Một chọn lựa – Lưu An-Vũ Ngọc Ruẩn/SGN-Truyen ngan HAY

Ba’o Nguoi-Viet

June 28, 2024

Lưu An-Vũ Ngọc Ruẩn/SGN

Trời hôm ấy mười lăm hay mười tám

Tuổi của nàng, tôi nhớ chỉ mười ba.

Giữa năm Định đang học đệ lục (lớp 7) ban trung học thì ông Vinh, ba của Định bị mất việc làm, cuộc sống gia đình vốn dĩ đã nghèo túng lại càng bi đát hơn. Ông Vinh đã phải cùng với vợ nhận quần áo, chăn màn, khăn lau miệng… từ các nhà hàng ăn, khách sạn… trong thành phố đem về giặt ủi để kiếm tiền chu cấp cho đàn còn bảy đứa đang tuổi ăn học. Trong hoàn cảnh khó khăn đó việc học hành của anh em Định được coi như thứ yếu.

Dù ở cái tuổi 13, 14 đang ham chơi nhưng Định cũng phải nhảy vào công việc kiếm tiền giúp đỡ cha mẹ. Mỗi sáng, Định phải thức dậy thật sớm chở các đồ vật đã được bố mẹ giặt ủi ngày hôm trước đi giao cho các nhà hàng, khách sạn trong thành phố rồi mới lo chuyện đến trường học. Buổi trưa về nhà, có gì ăn nấy vội vã cho xong bữa cơm rồi cố dành tí thời gian lo bài vở nhà trường cho ngày mai. Sau đó khoảng 3 giờ chiều phải đạp xe lên các tòa báo trên trung tâm Sài Gòn, nhận báo đi bán rông cho mãi đến tối khuya mới về nhà. Trong hoàn cảnh khó khăn đó, việc học của Định trong hai năm đệ lục và đệ ngũ xuống dốc thê thảm, gần như độn sổ! Hầu như không khi nào Định làm trọn vẹn vai trò của đứa học trò ở mức tối thiểu. Ba mẹ Định cũng biết việc học của con lết bết nhưng cũng đành chịu vì chẳng biết làm gì hơn.

Hàng ngày Định cố tranh giành xếp hàng ở các tòa báo, lấy được báo càng sớm càng tốt từ các nhà phát hành rồi vội vã đạp xe đến bùng binh ngã sáu Sài gòn hay công trường Dân Chủ hoặc  các giao lộ đông người qua lại để rao bán báo mới (ngày hôm sau) cho người đi làm về lúc 4 hay 5 giờ chiều. Sau đó khi luồng người đi làm về đã thưa thớt hơn, Định mới đạp xe đi bán báo dạo hay bỏ báo tháng ở những con đường, ngõ hẻm quen thuộc trong thành phố cho mãi đến tối khuya mới về nhà.

Đường Bùi Viện là nơi Định đến bán báo sớm nhất, vì nơi đó khá gần với trung tâm thành phố. Cuối con đường này có một gia đình mua báo tháng của Định, đã ghi đậm vào ký ức của Định rất nhiều cảm tình gắn bó vì tình thân thương của gia đình họ. Hàng ngày mỗi khi gõ nhẹ vào cánh cổng bằng tôn của căn nhà, một cô bé khoảng tuổi 12, 13  cùng với chú em trai hay bà mẹ ra nhận tờ báo từ tay Định với nụ cười dễ dãi, họ không bao giờ quên nói với Định vài lời cám ơn rất chân thành.

Thông thường khi đi bán báo Định mặc chiếc quần đùi cũ kỹ vá chằng chịt như cái bẹ dừa khô ở mông chiếc quần, chiếc áo màu xanh lá mạ do mẹ sửa đổi từ chiếc áo cũ của bố nhưng cũng xệch xoạc vì các miếng vá bằng tay.  Nhưng nhiều khi khi vì lười biếng, Định không thay bộ đồng phục, quần xanh áo trắng với huy hiệu trường Chu Văn An trên túi áo lúc đi bán báo. Một lần, khi vừa gõ vào chiếc cổng bằng tôn của căn nhà mua báo tháng dễ mến đó, như mọi lần cô bé gái và chú em ra mở cổng nhận báo kèm lời cám ơn lễ phép ân cần, nhưng lần đó cô bé có tí e lệ, rụt rè, không dấu được vẻ vui tươi hiện rất rõ trên khuôn mặt ngây thơ khi đưa tay nhận lấy tờ báo, cô bé nói với Định:

-Anh chờ một tí, mẹ em muốn nói chuyện với anh.

Rồi cô bé quay vào nhà gọi to:

-Mẹ ơi, anh bán báo tới mẹ ạ.

Định bình thản đứng chờ mẹ cô bé, hoàn toàn không một tí ngạc nhiên vì chẳng có gì lạ khi người mua báo tháng muốn có vài đòi hỏi, yêu cầu trong việc nhận báo hàng ngày.  Bà mẹ từ phía trong nhà bước ra với nụ cười rất niềm nở trên môi, đưa  tay vỗ nhẹ thân mật vào vai Định, nhìn rất kỹ vào chiếc huy hiệu Chu Văn An trên ngực áo của Định, rồi bà hỏi:

-Cháu học Chu Văn An hả? Lớp mấy?

-Vâng ạ, cháu đang học lớp đệ ngũ.

Rồi tiếp theo là những câu hỏi khác về thân thế, gia đình, việc học hành và cả lý do vì sao Định phải bán báo. Định  trả lời tất cả những gì mà bà ta muốn biết, chẳng giấu giếm gì dù có chút ngượng ngùng khi cho bà ta biết về sự thua kém bè bạn cùng lớp trong việc học hành cũng như gia cảnh nghèo túng của mình. Tuy nhiên, Định có cảm tưởng bà ta nhìn sự ngượng ngập của Định với ánh mắt rất cảm thông, an ủi và có chút cảm phục. Đứng bên cạnh bà mẹ, hai chị em cô bé im lặng giương mắt nhìn Định với đầy cảm phục, dễ mến.

Ngày hôm sau, lúc đưa báo, Định chưa kịp gõ vào chiếc cổng bằng tôn, cô bé và chú em trai, hình như đã đứng sau cánh cổng chờ đợi từ trước để mở cửa. Cánh cổng vừa mở, cô bé với vẻ mặt tươi cười , thân thiện nói ngay:

-Anh chờ mẹ em một tí…

Ngay lúc đó bà mẹ đi ra, nhìn Định với nụ cười hiền hòa hỏi Định đã ăn cơm chưa, rồi bà chẳng chờ đợi Định trả lời, bà đưa cho Định một khúc bánh mì thịt khá lớn, gói trong bọc giấy. Với tí chút ngạc nhiên nhưng không giấu được vẻ mừng vui, Định cầm ngay gói quà và không quên cúi đầu liền mấy lần kèm theo lời cám ơn. Bà mẹ và hai đứa con hơi chau mắt, ngẩn ngơ khi nhìn thấy rõ nét mặt quá vui mừng của Định khi nhận món quà. Có lẽ họ không hiểu được, mỗi ngày sau khi phải giành giật khách mua báo với lũ trẻ bán báo khác ở các công trường vào giờ tan sở rồi lại phải đạp xe len lỏi vào  khắp các ngõ hẻm để bán và bỏ báo tháng, cơn đói luôn luôn đến với Định. Hôm nay ngẫu nhiên nhận được khúc bánh mì kẹp thịt ngon lành, làm sao mà Định không mừng rỡ được?

(Hình: Annie Spratt/Unsplash)

Từ đó, thỉnh thoảng Định lại được bà mẹ hay cô bé gái tên Loan, chú em tên Chính cung cấp cho các món ăn. Lúc thì  ổ bánh mì thịt, lúc thì vài chiếc bánh ”Pao” hay gói xôi đậu phụng… Rồi cũng nhờ bà mẹ giới thiệu, Định có thêm hai gia đình mua báo tháng ở cùng khu vực. Tình thân của Định và gia đình Loan gia tăng theo những lần cho quà, những lần trả tiền báo tháng nhiều hơn giá quy định.

Cũng có vài lần bà mẹ nói với Loan mời Định sau khi bán báo xong đến nhà ăn cơm tối. Rồi cứ thế Định và Loan thân nhau dần dần, tình cảm thân thương non nớt, ngây thơ của hai đứa hình như cũng lớn theo với gần hai năm Định bỏ báo tháng cho nhà Loan. Những câu nói, ánh mắt nhìn nhau e lệ  hình như càng lúc càng nhiều hơn, kín đáo hơn. Dù chỉ là vài câu chào hỏi bâng quơ trong khoảng thời gian vài phút ngắn ngủi hàng ngày, khi Loan ra nhận tờ báo đã vô tình, êm ả trở thành những giây phút chờ đợi, niềm vui của Định và có lẽ cũng của Loan nữa. Ba của Loan là công chức sở Thuế vụ trên đường Hàm Nghi Sài Gòn, Loan thua Định 3 tuổi, sau lần thi tuyển vào lớp đệ thất trường Gia Long không đậu, nên phải theo học tại trường tư thục Hưng Đạo ở gần nhà.

Bước sang đầu năm đệ tứ, ba của Định kiếm được việc làm, mẹ quen việc nên  vẫn tiếp tục nhận quần áo về giặt ủi nhờ vậy vấn đề tài chánh cho gia đình đã có phần dễ thở hơn. Không nỡ nhìn thấy các con lem luốc vì phải kiếm sống mà bỏ bê việc học hành, nhất là sang năm Định lên lớp đệ tứ, phải có thời gian chuẩn bị cho kỳ thi lấy bằng trung học đệ nhất cấp. Đúng lúc đó, báo chí ồn ào về tin một đứa trẻ bán báo dạo, cùng lứa tuổi của Định, chỉ vì món tiền bán báo nhỏ nhoi đã bị giết chết, xác bỏ xuống con rạch ở Cống Bà Xếp nên ba mẹ bắt Định bỏ việc bán báo để chuyên lo việc học.

Thời gian vẫn chậm rãi, bình thản đi qua, Định hoàn tất xong bằng trung học, sửa soạn thi tú tài bán phần. Dù không còn bán báo nữa nhưng thỉnh thoảng Định cũng trở lại con đường Bùi viện tạt vào thăm gia đình Loan. Loan cũng lớn dần, với chiếc áo dài màu trắng, màu vàng dễ thương của cô học trò trường Hưng Đạo, cô bé đã biết e lệ hay giới hạn lời nói, nụ cười, ánh mắt mỗi khi Định đến thăm. Những cuộc nói chuyện giữa Định và Loan không còn tự nhiên như trước nữa. Nó mất dần vẻ hồn nhiên, thoải mái của ngày trước, lúc hai đứa còn bé nhỏ, ngây ngô, khi Định còn bỏ báo cho gia đình Loan. Cả hai không nói ra, nhưng đều cảm nhận được rất rõ ràng là giữa họ hình như đã có cái gì vô hình, rất mơ hồ mang âm thanh của ngượng ngùng, mỗi khi có dịp gặp nhau riêng rẽ. Cả hai cũng cảm thấy có tí nhớ nhung, lo lắng cho nhau nếu bẵng đi một thời gian khoảng vài tuần lễ không gặp, không nhìn thấy nhau.

Cuối năm đệ nhị, trong một lần Định đến thăm gia đình Loan, Loan cho biết ba của Loan vừa bị thuyên chuyển xuống Sóc Trăng, vì không muốn dở dang việc học hành của hai đứa con nên ông chỉ  đi một mình mà thôi. Từ đó, thỉnh thoảng vì bận việc hay gặp dịp nghỉ học, mẹ của Loan thường nhờ Định cùng đi với Loan đôi khi cả với Chính, em trai của Loan xuống Sóc Trăng thăm ba. Cũng nhờ vậy tình thân giữa Định và gia đình Loan, nhất là với Loan gia tăng theo ngày tháng cùng với sự  khôn lớn của cả hai. Trong những lần đi như thế, biết bao nhiêu kỷ niệm đã đến với hai đứa, những cái nắm tay, dìu nhau vội vàng để kịp chuyển đổi xe đò hay kéo nhau lên phà đang rời cầu tầu ở hai bến bắc Tiền Giang, Hậu Giang. Gặp những buổi trời mưa ướt sũng nơi bến xe miền Tây lầy lội cả hai cùng đi dưới một cái ô dù. Những bữa cơm trưa ngon miệng, đĩa cơm tấm bì, tô hủ tíu ở bến phà lúc chờ đợi xe và cả những đụng chạm thân thể khi ngồi bên nhau trên dẫy ghế chật chội của chiếc xe đò… Tất cả là những ghi dấu đơn sơ, dù không nói ra nhưng cả hai, Định và Loan vẫn cảm thấy có cái gì ấm cúng nhè nhẹ trong lòng hai đứa.

Thực ra lúc đó, Định vừa chớm 18 tuổi vẫn chưa thoát được vẻ non nớt của người con trai mới lớn, dù cảm giác đụng chạm thân thể khi ngồi sát bên nhau trên chiếc ghế xe đò, đôi lúc cũng cho Định có tí chút đê mê. Nhưng cũng chỉ có thế, không bước xa hơn cái giới hạn được gọi là quá đáng của đứa con trai mới chớm ngưỡng cửa của lớn khôn trong yêu đương, chưa thực sự bỏ hết được vẻ ngây ngô của một thằng bé. Nhưng ngược lại Loan dù chỉ là cô gái 15 tuổi, đã biết ngượng ngập. Cái ngượng ngập mang sắc thái khôn lớn khi ánh mắt của hai đứa bất chợt chạm  nhau cũng như lúc ngồi sát bên nhau trên chiếc ghế xe đó chật chội, nhất là khi vô tình Định đụng chạm vào thân thể kín đáo của Loan. Đôi lần Định chợt thấy vài nét đỏ hồng trên đôi má của Loan đã làm cho Định hiểu được phần nào cảm xúc của cô bạn gái đồng hành. Lúc đó trái tim của Định thoáng có một vài cảm giác là lạ chứa đựng cái gì rất bé nhỏ, rất mơ hồ nhưng lại rất dễ thương, đáng nhớ. Đơn giản và cũng rất tự nhiên như thế với một thằng con trai vẫn còn ít nhiều ngờ nghệch với yêu đương trong cái ngây ngô của tuổi học trò, lớp đệ nhị của Định và lớp đệ tứ ngượng ngùng, hồng hồng đôi má của Loan. Nhưng rồi thằng con trai cũng lớn dần theo năm tháng, Định cũng như Loan đã nhìn thấy,  đã cảm nhận được mùi vị ngọt ngào của tình yêu bản ngã đó, nó trầm lặng đi vào ký ức đẹp của cả hai.

Một buổi tối, vào ngày cuối tuần, Định đến thăm gia đình Loan, căn nhà  có vẻ bề bộn với những thùng chứa đồ đạc, lúc đó mẹ Loan và em trai hình như có việc đi đâu không có nhà. Loan mất hẳn đi vẻ vui mừng như mọi lần mỗi khi ra mở cửa cho Định. Với khuôn mặt buồn bã, im lặng Loan dẫn Định vào trong nhà. Nhíu mắt nhìn những thùng đồ đạc và thái độ khác thường của Loan, Định chắc chắn gia đình Loan lại có một thay đổi to lớn nào đó. Một lúc sau Loan cho biết ba của Loan lại vừa được nha quan thuế chuyển đổi đi làm việc ở Phan Thiết, không muốn lỡ làng việc học hành của các con, kịp nhập học niên khóa mới ở Phan Thiết, gia đình Loan đã phải gấp rút dọn nhà đi Phan Thiết.

Nghe Loan nói, tự nhiên cảm giác buồn nhè nhẹ, tiếc rẻ phủ kín lấy tâm hồn mình, đưa mắt nhìn Loan, thấy Loan cũng im lặng buồn bã nhìn mình. Trong ánh nhìn đó hình như Định tìm thấy có cái gì đó kín đáo, thân thiết mà Loan muốn gửi gấm cho mình. Hai đứa nói chuyện với nhau được một lúc thì mẹ Loan và cậu em cũng về nhà, sau vài câu chào hỏi thông thường, mẹ Loan nói sơ sơ vấn đề phải vội vàng dọn nhà cho Định biết. Bà cũng tiếc rẻ là Loan và Chính không có dịp gần gũi để Định giúp đỡ con bà trong việc học hành.

Thấy mọi người bận rộn với việc đóng thùng, thu dọn nhà, không muốn làm phiền, Định nói vài lời trấn an, chúc may mắn, tỏ bày cảm giác buồn tiếc khi phải xa mọi người, mong ước có được dịp may nào đó trong tương lai được gặp lại mọi người trước khi từ giã ra về. Loan im lặng buồn bã theo Định ra đến tận cổng nhà, trước khi chiếc cổng được khép lại, Loan nhét vội vào tay Định một gói nhỏ, với tí ngượng ngập, đưa cặp mắt ướt buồn như muốn khóc nhìn Định, Loan nói nhẹ như chỉ đủ cho hai người nghe:

-Loan tặng cho anh một kỷ niệm, hy vọng sẽ có dịp gặp lại anh sau này.

Cầm món quà nhỏ ngỏ trong bao thư, Định nghĩ rằng đó là một lá thư với vài lời thân thiết chia tay hay một vật dụng nho nhỏ bằng giấy nào đó để kỷ niệm thời quen nhau. Nhận món quà trong tay, Định cũng thẫn thờ nhìn Loan như muốn gửi lại cho Loan lời cám ơn đầy xúc động của mình, rồi im lặng bỏ món quà tặng vào trong chiếc cặp đi học. Loan cũng không nói gì, bất thình lình nắm nhẹ lấy bàn tay Định, bóp mạnh rồi cúi đầu vội vã bước mau vào trong nhà. Định thoáng thấy đôi mắt Loan ửng đỏ, hình như trên khóe mắt đôi dòng lệ đang chảy dài xuống gò má.

Trở về nhà, mở gói quà nhỏ ra đã làm Định lịm người, hoàn toàn ra ngoài dự đoán của đứa con trai, dù đã 18 tuổi, nhưng vẫn còn ngờ nghệch với yêu đương, vẫn còn thích đùa chơi với lũ bạn bè hơn là mơ mộng yêu thương. Một nhúm tóc được cột bởi một sợi len màu tím rất gọn gàng với hàng chữ viết nắn nót, trên một mảnh giấy học trò màu trắng:

”Tặng anh để kỷ niệm, cũng để nhớ mãi những lần cùng đi với anh xuống Sóc Trăng!”Loan

Chỉ có thế, Định nhìn vào món quà khôn lớn, già dặn đó, tự nhiên trái tim của mình có một tí (hay rất nhiều?) cảm giác tiêng tiếc, buồn thương bởi một bóng hình mà anh đã đánh mất chỉ vì sự nhát nhúa, ngu ngơ của một thằng con trai chưa thực sự lớn khôn trong tình cảm. Hôm nay, lúc phải chia tay mới biết rõ, cảm nhận được  tâm tư của Loan  thì đã muộn , đành phải nhận lấy nỗi buồn  ân hận lúc chia ly.

Đúng như vậy, ở cái tuổi 18, đứa con trai hình như vẫn chưa có gì để gọi là khôn lớn đúng nghĩa, nhất là trong lĩnh vực tình yêu. Rồi vì những bận rộn học hành, những công việc kiếm tiền giúp đỡ gia đình kèm theo tánh lơ là dễ quên, ham vui với lũ bạn trai thân thiết nên Định cũng vẫn là thằng bé ngu ngơ. Sau khi  gia đình Loan di chuyển lên Phan Thiết, đôi lúc Định cũng nhớ đến Loan với chút cảm giác êm ả, suy tư nhưng cũng chỉ ở mức độ nhẹ nhàng, thoáng qua mà thôi. Trong cái vẻ ngây ngô chưa lớn khôn đó, Định không quên Loan, nhưng cũng chẳng có nhiều thời gian và điều kiện để nhớ thương, tiếc rẻ một kỷ niệm. Anh nghĩ rằng cái tình cảm buồn buồn nhè nhẹ đó chỉ thoáng qua như là một lay động nhẹ nhàng của tuổi thơ ngây mà thôi. Nếu có một tí gì làm dấu tích để nhớ thương, để ghi dấu một cảm xúc trong cuộc sống, nhắc nhở Định nhớ đến Loan, đó là những khi vô tình Định nhìn thấy nhúm tóc của Loan, đã được Định dính ép vào trong một tập nhạc, để trên giá sách cùng với những cuốn sách học trò thời trung học của mình. Nhúm tóc đó vẫn được Định gìn giữ, như là một di tích một tình yêu đẹp đẽ thoáng qua của tuổi thơ ngây, chưa khôn lớn của mình. Đôi lần vì một ngẫu nhiên nào đó, bất chợt Định giở tập nhạc, nhìn thấy nhúm tóc, lúc đó làm cho Định nhớ đến Loan với ít nhiều suy nghĩ vẩn vơ. Nếu có gì hơn khi nhớ đến Loan, có lẽ trong lòng Định tự trách mình đã chưa khôn lớn để không tìm cách liên hệ với Loan, giữ lấy mối tình đẹp trong quá khứ của đời mình.

Đúng như vậy, từ khi gia đình Loan di chuyển lên Phan Thiết, Định hoàn toàn không biết tin tức gì về Loan và cũng chẳng để tâm dò la, liên hệ với Loan nữa. Cho đến cuối năm 1970 khi Định gần tốt nghiệp đại học, ngẫu nhiên trong một lần lang thang, bát phố ở trung tâm Saigon, Định ngẫu nhiên gặp Chính, em trai của Loan. Chính cho biết sau vài lần thi không đậu tú tài bán phần, nhờ quen biết của ba, Loan xin được việc làm cho tòa hành chánh tỉnh ở Phan Thiết. Sau vài năm làm việc, nhờ mối mai Loan sửa soạn lập gia đình, chồng chưa cưới của Loan là trưởng phòng hành chính trong toà thị chính Vĩnh Long.

Mặc dầu Định hiểu rất rõ, giữa mình và Loan cũng chẳng có gì nhiều hơn là tình bạn thời trẻ, tuổi học trò, không có gì khả dĩ có thể nói đến chữ tình yêu, ngoài vài kỷ niệm trong quen biết như những ổ bánh mì nhân thịt, vài chiếc bánh “Pao” và cả ánh mắt cảm phục ” học giỏi ” mà Loan đã dành cho Định ngày xưa. Nếu có hơn một tí của cái tuổi ngây thơ đó, có lẽ là những kỷ niệm của những lần cùng đi với Loan xuống Sóc Trăng, cùng đợi chờ ở hai chiếc Bắc Mỹ Thuận, Cần Thơ. Cùng kéo nhau vào trú mưa ở những quán bên đường trong lúc đợi chờ xe đò qua sông… Rồi ngày xa nhau, khi gia đình Loan dọn lên Phan Thiết, Định nhận được kỷ vật  một nhúm tóc nhỏ của Loan với hàng chữ nhỏ ghi dấu một tình yêu đầu tiên, của cô bé gái tuổi 15 dành cho Định. Chỉ có vậy rồi xa nhau, không một lần tái ngộ, hoàn toàn không biết gì về nhau. Nhưng khi nghe tin Loan sửa soạn lấy chồng Định cảm thấy một nỗi buồn nhè nhẹ, một cảm giác thấm thía, tiếc nuối thấm buốt trong tim mình. 

Định tự hỏi, có phải mình đã quá dại khờ, để ngày nay phải tiếc rẻ vì đã chậm chạp trong mối tình đó chăng ? Chắc không phải, vì lúc đó anh vẫn chỉ là một người sinh viên chưa tốt nghiệp, gia đình thì nghèo túng, cha mẹ vẫn còn phải tần tảo kiếm tiền nuôi sống anh em Định đang ở tuổi ăn học. Với hoàn cảnh đó thì làm sao Định dám bước xa hơn được những gì mình chưa có, hay còn thật xa ngoài vòng tay và ước muốn của chính mình và gia đình được?! Đau đớn vì dang dở tình yêu chăng?

Cũng hoàn toàn không đúng, sự quen biết giữa Định và Loan chẳng có gì hơn, khi chỉ mới thực sự tìm thấy một vài cảm giác mà hình như vẫn còn mù mờ  trong tim của mình. Lúc gia đình Loan sửa soạn dọn nhà ra Phan Thiết, Loan đã tặng Định nhúm tóc khi rời xa, dù món quà đó ít hay nhiều đã nói lên cái khôn lớn và lãng mạn của cô gái 15  đã biết yêu và dành tình yêu cho Định . Nhưng dù ở tuổi 18, hơn Loan 3 tuổi, Định lúc đó  vẫn còn ngờ nghệch nên chỉ đến với lời tỏ tình đó bằng một cảm xúc nhẹ nhàng dù có thoáng tí chút suy tư mà thôi. Với suy nghĩ như vậy, dù có cảm giác buồn nhưng Định cảm thấy mình có chút bình thản hơn khi nghe tin Loan lấy chồng. Nó rất tự nhiên và hợp lý, mình không phải buồn đau hay tiếc nuối một mối tình thoáng đi qua trong đời mình.

Sau đó khoảng gần một năm, khi Định đã tốt nghiệp đại học rồi đi làm việc dưới Cần Thơ. Một lần trên Bắc Mỹ Thuận, từ Sài Gòn trở lại Cần Thơ sau vài ngày công tác. Trong khi đang đứng ở đầu chiếc phà quen thuộc, nhìn bâng quơ dòng nước đục ngầu phù sa của con sông Tiền Giang.  Vài tiếng gọi, âm thanh mừng rỡ của người đàn bà trên phà đã làm Định quay lại với tất cả ngạc nhiên, bên kia của chiếc phà, Loan vội vàng bước xuống từ một chiếc xe du lịch khá mới màu xanh lá mạ. Bên cạnh Loan, nơi tay lái một người đàn ông, ăn mặc chỉnh tề với chiếc cà vạt lủng lẳng trước ngực.

Loan luồn lách qua những chiếc xe khác, chạy vội đến phía Định. Mừng rỡ Loan hỏi:

-Anh Định, anh đi đâu vậy, bao nhiêu năm rồi, hôm nay em  mới gặp lại anh. Cuộc sống của anh ra sao ?…

Định cũng mừng rỡ với sự tái ngộ bất ngờ, anh cũng tách rẽ đám đông đang đứng chung quanh để lấy đường chạy vội ra đón Loan. Cả hai ôm lấy nhau, nét vui mừng, quen biết hiện rõ trên gương mặt, cùng những câu nói anh, em ngọt bùi, thân thiết xa xưa được lập lại một cách rất tự nhiên, thân ái. Nhưng hai người đã vô tình không chú ý đến ánh mắt tò mò, nhíu cặp lông mày trong vẻ bực bội, không vui của người đàn ông, chồng của Loan ngồi trong xe.

Cho đến khi Loan quay lại khi nhìn thấy thái độ không vui của chồng, cố lấy lại vẻ tự nhiên, Loan dẫn Định đến giới thiệu với chồng. Cũng chính lúc đó âm thanh, ngôn từ trong lời nói của Định và Loan hình như đã bị sự ngại ngần, khuôn thước, xen vào với những câu xả giao vô nghĩa, vu vơ cùng với những nụ cười, câu nói đẩy đưa, khách sáo giả tạo.

Cái không khí, ngôn từ nặng nề đó phủ trùm lên cả ba người trong suốt khoảng thời gian chiếc phà còn chạy trên sông. Đến khi chiếc phà cập bến, cuộc tái ngộ ngẫu nhiên, mừng vui của hai người lúc ban đầu đã biến thành nhạt nhẽo, giả tạo khi xa nhau. Cuộc gặp mặt ngẫu nhiên của Loan và Định được kết thúc, bằng vài lời chào tái ngộ miễn cưỡng, chúc mừng vô nghĩa trước khi chiếc xe của vợ chồng Loan rời xa, trong ánh mắt không mấy thân thiện của người chồng và kín đáo tiếc rẻ của Loan.

Nhiều năm sau đó, Định vẫn đi và về rất thường xuyên trên phà Mỹ Thuận và nhiều lần thăm viếng bạn bè ở thị xã Vĩnh Long, nhưng không một lần nào Định gặp lại Loan cũng như người chồng của Loan nữa. Cũng từ ngày gặp mặt ngẫu nhiên ngắn ngủi đó, mỗi lần có dịp đi lại trên hai con bắc Mỹ Thuận, Cần Thơ, ký ức lại kéo Định trở lại với những kỷ niệm xa xưa. Những lần anh và Loan cùng đi xuống miền Tây thăm ba của Loan,  tự nhiên Định có cảm giác buồn vu vơ, nhẹ nhàng thoáng qua xâm lấn bao phủ lấy hồn mình. Cũng từ ngày đó Định hiểu nhiều hơn, thấm thía nhiều hơn những câu hát trong bản nhạc ” Tôi Đưa Em Sang Sông ” của Y Vũ, Nhật Ngân:

“Tôi đưa em sang sông, chiều xưa mưa rơi âm thầm, để thấm ướt chiếc áo xanh và đẫm ướt mái tóc em…” Tôi đưa em sang sông, bàn tay nâng niu ân cần, sợ bến đất lấm gót chân, sợ bến gió buốt trái tim…” Hôm nào đưa em sang ngang. Bằng xe hoa thay con thuyền. Giờ phút cuối đến tiễn em, nhìn xác pháo vướng gót chân. Gót chân ngày xa xưa. Sợ lấm trong bùn khi mưa. Nàng đã thay một lối về, quên cả người trong gió mưa!”

**

Rồi thời gian lẳng lặng trôi qua, với biết bao nhiêu đưa đẩy của thời thế đã đưa Định sang Âu châu định cư. Mùa hè năm 1993, trong một dịp đi công tác tại một viện khảo cứu về thực phẩm ở ngoại ô thành phố London. Vào một chiều thứ bảy, sau một lúc lang thang trên những con phố chính của trung tâm thành phố. Định vào ngồi uống nước ở một chiếc bàn dưới hàng hiên của một quán cà phê sang trọng trên đại lộ Oxford.

Đang lúc để mắt bâng quơ nhìn sinh hoạt nhộn nhịp, đông đảo của London trong một ngày cuối tuần nắng ấm. Định chợt bắt gặp ánh mắt chăm chú, ngạc nhiên nhìn Định của một thiếu phụ Á châu cùng đi với một cô bé gái khoảng 15, 16 tuổi, trên hè phố, chắc họ là hai mẹ con. Có lẽ Định cũng chẳng để ý nếu họ bình thản đi qua chỗ anh ngồi như mọi người dạo phố khác. Nhưng vừa qua chỗ Định khoảng vài chục mét, người mẹ nắm tay cô con gái, dừng lại rồi bà ta quay mặt lại, nhíu mắt nhìn Định kỹ lưỡng hơn. Rồi bà ta nói với người con vài điều gì đó trước khi cả hai lại quay trở lại khúc đường phố mà họ vừa đi qua.

Vẫn ánh mắt nhìn thân thiện, quen biết, nhưng lần này họ đi gần Định hơn, người mẹ nhìn Định nỡ nụ cười rồi gật đầu nhẹ chào Định. Vì lịch sự Định cũng gật đầu chào trả lễ bà ta, nhưng anh vẫn nhìn họ với ánh mắt không quen. Tuy nhiên thái độ thân thiện hơi khác của hai mẹ con bà Á đông đã gây cho Định có chút thắc mắc, khó hiểu. Nhưng anh cũng nghĩ rằng, đó là bản tính quá thân thiện của nhiều người châu Á khi gặp nhau trên đường phố ở Âu châu mà Định vẫn thường gặp trong những lần đi du lịch. Có lẽ thấy vẻ lơ là của Định, hai mẹ con đi qua chỗ Định thêm một lần nữa. Nhưng cũng không qúa xa họ lại dừng lại, bà mẹ quay  lại, chau ánh mắt nhìn Định với chút đắn đo suy nghĩ. Cuối cùng bà ta nắm lấy tay cô con gái đi ngược trở lại, đến trước chiếc bàn mà Định đang ngồi, họ đứng lại. Người mẹ nhìn Định kỹ lưỡng hơn rồi miệng nở một nụ cười như để xác định sự quen biết, không sai rồi bà ta gật đầu rất thân thiện chào Định, nói nhẹ với Định:

– Anh Định, anh không nhận ra em hả? Chắc anh không quên, Loan ngày xưa ở đường Bùi Viện đây!

Định giật mình khi nghe người mẹ nói, với chút ngẩn ngơ trong ngạc nhiên, mừng rỡ. Nhãn quan của Định đảo khắp thân thể người thiếu phụ đứng trước mặt mình. Ký ức và tưởng tượng kéo Định trở lại với gần 30 năm về trước, cô bé Loan nhỏ nhắn, hiền lành từng đưa cho anh những khúc bánh mì thịt làm no lòng thằng bé bán báo cho gia đình cô bé ngày xưa. Loan, cô học trò xinh đẹp dễ thương lớp đệ tứ trường Hưng Đạo trong tà áo trắng, áo màu, 30 năm xa xưa. Loan cô bé đã vài lần đi cùng với anh trên những chuyến xe đò miền Tây, trong những chuyến phà vượt hai nhánh sông Cửu Long đi thăm người cha làm việc ở Sóc Trăng.

Loan, người con gái đã cho anh những cảm giác đê mê, rất nhẹ nhàng êm ấm khi anh và cô ta ngồi sát bên nhau trên chiếc xe đò chật chội. Cũng là Loan đã tặng cho anh chiếc phong bì chứa nhúm tóc của nàng để làm kỷ niệm lúc xa nhau khi gia đình nàng dọn lên Phan thiết. Ký ức cũng kéo Định về với Loan, người thiếu phụ, đôi mắt ngỡ ngàng, mừng rỡ, chạy vội đến với anh trên phà Mỹ Thuận trong buổi chiều chủ nhật của gần 30 năm về trước. Lúc đó Định và Loan, cả hai đã quá mừng vui vì ngẫu nhiên tái ngộ, vì thân thiết xa xưa, thời còn là hai đứa trẻ mới lớn… Để rồi không nhìn thấy ánh mắt bực bội, khó chịu của người đàn ông, chồng của Loan đang ngồi trên chiếc du lịch !…Tất cả là Loan đang hiện diện, đứng trước mặt mình đây sao?

Với hồi tưởng đó, Định đưa mắt ngắm nhìn Loan, người thiếu phụ đang đứng trước mặt mình, kỷ niệm đẹp vui trong ký ức đang hiện dần dần ra trong trí nhớ của Định. Sau khi đã xác nhận rõ ràng không phải người xa lạ mà là cố nhân, một lần mình đã thân quen xa xưa. Hơi chau mày, Định nhíu mắt nhìn Loan kỹ hơn như cố thu gom, tìm kiếm lại những dấu tích còn sót lại của Loan ngày xưa mà trí nhớ của mình đang diễn tả.

Thời gian ơi! Mau quá, đã gần 30 năm rồi, khoảng thời gian quá dài, trí nhớ cùn mòn vì hoàn cảnh, vì lăn lộn với sinh nhai, kiếm sống , vì thời thế đổi thay và cũng có lẽ cả vì tuổi già quên lãng đã cho Định nhìn thấy Loan  có chút khác xưa, chính vì vậy anh đã không nhận được cố nhân ngay lúc ban đầu!  Nhưng dù thay đổi thế nào thì bóng dáng của Loan hiện tại cũng dư đủ cho Định xác nhận được một vài điểm vẫn còn lưu giữ trên khuôn mặt, ánh mắt nhìn của Loan ngày xưa. Định nhớ lại đôi mắt Loan hơi buồn, pha cái ngơ ngác, cảm phục cuả Loan thường dành cho mình ngày xưa, ngày mà cả gia đình Loan đã coi Định như một đứa học trò khuôn mẫu, giỏi giang. Cố kéo sự tưởng tượng và ký ức mình về gần hơn một tí nữa, đã cho Định nhận rõ Loan ngày nay vẫn có đôi môi đều đặn, nụ cười dễ mến, cặp mắt hơi buồn của Loan,  ngày còn là cô bé 15 tuổi. Chỉ có thế mà thôi! nhưng cũng quá đủ cho Định biết một sự thật đang hiện hữu trước mặt, hôm nay mình đã gặp lại được Loan trong lần tao ngộ lạ kỳ ở cái thành phố London hoa lệ, đông đảo này.

Hai người lại được ngồi với nhau, tâm sự về những đổi thay trong gần 30 năm thật dài, không biết gì về nhau. Trong khi cô con gái xin phép mẹ để một mình đi lang thang thăm phố phường. Loan cho biết lần gặp nhau trên Bắc Mỹ Thuận, lúc đó Loan vừa kết hôn được khoảng vài tháng rồi tiếp theo là những đổi đời thế sự đã mang vợ chồng Loan đến định cư tại Anh Quốc từ đầu năm 1979. Loan có 2 người con gái, người con gái út, là cô bé đang đi với nàng, sinh ra sau khi định cư tại Anh Quốc. Người con gái lớn sinh tại Việt Nam đã có gia đình và hai đứa con cũng định cư tai Anh Quốc. Điều làm Loan buồn đau nhất là sau khi đến Anh Quốc được vài năm gia đình bị đổ vỡ, hiện nay chồng của Loan đã có người vợ khác.

Định nhìn kỹ người thiếu phụ, người con gái mà một thời mình đã có khá nhiều ước muốn, thân thương, Loan vẫn còn đầy đủ dáng dấp của người đàn bà đẹp, tuổi hồi xuân. Vài lọn tóc thả dài, bập bồng trên vầng trán pha một tí ngây dại, trẻ trung của người thiếu phụ vẫn thích làm dáng với trang phục, phấn son…. Loan vẫn còn đầy vẻ sang trọng, thân thể vẫn lồ lộ nở nang với những góc cạnh làm đắm say đàn ông. Thỉnh thoảng Loan đưa bàn tay trắng hơi ốm, xinh xắn lên vuốt nhẹ mái tóc mềm mại, ép vào chiếc cổ trắng ngần, làm nổi bật khuôn mặt trái xoan đều đặn dễ thương. Đúng như vậy, thời gian đã qua gần 30 năm trôi qua nhưng Loan vẫn còn giữ được nét đẹp, hình như  có chút hơi ngây ngô, nhiều cuốn hút  dù ở lứa tuổi của người đàn bà gần 50.

Rồi những câu chuyện, kỷ niệm…  xa xưa được nhắc lại, cả những vẻ ngây thơ, ngờ nghệch của Định, tuổi 18 cũng được Loan nói đến với những nụ cười thích thú cùng với chút ngượng ngùng của Định. Tình thân của hai người trở lại rất nhanh, Loan hỏi Định về nhúm tóc kỷ niệm xa xưa. Định buồn rầu cho biết, nó đã bị tiêu hủy cùng với tập nhạc bởi sự lo sợ vu vơ của lũ em gái sau ngày 30 Tháng Tư năm 1975 rồi.  Nhìn sự ân hận của Định, Loan nắm nhẹ bàn tay Định như để thông cảm, an ủi với sự mất mát ra ngoài ý muốn đó. Rồi tiếp theo, sự thân thiện, gần gũi, bạo dạn hơn trong những câu chuyện buồn vui của quá khứ được mau chóng trở lại với hai người. Những dại khờ, nhát nhúa mặc cảm của đứa bé bán báo, thằng con trai nhà nghèo mới lớn ngày xưa, được nhắc lại chi tiết hơn đã là những nụ cười vui cho cả hai người. Loan trách Định, ngày đó anh đã qúa nhát nhúa và khờ khệch nên đã không hiểu được những điều mà Loan mong muốn nơi anh, ngay từ khi nàng còn là cô bé 14, 15 tuổi…

Đúng như vậy Loan ạ, suốt khoảng thời gian quen biết em, ngay cả khi gặp vợ chồng em trên phà Mỹ Thuận, dù đã ra đời, đi làm nhưng anh vẫn chưa thoát khỏi cái dại khờ, non nớt của người con trai mới lớn dù lúc đó anh đã ở cái tuổi 25. Huống chi ngày đó với cái tuổi 16, 18, anh biết làm gì hơn là im lặng, ngượng nghịu dù có tí buồn đau khi biết phải xa nhau. Tình yêu nếu có, cũng chỉ là những thoáng qua, giấu giếm một tí tình si thôi em ạ. Em nên biết rõ rằng, ở khoảng tuổi đó, người con gái đã trầm lặng, già dặn hơn, cái trầm lặng tiềm ẩn sự khôn lớn, nồng nàn. Họ biết hình dung ra những hình ảnh lãng mạn trong tình yêu, cái lãng mạn đó không vu vơ, mộng tưởng mà có dáng dấp của cảm xúc thực tế. Họ muốn có những cuộc hò hẹn, biết cách làm dáng, cách giận hờn mang nhiều ý nghĩa để nắm giữ đối tượng của họ, sẵn sàng đón nhận, thưởng thức mùi vị ngọt bùi, đắm đuối của những nụ hôn… Tất cả những cái đó, người con gái bỏ xa, rất xa cái ngu ngơ, non nớt của những đứa con trai cùng lứa hay hơn họ một vài tuổi. Hãy hiểu cho anh, hiểu cho sự chậm phát triển của của phái nam, hiểu cho cái bất công của tạo hoá dành cho phái nam. Loan ơi, anh không phải là trường hợp ngớ ngẩn ngoại trừ đâu. Đó chính là lý do tại sao anh đã lơ là với ánh mắt đưa đẩy, và cả với lọn tóc tỏ tình mang nhiều ý nghĩa của em.

Nhưng Loan ơi, thời gian không thể đứng lại với cái tuổi ngờ nghệch đó mãi nơi anh, em ạ. Đứa con trai ngày xưa, ngớ ngẩn đó cũng lớn dần, mang theo những khôn ngoan từ những lăn lộn sinh nhai trong mấy chục năm qua, ngày nay anh đã là người đàn ông đúng nghĩa. Lần gặp em trên con phà Mỹ Thuận, với chồng em, anh đã thấy và hiểu rõ ít nhiều cảm giác buồn thương, tiếc nuối vì ngờ nghệch, chậm khôn lớn của mình rồi . Nhưng lúc đó đã muộn màng rồi phải không Loan?!. Hôm nay, với biết bao những dở dang trong đời, những bài học thua lỗ vì ngu ngơ đã làm anh khôn lớn hơn. Đã biến đổi anh, người thanh niên mới lớn, dại khờ ngày xưa thành một người đàn ông tạm gọi là  từng trải rồi em ạ, anh đã khôn lớn, khôn lớn nhiều rồi. Anh đã thành một người đàn ông khá tự tin, kinh nghiệm trong tình yêu rồi Loan ạ. Nhìn lại em, nhan sắc dễ thương xa xưa, anh vẫn còn nguyên vẹn những cảm giác hấp dẫn, nồng nàn. Với anh bây giờ em hiển hiện là người đàn bà, một thiếu phụ vẫn còn toàn vẹn dấu tích đam mê, cuốn hút anh như xưa. Đúng như vậy, anh bây giờ, người đàn ông vẫn mang đầy thôi thúc cảm giác gần gũi em, dù muộn màng, để bù lấp sự dại khờ, khiếm khuyết của anh thời ngu ngơ xưa cũ .

Định nhẹ nhàng nắn vuốt thân thể, nét mặt, gò má của Loan muốn bù trừ cho những ham muốn ngày xưa chỉ vì mình ngây dại mà đã bỏ lỡ. Loan im lặng nhận những ái ân muộn màng đó, đôi mắt nhắm nhẹ như để hòa mình với ngây ngất và tưởng tượng về những cảm giác mà Loan đã từng mong đợi gần 30 năm về trước từ người con trai dại khờ mà Loan đã gửi tặng một nhúm tóc lúc chia tay. Còn Định cũng chẳng hơn gì, anh lịm người với cảm giác của người đàn ông gặp lại cố nhân mà mình đã từng si mê.

Cho mãi đến khi người con gái của Loan trở lại, hai người mới bước ra khỏi khoảnh khắc mê say trong lần tái ngộ ngẫu nhiên. Họ hẹn nhau ngày mai buổi chiều chủ nhật, Loan, một mình sẽ đợi Định ở chính nơi đây, dự tính sẽ đi với nhau, chắc chắn không có gì gò bó, cản ngăn họ với một ngày chủ nhật rảnh rỗi. Ngày cuối tuần, Định đang đơn độc ở một thành phố lớn, còn Loan cũng chẳng có gì lo lắng với gia đình, chồng con. Cả hai hoàn toàn tự do, sẵn sàng mở rộng tâm hồn và thể xác để nhận lấy những cảm giác nồng ấm mong bù lấp cho gần 30 năm quên lãng, xa nhau. Họ sẽ đến với tình yêu trong một dạng thức trọn vẹn, không một tí gì đáng gọi là vướng víu, cách ngăn. Cả hai đã quá dư đủ khôn lớn và già dặn của một người đàn ông từng trải với một người đàn bà vẫn còn đẹp, nồng nàn với yêu đương. Họ sẽ gặp lại nhau ngày mai,chiều chủ nhật  và cũng rất có thể vào bất cứ lúc nào họ muốn trong tương lai.

Ngày hôm sau, chiều chủ nhật, ngồi trên chiếc xe bus Impérial hai tầng màu đỏ, độc đáo của London, Định vẫn mang trong lòng cảm giác phập phồng hò hẹn của tuổi trẻ ngày xưa. Đưa mắt nhìn những đám đông lũ lượt, dập dìu của trung tâm thành phố London, trên con đường Oxford dẫn đến quán cà phê hò hẹn với Loan. Cái cảm giác là lạ hơi run khi hò hẹn ngày xưa, thời còn tuổi đi học, mới biết yêu chợt đến với Định. Nhưng hình như ở một góc kín sâu nào đó trong lòng Định cũng có cái cảm giác ngại ngần pha một tí ăn năn của người đàn ông, khi nhớ đến vợ, người vợ đã dám buông bỏ biết bao nhiêu ngăn cách của gia đình, việc làm để đến với mình hơn 20 năm trước. Định cũng nhớ đến những đứa con ngoan ngoãn, vô tư luôn luôn nhìn về mình với cái khuôn của cố gắng, kiên trì… Tất cả những hình ảnh đó trở về trong tâm trí Định khi ngồi trên chuyến xe bus màu đỏ hai tầng của London để đến nơi hẹn hò với Loan.

Hình ảnh người vợ của Định hiện ra trong trí nhớ,  gần ba năm yêu nhau trước khi cùng nhau bước vào tình nghĩa phu thê. Những hộp cơm trưa, những buổi hẹn hò, những sự chăm sóc, an ủi tinh thần dưới bóng dáng một người đồng hành khi Định gặp những khó khăn, thất bại…. Tất cả là những dấu tích của hy sinh đã giúp Định bước qua được những khó khăn trong nhiều chục năm chung sống. Những lúc chán nản vì thất bại, nhiều lần Định đã tưởng như đời mình phải rơi vào góc kẹt của buồn nản, buông xuôi vào những năm khổ ải, chán chường sau năm 1975.

Tiếp theo với  gần 20 năm chung sống, nghĩa vợ chồng không một lời cãi vã, không một tiếng than van khổ cực…. Những cực nhọc, buồn vui của năm tháng khù khờ, non dại lúc hai đứa mới lấy nhau ở xứ lạ quê người. Những thành công khiêm nhường trong xã hội của chính Định cũng như của ba đứa con trong trường học. Tất cả là một bản hợp ca toàn là những đoản khúc hoan vui trong hạnh phúc gia đình dưới tài năng giáo dục của người vợ khuôn mẫu mà Định đã may mắn có được. Những cái đẹp đẽ đó, không phải tự nhiên mà có, cũng chẳng phải dễ dàng hiện diện ở một xã hội mà sự vỡ bể của gia đình được coi như rất bình thường. Niềm vui, tự mãn đó phần lớn nhờ bản tánh hiền thục, nhờ khéo léo cũng như nhờ tình yêu tuyệt vời của người vợ đã theo Định gần 20 năm qua.

Với suy nghĩ đó, cảm giác dằn vặt, lưỡng lự phủ trùm lên tâm tư của Định khi ngồi trên chiếc xe bus, chiều chủ nhật hôm nay đang đưa anh đến chỗ hẹn hò, nơi quán cà phê với Loan. Người tình lỡ của tuổi thơ ngây, bóng hình trong ký ức xa xưa của gần 30 năm thật dài nhưng vẫn còn nóng ấm trong lòng Định. Dáng vẻ sang trọng, lồ lộ quyến rũ của Loan hòa trộn với những cảm giác thương yêu xa cũ, dù mù mờ nhưng vẫn bừng dậy trong lòng Định trong lần tái ngộ bất chợt chiều hôm qua, đang thúc dục Định phải đến nơi hẹn hò để gặp lại Loan. Hình ảnh dễ mến của cô học sinh trong chiếc áo dài nhiều màu ngày xưa cũng lần lượt hiện về, xúc cảm mềm mại, âm ấm xác thân của cô bé tên Loan ngồi sát bên nhau trong những chuyến xe đò miền Tây ngày xa xưa đó cũng vẫn còn y nguyên trong trí nhớ… Còn hiện tại, Loan vẫn nét mặt trái xoan, vẫn đôi môi mềm hấp dẫn, vẫn dáng vẻ sang trọng của một thiếu phụ tuổi hồi xuân …tất cả là những gì mà người đàn ông không thể phủ nhận được đó là những tố chất khiêu gợi từ một người đàn bà vẫn còn đầy rẫy hấp dẫn, đa mê. Tất cả những cái của ký ức xa xưa và tưởng tượng trong hiện tại đã đang làm Định ngất ngây khi ngồi trên chiếc xe bus đến chỗ hẹn với Loan.

Chiếc xe bus đi vào con đường Oxford, không xa nơi hò hẹn với Loan. Quán cà phê đã hiện ra trước mắt, nơi chờ đón hai người gặp nhau. Nơi bước chân họ đến gần nhau trong ngày chủ nhật đẹp trời hôm nay. Nhưng bất chợt sự lưỡng lự đã làm Định ngồi yên, dù chiếc xe bus đã dừng lại ở trạm xe gần quán cà phê, nơi hò hẹn với Loan. Nhìn xuyên qua khung cửa kính xe bus, Loan đã ngồi ở chiếc bàn ngày hôm qua,  nàng để mắt bâng quơ nhìn xa xa, chờ đợi. Định vẫn ngồi im lặng cùng với sự dầy vò, lưỡng lự đang cấu xé trong lòng mình, mặc dù âm thanh của cảm giác muốn sống lại với bóng dáng lỡ làng xa xưa vẫn đang bùng cháy trong lòng Định. Nhưng hình như nó đang bị hình ảnh người vợ hiền, thương yêu của Định hiện ra chấn áp. Rồi ánh nến ấm cúng bập bùng hạnh phúc vào những buổi tối vợ chồng quây quần với ba đứa con ngoan ngoãn cũng hiện về trong trí nhớ… Tất cả những cái đó lại sáng lên trong tưởng nhớ của Định, lại làm cho Định lưỡng lự, ngồi yên!

(Hình minh họa: Thomas Charters/Unsplash)

Chiếc xe bus vẫn chạy, nó vượt qua quán cà phê hò hẹn, dừng lại ở một trạm kế tiếp, Định cũng vẫn ngồi yên,vẫn mang cái tâm trạng băn khoăn, lưỡng lự trong lòng. Chiếc bus dừng lại tí chút cho vài ba người khách xuống lên rồi lại tách bến. Khoảng cách xa dần điểm hẹn lại mang đến cho Định sự tiếc nuối, thèm khát ái ân của người đàn ông trong một ngày chủ nhật cô đơn với một người tình một thời mình đã si mê. Định xuống xe, đi sang bên kia đường, đứng chờ một chuyến xe bus khác để trở lại khúc đường vừa đi qua với một quyết định, sẽ gặp lại Loan để trọn vẹn cuộc hẹn hò, tái ngộ  và cũng để tìm lại những yêu si mà mình đã vì quá ngây ngô để lỡ làng của mấy mươi năm về trước.

Nhưng khi đến gần quán cà phê, qua khung cửa kính, Loan vẫn còn ngồi đó, vẫn bóng dáng hấp dẫn, vẫn đôi mắt bâng quơ nhìn xa xa đợi chờ… Định lại day dứt, hình ảnh vợ hiền, ba đứa con ngoan, hạnh phúc của hơn 20 năm lại hiện về, Định lại mất đi quyết định xuống khỏi chiếc xe dù nó đã dừng lại ở trạm gần quán cà phê, điểm hẹn hò. Chiếc xe dừng lại rồi lại tách bến, Định quay lại nhìn rất kỹ bóng dáng của Loan, người thiếu phụ, người tình lỡ xa xưa một lần nữa, lần cuối cùng như để khắc sâu vào ký ức bóng dáng của Loan, người tình trong trí nhớ mà Định không muốn quên, muốn gặp lại nhưng  vẫn phải quyết định rời xa.

Buông tiếng thở dài, Định lấy tờ báo ra, đọc qua loa vài khung hình quảng cáo như muốn xua đuổi đi hình bóng của Loan, còn vương vấn trong nhãn quan của mình, nhưng cũng muốn biểu lộ một quyết định, một lựa chọn mà Định đã phải qua rất nhiều lưỡng lự, đắn đo mới có được. Sự lựa chọn đó đã đến nhờ hình ảnh của gia đình vào những buổi tối vợ chồng, ba đứa con cùng quây quần quanh những bữa ăn đậm đà đầy tiếng cười vui.

Đúng như  vậy, Định đã lựa chọn, nếu còn một vài lưỡng lự nào khác có lẽ anh ước mong một lần nào đó, có thể 10 năm, 20 năm sau hay lâu hơn nữa, khi mà thời gian đã đủ để soi mòn thân xác của Định, của Loan không còn gì để mà nghĩ đến với những đê mê xác thân nữa. Lúc đó, có lẽ cả Định và Loan sẽ nhìn lại những kỷ niệm dưới nhãn quan trong thanh, đẹp đẽ hơn. Cả hai sẽ gặp lại nhau, tâm sự với nhau dưới một dạng thức thân ái khác, thân ái của tình bạn tâm giao, thân ái của tuổi già và kỷ niệm đẹp đẽ xa xưa mà thôi. Rất có thể lúc đó, có những tiếng hát đùa vui của một vài đứa cháu nội, cháu ngoại làm cho ký ức của cả hai người, Định và Loan phong phú hơn. Rồi cả hai sẽ mỉm cười để cùng nghe những âm thanh ngây ngô của lũ trẻ con như là một bản nhạc hoan lạc trong tuổi hoàng hôn, xế bóng.

Vâng, Định đã chọn lựa âm thanh hoan lạc đó để làm lỡ một cuộc hẹn hò với Loan, người tình lỡ tuổi mới lớn xa xưa. Định hy vọng Loan tha thứ cho anh, hiểu được ý nghĩa của sự lựa chọn mà Định vừa có vào buổi chiều chủ nhật, hôm nay, trên đại lộ Oxford của London. Một thành phố mà Định chợt thấy ở nó có cái gì níu kéo, khó quên.

(Switzerland, Zürich April 2024) 


 

HỌC LÀM NGƯỜI-Truyen ngan

Gần nhà ngoại tôi có một đôi vợ chồng già bị mù. Họ đã có với nhau một đàn con cháu đông đúc. Nghe ngoại nói, năm nay hai cụ đã ngót nghét tám mươi tuổi.

Ngoại kể, ngày xưa, khi lấy nhau, người chồng ngồi xe bò đi đón vợ. Tuy cô dâu và chú rể đều không nhìn thấy gì, nhưng chú rể vẫn nhờ người cuốn đầy lụa điều lên chiếc xe và đầu con bò, như vậy cho giống đám cưới.

Khi cô dâu vừa về nhà chồng, chú rể dắt tay vợ rà mò từ nhà trên xuống nhà bếp, khắp lượt các ngóc ngách trong gia đình. Rồi cũng từ đó, suốt hơn nửa thế kỷ, trong cái thôn nghèo chẳng mấy ai biết đến ấy, dù trời mưa hay nắng, người ta luôn nhìn thấy họ tay trong tay, lẳng lặng cùng nhau làm mọi việc.

Có lẽ trong tất cả công việc thì khó nhất vẫn là múc nước từ giếng lên. Lần nào cũng thế, hai người họ đều dắt nhau đi. Người vợ sờ thấy cây gỗ ở cạnh giếng, một tay ôm chặt cây, còn tay kia níu chặt bàn tay chồng. Người chồng quỳ trên sàn giếng thả gầu xuống múc, kéo nước lên.

Có người nhìn thấy họ múc nước khó khăn ngỏ ý muốn giúp nhưng hai vợ chồng đều cảm ơn rồi từ chối. Họ bảo: “Các ông bà giúp được chúng tôi một lần, nhưng không giúp được chúng tôi một đời”.

Cứ như thế, hai vợ chồng luôn tay dắt tay nhau đi lấy nước cho đến khi đứa con đầu lòng có thể gánh được một gánh nước. Dân làng đều cảm thấy lạ lùng. Trong thôn cũng có nhiều trai gái trẻ từng vì đất trơn mà trượt chân ngã xuống giếng, nhưng đôi vợ chồng mù chưa lần nào té ngã. Càng lạ lùng hơn, dù không thể nhìn thấy nhưng vợ chồng họ vẫn có thể tìm ra nhau trong đám đông đang nói chuyện ồn ào.

Người chồng là một người thổi kèn trong ban nhạc ở thôn quê. Ông thường đến các đám cưới thổi những bài: “trăm con chim phượng hoàng”“niềm vui đầy nhà” … Dù đi thổi kèn ở đâu, ông cũng có một yêu cầu, để người vợ mù của ông đi cùng. Ông nói, để vợ ở nhà một mình, ông không an tâm.

Mỗi khi tiếng kèn của người chồng cất lên, người vợ ngồi bên rất chăm chú nghe. Dường như những giai điệu ấy đều là ông thổi riêng cho bà. Người ta bảo, những lúc ấy, khuôn mặt người vợ mù thường đỏ ửng lên, khiến ai nấy đều cảm thấy người phụ nữ đang ngồi lặng lẽ kia xinh đẹp biết nhường nào.

Có lần, người chồng sơ ý bị ngã gãy chân. Những ngày chồng nằm bệnh viện, ba bốn hôm liền người vợ không ăn hột cơm nào vào bụng. Bà bảo, không có bàn tay quen thuộc kia, bà chẳng còn lòng dạ nào mà ăn.

Sau này, khi hai vợ chồng đều đã già và không cần đi ra ngoài nữa, họ bắt đầu trồng hoa trong sân nhà. Dù chẳng thể nhìn thấy được những đóa  hoa tươi rực rỡ mình trồng lên, nhưng ông bà đều rất hạnh phúc mỗi khi đến mùa hoa nở.
Những người con của ông bà từng hỏi bố mẹ: “Nếu ông trời dành cho bố mẹ một cơ hội, liệu bố mẹ có muốn nhìn nhau bằng mắt không?”

Ông tự hào nói: “Dắt tay nhau một đời, có bao nhiêu đường vân trong lòng bàn tay mẹ con, đều đã in trong trái tim bố. Bố chưa từng trông thấy người đẹp nhất. Trong trái tim bố thì mẹ con là người đẹp hơn cả. Cần mắt để làm gì. Mắt là thứ tham lam nhất trần đời, nhìn cái gì cũng đánh giá tốt hay xấu, xinh hay không xinh; nhìn cái gì hay là muốn có cái đó. Trên mặt người ta có một vết sẹo cũng có thể để trong tim suốt đời.”

Tim sáng hơn mắt. Nó là sáng nhất, thật nhất!.

Còn bà thì trả lời: “Người ta nhìn người bằng mắt, bố mẹ nhìn người bằng trái tim. Tim sáng hơn mắt, thật.”

Bởi chúng ta có mắt. Nên khi chúng ta nhìn người, chỉ dựa vào mắt mà quên dùng trái tim.

Có lẽ người vợ mù đã nói đúng: Tim sáng hơn mắt. Nó là sáng nhất, thật nhất!

Sưu tầm

From: Anh Dang & KimBang Nguyen


 

NGƯỜI CỰU CHIẾN BINH GIÀ-Truyen ngan

Rồi đêm dài cũng hết, liếc thấy đã gần 11 giờ 30, tôi thu dọn lại những việc riêng của mình để sửa soạn ra bãi đậu, đóng sổ và kiểm tiền cho mấy người sắp hết ca về nghỉ.Trời khuya vắng lặng, tất cả chuyến bay đến đều đã đáp xong. Trong bãi đậu, một hai nhóm khách nhận hành lý trễ đang rảo bước tìm về xe của họ với hành lý kéo lê rồn rột theo sau.

Áng chừng phải mất 10 phút cho đám khách nầy lấy xe và lái ra cổng trả tiền, tôi thong thả rảo bước vòng quanh mấy trạm xem lại cửa nẻo. Mây vần vũ, gió lạnh, thế nào đêm nay cũng mưa to và bên trong booth, tức là cái trạm của người thâu tiền, máy móc và các hộc tiền sẽ ướt sũng nếu cửa để hở, vì khu vực phi trường trống trải, gió lồng lộng, chỉ cần mở hé cửa chừng một ngón tay, nước mưa sẽ vung vãi đầy trên các máy móc tính tiền và hệ thống đó hôm sau ắt gặp đủ thứ trở ngại.

Sau khi tắt hết các đèn chiếu sáng lối ra, cảnh vật trở nên âm u, chỉ còn đèn trong booth hắt xuống thành vệt dài trên nền xi măng xám xịt. Tôi chợt giật nẩy người khi suýt đụng vào một đống đen thui đang ngồi bệt xuống thềm, dựa lưng vào thành sắt đằng sau cái booth, thở phì phò, ” hắn” phải mệt nhọc lắm mới ngồi đại xuống thềm xi măng lạnh lẽo đang ướt đẫm sương đêm. Một người da đen, trong chiếc áo bông bù xù, không rõ đàn ông hay đàn bà, đội chiếc mũ vải có vành nhỏ chung quanh như của mấy người lính biệt kích năm xưa hay đội, trời tối quá không nhìn được rõ mặt, tôi e ngại bước lui lại, hỏi:
– Sao “you” lại ngồi ở đây? You có cần giúp gì không?

Hơi thở phì phò đáp lại:
– Tôi không tìm được xe của mình…
rồi ngưng một chút như để lấy hơi thêm, hắn cáu kỉnh:
– Cái phi trường chết tiệt của mấy ông rắc rối quá, làm người ta lẫn lộn lung tung!
– Không đâu…

Tôi nói và chỉ vào hàng xe đang tiến đến đến gần cổng trả tiền, tôi  bảo hắn:
– You có thấy mấy người kia không, họ tìm ra xe mình rất dễ dàng.

Hắn nói gần như lẩm bẩm trong miệng:
– Tôi không giống như họ.

Dĩ nhiên rồi, tôi thầm nghĩ, và để chấm dứt đôi co, tôi hỏi ngay:
– Xe you đậu ở đây bao lâu rồi?
– 7 ngày.
– OK, nhưng you có chắc là đậu trong bãi nầy không, phi trường còn có nhiều bãi đậu khác nhau nữa đó.

Hắn im lặng, tỏ vẻ phân vân, tôi hỏi tiếp:
– Vé gởi xe  của you màu gì?
– Chẳng biết nữa, nó ở trong xe. Cái xe thì màu xanh, dark blue, Chevy 2000.

Sợ hắn nổi giận tôi không dám nói là ở trong nầy, dark blue Chevy 2000 có cả trăm chiếc như thế.
– Thôi cho tôi bảng số xe, tôi sẽ tìm ra nó nằm ở đâu rồi chỉ đường cho you đến đó, OK?
– Bảng số xe ư?
– Vâng, chúng tôi kiểm kê xe hằng đêm, bằng bảng số. You có vẻ không nhớ số xe mình hả?
– No way..

Những ngày đầu mới vào làm ở đây, tôi rất ghét những người chỉ có  bảng số xe của mình mà cũng không nhớ được, nhưng sau một thời gian, tôi mới hiểu ra là họ có thể có nhiều xe, và thay đổi xe luôn chứ không phải chỉ đi có một chiếc, và cũng không phải khi nào xe chạy hết nổi mới đổi chiếc khác như mình nên tôi mới hết thấy bực mình về chuyện đó, còn giờ đây, một người mà sức khỏe tàn tệ như thế nầy thì việc không nhớ được số xe mình cũng là điều dễ hiểu, không đáng phải thắc mắc lắm.

Nhìn đoàn xe ra cổng đã gần hết, tôi sắp phải làm việc nên bảo người da đen:
– Gọi phone về nhà you xem có ai nhớ được số xe không rồi cho tôi hay, tôi phải đóng sổ cho người cashier nầy ra về đã rồi quay lại với you sau nhé.

Hắn nhìn tôi lo lắng:
– Còn ai ở nhà nữa đâu, chỉ có vợ tôi mà cũng đang ở đây với tôi.
– Thế thì tôi chịu thua luôn, làm sao giúp you được.

Rồi nhìn hắn ái ngại, tôi nói thêm cầu may:
– Trước khi đi, you ráng tìm xem có cái thứ giấy gì có thể có số xe ở trong đó không, giấy đăng bộ xe của DMV, giấy mua bảo hiểm xe… cố gắng lên, đó là cách sau cùng để có thể giúp ông được đấy – bây giờ thì tôi biết hắn là đàn ông rồi.

Hắn lồm cồm đứng dậy, một người đàn ông đen, mặt mày thô kệch, râu bạc lún phún đầy 2 bên má, chắc cũng phải 6, 70 tuổi hoặc hơn nữa, bước chân nặng nề đến bên quầng sáng của ánh đèn, khó khăn lắm mới móc ra được cái ví dày cộm, rồi lần lượt lôi ra các thứ giấy tờ. Tôi vừa làm việc mình vừa liếc nhìn giùm cho hắn, thấy cái giấy in chữ xanh quen thuộc của DMV, tôi thở phào: Nó kìa. Nhưng không phải, đó chỉ là cái giấy chứng nhận người đàn ông là handicap thôi, một người thương tật, thảo nào đi  đứng khập khiểng, chậm chạp. Hình như một bàn tay cũng không xử dụng được, chỉ để chận cái ví cho tay kia lục lọi giấy tờ mà thôi. Tôi ái ngại nói với bà cashier người Mễ cũng đang theo dõi câu chuyện:
– Nầy Rosa, thôi bà đếm tiền đi nhé, tôi phải giúp hắn một tay đây.

– OK, dĩ nhiên, trông “him” cũng đáng thương quá, nhưng bà níu tay tôi nói nhỏ: mà ông coi chừng trễ giờ của tôi nhé, gần 12 giờ rồi đấy.
– Không sao đâu Rosa, tôi quay lại với bà ngay.

Trong cái mớ giấy tờ hỗn độn của gã đàn ông da đen nầy, tôi thoáng thấy được một loại giấy làm tôi rất xúc động, mà nếu không nhìn thấy nó, chưa chắc tôi đã hết sức giúp đỡ ông lúc ấy, loại giấy đó là cái thẻ DAV Goldcard Membership. DAV là Disabled American Veterans, Cựu chiến binh tàn phế Mỹ. Không biết ông ta có phải là một cựu chiến binh hay không, nhưng đã đóng góp giúp đỡ cho hội CCB nầy, đóng góp khá lâu và có thể là khá nhiều nên mới có thẻ Goldcard như thế, chia sẻ tiền trợ cấp tàn phế của mình cho những người tàn phế khác, thật cảm động, ông già da đen nầy cao hơn những gì tôi đã đánh giá về ông, “đừng đánh giá một con người qua bề ngoài của họ”, bài học nầy đã được dạy tự bao giờ mà cứ vấp phải hoài.

Tôi thấy ngượng, không dám nhìn vào mặt ông trong lúc ông cứ nhìn tôi chờ đợi. Tôi nhẹ nhàng nói :
-Giữ chặt những thứ nầy ông nhé, không thì gió thổi bay mất.

Sau khi bà Rosa xong việc và rời khỏi booth, thấy ông già có vẻ tin cậy mình và thân thiện hơn, tôi hỏi:
– Vợ ông đang đợi ở đâu?
– Trước cửa thang máy tầng 3, tôi cứ ngỡ là mình đậu xe ở đó.

– Được rồi, ông có nghĩ là còn loại giấy tờ nào liên quan đến chiếc xe nữa không?
Ông già lục lọi thêm nữa rồi đưa ra một cái giấy…chỉ có số VIN.

Thấy ông tìm giấy tờ một cách quá khó khăn và chậm chạp, tôi hỏi:
– Tôi có thể tìm giúp ông được không?
– Why not?… please!.

Cầm lấy cái ví và mớ giấy tờ hỗn độn vào trong cho khỏi bị gió thổi bay, tôi cẩn thận xếp cất lại những giấy tờ không cần thiết, và do đó ngỡ ngàng thấy được thêm một phần trái tim bao la nữa của ông lão tàn tật, đó là một phong bì có in sẵn địa chỉ của PVA, và xuyên qua ánh đèn sáng trắng, tôi thấy đã có một tấm check nằm sẵn ở bên trong. Tấm check ký bao nhiêu tiền thì tôi không biết, nhưng PVA và cái logo có hình người ngồi xe lăn thì với tôi không lạ gì, đó là Paralyzed Veterans of America, Cựu chiến binh bại liệt Hoa Kỳ.

Hoá ra ông già đen đúa xấu xí nầy đây là ân nhân của cả 2 hội Cựu chiến binh Mỹ. Tôi không biết rõ lắm những hoạt động của 2 hội nầy vì không bao giờ đọc hết những giấy tờ của họ gởi, nhưng tôi biết họ là những cựu chiến binh, phục vụ giúp đỡ lại cho những cựu chiến binh khác yếu đuối, tàn phế hơn mình, hay nói theo cách những người Việt mình hay nói, tàn nhưng không phế.

Chúng tôi đứng nhìn nhau, đầy thiện cảm. Tôi nhìn ông, và không giấu diếm sự ngưỡng mộ nhưng không dám nói ra vì mình coi lén giấy tờ riêng tư của người khác, còn ông thì nhìn tôi tin cậy, nghĩ là chắc tôi sẽ tìm ra được chiếc xe của ông, tuy vậy, cuối cùng vẫn không có một chi tiết gì hơn về chiếc xe của ông cả, tôi quyết định phải chở ông đi vòng quanh các bãi đậu để cho ông nhìn từng chiếc một, và như vậy tôi có thể về nhà trễ hơn thường ngày chừng nửa giờ.

Tôi bảo ông gọi cho bà vợ, dặn cứ chờ tại chỗ và hỏi bả xem có nhớ được gì thêm về việc đậu xe hay không rồi cho biết khi tôi trở lại, vì tôi phải vào văn phòng nộp hết báo cáo của  cashier mới chấm dứt nhiệm vụ của mình hôm nay. Hơn 20 phút sau, quay lại với xe riêng của mình thì bà vợ của ông cũng đã đến đó, với mớ hành lý hỗn độn. Bà cũng là một người  da đen, nhỏ con, nói năng nhỏ nhẹ dịu dàng thật khác hẳn với anh chồng .

Họ tự giới thiệu: Paul và Helena, trong lúc chúng tôi đã yên vị trên xe.
–  Gọi tôi là Tony ông bà nhé.
– Okedo.

Paul bật ra tiếng OK mà những người lính hay dùng làm tôi nghe mà xúc động, tưởng như nghe bạn mình đang nói trên tần số vô tuyến như những ngày nào.
Họ có vẻ rất yên tâm, thoải mái hẳn ra, còn tôi rất vui được có dịp giúp đỡ nhưng người có tấm lòng tốt như họ.

Paul không phải là người vui chuyện kể lể ba hoa như những người da đen khác, ông nói ít giọng trầm trầm có lẽ tại tuổi già, tôi khơi chuyện của mình trước mà cũng có ý ngầm tìm hiểu thêm về Paul :
– Ở tuổi của ông chắc có nghe nói đến chiến tranh Việt Nam, quê hương của tôi đó Paul, tôi rời quê sang đây đã 15 năm .

Cả 2 người  im lặng hồi lâu, rồi Paul cất giọng khàn khàn.
– Tôi đã ở đó…  đơn vị tôi đóng đâu đó trên vùng cao nguyên, tên là An Khê.

– Thật thế ư, còn tôi thì ở Pleiku, không xa nơi đó là bao nhiêu, chắc ông cũng thường được yểm trợ từ phi trường Pleiku chứ.
– Vâng, dĩ nhiên…hầu như mỗi ngày,  và rồi một lần… chuyện chết tiệt ấy xảy ra cho tôi, họ mang tôi về Mỹ, cưa cụt chân, và để tôi rời quân đội từ đó, năm 1967.

Sợ nhắc đến chuyện cũ làm ông không vui, tôi hỏi qua hướng khác :
– Năm 67, chắc ông còn trẻ lắm, lúc ấy đã có bồ chưa ?

– Vào ngày giải ngũ, tôi vừa đúng 20. Helena còn ở lại Việt Nam, nàng là một y tá, về Mỹ năm sau rồi lại phải sang Âu châu. Tôi trở lại trường Đại học, nhưng không học hành được gì, chỉ tối ngày biểu tình phản chiến, rồi nghiện ngập, chán chường, suýt tự tử. May sao đó là lúc Helena trở về…

Paul không biết diễn tả gì hơn nữa, chỉ chậm rãi gật gù, nói thêm nhè nhẹ :
– Nàng là một thiên thần, đối với tôi.
– Dĩ nhiên rồi, tôi thấy bà rất dịu dàng đối với ông…

và muốn nói thêm với Paul : Ông cũng là một thiên thần, tuy rằng đã gãy cánh, nhưng vẫn cứ là một thiên thần đối với những người bất hạnh khác. Nhưng tôi đã yên lặng. Paul chắc là loại người không thích những lời khen.

Chạy vòng chầm chậm qua các dãy xe, chúng tôi lại nói chuyện, Paul  và Helena  có vẻ thân mật, tin cậy hơn, họ kể thêm về cuộc sống gia đình, kể về tiểu bang Alabama, nơi ông và Helena lớn lên. Không văn hoa màu mè, Paul thành thực kể lại nỗi đau của những người lính trở về, nhất là những cựu chiến binh da đen như ông, những người nổi loạn bị cảnh sát đánh đập, dân tình cũng hất hủi, đến nỗi ông phải bỏ xe lăn tập đi nạng, rồi phải bỏ nạng đi bằng chân giả, cắn răng nuốt xuống nỗi đau vừa tâm hồn vừa thể xác để đi học, cố kiếm lấy mảnh bằng chỉ để làm giáo viên thôi, vì một bàn tay ông cứ tê liệt dần và rồi thì không còn cử động mấy ngón tay được nữa…

Tôi cố gắng trở lại cái điều mà tôi muốn hỏi :
– Là một cựu chiến binh, hẳn ông hiểu họ nhiều lắm nhỉ ?
– Đương nhiên rồi, tôi hiểu họ lắm ông Tony ạ, vì tôi đã từng là họ. Làm xong bổn phận của một người lính, cho dù có là một anh hùng đi chăng nữa, cụt chân trở về, cởi trả quân phục, họ như những con chim bị vặt trụi hết lông, không có ngay đến lớp áo để tự vệ, mà cũng không thể giấu mình hoài trong tổ được, phải chui ra ngoài để kiếm ăn nữa chứ…
…giọng ông vẫn trầm trầm như thương cảm cho những người cựu chiến binh nào đó, không hề có ẩn giấu một chút gì cay đắng cho chính số phận của mình …

– Tôi luôn luôn cố gắng làm một cái gì cho họ, nhưng có làm được gì nhiều đâu, lâu lâu mới giúp được một món quà nhỏ trong cái trợ cấp của mình, thế thôi.

– Thế là đã nhiều lắm đối với ông rồi, Paul ạ. Càng thiếu thốn sự chia sẻ của ông mới càng cao quí. Thế bây giờ ông có làm một công việc gì thêm nữa không –  tôi nói nửa đùa nửa thật – chỗ chúng tôi  đang còn cần nhiều cashier lắm đó.

Paul bình thản trả lời :
– Làm gì còn thì giờ nữa ông, mẹ của Helena cảm ơn Chúa bà vẫn còn sống, Helena thì dạy học cho lũ trẻ và làm việc ở nhà thờ, tôi phải ở nhà chăm sóc bà cụ một buổi, còn buổi chiều vào Bệnh viện quân đội giúp việc thiện nguyện. Chúng tôi sống tạm đủ, có cần tiền vào việc gì nữa đâu …

Tìm được chiếc xe của Paul không khó lắm, tôi phụ giúp 2 ông bà chuyển đồ đạc sang xe họ, khi tôi vừa đóng nắp thùng xe thì 2 người đã đứng sát sau lưng. Trong tay cầm sẵn mấy tờ giấy bạc, bà Helena trang trọng nói :
– Cảm ơn Tony, nếu không có ông giúp thì đêm nay chúng tôi không biết sẽ ra sao trong cái phi trường rộng lớn nầy, chúng tôi hết sức biết ơn sự giúp đỡ của ông mặc dù ông chưa bao giờ biết chúng tôi, Chúa sẽ phù hộ cho ông .

Hít một hơi dài trấn tĩnh, tôi giữ chặt trong tay mình những bàn tay đen đúa của họ, nói chậm rãi :
– Hai người đừng bận tâm, tôi chỉ làm công việc thường ngày của mình thôi.  Vâng, tôi chưa hề gặp ông bà lần nào, nhưng ông Paul đây cũng đâu có biết một người Việt Nam nào mà ông vẫn sang chiến đấu cho quê hương chúng tôi, đổ máu trên đất nước chúng tôi, và cuối cùng đã bỏ lại những phần thân thể trên đất nước không phải là của ông mà là của chúng tôi, vì vậy tôi mới là người phải nói lên những lời cảm tạ và biết ơn quí bạn về việc đó…

Paul hẳn là  không thích nghe người khác ca tụng mình, ông lắp bắp :
– Thôi…thôi Tony, đó chỉ là làm nhiệm vụ thôi, đã ở trong quân đội thì ông cũng biết rồi.

– Vâng, cứ cho là như vậy, còn bây giờ thì sao, khi ông vẫn tiếp tục giúp đỡ đồng đội, những cựu chiến binh thương tật khác. Còn có nhiều người như mình nữa, ông Paul ạ, nghĩa là những cựu chiến binh như chúng ta, nhưng họ có làm như ông đâu. Khi nhìn thấy tấm thẻ DAV và PVA của ông, tôi kính phục tấm lòng của ông lắm, mặc cho chuyện gì đã xảy ra, ông vẫn không quên các quân nhân, các đồng đội, ghét chiến tranh nhưng yêu mến chiến binh ông nhỉ. Ông bà rất xứng đáng được Chúa phù hộ và bảo vệ. Số tiền nầy nếu ông bà muốn cho tôi thì cho phép tôi đóng góp vào phần giúp đỡ của ông bà cho họ nhé.

Thôi đã quá khuya rồi, xin tạm biệt, chúc hai ông bà lên đường bình an.

Cả hai người đều xúc động, họ cầm tay tôi khàn khàn nói tiếng cảm ơn, trong cái ôm vai của những người không quen biết nhưng đã hiểu nhau, tôi thấy mắt Paul đẫm ướt, nhưng chỉ một bên thôi, còn con mắt bên kia vẫn trong sáng, vô hồn. Ô, hoá ra những gì mà Paul bỏ lại trên quê hương tôi năm nào, không phải chỉ có một bàn tay, một bàn chân mà còn có thêm một con mắt nữa.
Ông Paul ơi, cơ thể ông thương tổn như vậy mà tấm lòng thì bao la vô cùng.

Xin chân thành cảm ơn ông./.

Vĩnh Toàn

From: Cuc Nguyen


 

BI KỊCH-Truyen ngan HAY

Bùi Mạnh Toàn

Nhiều tiền mà sống quá kham khổ, chết còn nguyên một cục tiền đấy, cũng là một bi kịch!

Bà hàng xóm cũ, xưa là một nha sĩ, làm ra nhiều tiền chẳng bao giờ tiêu, dành tiền mua đất đai nhà cửa. Tài sản của bà ngoài những ngôi nhà cho thuê ở một quận trung tâm Sài Gòn, còn thêm một dãy nhà trọ cho thuê. Bà không cần làm gì, mỗi ngày mở mắt cũng đã có chục triệu trong tay. Chồng mất sớm, bà chỉ có mỗi cô con gái định cư nước ngoài và khá sung túc.

Do tính tiết kiệm, chẳng ai thấy bà ăn tiêu gì bao giờ. Ra chợ vài mớ rau, con cá nhàn nhạt, cứ thế ăn qua ngày. Bà cũng chẳng bao giờ đi du lịch, cũng chẳng mấy khi về quê ngoại ngoài Bắc thăm bà con hàng xóm. Thi thoảng vài đứa cháu họ ghé thăm nhưng cũng chẳng ở lại được vì bà chẳng tin ai, cứ sợ bị mất tiền, thế nên chẳng ai ở được với bà cả.

Thế rồi một ngày bà bị tai biến nằm bẹp một chỗ. Đứa con gái ở xa về vài ngày thuê người chăm sóc mẹ. Bà cũng chẳng thể nói cho con biết bà có bao nhiêu tiền và đang để đâu.

Vậy đấy. Cứ sống kham khổ để nuôi tiền, đến khi bệnh nặng nằm xuống chả còn có thể sờ được đến tiền, cũng chẳng thể nói cho người thân biết tiền ở đâu, có khi còn ôm nỗi ấm ức mang tên tiền về nơi chín suối.

Ông chú bạn mình thì khác, cũng không đến mức keo kiệt, cũng có thể gọi là hơi tiết kiệm, nhưng bị cái bệnh siêng làm. Lúc nào cũng làm quần quật, làm hết thanh xuân làm sang cả tuổi già. Làm đến mức mà cứ nghỉ tay vài bữa cứ như chết đến nơi. Làm đến mức chả cần sinh nhiều con. Chỉ một đứa, sau chú về già, người con bị ung thư chết trước. Chú ôm một núi tiền, có thể gọi là thế (nhà 4 cái, đất mênh mông), muốn tiêu tiền cho thoả thì đến lúc chẳng còn nhu cầu để tiêu nữa.

Nhiều người siêng năng càng về già càng mắc cái bệnh ít nhu cầu, không có nhu cầu ăn chơi hưởng thụ, chứ không phải là keo kiệt. Vậy là cả cuộc đời họ đã trôi đi trong vất vả và về già, nhìn thấy tiền mà bất lực, chẳng thể làm gì với nó.

Chắc chắn, đến chết cũng chẳng mang đi được đâu. Nên từ 35 đến 45 tuổi các bạn cứ làm giàu đi. Sau đó, các bạn nghỉ hưu, đi đến nơi chưa được đi, hưởng thụ những thứ chưa được hưởng (trừ hút hít hay tiêu hoang). Con cái nó trên 18 cứ để nó tự lập. Yêu thương nó cứ rủ nó đi du lịch cùng hay cuối tuần rủ các con cùng đi ăn các nhà hàng ngon nhất. Nếu không muốn trở nên bi kịch như hai trường hợp trên.

Có những thứ không mua được bằng tiền, đó là tuổi trẻ, sức khoẻ, thời gian. Lao động là vinh quang, tiền bạc là tài sản nhưng đến một lúc nào đó, nên cho phép mình nghỉ ngơi và để những đồng tiền mình làm ra quay lại để phục vụ mình.

Còn nhìn thấy tiền mà không nhắm mắt nổi để về bên kia thế giới, chính là một bi kịch lớn!

Dieu Le __Sưu tầm


 

Những Ánh Mắt Trẻ Thơ-Kim Loan-Truyen ngan HAY

Kim Loan

Khi ba vừa bước chân vào nhà
Tưởng các con vui khi gặp ba
Nhưng trong ánh mắt con, ba hiểu
Ba chỉ là một bóng hình xa…

Cũng phải ba năm anh mới trở lại thành phố này, nơi anh đã từng ở và có rất nhiều kỷ niệm, hơn thế nữa, có hai đứa con anh đang sống. Cuộc sống mới bận rộn đã ràng buộc anh, với khoảng cách đường dài mười tiếng lái xe và anh nghĩ các con đã đầy đủ với số tiền cấp dưỡng hàng tháng nên chuyện thăm nom chúng không là điều bắt buộc. Dù đã dứt lòng khi ra đi nhưng khi lái xe về những con đường cũ, khu phố cũ, anh không khỏi cảm thấy man mác buồn.
Cho đến khi xe dừng trước cửa nhà thì anh lại thêm nỗi bối rối, không biết sẽ thế nào khi đối diện với người vợ cũ và hai đứa con. Người vợ mà trước kia anh đã dễ dàng buông ra những lời lạnh lùng nhất, tàn nhẫn nhất, để được chia tay, đi theo tiếng gọi của một tình yêu mới mà anh say đắm. Anh ngồi trong xe thật lâu để ngắm lại ngôi nhà, chẳng có gì thay đổi, có chăng là trong ngôi nhà này đã thay đổi, đã thiếu một người. Anh hồi hộp bấm chuông cửa, vài phút im lặng trôi qua, bây giờ là buổi chiều, anh tin là mọi người đang ở trong nhà, anh phải bấm chuông thêm hai lần thì cánh cửa mới từ từ hé mở ra, đó là thằng cu Tí, con trai lớn của anh.
Thấy ba, thằng bé vừa mừng vừa ngạc nhiên:
– Ba về hả, con nhìn qua lỗ cửa thấy ba nhưng con không tin.
Anh xoa đầu nó:
– Ba đây mà. Tại sao con lại không tin? Ba có khác đâu.
Đôi mắt thằng bé cụp xuống, vẻ vui mừng lúc nãy biến mất:
– Con nghĩ là ba không muốn về đây nữa. Ngày ba đi mẹ đã khóc nhiều lắm.
Anh hình dung ra người vợ tội nghiệp, lát nữa gặp anh, cô ta có khóc và mắng chửi anh bao nhiêu, anh cũng chấp nhận hết cho vơi bớt day dứt bấy lâu. Anh giục con:
– Mở cửa cho ba vào nhà. Hôm nay ba về thăm hai con.
Cu Tí mở rộng cánh cửa, bước vào nhà anh khựng lại nhìn thằng cu Tí, trẻ con mau lớn quá, mới ba năm, giá mà năm năm, mười năm thì chắc anh sẽ không nhận ra con của mình nữa. Anh quàng tay ôm vai con, âu yếm hỏi:
– Mẹ con đâu?
– Mẹ đi làm rồi.
Thì ra cô ấy đã đi làm dù hai con còn nhỏ không có ai bên cạnh trông nom đỡ đần. Ba năm nay người vợ cũ đã trừng phạt anh bằng cách không hề liên lạc với anh, cô đổi số điện thoại, không trả lời những thư từ anh gởi tới bằng đường bưu điện nên anh không biết gì về cuộc sống của họ, mặc dù hàng tháng tiền trả child support vẫn trừ trực tiếp vào lương của anh đều đặn. Anh chợt nhớ ra:
– Thế em đâu rồi? Em Tina đâu rồi?
– Nó đang ngủ.
– Để ba vào phòng thăm nó nhé.
Thằng bé gạt đi:
– Thôi ba, nó mà thức dậy thấy người lạ nó khóc đấy.
“Người lạ”, thằng cu Tí bình thản nói như một điều đương nhiên. Anh lẩm bẩm lập lại hai chữ “người lạ”, chợt thấy chạnh lòng, mà cũng phải, khi anh ra đi bé Tina mới mấy tháng tuổi nó có biết gì về anh đâu.
Hai cha con ngồi đối diện nhau, cu Tí đã 12 tuổi rồi, trông chững chạc hẳn ra, không biết vì anh đã xa nó một khoảng thời gian, một khoảng cách cuộc đời hay vì nó đã lớn khôn theo hoàn cảnh? Những đứa trẻ trong gia đình ly dị bao giờ cũng trưởng thành sớm hơn những đứa trẻ trong gia đình bình thường.
Anh hỏi han con về chuyện học hành trường lớp, cu Tí trả lời đầy đủ. Khi anh hỏi con có nhớ ba không thì nó trả lời ngây thơ:
– Lúc ba mới đi thì nhớ, con khóc nhiều lần lắm và ngày nào cũng chờ mong ba về, nhưng bây giờ hết rồi.
Và nó hỏi lại:
– Thế ba có nhớ con và em Tina không?
– Ba nhớ thương các con chứ.
– Sao ba không về thăm? Ba bỏ đi lâu thế?
Anh lúng túng:
– Tại ba…bận rộn quá.
– Mẹ nói ba ở nhà khác với vợ con khác của ba!
Anh nhìn con, trong đôi mắt thằng cu Tí vẫn vô tư, nói về ba nó mà như nói về một người nào xa lạ, Cu Tí không hề làm quan tòa kết tội anh, nhưng câu nói của nó đã gieo vào lòng anh như ngàn lời oán trách.
Bỗng có tiếng điện thoại reo, chắc đã là thông lệ nên cu Tí nói:
– Mẹ gọi đấy.
Nó ra dấu cho anh im lặng để nó nói chuyện phone. Anh lắng nghe cuộc đối thoại giữa hai mẹ con, mà chủ yếu là từ những câu trả lời của cu Tí, nó kể với mẹ là Tina đang ngủ, mẹ nó dặn khi nào em thức dậy thì cho em uống thuốc ho rồi mới cho ăn cơm, rồi sau đó tắm cho em. Câu cuối cùng là cu Tí luôn miệng vâng dạ, con nhớ lời mẹ dặn mà, con sẽ không bao giờ mở cửa cho người lạ đâu, mẹ cứ yên tâm.
Cúp phone xong cu Tí mỉm cười nheo mắt nhìn anh, coi như nó vừa làm một sự chiếu cố đặc biệt cho anh, đã phá lệ, để người lạ vào khi không có mẹ ở nhà. Nó đã không coi anh như một thành viên trong ngôi nhà này nữa.
Chỉ trong vài phút ngắn ngủi trò truyện giữa hai mẹ con, anh đã hình dung ra cuộc sống hiện nay của họ. Buổi sáng cô ở nhà lo cho con và buổi chiều đi học về cu Tí phải gánh vác nốt những việc còn lại, thiếu một người cha, thằng bé đã phải làm những công việc của người lớn. Cu Tí kể:
– Ngày nào lúc break time ở hãng mẹ cũng gọi để xem nhà có chuyện gì không, và mẹ nhắc nhở con đủ thứ việc nhà.
Anh cảm động khen con:
– Cu Tí ngoan và giỏi quá.
Anh đi lại khắp nhà, vẫn những đồ đạc cũ khi anh còn ở đây, kể cả những đồ dùng lặt vặt, người vợ cũ vẫn tiết kiệm như trước hoặc cô không có khả năng mua sắm cái mới.
Căn nhà này vợ chồng anh khi mới cưới nhau đã mua trả góp, đã là căn nhà hạnh phúc, căn nhà ước mơ của hai vợ chồng. Sinh thằng cu Tí xong, vợ anh đi làm tiếp để mau trả nợ nhà, khi cu Tí gần 9 tuổi món nợ nhà vơi bớt, vợ mới mang bầu Tina đứa con thứ hai, cô đâu ngờ rằng thời gian này anh đang có người yêu và sắp sửa lìa bỏ gia đình.
Căn nhà anh đã sống 9 năm trời nên anh dễ dàng nhận thấy vài thay đổi hư hỏng, những vết tường loang, cái mành cửa sổ xộc xệch, vài cái nẹp cửa phòng ngủ vênh ra, vòi nước trong phòng tắm đang chảy nhỏ giọt hững hờ như đang oán trách người chủ cũ đã vắng mặt lâu ngày.
Anh ra nhà kho sau vườn lấy búa đinh vào đóng lại nẹp cửa và sửa vòi nước, điều đơn giản dễ làm ấy nhưng với mẹ con cô cũng là điều không thể làm được. Khi mang hộp đồ nghề trả lại nhà kho, anh dạo quanh khu vườn. Cây đào, cây lê ngày nào còn bé nhỏ, vợ chồng anh hí hửng mua về, đã mong cây mau lớn để có bóng mát cho các con chơi. Nay cây đã lớn, đã có bóng mát, nhưng hai đứa con anh đã bao giờ vui thích chơi đùa dưới bóng mát ấy chưa?

Anh không dám nghĩ tiếp, bước vào nhà, những hình ảnh quá khứ bỗng đổ ập vào tâm tư anh, đây là phòng ăn, nhà bếp, cô ấy đã từng đứng nấu nướng, dọn ra những bữa ăn cho chồng con, kia là phòng ngủ, đã từng có những lúc mặn nồng hạnh phúc vợ chồng. Nhưng anh đã không yêu cô nữa, có một tình yêu khác làm anh mê đắm, anh đã đi theo tiếng gọi của con tim, dù khi anh đề nghị ly dị, vợ anh đã phản đối, đã khóc hết nước mắt, xin anh nghĩ lại vì các con, đừng làm tổn thương những tâm hồn vô tội.
Bé Tina đã thức dậy, từ trong phòng ngủ đi ra, thấy anh, Tina vội túm lấy áo cu Tí tìm chỗ nương tựa chở che và nhìn anh bằng ánh mắt nghi ngờ, xa lạ. Tina đã hơn 3 tuổi, nếu gặp ngoài đường anh không nhận ra con, anh thấy mình tệ bạc quá khi bây giờ mới đến thăm con lần đầu kể từ khi ly dị. Anh đến bên Tina giơ tay định bế nó, nhưng cu Tí nói ra vẻ hiểu biết đầy kinh nghiệm:
– Ba đụng vào người nó, nó sẽ khóc đấy.
Rồi cu Tí quay ra dỗ dành em:
– Đây là ba, ngày xưa ba cũng ở chung nhà với chúng ta mà. Cho ba bế Tina nhé?
Con bé vẫn chưa tin cậy, nó càng dựa vào người cu Tí và bám chặt lấy cu Tí hơn. Anh đành chịu thua, ngồi nhìn hai đứa con, ít nhiều ngày xưa anh đã từng bồng bế Tina, từng nâng niu nó, đó là máu thịt của anh, nhưng giờ đây chẳng khác gì người xa lạ. Khi ly dị vợ, xa con, anh không thể hình dung ra tình huống này.
Cu Tí để mặc anh ngồi thừ ra ở ghế, nó đi lo cho em, lấy chai thuốc ho như lời mẹ dặn. Anh không nỡ nhìn thằng bé loay hoay mở hộp thuốc, anh giúp nó bơm thuốc vào ống để cu Tí mang ra cho Tina uống, xong nó dắt em vào bếp lấy cơm để ra bàn cho con bé tự ăn một mình, cu Tí dịu dàng với em:
– Ăn cẩn thận, đừng làm đổ ra bàn, ăn xong anh cho ăn kẹo.
Tina ngoan ngoãn gật đầu và rón rén múc từng muỗng cơm ăn ngon lành. Tất cả diễn ra trước mắt anh như một vở bi kịch, vở bi kịch do chính anh gây ra và hai đứa con anh là nhân vật chính.
Từ lúc nào hai mắt anh cay xè mờ lệ. Cuộc sống hiện nay anh đang có bên vợ mới, con mới, chắc gì đã được như anh ước mơ, vậy mà anh đã đánh đổi bằng sự vất vả và thiếu thốn tình cảm của hai đứa bé này. Một ngày nào đó khi chúng lớn lên, chúng sẽ hiểu vì đâu.
Anh bỗng rùng mình và đau đớn, anh cứ ngồi nhìn hai con và không biết phải làm gì, nỗi đau như chôn chặt anh trong lòng ghế. Một lúc lâu cu Tí dè dặt hỏi:
– Ba đợi mẹ về không?
Anh lắc đầu, hình như nếu anh thốt ra lời thì nước mắt cũng ra theo.
– Vậy ba về đi, chút nữa con còn tắm cho Tina và học bài nữa, con bận lắm.
Anh rút ra một xấp tiền đưa cho cu Tí, nó nắm chặt lấy món tiền, chắc nó nghĩ những đồng tiền cần thiết cho mẹ và sẽ làm mẹ vui. Nhìn cử chỉ và nét mặt vui mừng của thằng bé, anh có thể đoán ra mẹ con họ đã sống trong cảnh chắt chiu từng đồng. Căn nhà anh hào phóng để lại cho vợ con nhưng cô ấy vẫn phải tiếp tục trả góp thêm vài năm nữa.
Anh ôm chặt lấy cu Tí, trong đời anh, chưa bao giờ có một cảm xúc thương yêu con dạt dào như bây giờ. Bé Tina vẫn đứng xa, nhất định không cho anh đụng tới.
– Ba đi nhé, con hãy ngoan, chăm học. Ba sẽ về thăm các con thường xuyên.
Anh đến đây, dự định sẽ gặp lại vợ cũ, sẽ nói lời xin lỗi và vui chơi cùng hai con. Bây giờ anh hiểu rằng, có nói trăm ngàn lần lời xin lỗi và dù vợ anh có tha thứ, chấp nhận hiện tại đường ai nấy đi, nhưng những cái nhìn của hai con, ánh mắt buồn vui bất chợt và dửng dưng của cu Tí, ánh mắt xa lạ và dè dặt của bé Tina, sẽ theo ám ảnh anh không biết đến bao giờ.
Cánh cửa mà cu Tí vừa khép lại sau lưng anh, lại gieo vào lòng anh cả sự lạnh lùng và oán trách. Cánh cửa đã phân chia ranh giới, như hai kẻ xa lạ mỗi người một lối đi và cuộc sống khác nhau.

Anh lái xe rời khỏi thành phố như một kẻ chạy trốn.

Kim Loan

From: Tu-Phung


 

Cau chuyen một cặp vợ chồng trẻ- Truyen ngan rat ngan

 Bùi Mạnh Toàn

Có một cặp vợ chồng trẻ đang sống vô cùng hạnh phúc, người vợ rất xinh đẹp và người chồng rất mực yêu thuơng vợ mình.

Một thời gian sau, trong khi người chồng đi làm việc xa, người vợ tình cờ phát hiện ra mình đang bị một căn bệnh da kỳ lạ. Những đốm đỏ nổi lên từ vai rồi nhanh chóng lan ra khắp mặt mũi toàn thân. Cô lập tức đến gặp nhiều bác sĩ, nhưng họ cho biết căn bệnh này cực kỳ hiếm và cũng không có cách chữa trị.

Người vợ xinh đẹp vô cùng đau khổ, khuôn mặt cô đã trở nên xấu xí nhanh chóng, cô nghĩ mình sẽ mất tình thuơng yêu từ chồng và cuộc đời cô kể như chấm hết.

Rồi cô nhận được hung tin, xe của chồng cô gặp tai nạn khi anh đang làm việc xa nhà, và anh vẫn còn hôn mê sau nhiều ngày cấp cứu. Khi anh hồi tỉnh, cô cũng được các bác sĩ báo tin đôi mắt anh đã mù vĩnh viễn.

Người chồng mù trở về, và dĩ nhiên, anh không nhìn thấy sự thay đổi của vợ. Anh vẫn một mực yêu thuơng vợ như ngày nào, và dĩ nhiên cô cũng yêu anh không thể nói hết. Người vợ vẫn thuờng dắt chồng đi dạo trong thị trấn, cô quàng chặt tay anh và người chồng mù đeo cặp kính đen dùng chiếc gậy dò đường vừa đi vừa trò chuyện hạnh phúc.

Ít lâu sau, người vợ trượt chân ngã từ trên cầu thang xuống đất, cô đã không qua khỏi vì vết chấn thương ở đầu quá nặng. Người chồng đau khổ tột cùng trong ngày đưa tang vợ, khiến cư dân trong thị trấn không khỏi xót thương ..

Khi tang lễ chấm dứt, một người hàng xóm hỏi anh dự định thế nào trong những ngày sắp tới. Người chồng mù cho biết anh sẽ đi xa khỏi thị trấn này, nơi luôn gợi anh nhớ lại người vợ yêu thương cùng những tháng ngày hạnh phúc. Một người khác hỏi: “Anh đi đâu bây giờ khi không nhìn thấy gì cả, và biết làm gì khi không còn vợ bên cạnh như trước đây?”.

Người chồng mù từ từ tháo cặp kính đen ra và chậm rãi trả lời: “Tôi chưa bao giờ mù, nhưng tôi luôn giả vờ mù trong những năm qua. Bởi vì nếu tôi nhìn thấy tất cả, vợ tôi còn đau đớn hơn căn bệnh quái ác kia đã tàn phá cô ấy. Tôi chỉ muốn vợ mình luôn hạnh phúc …”.

Nguồn: #GOTA chia sẻ từ internet.

———

Bạn thân mến!

Khi yêu ai đó bằng tình yêu đủ lớn của sự chân thành thì họ sẽ làm tất cả mọi thứ chỉ để người mình yêu được hạnh phúc.

Cơ mà giờ người đàn ông như trong truyện chắc tuyệt chủng rùi!


 

QUẢ TRỨNG KHÔNG THỂ BỔ BA…-Truyen ngan HAY

Những Câu Chuyện Thú Vị

Dieu Le

Trong giai đoạn đất nước đang gian khó, mẹ tôi là một thiếu phụ đơn độc một mình nuôi hai con nhỏ.

Tôi được nghe kể lại rằng vào lúc mẹ đang mang thai em út thì cha đã phụ phàng bỏ rơi mẹ và tôi, theo cô nhân tình xinh đẹp đi bặt âm vô tín.

Mẹ ở lại, lặng lẽ vượt qua bao đau đớn của những thị phi và cái đói nghèo đeo đẳng, để nuôi tôi và sinh thêm em Cu còi cọt ốm tong teo như con mèo hoang thiếu dinh dưỡng.

Mẹ rời quê nội, đưa chị em tôi về sống trong khu tập thể ngôi trường mẹ dạy học.

Trường học nơi miền trung du sâu tít tận chân Trường Sơn một tỉnh nghèo miền Trung, vừa trải qua những năm tháng chiến tranh gay gắt nên đất đai đã bạc màu hoang phế, chỉ lác đác đó đây mấy xóm dân nghèo bám đất để sống.

Lũ con trẻ chỉ được bữa cơm, bữa sắn để tạm no cái bụng, đến trường học chữ cho tương lai sáng lạn hơn.

Nhà có ba miệng ăn nhưng chỉ với mấy chục đồng bạc lương của giáo viên cấp 1, mẹ tôi đã phải tính toán đủ bề hàng tháng mới mua nổi mấy chục cân gạo mậu dịch và trang trải mọi nhu yếu phẩm hàng ngày.

Mỗi bữa ăn, hầu như mẹ chỉ đong gạo nấu cơm rồi kiếm qua loa quả trứng do con gà mái hoa đẻ với nhúm rau xanh trên khoảnh đất nhỏ mẹ trồng ở góc trường.

Thực đơn luôn là món trứng luộc và dĩa rau luộc chấm nước mắm hoặc xào với tí mỡ tỏi cho dậy hương thơm.

Vào mâm, mẹ luôn bổ quả trứng theo chiều dọc thành hai phần bằng nhau rồi gắp vào chén cho tôi và em cu.

Phần mẹ, chỉ gắp suông nhúm rau chấm vào bát nước mắm mậu dịch mặn chát vị muối đã dậy mùi thum thủm.

Nhiều lần như thế nên tôi buột miệng hỏi:

“ – Sao mẹ không bổ quả trứng thành ba để mẹ có một phần?”

Mẹ dịu dàng bảo: “ Con ăn phần trứng của con đi. Quả trứng không thể bổ làm ba được đâu con ạ. Hôm nào gà nhà ta đẻ nhiều hơn mẹ sẽ cùng ăn với hai con.”

Tôi ngây thơ tin lời mẹ rằng quả trứng không thể bổ làm ba, thoải mái cùng em ăn nửa quả trứng mẹ chia phần.

Quả trứng mẹ luộc chỉ độ chín hồng đào.

Bên ngoài ngòi trắng chín tới kết tụ mang một màu trắng phau.

Giữa tâm là ngòi đỏ chỉ vừa chín tái, sền sệt màu đỏ thắm.

Chỉ mới nhìn đã gợi thèm ăn.

Tôi luôn cắn từng miếng nhỏ xíu rồi ngậm nghe hương vị nó trong miệng.

Đó là phần thức ăn bổ dưỡng nhất trong bữa cơm nhà giáo nghèo mà mẹ đã dành cho chị em tôi.

Thời gian lặng lẽ trôi qua ngày này tháng nọ, do nhà chỉ nuôi hai con gà mái hoa thả rong nhặt nhạnh thức ăn trong vườn nên làm sao có nhiều trứng được?

Vì thế cả quảng đời thơ ấu, tôi chưa bao giờ nhìn thấy mẹ ăn trứng luộc bao giờ.

***

Rồi một hôm, khi tôi đủ trí khôn để phát hiện rằng quả trứng luộc không phải chỉ bổ hai như mẹ đã chia phần cho chị em tôi mà ta có thể bổ ba, bổ năm, bổ bảy … thì cũng là lúc mẹ lâm bệnh nan y.

Mẹ được chuyển vào viện cấp cứu sau một thời gian dài âm thầm giấu kín bệnh tật để nỗ lực nuôi chị em tôi.

Nghe tin xấu tôi chạy ngay vào viện với mẹ.

Khi bước chân vừa rón rén ở dãy hành lang, tôi thoáng nghe lời mẹ thều thào trong nước mắt cùng cô Duyên: ” Tôi biết căn bệnh ung thư của mình không chữa chạy được. Chỉ mong sao cuộc sống của tôi kéo dài thêm năm ba năm cho hai con tôi khôn thêm tí nữa. Các cháu còn dại khờ quá mà chẳng lẽ chúng đã mất cha nay lại mất thêm mẹ trong cuộc sống này?”

Tôi thương mẹ quá chạy về lục lọi chuồng gà tìm quả trứng để luộc cho mẹ ăn.

Khi quả trứng luộc vừa đem đến thì mẹ đã không còn nữa.

Hình hài mẹ nằm đó nhưng linh hồn mẹ đã bay lên trời cao.

Cô Duyên dạy tôi nấu bát cơm trắng, úp nguyên quả trứng luộc lên, đặt trên đầu mẹ rồi thắp hương khấn vái.

Đây là lần duy nhất và cũng là lần cuối cùng mẹ tôi được dành riêng một quả trứng.

Quả trứng không bổ hai, bổ ba… mà để nguyên quả trên bát cơm trắng tiễn đưa linh hồn mẹ về cõi vĩnh hằng.

Mẹ ơi giờ đây con hiểu vì sao quả trứng luộc nhà ta không thể bổ ba!

— fb Ba thôn —

( Nguyễn Hoàng Diễm chuyển bài)


 

Nhưng cuối cùng tôi cũng để rơi nước mắt-Truyen ngan HAY

 Những Câu Chuyện Thú Vị

Chi Nguyen 

Tôi đã khóc, dù cố kìm nén lắm nhưng cuối cùng tôi cũng để rơi nước mắt. Tôi muốn xin bà củ khoai, cái củ khoai khô quắt queo mà bà vừa móc ra từ trong giỏ đệm. Gương mặt bà cũng khô héo, mệt mỏi, âu lo…

**********

Bà đưa con lên Sài Gòn, sáng nay nó đi thi vào Đại học. Vô quán, bà kêu cho con tô phở đặc biệt. Bà vói tay lấy đũa cho nó, lấy khăn giấy cho nó. Ngồi sau lưng bà, tôi nghe thằng nhỏ hỏi:

– “Sao má không ăn?”

– Bà nói: “Má thích ăn khoai. Má có đem khoai theo. Con ăn đi kẻo trễ giờ.”

– Thằng con không buồn kèo nài, mời mọc thêm. Nó thản nhiên ăn. Ăn xong nó đứng lên, trường thi bên kia đường. Tôi nghe bà dặn dò nó, bà sẽ ngồi chờ nó ở gốc cây trước quán. Giọng bà lo lắng, ánh mắt bà lo âu.

Chờ nó khuất sau cổng trường thi, bà móc trong túi mấy đồng bạc nhăn nheo để trả tiền tô phở. Tôi hiểu bà nhịn ăn để dành cho con. Nhìn cái dáng cam chịu của bà, tôi thấy lòng mình chùng xuống. Nhìn bàn tay bà lần mò trong giỏ tìm lấy củ khoai, tôi không kềm nổi lòng mình. Tôi muốn xin bà củ khoai. Tôi muốn…

Trời mưa lâm râm. Mưa hắt vào lòng tôi nỗi buồn khó tả. Bà như người lái đò đưa con qua sông, con sông đời chập chùng sóng dữ. Và bà cũng như bao bà mẹ khác, luôn nhận phần giông bão cho riêng mình…

Bài & ảnh sưu tầm


 

KIẾP NGƯỜI !-Truyen ngan HAY

Vân Anh Nguyen 

Trải qua một cuộc bể dâu

Những điều trông thấy mà đau đớn lòng

Chị 60 tuổi, suy tim nặng, bị ung thư, phẫu thuật, đang chạy thận định kỳ.

Quê tận Sóc Trăng, chồng mất sớm, chị và đứa con trai lưu lạc đến tận Bình Dương.

Con đi làm thuê, mẹ chạy thận.

Cuộc sống của chị mong manh, không biết chấm dứt khi nào.

Chị chạy thận suốt 2 năm, đi về một mình. Con trai phải lo bươn chải kiếm tiền lo cho mẹ.

Sáng nay, chị trở nặng, ra đi không có người thân trong giây phút lâm chung.

May mà điện thoại của chị không cài mật khẩu nên các cô y tá gọi được đứa con trai.

Thằng nhỏ khoảng hai mươi tuổi, gầy gò, lam lũ, ánh mắt đau khổ, run run hỏi tôi:

– Giờ con làm sao hả bác sĩ ?

– Con đưa mẹ con về nhà lo hậu sự đi. Để cô làm giấy tờ và lo xe bệnh viện cho con.

– Con không còn nhà để về, bác sĩ à.

– Vậy còn ai bà con không ?

Thằng bé gọi điện thoại cho bà dì ruột. Xong, nó lắp bắp nói với tôi:

– Bác sĩ nói chuyện với dì của con.

Sau khi nghe hết câu chuyện, cô em gái trả lời:

– Bác sĩ thông cảm, lâu nay chị tui không liên lạc.

Khốn khổ cho chị. Không nhà để về, đứa em gái duy nhất cũng từ chối chị trong giây phút lìa trần.

May sao, bác sĩ H, trưởng khoa cấp cứu liên lạc được tổ chức mai táng thiện nguyện 0 đồng, lo hỏa táng miễn phí cho chị. Khoa thận và bệnh nhân gom góp một ít tiền cho thằng bé.

Sáng, chị còn bước vô khoa thận nhân tạo. Chiều, chị hóa thành tro bụi.

Chị an nghỉ nhé. Hãy phù hộ cho thằng con côi cút của chị.

Hãy theo dõi trang để cập nhật nhiều câu chuyện nhân văn hơn cảm ơn các bạn


 

GẶP LẠI NGƯỜI YÊU CŨ.-Truyen ngan HAY


Chuyện tuổi Xế Chiều

Công Tú Nguyễn

Tôi hiểu ba thương má nhưng không thể quên người yêu cũ. Có điều, trái tim không thể chứa cùng lúc hai người phụ nữ, nên ba mới thấy chông chênh.

Nghe má nói ba bị tai biến, tôi tức tốc vượt hơn trăm cây số về nhà. May mà tai biến nhẹ, lại được cấp cứu kịp thời nên không để lại di chứng. Bệnh viện đông, không khí ngột ngạt làm ba khó chịu. Ba gắt má sao nước nguội quá, cháo gì lạt nhách, gối kê đầu sao quá mềm…

Ba quạu thì quạu, má vẫn nhỏ nhẹ “rồi rồi, để tôi sửa cho vừa ý ông”. Quạu với má vậy thôi, má về nhà mới được nửa buổi, ba đã sốt ruột hỏi tôi: “Sao má con đi lâu vậy?”. Ba với má đó giờ vẫn vậy, xa thì ngóng, gần thì như mặt trăng với mặt trời.

Từ nhỏ, tôi đã chứng kiến ba má thường xuyên cãi cọ. Má da nâu nên ưa mặc quần áo màu nhạt, ba nói đàn bà phải mặc màu tối mới sang. Má uốn tóc ngắn, ba nói đàn bà phải để tóc dài, kẹp hay bới gì cũng quý phái…

Má biết tỏng bụng ba nên mát mẻ: “Người ta” của ông da trắng, dáng cao mới diện kiểu đó, tui bắt chước sao được”. “Người ta” của ba là dì Hiền. Hồi trẻ, ba và dì yêu nhau. Nhà dì chê ba nghèo nên không gả.

Nhà bán gạo, nhiều người mua thiếu rồi quỵt. Má nói người ta nghèo mới làm vậy, kệ đi, coi như làm phước. Ba thở dài, than: “Má mày hiền quá, dễ bị người ta gạt”. Má ấm ức: “Phải tía lia, mồm năm miệng mười như “người ta” mới vừa bụng ông chớ gì”…

Lớn lên tôi mới hiểu, ba đuổi bắt thứ gì đó rất mông lung, với hoài không tới. Từ vóc dáng tới tính tình của dì Hiền đã đóng khung trong ba thành chuẩn mực của cái đẹp. Vậy nên trong mắt ba, má chưa bao giờ toàn vẹn. Ba chưa một lần nhắc tên dì Hiền, cũng chưa từng gặp lại sau mấy chục năm xa cách, nhưng tôi vẫn cảm nhận được bóng dáng dì lúc nào cũng đâu đó trong những lần cãi cọ giữa ba với má, trong ánh mắt mênh mang của ba mỗi chiều về…

Người ta hay nói “tình chỉ đẹp khi còn dang dở”. Chính vì dang dở nên ba mới nhớ, mới thương, mới tự gây sóng gió. Có lần tôi hỏi ba: “Dì Hiền đẹp lắm hả ba?”. Ba không trả lời, chỉ cười tủm tỉm, ánh mắt xa xăm như thể đang lạc về quá khứ.

Tôi nói: “Má không đẹp nhưng có duyên, tính lại hiền, chiều ba hết mực. Ba còn đòi gì nữa?”. Im lặng hồi lâu, ba mới khẽ khàng: “Chuyện người lớn, con không hiểu đâu”. Tôi hiểu chớ. Tôi hiểu ba thương má nhưng không thể quên dì Hiền. Có điều, trái tim không thể chứa cùng lúc hai người phụ nữ, nên ba mới thấy chông chênh…

Ba nằm viện được năm ngày, tôi xin chuyển viện lên Sài Gòn để khám lại. Bệnh viện lớn càng quá tải hơn ở quê. Tôi trải chiếu để ba nằm cho đỡ mệt. Góc bên kia, giọng một phụ nữ lớn tuổi cứ liên tục kêu rên: “Bệnh viện gì mà đông phát khiếp”, “Bắt số 225 vầy biết chừng nào tới tui hả trời”, “Ông quạt mạnh tay cái coi, khỏe cùi cụi mà làm như sắp chết vậy”…

Ba khều tôi: “Chắc bà ấy bệnh nhiều nên khó chịu. Số của ba 200 hả con, đổi cho bà ấy để bả khám sớm chút”. Tôi nghe lời ba, mang số qua đổi. Dì ấy thở ì ạch, mặt cau có. Nghe tôi nói đổi số, dì buông gọn lỏn: “Sao tự dưng đổi, có tiền bạc gì không?”.

Anh con trai bước qua chào ba tôi để cảm ơn. Ba tôi hỏi anh quê ở đâu. Nghe nói người cùng tỉnh, ba nhổm dậy dòm qua. Hai người cùng sững sờ. Ba lắp bắp: “Là… là… cô Hiền phải không?”. Tôi giật thót, quay lại nhìn “kẻ thứ ba” vô hình của má bấy lâu.

Dì ấy mập ù, tóc tai xơ xác, bộ ngực thả rông xập xệ… dường như chẳng liên quan gì tới dì Hiền da trắng, tóc dài, dáng cao ba hay nhắc bấy lâu. Có lẽ cảm giác của ba cũng bàng hoàng giống tôi nên thăm hỏi gượng gạo. Lúc về, tôi trêu ba: “Gặp “người ta”, mãn nguyện rồi hả ba?”. Ba thở dài: “Thà đừng gặp…”.

Từ bữa đó, ba cư xử với má dịu dàng nhỏ nhẹ. Ảo ảnh ba bắt được rồi, cũng chỉ là ảo ảnh thôi, má mới là thực tại của ba. May, cuối cùng ba cũng ngộ ra điều đó.

Đỗ Minh Thùy


 

Một câu chuyện cảm động về tình cha-Đăng Dũng-Truyen ngan

Đăng Dũng

Tôi vẫn thường ngân nga khúc hát “tình cha”. Bởi tôi hiểu rằng, đó là thứ tình yêu không hình dáng, không màu sắc, cũng không có giai điệu, nhưng lại nâng tôi lên tới tận trời xanh…

 Nếu tới phố chợ công nhân ở Thiết Lĩnh, Liêu Ninh (Trung Quốc) vào mỗi sáng tinh mơ hay chiều tối, bạn sẽ nhìn thấy một ông lão đang chậm rãi đẩy xe đậu hũ. Chiếc loa sạc điện trên xe phát ra một giọng nữ lảnh lót: “Bán đậu hũ đây, đậu hũ chính tông đây! Đậu hũ đây”. Giọng nói đó là của tôi, còn ông lão ấy là cha tôi. Cha là một người câm điếc….

 Mãi cho tới sinh nhật 20 tuổi, tôi mới có đủ dũng khí để thu âm giọng nói của mình cho chiếc xe đậu hũ của cha, thay cho cái chuông đồng mà ông đã lắc suốt mấy chục năm qua. Nhớ lại những năm đầu của thập niên 80, khi vẫn còn là đứa trẻ 2-3 tuổi, tôi đã hiểu rằng có một người cha câm điếc sẽ khổ sở tủi nhục tới nhường nào. Vì vậy, từ nhỏ tôi đã ghét ông.

 Lần nọ, tội gặp một thằng bé bước tới xe của cha tôi mua đậu hũ. Nhưng khi cầm túi đậu hũ rồi nó không trả tiền mà chạy mất. Cha cứ rướn cổ về phía trước muốn gọi nó mà không phát ra được tiếng nào. Lúc đó tôi không thể đuổi bắt thằng nhỏ để đấm cho nó vài cú như các anh mình. Tôi đau lòng nhìn cảnh tượng ấy mà không nói được lời nào. Tôi không ghét thằng nhỏ, chỉ hận vì cha tôi là một người câm điếc.

 Di vật duy nhất mẹ để lại cho cha khi bà rời xa chúng tôi là tấm ảnh chụp chung với cô hàng xóm khi về nhà chồng. Nó thành nguồn an ủi động viên duy nhất của cha mỗi khi tôi tỏ thái độ lạnh nhạt. Cha ngắm bức ảnh thật lâu cho tới khi lấy lại được tinh thần và đi làm việc lại. Điều đáng giận nhất của tôi khi đó là những đứa trẻ khác gọi tôi là “nhỏ ba câm” (trong nhà tôi xếp thứ ba).

 Lúc chửi không lại chúng, tôi lại chạy về nhà. Đứng trước mặt cha đang mài đậu hũ, tôi tức giận vẽ lên đất một vòng tròn rồi nhổ một bãi nước bọt vào trong đó. Mặc dù không hiểu rõ hành động này có nghĩa gì, nhưng khi những đứa trẻ khác chửi tôi chúng vẫn thường làm thế. Tôi cho rằng đây là cách độc ác nhất để mắng một người câm.

 Lần đầu tiên tôi dùng cách này để mắng cha, ông đang làm việc bèn ngưng tay, đứng lặng nhìn tôi rất lâu và nước mắt cứ thế tuôn rơi như suối. Tôi rất ít khi nhìn thấy ông khóc, nhưng tối hôm đó ông đã trốn trong phòng làm đậu hũ khóc suốt đêm. Đó là một thứ nước mắt đau đớn bất lực tới không thốt thành lời. Tôi phát hiện ra cách để bộc lộ sự tủi nhục của mình với cha chính là mắng ông. Từ sau lần đó, mỗi khi bị ức hiếp tôi lại chạy tới trước mặt ông và mắng ông thậm tệ, sau đó tôi mặc kệ ông đứng đó và bỏ đi. Cũng từ sau lần ấy, tôi không thấy ông khóc nữa, chỉ biết ông cứ ngày một gầy yếu và già đi.

 Vì ghét cha, tôi nỗ lực chăm chỉ học hành. Vì ghét cha, tôi cố hết sức ôn thi vào đại học để rời khỏi cái làng nơi mà ai ai cũng biết cha tôi là một người câm. Đây là nguyện vọng lớn nhất của tôi khi ấy. Tôi không biết các anh trai mình đã thành gia lập thất như thế nào, cũng không cần biết căn phòng làm đậu của cha đã thay bao nhiêu khuôn mới, càng không cần biết đông đi hạ đến cái chuông đồng lắc đến mòn ấy đang vang khắp bao nhiêu thôn làng… Chỉ biết rằng, tôi đã bắt bản thân mình lao vào học điên cuồng như thù như hận.

 Cuối cùng tôi đã thi đỗ đại học. Sau bao ngày tháng mong đợi, cuối cùng tôi cũng có cơ hội thoát khỏi người cha câm điếc ấy. Tôi sung sướng trong lòng, đếm từng ngày từng giờ để lên đường vào thành phố. Hôm ấy, cũng là lần đầu tiên cha mặc chiếc áo dài màu xanh lam mà cô tôi đã may cho ông từ lâu. Đây là chiếc áo “diện” nhất trong tủ của cha mà bình thường ông không dám mặc đến. Ông ngồi dưới ánh đèn bày tỏ niềm vui sướng và lấy một đống bạc giấy còn vương mùi đậu hũ nhét vào tay tôi, miệng ê a ê a “nói” không ngừng. Tôi nghe mà không hiểu ông nói gì, nhìn mà không biết ông định làm gì. Khi cha dẫn hai người chú và các anh trai tôi lôi con lợn béo tốt mà ông đã chăm chút nuôi suốt 2 năm ra giết thịt, đãi bà con thân thuộc ăn mừng tôi thi đậu đại học, không biết điều gì đã làm tan vỡ trái tim sắt đá của tôi khi ấy. Tôi chợt đứng ngây người…

 Và tôi oà khóc! Tôi òa khóc như một đứa trẻ vì thương cha.

 Trong bữa cơm, tôi gắp cho cha mấy miếng thịt lợn, đôi mắt nhoà lệ, tôi lắp bắp: “Cha, cha ơi, cha ăn đi”. Cha không nghe thấy nhưng ông hiểu được ý của tôi, ánh mắt ông lóe lên tia sáng chưa từng có. Ông uống cạn một hơi rượu nếp hòa cùng nước mắt, ăn thêm những miếng thịt do con gái gắp cho mình, vì hôm nay ông thấy vui thật sự. Ông đã uống đến say vì vui mừng, khuôn mặt đỏ bừng, ông nói bằng thứ ngôn ngữ khua chân múa tay! Đã 18 năm, đã 18 năm rồi từ ngày mẹ rời đi, chưa bao giờ tôi gọi ông một tiếng “cha” cho thành hình. Đó là lần đầu tiên tôi gọi ông những lời đó.

 Cha tiếp tục vất vả làm đậu hũ, và những tờ giấy bạc thấm mùi mồ hôi ấy đã nuôi tôi học xong đại học. Sau khi tốt nghiệp, tôi được phân công về Thiết Lĩnh cách quê tôi 20 km. Khi đã ổn định công việc, tôi muốn đón cha lên thành phố để báo đáp ông những ngày cuối đời muộn màng. Thế nhưng, tôi bất ngờ gặp tai nạn trên đường.

 Và qua lời chị dâu kể lại, tôi mới được biết mọi chuyện xảy ra như thế nào. Hôm ấy, một số người qua đường nhận ra tôi là con ông bán đậu hũ nên đã về báo tin cho anh chị tôi. Thế là, cả hai anh trai và hai chị dâu tôi vội vàng chạy đến, thấy tôi bê bết máu nằm đó bất tỉnh. Cha đến sau cùng đẩy đám đông ra, ôm lấy đứa con mà mọi người đều chắc chắn rằng đã chết rồi. Ông chặn một chiếc xe hơi lớn bên đường, móc trong túi áo ra một mớ tiền lẻ bán đậu hũ rồi nhét vào tay tài xế, sau đó ông ra hiệu cầu xin người tài xế đưa tôi đến bệnh viện cấp cứu.

 Nhập viện không lâu, các bác sĩ lại cho tôi chuyển viện và ngầm khuyên các anh tôi sớm chuẩn bị hậu sự. Nguyên nhân vì lúc đó họ không đo được huyết áp của tôi, đầu tôi lại bị chấn thương, ngay cả bác sĩ cũng tin rằng tôi sẽ khó qua khỏi.

 Nhưng người cha cả đời đau yếu của tôi, lúc ấy lại toát lên một sức mạnh và sự kiên cường vô hạn. Cha xé nát chiếc áo tang mà anh cả mua về. Ông chỉ vào mắt mình, rồi khoa chân múa tay, ý nói rằng: “Chúng bây không được khóc, cha không khóc thì các con càng không được khóc. Em gái con sẽ không chết đâu, nó mới hơn 20 tuổi, nó nhất định sẽ sống, chúng ta nhất định sẽ cứu sống nó”.

 Các bác sĩ lắc đầu nói với cha rằng: “Con ông vô phương cứu chữa rồi, cho dù muốn cứu cũng phải tốn rất nhiều rất nhiều tiền, cứ cho là tốn nhiều tiền đi cũng chưa hẳn là cứu được”. Những lời này đều được anh cả tôi “phiên dịch” lại cho cha.

 Lúc ấy cha không khóc mà ngã quỵ xuống đất, ánh mắt thất thần. Nhưng rồi rất nhanh sau đó ông đứng dậy, ánh mắt đầy quyết tâm. Ông làm động tác tay, ý nói rằng: “Xin các ông hãy cứu con gái tôi, con gái tôi còn có hi vọng, đừng xem nhẹ, các ông nhất định phải cứu nó. Tôi sẽ kiếm tiền nộp tiền cho bệnh viện, tôi sẽ cho lợn ăn, trồng trọt, làm đậu hũ, tôi có tiền, tôi nhất định sẽ trả được”. Rồi cha lại chỉ tay vào anh và chị dâu tôi, biểu thị: “Tôi còn có chúng nó, chúng tôi cùng nhau cố gắng, chúng tôi có thể làm được”. Thấy bác sĩ không nói gì, ông lại chỉ lên trần nhà: “Tôi có nhà, có thể bán, tôi có thể ngủ trên đất, cứ xem như khuynh gia bại sản, tôi cũng phải cứu con gái tôi sống lại”. Cha lại chỉ vào trái tim mình, hai hàng nước mắt cứ thế chảy dài, ông muốn nói: “Con bé là cốt nhục của tôi, là cả đời tôi, xin hãy cứu nó sống lại”.

 Anh cả vừa khóc vừa dịch những lời của cha cho bác sĩ nghe, khiến vị bác sĩ cảm động tâm can, nước mắt ông đầm đìa nhìn cha. Tình yêu vĩ đại của cha không chỉ giữ tôi lại nơi trần thế mà còn mang đến lòng tin và quyết tâm để bác sĩ mạo hiểm cứu tôi. Tôi được đưa vào phòng mổ. Cha ngồi bên ngoài, cứ đi tới đi lui ngoài hành lang trong tâm trạng bất an, đến mức đôi dép của ông đã mòn cả đế. Ông cứ ngồi chờ suốt mười mấy tiếng đồng hồ đến nỗi miệng phồng rộp cả lên. Ông không ngừng cầu Phật trong hỗn loạn, cầu xin sự ban ơn của Đức Phật từ bi, khẩn cầu ban cho con gái ông sự sống.

 Trời cũng động lòng người, và tôi đã qua khỏi như một kỳ tích. Nhưng trong thời gian nửa tháng tôi vẫn hôn mê, không hề biết đến tình yêu vô hạn ông dành cho tôi. Đối diện với “người thực vật” như tôi, mọi người đều đã mất đi lòng tin, chỉ có cha là luôn túc trực bên giường bệnh, kiên định chờ tôi tỉnh lại. Bàn tay thô ráp của ông cẩn thận xoa bóp chân tay cho tôi, ông không thể nói được nhưng vẫn liên tục a…a… gọi tôi. Có lẽ ông muốn nói: “Con gái yêu, con tỉnh lại đi, con gái yêu, cha đang chờ con ăn đậu hũ cha mới làm ra đây!”.

 Trong thời gian ấy, để có đủ tiền trả viện phí, ông đã đi khắp các thôn làng mà ông từng tới bán đậu hũ, và bằng sự trung hậu và lương thiện của nửa cuộc đời, ông đã nhận được sự ủng hộ đủ để con gái ông bước qua ranh giới sinh tử. Bà con cùng nhau góp tiền và ông vẫn đều đặn ghi vào cuốn sổ tay với nét chữ xiêu vẹo, chân thật: anh Trương Tam 20 đồng, Lý Cương 100 đồng, thím Vương 65 đồng…

 Sau nửa tháng trời ròng rã, cuối cùng tôi cũng mở mắt. Tôi thấy trước mắt mình là một màu trắng như Thiên Đường, ngoảnh sang trái, tôi nhìn thấy một ông già gầy yếu với cái đầu bạc trắng. Ông nhìn thấy tôi tỉnh lại mà vui mừng đến a…a… gọi to lên, mái tóc bạc phút chốc bị những giọt mồ hôi xúc động thấm đẫm. Cha, người cha mà nửa tháng trước đây tóc vẫn còn xanh, nay như già thêm 20 tuổi.

 Cái đầu bị cạo trọc của tôi dần dần mọc tóc, cha vuốt ve đầu tôi và mỉm cười dịu dàng hiền từ. Đợi đến nửa năm sau, khi mái tóc đã có thể tết thành lọn, tôi nắm tay cha, ra hiệu bảo ông chải đầu cho mình. Cha trở nên vụng về vô cùng, ông chải từng lọn tóc, suốt cả buổi cũng không tết tóc được hình dáng mà ông hài lòng. Rồi cha đẩy xe đưa tôi ra ngoài hành lang hít thở khí trời, gặp ai tôi cũng khoe hai lọn tóc được chính tay cha bện. Những ngày ấy tôi giống như đứa trẻ đang cố hàn gắn lại một “khoảng trời đã mất” cho cha…

 Chúng tôi cùng nhau cố gắng trả hết nợ, cha cũng chuyển vào thành phố sống với tôi, có điều ông không muốn ngồi rảnh rang cả ngày. Và để giúp cha thoả niềm vui lao động như xưa, tôi thuê cho ông một gian nhà nhỏ làm đậu hũ ở gần đó. Đậu hũ mà cha làm rất thơm rất mềm, miếng lại to nên mọi người đều rất thích ăn. Tôi lắp trên xe đậu hũ của ông một cái loa bằng điện, mặc dù cha không nghe thấy âm thanh rao bán lanh lảnh của tôi, nhưng ông hiểu được ý nghĩa của nó. Và mỗi khi ấn tay vào cái nút phát trên loa, ông sẽ ngẩng đầu lên, niềm hạnh phúc và mãn nguyện lại tràn ngập trên gương mặt ông.

 Tôi thường nghĩ cuộc sống giống như một bản giao hưởng tràn ngập tình yêu. Nếu chúng ta chú ý lắng nghe, cảm thụ sẽ hiểu được sức lay động tới tận tâm can. Tuy nhiên người cha câm đã giúp tôi hiểu được rằng thứ âm nhạc đích thực vĩ đại nhất là thứ âm thanh không lời. Nó có một sức mạnh vô cùng to lớn, mang tình yêu vô bờ bến của cha dành cho tôi vút cao lên tận trời xanh. Hãy dành lời chúc phúc tốt đẹp nhất cho những ông bố của chúng ta, cầu mong họ luôn khỏe mạnh bình an với tình yêu vô biên dành cho con cái.

 Cha mẹ chính là những người yêu thương bạn hơn hết thảy ai trong cuộc đời này. Tình yêu của họ là một thứ tình cảm vị tha, vô tư lợi và xuất phát từ lòng từ bi thực sự. Dù một đời lấm lem bùn đất, nhễ nhại mồ hôi, bạn hãy nhớ rằng cha mẹ luôn là thiên sứ đẹp nhất trong lòng ta dù đôi lúc trên gương mặt thiên sứ ấy có hằn cứa những dấu vết thời gian khắc khổ.

 Người Việt có một câu ca dao đã đi vào tâm thức bao thế hệ: “Công cha như núi Thái Sơn/ Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra“. Ơn nghĩa ấy, một đời làm con nào có thể quên? Nhưng cha mẹ nào có ăn đời ở kiếp với con? Một sớm mai, nhìn trong gương thấy tóc cha mẹ đã điểm bạc, con bỗng thấy ngày tháng cuộc đời này sao mà mong manh, hư ảo. Nhận ơn một giọt, báo ơn một dòng, lòng con như thắt lại khi biết dẫu có dành cả kiếp này trả nợ, đền ơn cũng không thể bù đắp cho cha mẹ. Quả thực là:

 “Phụ hề sinh ngã

Mẫu hề cúc ngã

Ai ai phụ mẫu

Sinh ngã cù lao”

 Tạm dịch: Cha sinh ta, mẹ bồng bế ta. Cha mẹ nuôi ta vất vả, xót xa tấm lòng

 Với mỗi người gặp gỡ trong đời, hãy thực lòng trân trọng họ, hãy trao đi yêu thương và thiện lành, hãy đối xử chân thành và ấm áp. Một khi hai mắt kia khép lại, cõi hồng trần cuồn cuộn này chỉ còn là giấc mơ hư ảo. Khi ấy, dẫu có muốn yêu thương một ai, liệu ta còn có thể chăng?

 Đăng Dũng    

Đừng Bao Giờ… Trần Dzũng Minh Dân-Truyen ngan

 Trần Dzũng Minh Dân

Tôi ngồi ẩn mình dưới tàng cây rậm rạp sau sân chùa, tránh cái nắng oi ả của mùa hè. Hôm nay ngày thường, mọi người đi làm cả, cảnh chùa im lặng một cách trang nghiêm. Nhân tiện có công việc đi ngang qua chùa, tôi tạt vào viếng cốt và thắp cho ông bác một nén hương để tưởng nhớ đến bác mình. Tôi thường thích ngồi một mình yên lặng như thế, đầu óc như thể hồi mới sinh, mắt thấy cảnh, cảm nhận được hình ảnh nhưng chưa biết nói, trong đầu chưa có những biểu tượng tạo thành ý nghĩ hay tư tưởng! Những lúc như thế, tôi thấy tâm hồn có phần nào an lạc bình yên hơn.

Ngồi lơ đãng như vậy một lúc lâu, tôi chợt thấy bóng người đang lui cui dọn dẹp phía hông mé nhà kho. Để ý kỹ, tôi nhận ra đó là người đàn ông khoảng lứa tuổi ngoài 30 mà tôi thỉnh thoảng vẫn gặp làm công quả cho chùa. Mồ hôi người đàn ông đổ nhễ nhại dưới cái nóng bức của mùa hè, nhưng anh ta vẫn lẳng lặng làm không tỏ vẻ một chút nào khó chịu cả. Tôi ngồi nhìn anh ta làm việc, lòng thầm cảm phục.

Người đàn ông bất chợt nhìn thấy tôi. Anh ta cười, vẫy tay chào.

Tôi nói lớn:

– Nghỉ tay, uống miếng nước đã!

Người đàn ông khựng lại, ngẫm nghĩ, cúi xuống xách chai nước suối dưới đất rồi đi lại phía tôi ngồi.

Tôi đứng lên, bắt tay tự giới thiệu tên mình.

– Chào anh, tôi là Minh.

– Dạ, tôi tên Hiếu.

– Hôm nay anh không phải đi làm à?

Tôi ngắm Hiếu trong khi chờ đợi câu trả lời. Tuy với làn da hơi rám nắng, cùng với một mái tóc cắt ngắn, Hiếu có một khuôn mặt sáng sủa dù ẩn hiện nhiều nét suy tư. Đôi bàn tay gầy gầy thanh nhã chứng tỏ không phải làm việc lao động nhiều.

– Thưa anh không. Tôi nghỉ thứ Ba, không làm việc. Còn anh, sao hôm nay không đi làm à?

– Tôi có vài công việc riêng cần phải làm nên lấy ngày nghỉ hôm nay. Xong việc, đi ngang chùa nên ghé vào đây thăm cốt ông bác. Tôi thỉnh thoảng đi chùa vẫn thấy anh. Anh chắc thường làm công quả ở đây đã lâu?

– Dạ, cũng được vài năm, thưa anh. Sắp tới lễ Vu Lan rồi, tôi soạn lại nhà kho lấy những vật dụng cần thiết, để sẵn đó cho họ. Mỗi người một tay.

– Ừ nhỉ. Anh không nhắc thì tôi cũng quên khuấy đi mất, rằm tháng 7 sắp tới rồi! Trông anh còn trẻ, chắc còn bà cụ?

Hiếu chợt khựng lại, giọng nhỏ đi.

– Thưa anh không. Mẹ tôi mất cách đây được vài năm.

– Tôi xin lỗi.

– Dạ, không hề chi.

Tôi ngẫm nghĩ, miệng nói thầm “Hiếu, Hiếu …”. Tôi đã có nghe ai đó nói tới cái tên này, và đang cố nhớ là đã nghe ở đâu.

– A! Tôi có nghe mẹ tôi thỉnh thoảng nói ở chùa có một anh bác sĩ trẻ hay đến làm công quả, cho chùa tiền và chữa bệnh cho người đồng hương lấy tiền rất rẻ, gặp người nghèo thì chữa miễn phí, không biết có phải là anh không?

Hiếu cười ngượng ngập.

– Dạ, bà cụ anh nói quá lời. Tôi chỉ làm những gì khả năng cho phép.

Tôi tiếp lời:

– Mẹ tôi và mọi người ở đây quý mến anh lắm. Được một người trẻ công danh thành toại trong cộng đồng cũng là điều quý rồi, huống hồ thay vì hưởng thụ, vinh thân phì gia, anh còn nghĩ đến cộng đồng, giúp đỡ cộng đồng thì quá tốt. Tôi nói điều này bằng cả thực lòng, chẳng phải nói cho anh vui.

– Dạ, cám ơn anh. Tôi cũng chỉ xin đóng góp phần nào mà thôi. Một mình tôi thì cũng chẳng làm gì được nhiều nếu không có những sự tiếp tay và góp sức của những người khác. Người cho $100, người cho $5 đồng, $10 đồng … người làm trong nhà bếp, người chăm lo vườn, người lo giấy tờ thủ tục hành chánh v.v… một người thì chắc chắn không thể nào làm xuể được từng ấy công việc.

Tôi đổi đề tài đối thoại, để cho Hiếu được thoải mái, hỏi về những khóa tu thiền sắp tới do chùa tổ chức, những lớp học tiếng Việt v.v…

Ngồi nói chuyện được một lát, Hiếu xin phép quay trở lại làm tiếp công việc dang dở, tôi bảo để tôi phụ một tay khuân dọn cho nhanh chóng, thêm phần có hai người vừa làm vừa nói chuyện đỡ nhàm chán hơn. Hiếu vui vẻ cám ơn tôi.

Công việc xong thì cũng khoảng 5 giờ chiều. Tôi từ giã Hiếu và hẹn gặp lại trong ngày Vu Lan.
o0o

Khi tôi chở mẹ tôi tới thì chùa cũng đã có khá đông người. Một cô bé nhỏ tuổi mà tôi thường thấy trong gia đình Phật Tử của chùa chạy lại, chẳng cả hỏi, cài trên ngực áo tôi một bông đỏ rồi nhoẻn một nụ cười thật dễ thương chúc tôi may mắn còn mẹ.  Tôi mỉm cười sung sướng.

Mẹ tôi dặn dò tôi vài điều như sẽ về lúc mấy giờ, nếu muốn kiếm mẹ tôi thì có thể kiếm bà ở đâu… rồi vội vã đi về hướng nhà bếp để tiếp tay với những người bạn trong Ban Hộ Niệm của bà trong đó.

Tôi đảo mắt nhìn xung quanh, có những người mang đóa hoa đỏ cài trước ngực và có những người cài đóa hoa trắng, những người mà thân mẫu đã qua đời. Tôi chợt nhớ đến Hiếu, nhớ đến người bác sĩ trẻ hay làm công quả cho chùa. Tôi định bụng sẽ để ý kiếm Hiếu. Tôi đi vội về phía khán đài để giúp ban tổ chức văn nghệ khuân ghế ra cho khán giả ngồi và sắp đặt chương trình.

Không khí nhà chùa hôm nay đâu đâu cũng nhộn nhịp, mọi người cười nói vui vẻ. Tiếng thầy trụ trì đang sang sảng thuyết pháp vọng lại từ chính điện. Các em nhỏ trong ban vũ tíu tít gọi nhau để chuẩn bị cho chương trình văn nghệ. Những tà áo dài đủ mầu sắc thỉnh thoảng có dịp gì đó trong năm mới được mang ra mặc. Mọi người rạng rỡ trong ngày báo hiếu.

Khi trời trở chiều, tôi kiếm mẹ tôi, chở bà về lo nấu nướng để cúng bái ở nhà. Tôi vẫn chưa thấy Hiếu. Tôi chợt nhớ là người hẹn gặp nhau ở chùa là tôi và Hiếu chỉ cười, không nói.

************

Sau ngày Vu Lan tôi gặp Hiếu đôi lần ở chùa, những lúc như thế, chúng tôi thường thảo luận về các kinh điển nhà Phật. Hiếu có một trí nhớ rất dai, thuộc làu làu những câu kinh hoặc đoạn kinh. Tôi vốn thuộc loại “dài lưng tốn vải, ăn no lại nằm”, thuộc loại ưa ngủ chứ chẳng phải tướng học trò gì cả, chẳng nhớ gì nhiều. Nhưng có điều khi nghe Hiếu đọc các câu kinh, tôi hiểu thế nào nói ra như vậy khiến nhiều lúc Hiếu kinh ngạc và thường khen tôi là người có căn cơ, chắc những kiếp trước có tu tập gì rồi. Chúng tôi lại tưởng tượng ra những kiếp trước ra sao để trêu chọc nhau và ngày càng trở nên thân nhau hơn. Thú thật tới lúc đó, tôi cũng chẳng biết gì nhiều về bản thân cũng như gia đình của Hiếu. Tính tôi vốn không tò mò, ai thích kể cho mình nghe thì kể, tôi không hỏi và cũng không lấy đó làm điều quan tâm. Cho đến một hôm…

– Chiều thứ Bẩy này ông có rảnh không?

Ngẫm nghĩ một chốc, tôi trả lời Hiếu:

– Rảnh. Có chuyện gì không?

– Tôi định mời ông đến nhà ăn giỗ bà cụ.

– Ừ, nhưng ông phải chỉ đường cho tôi hay cho tôi địa chỉ. Ông định mấy giờ?

– Khoảng 7 giờ chiều được không? Sáng tôi còn ở phòng mạch. Để tôi vẽ đường đến cho ông sau.

– Ừ, cứ định như vậy đi.

Chiều thứ Bẩy tôi đến nhà Hiếu, một căn nhà nhỏ tọa lạc trong một khu vực yên lặng, hơi xa thành phố. Khi tôi tới, Hiếu đã cúng bái xong rồi, đang ngồi chờ tôi. Tôi đến bàn thờ, thắp nén nhang tỏ lòng tôn kính người quá cố. Nhìn di ảnh, mẹ của Hiếu là một người đàn bà khắc khổ, trông có vẻ lam lũ dù tấm ảnh chụp lúc còn khá trẻ. Duy chỉ có cặp mắt, cặp mắt thật buồn, cặp mắt của một người chịu đựng và hy sinh. Kế bên di ảnh là một bức ảnh của một người đàn ông mặc quân phục, da sạm nắng mà tôi đoán là cha của Hiếu. Điểm làm tôi ngạc nhiên, tôi là người khách duy nhất mà Hiếu mời! Không một người nào khác, ngoài tôi và Hiếu! Ngoài hai bức di ảnh trên bàn thờ, trong nhà không treo một tấm hình nào khác. Đồ đạc bầy biện rất đơn sơ nhưng gọn gàng và sạch sẽ. Nhìn qua, ai cũng có thể đoán được phần nào tâm lý của người chủ nhà.

Trong bữa ăn, Hiếu vui vẻ cười nói huyên thuyên nhiều hơn bình thường. Không biết có phải vì chút rượu vang hay đã lâu trong bữa ăn mới có người cho Hiếu nói chuyện, hoặc vì một lý do nào đó mà Hiếu cố che dấu để quên đi?

Dùng cơm xong, chúng tôi ra phòng khách ngồi uống cà phê, nói chuyện. Lúc này Hiếu lại trở nên ít nói, có vẻ trầm ngâm tư lự, thành thử tôi cứ phải khơi chuyện.

– Ông ở một mình, sao không lấy vợ cho có không khí gia đình? Tôi đi làm về còn có cha mẹ, anh em, ông định ở như vầy đến bao giờ? Vả lại, cỡ người như ông đâu phải là khó lấy vợ!

Hiếu im lặng một hồi lâu rồi trả lời:

– Tôi cũng đã từng lập gia đình rồi.

Tôi nhìn Hiếu không nói. Hiếu tiếp tục kể:

– Tôi lấy vợ cách đây ba năm, ăn ở với nhau được gần một năm thì chúng tôi xa nhau. Chẳng phải lỗi tại Thy, lỗi tại tôi thì đúng hơn. Dầu sao đi nữa thì chúng tôi cũng đã ly dị.

*******

Như có dịp để tâm sự, Hiếu miên man kể cho tôi nghe.

– Bố của tôi là một sĩ quan Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Ông thuộc đơn vị tác chiến nên nay đây mai đó, vì vậy ông không muốn mẹ tôi theo. Khi tôi ra đời, lớn lên trong tình thương của mẹ, ít khi thấy mặt cha. Gia đình bên nội cũng như bên ngoại, tôi đều không biết vì bố mẹ tôi thương nhau không có sự đồng ý của cả hai gia đình vốn ghét nhau từ lâu. Mẹ tôi bị gia đình mình từ và gia đình bố tôi không nhận, nhưng vì thương yêu nhau nên bố mẹ tôi bất chấp tất cả để được gần nhau.

Lấy nhau một thời gian ngắn thì bố tôi nhập ngũ, mẹ tôi bắt đầu cuộc sống xa chồng, một thân một mình và có mang tôi. Không nói thì ông cũng có thể tưởng tượng được lúc đó mẹ tôi khổ sở đến thế nào. Bên nội, bên ngoại ngoảnh mặt nhất định không chịu nhìn. Chỉ tội bà ngoại tôi, thương con nhưng sợ chồng, lâu lâu lén lút gặp mẹ tôi và dấm dúi cho ít tiền. Mẹ tôi phải buôn thúng bán bưng để tự nuôi thân và chờ ngày sinh con.

Ngày tôi ra đời, tôi là nguồn sống của bà. Tôi lớn lên trong sự hy sinh cơ cực của mẹ tôi, nhưng ngày đó tôi còn quá nhỏ để nhận thức được sự hy sinh của mẹ mình. Tôi không biết  phải diễn tả thế nào để nói lên được sự vui sướng của mẹ tôi mỗi khi bố tôi về phép, không còn gì sung sướng hơn cho người đàn bà khi thấy chồng mình, con mình và mình được quây quần chung một nhà. Đôi khi mẹ tôi đi xe đò, mang tôi lên đơn vị thăm chồng. Bố tôi vừa mừng vì được gặp vợ con, vừa lo vì đường xá xa xôi, mất an ninh.

Sau khi Cộng Sản chiếm Miền Nam, bố tôi bị chúng bắt đi cải tạo hay đi tù thì đúng hơn! Họ chuyển bố tôi ra Bắc. Mẹ tôi lặn lội ra ngoài đó thăm chồng nhưng họ cho biết bố tôi đã bị bệnh chết! Một người đồng tù đã lén cho mẹ tôi biết là bố tôi đã bị hành hạ đến chết và cho mẹ tôi biết ngày bố tôi bị giết!

Trở vào Nam, đau đớn vì bố tôi bị giết, mẹ tôi lại phải chứng kiến cảnh tôi bị ngược đãi ở trường học vì có cha là lính ngụy. Mẹ tôi tìm cách vượt biên vì tương lai của tôi. Tôi vốn hiếu học lại có trí nhớ dai. Sau khi bán hết tất cả đồ đạc, tom góp được một khoản tiền, mẹ tôi đưa tôi xuống Rạch Giá để tìm đường đi.

Dừng lại, Hiếu nuốt nước bọt một cách khó khăn rồi kể tiếp:

– Trời cũng thương nên chuyến đầu đi lọt dù trải bao gian nan trên biển cả. Nếu không lọt thì cũng chẳng bao giờ còn tiền để đi những chuyến sau. Cuối cùng mẹ tôi và tôi đến Mã Lai. Không một nước nào nhận, nước sau cùng là Mỹ, họ nhận mẹ con tôi, một họ đạo Tin Lành bảo trợ cho vào Mỹ.

Đến Mỹ, không có nghề chuyên môn, tiếng Anh lại không biết, mẹ tôi vào làm phụ bếp trong một nhà hàng. Ai sai gì làm đó, một tuần bẩy ngày. Tối về mẹ tôi lại gò lưng may, ráp những tay áo, lấy tiền theo từng cái. Còn tôi chẳng phải lo lắng gì ngoài việc ăn học. Tôi học dễ dàng, từ trung học lên đại học rồi thi vào trường thuốc, ra trường và đi thực tập. Trong thời gian thực tập, tôi gặp Thy cũng thực tập cùng một nhà thương. Chúng tôi quen nhau và tình cảm nẩy sinh.

Cha mẹ của Thy cũng là bác sĩ từ Việt Nam, qua đây thi lại, thực tập lại rồi ra hành nghề. Nói chung gia đình Thy thuộc giai cấp trưởng giả. Họ biết cách ăn nói, xã giao rất lịch thiệp. Gia đình Thy rất quý mến tôi, mọi người ai cũng mong chúng tôi thành vợ thành chồng cả. Đời tôi thật sung sướng. Năm cuối thực tập, chúng tôi quyết định lấy nhau. Tôi đưa mẹ tôi đến nhà bố mẹ Thy dùng cơm tối để nói chuyện chung thân cho hai đứa tôi. Trong bữa cơm với gia đình Thy …

Giọng Hiếu trở nên khó khăn, ngập ngừng.

– Tôi chợt nhận thấy sự quê mùa của mẹ tôi khi ngồi chung bàn với gia đình Thy. Từ cái tóc, cách ăn mặc, lối ăn uống… Khi bố mẹ Thy nói chuyện, hỏi mẹ tôi những chuyện thông thường, mặt mẹ tôi ngớ ra, trắng bệch, giọng nói trở nên run rẩy, sợ hãi… Tôi… Hiếu nói nhỏ nhỏ, giọng run run trong cuống họng.

– Tôi… lúc đó cảm thấy xấu hổ. Tôi xấu hổ vì sự quê mùa, thiếu kiến thức của mẹ mình khi so sánh với người khác. Tôi trở nên tức giận mẹ tôi và có nhiều cử chỉ hỗn láo với mẹ trong suốt bữa ăn! Mẹ tôi im lặng, lúc về nhà bà luôn miệng xin lỗi tôi, đã làm tôi mất thể diện.

Đám cưới chúng tôi diễn tiến như dự định. Tôi càng tức tối trong ngày cưới khi thấy sự quê kệch, luống cuống của mẹ mình. Khách toàn là khách sang trọng. Lúc đó, tôi giận mẹ tôi vô cùng, tại sao những việc đơn giản như thế mà cũng không biết. Tôi gay gắt với mẹ tôi đến nỗi có lúc mẹ tôi vừa run vừa chẩy nước mắt vì sợ không vừa ý tôi!

Mẹ tôi về ở với vợ chồng chúng tôi. Thy có nhiều lúc khiếm nhã với mẹ của tôi, những lúc đó tôi lại tức tối mẹ tôi, tại sao những chuyện như vậy mà cũng không biết để người khác coi thường. Mẹ tôi trở nên sợ hãi, bà cố tránh chúng tôi, cả ngày bà trốn trong phòng. Chỉ những lúc ăn cơm bà mới phải ra, ăn vội ăn vàng rồi lại vào phòng. Mà đồ ăn nào vừa ý bà! Mẹ tôi ăn không có cơm đâu được! Đồ ăn thường là đồ kho, đồ xào. Thy lớn từ bé ở đây, lại thích ăn như người Mỹ. Tôi thì sao cũng được nhưng lúc đó tôi lại muốn tập cho mẹ tôi thay đổi! Chúng tôi đã bắt mẹ tôi nghỉ làm trước khi lấy nhau. Không lẽ cả hai vợ chồng là bác sĩ mà mẹ thì làm phụ bếp!

Ở như vậy được vài tháng thì mẹ tôi bỏ đi. Bà đi vì sợ vì bà, vì sự quê kệch của bà mà vợ chồng tôi sẽ mất hạnh phúc. Tôi không hiểu lúc đó tôi là con người hay là con vật! Tôi không mảy may quan tâm. Tôi nghĩ mẹ tôi đã từng tự lập từ hồi trẻ đến giờ, không có tôi mẹ tôi cũng không sao, nhất là mẹ tôi nói mẹ tôi dọn về ở với một người bạn. Thy cũng vậy. Chẳng trách Thy được. Tôi là con mà đối xử với mẹ mình như vậy, trách sao được người con dâu! Tôi có hỗn láo với mẹ tôi thì Thy mới dám coi thường mẹ tôi chứ! Mấy tháng sau…

Giọng Hiếu trở nên run rẩy, cố kìm hãm sự xúc động. Mắt ngấn lệ ngước lên nhìn hình mẹ.

– Mấy tháng sau, một nhân viên cảnh sát đến gõ cửa báo cho tôi biết mẹ tôi đã qua đời. Như tiếng sét đánh ngang tai, tôi không tin! Tôi vội vã chạy đến nhà xác. Xác mẹ tôi nằm đó, những nét nhăn hằn trên trán, những sự khổ cực hy sinh của mẹ tôi mà tôi cho là dấu tích của sự quê mùa. Tôi đã lầm …

Hiếu nức nở khóc.

– Làm sao mẹ tôi có thể sống thiếu tôi! Tôi là nguồn sống của bà mà! Tất cả sinh lực, ý chí phấn đấu trước kia là vì tương lai của tôi, là vì tôi! Không có tôi bên cạnh, không có đứa con trai thương yêu của bà bên cạnh, bà chẳng còn thiết gì! Tinh thần bà suy sụp, thể xác khô kiệt. Mẹ tôi lại sống một mình, chẳng phải với người quen như tôi tưởng. Trong khi đó vợ chồng tôi mải mê làm việc, lo làm giầu!

Tội này tôi làm sao rửa hết được! Tại sao tôi không nghĩ những lúc mẹ tôi khổ cực ở xó bếp để tôi được ăn miếng ngon, đến trường mặc những bộ quần áo mới! Tại sao tôi không nghĩ mẹ tôi còng lưng may những buổi tối để tôi có cái xe, thay vì bà ngồi đọc sách báo để tăng kiến thức như tôi mong muốn, cho tôi khỏi xấu hổ. Mẹ tôi chịu ngu dốt để cho tôi khôn, mẹ tôi quê mùa để tôi được thanh lịch mà tôi lại coi thường, khinh chê mẹ tôi! Sau khi chôn cất mẹ tôi. Tôi và Thy ly dị nhau chẳng bao lâu sau đó vì thấy Thy tôi lại nghĩ đến mẹ tôi.

Tôi dọn về tiểu bang này để khỏi phải thấy những cảnh quen cũ. Ông thấy đó, ngày lễ Vu Lan tôi không dám lên chùa vì sợ thấy cảnh hiếu thảo của người con đối với mẹ của họ, sợ thấy cảnh những người còn các bậc từ mẫu. Tôi làm công quả hy vọng hương hồn mẹ tôi vui lòng, những công việc mà bà rất muốn làm nhưng đã không làm được vì dành hết thời giờ cho tôi. Tôi bố thí, cúng dường với tâm ý hồi hướng công đức cho mẹ tôi dù biết rằng nên hồi hướng công đức cho tất cả chúng sinh. Công ơn mẹ tôi sâu dầy, lúc sống tôi đã không trả được, ít ra cũng làm nguôi ngoai phần nào hương hồn người khi đã mất.

Hiếu nhìn ảnh mẹ mình, nước mắt dàn dụa, miệng lẩm bẩm:

– Mẹ ơi, tội này con làm sao rửa hết được.

Tôi ngồi chẩy nước mắt nhìn Hiếu. Một tâm hồn đau khổ, đang quằn quại trước mặt tôi. Hiếu tiễn tôi ra cửa, miệng nói khe khẽ:

– Đừng bao giờ để hối hận như tôi ông nhé. Phúc thay cho những kẻ còn mẹ!

Tôi không trả lời, nắm tay Hiếu bóp mạnh.

Trần Dzũng Minh Dân

From: Tu-Phung