Những người năm cũ – Dư Thị Diễm Buồn -Truyen ngan

Dư Thị Diễm Buồn

Bọn nữ sinh chúng tôi thường đi học sớm. Kẻ đứng, người ngồi rải rác trong sân cỏ xanh để chờ ông cai trường mở cửa vào lớp. Chúng tôi đồng phục áo dài trắng, quần đen, hoặc quần trắng thướt tha lượn qua lượn lại nhởn nhơ như đàn bươm bướm trắng. Có đứa đùa giỡn, rược bắt, có đứa nói chuyện ồn ào, có đứa kể chuyện tào lao, có đứa chọc bạn, phá thầy. Và có đứa tư lự nhìn trời xanh mây trắng mà mộng, mà mơ ở tuổi xuân hồng.

Tôi là học sinh chuyển trường. Trung hoc Đệ nhứt cấp tôi học ở trường khác. Sang Đệ nhị cấp tôi được vào trường Trung học Đoàn Thị Điểm Cần Thơ. Lúc đó bà Trần Thị Nhơn quyền Hiệu trưởng. Dù được vào trường nữ trung hoc lớn nổi tiếng ở Tây Đô của miền Hậu Giang. Nhưng tôi vẫn nhớ về trường xưa, thầy cũ và bè bạn vui buồn có nhau, cùng lớp chung trường mà đã bao năm mài thủng ghế nhà trường đễ trau giồi kinh sử…

Ngôi trường mà bốn năm, từ lớp Đệ thất đến Đệ tứ tôi hai buổi đi về, nắng gội mưa chan đã cho tôi biết bao là kỷ niệm lúc thiếu thời. Trước sân trường cũ của tôi có khoảng sân đất rộng trồng nhiều cây anh đào. Mỗi năm vào mùa hoa anh đào nở, cả sân trường rợp màu hồng nhạt trên nền cỏ xanh mướt, dưới bầu trời quang đãng ngập nắng mai, và gió xuân phơi phới. Giờ ra chơi, chúng tôi thường ngồi dưới cội anh đào, tụm năm, tụm ba tán gẫu, đùa giỡn tung tăng.

Tôi vẫn nhớ rõ vào năm Đệ tứ niên, nhằm cuối mùa hoa anh đào nở. Một hôm đang đứng ở hiên trường nói chuyện với bạn bè, thì cô thư ký đến cho biết Hiệu trưởng gọi. Tôi lật đật vuốt lại mái tóc, sửa lại tà áo, nếp quần cho ngay thẳng rồi e dè đi theo sau cô.

Hiệu trưởng của chúng tôi là ông giáo già người miền Bắc. Ông đã làm Hiệu trưởng nhiều năm ở Tiểu học. Vợ ông là cô Như Mai cũng dạy học trò như chồng. Ông Hiệu trưởng nổi tiếng khó trời đất! Đứa nào vô phước được ổng gọi thì coi như khổ dài dài. Không bị “con-sin” vì dưới điểm trung bình hàng tháng, hay trong các lần thi Tam cá nguyệt, Lục cá nguyệt, thì cũng bị rầy về phạm kỷ luật, hay chuyện gì đó chớ hiếm thấy người nào “bị” gọi lên mà gặp chuyện tốt lành. Nhưng phải công nhận rằng, trường nào được ông hướng dẫn, và nhứt là các lớp của ông dạy. Chỉ số hàng năm học sinh thi đậu rất cao, cao hơn hẳn nhiều trường khác.

Mặt tôi nhăn nhó như con khỉ ăn phải ớt, nặng trĩu và dài ra như cái bị chín quai! Bởi tôi vừa sợ, lại vừa lo không biết việc gì sẽ xảy đến đây? Tôi tự trấn an cho mình “Phải bình tĩnh! Phải bình tĩnh!” Tôi làm động tác thở ra một hơi thật dài, rồi hít vào buồng phổi không khí mát mẻ trong lành để lấy bình tĩnh.

Nhưng tội nghiệp lắm! Thật sự, tôi không bình tĩnh chút nào hết! Vừa bước vào cửa phòng Hiệu trưởng, thấy ông trễ cặp mắt kiếng lão nhìn tôi từ đầu đến chân. Sợ quá, tôi vội chụp ngay vào thành cái ghế dựa trước mặt, lí nhí trong miệng:

–  Dạ thưa, Hiệu trường gọi con?

Ông không trả lời ngay, nhìn thẳng vào mặt tôi, hỏi:

–  Chị là Minh Thu học lớp Đệ tứ 1 đấy à?

Tôi run giọng, trả lời:

–  Dạ thưa Hiệu trưởng, con là Minh Thu, hoc lớp tứ 1.

Đôi mắt nghiêm khắc và sắc bén của ông làm tôi lính quính:

–  Chị có biết tại sao tôi gọi chị lên đây không? Chị năm nay bao nhiêu tuổi rồi?

Tôi lập bập trả lời:

–  Dạ thưa Hiệu trưởng, con 17 tuổi. Con không biết tai sao Hiệu trưởng gọi con?

Ông thẳng thừng nói một hơi:

–  Phải lo học hành, để sau nầy được vào các ngành nghề mình muốn. Có công ăn việc làm để trả ơn cho cha mẹ, và bản thân chị cũng được khỏe, không phải vất vả vì cày sâu, cuốc bẩm hay buôn gánh bán bưng… Mới nứt mắt mà chị đã bày đặt “có bồ có bịch” rồi phải không? Nếu có bồ thì nghỉ học ở nhà, để chỗ cho những người khác chuyên tâm vào học hành. Vả lại, luật của nhà trường không nhận thư tình, chị có biết không?

Tôi chới với, như trên trời mới rớt xuống! Ông nện luôn mấy câu:

–  Tôi có đỗ oan cho chị đâu. Chị hãy xem đi. Bức thư tình của chị đó!

Ông Hiệu trưởng lấy ra bức thư từ hộc tủ, có đóng con dấu bưu điện và đã mở ra rồi. Ông thảy trước mặt tôi. Mặc dù lúc đó tôi chưa có bồ, và tôi cũng không biết ất giáp gì về bức thư nầy! Nhưng tôi sượng sùng và sợ hãi đến nỗi đứng không muốn vững. May mà nhờ vịn vào cái ghế trước mặt, nếu không thì chắc tôi ngã quỵ rồi. Ông Hiệu trưởng không để cho tôi nói, hay phân bua lấy nửa lời. Ông đẩy lá thư đến gần tôi hơn, dằn từng tiếng:

–  Chị cầm về xem đi để mà hối lỗi. Lần nầy chị may mắn được tha, nhưng không có lần sau! Từ rày nếu ai gởi thư đến cho chị nữa thì chị sẽ bị đuổi học!

Tôi cầm lá thư, riu ríu đi trở về lớp mà nước mắt chảy ròng ròng!

Trong lớp học, thầy giáo vẫn đứng trên bục giảng bài. Hình như thầy không biết, và không đếm xỉa gì đến những chuyện lẩm cẩm của đám học trò. Các bạn trong lớp, đứa ưa thì nhìn tôi ái ngại, xót thương. Mấy đứa không ưa thì nhìn tôi với ánh mắt hả hê ra điều đắc ý. Mặc dù chúng không biết nguyên nhân gì tôi bị gọi lên gặp Hiệu trưởng.

Rồi cuối năm đó, lớp chúng tôi lo gạo bài để thi lấy bằng Trung học Đệ nhứt cấp. Và trước khi thi chúng tôi còn phải lo làm đơn chuyển trường. Vì trường chúng tôi không có Đệ nhị cấp. Bận rộn quá, tôi cũng đã quên mất bức thư ai đã gởi đến cho mình không đề tên người gởi, mà Hiệu trưởng cho đó là bức thư tình.

Cuộc chiến Quốc Cộng trên quê hương ngày càng sôi động. Cha, mẹ, anh, chị… không ngại gian lao ngoài việc xả thân chống giặc, còn lo cơm áo để cho con em mình an tâm cắp sách đến trường giồi mài kinh sử. Thời gian qua mau, học hết năm Đệ nhứt, chúng tôi rời trường như bầy chim lìa tổ. Xoãi đôi cánh mềm bay vào bầu trời bao la có đầy hương thơm, cỏ lạ, có cây lành cho trái ngọt. Dưới không gian bát ngát, thân thiện nồng ấm tình người của vùng đất tự do miền Nam rộng mở và chào đón chúng tôi.

Chúng tôi được người đi trước ươm mầm, uốn nắn diều dắt, chăm sóc dạy dỗ, tôi luyện trong vòng tay nhân ái, lễ nghĩa… Để chúng tôi có đủ khả năng trong các ngành, các nghề. Khi có thể đương đầu với bão táp chung quanh, thì chúng tôi rời ngành nghề chuyên môn ra tạo dựng vững chắc đời mình và giúp người.

Sau khi học xong nghề, tôi được về nhận việc ở Trung Tâm Y Tế Toàn Khoa Mỹ Tho. Đầu năm 1968 (sau Tết Mậu Thân). Thuở đó, Bác Sĩ Võ Văn Cẩn quyền Trưởng Ty Y Tế.

Trong dịp tình cờ tôi gặp lại thầy Hiệu Trưởng năm xưa đi khám bịnh. Ông vẫn điềm đạm, ít nói, dáng gầy gầy, tóc trắng nhiều hơn tóc đen và cặp mắt kiếng vẫn trễ xuống. Khi tôi chào, ông hỏi:

–  Xin lỗi, chị là ai tôi không nhớ?

Tôi không còn run sợ như xưa nữa, mà mỉm cười lễ phép trả lời ông:

–  Dạ thưa Hiệu Trưởng, con là Minh Thu học lớp Tứ 1.

Ông châu mày, mắt nhìn trời xa xăm như cố tìm nhớ lại. Bỗng ông “à” một tiếng! Nhưng ánh mắt ông vẫn nghiêm khắc và pha nỗi u buồn, nhìn sâu vào mắt tôi dịu giọng:

–  Tôi nhớ ra rồi, phải Minh Thu bị tôi rầy về bức thư nặc danh không? Lúc đó tôi cố tình rầy chị. Thật ra chị có tôi vạ chi đâu? Chắc chị giận tôi lắm phải không? Lâu quá rồi, chị còn nhớ nội dung bức thư đó không?

Tôi không ngần ngại, lanh lẹ đọc một hơi như đang trả bài thuộc long. Tôi đọc không sót một chữ:

“Em đứng nghiêng mình dưới nắng mai
Vịnh ngành sương đọng lệ hoa rơi
Cười nâng tà áo đưa lên gió
Em bảo hoa kia khóc hộ người”

–  Dạ thưa Hiệu Trưởng, trong thư chỉ vỏn ven có 4 câu thơ của Thế Lữ thôi, không còn một chữ nào khác. Con không có giận Hiệu trưởng, nhưng lúc đó con thấy thiệt là oan cho mình quá! Nay thì chuyện cũng đã qua rồi. Con nghĩ Hiệu trưởng rầy như vậy là có chủ tâm? Thưa Hiệu trưởng, cho đến bây giờ con cũng không biết thư đó của ai gởi cho con? Hiệu trưởng có biết không?

Ông thở dài:

–  Của Nguyễn Khương Tịnh lớp tứ 2. Chị còn nhớ Tịnh không? Đậu phần hai xong, nó vào trường Võ Bị Đà Lạt. Sau khi tốt nghiệp, Khương Tịnh được bổ nhiệm về binh chủng SĐ7/BB. Tổng hành dinh của Sư đoàn 7 ở đối diện cửa chánh bệnh viện nầy. Chị biết chứ?

Ông có vẻ xúc động ngừng nói. Tôi nhớ ra:

–  Da thưa Hiệu trưởng, có phải Khương Tịnh mà lần nào lễ lộc, hay bãi trường có mục văn nghệ, anh ưa hát bài “Mỗi Độ Thu Về”,  hoặc bài “Đường Xưa Lối Cũ” không?

Ông Hiệu trưởng gật đầu, tiếp:

–  Ờ, thằng đó thì nghệ sĩ lắm, nó ưa hát hò, và cũng thích viết lách. Khương Tịnh gọi tôi bằng bác ruột. Tôi biết, dạo đó thấy đám nữ sinh ngồi dưới cội anh đào nở rộ trước sân trường, nó chạnh lòng mượn thơ của Thế lữ để tỏ tình với chị. Nhưng hai người lúc đó còn quá trẻ, lại học giỏi. Thật tình tôi ngại chuyện tình cảm nam nữ dây dưa làm hỏng đường học vấn của hai người. Nên một mặt rầy chị và mặt khác ngăn cấm nó. Tội nghiệp! Một thanh niên ưu tú như vậy mà vắn số! Nó đã qua đời 6 tháng trước, trong lúc dẫn quân về truy lùng địch ở trận Bà Bèo (một địa danh nằm trong tỉnh Định Tường).

Tôi rời trường Trung học Đệ nhất cấp tính đến nay đã mười mấy năm rồi. Thật sự tôi không biết gì về việc nầy! Nay nghe thầy Hiểu trưởng kể lại tôi cảm thấy lòng mình xao động! Bùi ngùi thương tiếc thuở học trò và người bạn năm xưa.

Tôi chép miệng thở dài nhìn mưa bay bay trong bầu trời xám đục. Mưa lê thê cùng gió lành lạnh đầu xuân của vùng Hoa Thịnh Đốn, đã làm tan tác những cánh hoa anh đào tức tưởi tàn mau. Lòng tôi đang bồi hồi xúc động nhớ đến những chuyện ngày xưa dưới mái trường.

–  Mưa thế nầy, người ta cũng muốn bịnh, nói chi hoa anh đào không rụng hết sao được!

Tiếng nói bâng quơ, khi mắt vẫn không rời những hạt mưa rơi lác đác của chị Lành (hiền thê anh Hiền, nhóm TX), làm tôi quay về thực tế. Tôi hỏi chị:

–  Ủa anh Hiền đâu, mà chị ở đây?

Chị cười, nhưng mắt vẫn nhìn bầu trời mông lung ảm đạm:

– Ổng lạc đâu mất tiêu rồi. Tôi lạnh quá, thấy chị nên đến nhập bọn để cùng đi về.

Lúc khởi hành du ngoạn, chúng tôi có từng nhóm hẳn hoi, có người dẫn đầu cầm cờ nhiều màu sắc khác nhau cho phân biệt. Tôi từ vùng Sacramento đến (chỉ một người) nên tôi tự nhập vào toán cờ vàng.  Bởi màu cờ vàng hợp với tôi hơn.

Sau khi mỗi người nhận phần ăn trưa, giấy xe ra vào cửa để đi từ trạm xe ngừng gần nhứt của khách sạn. Nơi mà đồng môn và thầy cô tạm trú trong thời gian mấy ngày về dự đại hội. Hôm nay, chúng tôi đi thăm bảo tàng viện, tòa nhà Quốc Hội, xem diễn hành, và ngắm hoa anh đào ở vùng Hoa Thịnh Đốn đẹp nổi tiếng trên nước Mỹ nầy.

Trời chẳng chiều lòng người! Mưa rơi lách tách cả đêm rồi. Vậy mà sáng, mây đen phủ cả vùng trời Washington và mưa lại rơi nữa. Mưa rơi đều đều. Đoàn người du ngoạn của chúng tôi vẫn lên đường, không ngại gì mưa gió. Mưa vẫn tiếp tục rơi! Mưa rơi càng ngày càng nặng hột. Những người có dù, có áo che mưa cũng bị ướt loi ngoi thì nói chi người không đem theo dù che, áo phủ…

Chúng tôi đến bảo tàng viện thì coi như rã hàng vì đông người, và vì có rất nhiều vật trưng bày để cho du khách thưởng lãm. Trong toán, người thích xem thứ nầy, kẻ thích ngắm thứ kia… hoặc người muốn chụp hình lưu niệm nên không thể cứ chờ đợi nhau mãi. Chị hướng dẫn để mọi người đi riêng và dặn phải đến chỗ hẹn đúng giờ. Tôi biết thân, bởi mình vừa quê mùa lại vừa dốt, giống như Tư Ếch đi Sài Gòn. Tôi sợ lạc không biết đường về, cho nên bám sát đuôi vợ chồng sư huynh sư tỷ Thanh Bạch, Thầy Đàm, anh chị Chín (thầy và những đồng môn này từ Arizona qua)… cùng người hướng dẫn đoàn. Thế mà khi lên xe trở về khách sạn chỉ còn có mấy người: Thầy Đàm, chị Lành, một anh ở Atlanta, tôi, và hai vợ chồng anh chị (không nhớ tên) và người hướng dẫn thôi.

Tôi mừng vui và xúc động khi về đến khách sạn thì gặp lại cô Hiệu trưởng Trần Thị Nhơn. Cô ngồi giữa và học trò vây quanh nơi phòng tiếp tân của khách sạn.

Tôi không làm sao quên được, thuở đó cô dạy tôi môn Anh văn. Tôi đã rời trường từ năm 1965. Thời gian qua như chớp mắt. Cuộc đời theo vòng quay của kim đồng hồ và đổi thay theo vận nước nổi trôi! Mới đó, mà nay đã hơn 40 năm rồi còn gì? Tóc cô trắng phau phau. Chợt nhớ lại, tôi mỉm cười! Bây giờ mình cũng đã hai màu tóc, cũng là bà ngoại rồi chớ bộ!

Mỗi năm về dự Đại hội của đại gia đình cựu học sinh Trung học Phan Thanh Giản và Đoàn Thị Điểm (Cần Thơ), tôi được gặp lại những bạn cũ, thầy xưa, những nhân viên hành chánh có thời làm việc ở trường. Mặc dù những bạn không cùng lớp, những thầy không trực tiếp dạy lớp mình. Cho dù những hình ảnh đó, dáng dấp đó có thay đổi theo thời gian, theo năm tháng… Nhưng đã cho tôi sống lại những kỷ niệm ngọt ngào thân thương của thời son trẻ.

Năm nay, ngay vừa đến phi trường Washington Dullas, thì tôi gặp một số anh chị đến trước, trong đó có Thúy con chị Huệ (ở TX), và nàng Bé Xíu. “Nàng Bé Xíu thân mến của tôi ơi! Tôi không ngại ngùng hay mắc cỡ khi thú thật với các đồng môn của chúng ta rằng: Ngày xưa ở trường tôi sợ nhứt vì tánh liếng khỉ chọc bạn phá thầy của nàng. Một trong những tác phẩm đã phát hành, có đoạn nói về trường cũ, tôi không quên nhắc về nàng đó”.

Thuở còn là nữ sinh Đoàn Thị Điểm, nàng Bé Xíu của chúng ta tròn trịa, người thấp, nước da mịn màng, trắng hồng, tánh tình hồn nhiên, miệng cười xinh xắn, rất dễ thương. Tôi ngại và sợ nhứt là mỗi lần đi ngang qua mặt nàng. Không phải mình tôi ngại, mà gần như những đồng môn thuở đó hay bị nàng Bé Xíu khều, nắm áo dài, cột đuôi áo, hay nói câu chọc ghẹo…

Tôi nhớ không lầm có lần nàng Bé Xíu của chúng ta ghẹo chị bạn học (ở Sóc Trăng hay Cà Mau lên học ở trương ĐTĐ. Tôi không nhớ tên chị). Bọn nữ sinh chúng tôi thuở đó đi học đứa nào cũng đội nón lá, hoặc nón vải (rất ít). Còn chị bạn nầy thì luôn che cây dù màu đen, cán ngoéo. Vóc người chị ốm, cao, lưng hơi cong cong, miệng hơi hô, tướng đi hơi lom thom. Nhưng chị học giỏi lắm (về sau hình như chị được học bổng du học ở Mỹ?). Nàng Bé Xíu thân mến của chúng ta đứng trên lầu nhìn xuống thấy chị, bèn rống họng lên hát lớn: “Cái đít Ba Tàu thằng nào cũng như thằng nấy, bà già Tư Ếch đi đâu cũng xách cây dù”.

Nàng Bé Xíu hát xong thì nhanh chân “vọt” mất! Bà Mừng (Giám Thị) từ đâu trờ tới. Thế là những đứa vỗ tay cười phụ họa, và những đứa lớ ngớ vô tội vạ như tôi đang đứng gần đó bị ghi tên và có giấy mời “cấm túc” thứ bảy phải vào trường làm bài, học bài và lượm rác, làm vệ sinh…

Trong chuyến đi dự đại hội của trường, ở Washington năm nay. Tôi có dịp được gặp những nhà văn, nhà thơ, nhà báo kỳ cựu, đã thành danh lúc còn ở trong nước và hải ngoại: Nguyễn Thị Ngọc Dung, Lê Thị Nhị, Tạ Quang Khôi, Uyên Thao, Hoàng Song Liêm, Vương Đức Lệ… Ông bà chủ nhiệm kiêm chủ bút, và ban biên tập tạp chí Thời Đại. Vợ chồng bác sĩ Cường, Yến (cặp vợ chồng nầy làm ở BV Chợ Rẫy và Từ Vũ ngày xưa). Sư huynh Hồ Thanh Sơn, sư huynh Cao Thanh Tùng và sư tẩu Phượng … Còn sư huynh Nguyễn Văn Thùy của chúng ta mấy năm rồi vắng bóng, có lẽ sư huynh đã lên núi rừng thâm sâu luyện bí kiếp. Để năm nay tái xuất ở đại hội với tập sách dầy mới xuất bản hơn 700 trang.

Tôi gặp những người năm cũ, luôn về dự đại hội hàng năm của trường. Cũng có những người năm cũ, mới đi dự đại hội lần đầu tiên… Những đồng môn ở phương trời xa xứ lạ từ: Úc, Pháp, Canada, Anh… Ở cố quốc Việt Nam năm nay cũng có 2 đồng môn qua tham dự (trong thời gian các anh đến Mỹ thăm gia đình). Cùng các đồng môn ở rải rác các tiểu bang trên nước Mỹ như: Texas, Atlanta, Seattle, Arizona, Nam Bắc California, và lẻ tẻ từ nhiều tiểu bang khác…

Đại hội năm nào cũng vậy, có cái vui và cũng có cái không vui. Nó tùy thuộc vào góc độ và cảm nhận của mỗi cá nhân. Nhưng trong chúng ta ai cũng biết, tự cổ chí kim đời vốn không có gì là tuyệt đối cả!

Hành trang tôi nhận được khi trở lại nhà sau mỗi lần đi dự đại hội là: Đặc san của trường, những tác phẩm của đồng môn mới phát hành, một vài tạp chí ở địa phương… Có khi còn được gói bánh phồng tôm, gói bánh tráng dừa, gói kẹo chuối… Của các đồng môn trong dịp về thăm quê hương mang qua để dành tặng. Trước khi lên xe ra phi trường, tôi còn đươc gói sôi lá cẩm, ly giấy tạm đựng cơm nhét vào giỏ xách để phòng hờ trên quãng đường xa cho tôi đỡ đói lòng của cô bạn học, của rể con anh bạn đồng môn, của bà chị dâu tặng. Cùng đầy ắp những lời thăm hỏi chân tình, những lời chúc phúc chúc lành của thầy cô và các đồng môn…

Đối với riêng tôi, những tình cảm đó trong những lần đại hội đã qua, thật sự quá đủ và trân quý vô cùng!

Tệ xá Diễm Diễm Khánh An

Dư Thị Diễm Buồn

https://www.namkyluctinh.org/tac-gia-tac-pham/a-b-c-d/du-thi-diem-buon/truyen-ngan/nhung-nguoi-nam-cu.html


 

ĐI QUA MÙA GIÓ THỔI – Tác giả: Diệu Hạnh – Truyen ngan HAY

Chuyện tuổi Xế Chiều – Công Tú Nguyễn 

Chị bấu chặt vào cánh cửa, nhìn anh. Đôi mắt ngỡ ngàng pha lẫn hạnh phúc – thứ hạnh phúc chỉ có ở những người đã từng chờ đợi nhau hơn hai mươi năm ròng mới hiểu..

****

Hai mươi hai năm trước, chị còn là cô thiếu nữ sinh ra ở một miền quê nhiều nắng gió và nghèo. 18 tuổi, theo nguyện vọng của mẹ, thi vào sư phạm chị ngậm ngùi gác lại giấc mơ kiến trúc. Thế nhưng – chị vẫn thường trốn sang trường kiến trúc chơi, cũng dựng giá đỡ, cũng vẽ vời như thật…. rồi chị gặp anh, chàng sinh viên kiến trúc có mái tóc bồng bềnh nhưng trong đôi mắt kiên nghị lại chẳng chút bóng dáng lãng tử nào.Trong buổi giao lưu sinh viên đầu khóa, ngẫu nhiên, hai ánh mắt chạm nhau giữa đám đông, trong tiếng rock chát chúa…. rồi yêu…. anh chỉ hơn chị hai tuổi nhưng đĩnh đạc. Bên anh, chị có cảm giác được chở che. Chị như chiếc bóng lẻ giữa đời. Anh đến là cơn gió mát thổi sâu vào tâm hồn chị.

Nghỉ hè năm 3 anh muốn chị đưa anh về quê “ra mắt”. Anh phải nói dữ lắm chị mới đồng ý cho anh về nhà. Chị sợ bao nhiêu thứ ngăn cách giữa chị và anh. Anh phẩy tay, kéo chị chạy băng băng qua con đường xẻ giữa cánh đồng mênh mông. Anh cười như đứa trẻ, xắn quần quá gối, lội ruộng hái mấy nhánh lúa thơm lừng mùi sữa dúi vào tay chị. Mẹ chị cứ lo, anh công tử nhà giàu nên không hợp sống ở quê, đã vậy còn là quê nghèo. Anh chẳng nói chẳng rằng, cứ phăm phăm bắt chước mẹ chị đi đặt đơm, mò cua, bắt ốc đầy thích thú. Ngày về là bấy nhiêu ngày anh đi chân đất dọc đường quê, tự tay lợp từng miếng liếp, đóng từng cái chân bàn riệu rã. Mẹ chị cứ nhìn anh cười miết. Cuối cùng thì ngôi nhà chị cũng đã ấm lên khi có hơi thở của đàn ông.

Chờ chị tốt nghiệp rồi anh mới dẫn chị về ra mắt mẹ anh. Chị run lẩy bẩy như đứa trẻ lần đầu đến trường. Nếu không có anh siết chặt tay, có lẽ chị đã không can đảm đặt chân vào ngôi nhà có cánh cổng sắt lạnh băng và ảo não. Thế nhưng dù có anh, chị cũng không thể nào được đường hoàng bước qua cánh cổng ấy thêm lần nữa.

Mẹ anh không thể dứt bỏ mối hận ám ảnh với nghề giáo. Ngày xưa ba bỏ mẹ con anh (lúc ấy anh mới 2 tuổi đầu) để xây dựng gia đình với cô giáo trong làng. Mẹ nhìn chị rất lâu bằng quãng ký ức mù mịt đó và lắc đầu: “Không”.

Cánh cổng sắt nặng nề khép lại sau lưng như đóng sẵn nắm mồ chôn chặt tuổi xuân của chị. Anh đứng đó, đau đớn nhìn chị lao đi trong màn mưa. Anh không thể đặt mẹ và chị lên bàn cân để đong đếm. Anh không chọn lựa được – dù anh biết rằng anh đang có một đứa con sắp chào đời, và điều đó sẽ ám ảnh anh suốt đời. Anh nhắm mắt. Giọt nước cuộc đời xám ngoét chảy ngược vào lòng. Vậy là anh đánh mất chị…

Về sau, ngay cả khi cố nhớ, chị cũng không biết sao chị và mẹ anh có thể đi qua những ngày tháng ao tù đó. Mỗi khi đứa trẻ quẫy đạp trong bụng, chị lại cắn răng quên đi, không dám nâng niu niềm hạnh phúc được làm mẹ. Chỉ cần nghĩ đến đứa trẻ thôi là cả một vùng ký ức dữ dội ào về. Sẽ nhớ đến anh, đến mẹ anh, đến nỗi thèm khát được xóa sạch, được quên hết đi, nhẹ bẫng, như… cái chết chẳng hạn. Nhưng chết thì dễ, sống mới khó. Thế nên… chị – phải – sống.

Chị ngày càng lầm lũi thêm mỗi khi thấy anh thường lặng lẽ tìm đến căn nhà cô độc của mình, nhìn chị bình yên bên tã, áo, tất, khăn rồi đi.

Đôi khi, có những người dù yêu thương nhau rất nhiều nhưng họ có một số phận cách xa nhau. Chị tin giữa chị và anh tồn tại số phận khó chấp nhận đó. Nhưng chỉ cần còn được bình lặng nhìn thấy nhau, chị sẽ còn sống được với điều đó, đến khi chị sinh con, rồi con chị lớn. Rồi sẽ phải có một lúc nào đó chị sẽ tìm được một số phận ở gần anh. Chị chỉ giữ được niềm tin đó đến khi đứa con chào đời.

Mẹ anh đến hàng ngày trong thời gian chị ở cữ, răn đe, van xin, tìm mọi cách để tách cậu con trai kháu khỉnh, giống anh như tạc ra khỏi chị, như đã từng dùng uy quyền và nỗi khổ đau của bà để chia cắt chị và anh.

Chị không hiểu được những người đàn bà đã từng bị phản bội. Ở họ, ở mẹ anh, có một sức mạnh huyền bí nào đó khiến họ một mực phải giữ chặt lấy điều họ đang có….

– Xin con! Hãy để cả nó và con nó được yên! Con có quyền sống một cuộc đời tự do theo ý con!…

Chị rời khỏi ngôi nhà, rời khỏi anh, rời khỏi nỗi tuyệt vọng ám ảnh người mẹ của anh.

Mẹ chị tuồn tay vào trong tóc chị bảo rằng mọi thứ sẽ qua đi. Còn với chị, qua đi không biết có đồng nghĩa với cái chết hay không? Rồi Mẹ chị cũng kết thúc những tháng ngày yên bình trong lòng đất cao nguyên. Chị còn lại một mình trong căn nhà lát gạch hoa màu xanh lá khang trang. Thấy chị đơn chiếc, vài người đàn ông quá lứa lui tới nhà chị, gửi gắm những ý định chân tình và giản dị. Với ai chị cũng chỉ nghe nói suốt, cười suốt và rồi từ chối suốt. Chị không biết mình còn mong đợi ở đời này điều gì. Chỉ đơn giản là chị muốn mình giữ được mãi sự thăng bằng giúp chị sống sót từ ngày anh rời bỏ chị, từ ngày con trai bị đưa đi xa chị. Không cần thay đổi điều gì nữa cả.

Chiều nay trường chị đón một đoàn giáo sinh về thực tập. Trong cơn mưa nặng gió đầu mùa, chị đứng im, tím tái nhìn cậu bé trưởng đoàn đang háo hức nói với thầy hiệu trưởng.

– Dạ, sau khi sắp xếp chỗ ăn ở, nhất định thầy phải dẫn con đến gặp cô Duyên nha thầy, nha thầy!

Chị quay đi, chạy biến vào màn mưa gió phũ phàng. Chị không dám đứng lại, không dám bước tới để đối diện với thằng bé – bản sao của anh hai mươi năm về trước. Biết đâu cái nhìn của chị đã sáng suốt? Biết đâu mọi chuyện giờ đã khác? Và còn muôn vàn cái biết đâu nữa chị giăng đầy ra trên những lối cây rừng tối mù. Suy cho cùng, quá khứ vẫn là gánh nặng khó trút bỏ, khó lường định nhất.

Chị báo ốm, xin nghỉ suốt một tuần để tránh mặt thằng bé. Nó tìm đến nhà. Chị đóng cửa tắt đèn vờ như đi vắng.

Sáng tinh mơ, chị len lén ra rẫy tưới cà, vấp chân cậu giáo sinh nằm co ro ngay thềm nhà, khắp người phủ đầy vải bạt, bao đựng cà . Nó gãi đầu, trở người sang bên kia, nói mớ.

– Mẹ. Mẹ đừng bỏ con. Đừng bỏ con…

Chị gục xuống ôm thằng bé. Nó bừng tỉnh, líu ríu quíu chặt lấy chị, giọng ngái ngủ lào khào, cuống quýt.

– Con… là con đây…

Gió thổi tung những cánh hoa rừng vừa chớm nụ. Gió như cánh tay trần buốt lạnh mơn man trên những ngọn đồi xanh cỏ. Triền núi còn mờ trong sương, tiếng gà rừng thi thoảng gáy xua tan sự tĩnh mịch. Chị lần ra cửa, đứng đó nhìn miết vào dáng người gầy dong dỏng đi lên từ dưới chân dốc. Là anh – anh của ngày xưa với đôi mắt vời vợi xa xôi nhưng lại gần quá đỗi. Anh bằng thịt bằng xương đang đứng đó, trong cái lạnh đầu thu, trong những cơn gió thổi qua sự xót xa, đưa bàn tay cố đỡ lấy chị. Phải chăng chỉ là một cơn mơ? Cơn mơ của một người đã chờ đợi hơn 22 năm qua. Nếu chỉ là một giấc mơ thì mãi mãi, chị ước mình sẽ không bao giờ tỉnh.

Đêm ấy, trong gian nhà lửa ấm, có bóng ba người lặng lẽ ôm nhau thổn thức…

Anh đưa chị xuống núi. Bước chân chị bên anh líu ríu như trẻ con vừa tập đi. Cũng phải thôi, con đường hạnh phúc này vắng mặt chị lâu quá rồi. Ngôi nhà có cánh cổng sắt nặng nề của anh cũng đã vắng bóng mẹ anh. Thắp nén nhang cho người quá cố, chị khẽ nép vào lòng anh, thì thầm:

– Mẹ có thể chúc phúc cho bọn con không mẹ?

Không có tiếng trả lời. Nhưng hôm đó – thành phố đột nhiên nhiều gió đến nỗi chẳng ai nghe rõ những gì họ nói với nhau. Chỉ có giọt nước mắt nhẹ hẫng, tan vào gió, bay đi…

ĐI QUA MÙA GIÓ THỔI.

Tác giả: Diệu Hạnh

Bài & ảnh sưu tầm.


 

TẤM LÒNG NGƯỜI VỢ CŨ – Tác giả : Hoàng Thị Bích Hà-Truyen ngan HAY


Chuyện tuổi Xế Chiều

Công Tú Nguyễn

Tác giả : Hoàng Thị Bích Hà

Hoàng Lan là con gái Đô Thành “chính hiệu con nai vàng”. Cô thuộc thế hệ 5 X đời cuối. Hoàng Lan sinh ra trong một gia đình gia phong nền nếp. Cũng như bao thiếu nữ nội thành con cái gia đình căn bản, chị được ăn học nên người.Trưởng thành chị đi làm ở một công ty. Bản tính siêng năng, cần mẫn, chị tỏ ra đằm thắm, chững chạc.

Chị bén duyên cùng một đồng nghiệp trong công ty. Anh cũng là người nội đô. Hai gia đình ở cách nhau không xa. Hai anh chị xây tổ ấm hạnh phúc, rồi lần lượt có hai đứa con xinh, càng tăng thêm sự gắn kết của mái ấm gia đình. Đồng thời cũng là lúc trong vai trò làm vợ, làm mẹ, chị phải lo vén khéo chi tiêu, đảm bảo cuộc sống gia đình và nuôi con ăn học. Thời gian tích cóp, anh chị cũng tạo dựng được một căn nhà khang trang ở một con phố thuộc quận 2, cách cầu Sài Gòn chừng vài cây số.

Cuộc sống cứ bình lặng an yên với hạnh phúc gia đình. Anh chị vẫn làm lụng, các con ngoan, chăm lo học hành. Sau một thời gian công tác, anh đã được lên chức, lên quyền. Anh được bổ làm giám đốc công ty. Nhân viên trẻ nhiều- trai xinh gái đẹp. Anh cũng được săn đón, nịnh nọt hơn. Ở nhà vợ cưng, đến công ty thì có nhân viên chăm sóc chiều chuộng.

Đùng một cái anh bị tiếng sét ái tình giáng xuống khi anh phải lòng cô gái trẻ..Một nhân viên dưới quyền ở tỉnh miệt vườn ven đô lên thành phố làm việc. Trạc tuổi cô bé chỉ nhỉnh hơn con gái anh vài tuổi và dĩ nhiên là trẻ đẹp rồi!

Ở một gia đình đang êm ấm chợt trở nên lạnh lẽo. Sóng ngầm bất ngờ quá! Người vợ hiền, không thể lường trước biến cố nên có khi trở tay không kịp. Nhưng thôi, việc gì đến, sẽ đến thuận theo tự nhiên ý thích của con người. Ý thích riêng của mỗi người sai đúng hồi sau sẽ rõ.

Anh chị ra tòa li dị. Ai đi đường nấy, chị ôm hai đứa con về mình. Để anh tự do phiêu bồng cùng tình mới. Hoàng Lan đưa hai con về bên ngoại.

Căn nhà ở quận 2 được bán để chia đôi tài sản. Phần chị, chị về quận Bình Thạnh mua một căn nhà khác đủ công năng sinh hoạt cho 3 mẹ con và mẹ chị. Mẹ chỉ có mỗi con gái duy nhất là chị. Nên sau khi chuyện chồng con không suôn sẻ, chị mua nhà đón mẹ về ở cùng. Như vậy, Không chồng thì có mẹ. Chuyện chồng con lở dở may mà còn mẹ và các con, vậy cũng đỡ cô đơn. Cuộc đời vậy cũng an ủi cho chị phần nào để có động lực sống tiếp. Chị lại tiếp tục làm việc để mưu sinh và chăm lo gia đình. Mỗi lần chị bận đi làm vắng thì con cái nhờ bà ngoại chăm nom. Chị cũng yên lòng làm lụng. Hoàng Lan đảm đang, vén khéo, chịu thương chịu khó lo cho hai đứa con đến nơi đến chốn.

Về phần anh, số tiền được chia anh về vùng Bình Hưng Hòa, quận Bình Tân mua một sở đất rộng, là nhà vườn cho thuê kiếm thu nhập. Còn anh và cô gái ấy thuê nhà ở cùng nhau. Họ cũng đã sinh được một cháu trai gọi là cu Win. Chị qua thăm, mua sữa bồi bổ cho mẹ con cô ấy. Thấy anh ở trọ, chị nghĩ chắc cũng thiếu thốn nên thường mua thêm cá tôm, đồ ăn khô và sữa,..để cuối tuần anh ghé lấy về xài dần. Chị nói với các con là: Bố và dì còn ở trọ, mình phải bù chì cho bố. Những việc làm cho anh, bên nhà nội ông bà các cô chú đều biết. Chị vẫn dạy con thương yêu bố và em khác mẹ, kính trọng ông bà nội và các cô chú bên nội.

Bên nhà nội, dù li dị nhưng vẫn coi chị là con dâu của gia đình. Cứ mỗi lần ông hay bà ốm, nằm viện thì mẹ con chị lại bới xách vào bệnh viện chăm sóc. Ông bà nội và mấy chú thím rất quý chị và thương hai cháu. Cứ cuối tuần là hai đứa lại về thăm gia đình bên nội. Nay hai đứa con chị đã thành đạt, sau khi du học về đều có công ăn việc làm ổn định. Dù lớn vậy cứ mỗi lần gặp là mấy thím lại dúi cho ít tiền. Chị bảo:

-Thôi! Cháu lớn rồi, già chát là đằng khác, nay 30- 40 tuổi cả rồi! Nhưng mấy thím thương nên khi nào cũng xem như bé bỏng vậy.

Lại đùng một cái, cô vợ sau chán ông chồng già, không muốn ở nữa. Lại đưa nhau ra tòa li dị.

Chị bảo anh đem Cu Win về nuôi cho có tương lai. Dù gì thì ở gần bên gia đình bên nội cũng thuận tiện để cho cháu học hành. Hơn nữa mấy chú trong gia đình cũng có vị trí công tác rất tốt. Để cháu ở lại sẽ có điều kiện hơn là theo mẹ về dưới quê vất vả. Thế là cô vợ trẻ ra đi, để lại hai bố con chăm nhau trong căn nhà trọ. Như vậy, anh và cô vợ trẻ không duy trì được lâu, chưa hẳn đã vì thiếu tiền mà còn bị chênh nhiều thứ: chênh về cách nghĩ, cách sống của hai thế hệ tuổi tác cách xa nhau, chênh lệch sức khỏe, sinh lý bản năng,… cũng là một vấn đề đối với người không nghĩ sâu xa coi trọng gia đình và con cái.

Chị hàng tuần lại tiếp tục mua sắm lương thực, thực phẩm dành cuối tuần anh ghé lấy về hai cha con có mà dùng, khỏi bận bịu mua sắm.

Ai cũng bảo sao chị không đi bước nữa để nương tựa. Vì lúc li dị chị còn rất trẻ, mới ngoài ba mươi tuổi. Nhưng chị bảo:

– Thôi! Lấy chồng một lần là cũng đủ rồi! Ở vậy nuôi con cho con ăn học.Tình mẹ phải dành trọn vẹn cho con. Lấy chồng nữa, liệu người khác (nếu yêu mẹ) chắc gì đã họ đã thương con mình, rồi con thêm khổ mà thôi”. Tôi thì nghĩ rằng chị lấy chồng một lần cũng đã đủ “thấm đòn” của tình yêu và hôn nhân rồi! Dĩ nhiên con người tồn tại với những điều rất người. Cũng có những nhu cầu vật chất lẫn tinh thần. Khi cần chia sẻ ngọt bùi vẫn có bạn bè tâm giao ở bên ngoài, tiệc tàn ai về nhà nấy. Vậy thôi cũng là cách lấy cân bằng trong cuộc sống.

Công việc hàng ngày của chị cũng vất vả. Công ty trước đây bị giải thể, chị lãnh tiêu chuẩn về một lần. Kiếm việc khác, chị xin làm ở công ty cung cấp rau quả tươi cho các siêu thị trong thành phố. Nên phải làm đêm để sáng sớm xuất hàng cho kịp. Ban ngày về nhà ngủ vài tiếng để tái tạo năng lượng. Chị cố gắng làm việc để

con cái học hành và hiếu sự hai bên nội ngoại, còn bù chì cho cả anh nữa.

Chị bây giờ đã ngoài lục tuần. Tôi hỏi chị:

-Vậy bây giờ chị có tha thứ cho anh, về sống chung để ông bà già chăm nhau được không?

Chị bảo:

-Không! Bây giờ coi nhau như bạn bè tri kỷ vậy thôi. Khi ông đau ốm nằm bệnh viện thì mẹ con chị vẫn tới chăm sóc – Hết duyên thì còn nghĩa, dù sao ổng cũng là bố của các con mình.

Bây giờ chị đã là bà nội của mấy cháu, các con ngoan, hiếu thảo. Chị được bà con gia đình bên nội quý trọng, thương yêu. Ngay cả chồng cũ của chị cũng nể phục chị vì tấm lòng nhân ái bao dung. Cái tâm tốt, sức khỏe tốt, da dẻ chị hồng hào khỏe mạnh. Chị bây giờ có cuộc sống an nhiên, vui vầy cùng con cháu.

Tôi nghe chị kể say sưa, quên cả việc đi ăn sáng ở đầu hẻm. Lòng dâng lên xúc động. Người mẹ đơn thân đã nuôi con vẹn toàn, hiếu thảo với nội ngoại hai bên, tình nghĩa cả với người chồng bội tình – người từng mang đến cho chị cả hạnh phúc lẫn khổ đau. Chị còn có cách ứng xử hợp lòng người nhất có thể. Ngưỡng mộ một tấm lòng người vợ cũ như chị.

(Tên nhân vật đã được thay đổi)

Sài Gòn, ngày 05/7/2023

Bài & ảnh sưu tầm


 

NGƯỜI ĐẦU BẾP GIÀ – K.Paustovsky-Truyen ngan HAY

Những câu chuyện hay và ý nghĩa

K.Paustovsky

Một buổi tối mùa đông năm 1786, trong ngôi nhà gỗ nhỏ ở ngoại ô thành Viên, người đầu bếp cũ của bá tước Tun- một ông lão mù- đang hấp hối. Nói cho đúng, đó cũng chẳng phải là nhà, mà chỉ là một chiếc lều canh rách rưới ở sâu trong vườn. Khu vườn ngập những cành mục bị gió đánh gẫy. Những cành cây kêu răng rắc dưới mỗi bước đi và con chó được xích trong chuồng bắt đầu gầm gừ khe khẽ. Nó cũng như chủ nó, đang hấp hối vì tuổi già và giờ đây không còn sủa được nữa.

Người đầu bếp bị hỏng mắt vì hơi nóng của bếp lò từ mấy năm về trước. Viên quản lý của bá tước cho ông lão ở trong túp lều canh và thỉnh thoảng cho ông vài flôrin.

Ông lão ở với con là Maria, một cô gái mười tám tuổi. Đồ đạc trong lều vẻn vẹn có một cái giường, mấy chiếc ghế khập khiễng, một cái bàn thô, một số đồ sứ đã rạn nứt và một chiếc dương cầm kiểu cổ – của cải độc nhất của Maria.

Chiếc dương cầm đã cũ lắm, cũ đến nỗi mỗi khi có những tiếng động vang lên ở chung quanh những dây đàn lại rung lên rất lâu và khẽ. Không ai có thể bước vào nhà mà không được cây đàn đón tiếp bằng một âm thanh run rẩy và già yếu. Khi Maria đã làm xong việc rửa mình cho người cha hấp hối, mặc chiếc áo trắng và lạnh giá vào cho ông, ông lão bảo cô:

– Cha không hề lựa chọn thầy tu và bọn nhà dòng. Vì vậy cha không thể mời cha xứ đến rửa tội, nhưng trước khi chết cha muốn cho lương tâm mình được trong sạch.

– Vậy phải làm thế nào, thưa cha? – Maria lo lắng hỏi.

Ông lão nói:

– Con hãy ra đường và mời người đầu tiên mà con gặp vào nhà để rửa tội cho một người đang hấp hối. Không ai nỡ từ chối con đâu.

– Phố thì vắng tanh… – Maria lẩm bẩm, với lấy khăn choàng lên đầu và bước ra.

Nàng chạy qua khu vườn, khó nhọc mở hai cánh cổng sắt gỉ. Phố vắng. Gió lùa lá rụng chạy trên mặt đường và từ trên bầu trời đen tối những hạt mưa rơi lạnh lẽo.

Maria đợi rất lâu và nghe ngóng. Cuối cùng nàng thấy một người đi dọc theo hàng rào, vừa đi vừa hát. Nàng tiến lên mấy bước, va phải anh ta và kêu lên. Người đàn ông dừng lại hỏi:

– Ai vậy?

Maria nắm tay người đàn ông và nàng run rẩy nói lại lời yêu cầu của cha mình.

– Được rồi, – người đàn ông bình thản nói. – Tôi không phải thầy tu, nhưng không sao, ta đi thôi.

Hai người bước vào nhà. Dưới ánh sáng của ngọn nến Maria nhìn thấy một người gầy gò bé nhỏ. Chàng vứt chiếc áo mưa rơi xuống ghế. Người lạ mặt ăn vận sang trọng và giản dị – ánh nến lấp lánh trên chiếc camidon màu đen, trên những khuy pha lê và chiếc cổ áo thêu ren.

Người lạ mặt còn trẻ lắm. Chàng lắc đầu như đứa con nít, sửa lại bộ tóc giả rắc phấn, nhanh nhẹn đẩy chiếc ghế đẩu lại bên giường rồi ngồi xuống, đầu hơi cúi, chăm chú và vui vẻ nhìn vào mặt người hấp hối.

– Xin cụ cứ nói! – Chàng bảo. – Rất có thể, với quyền lực không phải do trời, mà do nghệ thuật mà tôi phụng sự, tôi sẽ làm cho những phút cuối cùng của cụ được thanh thản và cất đi gánh nặng đè lên tâm hồn cụ.

– Tôi suốt đời làm việc cho tới mù hai con mắt. – Ông lão lẩm bẩm và nắm tay người lạ mặt kéo lại gần mình hơn. – Và ai làm việc, người đó không có thì giờ để phạm tội. Khi vợ tôi bị lao – vợ tôi tên gọi Mácta – thầy thuốc cho nàng một đơn gồm nhiều thứ thuốc đắt tiền, buộc phải cho nàng ăn kem sữa và quả vả khô, uống rượu vang đỏ hâm nóng, vì vậy tôi đã ăn cắp trong bộ đồ ăn của bá tước Tun một chiếc đĩa vàng nhỏ, đập vụn ra rồi mang bán. Tôi rất khổ tâm phải nghĩ đến việc này bây giờ, và cũng khổ tâm khi phải giấu con gái tôi: tôi đã dạy nó không đụng đến một hạt bụi trên bàn người khác.

– Vậy chứ có ai trong những người hầu bá tước phu nhân vạ lây vụ đó không ? – Người lạ mặt hỏi.

– Thưa ngài, tôi xin thề rằng không có ai khổ vì chuyện đó. – Ông lão trả lời và khóc. – Nếu tôi biết rằng vàng cũng chẳng cứu được Mácta thì tôi cũng đã chẳng lấy trộm!

Người lạ mặt hỏi:

– Tên cụ là gì?

– Jôhan Mâye, thưa ngài.

– Vậy thì thưa cụ Jôhan Mâye! – Người lạ mặt nói, và đặt tay lên đôi mắt mù của ông lão. – Trước mọi người cụ không có tội. Việc cụ đã làm chẳng phải là tội lỗi, cũng chẳng phải là ăn trộm, ngược lại, có thể coi nó như một chiến công của tình yêu.

– Amen! – Ông lão nói khẽ.

– Amen! – Người lạ mặt nhắc lại. – Còn bây giờ, cụ hãy nói cho tôi biết ước nguyện cuối cùng của cụ.

– Tôi muốn có người sẽ chăm sóc Maria.

– Tôi sẽ làm việc ấy. Cụ còn muốn gì nữa không?

Người hấp hối bỗng mỉm cười và nói:

– Tôi muốn được nhìn thấy Mácta một lần nữa, thấy cả buổi đầu gặp gỡ khi tôi còn trẻ. Tôi muốn nhìn thấy mặt trời và khu vườn cũ này khi nó nở hoa vào mùa xuân. Nhưng cái đó không thể nào có được, thưa ngài. Xin ngài hãy đừng bực mình vì những lời lẽ ngu xuẩn đó. Bệnh tật đã làm cho tôi không còn sáng suốt.

– Được. – Người lạ mặt nói và đứng dậy. – Được, – chàng nhắc lại, đến gần chiếc dương cầm và ngồi xuống chiếc ghế đẩu kê trước đàn. – Được, – chàng nói lớn lần thứ ba và bất thần một âm thanh lanh lảnh vang dội khắp lều như thể có hàng trăm viên pha lê rơi xuống sàn. – Cụ hãy nghe đây, – người lạ mặt nói. – Cụ hãy nghe và hãy nhìn đi.

Chàng bắt đầu chơi đàn, Maria về sau nhớ lại khuôn mặt của người khách lạ khi phím đàn đầu tiên rung lên dưới tay chàng. Một màu sắc kì lạ phủ lên trán chàng và trong đôi mắt chợt tối đi của chàng có một ngọn nến lung lay.

Lần đầu tiên sau nhiều năm chiếc dương cầm ca hết giọng. Tiếng đàn tràn ngập không riêng gian lều mà cả khu vườn. Con chó già bò ra khỏi chuồng, đầu ngả về một bên, nó chăm chú nghe, vẫy đuôi khe khẽ. Tuyết bắt đầu rơi, nhưng con chó chỉ ve vẩy đôi tai.

– Tôi thấy rồi, thưa ngài. – ông lão nói và gắng gượng ngồi dậy- Tôi thấy ngày tôi gặp Marta và nàng, vì xúc động đã đánh vỡ bình sữa. Lúc ấy vào mùa đông, và Marta cười. Nàng cười, – ông lão nhắc lại, chú ý nghe theo những tiếng róc rách của cung đàn.

Người lạ mặt tiếp tục chơi, mắt nhìn vào khung cửa sổ tối.

– Còn bây giờ, – chàng hỏi, – cụ có nhìn thấy gì không?

Ông lão im lặng nghe ngóng.

– Chẳng lẽ cụ không nhìn thấy ư? – người lạ mặt nói nhanh và tiếp tục đàn. – Đêm đen bỗng thành màu lam nhạt, rồi lại thành màu da trời và ánh sáng ấm áp đã từ một nơi nào trên cao kia chiếu xuống. Trên những cành khô của cây cối trong vườn, những bông hoa trắng đang nở. Tôi cho đó là hoa táo mặc dù từ trong nhà này nhìn ra chúng giống hoa tuylip hơn. Cụ thấy không: tia nắng đầu tiên đã rơi xuống bức tường đá, sưởi ấm cho nó và từ đó hơi nước đang bốc lên. Chắc đó là do đám rêu ẩm ướt đang khô dần. Còn trời thì cứ cao lên mãi, xanh thêm mãi, đẹp thêm mãi và từng đàn chim đang bay trên thành Viên cổ kính của chúng ta về phương Bắc.

– Tôi trông thấy tất cả những cái đó. – Ông lão kêu lên.

Bàn đạp rít lên khe khẽ và chiếc dương cầm cất cao giọng một cách trịnh trọng như thể không phải chỉ riêng mình nó mà là tiếng hát của hàng trăm giọng vui mừng.

– Không, thưa ngài, – Maria nói với người lạ mặt, – hoa đó không hề giống tuylip. Đó là những cây táo cùng nở rộ vào một đêm.

– Vâng, – người lạ mặt trả lời – Đó là hoa táo nhưng chúng có những cánh lớn.

– Mở cửa sổ ra, Maria! – ông lão nói to.

Maria mở cửa sổ. Một luồng không khí lạnh ùa vào phòng. Người lạ mặt chơi rất khẽ và rất chậm.

Ông lão ngã xuống gối, thở dốc, đôi tay quờ quạng trên tấm chăn. Maria chạy vội lại. Người lạ mặt ngừng chơi đàn. Chàng ngồi lặng người trước chiếc dương cầm như bị mê đi bởi âm nhạc của chính mình.

Maria kêu lên. Người lạ mặt đứng dậy và bước đến bên giường bệnh. Ông lão vừa thở hổn hển vừa nói:

– Tôi đã trông thấy tất cả, rất rõ, như trong những năm xưa. Nhưng tôi không muốn chết mà không được biết… tên… tên Ngài…

– Tôi là Wolfgang Amadeus Mozart l – người lạ mặt trả lời.

Maria lùi lại và cúi xuống, đầu gối gần sát đất, trước nhạc sĩ vĩ đại. Khi nàng đứng dậy thì ông lão đã qua đời. Bình minh cháy đỏ ngoài cửa sổ và trong ánh sáng ban mai, khu vườn đã phủ đầy hoa tuyết ướt.

(Vũ Thư Hiên dịch từ nguyên bản tiếng Nga)


 

CÂU CHUYỆN CUỘC ĐỜI ÔNG CHỦ STARBUCKS

Đó là một ngày mùa đông lạnh lẽo năm 1961. Trong mắt cậu bé Howard Schultz, đó là ngày buồn bã vô cùng. Sau khi người cha lái xe tải bị tai nạn và mất đi một chân, kinh tế gia đình Schultz mất đi hoàn toàn chỗ dựa. Mỗi bữa ăn tối, trên bàn ăn của gia đình chỉ toàn là những món khó nuốt, là rau mẹ Schultz nhặt nhạnh ngoài vườn và cafe gần hết hạn được giảm giá.

Từ ngày bị mất việc làm do tai nạn lao động, cha Schultz cũng mất luôn cả niềm tin vào cuộc sống. Mỗi ngày chỉ biết mượn rượu giải sầu, và trở thành một con ma men. Bởi sẵn có men rượu trong người, nên chỉ cần Schultz hơi không nghe lời cha liền nổi giận lôi đình, và cũng từ đó trận đòn tra tấn của cha diễn ra hằng ngày như cơm bữa.

Một đêm Noel, năm cậu bé Schultz 12 tuổi, trong khi các gia đình đang quây quần vui vẻ bên bàn ăn với những món thơm ngon nức mũi trong ánh nến lung linh huyền ảo thì cảnh nhà cậu lại hoàn toàn khác biệt. Mẹ cậu vì không mượn được tiền đang cau mày rầu rĩ ngồi ở góc nhà, còn cha cậu thì đang nổi trận lôi đình mắng nhiếc những người kia là kẻ ngu ngốc. Người mẹ bất lực của cậu không còn cách nào khác chỉ đành biết xua mấy anh em cậu ra phố chơi.

Ba đứa trẻ bụng đói cồn cào đành đi ra phố, vừa ra tới cổng ba anh em phát hiện một cửa hàng tổng hợp đang bày la liệt các loại đồ ăn và nước ngọt. Mấy anh em cậu thèm rỏ dãi. Một ý nghĩ chợt nảy ra trong đầu. Schultz liền bảo em trai và em gái mình về nhà trước, còn bản thân thì đứng nhìn chăm chú vào một lon cafe được đóng gói cầu kỳ đẹp mắt ở đó. Schultz rất muốn làm một điều gì đó để giúp cha vui vẻ hơn.

Nhìn ngó một hồi đợi đúng thời cơ, Schultz nhanh chóng lấy lon cafe đó nhét vào túi áo bông. Tuy nhiên thật không may là cậu lại bị ông chủ cửa hàng phát hiện. Ông ta hét lớn: “Bắt lấy kẻ trộm”. Cậu cắm đầu bỏ chạy một mạch về nhà và cứ nghĩ rằng đã thoát nạn. Cậu mang món quà nhỏ đó tặng cha. Khỏi phải nói nét mặt cha cậu khi đó vui mừng cỡ nào. Khi mở lon ra mùi thơm ngào ngạt của cafe bốc lên làm ông cứ hít hà mãi và nhắm mắt tận hưởng. Nhưng khi còn chưa kịp thưởng thức thì ông chủ cửa hàng tạp hóa đã đuổi tới tận nhà Schultz. Sự việc bại lộ, cậu bé bị lãnh một trận đòn đau nhớ đời.

Đêm Noel năm đó đối với Schultz thật sự vô cùng khó quên khiến cậu mãi khắc cốt ghi tâm. Khi cảm nhận được những dư vị của sự khốn khó và đau khổ tột cùng, cậu tự thề với mình sẽ nỗ lực hơn nữa để bằng mọi giá mua được loại cafe hảo hạng nhất, thay vì phải uống cafe sắp hết hạn như lúc này.

Để giảm gánh nặng kinh tế cho mẹ, sau giờ học, cậu tới làm thêm ở một quán ăn nhỏ và nhận giao báo sáng trước khi lên lớp. Nhưng số tiền ít ỏi mà cậu bé đáng thương kiếm được lại bị cha lấy cắp để mua rượu uống. Cậu trở nên oán giận và chán ghét cha. Hai cha con cậu vì thế mà càng ít nói chuyện hơn.

Từ sau ngày đó, để kiếm tiền cậu đã làm thêm rất nhiều việc: kéo da thú trong một công ty sản xuất áo da, xử lý sợi ở công ty sản xuất giầy thể thao… Chỉ có một điều mâu thuẫn giữa hai cha con cậu mãi không thay đổi. Trải qua vô số khó khăn, chông gai, cuối cùng Schultz cũng xuất sắc thi đỗ đại học.

Cảnh nhà nghèo khó, cha kiên quyết không cho Schultz vào đại học mà muốn cậu đi làm kiếm tiền. Schultz gào lên: “Cha không có quyền quyết định cuộc sống của con. Con không muốn sống những ngày tháng không có mơ ước, không có động lực phấn đấu, ăn bữa nay lo bữa mai như của cha. Cuộc sống của cha làm con cảm thấy thật hổ thẹn”.

Khi vào học đại học bắc Michigan, để tiết kiệm tiền lộ phí và có tiền trang trải học hành trong, trong kỳ nghỉ hầu như Schultz không về nhà mà đều đi làm thêm. Mỗi tháng Schultz đều viết thư về cho mẹ nhưng không hề hỏi thăm về tình hình của cha mình. Sau khi tốt nghiệp Schultz trở thành một nhân viên kinh doanh xuất sắc. Tất cả mọi cố gắng phấn đấu trong cuộc sống của cậu chỉ là vì muốn chứng minh cho cha cậu hiểu rằng lựa chọn của mình không sai lầm.

Năm đó nhờ làm việc chăm chỉ, Schultz kiếm được một món tiền khá lớn. Lần này phá lệ cậu quyết định mua cho cha mình một hộp cafe đen của Brazil loại hảo hạng. Schultz cứ nghĩ cha sẽ rất vui khi nhận món quà đó, nhưng nào ngờ cậu lại bị cha chế nhạo tới ức phát khóc. Ông nói với cậu: “Con dốc sức học hành chỉ là vì để mua loại cafe này thôi à?”. Để không bị cha xem thường hơn nữa, Schultz quyết tâm đạt thành tích tốt hơn để chọc tức ông.

Nhiều năm sau, mẹ điện cho Schultz nói cha nhớ và muốn gặp anh. Từ trước tới nay chưa bao giờ cha anh nói với anh những lời như vậy. Schultz ngạc nhiên và khó hiểu. Dù vậy, vì đang bận đàm phán với khách hàng nên anh từ chối không về, cũng không nói chuyện điện thoại với cha. Vì những bận rộn công việc, hai tuần sau anh mới về nhà được. Khi này, anh mới biết cha đã mất rồi…
Khi dọn dẹp sắp xếp lại những di vật còn sót lại của cha, Schultz phát hiện có một lon cafe đã rỉ sét lốm đốm. Anh nhận ra ngay đó là lon cafe mình đã ăn cắp năm lên 12 tuổi. Trên đó là nét chữ của cha: “Món quà của con trai yêu quý, Noel 1964’”. Trong đó còn có một bức thư ngắn gửi cho anh:

“Con trai yêu quý, cha xin lỗi, vô cùng xin lỗi con. Cha là một người cha thất bại. Cha đưa con đến với thế giới này nhưng lại không thể mang lại cho con một cuộc sống đầy đủ tốt đẹp. Nhưng cha cũng có ước mơ của mình. Ước mơ lớn nhất của đời cha là có một quán cafe nhỏ và cha có thể nhàn nhã pha cafe cho mọi người yêu thích cafe. Nhưng tiếc là cha đã không thể thực hiên được. Cha hi vọng con có thể trải nghiệm niềm hạnh phúc đó”.

Trong giây phút đau thương ấy, Schultz bỗng phát hiện ra những trận đòn đánh mắng của cha lại chính là một ký ức đáng trân quý. Sau khi nghe Schultz kể lại câu chuyện, Shirley vợ anh đã động viên: ‘”Nếu cha đã có nguyện vọng như vậy thì chúng ta hãy thực hiện mơ ước này của ông đi”. Vừa hay khi đó quán Seattle Cafe lại muốn chuyển nhượng, Schultz đã từ bỏ công việc với mức lương 75.000 đô la/ năm để mua lại quán cafe đó.

Đây chính là câu chuyện cuộc đời của ông chủ đế chế cafe Starbucks, người khởi nghiệp từ hai bàn tay trắng nổi tiếng thế giới.
***

Sinh ra ở Brooklyn, New York, vào ngày 19/7/1953, Howard Schultz tốt nghiệp Đại học Bắc Michigan với bằng cử nhân Thông tin trước khi trở thành Trưởng phòng tiếp thị và bán lẻ 1982 của Starbucks. Sau khi thành lập công ty cà phê Il Giornale, vào năm 1987, ông mua Starbucks và trở thành Giám đốc điều hành và chủ tịch của công ty.

Năm 2000, Schultz công khai từ chức Giám đốc điều hành của Starbucks. Tuy nhiên, 8 năm sau ông đã trở về để lãnh đạo công ty. Tính đến năm 2012, Starbucks có hơn 17.600 cửa hàng với vốn cơ bản lên tới 35,6 tỷ USD.

VietBF@sưu tập

HÃY ĐỢI EM BA PHÚT !!! Truyen ngan HAY

Chi Nguyen  Những Câu Chuyện Thú Vị

Nguồn : Tuệ Tâm

Anh và cô yêu nhau đã được mấy năm, cũng đã dự định sẽ tiến tới hôn nhân. Hôm đó, anh hẹn cô 9 giờ sáng ngày thứ Hai, sẽ đến Cục Dân chính để đăng ký kết hôn.

– Cô hỏi anh vì sao phải đến sớm như vậy?

– Anh ta tinh nghịch trả lời: “Chúng ta phải tranh được vị trí đầu tiên, ngày mai nhất định chúng mình phải là cặp đôi đăng ký kết hôn sớm nhất”.

– Cô cười đồng ý…

Nhưng đến ngày hôm sau, đoạn đường cô đi qua lại đang tu sửa, cô phải ngồi xe đợi một hồi lâu mới có thể đi được. Thời gian đã gần tới 9 giờ, cô bước nhanh về phía Cục Dân chính. Anh thì đã đến sớm và chờ ở cửa, nôn nóng nhìn xung quanh nhưng vẫn chưa thấy cô đâu. Cục Dân chính đã mở cửa, tuy rằng họ đã điện thoại hẹn trước, nhưng nhân viên công tác nói:

– Nếu đến trễ hai mươi phút sẽ phải nhường cho cặp đôi khác xử lý thủ tục…..

Cuối cùng, cô cũng xuất hiện, đứng ở bên kia đường vẫy tay ra hiệu cho anh. Anh gọi to:

– “Em mau qua đây đi!”.

– Cô do dự nhìn đèn giao thông đang chuyển sang màu đỏ, liền đưa tay ra hiệu nói: “Hãy chờ em 3 phút”.

– Anh tức giận, cũng ra hiệu cô hãy băng qua đèn đỏ….

– Cô chần chừ không quyết, đứng đối diện bất động. Ba phút sau, cô mới theo dòng người đi qua đường, rồi đến trước mặt anh ta.

– Anh ta vô cùng tức giận, mặt tối sầm đi, không nói không rằng kéo tay cô bước nhanh vào Cục Dân chính.

Khi vào bên trong, cũng vừa kịp lúc anh ngăn nhân viên công tác xử lý thủ tục với cặp đôi khác. Bọn họ đã giành được vị trí đầu tiên, anh ta vô cùng cao hứng. Thế nhưng…. anh không ngờ …

– Cô lại gạt tay anh ra, rồi nói với nhân viên công tác “Thật xin lỗi, chúng tôi có lẽ không làm thủ tục được rồi, tôi nghĩ tôi vẫn chưa cân nhắc kỹ lưỡng”. Nói xong cô liền bỏ ra bên ngoài.

– Anh đuổi theo phía sau, hỏi cô vì nguyên nhân gì lại thay đổi như thế ?

– Cô dừng lại và nói:

“Cũng chỉ vì ba phút vừa rồi”.

– Anh lớn tiếng kêu oan, nói:

“Vừa rồi em đến muộn, hơn nữa anh bảo em đi nhanh qua đường mà em còn không chịu. Anh không trách em thì thôi, trái lại em lại trách anh là sao?”.

– Cô bình tĩnh nói:

“Bởi vì ba phút này có quan hệ đến an nguy của tôi. Nếu như một người đàn ông chỉ vì muốn kịp ba phút đồng hồ mà không màng tới an nguy của người yêu, người như vậy liệu có đáng để tôi gửi gắm cả đời hay không?”.

Có câu nói rằng:

” Người yêu bạn, chưa chắc đã đợi được bạn. Nhưng người chờ được bạn , chắc chắn rất yêu bạn” . Yêu một người luôn chờ đợi bạn tức là nhận lấy sự hi sinh về thời gian, tâm sức và cả trái tim của họ dành trọn cho bạn..

Bài & ảnh sưu tầm.


 

NIỀM HẠNH PHÚC THẬT THIÊNG LIÊNG…-Truyen ngan

Khi ba mẹ qua đời, anh trai là chỗ dựa duy nhất của cô bé. Cô ngoan ngoãn nghe lời anh vì sợ rằng anh cũng sẽ bỏ cô mà đi. Một buổi sáng kia khi tỉnh dậy, cô bé không tìm thấy anh đâu nữa. Trong lòng cô chỉ còn niềm oán hận với người anh bạc bẽo của mình, cho đến một ngày hiểu ra sự thật cô mới òa khóc…

Năm cô 6 tuổi, cô mất cả ba lẫn mẹ, họ bị tai nạn ô tô trong lần về quê thắp hương cho ông bà nội. 6 tuổi, cô chưa thể hiểu hết mọi chuyện đang xảy ra trong gia đình, cô chỉ biết khóc suốt ngày vì ba mẹ không quay về.

Cô còn một người anh trai tên là Nam, cậu bé 14 tuổi, dáng người to cao giống cha. Lúc ba mẹ mất, cậu không khóc, không gào thét mà chỉ ôm chặt cô em gái vào lòng cho đến khi ngủ thiếp đi.

Suốt ngày cô đều theo sau anh trai đòi ba, đòi mẹ; cô không thích ăn cơm nửa sống nửa chín của anh trai nấu, không thích mặc bộ đồ nhăn rúm anh trai giặt,…
Kể từ ngày hiểu ra rằng ba mẹ mãi mãi không về, cô bắt đầu dựa dẫm vào anh trai vì sợ anh lại bỏ cô mà đi

Đêm hôm đó, trời đã rất muộn, rất muộn nhưng cô không chịu ngủ mà ngồi dậy kéo anh trai và hét to: “Em muốn gặp mẹ!”.

Bỗng nhiên, Nam kéo cô từ trong mền ra, hai tay nắm lấy đôi vai bé nhỏ của cô và nói:

“Mẹ mất rồi, đừng có tìm mẹ nữa, ba mẹ đều không còn nữa, họ sẽ không quay về nữa đâu!”.

Giọng nói của Nam vang lên rất to khiến cô phải im lặng vì sợ hãi. Sau đó, cô dần dần hiểu được ba mẹ cô mãi mãi không quay về, cô hiểu được trên thế giới này chỉ còn anh trai là người thân duy nhất của mình.

Nam úp mặt xuống giường và khóc thật to, đó là lần đầu tiên cô nhìn thấy anh trai khóc kể từ ngày ba mẹ mất.

Cô nhẹ nhàng cúi xuống rồi nằm trên lưng anh trai, cô dùng đôi tay bé nhỏ của mình ôm lấy anh, cảm giác ấm áp như ôm ba mẹ vậy.

Cô bắt đầu dựa dẫm vào anh trai giống như trước kia từng dựa vào ba mẹ: đi học, cô đòi anh chở đi; tan học, anh trai phải đến đón cô. Trường của cô cách nhà khá xa, mỗi buổi sáng Nam đều chở cô đến trường, đến nơi người Nam ướt đẫm mồ hôi. Ngồi trên xe, cô nắm chặt lấy vạt áo của anh không rời, cô không khóc đòi ba mẹ như trước nữa. Trước giờ cô chưa từng nói với anh, kể từ khi hiểu ra rằng ba mẹ mãi mãi không quay về nữa, trong lòng cô luôn bao trùm một nỗi sợ hãi, cô sợ rằng một ngày nào đó, anh trai cũng sẽ rời xa cô.

Cảm giác sợ hãi đó khiến một đứa bé 6 tuổi trở nên ngoan ngoãn, nghe lời đến lạ. Thế rồi, có mơ cô cũng không tưởng tượng được rằng cuối cùng anh trai vẫn bỏ rơi cô.

Hôm đó là ngày cuối tuần, mới sáng sớm, Nam đã phải mất hơn nửa tiếng đồng hồ chăm chút buộc cho cô hai bím tóc, mặc cho cô bộ váy màu trắng mà cô không biết anh mua cho cô từ khi nào, sau đó cô được anh trai dẫn đi công viên chơi rất nhiều trò, ăn rất nhiều món, cho đến khi mệt, cô ngủ say trên lưng anh.
Sáng hôm sau tỉnh dậy, cô thấy mình nằm trên giường của nhà khác còn anh trai thì không thấy đâu nữa. Cô hốt hoảng chạy đi tìm anh, sau đó một người hàng xóm mà cô gọi là “thím” nói với cô rằng anh trai cô đi làm thuê rồi, từ nay về sau, cô sẽ sống cùng với gia đình họ. Mặc dù cô biết, chú thím là bạn thân thiết của ba mẹ mình nhưng cảm giác bị anh trai bỏ rơi lúc này còn tuyệt vọng, đau đớn hơn khi ba mẹ rời đi. Là anh trai đã bỏ rơi cô, cô đã bị anh trai bán lấy tiền, anh trai không cần cô nữa.

Sau khi biết anh trai cũng bỏ đi không về như ba mẹ, cô nhanh chóng thích nghi với cuộc sống mới, có nhiều sự thay đổi. Sự thích nghi nhanh chóng đó mãi đến khi lớn lên, cô nhận ra rằng đó chính là một kiểu để quên đi đau thương.

Cô chủ động học làm việc nhà, tự giặt quần áo, cô biết đây không phải là nhà của mình, họ không phải người thân của mình nên cô không dần dần không còn dựa dẫm vào ai nữa. Kể từ khi anh trai bỏ đi, cô hòan toàn mất đi quyền được nũng nịu, đòi được yêu chiều. Cô cũng có một người anh trai nữa, người đó hơn cô một tuổi, rất nghịch ngợm và đôi lúc còn bắt nạt cô.

Cũng may là bố mẹ nuôi rất thương cô, mỗi năm họ đều mua quần áo mới cho cô, có đồ ăn ngon cũng luôn để phần. Tình cảm cô đối với bố mẹ nuôi, có yêu thương, nhưng sự cảm kích, ơn huệ lại là phần nhiều.

Năm cô 11 tuổi, lúc đó cô đang học lớp 4, một buổi tối nọ, cô đang giúp mẹ vá lại chiếc áo, bỗng mẹ nuôi nói:

“Mấy năm nay, con không nhớ Nam sao? Lúc đó, nó còn bé, sao có thể chăm lo cho con được?”

Cô im lặng không nói, đúng vậy, cô không nhớ anh trai, mới nghĩ đến cô đã thấy hận, vì thế cô không muốn nghĩ. Cô nói với mẹ: “Mẹ à, đừng nhắc đến anh con nữa”.

Mẹ nuôi thở dài, hình như trong lòng vẫn còn điều gì đó muốn nói nhưng cô đã đi về phòng mất.

Chính xác, cô hận anh, cô không sợ khổ khi đi theo anh, không được đi học thì có gì đáng sợ đâu, cô sẽ theo anh đi kiếm cơm vậy. Nhưng anh đã đập tan mộng tưởng của cô, đã làm mất đi chỗ dựa của người thân duy nhất, đó chính là sự hủy diệt triệt để, không để lại điều gì cả. Vì thế, cô không thể tha thứ cho anh trai mình.

Năm 16 tuổi, thành tích học tâp đứng đầu toàn trường giúp cô thi đỗ vào trường cấp ba, người anh lớn hơn cô một tuổi đang học lớp 11.

Một năm sau, khi người anh đó đang chuẩn bị tốt nghiệp cấp ba, cha nuôi nghỉ việc, ông thuê một cửa hàng nhỏ ở chợ để bán rau. Tối hôm đó, đang ngồi học cô khát nước nên đi ra phòng khách uống thì tình cờ nghe được cuộc trò chuyện bên phòng của cha mẹ. Anh trai nuôi nói với mẹ rằng: “Mẹ, con không biết, dù thế nào đi nữa con cũng phải học Đại học”.

“Không được, con Mai học tốt hơn con, nó có khả năng thi đậu Đại học”. Tiếng nói của cha nuôi nhỏ nhẹ nhưng rất quyết đoán.

“Lấy đâu ra tiền mà nuôi hai đưa ăn học cùng một lúc chứ?” Mẹ nuôi nói.
Nghe đến đó, cô vội quay về phòng, cô không muốn nghe gì nữa. Lúc đó, cô quyết định để cho anh trai học Đại học, còn cô, học xong cấp ba, cô sẽ đi tìm việc. Bởi từ khi anh trai bỏ cô mà đi, ba mẹ nuôi đã cho cô quá nhiều, cô không muốn thêm gánh nặng cho họ nữa.

Đáng tiếc là anh trai nuôi của cô thi không đậu và ba nuôi cô vẫn kiên quyết rằng cô phải vào Đại học.

Cô vẫn kiên quyết: “Con không thi đâu, con quyết định rồi!”.

Tranh luận hồi lâu không được, mẹ nuôi cô từ trong bếp nói vọng ra: “Mai à, con bắt buộc phải thi vào Đại học. Con có biết không, anh trai con đã gửi đủ số tiền học phí cho con rồi nên con nhất định phải học Đại học, đừng phụ lòng nó, nó không dễ dàng gì…”.

Cô ngẩn người.

11 năm sau, lần đầu tiên cô lại tìm về hồi ức của anh trai mình.

Ba mẹ nuôi nói với cô: “Năm đó, anh trai con biết một đứa trẻ 14 tuổi như nó không có khả năng để nuôi em gái nên nó mới quyết định ra ngoài đi làm kiếm cơm, còn gửi con lại cho ba mẹ. Nó bán nhà và đưa hết số tiền đó cho ba mẹ bởi nó tin rằng ba mẹ sẽ chăm sóc tốt cho con. Buổi sáng sớm hôm đó, trước khi rời đi, anh con ôm con đang ngủ say trong lòng đưa cho mẹ bồng, sau đó nhìn con và hứa rằng: “Thím à, con nhất định sẽ về đón em con, mong thím chăm sóc tốt cho nó…”.

“Từ khi con bắt đầu lên lớp 4, mỗi tháng nó đều gửi tiền về cho mẹ, ba mẹ cũng tích góp lại cho nó. Là ba mẹ vô dụng, nhiều năm qua luôn để con phải chịu ấm ức…” Ba mẹ nuôi nghẹn lòng không nói nên lời, họ cầm lấy tay cô và khóc.
Vậy những năm qua anh ấy đi đâu, sống như thế nào?…Hàng loạt câu hỏi hiện lên trong đầu, thì ra anh trai chưa từng bỏ rơi cô, anh trai vẫn luôn yêu cô nhưng bằng cách mà mấy năm qua cô không thể lý giải được.

“Thế tại sao anh lại không về thăm mình chứ, không phải anh đã hứa sẽ về thăm mình rồi ư?…”.

Số tiền gửi từ Sài Gòn về, bên ngoài phong bì không ghi địa chỉ cụ thể, cô hạ quyết tâm nhất định phải vào Sài Gòn tìm anh.

Một năm sau, cô thi đậu và vào Sài Gòn học tập, cô vẫn không thôi nghĩ đến việc tìm anh trai, thế nhưng giữa đất Sài Gòn rộng lớn như thế, đi tìm một người quả như là mò kim đáy bể.

Tốt nghiệp xong, cô ở lại Sài Gòn và làm việc ở đó, cũng là để tìm anh trai luôn. Vào lúc cô gần như tuyệt vọng, bỗng nhiên cô nhìn thấy một bức ảnh trên mạng: “Trước một quầy báo nhỏ, có một chàng trai người gầy gò ốm yếu miệng, bị mất một tay đang sửa xe đạp…” Khi nhìn thấy dòng chữ ghi tên Nam, cô hoa mắt, người đó chẳng phải là anh trai mình sao? Đúng rồi, là anh ấy.

Cô xem tiếp: “Năm 19 tuổi, người thanh niên làm việc ở một công trường xây dựng, trong lúc đang làm việc thì do gặp sự cố về máy móc nên anh ta đã bị mất đi một cánh tay, từ đó anh lang thang phiêu bạt khắp nơi, làm đủ nghề để mưu sinh: nhặt phế thải, đi bán báo, phát tờ rơi,…Và 3 năm trước, anh ta mở một quầy báo nhỏ vừa bán báo vừa sửa xe đạp. Động lực duy nhất để anh sống lạc quan như thế chính là cô em gái…”.

Khi cô xuất hiện trước quầy báo, anh trai cô đang bận rộn với công việc sửa xe đạp, mặc dù mất một tay nhưng động tác của anh vô cùng nhanh nhẹn và điêu luyện. Cô nhẹ nhàng bước lại gần, nước mắt cô rơi xuống lã chã, trước mắt cô chính là người anh mà cô từng hận vì đã bỏ rơi cô, chính là người yêu thương cô nhất, bất chấp tất cả để lo cho cô một cuộc sống đầy đủ.

“Cô gái, cô…” Anh ngạc nhiên khi nhìn thấy cô, cô khóc nức nở và ngồi xuống nhẹ nhàng lấy khăn lau mồ hôi cho anh.

“Anh à, em là Mai đây!…”

Cô vội vàng ôm lấy anh, đã lâu lắm rồi cô không được ôm anh như vậy, cảm giác đó vẫn ấm áp như hồi bé, cảm giác được an toàn, được yêu chiều…
*********

Tình cảm gia đình luôn thiêng liêng như vậy, nó luôn là chỗ dựa để ta lớn lên, luôn là động lực để ta bước tiếp, dù người thân có làm gì thì hãy luôn nhớ rằng, tất cả đều vì những người mà họ thương yêu mà thôi…!.

ST

From: Ngọc Nga  & KimBang Nguyen

MỘT NỬA CUỘC ĐỜI-Thang Le-Truyen rat ngan

Kimtrong Lam

Anh và cô rất yêu nhau. Rồi một ngày anh ngỏ ý cầu hôn.

Cô cười hỏi: “Em là gì đối với anh?”

Anh suy nghĩ một lúc rồi nhìn vào mắt cô và trả lời: “Em chính là một nửa cuộc đời mà anh đang tìm.”

Cô mỉm cười và chấp nhận lời cầu hôn, cả hai kết hôn chẳng bao lâu sau và sống hạnh phúc trong một thời gian.

Ngày tháng qua đi, đôi bạn trẻ bắt đầu xa nhau vì lịch trình làm việc bận rộn với những lo toan và công việc hàng ngày, cuộc sống của họ trở nên khó khăn.

Rồi cặp đôi bắt đầu có những cuộc cãi vã và mối quan hệ của họ xấu đi theo thời gian, nó trở nên ngày một tồi tệ hơn.

Một ngày nọ cả hai gây gổ và trong lúc nóng giận anh đã tát cô. Cô chạy ra khỏi nhà và hét lên: “Anh không hề yêu em.”

Anh càng điên lên và giận dữ nói: “Hình như có một sai lầm. Em chưa bao giờ là một nửa trong cuộc đời của anh cả …”

Cô đột nhiên im lặng và biết rằng những lời đã nói ra không thể rút lại được.

Nước mắt lưng tròng, cô về nhà, thu dọn đồ đạc và trước khi đi đã ghi lại cho anh một mảnh giấy:

“Anh nói đúng, có thể em đã chưa bao giờ là một nửa trong cuộc đời anh, hãy để em đi và anh hãy tìm đúng phần thiếu sót của mình …

Chúng ta hãy đi trên con đường của riêng mình, bằng cách này sẽ đỡ đau hơn”.

Năm năm trôi qua ..

Anh không bao giờ kết hôn lần nào nữa, nhưng anh thường tìm cách biết tin tức về cô.

Anh biết rằng cô đã rời khỏi đất nước và đang sống trong những giấc mơ của mình.

Anh cũng đã hối hận về những gì đã xảy ra nhưng chưa bao giờ tìm đến với cô và cố gắng hàn gắn.

Anh không muốn chấp nhận sự thật rằng anh nhớ cô và vẫn rất nhớ cô trong đời …

Một ngày kia khi đi công việc tại phi trường, anh đã nhìn thấy cô.

Cô đang đứng một mình chỉ cách đó vài bước. Cô cũng nhìn thấy anh và mỉm cười với anh dịu dàng.

Anh hỏi: “Em khỏe không?”

Cô trả lời: “Em ổn, còn anh? Anh đã tìm thấy tình yêu trong đời mình chưa?”

Anh mỉm cười lắc đầu: “Chưa …”

Cô nói: “Em sẽ bay trong chuyến bay kế tiếp.”

Anh nói với cô: “Anh sẽ trở lại sau 2 tuần. Hãy gọi cho anh sau đó nha ..”

Cô mỉm cười và vẫy tay chào tạm biệt …

Bản tin tối cùng ngày anh nghe nói về vụ tai nạn phi cơ.

Chính là chiếc phi cơ mà cô đã bay. Anh cố gắng tìm kiếm tin tức và biết rằng cô đã ra đi mãi mãi …

Một lần nữa anh cảm thấy đau đớn tột cùng vì nhớ cô.

Cuối cùng thì anh cũng hiểu cô chính là phần còn thiếu sót trong cuộc đời mà anh đã bất cẩn đánh mất, nhưng tất cả đã quá muộn …

Austin, 10/03/2022

Thang Le.


 

 Người Trong Mộng – Nguyễn thị Thanh Dương- Truyen ngan HAY

Nguyễn thị Thanh Dương

Đây là lần thứ hai vợ chồng Tư Chuột về thăm Việt Nam, lần trước cách đây năm, sáu năm. Thời gian cứ vùn vụt trôi, mải mê bận rộn vì cuộc sống, dù nhớ nhà, nhớ người thân hai bên nội ngoại, mà bây giờ mới có dịp trở về lần nữa.

Tư Chuột nao nức về Việt Nam gặp lại người thân, ngoài ra còn vì một lý do khác. Anh sẽ gặp lại một người bạn gái cũ sau hơn 30 năm xa cách, là “người trong mộng” của anh thời còn đi học.

Qua một người bạn học cũ mới liên lạc được, hiện cũng đang sống ở Mỹ, anh ta đã cho Tư Chuột biết tin tức một số bạn bè cùng lớp thời Trung Học. Họ cùng hào hứng nhắc đến người đẹp Ngọc Diệp, cô bé xinh xinh và nổi tiếng làm thơ hay của lớp, đám nam sinh thuở đó cứ mười người thì phải trên năm người có cảm tình với nàng và hâm mộ thơ nàng. Trong số đông đảo những thằng trồng cây si nàng có cả Tư Chuột. Là một người vóc dáng nhỏ thó, gương mặt choắt choeo, lại con nhà nghèo học dở, nên anh nam sinh Lê Văn Tư, biệt danh các bạn đặt cho là Tư Chuột không bao giờ dám mơ được tiếp cận nàng thơ, không bao giờ dám “chen lấn” với các nam sinh khác để hòng chiếm được cảm tình của nàng. Tư Chuột chỉ biết thương trộm nhớ thầm người trong mộng.

Ngọc Diệp là một trong số vài người đẹp của lớp, nàng là con nhà giàu, học giỏi, dáng gầy gầy, đôi mắt to đen đằm thắm, và mái tóc dài qua vai luôn buông xỏa về một bên trông càng quyến rũ và lãng mạn. Các anh tha hồ đua nhau làm thơ tặng nàng, Tư Chuột xôn xao chẳng thể nào ngồi yên, anh không biết làm thơ, nên định mua một cuốn sách thơ của nhà thơ nổi tiếng nào đó để tặng nàng, mượn thơ người khác nói lên nỗi lòng của mình hay ít ra cũng làm nàng vui thích vì nhận được cuốn thơ hay. Nhưng anh chưa thực hiện được thì biến cố 1975 xẩy ra.

Bây giờ Ngọc Diệp là goá phụ, hai con, cuộc sống của nàng ở Việt Nam rất nghèo khổ. Mới nghe, Tư Chuột mủi lòng thương xót cho người xưa. Có ai ngờ một cô gái đẹp cao sang thuở đó, bể dâu cuộc đời vùi dập nàng sa cơ thất thế đến tôị nghiệp? Cũng có ai ngờ anh Tư Chuột, tướng tá lù đù, thuở đó không ông thầy bói nào nhìn mà dám mở miệng tiên đoán tương lai giàu sang phú quý cho được, học hành thì lình bình đủ điểm lên lớp là may lắm rồi, nay lại là một người thành đạt, một ông chủ shop sửa xe to lớn và đông khách trên xứ Mỹ, hai con học Đại học, nhà cao cửa rộng trả off từ lâu, vợ Tư Chuột hột soàn đeo đầy cổ, đầy tay.

Tư Chuột đã ghi chép cẩn thận địa chỉ nhà Ngọc Diệp, nàng sống tại Sài Gòn nên sự đi lại càng thuận tiện vì hầu hết họ hàng bên vợ và bên Tư Chuột cũng ở quanh Saì Gòn. Nhất định, anh sẽ đến thăm nàng, cả một đời người anh mới có dịp hiên ngang tiếp cận nàng như thời điểm này. Dù anh gặp lại Ngọc Diệp chỉ với tư cách một người bạn cũ, để nhìn lại bóng dáng người xưa. Nay ai đã phận nấy, hai khung trời khác biệt, cái tình cảm thời tuổi trẻ chỉ còn là kỷ niệm, một kỷ niệm đẹp có lẽ Tư Chuột không thể nào quên.

Tư Chuột dấu vợ, chị vợ hay ghen và giàu tưởng tượng, chỉ cần anh nói đi thăm một người bạn gái cũ là chị ta sẽ suy đoán ra một thiên tình sử ngay, và chị sẽ không rời anh nửa bước. Tư Chuột không muốn vợ đi theo làm tan biến đi giây phu’t diệu kỳ hội ngộ, chắc chắn nên thơ và lãng mạn như người thơ thuở ấy.

Tư Chuột đã sắp đặt sẵn mọi thứ trong đầu trước khi đến nhà thăm Ngọc Diệp, anh sẽ ghé tiệm sách mua một cuốn thơ, món quà anh còn mắc nợ nàng bao nhiêu năm về trước. Nhưng nàng nghèo lắm, thơ chỉ có ý nghĩa cho tâm hồn. Anh sẽ tặng nàng một món quà thực tế là tiền, là đô la. Anh ngại ngùng quá , với một người yêu thơ, làm thơ, mà anh mang chuyện tiền bạc ra có đụng chạm vào tự ái của nàng không? Anh sẽ bỏ món quà ấy vào phong thư cho lịch sự, sẽ nhẹ nhàng kín đáo và nói hết sức khiêm nhường rằng: “ Tôi quý mến Ngọc Diệp chân tình nên mới tặng món quà nhỏ mọn này, mong Ngọc Diệp đừng từ chối làm tôi đau lòng”. Ôi, đôi mắt to đen đằm thắm của nàng chắc sẽ nhìn anh cảm động? và biết đâu trong sâu thẳm tâm hồn nàng sẽ dày vò nuối tiếc sao ngày xưa không để ý đến anh Tư Chuột, thì ngày nay đời nàng sung sướng biết bao?

Sáng nay sau khi ăn uống điểm tâm bên nhà vợ, Tư Chuột thay bộ quần áo bình dân giản dị nhất, chiếc quần màu kaki và áo sơ mi trắng bỏ ra ngoài. Đến nhà Ngọc Diệp trong hoàn cảnh nghèo, anh chẳng muốn mình ăn mặc sang trọng ra vẻ Việt Kiều làm nàng tủi thân. Anh xin phép vợ để đi thăm vài thằng bạn cũ, nhìn cách ăn mặc tàn tàn của anh, chị tin ngay, và dặn chiều về sớm để hai vợ chồng cùng đi dạo phố.

Tư Chuột ra đầu ngõ kêu xe ôm chở đến một tiệm sách gần nhất và bảo anh xe ôm ngồi ngoài chờ.

Từ xưa tới nay Tư Chuột có biết gì về thơ, nay lạc vào một rừng thơ làm anh hoa cả mắt, có nhiều tập thơ của nhiều tác giả khác nhau, cuốn nào trình bày bìa cũng đẹp, những lời đề tựa, lời giới thiệu nào cũng bay bổng trời xanh. Mở ra đọc thử mỗi bài thơ, Tư Chuột thấy bài nào cũng… giống nhau, thất tình, thương nhớ, giận hờn… càng làm anh rối trí. Thà như ở shop sửa xe của anh, xe nào hư không nổ máy, anh mày mò một lúc là tìm ra lý do ngay, thà khách hàng yêu cầu anh thay nhớt xe, anh làm vèo một cái là xong. Còn lựa chọn một cuốn thơ trong đám thơ này sao mà khó khăn qúa!

Tư Chuột cầm một cuốn thơ lên, bìa màu tím, xinh xinh, cuốn thơ tên “Một thời tương tư”, anh thấy thích hợp với mình nhất, anh đã chẳng một thời tương tư Ngọc Diệp đó sao! Muộn còn hơn không, để anh được bày tỏ tình cảm với nàng, dù điều ấy nàng cũng biết thừa từ lâu..

Anh mang cuốn thơ ra quầy tính tiền, nhờ cô nhân viên gói giấy hoa cho đẹp để làm quà tặng, anh đã hào hoa trả tiền gấp đôi gấp ba giá ghi trên bìa sau cuốn thơ và hớn hở ra khỏi nhà sách.

Anh xe ôm tiếp tục cuộc hành trình tìm địa chỉ nhà Ngọc Diệp, một con hẻm nhỏ gần khu chợ Bà Chiểu, anh ta bảo đảm sẽ tìm ra địa chỉ mới ăn tiền xe, nên Tư Chuột yên tâm, âu yếm ôm nhẹ cuốn thơ vào lòng và ngắm nhìn cảnh tấp nập của phố phường. Sau khi anh xe ôm quẹo vào vài con hẻm ngoằn nghoèo, vài lần rẽ trái, rẽ phải đến chóng mặt, Tư Chuột đã đứng ngay trước số nhà muốn tìm.

Anh sửa lại nếp áo, nếp quần cho bớt nhăn nhó và run run đưa tay lên gõ cửa, hồi hộp chờ đợi gương mặt quen thuộc ngày xưa hiện ra. Chắc khi nghe anh giới thiệu là Tư Chuột, Ngọc Diệp sẽ nhớ ra ngay, cái biệt danh độc đáo của anh nam sinh nhỏ con nhất lớp, nhà quê nhất lớp, và học dở nhất lớp, ai cũng biết.

Nhưng trong nhà vẫn im vắng, không một ai ra trả lời! Tư Chuột đang ngỡ ngàng chưa biết tính sao thì một bà hàng xóm sát bên chạy ra, sốt sắng:

– Ông tìm nhà bà Diệp hả?

Tư Chuột mừng rỡ:

– Vâng, có phải đây là nhà bà Ngọc Diệp không?

– Đúng rồi, ba mẹ con bà ấy bán quán cơm tấm ngoài đầu hẻm, kế bên tiệm bán chè, sinh tố đó, bộ khi nãy vô đây ông anh không nhìn thấy hả?

– Vâng, thôi cám ơn bà.

Tư Chuột leo lên xe ôm và chạy ra đầu hẻm, bây giờ mới để ý thấy quán cơm đúng như bà hàng xóm nói, Anh trả tiền hậu hĩ cho anh xe ôm và đến hàng sinh tố kêu một ly mãng cầu tươi, ngồi nghỉ chân và suy nghĩ, không lẽ Ngọc Diệp đang bận rộn bán buôn mà anh đến nhận diện người quen, chuyện trò và tặng quà ngay giữa chốn bát nháo ăn uống này thì còn gì là ý nghĩa? Để chiều nay, khi nàng về nhà, anh sẽ đến cũng không muộn màng gì, và sẽ có nhiều thời gian để tâm sự, nhắc lại những kỷ niệm thời đi học.

Anh thong thả uống ngụm sinh tố và dõi mắt sang hàng cơm tấm bên cạnh. Đang tầm sáng, giờ cao điểm đông khách, anh chẳng thấy Ngọc Diệp đâu, chỉ thấy một bà to mập đang ngồi giữa nồi cơm to tướng không kém gì bà ta, và một cái bàn thấp trên bày la liệt những món ăn, những hũ đồ chua và hũ nước mắm, mấy ống đựng thìa, đựng nỉa. Bà vừa xới cơm ra dĩa, vừa gắp thức ăn lia lịa và luôn miệng quát hai phụ nữ trẻ bưng bê:

– Lẹ tay lẹ chân lên chút coi, khách đang ngồi đợi kìa!

– Dẹp mấy cái dĩa không vào đây cho tao, hết dĩa rồi !

Tư Chuột làm bộ bâng quơ hỏi chị bán sinh tố:

– Nghe nói quán cơm này ngon lắm phải không chị?

Chị sinh tố thật thà:

– Quán cơm tấm bà Ngọc Diệp nổi tiếng ngon, ông ăn thử thì biết.

– Chị làm ơn kêu cô giúp việc cho tôi dĩa cơm tấm sườn nướng đi.

– Hai cô đó là con gái bà Ngọc Diệp, ba mẹ con sống nhờ nồi cơm tấm này đó.

– Vậy bà ấy đâu rồi?

– Thì bà Ngọc Diệp to béo đang ngồi bán cơm chứ ai.

Tư Chuột giật mình hụt hẫng, anh tưởng mình nghe lầm. Cố giữ vẻ bình tĩnh, anh nói cho chị sinh tố khỏi nghi ngờ vì thái độ khác thường của mình:

– Nghe danh quán cơm bà Ngọc Diệp, hôm nay tôi mới có dịp ghé đây ăn thử.

Chị sinh tố chẳng thì giờ đâu mà nghi ngờ như chị Tư Chuột nhà anh. Chị ta vui vẻ đi gọi cơm giùm anh, nên Tư Chuột tự nhiên và thoải mái nhìn bà to mập kia kỹ lưỡng hơn. Đúng là Ngọc Diệp rồi, nhờ đôi mắt to đen mà anh đã nhận ra nàng, dù hình dáng nàng thì hoàn toàn khác hẳn.

Mọi thứ trên cõi đời có thể thay đổi, nhưng sao cuộc sống và thời gian lại nỡ biến đổi một cách phũ phàng từ một cô gái xinh xẻo, vóc dáng gầy gầy, một nàng thơ dịu dàng ngày nào thành một bà to mập, ngồi bán cơm ngoài đường phố và luôn miệng quát mắng con trước mặt mọi người như thế?

Cô con gái của Ngọc Diệp bưng dĩa cơm tới bàn Tư Chuột, nhìn cô gái, Tư Chuột đã thấy lại đôi mắt to đen đằm thắm của người mẹ bao nhiêu năm về trước. Anh thong thả ăn từng thìa cơm nhỏ vì bụng hãy còn no, và vì muốn kéo dài thì giờ để nhìn thêm cảnh đời của Ngọc Diệp, cho bỏ công lao anh nao nức từ bên Mỹ khi chuẩn bị về Việt Nam, cho bỏ công lao anh đã ngồi mỏi lưng sau chiếc xe ôm đi tìm con hẻm nhà nàng cả giờ đồng hồ.

Khách hàng vẫn đông, bà mẹ vẫn the thé sai bảo và mắng hai cô con gái, có lúc rảnh tay bà ngẩng lên, quét ánh mắt lanh lợi như điểm danh các khách hàng, bà ta ngừng lại nơi Tư Chuột vài giây, vẫn không có cảm xúc gì khác lạ, như với bao nhiêu người khách khác mà thôi. Làm sao trong giây phút bận rộn hối hả này, bà có thể nhận ra một người quen sau hơn 30 năm mờ mịt vì gío bụi cuộc đời? rồi bà lại cúi xuống thoăn thoắt xới cơm, lấy thức ăn cho khách.

Tư Chuột kêu tính tiền, cô gái hét gía 40 ngàn đồng, trong khi nãy giờ anh thấy mỗi dĩa cơm tương tự người ta chỉ trả có 20 ngàn đồng. Anh ngạc nhiên nhưng cũng móc túi trả đầy đủ, chị bán sinh tố nhìn Tư Chuột thương hại, thì thầm:

– Mẹ con bà này chuyên môn coi mặt đặt tên, thấy ông là khách lạ, ngàn năm một thuở mới đến quán một lần, nên tính gía trời ơi, kiếm thêm thu nhập. Nhưng cũng còn may cho ông, bữa hôm có chị Việt Kiều về xóm chơi, sáng ra đây ăn cơm tấm, bị chém một dĩa cơm tới 50 ngàn đồng, vì chị đó ăn mặc sang trọng lắm, nhìn vô thấy Việt Kiều liền.

Tư Chuột xót xa, không vì mất thêm tiền một cách vô lý, mà vì lòng tham của con người, lại là người mà anh từng ngưỡng mộ, thương mến. Cuốn sách thơ trong tay Tư Chuột bỗng trở nên thừa thãi, lố bịch, và cái phong thư có vài trăm đô la nằm trong túi áo anh có lẽ không bao giờ cần phải lựa lời tế nhị để trao cho người nhận nữa. Anh bỗng quyết định không cần đến nhà Ngọc Diệp, không đối diện với nàng, người trong mộng của anh đã chết tự lâu rồi. Món tiền này anh sẽ cho những người nghèo khổ nào đó anh gặp trên đường phố, còn cuốn thơ, sẽ có một người xứng đáng hơn Ngọc Diệp để anh trao tặng.

Một thằng bé bán vé số đến bên Tư Chuột, nó chìa xấp vé số ra mời mọc, nhưng Tư Chuột gạt đi và mời lại nó:

– Thằng nhỏ, mày muốn ăn cơm tấm không?

– Muốn, mà không có tiền ông ơi!

– Mày có bao nhiêu đứa bạn kêu hết lại đây, tao bao.

Thằng vé số nhẩy cẩng lên vì vui sướng, vội chạy đi tìm lũ bạn, một lúc sau hơn chục đứa kéo tới bu quanh Tư Chuột, anh ra lệnh:

– Đứa nào muốn ăn gì thì kêu đi, rồi qua uống sinh tố hay ăn chè quán này. Nghe chưa?

Lũ trẻ uà ra chỗ bà bán cơm, xúm xít chỉ trỏ các món ăn. Tư Chuột gọi cô con gái bà hàng cơm ra, đếm bao nhiêu dĩa cơm, mỗi dĩa 40 ngàn đồng , trả tiền ngay tại chỗ, làm cô kinh ngạc không ngờ hôm nay trúng mánh lớn. Tư Chuột lại đưa cho cô một xấp bạc Việt Nam nữa và nói trước mặt lũ trẻ:

– Số tiền này đủ cho lũ trẻ đến đây ăn cơm ít nhất cũng ba lần nữa. Tôi trả trước cho cô đấy.

Anh quay qua trả tiền chị sinh tố cũng đủ cho bọn trẻ ba lần nữa rồi ra về.

Thấy chồng về sớm chị Tư Chuột ngạc nhiên:

– Tưởng anh đi tới nhà bạn bè chiều mới về?

Anh chìa cuốn thơ gói trong tấm giấy hoa xinh đẹp ra:

– Có tìm nhưng không gặp bạn, nên anh ghé vào một tiệm sách, chọn mua tặng em một cuốn thơ tình.

– Một cuốn thơ tình?

Chị Tư Chuột cảm động ngỡ ngàng vì món quà bất ngờ, chồng chị chưa bao giờ tặng chị một món quà thanh lịch như thế này, chị như bay bổng vào cõi thiên thai:

– Anh ơi, tuy em ít đọc thơ, nhưng anh mua tặng thì từ nay em sẽ siêng đọc thơ và sẽ yêu nó.

Chị mở ra thấy cuốn thơ, lẩm bẩm đọc “ Một thời tương tư”, nên càng cảm động và ngạc nhiên:

– Không ngờ anh tối ngày lo sửa xe, tay chân dầu nhớt, mà cũng có tâm hồn thi sĩ ghê. Ở với anh mấy chục năm em mới phát hiện ra điều này. Bộ hồi đó anh tương tư em hả?

Tư Chuột nhìn vợ, chị cũng to mập, sồn sồn không thua gì Ngọc Diệp. Nhưng còn có chỗ dễ thương, chị đôn hậu và thành thật tin vào những lời nói dối của chồng.

Tư Chuột bỗng thấy thương vợ hơn bao giờ, anh nói bằng sự trìu mến như thuở ban đầu mới cưới nàng:

– Vì em mãi mãi là người anh yêu, là người trong mộng của đời anh.

* * *

Buổi chiều đi chơi cùng với vợ, tình cờ đi ngang qua con đường nơi đầu hẻm nhà Ngọc Diệp, quán cơm đã dẹp, chỉ còn quán sinh tố. Tư Chuột bảo tài xế taxi ngừng lại, để anh ghé vào tiệm sinh tố mua một bao thuốc lá ba số. Chị sinh tố nhận ra anh ngay và mau mắn:

– Mấy đứa nhỏ nhờ tôi gởi lời cám ơn ông nếu có dịp gặp lại. Còn bà Ngọc Diệp chủ tiệm cơm, bà ấy tuyên bố một câu về ông, nói ông đừng có buồn nghe?

– Chị cứ nói đi.

– Bà ấy nói với tôi rằng thằng cha đó một là khùng, hai là dân giang hồ làm ăn gian dối, trúng mánh, nên mới thừa tiền bao lũ trẻ bụi đời ngoài đường phố. Biết thằng cha chịu chơi như vậy, lúc nãy tao tính mỗi dĩa cơm 50 ngàn đồng rồi. Tiếc quá!

Tư Chuột chào chị sinh tố lên Taxi, lòng thảnh thơi, không có gì để nuối tiếc khi anh đã quyết định không bao giờ gặp lại người trong mộng ngày xưa của mình nữa. 


 

ĐỪNG ĐÁNH GIÁ VÌ BỀ NGOÀI-Truyen rat ngan

 Bùi Mạnh Toàn  

CÂU CHUYỆN NHÂN VĂN

Một ngày cuối chiều anh ấy đến quán ‘Thức ăn nhanh & cà phê’ của tôi, hỏi tôi xin một ít thức ăn đã không bán được.

– Sao anh không có việc làm, anh biết không có gì là miễn phí không?

Anh trả lời:

– Tại tôi có rất nhiều tội và không ai muốn thuê tôi, vì điều đó nên tôi phải ra đường và sống theo cách của tôi để tồn tại.

Ngày hôm đó tôi thiếu nhân viên, vì vậy tôi hỏi:

– Anh muốn làm việc không? tôi có công việc cho anh.

Đôi mắt anh mở to và nụ cười của anh đã làm tôi yên lòng.

Và anh đã làm việc cho tôi ngày hôm sau, rửa ly, quét dọn và tất cả những việc vặt của quán.

Đoán xem, anh ta đã làm gì khi tôi trả tiền công. Anh ấy không nhận tiền và nói chỉ cần số thức ăn và nước uống không bán được trong ngày.

Tôi đã trả lời:

– Vâng anh được lấy tất cả những thứ đó. – và bí mật đi theo xem anh ấy sẽ làm gì với số thức ăn đó.

Thật ngạc nhiên và bất ngờ khi thấy anh ấy đã chia sẻ thức ăn và đồ uống đó cho những người vô gia cư như anh.

Tôi chợt nhận ra mình thật nhỏ bé hơn những gì ẩn dấu bên trong anh ấy.

Vâng tôi sẽ thay đổi sau những gì tôi đã thấy từ một người được cho là thấp hèn này.

  • Bài học:

Mỗi chúng ta có thể bắt đầu thay đổi ngay lúc này và sẽ không bao giờ là muộn màng.

Nguồn sưu tầm

TẤM LÒNG VÀNG CỦA MỘT CÔ GIÁO-Truyen ngan

Nghề dạy học là một nghề khiêm tốn, nhưng hết sức quan trọng. Có những thầy cô giáo tạo được ảnh hưởng lâu dài, ảnh hưởng đến cả đời của học sinh. Câu chuyện dưới đây là một ví dụ điển hình về những thầy cô giáo tạo được sự khác biệt đến cuộc đời của học sinh. Chúng tôi mượn tựa đề “Tấm Lòng Vàng” của nhà văn Nguyễn Công Hoan để miêu tả câu chuyện.

*************

Hồi năm 1968, tôi còn là một học sinh ở trường trung học Levon & Sophia Hagopian Armenian ở Beirut. Vào lúc ghi danh theo học lớp 10, tôi phải đến văn phòng hiệu trưởng nói với người thư ký rằng cha mẹ tôi không có đủ tiền để đóng học phí. Mặc dù lúc đó tôi là một học sinh giỏi, đứng đầu lớp, nhưng tôi vẫn bị đuổi đi, cho về nhà. Sự việc này làm tôi đau lòng vô cùng, tôi rất thích đi học, và muốn có mặt ở trường ngay từ ngày đầu niên học.

Tôi về nhà, không được đi học nữa. Mỗi ngày tôi phải phụ với cha tôi làm việc trong xưởng vá bánh xe hơi. Cha tôi chỉ kiếm đủ tiền nuôi gia đình, gồm mẹ tôi và ba đứa con, ông không có tiền để đóng học phí cho tôi.

Một ông già trông thấy tôi ở tiệm sửa xe, và thắc mắc không hiểu vì sao tôi không đi học. Tôi nói với ông rằng tôi phải bỏ học vì không có tiền đóng học phí. Ông đề nghị để ông gọi điện thoại cho một vị hiệu trưởng trường khác, không phải trả học phí, để tôi có thể tiếp tục đi học. Mặc dù trường sau này ở rất xa nhà tôi, nhưng tôi vẫn không bỏ lỡ cơ hội theo học tiếp, tôi đi xe buýt rất lâu để đến trường tiếp tục học. Tôi nói với ông hiệu trưởng rằng tôi đã được thu xếp không phải đóng học phí, hay chỉ đóng với giá đặc biệt. Nhưng tôi vô cùng kinh ngạc khi vị hiệu trưởng sỉ vả, mắng nhiếc tôi, và nói rằng không hề có chuyện học miễn phí, hay mặc cả tiền học.Tôi lập tức quay đầu trở về, và đi thẳng đến nơi sửa xe của cha tôi.

Ba ngày sau, một người bạn cùng lớp với tôi ở trường Sophia Hagopian đến gặp tôi. Ông hiệu trưởng sai nó đến gặp tôi và nói tôi nên quay trở lại trường. Khi đến trường, tôi nói với người thư ký học vụ rằng tôi không có tiền đóng học phí. Nhưng bà ấy báo cho tôi biết tiền học phí của tôi đã được trả hết rồi, và tôi có thể đi học bình thường với bạn bè như trước. Tôi hỏi bà thư ký ai đã đóng tiền học cho tôi, để tôi có thể cám ơn con người tử tế ấy. Nhưng bà thư ký nói rằng người đóng học phí cho tôi muốn giữ kín tên của họ.

Tôi vào lớp học mà trong đầu cứ quanh quẩn suy nghĩ mãi xem ai là người đã đóng học phí cho tôi. Ai là người đã có tấm lòng vàng cho tôi cơ hội may mắn này. Tôi quanh trở lại văn phòng hiệu trưởng và năn nỉ bà thư ký học vụ xin bà vui lòng cho biết ai đã đóng học phí cho tôi. Vì tôi năn nỉ quá, bà thư ký dặn tôi rằng bà sẽ tiết lộ danh tánh người đóng học phí cho tôi với điều kiện tôi phải giữ bí mật, và không được đến cám ơn người ấy. Nếu không, bà thư ký học vụ có thể bị mất việc vì không giữ bí mật tin tức. Bà cho tôi biết người có lòng tốt đóng học phí cho tôi chính là cô giáo dạy Anh Văn, cô Olivia Balian.

Bà thư ký học vụ kể cho tôi nghe rằng khi niên học bắt đầu, bà thấy ghế ngồi của tôi ở trong lớp bị bỏ trống, không thấy tôi đi học. Bà hỏi thăm vì lý do gì. Bà thư ký học vụ nói rằng cha mẹ em học sinh này không có tiền đóng học phí, nên em đó phải nghỉ học. Bà Balian nói với ông Hiệu trưởng yêu cầu nhà trường trừ tiền học phí cho học sinh đó vào tiền lương hàng tháng của bà.

Trong suốt cả niên học, tôi ngồi học trong lớp của cô Balian, suy nghĩ về tấm lòng tử tế của cô, mà không thể nói lời cảm ơn. Một năm sau, gia đình tôi được sang định cư ở Hoa Kỳ. Ở đây, tôi lấy được hai văn bằng Master, một ở trường Columbia University, và một ở trường Pepperdine University.

Tôi không bao giờ quên được tấm lòng tử tế, rộng lượng của cô giáo Balian. Gần 40 năm sau, tôi quanh trở lại Beirut lần đầu tiên, và tặng $4.5 triệu đô la cho Quĩ Giáo Dục Kirk Kerkorian’s Lincy Foundation, cấp học bổng cho 28 trường học của người Armenian hoạt động ở Beirut. Một trong những trường tôi đến thăm, có trường trung học cũ của tôi. Khi trao tấm chi phiếu vài trăm ngàn đô la cho ông Hiệu trưởng, tôi dặn dò ông chớ bao giờ đuổi học sinh về nhà vì em đó không có tiền đóng học phí. Bởi vì không ai có thể biết được trong tương lai em bé đó sẽ trở thành con người như thế nào. Em học sinh đó có thể trở thành một bác sĩ, một nhà ngoại giao tài giỏi, hay trở thành một tỉ phú tặng tiền rất nhiều cho các trường học.

Trong lúc lưu lại Lebanon, tôi đi thăm cô giáo cũ của mình, là cô Balian. Bây giờ cô đã nghỉ hưu, không còn đi dậy nữa. Cô đang sống một mình trong một căn hộ nhỏ bên ngoài Beirut. Cô hết sức vui mùng khi gặp lại tôi. Cuối cùng thì tôi cũng có dịp ngỏ lời cảm ơn cô vì sự tử tế, rộng lượng của cô trong nhiều năm tôi đi học. Nhưng cô rất khiêm tốn, không màng để ý đến việc tôi cảm ơn cô, cô tìm cách đổi đề tài câu chuyện đi hướng khác. Tôi ngỏ lời xin được giúp đỡ cô về mặt tài chánh, hay làm một buổi lễ vinh danh cô vì cô đã dành nhiều năm để dậy dỗ học sinh gốc Armenian. Nhưng cô từ chối tất cả mọi đề nghị của tôi.

Tôi viết câu chuyện này để tôn vinh cô giáo của tôi, bà Olivia Balian. Bà qua đời vào năm 2017. Nhưng cũng nhân dịp này tôi xin được nói ra một điều là người ta có thể tạo ra sự khác biệt rất lớn cho cuộc đời của một người khác. Nếu không có cô giáo Balian, tôi đâu có dịp học tiếng Anh, và có lẽ chẳng bao giờ có cơ hội sang Hoa Kỳ, để rồi trở thành một nhà xuất bản nhật báo Anh Ngữ The California Courier. Rất có thể tôi đã suốt đời làm việc trong tiệm vá bánh xe của cha tôi ở Beirut.

My Lan Phạm (ST)

Bao Nguyen Quang

– Ảnh: Đỗ quyên cổ thụ trên núi cao ở Ấn Độ.

From: haiphuoc47&NguyenNThu