thứ phải sạch sẽ đâu vô đó”. Rồi chị tiếp “Tui ở xa, nên 7 giờ phải dậy rồi, đi xe bus tới đây thì phải đổi xe bus khác mới tới. Nhưng đói quá nên tui phải xuống mua đồ ăn cho no bụng cái đã rồi mới lấy bus đi tiếp đến chỗ làm”. Tôi cứ nghĩ chắc chị đen này đi làm thêm overtime ngày cuối tuần, nên tôi nói “Chị làm thêm cuối tuần vậy, họ trả chị khá không?” Chị nói ngay “Tôi đâu có lãnh lương, làm cho nhà thờ mà, cái này là tui tự nguyện làm, tui làm là cho Chúa, mà tui làm nhiều năm nay rồi…”.

Vừa thấy tội nghiệp cho chị đen, tôi vừa thầm khâm phục chị đã có can đảm mà đứng chờ hai chuyến bus từ 7 giờ sáng, ngày chủ nhật – là lúc mà ai nấy đều đang ngon giấc với khí trời rất lạnh ở bên ngoài. Chị không những đã làm được điều phi thường đó, không có lương, một cách vui vẻ, mà lại từ nhiều năm qua…

Bỗng dưng tôi muốn làm quen “Chị tên gì? Mà tại sao chị lại tự nguyện làm công việc này từ bao lâu nay, nhà thờ không có người nào phụ chị sao?”. Thấy có người quan tâm, chị đen có vẻ xúc động, nỗi xúc động mà tôi linh cảm như của một con người thường bị hất hủi bỏ rơi. Chị nói nhỏ lại “Tui tên Amy, là tên Mỹ đó, còn tên Việt nam, tui không thích nó…”. Chị có tên Việt nam? “Ừa, mà tui ghét nó lắm…”. Tôi ngạc nhiên “Tại sao chị lại ghét tên mình?” Chị đen im lặng, và rồi chị kể, bằng cái giọng quê mùa mộc mạc ….

… ” Khi Má sinh ra tui thì mọi người ai cũng đã ghét tui rồi. Chỉ vì tui ra đời dưới ngôi sao xấu, bởi vì cái màu da đen đúa không sao che dấu được của tui. Tui đâu có quyền được chọn màu da gì để sinh ra, cả Má tui cũng không chọn được cho tui. Nhà tui nghèo lắm, ở ven bờ một con sông. Gia đình tui gồm có sáu người: Má và năm chị em, chị Hai, chị Ba, chị Tư , tui, rồi đến em trai Út. Mấy chị và em trai là da vàng, chỉ có tui là đen thui thôi. Nhà tui nghèo mạt rệp, cả căn nhà dột nát không có cả cái bàn hay cái giường, cái ghế. Một mình Má đi mò ốc cả ngày để bán lấy tiền mua đồ ăn cho sáu miệng ăn. Mới ba, bốn tuổi là tụi con nít đã ghét tui. Tui tên Tí, họ Mai là họ của Má, vì Ba bỏ Má từ khi Má mới có bầu tui. Tụi con nít cả đám cứ đi theo sau tui hát nhạo là “Cút về Mỹ đi con Tí đen”. Có đứa còn lấy que tre vít cứt chim, cứt gà rồi kêu cả bọn xúm lại đè tôi xuống, trét vô miệng tui, tới khi nào tui lạy, tui khóc thì tụi nó mới tha.

Năm sáu tuổi, Má cho tui với mấy chị đi học trường làng, nhưng tụi học trò khinh ghét tui lắm. Có lần tụi nó hè hội đồng tống một đống cứt gà vô miệng, tui không chống cự được nên nuốt vô cổ họng, nghe thúi ình và chua loét. Tui oẹ ra, tụi nó bóc nhét vô lại. Tui vùng vẫy, la hét. Thấy tui khóc dữ quá, mấy chị và em trai xúm lại binh, thì tụi nó đánh mấy chị, vừa đánh tụi nó vừa chửi ” Đồ Mỹ đen không cha cút về nước đen mà sống “. Lần đó tui chạy về khóc với Má sưng cả mắt. Má cứ im lặng và rồi bà cho tui nghỉ học luôn. Nhiều lúc tui thèm được đi học, thèm được chơi chung, bất cứ trò chơi nào với chúng bạn, vậy mà đứa nào cũng chê là tui đen, tui dơ, tui thúi… hổng ai thèm chơi.

Tui tủi thân lắm nên hỏi Má. Má bảo là “Ba bỏ Má từ lúc tui chưa sinh ra nữa”. Tôi ức lắm, hỏi lại “Thế Ba tên gì? Sao Má không đi tìm?”. Má im lặng, rồi Má khóc. Tui thương Má quá, và tui ghét Ba lắm. Tui thề sẽ có một ngày tui tìm gặp Ba và hỏi Ba cho ra lẽ…”. Im lặng. Chị đen tiếp “Tại Ba mà giờ này tui vẫn chưa biết đọc, biết viết. Người ta nói là tui mù chữ. Mắt tui sáng mà, tui thấy đường, nhìn tờ báo thì tui chỉ thấy hình, chớ không biết đọc”…

Rồi từ đó tui thui thủi chơi một mình. Nhà nghèo quá làm gì có tiền mua đồ chơi, nên tui cứ quanh quẩn bên bờ biển mà lượm mấy cái vỏ ốc, hốt cát bỏ vô đó, rồi đổ đi, rồi lại hốt vào. Hễ có lượm được cái vỏ ốc nào đẹp đẹp, tui để dành vô cái thùng giấy, lâu ngày có nhiều, tui đem ra ngắm một mình , thích lắm. Tui nhớ lần nọ tui đem ra khoe con bạn, nó lại kêu mấy đứa khác tới coi. Tui khoái lắm, trong bụng chắc mẫm thế nào bọn nó cũng khen cho coi. Ai dè, tự dưng thằng Tọc giựt mạnh một cái làm rách thùng giấy, rồi nó quăng tung tóe hết cả chục cái vỏ ốc của tui ra biển. Tui hoảng hốt giơ hai tay chụp lại nhưng không kịp, thế là mất hết đống vỏ ốc ” gia tài ” mà tui gom góp gần cả năm trời. Tui đứng đó khóc ròng, cúi xuống nhìn thì chỉ còn sót lại trên cát một cái vỏ ốc to bằng nửa bàn tay, một bên màu đen còn nửa bên kia màu trắng. Tui lật đật lượm lên, dấu vào túi áo. Đám trẻ xúm quanh la to “Cút về Mỹ mà lượm vỏ ốc. Ở đây không có thứ gì cho mầy đâu, đồ da đen”. Tui tủi thân quá chạy về nhà khóc với Má. Lần đó Má cũng khóc. Hôm đó Má nói “Làm cái vỏ ốc mà còn sướng hơn Má con mình, bởi nó không biết buồn, không biết khóc, nó tự do khi thì nằm trên cát, lúc lại nhập vào biển cả bao la. Còn Má con mình, suốt đời chỉ sống nhục mãi ở đây thôi”. Tui quý cái vỏ ốc trắng đen này lắm, cứ lâu lâu đem ra nhìn. Phần nửa màu đen, sao mà đen thủi đen thui giống da của tui, còn bên kia màu trắng lại óng ánh như có pha lê. Nhớ có lần Má tui dạy “Con người ta giống cái vỏ ốc này vậy, có đen có trắng, có tốt có xấu. Da con dù có đen như bên này, nhưng con phải sống tốt, sao cho cuộc đời mình có ý nghĩa mà óng ánh như nửa bên kia”…

Một hôm bỗng dưng Má nói “Tí đen ơi, đúng là Trời thương Má con mình, mình sắp hết khổ rồi…”. Thì ra là chính phủ nước của Ba tui (chính phủ Mỹ) cho nhà tui đi theo diện con đen (con lai). Má và tui mừng hơn bắt được vàng. Lúc vô phỏng vấn, tui run quá nên cứ khóc, mà tay chân thì lạnh ngắt. Tui cứ sợ ông Bill – tên ông hỏi chuyện Má tui, mà thấy tui đen, tui xấu, tui hôi, tui dơ… ổng không cho đi thì tui phải ở đây suốt đời tui khổ lắm. Má tui cũng khóc, năn nỉ cô thông dịch xin ông Bill cho đi Mỹ. Lúc đó tui nghe ai cũng nói ở Mỹ sướng lắm, con nít được đi học, dù mình đen cũng không ai đánh mình, không ai nhét cứt vô miệng mình… Khi đó chị Hai và chị Ba có chồng rồi, còn chị Tư và em trai thì chưa. Má định nếu được đi Mỹ rồi thì Má sẽ nhờ người làm đơn xin chính phủ cho chị Tư và em tui đi sau. Đêm trước hôm phỏng vấn, Má lo quá không ngủ được, mấy mẹ con cứ ngồi ôm nhau khóc cả đêm. Với gia đình tui, thì nước Mỹ là thiên đàng, chỉ tới Mỹ thì chúng tui mới hết khổ. Khi ông Bill biết rằng chị Tư và em trai còn độc thân, ông nói “Chiến tranh đã làm cho Bà và các con cực khổ, nên nay vì nhân đạo, chúng tôi cho Bà, cô con gái lai và cả hai người con độc thân cùng đi để qua Mỹ đùm bọc nhau mà sống”. Cả nhà tui khóc, vì mừng quá, đến nỗi quên cả nói lời cám ơn ông Bill…

Đặt chân đến “thiên đàng” Virginia, bốn Má con tui không biết một chữ tiếng Anh, nói không được câu nào, mà đọc cũng rặn không ra, còn viết thì một chữ bẻ đôi cũng không biết. Một người quen cùng làng ngày xưa nhận ra Má nên giúp tìm dùm cho chúng tôi thuê một căn appartment nhỏ xíu một phòng ngủ để cả nhà ở chung.

Cả nhà tui đi làm đủ thứ nghề nặng nhọc đễ đắp đỗi qua ngày. Tui còn nhớ lần thi vô quốc tịch, tui lo quá chừng, cứ học thuộc lòng những câu hỏi như con vẹt, vì tui có đọc và hiểu được chữ nào đâu. Có một chị người Việt đọc cho tui nghe các câu hỏi rồi biểu tui học cho thuộc, hễ người ta hỏi câu nào thì trả lời y như đã thuộc. Vậy mà may mắn ghê, tui đậu. Khi họ hỏi tui muốn có tên Mỹ không, hay vẫn muốn giữ cái tên Việt nam là Tí Mai, thì tui khóc. Không biết nói tiếng, tui nhờ cô thông dịch nói dùm với ổng là “Tui ghét lắm cái tên Tí đen, vì nó đen như màu da tui, đen như tuổi thơ nghèo hèn của tui”. Ông Mỹ trắng hỏi tui muốn tên gì. Lúc đó tui chỉ nhớ đến đứa cháu họ xa, đi lính cho quân đội Mỹ. Có một lần về thăm Má con tui ở Virginia, nó nói lý do nó đi lính là vì nó muốn đền ơn chính phủ. Tui nhớ mang máng nó có nói quân đội Mỹ gọi là… “AMI”… gì đó thì phải. Thiệt tình khi đó tui không biết chữ “AMI” viết làm sao nữa, nên tui nói đại với cô thông dịch là “Tui muốn cám ơn chính phủ Mỹ, cám ơn ông Bill đã thương mà cho Má con tui đi, nên tui muốn có tên Mỹ là AMI, có nghĩa là quân đội”. Tui còn nhớ khi nghe tui nói vậy thì cô này cười, dễ thương lắm, và cô viết tên tôi lên tờ giấy đưa cho ông Mỹ. Thế là passport của tui có cái tên Amy Mai từ đó. Mãi sau này tui mới biết là cô đã quên chữ e rờ (R), vì quân đội viết là “army”, nhưng sao có người lại nói với tui là cô ta cố tình quên…?

Sau đó vài năm thì phát hiện ra là Má tui bị có nước trong phổi. Bác sĩ sau khi hỏi cặn kẽ thì giải thích rằng “Do Má ngâm nước lạnh hằng mấy chục năm liền khi đi mò ốc, nên giờ phổi Má yếu lắm”. Mấy chị em sợ quá, đứa nào cũng đi làm quần quật mà không sao đủ tiền mua thuốc cho Má. May mà Trời thương, nên lại có người hàng xóm ngày xưa biết chuyện, bảo chị em tui qua Cali ở đi thì khí hậu ấm sẽ tốt hơn cho sức khỏe của Má. Nhưng tiền đâu mà mua vé máy bay? Cô Anh bảo “Khi xưa lúc chồng cô mới chết, cô một mình với con nhỏ, sức khỏe yếu nên không sao ngâm nước nổi, nhờ Má cho cô bữa bịch ốc, khi mấy con tôm mà sống qua ngày, nên cô muốn đền ơn Má bằng cách mua bốn vé máy bay cho chúng tôi qua Cali, cô cũng đã thuê sẵn một appartment nhỏ (cô Anh đã trả trước một tháng tiền nhà) cho Má con tui.

Thế là cả nhà kéo nhau qua Cali. Cả tháng trời không ai xin được việc làm. Khi chỉ còn vài ngày là hết tháng, tụi tui lo lắm vì tiền đâu để trả cho tháng tới? Gọi phone cho cô Anh thì cô và gia đình đi đâu rồi nên không sao liên lạc được. Một buổi tối trước ngày Giáng sinh, mấy Má con đứng đón bus về nhà. Trời lại lạnh, bụng ai cũng đói, nên không còn sức để mà đi, cứ đứng mà run. Chúng tôi thấy nhiều người đi vào một nhà thờ nhỏ. Vì lạnh quá, nên chúng tôi cũng đi vô đại định tìm một chỗ trú cho ấm chút rồi sẽ về. Đó là buổi tối đánh dấu một bước ngoặc lớn trong cuộc đời chúng tui. Trên kia, mục sư Bảo đang giảng về tình yêu của Chúa. Ông nói “Chúa luôn dang rộng vòng tay yêu thương cho mọi người”. Có lẽ lúc ấy, vì quá buồn, mỏi mệt và tủi thân, nên bốn Má con đứng khóc ròng. Một người đàn bà bước lại hỏi thăm  sau này tui mới được biết là vợ mục sư Bảo). Má con tui thật lòng kể hết. Vợ chồng mục sư cùng một vài cô chú ở nhà thờ thấy tội nghiệp nên chở dùm mấy Má con về nhà, rồi hôm sau người ta đem đồ đến cho, bàn ghế, quần áo, tiền bạc, thức ăn. Rồi đích thân vợ chồng mục sư giúp điền đơn dùm Má con tui để xin tiền bệnh, tiền trợ cấp. Cũng chính nhờ sự động viên, nâng đỡ cả về vật chất lẫn tinh thần mà má con tui mới sống nổi qua ngày…

Và từ đó chúng tui đi nhà thờ mỗi chủ nhật. Cám ơn Chúa. Cầu nguyện cho Má mau hết bệnh. Cầu nguyện cho mấy chị em có công ăn việc làm. Các cô chú trong nhà thờ đối xử rất tốt với tui, không ai nhìn màu da tui mà khinh khi hết. Tui vui lắm khi mọi người cứ kêu “Amy, đến phụ cô làm cái này đi!”, “Amy, ăn chút gì cho có sức rồi hẵng làm chứ cháu ..”. Và tui biết là ở nơi nào có Chúa, thì tui có tình thương…

Mang ơn vợ chồng mục sư Bảo và các cô chú trong nhà thờ, nên mấy chị em tui tình nguyện làm bất cứ việc gì nhà thờ cần. Tiền thì không có, nên chúng tui đóng góp bằng công sức và thời gian. Tui không bao giờ buồn vì công việc mình làm hết. Mà cầu tiêu ở Mỹ sạch sẽ lắm kìa, không có dơ, không có thúi như mấy đống cứt gà mà hồi nhỏ tui phải nuốt đâu. Tui vui lắm, dù công việc có cực nhọc cách mấy, vì tui biết mình làm là đền đáp công ơn Chúa…

Và rồi một ngày Chúa gọi Má tôi về với Ngài. Bà chết khi trong túi mấy chị em cộng lại hết vẫn chưa được một đồng. Lúc còn sống, Má cứ ước có tiền về Việt nam thăm chị Hai, chị Ba và các cháu. Vậy mà mơ ước chưa thành, Má đã ra đi. Tui còn nhớ lúc biết mình sẽ không qua khỏi, Má nói với các chị em tui “Ngày xưa Má cứ ước ao cả nhà mình qua đến được thiên đàng, nhưng nếu như Má có mất thì mấy con ráng lo cho Má về Việt nam mà chôn cất, dù gì nằm bên bờ sông ngày xưa với mấy con ốc, Má vẫn thấy ấm lòng hơn…”. Cả nhà ai cũng đều biết ước nguyện cuối cùng của Má là được chôn nơi miền quê cha đất tổ, mà đào đâu ra tiền để chở xác Má về Việt nam? Tụi tui chỉ biết khóc, vì không mua nổi một quan tài cho Má. Vợ chồng mục sư Bảo biết rõ ước nguyện của Má, nên tối nào mục sư cũng lên đài kêu gọi mọi người giúp một tay. Đêm nào mấy chị em cũng ngồi trên đài với mục sư Bảo và tụi tui cứ khóc, thương Má, mang ơn vợ chồng mục sư và tất cả những người hảo tâm. Nhiều người mang tiền đến tận nhà giúp. Cuối cùng quyên góp được 16 ngàn đồng – cả một gia tài mà mấy chị em tui không bao giờ dám mơ tới. Phải, 16 ngàn đồng – con số này suốt đời tui không thể nào quên. Đó là công ơn của hằng trăm người, mà nhiều nhất là vợ chồng mục sư Bảo và bác sĩ Nguyễn Hùng. Anh Tuấn ở nhà quàn biết hoàn cảnh nhà tui, nên anh bớt cho hai ngàn tiền chi phí chuyên chở xác Má về Việt nam. Em trai tui được mua vé đi cùng về Việt nam với Má. Rồi số tiền còn lại thì mục sư đưa cho em tui về mua đất và lo chôn cất Má. Thế là cuối cùng Má cũng được về yên nghĩ vĩnh viễn bên vùng ven biển ngày nào với những con ốc nhỏ ngày xưa. Tạ ơn Chúa. Tạ ơn những tấm lòng…

Hôm đưa em trai ra phi trường, tui đưa nó gói giấy trong đó có cái vỏ ốc trắng đen. Tui dặn nó nhớ thảy xuống huyệt khi chôn Má. Nó không chịu, hỏi lại là “Chị quý nó lắm mà?”. Tui gật đầu. Nhưng tui biết Má thích biển, và đặc biệt là cái vỏ ốc này, Má cũng quý nó như tui. Lời Má dạy con ghi nhớ, con không tiền, không có gì tặng Má. Thôi con gửi Má cái vỏ ốc này, Má mang theo mà về với Chúa. Mong Má nói với Ngài rằng “Con Tí đen vẫn luôn cố gắng sống tốt, sao cho cuộc đời đẹp và có ý nghĩa như nửa trắng óng ánh bên kia của vỏ ốc…

Chị Amy ngừng kể. Tôi im lặng, vì tôi biết có nói gì cũng sẽ là rất thừa thãi vào giây phút này. Bất chợt chị nói “Tui không biết tên Ba, phải chi tui được gặp lại ông Bill năm nào phỏng vấn, có thể tui nhờ ổng tìm ra Ba tui… “

– Chị mong gặp lại Ba chị à? Chị không giận Ba sao?

– Ngày xưa tui ghét Ba lắm. Nhưng Chúa dạy rằng “Mình phải biết tha thứ và yêu thương. Tui chỉ mong gặp Ba, để nhìn ông và kêu một tiếng “BA” một lần trong đời”. Ngừng một chút, chị tiếp “Và tui sẽ nói rằng “Ba đã làm Má khổ và con buồn. Vậy thôi…”

Gió ngoài trời lành lạnh, báo hiệu một mùa Giáng sinh nữa lại sắp đến. Tôi hỏi “Năm nay Giáng sinh, chị sẽ làm gì?”. Chị Amy buồn buồn đáp “Tui đến nhà thờ dọn nhà cầu, khiêng bàn ghế, lau chùi các phòng, dự Thánh lễ rồi về nhà… nhớ Má. Má mới mất năm ngoái thôi, nên tui nhớ bả lắm, nhớ cả cái vỏ ốc trắng đen ngày xưa…”. Chị lại tiếp “Năm nào tui cũng đâu có tiền mà mua gì dâng tặng nhà thờ, hay tặng vợ chồng mục sư – người mà gia đình tui mang ơn cả đời, nên tui chỉ biết cầu nguyện cho mọi người. Nhiều lúc tui buồn lắm, vì không năm nào có tiền mua món quà gì dâng Chúa…”

– Những gì chị làm, chắc chắn là Ngài sẽ biết mà. Tôi tin chắc là thời gian, công sức và tấm lòng của chị, sẽ là một trong những món quà mà Ngài ưng ý nhất…

Chị Amy chỉ cười, không nói. Tự dưng chị hỏi “Khi nào cuộc đời tui đăng lên báo, chị cho tui xin ba tờ được không?”

– Được chứ. Tôi đáp ngay.

– Tui sẽ mang biếu vợ chồng mục sư Bảo một tờ, bác sĩ Nguyễn Hùng một tờ, còn một tờ tui sẽ nhờ ai đó đọc cho tui nghe, tại tui không biết chữ, rồi thì tui sẽ giữ nó mãi suốt đời. Phải chi Má còn sống, nghe đọc tờ báo này, chắc Má tui vui lắm…”.

Chị Amy nhờ tôi gửi bài viết này kính tặng vợ chồng Mục sư Nguyễn Xuân Bảo, bác sĩ Nguyễn Hùng cùng tất cả những tấm lòng nơi Thánh đường Sàigòn. Chị nói “Đây là món quà – từ trái tim, chị dâng tặng mọi người nhân mùa lễ Giáng Sinh “.

Trước khi chia tay, tôi hứa sẽ mang tặng chị Amy ba tờ báo, và sẽ đọc cho chị nghe. Chị nói “Cám ơn người đẹp”. Tôi ngượng ngùng “Chị đừng gọi tôi là người đẹp, kỳ lắm”. Amy đáp “Đẹp chứ, bởi vì chị trắng hơn tui..”…

Tôi quay đi. Chạnh cả lòng. Nhìn xuống làn da mình, tôi tự hỏi “Cuộc đời này có được bao người thật sự “trắng da” hơn chị?”

Hoàng Thanh

From: Tu-Phung