LÁ THƯ CUỐI CÙNG- Du Tử – Truyen ngan

 Du Tử

Truyen ngan

(Kính tặng đến những bậc Cha Mẹ bất hạnh)

Tôi đến Mỹ như đã nói là rất muộn màng so với nhiều đồng đội, và những người bạn thân tình thủa nào cũng đã tản lạc mỗi đứa một nơi, và ở đây , trong vòng 50 dặm vuông hay vài trăm dặm dài, tôi cô đơn không bè bạn. Mỗi ngày, ngoài việc nhổ cỏ vườn sau, nhặt lá vườn trước, đưa đón bốn cô cháu đi học, tôi chỉ còn biết đi bộ, nhìn đồi núi nối tiếp nhau trên thành phố này để mơ mộng về núi rừng quê tôi, nơi mà hàng chục năm tôi và đồng đội chung sống, có khi gian nan, mà cũng có lúc thật thơ mộng. Và rồi trong một trường hợp ngẩu nhiên, tôi đã gặp được bác Thụy, một người Việt Nam cô độc, cũng lạc lỏng đến nơi này như tôi.

Cũng là một thói quen như nơi tôi đã từng sống, hễ gặp được người nào mà tôi đoán là dân nước tôi, thì tôi không ngại ngùng đến làm quen, và câu hỏi đầu tiên của tôi thường là ” Ông nói được tiếng Việt nam không? ” Nếu người đó trả lời họ là người Việt thì tôi nhất định rất vui mà hỏi chuyện. Tôi quen bác Thụy cũng trong trường hợp tương tự. Từ lần gặp đó, tôi hay tìm tới bác vào mỗi cuối tuần hoặc là những khi bác gọi tôi đến , và lúc nào bác cũng mở đầu bằng câu ”chúng nó đi cả rồi “, ý của bác là các con đã đi làm hết .

Tình thân của chúng tôi từ đó ngày càng thân thiết hơn, bác kể cho tôi 12 năm trong quân đội, phục vụ cho một đơn vị Quân báo, hoạt động trên lảnh thổ Quân Đoàn I, bị thương nhiều lần, nhưng lần nào cũng may mắn qua khỏi. Bác đến Mỹ không thuộc diện HO, vì thời gian bác được thả, Phòng công tác nước ngoài thuộc công an Thành phố Hồ Chí Minh ở 161 Nguyễn Du, Quận I, còn đóng cửa, nên bác vượt biên, bị bắt cho đến khi chương trình HO được thực hiện, bác vẫn còn ở trong tù, do vậy bác đến Mỹ theo chương trình Đoàn Tụ, con gái bảo lảnh hai vợ chồng nên không được hưởng một trợ cấp nào của Chính phủ Mỹ như diện HO, tất cả đều do thân nhân bao bọc.

Thời gian ở lại Việt Nam, bác đi dạy học, cũng như trước khi động viên bác là một Giáo sư dạy Vật Lý tên tuổi tại Sài Gòn, lương giáo viên tuy không khá, nhưng cũng đủ cho hai vợ chồng bác sống tạm qua ngày, nhất là bác được các trung tâm chuyên Lý mời cộng tác, nên dạy cả sáng, chiều và tối , Vã lại mỗi năm, các con bác gởi cho một vài trăm đô la vào dịp Tết, hai vợ chồng lại dành dụm mua một chỉ hay 5 phân vàng hầu dùng cho việc ma chay sau này, cho đến năm 2003, con gái bác viết thư báo tin cho biết là đã làm hồ sơ bảo lảnh cho ba má , bác cũng chẳng hy vọng gì, vì thời gian đợi chờ dường như đã quá mòn mỏi, vã chăng tuổi đã cao, đi đâu cũng chỉ kiếm hai bữa cơm mà thôi, nên gần như vợ chồng bác không nghĩ tới chuyện ra đi, cho đến năm 2006, bác được gọi bổ túc hồ sơ, rồi cuối năm đó, bác được phỏng vấn, theo bác kể thì có lẽ vì lợi tức của con gái bác cao, nên họ cho đi nhanh và rồi đầu tháng 4 năm 2007 bác được sang Mỹ theo diện đoàn tụ gia đình, nhưng tính cho đến nay, bác vẫn chưa hội đủ điều kiện thi nhập Quốc tịch Hoa Kỳ .

***

Thời gian đầu sống với con cái vui vẻ lắm, vì còn mới, tình cảm còn mới, mọi thứ còn mới và còn mới là còn vui vẻ, rồi từ từ bác được một người quen giới thiệu đi làm assembler cho một hảng điện tử, lương $10/ giờ, hai vợ chồng già thật là hạnh phúc, cứ cuối tuần là hai ông bà rủ nhau đi WaltMart hay Target mua áo quần và đồ chơi cho các cháu, nhưng rồi kinh tế ngày càng suy thoái, sau gần hai năm làm assembler, bác mất việc làm, không có cách nào xin được việc khác, vã chăng, những người trẻ còn chưa xin ra việc làm thì ông già 63 tuổi như bác dễ gì tìm được việc, nên bác đành xin tiền thất nghiệp, và được hưởng thất nghiệp hai năm, khoảng thời gian này bác cho biết rất là buồn, suốt ngày vợ chồng cứ mong cho hai đứa cháu đi học về để chơi với cháu cho đỡ buồn, rồi thì cứ vườn sau sân trước, vợ chồng thi nhau nhặt cỏ, tưới cây, hay lên đồi lượm những viên đá hình dáng đẹp đem về lót quanh mấy bụi hồng cho hết thời gian. Bác cũng năng nổ đi tham gia sinh hoạt các hội đoàn, như hội người già, Hội SQ/TBTD, nhưng rồi tiền trợ cấp thất nghiệp hết, và khó khăn đến với bác bây giờ là tiền đổ xăng, bác không biết xin ai hai chục bạc để mua xăng, bác nói, một đôi khi bổng dưng nghe thèm một tô phở, nhưng cũng không cách nào có được, “Ông ạ, có đêm tôi không ngủ được chỉ vì nghĩ tới mùi ngò gai và rau quế bỏ vào tô phở mà chảy nước miếng hoài không ngủ nổi, thèm như là thèm được ăn đường lúc ở trong trại tù.

Tình cảm con người hình như rất mỏng manh, không phải bền chắc, và rất dễ gãy đổ, từ tình vợ chồng, cha con hay anh em, và nghèo đói là mối đe dọa nghiêm trọng nhất đối với tình cảm. Cổ nhân cũng đã từng nói “phú quí sinh lễ nghĩa, bần cùng sinh đạo tặc“, cái gì người ta bảo “tiền tài như phấn thổ, nghĩa trọng như thiên kim” có chăng, chỉ là trong đạo đức kinh hay sách vở của Thánh hiền mà thôi. *Không có tiền, nguyên lý nào cũng bị bỏ quên, đạo đức nào cũng dư thừa, và tình cảm nào cũng mai một.

* Đặc biệt là ở một xã hội mà mọi nền tảng đều lấy lợi nhuận làm chuẩn.

*Con cái ở nhà cha mẹ thì hạnh phúc, cha mẹ ở nhà con cái thì nhẫn nhục và hy sinh. Con cái ở chung với cha mẹ là tự nhiên, nhưng cha mẹ ở chung với con cái lại ưu phiền, vì lúc nào cũng phải nhìn mặt mủi con cái, phải xem chừng nó vui buồn bất chợt ra sao.

* Muốn mở cái TV cũng phải lựa lúc nó vui vẻ, muốn mở cái CD nghe nhạc cũng tùy thời cơ nó buồn hay giận, lại còn phải coi sóc con cái cho chúng, nhỏ thì cho đi tiêu đi tiểu, rửa đít, cho ăn, tắm giặt. Lớn thì đưa đón tới trường, có khi còn bị chưởi mắng, đành chỉ biết cúi mặt dấu nước mắt đi. Họa hiếm lắm, chúng cho vài ba trăm bạc vào dịp lễ nào đó thì lại coi như phúc ấm chúng ban cho . Con cái ở nhà cha mẹ thì hạnh phúc, *cha mẹ ở nhà con cái thì nhẫn nhục*, chính là chổ này. Một buổi sáng bác gọi tôi tới nhà, chỉ cho tôi một tờ giấy con gái bác viết để lại trên bàn cho bác, tôi cầm lên đọc : “Theo luật bên nầy, chủ nhà có quyền gọi cảnh sát đến bắt buộc người thuê phải ra đi, nếu người chủ đã thông báo cho người thuê hai lần bằng thư. Ba không trả tiền nhà, nhưng con cũng coi ba như người thuê nhà, đây là lần thứ hai con yêu cầu ba dọn ra, ba đừng ép con phải gọi cảnh sát”.

Tôi đọc đến đây, bổng nhiên nước mắt tôi trào ra, bác nhìn tôi và nấc lên thành tiếng, bác cũng bật khóc. Tôi ôm hai vai bác và nói “Hãy yên tâm, không có luật như vậy đâu, nếu cô ấy gọi cảnh sát, bác có thể nói cô ấy ngược đãi người già, con bác chỉ hù bác thôi”. Và rồi bác bắt đầu kể cho tôi nghe hết tự sự.

Thoạt đầu là gạo, chúng nó than phiền, “nhà người ta một năm chỉ tốn hai bao gạo thôi, sao nhà mình mỗi tháng một bao”, Tôi mở cassette ngồi ngoài garage nghe nhạc, ngoài garage thì nóng, tôi mở cửa bên hong ra cho bớt nóng, nó đóng lại, và bảo mở cửa chuột chạy vào nhà. Tôi hiểu ý là nó sợ tốn điện, tôi tắt cassette vào nhà.

Ông cũng biết, ở bên này, người già chỉ lấy cái TV làm bạn, nhưng nó mắng vào mặt tôi và bảo không biết xài thì đừng xài, TV cứ mở hoài chịu sao nổi, thế nào cũng có ngày TV bị cháy.

Mỗi ngày, chúng nó đi làm về trễ, có khi 7:30 hay 8:00 tối mới về đến nhà , và tôi đều cố gắng ăn trước để không chạm mặt chúng nó trong bữa ăn, ăn trước thì thú thật chỉ ăn sơ sài cho no bụng thôi, thức ăn của chúng tôi không dám đụng vào, vợ tôi thì chờ cho chúng ăn hết đã, cái gì còn lại bà ấy mới ăn, chúng tôi chỉ dám ăn những thức ăn thừa thải mà thôi. Công việc lặt vặt trong nhà như lau dọn, rửa chén bát, đưa đón các cháu, chúng tôi đều làm hết, nhưng nó bảo với tôi là tội nghiệp thằng chồng nó phải còng lưng gánh hai ông bà già. Những ngày nghỉ, hay cuối tuần, vợ chồng con cái chúng đi ăn tiệm, những năm đầu khi cháu út chưa thể gởi đến trường, thì chúng còn gọi vợ tôi đi ăn với chúng, những ngày lễ Tết cũng tặng quà cho vợ tôi, nhưng từ khi cháu út lớn rồi, chúng cũng lơ là với vợ tôi luôn, cho đến sau này, chúng lạnh lùng đến như bỏ mặc, vợ tôi buồn quá đành đi tìm chổ giữ trẻ ở một tiểu bang khác, nên ông tới nhà không thấy vợ tôi là vậy.

Bác lấy dưới gối ra một lá thư khác đưa cho tôi, bác bảo lá thư không có một chút tình người, thú thật tôi không dám đọc hết, nhưng trong trí tôi như vẫn in sâu những dòng này “ba người ta chết thì con cái khóc lóc tiếc thương, nhưng nếu ba chết con sẽ thở ra một cách nhẹ nhỏm. Con thật không muốn bảo lảnh ba sang Mỹ đâu, chỉ vì bắt buộc mà thôi, Ba hãy dọn ra đi để còn một chút gì gọi là tự trọng”. Tôi cũng tự hỏi mình, bác đi đâu bây giờ? Một đồng bạc cũng không có, bà con, bạn bè cũng không luôn, bác dọn đi đâu? trong khi bác lại chưa phải là công dân Hoa Kỳ, làm cách nào để có thể xin trợ cấp, tôi đành an ủi bác, thôi bác cứ yên tâm, điều quan trọng bây giờ là hãy nhịn, nhẫn nhục đó mà, cứ coi như ngày nào bác bị bắt tại mặt trận, Việt cộng hành hạ bác kiểu gì, nhục mạ bác ra sao, bác cũng ngậm bồ hòn, thì nay, với con gái, bác ngậm lại bồ hòn một lần nữa đi rồi từ từ hãy tính. Một ông già tóc đã bạc hết rồi, nước da đã ngã màu đồi mồi, tay chân đã lọng cọng, dễ gì xin được một việc làm trên một đất nước đầy dẫy nhân lực và cạnh tranh.

Tôi biết có rất nhiều cơ quan, tổ chức thiện nguyện, sẵn lòng tiếp những người khó khăn, nhưng với hoàn cảnh của bác, thật không có tổ chức nào có thể giúp đỡ, vì có tổ chức nào có nhà cửa, cơm áo, để cung cấp cho bác trong lúc này, nhất là trong thời kỳ kinh tế suy thoái, ngân sách các cơ quan, giáo dục, y tế hay xã hội … đều bị cắt giảm. Và tôi chỉ còn một con đường để đi, đó là dẫn bác tới Sở Xã hội, để xin cấp thẻ EBT (Electronic Benifits Transfer), tức là mỗi tháng, Sở Xã Hội bỏ vào trong thẻ EBT $200 USD cho bác mua thực phẩm, gạo rau cá thịt, nước uống, trái cây…

Nhận được thẻ EBT bác liền hỏi nhân viên Xã Hội là có thể mua ngay thức ăn được không? và thực phẩm là những thứ gì? Người Cán Sự Xã Hội nhìn tôi, tôi dịch lại lời bác và nói thêm rằng, bác không có gì ăn từ hôm qua cho đến nay. Người Broker xin phép đi ra một lúc, rồi quay trở lại đem theo phần ăn trưa của cô để tặng bác. Quả thật tôi cũng xúc động rơm rớm nước mắt khi nói câu đó với người broker. Đúng là một miếng khi đói, bằng một gói khi no, bác cúi đầu cám ơn người Cán Sự Xã Hôi mà như muốn khóc. Tôi đem bác đi mua thực phẩm để hướng dẫn bác cách dùng thẻ EBT. Lần mua thử nghiệm đầu tiên của bác là 2 ổ bánh mì và 2 hộp cá Sardines rồi bác và tôi ra Parking chui vào xe ngồi ăn bánh mì cá hộp. Tôi thật không hiểu rõ những tư tưởng nào đã đến với bác, nhưng mà nỗi xúc động của bác thì tôi biết là rất mãnh liệt, vì nước mắt bác đã chảy đến nỗi dùng hết một hộp khăn giấy của tôi để trong xe, tôi ngồi yên để bác khóc và suy nghĩ về mình, không hiểu có một lúc nào đó tôi lại như bác hôm nay.

Trên đất nước tạm dung này, những người già đã trở thành gánh nặng cho con cái, những người già đã bị lãng quên hay bị xua đuổi của gia đình, mà xã hội dù có nhân đạo tới đâu cũng khó kham nỗi với số người cao niên ngày càng nhiều.

Một lần tôi đưa bác đi tái khám bệnh phổi, tôi ngồi chờ bác ở phòng đợi thật lâu, và khi bác trở ra cùng với một vị bác sĩ người Việt còn trẻ, vị bác sĩ này lấy ví ra 3 tờ bạc 20 đồng và nói “cháu chỉ còn bao nhiêu tiền mặt, nhưng cháu có một căn phòng trống trong Building này, có Microwave, khi nào bác cần thì gọi cho cháu, bác hãy nhớ là bác còn chúng cháu ở đây. Ông quay sang nhìn tôi và dặn chú làm ơn để ý tới bác này với, người già nào cũng có một nỗi khổ khi sang đây.”

Suốt quãng đường về tôi cứ mãi suy nghĩ về người bác sĩ đầy lòng nhân ái ấy. Y thuật và y đạo, điều nào được người ta coi trọng hơn trên đất nước này. Tôi hỏi bác Thụy về vị bác sĩ ấy, được biết ông ta tên là DR. Albert H. Lee, chuyên khoa về phổi, là bác sĩ đang làm việc tại hai bệnh viện lớn ở thành phố này, và rất được bệnh nhân quý trọng cả về chuyên môn lẫn đạo đức.

Bác Thụy cho biết, thường ngày bác dậy rất sớm vì không ngủ được, có đêm bác chỉ ngủ 3 tiếng đồng hồ, rồi cứ suy nghĩ lung tung về chuyện đời, chuyện gia đình, về thời gian đi tù cải tạo, thời gian đi dạy dưới chế độ cộng sản. Bác kể sau khi được thả ra tù, vì tốt nghiệp đại học trước 1975, nên bác không bị đuổi đi Kinh Tế Mới, mà được kêu đi dạy. Là một giáo sư dạy Lý Hóa nhiều năm, kinh nghiệm đặc biệt về phương pháp dạy Luyện thi, nên các Trung Tâm Luyện thi dạy ngoài giờ đều mời bác cộng tác, bác dạy cả sáng, chiều và tối, nhờ đó mà gia đình bác có được cuộc sống tương đối so với những anh em khác đi học tập về, và các con bác cũng từ đó mà học đến nơi đến chốn trước khi ra nước ngoài. Trước ngày sang Mỹ, bác bán đi căn nhà, thu gom tài sản lại, cũng đựoc vài ba chục ngàn đô la, đều đem cho con hết, bây giờ nếu quay về, không còn nhà để ở, và biết lấy gì làm kế sinh nhai, vì tuổi đã cao rồi, làm sao xin được việc làm, đó là chưa nói tới những phiền toái khác từ xã hội, thật là tiến thoái lưỡng nan, bác tâm sự.

Có một buổi trưa tôi tìm tới bác, chứng kiến bữa cơm trưa gọn gàng của bác mà mủi lòng, một tách uống cà phê đong đầy Oat Meal, đổ vào một tô lớn, rót nước nóng từ bình thủy ra, khuấy đều chừng 2 phút, chờ nguội và ăn, không cần nước mắm hay xì dầu, hoặc một loại gia vị nào khác.

Bác bảo từ khi có thẻ EBT, tôi không còn lo thiếu xì dầu nữa, nhưng nhịn được cái gì hay cái đó, với lại bác sĩ bảo ăn mặn cũng không tốt .

– Bác ăn như thế này mỗi ngày sao ?

– Vâng, chỉ vậy thôi, tôi đâu có cần gì thêm, chỉ cần một căn phòng nhỏ, đủ đặt một cái giường là được rồi, thế nhưng đời tôi quả là cùng khổ, mà thực ra tôi đâu có cầu sống lâu, sống thọ, sống không có gì vui, thì chết đâu có gì buồn, sỡ dĩ tôi vẫn đi bác sĩ là vì tôi sợ đau đớn, cũng như tôi không đủ can đảm để tự tử, còn chết ư, tôi nghĩ tới rất thanh thản, trên đời tôi không còn gì mê luyến thì chết đi tôi đâu có gì tiếc nuối, chỉ cầu sao cho được chết thật nhanh, không đau đớn, đó là nguyện vọng duy nhất còn lại của tôi.

Thường thường bác hay kể cho tôi về những bữa cơm dã chiến của bác, như bữa ăn của những người lính ngoài mặt trận. Bác mua một cái bếp gas nhỏ bỏ trong túi vải mang theo bên mình mỗi khi đi bộ, một bình thủy nước sôi, một tách cà phê Oat meal, một cái tô và muổng. Buổi trưa ngồi vào một góc nào đó trong Park, nơi người ta cho phép nướng BBQ, bác mở hộp cá ra, hâm nóng bằng bếp gas chừng 2 phút, rồi đổ nước sôi trong bình thủy vào tô và khuấy Oak meal lên ăn, bác chỉ về nhà vào xế chiều, làm thức ăn tối và nấu nước sôi đổ vào bình thủy, chuẩn bị thức ăn cho ngày hôm sau, và những việc này luôn luôn làm xong trước khi con gái bác về nhà, ăn chiều xong, bác lại chui vào căn phòng nhỏ dấu mình trong đó, để không phải gặp mặt con gái nghe nó nói nặng nói nhẹ và đuổi nhà.

Bác tâm sự rằng, đôi lúc muốn ôm mấy đứa cháu một chút, nhưng thật rất khó, vì chúng nó sợ má la, lâu lâu con cháu lớn lén vào phòng ông, đưa ngón tay lên môi làm dấu với ý bảo ông im lặng, ngồi chơi với ông một lúc rồi chạy ra. Có những khi chúng nó vào phòng ông, má nó biết được là la mắng chúng liền. Ông cháu gặp nhau như đi thăm tù cải tao, thật là một hoàn cảnh đặc biệt hiếm hoi.

Nghe bác kể lại, tôi đành tìm cách an ủi bác, kể cho bác nghe về những đứa cháu phá phách của tôi, mọi thứ trong phòng tôi mỗi ngày được xếp theo một kiểu, computer của tôi được load đầy các games “comp của ông ngoại dễ xài hơn, con thích games trong comp của ông ngoại hơn” thế là cái computer của tôi bận dài dài, chỉ trừ khi chúng đi học. Cho nên chơi với cháu chưa hẳn là hạnh phúc đâu bác ạ . Bác kể cho tôi những bữa cơm chấm xì dầu thật cảm động. Mới đầu bác hỏi tôi:

Bác kể lại vào những tháng bác chưa có thẻ EBT, bác ăn cơm với xì dầu hiệu đậu nành, nhưng không dám chan vào chén cơm, chỉ hai miếng cơm mới nhúng đầu đủa vào chén xì dầu một lần và mút lấy đầu đũa, vì nếu chan vào chén cơm hay mút nhiều lần thì sẽ hết mất, không có tiền mua nữa. Những ngày tháng ấy, anh Hồng, ngày xưa ở Biệt Động Quân, và một thời làm Chỉ Huy Trưởng Căn Cứ Rừng Lá, trước ngày mất nước anh về Phủ Thủ Tướng, mỗi lần ghé thăm, anh thường mua xì dầu, rau muống, Broccoli cho tôi, tôi còn nhớ mãi, bây giờ anh move đi xa rồi, cách đây cũng vài ba tiếng lái xe nên anh không thường tới nữa, mà cũng tội nghiệp, anh ấy cũng chỉ sống với mấy trăm đồng tiền già mà thôi, nhưng khi nào tới cũng đưa tôi đi ăn phở, hay có khi anh mua sẵn 2 tô phở mang đến đây hai anh em cùng ăn. Nghĩ lại, chỉ có những người lính mới thương nhau và đùm bọc nhau trên đất nước tạm dung này.

Ông biết không, vào những ngày tháng đó, có khi tôi rất thèm bánh tráng có vừng đen, hay cơm trắng và xì dầu, mà phải là xì dầu đậu nành, đủ cho tôi ăn không sợ chết. Những đêm nằm không ngủ được, tôi lại ao ước có được một ổ bánh mì của chợ Vons để ăn, tôi thèm mùi thơm của bánh mì chưa kịp nguội, hoặc giã đã nguội đi, tôi lại thèm vị ngọt của bánh khi nhai còn thấm trên đầu lưỡi của mình, thèm đến chảy nước miếng.

Nghe bác kể, tôi thực sự không cầm được lòng mình, lại nghĩ tới thời gian đi tù cải tạo, tôi cũng đã từng thèm được ăn một bữa khoai mì cho thật no, và chỉ mơ ước ngày được thả về, tôi sẽ bảo vợ mua khoai mì cho tôi ăn một bữa cho đã thèm.

Khi thiếu thốn, con người sẽ thèm đủ thứ, cho nên nghe bác kể, tôi thực sự hiểu được cảnh ngộ ấy, và hiểu được sâu xa nỗi lòng của bác, chỉ có một điều mà không ai ngờ được, đó là sống trong một siêu cường bậc nhất, mà người dân chỉ thèm một ổ bánh mì thôi cũng không có để ăn, cái ước mơ nhỏ nhoi ấy đã ở dưới mức tầm thường rồi, vì kể cả những người vô gia cư trên thành phố này, cũng không ai có một ước mơ như bác Thụy. Có ai quanh đây đang lâm vào tình cảnh của bác hay không tôi không rõ, cũng có thể có người bị gia đình hắt hủi, con cái bỏ rơi và xua đuổi, nhưng đến một đồng xu dính túi cũng không có thì tôi không tin.

Rồi một ngày bác nhờ tôi chở đi xin việc, bác đọc được một mẫu rao vặt đăng tin cần một người đứng tuổi, có sức khỏe, để săn sóc một ông già 83 tuổi, bị bệnh mất trí, bao ăn ở, tiền lương sẽ thương lượng.

Tôi chở bác tới địa chỉ tìm gặp chủ nhà, cô chủ nhà tiếp chúng tôi và hỏi:

– Chú xin hay chú này xin?

– Tôi, bác nhanh nhẩu trả lời.

Chủ nhà dẫn chúng tôi đến phòng ông cụ, cô cho biết ông cụ đã quên hết mọi thứ, cần giúp ông cụ ăn uống, đi tiêu, đi tiểu, thay quần áo, và tắm cho ông cụ. Mọi sinh hoạt của ông cụ đều cần được giúp đỡ, nhất là về đêm, ông cụ hay thức dậy đi quanh quẩn trong nhà một mình, những lúc như thế cần có người bên cạnh, đề phòng khi ông cụ bị té. Nhiều khi ông cụ đi tiêu, đi tiểu trong quần mà không biết. Và cô hỏi:

– Chú có thể giúp ba tôi được không ? Hay chú làm thử vài ngay , vì có người nhận làm nhưng một hay hai ngày sau lại bỏ vì không chịu được tính tình của ông cụ.

– Không đâu, tôi làm được, tôi rất thích người già và trẻ con, cô cứ để tôi làm.

– Vâng, vậy chú có bằng lái xe không cho cháu xem thử?

Bác lấy bằng lái xe đưa cho cô chủ, cô ta xem xong rồi trả lại bác, cô nói, ba cháu nặng 65 ký Không hiểu chú có thể đỡ nổi không, chú làm thử một vài ngày đi, nếu không được, cháu vẫn tính lương cho chú.

Lương tháng là $800, bao ăn ở, mỗi tuần nghỉ một ngày, tốt nhất là thứ 7, cái giường phía trong là của ba cháu, chú nằm giường ngoài. Thức ăn hàng ngày cháu nấu sẵn để trong tủ lạnh hay trên bếp, chú muốn ăn thứ gì cứ ăn tự nhiên. Mỗi ngày ba cháu uống 12 loại thuốc, ăn cơm trưa, chiều, sáng. Ba cháu uống cà phê, khi chú pha cà phê, nên để nguội rồi mới đưa cho ba cháu, vì ba cháu thích khuấy cà phê bằng ngón tay rồi mút. Thuốc thì cháu sẽ viết tên, liều lượng, giờ uống để trên bàn, chú cho ba cháu uống đúng giờ là được rồi.

Sau khi chủ nhà và bác bàn bạc công việc xong, tôi chở bác ra về, hẹn thứ 2 tuần tới là bắt đầu đi làm. Thoạt đầu bác có vẻ rất vui vì tìm được công việc, nhưng một lúc sau, tôi thấy bác khóc, bác như bị hụt hơi cứ nấc lên từng tiếng, tôi lo sợ nên tìm cách đưa bác vào một shop bên đường, đậu xe lại và hỏi bác:

– Sao bác lại buồn?

– Con người ta thì thuê người săn sóc cho cha, còn tôi thì bị đuổi ra khỏi nhà đi chùi đít cho thiên hạ, ông nghĩ xem có tủi không?

Nói xong câu này bác lại khóc lên thành tiếng. Tôi ngồi im để bác khóc cho hết cơn xúc đông rồi mới bảo bác, mỗi người có một số phận, một đoạn trường, và một nỗi niềm phải gánh, không ai có thể có hạnh phúc hoàn toàn, chỉ có ông cụ 83 tuổi ấy mới thực sự hạnh phúc, vì ông đã quên hết mọi sự, đã không còn biết mọi sự.

Làm cha mẹ, được con cái yêu thương, gia đình hòa thuận dĩ nhiên là điều tốt, . Nỗi đau khổ bị con cái bỏ rơi hay xua đuổi chưa hẳn đã lớn hơn nỗi đau đớn khi phải nhìn thấy con mình dửng dưng với cha mẹ , Không hiểu bác có nghĩ như tôi không?

Bây giờ ở là mùa Hè, rải rác đó đây, trên những đồi hoang quanh nhà tôi đã trổ lên vài chùm hoa dại, màu vàng như hoa Cúc, càng làm tôi nhớ đến quê hương mình, như ngày Thu trên rừng núi cao nguyên, những khóm Quỳ hoang cũng nở vàng như vậy trên những triền đồi, và càng nhớ đến người sĩ quan thám báo bây giờ không phải đang nhật tu trận liệt, hay chăm sóc một đồng đội kém may mắn, mà là đang chăm sóc một cụ già mất trí…

Du Tử                       

From: NguyenNThu

Chuyện một người lính phản chiến

Ba’o Tieng Dan

Nguyễn Tuấn Khoa

13-8-2024

Đồn tiền tiêu của Trung Đoàn 16, Sư Đoàn 9 Bộ Binh ở Cầu Kè xây dựng xong trong 6 tháng. Từ ngày đó, xóm làng quanh đồn không một ngày im tiếng súng. Đã hai năm lính nhưng trung úy Nguyễn Văn Hồng vẫn còn băn khoăn về nghiệp lính mà anh đang mang. Lệnh đôn quân đã đưa anh vào trường Bộ Binh Thủ Đức, để rồi giờ đây, nơi tiền đồn này, hàng ngày anh phải chứng kiến cảnh máu đổ thịt rơi của những người anh em từ cả hai phía.

Khu vực Cầu Kè là vùng “xôi đậu”, ngày là Quốc Gia, đêm là Việt Cộng. Thật khó phân định đâu là dân, đâu là du kích. Người Cộng Sản thật khôn ngoan khi lôi kéo người dân vào cuộc chiến với nhiệm vụ của một người lính thực sự. Họ là nông dân, là học sinh nhưng phải nhận lệnh đi gài mìn, bắn vào đối phương rồi sau đó trở lại đi học, làm ruộng. Chiến Tranh Nhân Dân mà thực chất là chiến tranh không quy ước này tuy không nhiều vũ khí giết người nhưng lại đưa cuộc chiến lên đỉnh điểm của sự phi nhân tính.

Một buổi tối bình yên trôi qua. Gần sáng, một tiếng nổ lớn trong làng làm rung động đồn gác. Sáng ra trung úy Hồng cùng đồng đội đến vị trí nổ đêm qua. Kinh hoàng! Một đứa bé trạc 14 tuổi, mặc áo sơ-mi trắng đã bị mìn phá nát nửa người bên dưới. Thật thương tâm.

Chuyện này cứ xảy ra hoài. Lính đạp phải mìn thì ít, thường dân nhiều hơn. Không biết thằng bé đạp phải mìn do du kích cài hay nó nhận nhiệm vụ đi cài mìn rồi sơ ý làm nổ? Hồng thất thần trở về đồn, rít một hơi thuốc thật sâu như để xóa mùi tanh. Giọng Khánh Ly từ chiếc máy cassette cũ bình thản như đang kể về một cái chết oan nghiệt vừa xảy ra.

Một buổi sáng mùa xuân,

Một đứa bé ra đồng,

Đạp trái mìn nổ chậm,

Xác không còn đôi chân.

(Một Buổi Sáng Mùa Xuân – Trịnh Công Sơn)

Những cuộc tuần tra và bố ráp những ngày sau đó, lính bắt được nhiều người tình nghi. Sau thẩm vấn nhóm điều tra chỉ giữ lại hai người có quả tang: Một ông già khoảng 70 tuổi và một đứa bé 15 tuổi gầy trơ xương. Tờ trình về nhân thân của hai Việt Cộng (VC) này được đặt trên bàn của trung úy Hồng.

Đêm hôm đó, sau nhiều giờ thẩm vấn trực tiếp, trung úy Hồng thấy rằng hai VC này chỉ là thường dân, không làm theo mệnh lệnh của VC thì gia đình họ phải trả giá bằng tính mạng. Họ là nạn nhân của chiến tranh không quy ước đang bị cả thế giới văn minh lên án.

Nhìn thân hình tiều tụy của hai VC sau nhiều ngày tra tấn, người trung úy phản chiến đã âm thầm làm chuyện động trời. Dàn xếp cho hai VC bỏ trốn! Anh đã dặn dò họ thật kỹ rằng: Khi rời khỏi đồn phải trốn về thành, mai danh ẩn tích, làm việc nhân nghĩa để mưu sinh. Không được trở về với VC vì sẽ bị nghi là tình báo do lính Quốc Gia cài trở lại. Họ đi xuyên đêm đen vô tận. Đi đâu, về đâu?

Những ngày sau đó anh sống với tâm trạng dằn vặt. Vừa làm nhiệm vụ của người sĩ quan ở tiền tuyến, vừa phải tránh cảnh máu đổ thịt rơi, vừa mơ về một đất nước thanh bình. Những lần hành quân, trong tai anh luôn văng vẳng giọng Khánh Ly với Phụ Khúc Da Vàng của Trịnh Công Sơn.

Khi đất nước tôi thanh bình

Tôi sẽ đi thăm, nhiều nghĩa địa buồn

Đi xem mộ bia nhiều như nấm.

Khi đất nước tôi không còn chiến tranh

Mẹ già lên núi tìm xương con mình

Khi đất nước tôi không còn chiến tranh

Bạn bè mấy đứa vừa xanh nấm mồ.

Khi đất nước tôi không còn giết nhau

Trẻ con đi hát đồng dao ngoài đường

(Tôi Sẽ Đi Thăm- Trịnh Công Sơn)

Một ngày định mệnh của tháng 12 năm 1969, Hồng nhận lệnh cùng đại đội đi tiên phong để phối hợp với hai đại đội ở mặt trận phía Đông. Bước chân người lính lướt đi trên con đường mòn quen thuộc. Gần đến nơi, hai tiếng nổ long trời gần như cùng lúc, hất tung trung úy Hồng và những người đi đầu. Thế là xong một kiếp người. Kết thúc một giấc mơ. Trong giây phút ngắn ngủi còn lại, Hồng nghĩ đến người vợ với ba con thơ, một trai hai gái, thương nhất là bé gái chưa đầy tháng.

“Anh nằm xuống cho hận thù vào lãng quên” – Trịnh Công Sơn

Anh ra đi là một sự giải thoát khỏi cuộc chiến giữa những người anh em. Anh không oán trách ai đó đã gài mìn dù đó là hai VC một-già-một-trẻ mà anh đã thả. Chiến tranh thật nghiệt ngã. Để ghi nhớ chiến công của người lính can trường, trung tá trung đoàn trưởng Trung Đoàn 9 Huỳnh Văn Chính đã thừa lệnh Sư Đoàn Trưởng vinh thăng ông lên đại úy. Trung đoàn đã xây một trường tiểu học mang tên Nguyễn Văn Hồng tại Cống Đất Méo, cách thị xã Vĩnh Long 20 km rồi đưa bà quả phụ Hồng về dạy tại đây.

Bảy năm sau ngày ông Hồng hy sinh, giấc mơ của ông mới trở thành sự thật. Đất nước hòa bình nhưng không thanh bình. Nét lo lắng hằn trên gương mặt mỗi người.

Khi đất nước tôi không còn giết nhau

Mọi người ra phố mời rao nụ cười”. (Trịnh Công Sơn)

Bà Hồng, có chồng là sĩ quan VNCH, đang dạy ở trường mang tên chồng, bị buộc ngưng dạy ngay khi tựu trường trở lại. Các cô giáo khác có chồng làm lính cũng rời trường sau đó ít lâu.

Một tháng sau, chỉ một mình bà Hồng được gọi đi dạy trở lại trước sự ngỡ ngàng của mọi người. Bà linh cảm rằng có một bàn tay bí mật nào đó trong quyết định khó hiểu này. Ân huệ này quá lớn vì nó giúp cho những đứa con thơ của bà không rơi vào cảnh chết đói. Bà lúc nào cũng lo sợ tai họa lại ập đến một lần nữa nên luôn chu toàn nghiệp sư phạm.

Thấm thoát, hai đứa đầu đã 17 và 18 tuổi. Nhờ ơn Trời-Phật, cả hai đứa đều đậu vào đại học Tổng Hợp khoa Toán và khoa Sinh. Bà như ngất đi vì sung sướng.

Niềm vui chưa tày một gang, biến cố lại đổ ập xuống nhà bà. Cả hai đứa dù đã vượt qua một ngưỡng điểm đầy bất công nhưng không được đi học. Lý lịch của cha đã chặn lối vào đời của tụi nhỏ. Đứa con gái, suốt một tuần, ngày nào cũng ngồi đồng ở văn phòng Ủy Ban tỉnh Cửu Long để xin gặp ông Chủ Tịch.

Một ngày, có người ra mách nước rằng, hãy đến nhà ông Ba Trà, Trưởng Ban Tuyển Sinh. Suốt một tuần, ngày nào về đến nhà, ông Ba Trà cũng thấy con bé ngồi đó, dù ông đã từ chối tiếp. Cuối cùng, ông buộc ngồi xuống lắng nghe. Con bé nói trong nước mắt:

– Ba con đã chết trận lúc con 2 tuổi. Sao chuyện của người lớn con nít phải gánh chịu? Bây giờ con đậu nhưng chấp nhận rớt. Vậy bác cho anh hai con đi học đi.

Ông bối rối vì lập luận của con bé ngây thơ. Ông nói ngắn rằng chuyện này lớn quá, ông không có quyền làm khác và hứa sẽ trả lời. Ít hôm sau con nhỏ lại đến nhà. Ông nói, kêu anh con lên Ban nhận Giấy Báo Trúng Tuyển. Anh con phải chuyển sang học khoa Toán đại học Sư Phạm.

Con nhỏ khóc nấc, vừa mừng vừa tủi. Bà mẹ thì vừa mừng vừa lo vì không biết còn tai họa gì nữa không? Chuyện này chưa có tiền lệ nên bà lại linh cảm rằng có bàn tay bí mật nào đó trong quyết định khó hiểu này?

***

Tôi lần theo câu chuyện bà nhạc kể rồi tìm ra trường tiểu học Nguyễn Văn Hồng năm xưa. Nơi đây, bây giờ là Trạm Y Tế thị trấn Long Hồ, còn trường dời sang bên kia đường, mang tên Trường Tiểu học Thị trấn Long Hồ.

Làng quê thật yên bình, tôi không cảm nhận sự khốc liệt nơi ông từng tham chiến. Những người đồng đội của ông, những người bên kia chiến tuyến và cả hai Việt-Cộng-một già-một trẻ chắc bây giờ đã trở về với cát bụi hoặc không còn ở đỉnh cao quyền lực nữa.

Hôm nay đám giỗ lần thứ 56 của ông. Tôi thắp một nén nhang lên bàn thờ với lời khấn dành cho tất cả những người đã nằm xuống ở hai bên chiến tuyến, rằng họ sẽ mãi mãi là bạn, là anh em của nhau.

“Quen lạ bạn thù chung giấc ngủ.

Chung lời thương tiếc khóc trên bia”.

(Tô Thùy Yên)


 

Bị lừa dối – Truyen ngan

Bùi Mạnh Toàn

Bị lừa dối – Câu chuyện cảm động đầy ý nghĩa nhưng cũng thật đau lòng

Tốt nghiệp đại học xong, tôi đi làm nghiên cứu sinh ở Tiệp Khắc trong quãng thời gian khá dài. Ngoài 30 tuổi, tôi trở về nước và bắt đầu tìm hiểu để lập gia đình. Tôi về làm việc ở Viện TH. Trong quá trình tham gia giảng dạy thêm Trường Đại học TH tại Hà Nội, tôi đã gặp một người con gái rất xinh đẹp và hiền dịu.

Người con gái đó là giảng viên ở ngay trong trường nơi tôi cộng tác. Ngay từ lần gặp đầu tiên, tôi đã có một tình cảm đặc biệt với vẻ ngoài xinh đẹp và tính cách hiền dịu của cô ấy.

Tôi chủ động tìm hiểu và biết được cô có một mối tình đầu sâu đậm với một người bạn học. Người yêu của cô ấy đi tu nghiệp ở nước ngoài, tại Cộng hòa Liên bang Đức.

Cô đã quên cả tuổi thanh xuân để chờ đợi và chung thủy với người yêu. Thế nhưng người yêu cô cứ khất lần khất lữa mãi không trở về. Hình như anh ta không có ý định trở về Việt Nam sinh sống, nhưng cô thì gia đình rất hoàn cảnh.

Nhà có được hai anh em, anh đi bộ đội và hy sinh ở chiến trường, còn lại một mình cô nên việc dứt bỏ bố mẹ già để ra nước ngoài cùng người yêu là điều không thể.

Đúng lúc ấy, tôi xuất hiện. Trước tình cảm chân thành của tôi, cô ấy đã nhận lời yêu tôi. Ngày tôi đưa cô ấy về giới thiệu với gia đình, ông nội tôi và cha tôi ngay phút ban đầu gặp gỡ đã rất hài lòng trước vẻ ngoài xinh đẹp, dịu dàng và đoan trang của cô ấy.

Chuyện tình cảm của chúng tôi diễn ra chóng vánh trong nửa năm là chúng tôi đi đến kết hôn..

Chúng tôi được phân một căn hộ tập thể 20m2 ở Viện TH nơi tôi làm việc. Sau khi kết hôn, vợ tôi không giảng dạy nữa mà về công tác ở Viện LS gần nhà. Gần một năm sau chúng tôi đón cậu con trai đầu lòng.

Những năm đó, cuộc sống chỉ vừa thoát khỏi bao cấp nên cũng còn rất khó khăn. Chúng tôi quyết định chỉ sinh một đứa con và dồn tất cả để dạy dỗ nó nên người, tạo điều kiện tốt nhất cho con.

Vợ tôi là người kín đáo, lặng lẽ, ít nói, nên cuộc sống của chúng tôi rất yên ấm, hạnh phúc. Tôi bằng lòng với hạnh phúc hiện tại và thầm cảm ơn cuộc đời đã ban cho tôi người vợ hiền thảo.

Cuộc sống của chúng tôi cứ thế trôi đi. Cả hai vợ chồng đều làm khoa học, công tác nghiên cứu nên thu nhập cũng đạm bạc, cuộc sống đơn giản, chúng tôi cũng không có nhu cầu nhiều hơn.

Thế nhưng mọi bất hạnh bỗng một ngày ập đến như bão lốc.

Tôi còn nhớ như in ngày đó, tôi vừa đi làm về thì đã thấy vợ tôi đang ngồi với một người khách lạ, cô ấy khóc sưng cả mắt. Khi tôi vừa vào đến nhà thì vợ tôi cứ thế ôm mặt khóc nấc lên.

Tôi hoảng quá không biết có chuyện gì xảy ra thì ngay lập tức, vợ tôi quỳ sụp xuống dưới chân tôi khóc nức nở: “Em có tội với anh, có tội với gia đình anh, xin anh hãy tha thứ cho em”.

Tôi đứng như trời trồng, trong lòng hỗn loạn vì không hiểu điều gì đang xảy ra. Nhưng bằng sự nhạy cảm của một người đàn ông, tôi lờ mờ đoán rằng “Gia đình tôi, tổ ấm của tôi đang gặp phải bão lớn, và người đàn ông xa lạ đang ngồi trước mặt vợ chồng tôi có lẽ là một nguyên nhân gây ra cơn bão này”.

Cuối cùng thì vợ tôi cũng bình tĩnh lại. Câu chuyện được vợ tôi nói, dù chỉ mấy câu thôi nhưng tôi nghe như sét đánh ngang tai. Tôi đổ sụp xuống, choáng váng và tuyệt vọng.

Vợ tôi nói rằng đã mang tội lớn với tôi, rằng suốt trong 5 năm qua cô ấy đã lừa dối tôi, mặc dù sống cùng với tôi nhưng cô ấy vẫn nhớ tới người yêu cũ. Và điều khủng khiếp nhất, như một phát đại bác nã vào tim tôi tan nát.

“Đó là đứa con trai của chúng tôi chính là đứa con của người đàn ông đang ngồi trước mặt tôi chứ không phải là của tôi”…

Trước ngày cô ấy kết hôn với tôi, người yêu cô ấy đã bay từ Đức về và họ đã gặp gỡ nhau. Ngay sau khi kết hôn, cô ấy có thai luôn và theo vợ tôi thì cái thai trong bụng của cô ấy chính là giọt máu của người yêu cũ.

Mặc dù không đến được với nhau nhưng tình cảm của hai người khá sâu đậm. Người yêu cũ của cô ấy cũng đã lấy vợ ở nước ngoài. Thế nhưng do một trục trặc về sức khỏe, sau một trận ốm khá nặng, anh người yêu cũ của vợ tôi không còn khả năng có con.

Anh là con trai duy nhất trong một gia đình, lại là tộc trưởng của một dòng họ, việc không thể có con là một tai nạn quá lớn đối với anh ta và gia đình họ tộc của anh ta.

Khi biết người yêu cũ ở Việt Nam sau lần gặp gỡ trước khi kết hôn đã có thai ngay và sinh con như một chiếc phao cứu sinh anh ta. Anh ta đã ly dị vợ trở về nước sinh sống và tìm gặp vợ tôi để xin nhận giọt máu của mình.

Vợ tôi vẫn còn quá nặng tình với mối tình đầu, với người đàn ông mà cô ấy không thể đến được. Chính vì vậy khi anh ta trở về, gặp lại và van xin, vợ tôi đã thương cảm và bằng lòng. Dân gian có câu:

“Tình cũ không rủ cũng đến” quả thật không sai. Vợ tôi cũng không nằm trong trường hợp ngoại lệ.

Tới đây, cô ấy xin phép tôi và cùng với con trai tôi sẽ ra đi khỏi căn nhà của tôi cùng với người đàn ông kia đang ngồi trước mặt tôi. Thú thực tôi không còn nghe được gì nữa, không còn biết gì nữa.

Tôi ngồi như một bức tượng và im lặng để mặc hai người một là vợ tôi, một là anh kia trình bày trước tôi và xin tôi tha thứ.

Chúng tôi là những trí thức, lại từng có thời gian học tập, làm việc lâu năm ở nước ngoài nên có thể trong xử sự chúng tôi văn minh và Tây hóa hơn. Ngay lúc đó ” Tôi đã im lặng và bước ra khỏi nhà mình…”

Tôi trở về nhà của bố mẹ tôi với tâm trạng suy sụp.Tôi ở lỳ nhà bố mẹ tôi một tuần liền không quay lại nhà mình. Sau một tuần gần như nằm liệt giường ở nhà bố mẹ, tôi đã qua đi những cảm giác sốc ban đầu.

Tôi suy nghĩ kỹ và đi đến quyết định nói chuyện cho bố mẹ biết chuyện của gia đình tôi. Bố mẹ tôi đã khóc khi nghe tôi kể chuyện nhưng cả gia đình đồng ý cho chúng tôi ly hôn để vợ và con có thể trở về với gia đình đích thực của cô ấy.

Tôi trở về nhà mình sau một tuần. Vợ tôi cũng suy sụp không kém gì tôi. Cô ấy đã chuẩn bị cho một cuộc ra đi. Chúng tôi lặng lẽ làm thủ tục ly hôn. Sẽ không có điều gì xảy ra sau đó nữa nếu như tôi không nghe theo lời khuyên của bà thẩm phán xử vụ ly hôn của chúng tôi.

Chính thẩm phán đã khuyên tôi nên đi xét nghiệm ADN để mọi thứ được rõ ràng minh bạch hơn. Kết quả như thế nào thì bản thân mình cũng thỏa mãn, không ân hận. Tôi hoãn vụ ly hôn và quyết định tiến hành xét nghiệm ADN tìm bố đích thực cho con trai tôi.

Tôi không nói gì với vợ tôi về chuyện tôi âm thầm làm. Tôi chỉ nói với cô ấy là anh cần một thời gian nữa. Ngày đó, xét nghiệm ADN trong nước rất khó khăn, phải qua rất nhiều thủ tục rườm rà và giấy phép.

Vì thế tôi đã liên lạc với một vài người bạn nước ngoài gửi các mẫu vật ra nước ngoài làm giúp trong khoảng thời gian nhanh nhất. Hơn một tháng sau, tôi đã có kết quả xét nghiệm….

Kính thưa các anh các chị. Tôi như người đã chết đi rồi được sống lại lần thứ hai. Như kẻ giữ một báu vật quá lớn bỗng một ngày phát hiện ra báu vật đó đã bị đánh cắp và giờ đây sau bao nhiêu tiếc nuối, đau khổ, giày vò bỗng dưng tôi đã tìm lại được báu vật quá lớn ấy cho mình.

Tôi gần như phát điên lên vì hạnh phúc. Khỏi phải nói, khi cầm kết quả xét nghiệm rõ ràng mười mươi “Tôi là cha đẻ của con trai tôi, tôi cảm thấy cuộc đời tôi hạnh phúc lại dâng ngập đến đủ đầy”.

Tôi không cần gì hơn nữa, không một mong muốn nào khác nữa. Tôi đã mang kết quả xét nghiệm đưa cho vợ tôi và trình lên tòa án trước sự choáng váng của vợ tôi.

Tiếp theo đó là những chuỗi ngày bi kịch của vợ tôi.

Thật lòng, tôi rất thương cô ấy nhưng sự đổ vỡ quá khủng khiếp, tôi không thể nào hàn gắn lại được cho dù tôi rất muốn giữ mẹ cho con trai tôi. Vợ tôi sau đó cũng không về sống cùng với người ấy.

Tôi cũng không tìm hiểu lý do vì sao, mà thực ra tôi cũng không hề quan tâm đến những gì xảy ra tiếp theo sau đó của họ. Tôi chỉ biết rằng vợ tôi rất đau khổ. Cô ấy đã rời khỏi nhà của tôi và để lại đứa con trai cho tôi nuôi dưỡng.

Tuần nào cô ấy cũng đến trường tìm con và chơi với con. Tôi đã gặp cô ấy và yêu cầu cô ấy làm sao để tránh sự tổn thương cho con trai tôi. Có thể sau này khi con đã lớn đã hiểu được mọi chuyện thì mẹ con mới lại gặp nhau nhiều hơn.

Vợ tôi đã đồng ý và sau đó, mỗi tháng cô ấy gặp con trai tôi một lần. Tôi cũng rất thương cô ấy, rất buồn và cảm thấy có lỗi với con trai nhưng số phận đã vậy, tôi không thể làm khác được.

Tôi sống một mình và không kết hôn nữa cho dù có rất nhiều người phụ nữ yêu thương và chia sẻ với tôi. Tôi nuôi dạy con trai tôi lớn khôn và cháu trở thành một người đàn ông thành đạt.

Vợ tôi cũng không đi bước nữa. Cô ấy sau đó mua một căn nhà nhỏ trên Phú Thượng và sống một mình.

Bây giờ con trai tôi đã đi làm ở một công ty nước ngoài, cháu lập gia đình và sinh được hai đứa con một trai một gái. Ngày lễ, ngày Tết cả gia đình lại tụ họp đông đủ. Lần nào họp mặt gia đình, ăn uống hay lễ Tết, con trai và con dâu tôi đều đón mẹ về quây quần.

Các con tôi năn nỉ chúng tôi hãy quay trở về sống với nhau để cho các con cháu được hạnh phúc, gia đình được sum vầy vẹn toàn. Thế nhưng không hiểu sao tôi không thể quay lại được với vợ tôi nữa. Bây giờ chúng tôi đều đã có tuổi, con trai có khuyên chúng tôi nên sống nương tựa vào nhau vì con vì cháu…

Không phải tôi không thương cô ấy, không phải tôi còn giận hay hận thù gì cô ấy….. nhưng mỗi lần nhớ đến cảm giác năm xưa lúc tôi đứng trước nguy cơ mất con trai và gia đình bỗng dưng bị tước đoạt hết tất cả, tôi lại thấy ớn lạnh xương sống….

TÔI KHÔNG THỂ LÀM GÌ KHÁC ĐƯỢC NỮA, KHÔNG BIẾT NHƯ VẬY LÀ TÔI CÓ ÍCH KỶ QUÁ KHÔNG??

Bài & ảnh sưu tầm

NẾU MỘT NGÀY TA CHÁN NHAU-Truyen ngan HAY

Những câu chuyện Nhân Văn – Chi Nguyen

Có một thời gian vợ chồng mình không thể cười với nhau sau những cuộc cãi vã được nữa. Điều mà trước đây chỉ to tiếng vài phút sau là đã cười nhăn nhở. Đến khoảng ấy lại là sự im lặng, im lặng đến ngột thở. Chẳng ai có thể nói được với nhau lời tử tế. Tránh mặt nhau, ngay cả giấc ngủ cũng không muốn chạm. Chỉ cần nói với nhau một câu cũng đủ gây ra một cuộc khẩu chiến.

Mình nói rất nhiều lần rằng, với mình im lặng là chết. Và lúc ấy thì vợ chồng mình đang chết thật. Cứ thế kéo dài đến cả tháng trời, trong khi bình thường ngay cả khủng hoảng tồi tệ nhất cũng chỉ ngày thứ 3 là vợ chồng lại ôm nhau ngủ.

Vậy mà suốt 1 tháng chẳng ai có thể nhìn nhau một cách bình thường. Cảm giác như chỉ muốn biến mất khỏi cuộc đời nhau một cách sạch sẽ nhất…

….. Và rồi một buổi tối, chồng mình ngồi gõ lạch cạch cả giờ đồng hồ, rồi in ra bản ĐƠN XIN LY HÔN đưa mình .Chồng mình nói:

– Giải thoát cho nhau đi em. Anh sắp không chịu nổi rồi.

Chẳng thế hiểu được lý do vì sao, ngay cả bản thân mình cũng nghĩ đến điều ấy nhưng là đàn bà vẫn còn muốn giữ gia đình tròn vẹn cho con nên cứ sống như vậy đi.

Mình không ngạc nhiên, bình thản cầm bút ký: Tôi đồng ý!

Chồng mình im lặng cầm lá đơn cho vào cặp. Trong lá đơn nói rõ sẽ chia đôi con cho nhau. Mỗi người nuôi một đứa.

Cả đêm hôm ấy, vợ chồng mình không ngủ. Mắt mình ráo hoảnh, chẳng thể nghĩ được gì cho ngày mai. Còn chồng mình – anh ấy bật khóc nấc lên từng tiếng. Lần đầu tiên mình nhìn thấy những giọt nước mắt chua chát của anh ấy. Dường như cố gắng kìm lại nhưng không được, rồi anh bật dậy lao vào nhà tắm, không nhớ là ở trong ấy bao lâu, chỉ biết lúc trở ra mắt đã đỏ ngầu.

Mình hỏi:

– Sao anh khóc, đây chẳng phải là ý của anh sao. Sao còn đau khổ chứ. Em đồng ý giải thoát theo ý anh, anh còn muốn gì.

Chồng mình nhìn lên ánh mắt vật vã:

– Anh thương con, rồi hai đứa sẽ mỗi đứa một phương, không được ở cạnh nhau nữa. Anh sẽ rất nhớ con

Rồi anh ấy ôm ghì lấy Bột, cố nén tiếng nấc.

Mình đứng bật dậy, cố không để mình khóc theo.

Khi cuộc sống đã đến mức chẳng thể dung hoà được nữa, ra đi là điều cần thiết. Chẳng phải vì ai, chẳng vì ai phản bội ai, chỉ vì chúng ta đã không thể vượt qua những áp lực cuộc sống. Mình cũng đã từng nói với anh ấy: Con người mình buông bỏ hay nắm giữ đều rất quyết liệt. Anh ấy hiểu điều ấy.

Và chồng mình khoá FB, ai tinh ý có thể thấy một thời gian mình viết gì cũng không tag anh ấy vào nữa. Bọn mình ly thân, mỗi đứa một phòng. Mình nhắn cho chồng mình:

– Anh đừng bỏ Facebook, em muốn nhìn thấy con, anh siêng up ảnh con nhé, hàng tuần sẽ cho hai anh em gặp nhau 1 lần. Xin lỗi vì chúng ta đã không thể giữ được tình yêu này.

Lúc này mình khóc …

Ngày hôm sau ấy, chồng mình đi làm nhắn tin về rằng:

– Anh đi làm và đã nộp đơn lên toà án. Họ hẹn 15 ngày nữa gặp nhau trên toà để giải quyết. Thời gian ấy chúng ta tạm thời ly thân, sau đấy anh sẽ thuê nhà giúp cho em và con.

Mình nhắn lại lạnh lùng:

– Không cần đâu, em sẽ đi luôn, em tự lo được.

Hôm ấy trở trời con lại ốm, mình thu xếp đồ rồi nói với mẹ chồng là đưa cháu đi Hà Nội khám bệnh. Chuyện sau này êm xuôi sẽ nói sau.

Chồng mình chuyển vào tài khoản riêng của mình, rồi nhắn :

– Anh sẽ gửi thêm sau

– Ok anh, em và con đi bây giờ.

Chồng mình im lặng.

Mọi thứ đã hoàn tất cho một cuộc chia ly. Chẳng cần lý do gì cả, chỉ là không thể ở bên nhau được nữa.

Mình gọi taxi, ôm con vào lòng, vô thức, cứ đi đã rồi tính. Nửa đường thì con lên cơn sốt, rồi nôn trớ trong xe, mặt tái đi. Ngoài trời giữa những ngày rét đậm. Mình hối lái xe chạy nhanh về bệnh viện nhi trung ương.

Trời bắt đầu tối thì có mưa, bế con chạy vào viện, mưa và gió táp vào mặt lạnh buốt, cố ôm lấy con mà lòng cay đắng. Tại sao mọi thứ lại trở nên như thế, tình cảm 6 năm qua, những khó khăn đã từng, những yêu thương ngọt ngào đã qua giờ chỉ cần ngoảnh mặt đi là hết sao?

Một mình tay ôm con sốt, tay làm thủ tục. Con khóc, bác sĩ hỏi người nhà đâu, đưa người nhà bế con. Lúc ấy trong đầu nhớ về những ngày hai vợ chồng đưa con đi khám. Đứa bế con đứa chạy lăng xăng lo việc. Con khóc đứa bế đứa dỗ, động viên nhau. Quay sang bên cạnh, mọi người đều đủ bố mẹ bên cạnh con. Mình ứa nước mắt.

Hình như chúng ta đã sai ở đâu đấy. Hình như chúng ta đang làm khổ nhau và khổ cho con vì cái ích kỷ của bản thân.

Tay xách nách mang, vừa ôm cho con ti vừa chạy, nước mắt lã chã. Cái hình ảnh lúc ấy chắc chẳng thể nào quên. Con bị viêm phế quản, bác sĩ cho thuốc rồi về. Mò vào túi lấy điện thoại, hơn 20 cuộc gọi nhỡ và 5 tin nhắn của chồng mình. Đồng hồ đã gần 10h đêm.

Anh ấy nhắn:

– Em nghe máy đi

– Em và con đang ở đâu

– Anh sai rồi, em cũng sai rồi

– Em về đi

– Em ở đâu, anh đi đón.

Mình không kìm được nữa, khóc nức nở ở hành lang bệnh viện. Gọi lại cho chồng mình:

– Em đang trong viện nhi, con ốm. Khám xong rồi. Giờ em mới cầm điện thoại

– Em bắt xe cho con về nhà luôn nhé, về thấy tủ quần áo của em trống không, chẳng thấy em ngồi ở giường như mọi ngày, anh thấy sợ quá. Anh gọi em mãi mà em không nghe. Anh lại càng lo, cứ nghĩ dại …..

– Về đi, mai anh đi rút lại đơn.

Mình hiểu tâm trạng của chồng mình, có lẽ cũng như mình lúc này.

Mình tắt máy, lòng bớt nặng, sau tất cả, mình cần về. Tình yêu vẫn ở đấy, chỉ là chúng ta mải lo quá nhiều thứ mà trót hết kiên nhẫn cho một mối quan hệ. Cơm áo gạo tiền quên đi mất chúng ta còn tình yêu cần gìn giữ.

Về đến nhà hơn 12h khuya. Cả nhà đã ngủ, còn chồng mình ngồi đấy, đón lấy con rồi bảo:

– Em qua quán ăn bát cháo đi cho ấm (quán cháo ngay sát nhà).

Mình làm theo vì bụng lúc này đã rống tuếch.

Xong xuôi vào phòng, đặt con xuống giường, hai vợ chồng nhìn nhau hồi lâu, mình bật khóc, chồng mình ôm lấy mình rồi nói:

– Thôi, không sao đâu. Vợ ngủ đi không mệt rồi. Ổn rồi, ổn rồi …

Sau 1 tháng im lặng là cái ôm ổn rồi của chồng!

Thế đấy, có những quãng thời gian chẳng cần người thứ 3 thì cuộc sống vợ chồng cũng trở nên bế tắc đến mức muốn tống khứ ra khỏi cuộc đời nhau bằng lá đơn Ly Hôn như vậy. Cuộc hôn nhân nào dù có tốt đẹp đến mấy cũng phải có đến trăm lần người trong cuộc muốn ly hôn, cũng phải đến vài chục lần muốn “giết chết” đối phương. Vì chúng ta ai cũng có khuyết điểm. Sống chung một nhà là đã lột trần nhau toàn diện từ thể xác đến tính cách, nhiều khi có cảm giác hối hận vô cùng vì lấy nhau. Mình chắc các bạn cũng có cảm giác vậy ở một giai đoạn nào đấy. Thắng được cái khoảng thời gian BỘC LỘ này thì chúng ta sẽ THẤU HIỂU và sẽ là HẠNH PHÚC. Nếu không sẽ vĩnh viễn mất nhau ở tuổi trẻ, đánh mất tất cả những năm tháng đã yêu thương và cần có nhau đến mức nào!

Cái gì trong cuộc đời cũng có giá của nó hết. Giá của cái nắm tay lúc về già là bao nhiêu giông bão của tuổi trẻ. Hi vọng mỗi chúng ta đều nghĩ được khi muốn chấm dứt hãy nghĩ về những lý do khiến chúng ta bắt đầu! Nghĩ về những phút giây hạnh phúc bên nhau!

Nguồn: Nhữ Thị Thảo

Bài & ảnh sưu tầm

Câu chuyện về “nhà hàng ly hôn” và cái kết bất ngờ…

Trinh Leng Keng

Tôi được nghe không ít người than thở về chuyện tình cảm của mình. Tựu chung lại, ai ai cũng đều cho rằng: tình cảm là thứ rắc rối nhất trên đời này! Nhưng, chẳng phải chính cái thứ rắc rối ấy mới khiến cho cuộc sống nhiều màu sắc hơn ư? Khi tôi hỏi ngược lại, nếu cho họ lựa chọn, họ sẽ vẫn lựa chọn yêu nhau chứ?

Trước khi bật mí câu trả lời cho câu hỏi trên, tôi lại muốn dông dài với bạn một câu chuyện về tình yêu. Câu chuyện mà tôi nghĩ tôi đã xúc động thật sự cho đến khi đọc đến những dòng chữ cuối cùng.

Giống như bao cặp vợ chồng khác, gắn bó cùng nhau 10 năm trời chưa đủ là để gọi là quá dài, nhưng cũng đủ để trong lòng cảm thấy có chút chán chường, mệt mỏi. Anh chồng đề nghị ly hôn, với lý do không còn tìm thấy tình yêu với vợ mình nữa.

Người vợ lặng lẽ gật đầu, không mảy may phản đối, cũng không tỏ ra quá thất vọng. Nỗi buồn trong mắt chị chỉ chực rơi khi biết rằng mối tình của mình năm nào đã sắp đến hồi kết thúc. Nếu hỏi có tiếc thương không, thì đương nhiên là có. Nhưng chị biết, lòng người đã nguội lạnh cũng không nên cưỡng cầu. Có chăng, là trái tim anh tự giác quay trở lại, chứ chị không thể mãi mãi là người đuổi theo sau.

Sau khi mọi thủ tục ly hôn đã xong, anh chồng bước chân ra khỏi căn nhà, lúc này mới ngoảnh lại mời chị vợ một bữa cơm cuối cùng. Người vợ đề nghị hai người có thể đi ăn một bữa cơm đơn giản ở một nhà hàng mới mở trong khu phố. Kỳ lạ thay, nhà hàng ấy lại lấy tên là: Nhà Hàng Ly Hôn. Có lẽ vì nghĩ hợp hoàn cảnh, nên cả hai vợ chồng đều không nghĩ ngợi gì, cứ thế một trước một sau đi vào nhà hàng đó cùng nhau.

Đầu tiên, người phục vụ bước ra và hỏi lần lượt từng người về món ăn ưa thích của người đối diện. Trong khi chị vợ có thể trả lời nhanh chóng và trôi chảy những món ăn mà chồng mình thích ăn, thì anh chồng lại ngẩn ngơ nhìn hết chị vợ lại đến người phục vụ. Bởi vì thời gian yêu nhau và 10 năm sau đó, anh không mảy may hay biết thật ra vợ mình thích ăn món gì nhất, ghét ăn món gì nhất. Anh đã không hề chú tâm tới, dù chỉ là tên gọi của một món duy nhất thôi…

Để chữa ngượng cho chồng, người vợ bèn nói rằng những món chị vừa gọi là món ăn mà cả hai vợ chồng chị trước đây đều thích ăn. Người phục vụ quay trở ra ngoài, và nhanh chóng thôi, lại xuất hiện trở lại.

Lần này, người phục vụ cầm trên tay một bông hồng đỏ, cô gợi ý rằng nếu đây đã là bữa ăn cuối cùng của hai vợ chồng, liệu người chồng có thể tặng vợ mình một bông hồng được không? Hãy nhớ lại lần đầu tiên anh tặng hoa cho vợ mình, người phụ nữ ấy đã xúc động đến nhường nào?

Vậy là, ký ức của 10 năm chung sống được tua lại hệt như một thước phim: rõ ràng, sắc nét, chạm sâu vào lòng người. Lúc này, cả hai đều đang hồi tưởng về quãng thời gian đầu sau hôn nhân. Khi ấy bao nhiêu khó khăn chồng chất, nhưng vợ chồng đều vui vẻ và hạnh phúc bên nhau. Cớ sao, ở hiện tại này, khi họ không thiếu thốn bất cứ thứ gì, thứ duy nhất không tồn tại lại là tình yêu? Có phải số phận đã quá trêu ngươi rồi không?

Khi sự xúc động còn chưa kịp biến mất, thì căn phòng đột nhiên bị tắt điện tối om. Lúc này, bên ngoài đã vang lên tiếng chuông báo cháy. Người vợ sợ hãi nép vào bên cạnh chồng mình theo quán tính. Anh chồng cũng giang tay ôm lấy vợ mình và nói to đầy uy lực: “Đừng sợ, có anh ở đây rồi! Chúng ta sẽ không sao đâu!”

Anh chồng vừa dứt lời thì căn phòng sáng điện trở lại, người phục vụ bước ra thông báo cho hai người biết rằng vừa qua chỉ là một hoạt động cuối cùng của Nhà Hàng Ly Hôn mà thôi. Kỳ thực, hoạt động này sẽ bộc lộ cho hai vợ chồng biết sự lựa chọn trong trái tim họ là gì. Giống như khi xưa, kể cả là khi khó khăn hoạn nạn nhất, người vợ vẫn chọn ở bên cạnh chồng mình. Và ngược lại, kể cả khi sự sống chết ở ranh giới rất mong manh, người chồng vẫn thành tâm mong vợ mình được an toàn.

Và cái kết thì chắc mọi người cũng biết, họ trở về bên nhau, bình lặng và giản dị yêu thương nhau để tiếp tục cuộc hành trình đôi lứa. Tôi biết, nhiều người sẽ cho rằng Nhà Hàng Ly Hôn đã giúp cho cuộc hôn nhân đang trên bờ vực đổ vỡ được gắn liền trở lại. Nhưng ở đời sống hiện tại này làm gì có những Nhà Hàng Ly Hôn như thế?

Cho nên, các bạn đừng bao giờ hỏi tại sao tình yêu đột nhiên biến mất! Đừng bao giờ tỏ ra thiệt thòi lẫn mông lung khi một ngày chợt nhận ra người bên cạnh mình đã chẳng còn là người mà mình vẫn yêu.

Này bạn, nếu bạn không tưới cây, sao có thể mong cây xanh mãi? Nếu bạn không nuôi dưỡng cảm tình với một người, sao có thể mong tình yêu với người ấy đừng cạn?

Thật ra, tình yêu chưa bao giờ là thứ rắc rối nhất trên đời này. Tình yêu đơn giản vô cùng, chỉ là yêu và yêu nhau thôi. Và chúng ta – những cá thể riêng biệt trong những mối tình – mới làm cho tình yêu trở nên rắc rối!

Bây giờ, quay trở lại với câu hỏi ban nãy của những người bạn tôi. Ngạc nhiên là khi tôi kể cho họ nghe câu chuyện này, họ đều nói họ đã từng sai lầm, đã từng vì công việc bộn bề mà trễ nải tình yêu. Thật ra, tình yêu vẫn luôn ở đó, chỉ có họ là không…

Vậy thì, khi nhận ra tình cảm vẫn còn, bạn nói xem họ có chọn yêu nhau không?


 

Chuyen hai “vợ chồng son”-Truyện ngắn HAY cuối tuần

Võ Thanh Phương

Buổi chiều hai “vợ chồng son” ngồi vào bàn ăn. Bà mở nồi cơm điện xúc ra hai bát cơm thì ông lên tiếng hỏi ngay:

– Vẫn cơm buổi sáng hả?

– Cơm còn nhiều đủ cho buổi chiều anh ạ.

Nét mặt ông không vui:

– Em biết là anh chỉ thích ăn cơm nóng mới nấu thôi mà.

– Vâng, em biết, nhưng cơm còn nhiều, nấu thêm cơm mới ngày mai chúng ta lại có cơm cũ.

— Ông lại nhìn vài con tôm bày trong chiếc đĩa nhỏ xinh xinh bên cạnh bát canh rau cải xanh nấu thịt bò cũng nho nhỏ xinh xinh và ông …phát giác thêm: Tôm rim của ngày hôm qua, còn bát canh của buổi sáng nay. Anh nhắc lại anh chỉ muốn cơm canh nóng sốt, bữa nào ra bữa ấy.

— Giọng bà dỗ dành: Ngoan đi, nghe lời em. Hôm nay em hơi mệt, anh chịu khó ăn đồ còn dư đỡ mất công em nấu, đỡ tốn tiền và đỡ chật tủ lạnh.

Bà đã nhẫn nhịn, đã dịu ngọt mà ông vẫn sưng xỉa bưng bát cơm ăn như kẻ bị lưu đày, bị đối xử tàn tệ. Ông ăn lưng bát cơm thì buông đũa suồng sã thô lỗ và đứng dậy xong bữa.

— Bà cảm thấy bị tổn thương và ngán ngẩm. Nỗi buồn bã và ân hận dâng lên tận cổ. Bà nghẹn lời không muốn nói gì nữa…

Mới ở với nhau hơn một năm mà ông đã thay đổi và lộ hẳn con người thật của ông. “Chàng” của… năm ngoái, thuở mới quen không còn nữa…

Hai ông bà gặp nhau trong một buổi sinh hoạt cộng đồng ở Nam Cali. Họ ngồi cạnh nhau. Ông bắt chuyện làm quen trước, qua vài câu thăm hỏi khéo léo, cả hai cùng biết chút đời tư của nhau, cùng độ tuổi và cùng góa bụa đơn lẻ như nhau.

Bà về hưu tiền ít ỏi nên xin hưởng welfare, bà ở căn apartment dành cho người cao niên lợi tức thấp. Đứa con trai duy nhất của bà đã lập gia đình, vợ nó người Mỹ. Một hai năm vợ chồng nó mới từ tiểu bang khác về Cali thăm bà. Bà quen với cảnh sống một mình kể từ khi chồng bà qua đời và con ở xa. Căn phòng bà ở tầng lầu hai, có lan can cửa sau ngập bóng mát cây cao, bà kê chiếc ghế dựa dài ở đây, những lúc rảnh nằm thảnh thơi đón gió và đọc sách báo. Thỉnh thoảng bà gấp sách báo ngừng đọc cho đỡ mỏi mắt và phóng tầm nhìn xa mây trời lênh đênh hay nhìn xuống dưới đất người ta qua lại trong khu apartment mà vui.

Từ khi ông làm quen, niềm vui của bà nhiều hơn. Đã mấy lần bà ngồi ở lan can hiên sau nhìn thấy ông đang đậu xe và đi bộ vào nhà bà, ông ngước lên, bà nhìn xuống, bốn mắt ở xa nhau mà cùng giao cảm, cùng rộn ràng. Họ như mới ở tuổi đôi mươi hẹn hò. Mỗi lần ông đến thăm luôn mang theo một món quà, khi thì bó hoa đẹp nên thơ lãng mạn, khi thì thực tế đời thường một hộp heo quay và hai ổ bánh mì còn nóng để hai người cùng ăn. Bà đáp lễ, có lúc mời ông dùng chung bữa cơm trưa, cơm chiều, ông đều vui vẻ ăn và khen ngon, dù đó là nồi cơm bà nấu hai ngày ăn chưa hết, là nồi cá kho ba ngày vẫn còn, hay nồi thịt kho trứng ít nhất cũng vài ngày cứ kho đi kho lại. Bà cảm động vì đã gặp người cùng sở thích, cảm thông.

Bà tính đơn giản và tiết kiệm vì đồng tiền ít ỏi. Một mình nấu một cup gạo chỉ dính nồi thì bà nấu hẳn vài cup gạo để ăn vài lần, các món kho món mặn cũng thế. Bà có nhiều thời giờ thảnh thơi xem phim truyện trên YouTube và đọc sách bạn bè gởi tặng hay báo miễn phí tha về một đống ngoài chợ búa.

Khi ông ngỏ lời muốn kết hôn với bà, muốn cùng bà “dìu nhau” đi nốt quãng đường đời còn lại bà đắn đo nhiều lắm. Đánh đổi cuộc sống độc thân tự do và nhàn hạ lấy cuộc sống chung hai người trên danh nghĩa vợ chồng rất nhiều khác biệt. Ít nhiều bà sẽ lệ thuộc vào ông.

Về với ông nhà cao cửa rộng, tiền bạc không thiếu. Nhưng trái tim đa cảm của bà đã chọn ông, chọn cuộc sống lứa đôi cuối đời với người mà bà tin là tri kỷ tri âm chứ không vì những thứ vật chất ấy. Nhà bà cách nhà ông chỉ 30 phút lái xe mà hai khung trời khác biệt. Ông ở trong khu hàng xóm sang trọng, căn nhà to đẹp, cuộc sống trung lưu. Các con ông đứa nào cũng thành danh trong ăn học, trong kinh doanh.

Khi bà dọn về với ông, ba đứa con ông giỏi xã giao lịch sự với bà, nhưng bà vẫn đọc thấy chúng nhìn bà với vẻ ái ngại và nghi ngờ. Chắc chúng tưởng bà ăn welfare này lấy ông vì tài sản và danh giá của gia đình ông? Chúng đâu biết ông đã phải năn nỉ cầu mong bà nhận lời và bà đã đắn đo suy nghĩ mãi mới đi đến quyết định sống chung.

Những ngày đầu sống chung đã là những tuần trăng mật, họ như đôi vợ chồng son luôn cho nhau những ánh mắt thắm tình và nụ cười trìu mến bao dung. Họ xưng hô “anh, em” ngọt ngào và trân trọng. Nhưng ông không đơn giản như bà nghĩ. Chắc ông quen sống trong giàu sang, quen được chiều chuộng và quen ra lệnh sai bảo người khác, ông khó tính khó nết đến khác người. Nhà chỉ hai người nhưng ông muốn cơm phải nấu hai bữa sáng chiều, món trưa khác, món chiều khác. Bữa ăn luôn là cơm canh nóng sốt. Ban đầu bà hào hứng chiều ý ông, nghĩ ra những món ăn ngon để thay đổi và không trùng lập. Bà đã lên danh sách những món cho mỗi tuần. Chưa bao giờ bà phải trổ tài gia chánh chăm chỉ đến thế, chồng con bà trước kia chưa được bà tận tình chăm sóc đến thế. Dần dần bà cảm thấy mệt mỏi với công việc bếp núc ngày hai bữa này, vì cả khi bà cảm thấy nhức đầu sổ mũi muốn được nghỉ ngơi vẫn phải lăn vào bếp..

Khi xưa ở một mình, nếu không thể vào bếp bà chỉ ăn một tô mì gói cũng xong bữa.

Hôm nào bà ước lượng sai, còn dư cơm dư canh là bị ông cằn nhằn hao tiền tốn bạc vì ông không thích ăn lại món cũ dù cùng một ngày. Ông đưa ra thí dụ cho bà học hỏi:

– Tách trà ngon chỉ nhỏ bằng hạt mít, nhấp từng chút một mới thú vị, cũng trà ấy mà cho vào ly cối tổ bố và uống ào ào thì chẳng ra gì. Cơm canh em cứ nấu ngày hai buổi, mỗi thứ một ít vừa đủ thôi, trông thanh cảnh và ngon.

Bà chán kiểu ăn uống “quý phái” của ông quá rồi. Bàn ăn mỗi thứ một chút, bày trong bát đĩa sạch đẹp sẵn sàng để mời ông ngồi vào bàn như một khách quý.

Lúc còn ở apartment bà từng vừa ăn ổ bánh mì vừa nằm ghế dựa và nhìn mây nhìn gió ngoài hiên sau nhà cũng là hạnh phúc.

Có lần bà làm bếp, đang đứng chặt miếng sườn heo non trên kitchen island thì ông hớt hãi từ trong phòng chạy ra và… chỉ thị:

– Em làm gì ầm ầm thế? mang xuống nền nhà, tha hồ mà băm mà chặt cho… đỡ hư hại cái quầy này.

– Ngồi đau lưng lắm, mà em chặt vài nhát sườn non thôi mà.

Tuy nói thế bà vẫn phải mang thớt xuống đất để chặt miếng sườn cho xong còn hơn là đứng lý luận với ông và biết là sẽ không có sự thông cảm.

Hay khi bà vào rửa mặt trong restroom thì ông đã vài lần theo bén gót chỉ để ân cần nhắc nhở:

– Em đừng làm nước văng tung tóe lên trên kẻo sinh ra nấm mốc khó sửa chữa lắm.

– Em biết rồi, dù ở apartment em vẫn cẩn thận giữ gìn thế mà. Anh cứ làm như em mới đến Mỹ ngày hôm qua.

Ông rất quí hóa căn nhà của ông, sợ bẩn tường, trầy sơn hư hỏng đủ thứ.

Có lần ông nói hớ, bà hiểu rằng căn nhà này ông đã sang tên cho con gái út và nó muốn ông phải giữ gìn nhà cho tốt để sau này bán sẽ được giá.Thì ra cha con nhà ông tính toán quá. Biết đâu ông cũng đã chia tiền của, sang tên tài sản cho các con rồi mới… được quyền bước thêm bước nữa. Cũng may bà chưa làm hôn thú giấy tờ gì với ông cả, chỉ dọn đến sống chung trước nên đỡ mang tiếng. Bà bỗng nhận ra mình như kẻ ở nhờ, hầu hạ cơm nước cho “chủ”, chăm sóc dọn dẹp căn nhà cho “chủ” và mất quyền tự do của chính mình.

Hiếm hoi lắm gia đình thằng con trai của bà mới về thăm. Bà không muốn tiếp đón chúng trong căn nhà không phải của bà. Mẹ con bà cháu đã hẹn nhau ở nhà hàng, xong con cháu về khách sạn, bà về…nhà chồng.

Hôm ấy bà tủi thân, nghĩ đến con cháu mà rơi nước mắt . Đáng lẽ con cháu sẽ ùa vào căn phòng apartment như mọi lần, bà sẽ nấu bữa ăn ngon đãi con trai và con dâu, bà mua món bánh kẹo mà hai đứa cháu nội yêu thích, chúng sẽ tha hồ cười nói, đùa nghịch và làm xáo trộn căn phòng hẹp. Gia đình bà sẽ trò chuyện hỏi han nhau nhiều hơn, vui vẻ hơn, ấm cúng biết bao nhiêu. Ông đã không hiểu được nỗi lòng bà, không an ủi mà còn cau có:

– Gặp con cháu thế đủ rồi, gặp nhiều thêm phiền phức chứ ích lợi gì..

Bà đã âm thầm xin thuê lại một căn phòng trong khu chung cư cũ, căn phòng trước kia có bóng cây cao râm mát nơi lan can sau nhà nay đã có người khác ở. Nhưng căn phòng nào cũng là căn phòng độc thân, căn phòng vui vẻ cho bà trở về.

Khi nhà cửa đã thuê xong xuôi bà mới lên tiếng chia tay ông.

Ông tức giận và ngạc nhiên, ông đơn giản tưởng bà …thoát khỏi cảnh nhà nghèo, rời xa khu chung cư rẻ tiền về với ông ở nhà đẹp, đi xe sang sẽ là may mắn và hãnh diện cho bà.

Thấy bà cương quyết đòi chia tay, ông đành xuống nước năn nỉ. Dù ông thương yêu bà bao nhiêu không làm bà xúc động nữa. Bản chất vẫn là ông dở hơi khó tính, là người chồng gia trưởng, không thích hợp với bà.

Xách valy ra khỏi cửa nhà ông, bà đổi cách xưng hô và cay đắng nói:

— Mỗi ngày ông chịu khó hai lần ra khu chợ Việt Nam, vào hàng… cơm chỉ nhé. Sáng chỉ một vài món, chiều chỉ một vài món là luôn có cơm canh nóng sốt, thức ăn đổi mới cho ông vừa lòng…

Sưu tầm


 

Tôi không có thói quen giao lưu với người ngồi cạnh trên máy bay-Truyen ngan

Những câu chuyện Nhân Văn

Chi Nguyen

Tôi không có thói quen giao lưu với người ngồi cạnh trên máy bay nhưng vẫn thường để ý một chút, lúc vừa ngồi xuống….trưa nay, cạnh tôi là một anh Tàu sồn sồn, bụng to, đầu hói. Anh đi với một cô gái trẻ, đẹp vô hồn, có lẽ người Việt. Tôi chẳng nghe họ trò chuyện gì. Đang thiu thiu, tôi giật mình vì mấy cái vỗ nhẹ. Là cô gái. Nhìn qua, tôi thấy ghế cạnh mình đang trống. Với vẻ mặt căng cứng, em chồm qua đưa tôi cái gì đó giấu trong tay và thì thào:

_ Anh là Việt Nam phải hôn?

Đúng rồi em.

_ Anh làm ơn cầm giùm em cái này đi. Cầm lẹ đi anh.

Nhìn ánh mắt và nghe giọng nói khẩn cầu, tôi cầm. Là tiền. 200 đô Mỹ. Cái gì vậy em?

_ Anh cất vô liền đi. Em đọc số điện thoại của má em. Anh nhớ rồi chuyển nó cho má em giùm nha anh.

Tôi lấy điện thoại ra và làm theo như một cái máy rồi quay sang em tôi thắc mắc: Sao không đợi qua đến Hong Kong rồi nhờ dịch vụ chuyển về.

_ Hổng được anh ơi, em khổ lắm. Em lấy thằng này là Tàu Mã Lai, nó đi đâu cũng bắt em theo. Ở nhà em cũng không ra ngoài được đâu, như ở t.ù vậy đó. Nó ghen lắm. Đ.ánh đ.ập em hoài. Nè, anh nhìn tay em còn bầm nè. Nó mới qua Saigon công tác rồi kêu má em lên, cho chỉ có được một triệu bạc. Tiền hai trăm này là em mới ăn cắp của nó đó..

Tôi ngóng về phía restroom rồi quay sang em: trời ơi, nó biết rồi làm sao?

_ Em liệu được anh ơi.

Sau khi kéo kỹ khoá chiếc túi xách, tôi hỏi em thêm một câu, sao em không bỏ về Việt Nam đi?

Em nghèn nghẹn:

_ “Bỏ nó thì dễ nhưng em đâu bỏ con mình được anh? Nhiều lúc em muốn ôm con nh.ảy l.ầu luôn”.

Thôi em ơi, không được, không được nghĩ vậy. Em nhớ là còn ba má.

Nói tới đây, thoáng thấy cái đầu hói vừa lú ra khỏi cửa buồng vệ sinh, tôi liền nhắm mắt lại..

Bạn nghĩ sao?? Khi tôi vừa tiếp tay cho một vụ ă.n c.ắp. Nhưng… hai trăm, hai chục ngàn hay hai ngàn cũng không bù đắp nổi những đ.òn r.oi và nh.ục nh.ằn em đã và đang gánh chịu. Em có thể đòi công bằng cho mình, bằng bất cứ cách nào…và tôi biết, hàng ngàn những cô gái Việt Nam cũng đang ngập ngụa trong những đắng chát này, như em…

Cuộc sống là dòng sông, đời người là dòng chảy. Chỉ có dòng chảy mới biết đáy của dòng sông chỗ nào có thắc có gềnh .Không phải ai cũng có thể soi trước cái bến mình sắp cập vào, không phải cuộc hy vọng đổi đời hoặc báo hiếu cha mẹ nào cũng toại thành…

…..Trách ai đây??….

Bài & ảnh sưu tầm

 


 

ĐÊM XA NGƯỜI – Truyện ngắn – Kim Thanh

Việt Luận – Viet’s Herald  ·

Kim Thanh

(Truyện ngắn)

Em ơi! lửa tắt bình khô rượu

Đời vắng em rồi say với ai?

(Vũ Hoàng Chương)

  1. Tôi gặp nàng lần đầu, khoảng giữa 1970, cách đây bốn mươi bốn năm, khi đang là Trung đội trưởng Chính Huấn của Đại đội 204 CTCT Nha Trang. Một buổi sáng, Thiếu úy Cường, Trung đội phó, vào văn phòng gặp tôi, cùng với một thiếu nữ rất đẹp, vẻ hiền thục, tuổi độ đôi mươi. Cường nói:

– Xin giới thiệu với Trung úy, đây là cô Hương Mai, đến xin việc.

Tôi ngừng viết, đứng lên, chào nàng. Thấy gương mặt thanh tú, môi thắm tự nhiên, tóc huyền rẽ đường ngôi ở giữa, buông lơi trên bờ vai, mắt to đen, mũi thẳng, trong bộ quần *jeans* và áo *pull* tím ôm dáng cao thon, đầy đặn, tất cả nơi nàng biểu hiện một vẻ đẹp có phần cổ điển, như trong tranh Raphaël, tràn đầy sức sống, và dưới mắt tôi đã đạt quá tiêu chuẩn của một ca sĩ chuyên nghiệp, nói chi ca sĩ chính huấn – hay nữ huấn đạo, theo ngôn từ chính thức. Hương Mai ngồi xuống, và bắt đầu tự giới thiệu, giọng nhỏ nhẹ, nửa Huế nửa Nha Trang:

– Thưa Trung úy, gia đình em ở Ninh Hòa. Ba em là sĩ quan phục vụ tại Tiểu khu Phú Yên. Em còn mẹ và ba đứa em nhỏ. Em thi rớt Tú tài I, chán quá, bỏ học luôn…

Tôi ngắt lời, nói một câu khá vô duyên:

– Thi rớt là chuyện thường. Đừng vội nản, nhất là mới rớt lần đầu.

Tôi khuyên cô nên tiếp tục việc học. Nghề nữ huấn đạo ba chìm bảy nổi lắm, không có tương lai đâu. Trừ phi, sau này, nếu cô trở thành một ca sĩ hoặc diễn viên nổi tiếng.

Nàng tỏ vẻ ngạc nhiên, đăm đăm nhìn tôi, rồi ngập ngừng hỏi:

– Trung úy nói thế có nghĩa là Trung úy không muốn nhận em?

– Không đâu. Tôi không có quyền quyết định. Về sắc, riêng tôi đã chọn cô rồi, chắc Thiếu úy Cường đây cũng đồng ý với tôi. Về tài, thì cuối tuần này Trung đội sẽ tổ chức văn nghệ để các thí sinh vào thi phần hát. Tôi hy vọng cô sẽ có điểm cao.

Câu này, dĩ nhiên, tôi cũng đã nói với những cô thí sinh khác, trước nàng.

Buổi văn nghệ thuộc loại bỏ túi được tổ chức tại hội trường đại đội.

Như thường lệ, tiếng đàn tiếng trống xập xình vừa trổi lên đã thu hút một số đông khán giả từ khu gia binh và đồng bào quanh vùng Bình Tân – nơi chúng tôi trú quân, không xa Trung Tâm Huấn Luyện Hải Quân bao nhiêu. Dưới ánh đèn màu lấp lánh, bốn nữ huấn đạo “cơ hữu” của đại đội bỗng biến dạng, son phấn điểm tô, đẹp lộng lẫy trong những chiếc áo dài thướt tha, thay cho bộ đồng phục thường ngày tôi đã quen mắt – quần *jeans* và áo sơ-mi trắng pha màu xanh xám. Tám cô thí sinh cũng thế, cũng đều yêu kiều, lả lướt như tiên giáng trần. Nhận ai, bỏ ai, là cả vấn đề làm nhức đầu! Y như thi hoa hậu bây giờ.

Tôi ngồi hàng ghế khán giả, bên cạnh Đại úy Đại đội trưởng 204 Phạm Văn Tải (hiện định cư cùng thành phố Portland, Oregon), một sĩ quan nổi tiếng bay bướm, một đơn vị trưởng có tài chỉ huy và tổ chức, một người bạn trung thành và dũng cảm dám sống chết với bằng hữu và thuộc cấp, từ thời còn ở Ban Mê Thuột, Kon Tum, ai cũng mến. Đặc biệt, ông còn là một nhạc sĩ hào hoa với ngón đàn dương cầm và phong cầm điêu luyện tại các vũ trường, sau giờ làm việc. Còn tôi mù tịt về âm nhạc, văn nghệ, thỉnh thoảng nổi hứng hát vớ vẩn vài bài, nhưng giọng *faux* và luôn sai nhịp, và nếu cực chẳng đã phải ra sàn nhảy tôi chỉ biết có hai điệu tủ: *slow*, mà tôi thích nhất, vì không hao sức, và *boston*, mà tôi đã quên. Nhưng không hiểu sao ông lại bổ nhiệm tôi trông coi trung đội Chính huấn. Sau này, mới vỡ lẽ, đó bởi vì ông không muốn giao trứng cho ác, nghĩa là đặt tôi vào kỷ luật và trách nhiệm nặng nề của một ông “thần giữ của” giùm cho cha mẹ các nữ huấn đạo, đa số còn rất trẻ, theo giao ước bất thành văn với họ: tạo bầu không khí gia đình thân ái giữa các nhân viên và ca sĩ trong trung đội, nhưng đồng thời bảo vệ tối đa các cô khi đi công tác nhất là ban đêm, không để rủi ro nào xảy ra, không để sĩ quan và quân nhân thuộc đơn vị khác hoặc ngay trong đại đội đến ve vãn, dụ dỗ, làm tai tiếng.

Mỗi thí sinh sẽ hát hai bài tự chọn, một tình cảm, một hùng mạnh, và trước đó được phép đến tập mỗi ngày với ban nhạc Chính huấn. Điểm số dựa trên phong cách trình diễn và nhất là giọng ca. Phong cách có thể tập luyện, nhưng giọng ca là thiên phú, cũng như hồn thơ và óc hài hước, như ai đã nói. Ca sĩ cỡ tôi là bị loại ngay. Đêm ấy, cả tám cô thí sinh đều rất xuất sắc. Hương Mai hát bản *Serenata*, nhạc Enrico Toselli, lời Việt Phạm Duy – bài ruột của tôi từ dạo được nghe dĩa thâu của Tino Rossi. *Viens, le soir descend, et l’heure est charmeuse. Viens, toi si frileuse, la nuit déjà comme un manteau s’étend…* Lắng trong tiếng chiều ngân, nhạc dặt dìu ái ân… Nhạc và lời đã hay, và nàng diễn xuất tuyệt vời, như một ca sĩ chuyên nghiệp, với dáng điệu lúc tha thiết, si mê, lúc kiêu sa, hờ hững, với giọng buồn, trầm bổng, lên xuống cung bậc một cách tự nhiên, dễ dàng, theo tiếng *clarinette* thổn thức của một anh sĩ quan bạn, Trung úy Nhuệ, Quân Cụ, được mời đến tăng cường giúp vui. Tôi ngạc nhiên, sung sướng, nghe xôn xao bao nhiêu là mộng cũ và lời yêu gọi mời, giục giã. Cảm giác ngất ngây hiếm hoi đưa hồn xa rời cõi đời ô trọc và khói lửa chiến chinh để trở về những bến mơ thiên đường diễm ảo, cũng như mỗi lần nghe Kim Tước hát bản *Tiếng Thời Gian* của Lâm Tuyền và Juliette Greco ca bài *Les Feuilles Mortes*, phổ thơ của Jacques Prévert. Tôi vốn yêu những ca sĩ và thi sĩ đích thực. Vì muốn hát và viết ra những ngôn ngữ mượt mà, quý phái, trữ tình như thế, họ phải có một tâm hồn rất thanh cao, trong sáng, luôn hướng về cội nguồn Chân Thiện Mỹ từ trời phản chiếu xuống nghệ thuật trần gian.

Một tuần sau, Trung đội Chính huấn họp bàn về kết quả thi tuyển, dưới sự chủ tọa của đại đội trưởng. Chỉ lấy hai trong tám thí sinh, nên việc chọn lựa không dễ. Nàng đứng nhất với số phiếu tối đa gồm của ban nhạc và tất cả nữ huấn đạo. Và của tôi nữa, dĩ nhiên.

  1. Mấy tháng sau, Hương Mai đã quen công việc. Như những nữ huấn đạo khác, mỗi ngày nàng đến đại đội tập dượt đều đặn, và không bao giờ vắng mặt vào những đêm công tác. Gặp tôi, nàng luôn chào hỏi vui vẻ, lịch sự, khác với Thiên Ân, một nữ huấn đạo “ma cũ”, cũng đẹp và hát rất hay, thấy tôi đâu là tìm cách né tránh. Thiếu úy Cường bảo tôi: “Cô ấy giận Trung úy vì đã cấm các cô không được giao du thân mật riêng lẻ với bất cứ ai trong khi công tác và tập dượt.” Còn nhớ trong buổi văn nghệ mừng Tết của Đại đội, Thiên Ân lên hát một bản tình ca (tôi quên tựa đề), và mắt hướng về phía tôi, nói tỉnh bơ: “Bài này em xin riêng tặng Trung úy NKQ, Trung đội trưởng Chính huấn rất độc tài và hắc ám của lòng em.” Cả hội trường cười rộ. Tôi cũng bật cười theo.

Một hôm, Hương Mai đến xin Đại úy Tải cho đi hát tại vũ trường Nha Trang Hotel ngoài giờ để kiếm thêm tiền. Ông chấp thuận, với điều kiện khi cần đi công tác là phải nghỉ hát. Còn tôi khuyên nàng không nên cho ai biết đang làm việc với Đại đội 204 và đổi biệt danh khi hát cho vũ trường, bởi lý do an toàn cá nhân. Dần dần, cảm tình của tôi dành cho nàng tăng trưởng vì tính tình khả ái, tấm lòng chân thật, cử chỉ dịu dàng, cộng với tài nghệ, sắc đẹp tự nhiên và nét duyên dáng trong lời ăn tiếng nói đã làm nàng trở thành ca sĩ hoa khôi, ít ra là đối với lòng tôi. Nhưng tôi may mắn đã dừng lại được ở đó. Quả vậy, tôi không phải là nhà tu hành cũng không đạo đức thật, hay giả, mà vì đã lỡ tự đặt cho mình một nguyên tắc bất di bất dịch qua thời gian và cuộc đời thăng trầm, là tự cấm không bao giờ được tơ tưởng đến, huống chi là đem lòng yêu thương, các nữ sinh học trò của tôi và ca sĩ dưới quyền. Lý do thật đơn giản: họ là những đối tượng tương đối dễ chinh phục, đã đặt hết lòng tin và kính trọng vào mình. Tôi không muốn lợi dụng vị thế của mình, làm thất vọng mọi người. Hương Mai, cũng như Thiên Ân, dường như không hiểu điều đó.

Một buổi chiều cuối tuần, để tưởng thưởng thành quả công tác tâm lý chiến, dân sự vụ tốt đẹp, sau khi tổ chức một tiệc vui chung cho cả Đại đội, Đại úy Tải mời các sĩ quan và nữ huấn đạo ra quán Gió Khơi Số Một, lộ thiên, ở bãi biển Nha Trang ăn bò nhúng dấm chấm mắm nêm, món ngon nổi tiếng của quán. Hương Mai đến trễ, vẻ mặt buồn hiu. Tôi mang theo một chai rượu mạnh, đãi anh em. Nàng ăn ít, nhưng cứ nốc *cognac* của tôi, ly này sang ly khác, khiến tất cả ngạc nhiên, không ngờ tửu lượng của nàng cao như vậy, ăn đứt cả đám nam nhi, nhưng không ai dám cản, sợ bị hiểu lầm là kỳ thị. Đến khi chai Courvoisier gần cạn và mặt nàng tái nhợt, Thiếu úy Cường mới giật lại ly rượu của nàng, ôn tồn bảo:

– Cô say rồi, nên ngưng là vừa.

Nàng không nghe:

– Không sao đâu, cho em một ly nữa! Em đang vui mà!

Cường và các cô lựa lời khuyên nhủ. Ai cũng đoán nàng thất tình hoặc buồn chuyện gia đình. Còn tôi lại nghĩ khác: một người đẹp như nàng khó thất tình lắm, trái lại, làm người ta thất tình thì có. Chắc một chuyện gì kinh khủng đã xảy ra cho nàng. Khi chai rượu cạn sạch, nàng đứng dậy, lảo đảo đến bàn tôi, nói như ra lệnh, tỉnh bơ:

– Trung úy đưa em đi tiểu!

Mọi người há hốc mồm kinh ngạc. Còn tôi không thể tưởng tượng Hương Mai bình nhật rất đoan trang hôm nay có rượu vào lại “chơi bạo” đến thế. Sau mấy giây sửng sốt, các sĩ quan vỗ tay tán thưởng. Đại úy Tải thì cười cười, nhìn tôi chờ đợi.

Tôi vẫn ngồi yên, chưa biết phải làm sao. Thấy thế, Đan Tâm, cô ca sĩ trẻ nhất, chuyên hát nhạc kích động, đứng lên, nắm tay dắt nàng đi ra phía sau quán. Trở lại bàn, Hương Mai mệt lắm, tựa đầu vào vai Cường, lim dim mắt. Đại úy Tải nói tôi đưa nàng về trước, vì tối hôm ấy tôi lái xe nhà – chiếc Peugeot 203 đen cũ kỹ của ba mẹ tôi cho mượn. Tôi bảo Thiên Ân, người rất kỵ tôi, theo cùng. Hai nàng ngồi băng sau. Tôi hỏi Hương Mai về đâu. Nàng đáp, giọng chán chường:

– Về đâu cũng được. Em khổ lắm. Em không muốn sống nữa!

Rồi thiếp đi trong tay Thiên Ân. Không ai biết địa chỉ nhà nàng. Thiên Ân đề nghị về khu gia binh Đại đội, bề nào cũng còn có sĩ quan trực trại và lính gác. Cô dìu nàng vào phòng tôi, hầu như trống trơn, chỉ có một bàn viết, vài quyển sách, và chiếc giường – mà tôi chỉ đặt lưng xuống vào những đêm cấm trại thôi. Khi tôi ngỏ ý không nên để nàng ngủ một mình trong tình trạng đó tại một nơi xa lạ, nhưng đồng thời tôi cũng không thể ở qua đêm canh nàng, Thiên Ân nói:

– Em sẽ ở lại đây với chị ấy, vì em cũng sống một mình. Không sao đâu. Em sẽ ngủ trên chiếc ghế bố kia kìa.

Chờ đến khi các sĩ quan khu độc thân ồn ào kéo về, ghé thăm, tôi mới bàn giao hai nàng lại cho ông phó Cường, đã có vợ hai con, cho chắc ăn. Lúc này Hương Mai đã ngủ mê, hơi thở mệt nhọc. Cường chu đáo lắm, lôi ở đâu ra được một lô mền gối, khăn mặt, ca cóng, bàn chải và kem đánh răng còn nguyên trong hộp, và đặc biệt hai bộ *pyjama* đàn ông mới tinh, chắc là vừa trưng dụng được của một anh chàng sĩ quan độc thân tốt số nào. Trong lúc giúp Thiên Ân căng ghế bố, Cường cười nói với tôi:

– Hôm nay tôi trực, ngoại trừ Trung úy, đứa nào muốn đụng đến hai cô phải bước qua xác chết của tôi. Trung úy yên tâm về nhà.

Tôi và Thiên Ân cùng cười theo. Tôi bảo:

– Anh phải nói như thế này: *kể cả Trung úy*, đứa nào đụng đến hai cô sẽ từ chết tới bị thương…

Sáng hôm sau, tỉnh dậy, Hương Mai nhớ chuyện xảy ra, bèn đi xin lỗi mọi người. Riêng tôi, cho mãi đến bây giờ vẫn không rõ đêm ấy nàng buồn chuyện gì để đến nỗi “em không muốn sống nữa”.

Những quân nhân và nữ huấn đạo trong Trung đội Chính huấn hiểu rõ công việc của mình. Giúp vui cho binh sĩ tại những quân trường và đơn vị tác chiến về hậu cứ dưỡng quân, trong đó thỉnh thoảng có cả lính Căm Bốt được gửi qua thời Sirik Matak, đồng thời trau dồi nơi họ kiến thức chính trị, hun đúc tinh thần chiến đấu, lòng yêu nước, thương dân, v.v… bằng những buổi “lên lớp” ngắn, gọn, dễ hiểu do các sĩ quan trung đội đảm trách và chương trình *mini* văn nghệ gồm những bản hùng ca, vở kịch ngắn, màn ảo thuật, hoặc những trò chơi vui, lành mạnh được giao cho Trung sĩ trưởng ban văn nghệ sắp xếp. Đó là binh vận, tương đối dễ dàng và kết quả mỹ mãn.

Đại đội 204 CTCT đôi khi được vài toán chính huấn từ Sài Gòn ra phối hợp công tác, trú ngụ trong doanh trại đại đội. Tôi nhận thấy những ông trưởng toán này còn “giữ gà” kỹ hơn chúng tôi, hoặc “giấu nghề” thái quá, vì nói là phối hợp, mà chả bao giờ họ chịu cho các nữ huấn đạo tập dượt hay sinh hoạt chung, trao đổi kinh nghiệm với trung đội chúng tôi, làm Đại úy Tải vốn rất xã giao, bặt thiệp cũng phải lắc đầu. Công tác tại những đơn vị gần thành phố, như Trường Hạ Sĩ Quan Đồng Đế, chúng tôi trở về nhà ngay trong đêm. Ở nơi xa, như Trung Tâm Huấn Luyện Biệt Động Quân Dục Mỹ, phải ngủ lại. Những lần đi xa, tôi nhường xe jeep cho Cường và các sĩ quan, các quân nhân khác ngồi xe dodge, còn tôi lái Peugeot, chở theo được bốn cô nữ huấn đạo. Tất cả trang bị súng ống đầy đủ, để tự bảo vệ, khi cần. Đi ngang Ninh Hòa, Hương Mai thường xin ghé thăm nhà, gần quốc lộ. Đoàn xe dừng lại, vẫn nổ máy, trước nhà nàng chỉ độ năm, mười phút, nhưng nàng trở ra, lộ vẻ vui mừng, biết ơn, một lần còn giới thiệu tôi với mẹ nàng.

Một tối, sau buổi sinh hoạt tại Trung Tâm Huấn Luyện Dục Mỹ, cả trung đội chúng tôi và toán Sài Gòn được chỉ định nghỉ đêm trong một phòng học rộng ở khu gia binh, trên những chiếc bàn dài xếp lại với nhau. Riêng tôi, liên toán trưởng, được cấp một chiếc giường ở văn phòng trường. Vì lịch sự với khách, tôi định xin thêm ghế bố cho hai sĩ quan Trung ương, nhưng hai ông cám ơn từ chối, bởi không muốn xa rời các cô ca sĩ của mình.

Tôi ngồi chuyện trò, uống trà với anh em trong trung đội cho tới nửa khuya. Lò mò về phòng, vén màn tính chui vào giường, tôi đụng phải một thân người mềm mại đang nằm chờ. Bật đèn pin lên thì hóa ra Hương Mai, trong bộ đồ ngủ, rất khêu gợi. Tôi giật mình, suýt kêu lên. Nàng bật ngồi dậy, lấy tay bịt miệng tôi, rồi mỉm cười, khẽ nói:

– Suỵt… Em đây, chứ không phải ma. Đừng sợ. Anh cho em ngủ ở đây với anh đêm nay.

Tôi đứng chết trân, á khẩu, nhìn nàng không chớp, căng mắt định thần xem có cái đuôi chồn liêu trai lấp ló sau lưng nàng không, hoặc nàng có say như tối nào? Tình thế thật khó xử và nguy hiểm. Một đàng nỗi khát khao bị ức chế bấy lâu thôi thúc, một đàng danh dự và trách nhiệm của một sĩ quan chỉ huy đè nặng lên vai, không đùa được. Lại còn cái nguyên tắc bất di bất dịch của tôi! Lại còn vết thương lòng buốt nhức và mảnh trăng thề bỏ lại ở Qui Nhơn! Sau mấy phút vật vã với chính mình, cuối cùng lý trí thắng. Nhưng từ chối thế nào để nàng không tự ái, bực bội, tri hô cho mọi người nghe?

Đoán được sự dằn vặt trong tôi, nàng đứng lên, nắm lấy tay nhẹ nhàng kéo tôi xuống ngồi bên nàng. Và ôm tôi, thủ thỉ:

– Hãy hôn em đi, một lần thôi, cho em biết rằng anh cũng đáp lại tình yêu của em…

Tôi nói, thầm thì như năn nỉ:

– Tôi không thể làm gì được bây giờ, cô… em hiểu cho. Tôi hứa sẽ yêu em, sẽ hôn em, hoặc nếu em muốn, sẽ van xin tình yêu em ở một ngày khác, một hoàn cảnh khác, hay một kiếp khác, biết đâu, khi em không còn là ca sĩ trong trung đội của tôi nữa. Bây giờ thì tôi không thể, em hiểu cho…

Một giọt nước mắt rơi nhanh xuống cánh tay tôi.

Nàng thút thít:

– Anh càng trốn chạy tình yêu em chừng nào, em càng đuổi bắt anh chừng nấy, dù từ bên kia cõi đời. Em hiểu nỗi khổ và cái nguyên tắc kỳ quặc, điên rồ của anh. Nhưng anh đâu có hiểu nỗi khổ của em. Anh tàn nhẫn lắm, anh biết không? Thôi em đi, để Trung úy nghỉ.

– Không, em cứ ở đây. Tôi xuống lớp học.

Tôi đặt nàng nằm lại ngay ngắn trong giường, đắp chăn cho nàng. Rồi bước ra giữa trời khuya, làn gió mơn man trên má, trên tóc, thấy người nhẹ thở. Bỗng nhiên tôi lại nghĩ đến chuyện anh mục đồng trong truyện *Les étoiles* của Alphonse Daudet đã để cô chủ nhỏ xinh đẹp ngồi dựa vào vai anh ngủ vùi suốt đêm thâu trên núi, dưới bầu trời đầy sao, mà không dám động tĩnh gì hết. Tôi bước vào gian phòng của trung đội. Hạ sĩ Mừng còn thức. Anh ta hỏi, “Trung úy chưa nghỉ sao?” Tôi lắc đầu, và hỏi lại, rất khẽ, “Còn anh, chưa ngủ à? Các nữ huấn đạo đâu?” Mừng chỉ tay về một góc phòng.

Các cô chắc đã say giấc ngủ, màn buông kín mít. Cách đó không xa là ông phó Cường và hai ông bầu Sài Gòn. Cuối cùng, tôi nói với Mừng:

– Tôi đến ngủ với anh em cho vui.

Cả trung đội không ai hay Hương Mai đêm ấy đã nằm trong giường của tôi và chuyện gì đã xảy ra giữa hai người.

Sáu tháng sau, Hương Mai đột ngột xin nghỉ việc, lấy lý do muốn làm ca sĩ toàn thời gian cho nhà hàng Nha Trang Hôtel. Lúc từ giã, nàng nói với tôi, có sự hiện diện của Cường và một số quân nhân:

– Bây giờ em không còn là ca sĩ của Trung đội nữa. Em sẽ nhớ nó lắm!

Chỉ một mình tôi hiểu câu nói ấy. Từ đó, nàng không bao giờ trở lại Đại đội dù để thăm bạn bè, và cũng chỉ một mình tôi hiểu vì sao. Rồi cuối năm 1972, tôi phải đổi về trường Đại Học CTCT Đà Lạt. Đêm cuối cùng trước khi rời bỏ Nha Trang, tôi đến vũ trường, tìm nàng. Trên sân khấu, Hương Mai đang hát bản *Besame Mucho*, lời Việt, giọng buồn não nuột, và dưới sàn nhảy, những cặp tình nhân đê mê dìu nhau vào cõi mộng. Xong bài hát, nàng tiến nhanh đến bàn tôi, cười tươi, nét mặt rạng rỡ, nhưng đôi mắt long lanh như có ngấn lệ, hỏi dồn:

– Anh… Trên sân khấu, em thấy anh vào. Em chờ anh từ một thế kỷ rồi. Sao đêm nay anh mới đến? Anh đã quên em rồi sao?

Khi biết tôi đến từ biệt nàng đi xa, nàng nói sẽ xin nghỉ hát sớm để “sống với anh cho hết đêm nay”. Lên xe, tôi đề nghị ra biển. Chúng tôi ngồi trên bãi cát còn ấm nắng chiều, có bóng thùy dương, hắt xuống từ những ngọn đèn đường, chở che, đồng lõa. Sóng vỗ, tràn vào bờ, xóa hết dấu chân của những tình nhân chia cách, như lời thơ Prévert ngày nào. *Et la mer efface sur le sable les pas des amants désunis*. Trăng mơ chiếu những tia lẻ loi, vàng vọt trên biển vắng. Chân trời tối mờ, xa tắp. Nàng nhắc lại chuyện cũ, chuyện chai Courvoisier, chuyện “Trung úy đưa em đi tiểu”, và tự trách “sao bữa đó em… cà chớn dữ vậy?” Rồi cả hai cười vui. Rồi tựa đầu vào ngực tôi, như trong đêm Dục Mỹ, nàng khẽ nói, lời nhẹ tơ vương:

– Hãy hôn em đi, một lần thôi, cho em biết rằng anh cũng yêu em. Hãy ôm em nhiều, thật nhiều. *Besame mucho, mucho, mucho*. Em đâu còn là ca sĩ trong trung đội của anh nữa mà anh phải sợ?

Rồi ngước nhìn ánh trăng mờ, nàng hỏi:

– Có bao giờ anh mơ một ngày anh sẽ đưa em về nhà… Nhà của chúng ta, ở một phương trời khác, khuất xa loài người độc ác và thế gian vô tình này, một nơi chỉ còn mình anh với em và đàn con nhỏ, xinh đẹp của chúng ta? Có bao giờ anh sẽ nói yêu em mãi mãi, cho đến sau bên kia đời? Em sợ lắm, sợ anh sẽ quên em…

Tôi thở dài, nhẹ nhàng bảo:

– Anh cũng mơ như em và sẽ không quên em bao giờ. Nhưng hãy cứ sống với hiện tại trước đã, như đêm nay có em và anh bên nhau. Là đủ. Làm sao có thể biết được ngày mai? Tình yêu nào cũng mong manh như sương như khói, cần phải nâng niu, vì *bước đi sẽ đứt động hờ sẽ tiêu*, như trong thơ Xuân Diệu đó em…

Và rồi từ đêm đó, tôi không còn gặp lại nàng. Vì bận bịu công việc và vài hình bóng khác lướt nhẹ vào đời, chiếm chỗ của nàng, tôi không về Nha Trang bao giờ nữa. Thỉnh thoảng nhớ Hương Mai và những kỷ niệm có nàng, tôi thở dài, lòng thấy bùi ngùi và buồn vô tả.

  1. Cho đến sau 30/4/75 và tám năm đọa đày. Từ những trại tù cải tạo, tôi trở lại quê cũ với mảnh đời vỡ vụn và tâm hồn trống vắng. Đến Nha Trang Hôtel tìm Hương Mai và *dĩ vãng nào xanh như mắt em* (Đinh Hùng) mới biết vũ trường đã đổi thành phòng trà, cà phê, có tên mới, chủ mới. Người ta không biết “ca sĩ Hương Mai trước 75, tóc có đường ngôi rẽ ở giữa” là ai. Một hôm tình cờ được gặp lại Thiên Ân bán vải tại chợ Đầm. Trông cô vẫn còn trẻ đẹp, thách đố thời gian tàn nhẫn và cuộc đổi đời bi đát, nhưng trong đôi mắt cô – cũng như các giai nhân Nha Thành một thời vang bóng còn kẹt lại – tôi đọc được, ôi mênh mông là nỗi u hoài khôn nguôi của những nàng tiên bị đọa đày. Thiên Ân ôm chầm lấy tôi, khóc ròng, rồi kể lể:

– Từ ngày anh đi, bao nhiêu chuyện đã xảy ra. Em nghỉ làm ở Đại đội, hát cho Nha Trang Hôtel được một năm thì mất nước. Sau 75, Phương Hoa lấy một dược sĩ quân y “ngụy” vừa ra trường, nghe nói đang ở Mỹ. Đan Tâm vào Sài Gòn sinh sống. Mấy cô nữ huấn đạo khác thì mỗi người một ngả. Đại đội tan tác hết. Đại úy Tải, Thiếu úy Cường chắc cũng đi cải tạo, em không biết ở đâu. Đôi khi có việc đạp xe ngang qua Bình Tân thấy không còn dấu vết gì của Đại đội cũ, nhất là căn phòng ngủ trống trơn của ông “Trung úy rất độc tài và hắc ám của lòng em”, em buồn muốn rớt nước mắt. Em lập gia đình với một thiếu úy Lực Lượng Đặc Biệt, có một đứa con trai năm nay được mười tuổi. Chồng em tử trận trên đèo Khánh Dương hai tháng trước khi Nha Trang mất.

Thiên Ân kể chuyện huyên thiên, mà không một lời nhắc đến Hương Mai. Tôi sốt ruột lắm, nhưng tự chế, không hỏi. Cuối cùng, cô cũng nói:

– Hương Mai chết rồi. Trong tay em…

Tôi hoảng hốt, ngắt lời:

– Ôi, thật vậy sao?

– Chuyện dài lắm. Mời anh tối nay đến nhà em chơi, ăn cơm, em sẽ kể anh nghe…

Mấy tháng sau ngày anh lên Đà Lạt, Hương Mai cặp bồ với một thương gia giàu sụ, khách hàng thường trực của Nha Trang Hôtel, có vợ con, vừa mập vừa lùn vừa hói, lớn hơn nàng gần hai mươi tuổi. Bà vợ chằn lắm, đã mấy lần đến bắt ghen tại vũ trường. Nhờ em và nhân viên an ninh can thiệp, Mai không việc gì, nhưng mang tai tiếng phải bỏ hát và bỏ luôn lão ta. Sau 75, nàng giấu kỹ lý lịch, đổi tên, đổi họ, được đi hát lại, và xin học lớp kịch nghệ, và trở thành một diễn viên sân khấu có hạng, rất được ái mộ. Thời gian này nàng chung sống với một nhà văn soạn kịch trẻ, đang lên, tên Lân, nghe nói là một Thiếu úy trường Đại Học CTCT của anh vừa mãn khóa, chưa kịp đeo lon, nên trốn cải tạo, từ nơi khác đến Nha Trang mua được hộ khẩu ở Xóm Mới, khai là cựu sinh viên đại học Đà Lạt, ban báo chí, và như thế tưởng qua mặt được bọn Công an địa phương. Lân và Hương Mai không hề biết là họ bị theo dõi và canh chừng gắt gao. Nàng cũng không hay rằng Lân lén viết gửi ra ngoại quốc bài vở có nội dung chống Cộng, cho đến một hôm ở phố về tình cờ nàng bắt gặp anh ta đang loay hoay giấu một lô giấy tờ trên trần nhà. Lân biết bị lộ, nhưng rất tin tưởng nàng, nên ỷ y. Lúc này nàng ghiền ma túy nặng, và vì say mê danh vọng và mong được đãi ngộ thêm, đã một lần phải trao thân cho tên Trưởng Ty Văn Hóa tỉnh cứ đeo đuổi, sách nhiễu nàng. Thấy tình thế đã chín muồi, Công an bắt đầu ra tay.

Đầu tiên, chúng gài bắt nàng về tội mua và xử dụng ma túy. Dùng lời ngon ngọt, chúng dụ dỗ nàng khai ra chỗ Lân giấu tài liệu, để đổi lại những ưu đãi dành cho các ca sĩ, diễn viên thượng thặng. Rồi đe dọa, nếu ngoan cố, nàng sẽ bị đuổi khỏi đoàn kịch và bị tù về tội tàng trữ ma túy. Cuối cùng, nàng chấp thuận làm cộng tác viên, khai hết, và lập tức được thả ra.

Trưa đó, trở về, nàng thấy công an đứng chật nhà hai người, và một ô vuông gỗ trên trần bị tháo xuống, và Lân đang bị còng tay, mặt mũi sưng vù, ngước lên nhìn nàng, vẻ khinh bạc, không nói một lời. Nàng hiểu, và chạy bay ra khỏi nhà, lao vào chiếc xe vận tải đang phóng ngược chiều…

Trong cơn hấp hối, lúc tỉnh lúc mê, tại bệnh viện, Hương Mai nhờ em xin Lân tha thứ, nếu sau này còn gặp anh ta. Nàng thầm gọi tên anh, khóc nức nở, lo sợ một ngày anh biết được những chuyện tồi tệ nàng đã làm và sẽ hết yêu nàng. Vì, nàng nói, anh vẫn là tình yêu duy nhất của nàng. Trước đó lâu lắm, khi tụi em trở thành bạn thân, Hương Mai có kể em nghe chuyện đã xảy ra trong đêm công tác ở Dục Mỹ giữa anh và nàng. Nếu anh ở lại với nàng tối hôm ấy, thì mặc dù nàng tự dâng hiến, em tin rằng Hương Mai đã quên anh ngay, như một trong nhiều người đàn ông khác đi qua đời nàng sau này, mà nàng rất ghê tởm. Cũng như em, phải sau một thời gian dài xa anh, sau bao giông tố và cạm bẫy trong cuộc đời, mới hiểu con người trung hậu của anh, qua vẻ ngoài mà anh cố tình làm ra nghiêm khắc và hiểu rằng tận đáy hồn em, nói ghét anh không có nghĩa là ghét anh. Phụ nữ tụi em bị quyến rũ ở người đàn ông bởi nhiều cái khác hơn, cao quý hơn thể xác, tiền tài, địa vị. Đó là sức mạnh tinh thần, tâm hồn cao thượng, đối xử tế nhị, phong thái trượng phu, không xu nịnh hèn mạt, lưng thẳng như thân cây trúc, đồng thời đó còn là sự khổ đau, dằn vặt, và nhất là dũng cảm, trước những chọn lựa khó khăn.

Đối với Hương Mai và em, tình yêu như đóa hoa, hái xuống sẽ úa tàn đi, nhưng nếu được giữ lại trên cành, nó sẽ vĩnh viễn sống trong tim, dù qua bao nhiêu gió mưa tơi tả. Anh đã giữ đóa hoa tình yêu của nàng còn mãi trinh nguyên. Nàng nói hẹn gặp lại anh để cùng anh sống nốt những ngày hạnh phúc dở dang trong căn nhà nàng nói đã một lần mơ ước, ở cõi khác, chắc chắn tốt đẹp hơn cuộc đời này. Hôm sau, nàng chết trong tay em, vẻ mặt rất thanh thản, không còn thấy đớn đau nữa. Bấy giờ là giữa mùa thu 1982, chắc anh còn đang bị lưu đày cải tạo ở nơi nào trên miền Bắc…

Thiên Ân ngừng kể, đưa mắt buồn rầu nhìn qua song cửa. Mưa rơi tự khi nào, giăng kín khung trời mờ tím. Đêm xuống càng thêm lạnh trong hồn người quả phụ – một cựu ca sĩ chính huấn tài sắc vẹn toàn một thời. Tôi đứng lên từ biệt, hôn lên má Thiên Ân, ôm đứa nhỏ vào lòng, và ngậm ngùi nói:

– Cám ơn em thật nhiều đã kể cho anh nghe câu chuyện thương tâm này. Giống như Anna Karenine, nhân vật của văn hào Nga Tolstoï, chắc em còn nhớ, Hương Mai đã chọn lấy cái chết để chuộc những lỗi lầm. Chắc nàng đã tìm được sự cứu rỗi, tha thứ và bình an ở bên kia thế giới, nơi không còn bất hạnh, hận thù, gian dối. Hôm nào, em hãy dẫn anh đến thăm mộ nàng, và xin lỗi nàng. Anh mới là người cần được nàng tha thứ.

Kim Thanh


 

HAI CHỊ EM – Dinh van Son – Truyen ngan HAY

Nghệ Lâm Hồng

HAI CHỊ EM

Dinh van Son

Sáng nào chị Hai cũng chở tôi tới trường đi ngang qua quán cafe cây mận bắt gặp anh Tư mỉm cười nhìn chị. Chị tôi cũng mỉm cười nhìn anh, biết là ảnh thích mình nhưng chị vẫn làm lơ vì còn độ tuổi đi học.

Nhà anh Tư phía cuối dưới xóm, qua ngõ quanh co sát mé sau vườn. Cha mẹ đã già mà chỉ có mình anh. Anh bỏ học nửa chừng ra học nghề sửa xe rồi mở tiệm. Cái tiệm nho nhỏ góc ngã ba cuối con đường làng. Trên đường này tới trường còn lỗ chỗ quanh co đầy ổ voi, ổ chuột bởi vậy nên chị tôi chở tôi tới trường vô cùng vất vả. Nhớ hôm nào trời mưa rơi lất phất chị đạp xe bỗng trật dây sên, đang loay hoay chưa biết làm sao thì bỗng nhiên từ đâu anh đạp xe tới đưa áo mưa cho chị rồi ngồi hụp xuống gắn lại sợi dây sên. Lúc dẫn xe đi anh không quên dặn tôi chiều mai đem xe tới tiệm anh thay cho sợi dây sên mới. Chị Hai mỉm cười nhìn anh nói cảm ơn lí nhí trong cổ họng, tôi giận chị la lên “có cảm ơn thôi mà chị cũng ngượng ngùng à ! “. Trông ảnh thật tội nghiệp đầu đội trời mưa rơi lất phất, tay chân thì lấm lem dính dầu mỡ sợi dây sên, tôi thấy thương anh vô cùng. Sau hôm đó thì chị Hai tôi cũng có cảm tình chút chút đối với ảnh. Chiều hôm sau tôi đạp xe tới tiệm anh sửa chữa. Sau khi thay dây sên mới xong, tôi trả tiền anh không lấy rồi nhét tờ giấy nhỏ vào túi tôi nói gởi cho chị Hai.

Dọc đường trở về nhà tôi gặp nhỏ Hạnh lùn rủ đi ăn bún canh thế là tôi quên hẳn luôn tờ giấy nhỏ gởi cho chị. Ai có ngờ đó là lá thư tỏ tình và hẹn gặp chị uống nước sau sân đình. Tôi bỏ quên trong túi áo rồi bỏ vào thau đồ đem giặt báo hại anh đứng đợi chị Hai tới tối khuya mới chịu về. Hôm sau anh gặp tôi gương mặt buồn rười rượi cứ nghĩ chắc chị tôi không thích anh ấy. Tôi đến xin lỗi anh kể lại sự tình, anh mỉm cười vui lắm.

***

Thời gian dần trôi, chị Hai tốt nghiệp ra trường xin được việc làm ở trên Saigon. Anh vẫn chờ đợi chị hai. Tía má tôi ngày càng già yếu cũng mong chị yên bề gia thất. Một buổi chiều mưa rơi lất phất anh đến nhà tôi cậy nhờ mai mối xin cưới chị hai. Tía má tôi mừng lắm rồi định ngày kết hôn. Nhưng mà trong thời gian học tại Saigon chị quen và yêu một người học trên một lớp. Gia thế nhà anh ta rất giàu có, anh đẹp trai cao to hát hay đàn giỏi là thần tượng của các cô sinh viên cùng trường trong đó có chị Hai tôi. Vì thế chị tôi từ chối lời cầu hôn với anh Tư viện lý do mới ra trường cần đi làm có chỗ ổn định mới tính chuyện cưới xin. Nghe chị nói vậy lòng anh buồn rười rượi đôi mắt đỏ hoe, gương mặt nhợt nhạt, anh quay trở về mà trái tim tan nát héo hon.

Tối hôm đó hai chị em tâm sự tôi nói sao chị ác quá, anh Tư thương chị thật lòng, người như ảnh khó kiếm lắm sao chị lại từ chối. Chị nói thật là do trình độ anh và chị chênh lệch nhau rất lớn sợ sau này anh mặc cảm mà ảnh hưởng đến hạnh phúc gia đình. Còn người mà chị đang thầm thương trộm nhớ là anh chàng đẹp trai con nhà giàu hát hay đàn giỏi. Nhưng tôi cũng cảnh báo chị nếu anh ta có điều kiện như vậy ắt là sẽ có rất nhiều cô theo đuổi làm gì tới lượt chị. Nhà mình ở dưới quê cũng đâu giàu có gì làm sao môn đăng hộ đối. Nghe tôi nói xong chị mỉm cười nói nhỏ :

– Chị hỏi thiệt em nè ?

– Dạ, sao chị Hai ?

– Em có thương thầm anh Tư phải không ?

– Dạ…thì em có cảm tình với ảnh chút chút.

– Ừ, chị hiểu rồi…

Chị Hai không nói gì thêm nữa, chị úp mặt vào trong, tôi chỉ nghe tiếng nấc mà thôi. Đêm nay thật khó ngủ cho hai người.

***

Mấy hôm sau đó nghe chị Hai kể lại là viện lý do cần nhiều tài liệu trong công việc nên chị có đến nhà anh nhờ cậy. Anh rất nhiệt tình giúp đỡ và cảm nhận được tình cảm của chị Hai. Anh nói với chị rằng có rất nhiều cô gái đến làm quen nhưng ảnh chỉ để ý đến chị thôi vì nét duyên ngầm. Sau đó hai người đã có những khoảnh khắc yêu thương hò hẹn. Được biết gia đình anh làm nghề kinh doanh địa ốc rất khá giả nên chị rất trông mong lọt vô được gia đình này.

Mấy năm sau gia đình anh có giấy bảo lãnh ra nước ngoài sinh sống. Anh hẹn chị ba năm sau sẽ về thưa chuyện cùng tía má rồi làm lễ cưới luôn. Chị chờ đợi ba năm trôi qua rồi ba năm nữa nhưng hình bóng anh chàng lãng tử như bóng chim tăm cá. Thời gian dần trôi, tuổi xuân chị héo mòn, chị đã khóc hết nước mắt. Qua thăm dò bạn bè và theo dõi được biết anh ta đã lấy một cô gái khác ở bên đó. Chị đau khổ lắm, chị đã ân hận vì không nghe theo lời khuyên của mọi người.

Trong khi đó tôi đã thương thầm anh Tư từ lâu. Ngày nào tôi cũng đạp xe qua đây giả vờ xe hư để được anh sửa chữa. Rồi một hôm tôi đi học về bị trúng mưa nằm nóng sốt li bì trong phòng ngủ, anh nghe tin chạy tới chăm sóc chu đáo, nấu cháo mua thuốc cho tôi uống, thế rồi tình cảm giữa tôi và anh phát sinh. Ảnh cũng biết là chị tôi đã thương người khác nên đồng ý đến với tôi. Hôm cữ hành hôn lễ chị Hai có về dự, nhìn thấy tôi hạnh phúc chị nắm tay tôi rươm rướm nước mắt. Tôi biết chị vui lắm, mừng vì đứa em mình thật sự lấy được người thương nó. Mừng vì đứa em rễ là người đàn ông có trách nhiệm, hiền lành và chí thú làm ăn.

Đêm hôm trước khi về nhà chồng, hai chị em đã ôm nhau khóc. Chị nói trong nghẹn ngào :

– Út à, chị thương em nhiều lắm. Tía má già yếu rồi sẽ mất. Chị chỉ còn mình em là thân nhân thôi.

– Chị à, em cũng thương chị nhiều lắm. Sao chị không tìm hạnh phúc khác. Em biết có nhiều nơi dọ hỏi chị mà

– Ừ rồi chị sẽ tìm. Em nhớ giữ gìn sức khỏe ngày mai về làm dâu nhà người ta phải vui vẻ nha em

– Dạ, em biết rồi. Chị ở chơi với em vài ngày rồi lên Saigon nha chị

– Ừ chị sẽ ở lại đây chơi vài ngày với em rồi chị sẽ đi

– Ôi em thương chị quá !

– Chị cũng thương em…

Hai chị em ôm nhau khóc rưng rức dưới vầng trăng khuya. Chỉ có tiếng côn trùng nỉ non nghe lời tâm sự của hai người.

***

Thời gian trôi mau, tía má tôi lần lượt qua đời. Gia đình nhỏ của tôi hạnh phúc có thêm hai đứa con một trai một gái. Còn chị Hai vẫn ở vậy đến giờ. Mặc dầu biết là trông chờ trong vô vọng, có nhiều nơi dạm hỏi nhưng như trái tim lòng đã rỉ máu khó làm lành vết thương.

Mãi đến sau này trong trận bệnh thập tử nhất sinh tôi mới biết qua cuốn nhật ký chị đã ghi. Thì ra tất cả câu chuyện chị quen anh chàng đẹp trai con nhà giàu ở Saigon chỉ là câu chuyện chị bịa ra mà thôi. Bởi vì chị Hai thấy tôi thương thầm anh Tư nên chị bỏ lên Saigon đi làm công nhân chứ đâu có học hành gì đâu. Chị Hai thấy em mình thương người mình yêu thì đã nhường tình yêu đó lại cho em mình.

Chị đã chôn chặc một mối tình câm lặng không hề oán trách. Đêm đêm chị nhớ anh ấy da diết nhưng đành ôm mối tơ lòng gói trọn vào trong tim. Cho đến bây giờ chị vẫn ở vậy dù tóc đã hai màu muối tiêu. Em thương chị quá chị Hai, tại vì em mà chị phải dở dang cả một đời của tuổi thanh xuân. Em cúi đầu xin lỗi chị.

Dinh van Son


 

Đổi bác sỹ khác!-Truyen that ngan

Chính Trực

ĐỌC HẾT CÂU CHUYỆN, SUY TƯ MỘT CHÚT, RỒI CHÚNG TA SẼ NHẬN RA NHỮNG BẤT CẬP…

Và đây là câu chuyện!

Đổi bác sỹ khác!

Một bệnh nhân đang nằm trên giường bệnh chờ phẫu thuật thì bác sỹ kíp trưởng đến.

Vừa nhìn thấy bác sỹ kíp trưởng, bệnh nhân biến sắc mặt cắt không còn giọt máu, toàn thân run rẩy, miệng kêu gào: “Đổi bác sỹ khác! Đổi bác sỹ khác!”

Người nhà thấy vậy nắm chặt tay ông và động viên ông: “Đây là bác sỹ phó khoa, thạc sỹ y khoa đấy!”

Người bệnh vẫn lắc đầu nguây nguẩy: “Biết rồi! Đổi ngay! Tao là giáo viên hướng dẫn luận văn thạc sỹ của nó, bằng thạc sỹ của nó do tao cấp!”

Tình Nghĩa, Nghĩa Tình – Khôi An.

U 70 LVC.

Kimtrong Lam  ·   ·

Khôi An.

Lần đầu tiên tôi có ý định viết chuyện này là năm 1989. Năm đó, cả nước Mỹ xôn xao tranh cãi về việc một người đàn ông đã đốt lá cờ Mỹ ngay trên thềm toà nhà Quốc Hội trong buổi họp thường niên cuả đảng Cộng Hòa. Lúc đó tôi đã nghe nhiều bàn tán về sự kiện này từ phía chống đối cũng như phe ủng hộ. Ngày đó tôi vưà mới tốt nghiệp đại học, chưa để ý nhiều đến những sinh hoạt chính trị xã hội ở chung quanh, nhưng trong lòng tôi đột nhiên dâng lên một cảm xúc gần như là tiếc cho người đàn ông đã làm hành động đó. Nếu ông ta từng nhìn lá cờ Mỹ qua đôi mắt của tôi và của hơn một trăm người bạn đồng thuyền vaò buổi sáng muà hè năm ấy, không biết ông ta có hành động khác đi chăng”

Đêm trung tuần tháng 7 năm 1983 bắt đầu khá êm ả. Con thuyền nhỏ đầy kín người đã ra hải phận quốc tế được gần 24 tiếng. Tôi đã hơi quen với mùi hôi tanh lợm giọng trong thuyền nên cảm thấy hơi tỉnh táo, ngồi bó gối nhìn cô em gái nằm bên cạnh đang mê man vì say sóng. Ngước mắt nhìn lên bầu trời đang chuyển dần từ màu xám sang màu đen thẫm, tôi thầm cầu nguyện cho được bình an.

Cám ơn trời, biển khá êm, con tàu không vật vã mà chỉ chồm lên hụp xuống theo từng đợt sóng. Tiếng khóc cuả con nít, tiếng càu nhàu than thở, tiếng chửi thề cũng lắng dần khi mọi người chìm vào giấc ngủ mệt mỏi…

Hình như tôi có thiếp đi một lúc vì khi tôi giật mình chòang dậy thì sự hoảng sợ đã chụp xuống chung quanh. Bác tài công đang hối hả kêu mấy người lái phụ và các thanh niên khác dùng bạt bịt kín khoang thuyền nơi mọi người đang nằm chen chúc. Chiếc đèn măng xông duy nhất trong phòng máy bị thổi tắt phụt sau khi bác tài công ra lệnh:

– Tắt đèn! Tắt hết đèn đi!!!

Lắng nghe những lời thì thào trao đổi một lúc tôi mới hiểu ra rằng tàu chúng tôi đang bị tàu cuớp Thái Lan đuổi bắt. Chúng tôi phải tắt hết đèn chạy xuyên vào biển đen trong khi tàu Thái ra sức rượt theo. Cả tàu đuợc lệnh tuyệt đối im lặng, những đứa bé vưà lên tiếng khóc phải bị bịt miệng ngay. Không biết lúc đó tôi còn trẻ quá, dại dột quá, có nhiều tin tưởng quá, hay vì cảm xúc cuả tôi đã tê dại đi, nên tôi không thấy sợ hãi lắm. Tôi gần như không cảm được sự hãi hùng của hơn một trăm sinh mạng đang loi ngoi trong khoang thuyền bịt kín. Tôi chỉ thấy khó thở vô cùng; tôi chỉ thấy nhẹ gánh cho em tôi đang mê man, chắc nó không phải cảm thấy sự ngộp thở tưởng chừng như không kham nổi mà tôi đang chịu; tôi chỉ biết tự nhủ ráng lên, ráng lên; và tôi không ngừng cầu xin Thượng Đế, Chúa, Phật, và tất cả những đấng thiêng liêng cứu vớt chúng tôi…

Chúng tôi chạy vòng vèo ngay truớc mũi tử thần trong suốt một đêm, và bình minh tới dù không ai mong đợị. Những tia sáng đã quét đi màn đêm đang che chở chúng tôi. Bác tài công buông những câu chửi thề uất hận khi khoảng cách giữa bọn cướp và chúng tôi thu ngắn trong khoảnh khắc… Rồi tôi lại nghe bác lại chửi, nhưng lần này đượm vẻ ngạc nhiên pha chút vui mừng:

– ĐM, hình như tụi nó bỏ đi hả bây”

Tấm bạt bịt khoang được hé ra cho chúng tôi khỏi chết ngộp, và qua cái khe hở nhỏ đó, một con cá nhỏ xíu bằng ngón tay cái đã phóng vào thuyền, rơi xuống ngay cạnh tôi. Tôi ngước mắt cố nhìn nhưng vì đang ngồi bẹp trong khoang thuyền nên tôi chẳng thấy được gì ngoài một mảng trời đang sáng dần.

Bỗng bác tài công và những người trong phòng máy trên cao vụt la lớn:

– Có tàu! Có tàu lớn ở đàng xa kià!

– Tàu gì vậy” Vái trời cho không phải tàu Liên Xô!

Chúng tôi như đuợc hồi sinh, ai cũng nhỏm lên nhìn nhưng vì lúc đó chiếc tàu kia chỉ là một đốm nhỏ ở xa nên tôi chưa thấy gì cả. Vài phút sau, có tiếng máy rồi một chiếc máy bay trực thăng nhỏ bay qua. Người trong thuyền la hét như điên cuồng, nhiều người đàn ông cởi áo phất lia lịa nhưng máy bay chỉ lượn vài vòng rồi… mất hút. Dù sao chúng tôi cũng có một tia hy vọng ở chân trời, chúng tôi vội nhắm cái chấm ở tít đằng xa mà chạy tới. Và chiếc tàu kia hình như cũng đang chạy về phía chúng tôi vì nó càng ngày càng lớn dần.

Và, suốt đời tôi sẽ không bao giờ quên giây phút đó, giây phút người đàn ông ngồi trên cao la lạc giọng:

– Thấy rồi! Thấy cờ Mỹ rồi!!!

Nước mắt ông ràn rụa trên khuôn mặt khắc khổ lấm lem dầu máy. Mọi người đứng bật lên làm thuyền chao mạnh. Chúng tôi đã thật sự được sống!

Chiếc tàu vớt chúng tôi là một hàng không mẫu hạm của Mỹ. Nó to như một toà nhà mười mấy tầng, những người lính đầu tiên phải leo thang dây xuống để đem con nít và những người yếu sức lên trước. Em tôi đã tỉnh dậy như một phép lạ và chúng tôi bám vào thang dây, dò từng bước leo lên boong tàu. Vưà lên tới nơi, mỗi người được trao một ly sữa và một trái táo trước khi tụ tập trong một góc boong. Và ngạc nhiên thay, trên tàu đã có cả trăm người Việt Nam chạy ra mừng chúng tôi. Thì ra chiếc tàu Mỹ này vừa mới vớt một thuyền vượt biên khác ngày hôm trước. Sau khi mọi người đã lên tàu lớn, những người lính Mỹ tưới xăng lên chiếc thuyền mà chúng tôi vưà rời khỏi rồi châm lưả đốt. Đứng trên boong tàu nhìn vói theo chiếc thuyền nhỏ xíu đang bốc cháy và trôi dần ra xa, biết rằng mình vô cùng may mắn, nhưng lòng tôi vẫn thoáng chút ngậm ngùi…

Tổng cộng thuyền nhân được cứu từ hai chiếc ghe vượt biên lên tới gần hai trăm năm mươi người. Hồi đó, tiếng Anh cuả tôi kém và tính tình nhút nhát nên không dám hỏi han những người lính ở trên tàu. Tôi chỉ nghe nói lại là chiếc hàng không mẫu hạm này đang trên đuờng đi công tác ở Phi Luật Tân. Họ đã nhìn thấy tàu chúng tôi từ rất xa và quyết định đi chếch qua để cứu chúng tôi. Chiếc trực thăng bay qua trước khi tàu đến cũng là do vị thuyền trưởng đã gởi tới để xem xét tình trạng của chúng tôi.

Không hiểu vì sao mà trên tàu có sẵn một số quần áo cũ. Chúng tôi được phép lựa những thứ tạm mặc được để thay đổi hàng ngàỵ. Khổ nỗi đống quần áo đã qua sự lựa chọn cuả những người lên trước nên chỉ còn toàn những thứ khó mặc. Tôi nhặt đại hai cái áo to bằng bốn lần khổ người tôi, và một bộ áo liền quần màu xanh bó sát. Chẳng hề gì, tôi vẫn vô cùng sung sướng vì ước mơ gần như hoang đường nay đã thành sự thật: tôi đã trốn thoát khỏi Việt Nam và đang ở trên tàu Mỹ.

Ngày đó tôi vưà học xong trung học. Sau 8 năm đói khổ sau bức màn sắt cuả Cộng Sản, thế hệ chúng tôi hầu như quên mất có một thế giới bên ngoài. Trong những ngày trên tàu Mỹ tôi đã gặp lại những hành động lịch sự, những cử chỉ nhân ái gần như đã biến mất trong xã hội nơi tôi vừa ra đi. Những ân nhân của chúng tôi ân cần đến từng chi tiết nhỏ, một trong những việc đầu tiên họ làm là phát phong bì, giấy bút cho chúng tôi viết thư báo tin cho người thân. Cho đến bây giờ tôi vẫn còn nhớ chiếc phong bì màu xanh nhạt có hình chiếc hàng không mẫu hạm và tên tàu ở góc, tôi vẫn còn nhớ ánh mắt thương cảm của những người trên tàu nhìn chúng tôi nhếch nhác, bơ phờ dò từng bước lên tàu.

Suốt thời gian trên tàu tôi vô cùng ái ngại cho những ngưòi lính và những sĩ quan đã tốn không biết bao nhiêu công sức để lo cho hơn hai trăm người chúng tôi. Vì hàng không mẫu hạm là đơn vị quân sự nên chúng tôi không được phép ra khỏi phần cuối boong tàu. Mỗi người được phát một tấm chăn dạ màu xám, loại chăn nhà binh Mỹ mà tôi đã thấy trước năm 1975. Chăn rất tốt và khí hậu Thái Bình Dương vào muà hè khá ấm nhưng chúng tôi phải nằm ngay trên boong và gió thổi lồng lộng khi tàu chạy nhanh nên ban đêm vẫn lạnh. Tôi ngủ được rất ít nhưng chính vì thế tôi càng có cơ hội chứng kiến sự tận tâm cuả những người trên tàu. Sáng sớm tôi vưà thức dậy đã thấy người ta đang lăng xăng dọn thức ăn sáng cho chúng tôi. Mất mấy tiếng mới phục vụ hết đám người đông đúc nên chỉ vài tiếng sau là họ lại lục tục lo bữa ăn trưa, rồi ăn tối. Thức ăn quá lạ miệng nên tôi không thấy ngon, ngay cả trái chuối cũng khác ở Việt Nam, nhưng tôi nhớ nhất là ly cà phê đầu tiên trên tàu. Đã từng nếm những ly cà phê đen sánh quậy với sữa đặc ở Việt Nam, tôi ngạc nhiên lắm khi ngậm ngụm cà phê Mỹ pha sẵn. Thật tình, cà phê sao chua lè và trong veo, y như là nước giảo của cà phê Việt Nam!

Vấn đề vệ sinh cho hơn hai trăm người chen chúc trong khoảng không gian nhỏ mới thật là kinh khủng. Thuỷ thủ đòan phải dùng nylon đen che thành mấy phòng tắm quay mặt ra biển, nhà vệ sinh cũng là nylon đen quây quanh mấy thùng sắt to. Mỗi sáng nhân viên trên tàu cùng chúng tôi dọn dẹp, và tôi không thấy người nào tỏ thái độ khó chịu cho dù trong khi làm những việc cực nhọc nhất.

Mấy ngày ngắn ngủi trên tàu mãi mãi là một trong những kỷ niệm khó quên nhất trong đời tôi. Trên chiếc hàng không mẫu hạm hùng vĩ đó, tôi đã được xem cảnh tàu chở xăng xáp vào tiếp nhiên liệu cho tàu lớn ngay trên biển, đã được chứng kiến những sinh hoạt hàng ngày quy củ răm rắp như một trong guồng máy nhưng được thực hiện bởi hải đoàn đầy ắp tình người. Tôi nhớ nhân viên trên tàu ngoài nhiệm vụ riêng họ còn phải chăm sóc đủ thứ cho chúng tôi, và phải lo rất nhiều giấy tờ cho thủ tục gởi chúng tôi vào trại tị nạn Thái Lan. Bận rộn vậy nhưng không khí trên tàu luôn ấm cúng và thân tình. Tôi vẫn nhớ lễ chào cờ mỗi sáng, đám người tị nạn đứng sát bên thuỷ thủ đoàn cùng lắng nghe quốc ca Hoa Kỳ vang vọng. Tôi vẫn mường tượng được cảm giác bàng Hòang khi nhìn lá cờ Hoa Kỳ bay lồng lộng trên bầu trời xanh biếc cuả Thái Bình Dương mà tự nhủ không biết mình sẽ ra sao nếu chiếc tàu này đến trễ chỉ một vài tiếng trong buổi bình minh hôm trước…

Mỗi buổi chiều khi công việc đã xong, người trên tàu túa ra trò chuyện với chúng tôi. Từ vị sĩ quan trong đồng phục trắng toát tới anh thuỷ thủ trong đồng phục xanh, ai cũng ân cần vui vẻ. Họ đùa giỡn với con nít, trò chuyện với mọi nguời, cố lắng nghe những câu tiếng Anh vụng về cuả chúng tôi để tìm hiểu xem chúng tôi có cần thêm gì hay không. Để chúng tôi giải khuây, họ còn căng màn chiếu phim. Tôi nhớ mãi cuốn phim đó là phim Điệp viên 007 James Bond với tựa đề “For Your Eyes Only”. Giữa trời đêm lồng lộng ngàn ánh sao, trên con thuyền băng băng xuyên vào biển đen, những hình ảnh rực rỡ chớp tắt trên màn ảnh vĩ đại làm tôi mơ màng tưởng như mình đang trôi trong đêm hoa đăng thần thoại của một giấc mơ kỳ diệu.

. . .

Như thế đó, tôi đã may mắn gặp được cái đẹp đẽ nhất cuả nước Mỹ trước khi đặt chân tới đất nước này. Tôi đến Mỹ với vài đô la và mấy bộ quần áo tồi tàn nhưng gia tài cuả tôi là lòng cảm mến sâu xa với một miền đất giàu tình người, cùng với Hòai bão sẽ cố gắng sống cho xứng đáng với sự hy sinh cuả gia đình, với sự may mắn mà Thượng Đế đã nhờ những “sứ giả” trên tàu Mỹ đem đến cho chúng tôi.

Những bối rối vì ngôn ngữ, những trở ngại khi hội nhập đôi khi có làm tôi buồn nản, nhưng tôi thấy quay quắt nhất là những khi nhớ về Việt Nam. Những chuyện nhỏ nhặt như khi đi chợ Việt Nam, nhìn người ta xăm soi tìm cho được những trái tuyệt hảo nhất trong đám nhãn mọng tươi nhập cảng từ Á châu cũng làm tôi bùi ngùi. Tôi nghĩ đến những trái hơi có tì vết mà không ai thèm mua kia cũng có thể là hàng xuất khẩu từ Việt Nam, là tinh hoa chắt ra từ quê hương nghèo nàn của tôi, là loại hàng “xuất khẩu” mà người đi làm bình thường như cha mẹ tôi không bao giờ mua nổi.

Tuy thế, vấn đề lớn nhất tôi gặp phải trên đất Mỹ là một chuyện tôi chưa hề nghĩ tới: đó là tình cảm của tôi với nước Mỹ đã làm tôi hoang mang. Ngay từ nhỏ, những câu tục ngữ như “Con không chê cha mẹ khó, chó không chê chủ nhà nghèo” đã thấm sâu vào lòng tôi. Cho dù tôi biết chắc rằng tôi không liều mạng vượt biển vì miếng cơm manh áo, tôi ra đi không phải vì tôi chê mẹ Việt Nam nghèo khó, nhưng trong trí óc cuả một thiếu nữ đang trưỏng thành một mình trên miền đất mới, tôi cảm thấy gần như… có lỗi khi thấy mình càng ngày càng quen với đời sống mới và thật sự yêu mến quê hương thứ hai này. Có lẽ cảm giác đó giống như đưá con nuôi cuả một gia đình giàu có, một ngày kia trở về quê cũ và cảm thấy băn khoăn khi bắt gặp mình ngập ngừng, xa lạ trước cha mẹ ruột nghèo nàn xấu xí.

Không hiểu may mắn hay không may cho tôi là khi chiến tranh Việt Nam đang diễn ra thì tôi còn nhỏ. Vì thế, trong lòng tôi không có cảm giác hụt hẫng và đau đớn của nhiều người lớn khi bị “đồng minh Mỹ bỏ rơi”. Khi tôi nghe vài ngưòi nói rằng nước Mỹ cưu mang chúng ta không phải vì họ tốt mà vì họ có trách nhiệm với người Việt, tôi hiểu tại sao họ nghĩ thế nhưng tôi không cảm được. Tôi kính trọng suy tư riêng cuả mỗi người, nhưng riêng tôi, tôi thấy cái tinh tuý cuả hiệp chủng quốc vượt khỏi những nhiệm kỳ tổng thống hay đảng phái. Tinh tuý đó đến từ những người dân Mỹ. Có lẽ tình cảm cuả tôi với nước Mỹ đã thành hình từ lúc nhìn con tàu mang lá cờ Mỹ lớn dần từ phía chân trời trên Thái Bình Dưong, từ khoảnh khắc thấy người lính Mỹ ôm chặt em bé nhớp nhúa ói mửa vào lòng để đem lên tàu, từ khi anh thủy thủ ân cần dùng con dao nhỏ cắt bớt chiếc dép cao su cho vừa chân tôi, từ hình ảnh người sĩ quan trong bộ đồng phục trắng toát đang xắn quần, gò lưng kéo dây ghìm cho thuyền nhỏ đứng yên để chúng tôi bước lên bờ biển Thái Lan, từ hình ảnh những người Mỹ đứng một hàng dài lưu luyến dõi theo đám thuyền nhân chúng tôi đang lục tục đi vào trại mà còn cố ngoái lại nhìn qua làn nước mắt.

Tôi tin rằng không phải vị thuyền trưởng nghĩ rằng người Mỹ có trách nhiệm với chúng tôi, hay vì sự may mắn khi con cá nhỏ nhảy vào tàu mà chúng tôi được vớt. Nước Mỹ có quyền không cho phép chiếc hàng không mẫu hạm đi chệch hải đồ để cứu người, giống như bao con tàu khác đã làm ngơ với những chuyến vượt biên kém may mắn. Hơn nữa, những gì không thật sẽ không tồn tại lâu bền, cho nên tình cảm ban đầu cuả tôi với nước Mỹ sẽ mất đi nếu tôi không càng ngày càng thấy Hoa Kỳ là một đất nước bao dung. Tôi không ngây thơ nghĩ rằng – hay mong rằng – nước Mỹ là Hòan hảo; nhưng với tôi nuớc Mỹ là một dòng sông mênh mông, đôi khi cũng đem theo rác dơ, đôi khi cũng dậy sóng nguy hiểm, nhưng dòng sông đó đã rộng lòng đem nước và phù sa đến cho những giống cây đến từ khắp nơi có cơ hội đơm trái ngọt.

Người sống lâu ngày trong bình an, sung sướng thường quên rằng mình may mắn. Người đàn ông đốt lá cờ Mỹ trên thềm nhà Quốc Hội chắc chỉ nhớ đến những rác rưởi trong dòng sông, chắc ông ta không hiểu rằng chỉ ở Hoa Kỳ ông ta mới dám chà đạp quốc kỳ ngay trước toà nhà lập pháp mà không sợ rằng mình sẽ “ra đi không có ngày về”. Ông ta chắc chắn không biết rằng lá cờ đó đã khiến hải tặc Thái Lan buông chúng tôi, đã quyết định giữa cuộc sống bình an ở Hoa Kỳ và cái chết – hay một cuộc sống nô lệ trên xứ Thái đau khổ hơn cả cái chết – cuả hơn một trăm người trên chiếc thuyền vượt biên vào một ngày hè năm 1983.

. . .

Thời gian trôi qua. Tôi đã lớn lên và đã hiểu ra rằng tôi không hề phải chọn lựa giữa quê hương thứ nhất Việt Nam và quê hưong thứ hai Hoa Kỳ. Tôi yêu mến đất nước Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ đã cưu mang tôi, cho cây tôi lớn lên thành một cây quýt ngọt, và đất nước này không hề phiền hà khi tôi đem chia xẻ trái ngọt đó với nơi tôi sinh ra. Tôi đâu phải là cá hồi mà phải chọn lựa giưã sông và biển” Tinh thần cuả nước Mỹ luôn khuyến khích mọi người góp sức làm thế giới tốt đẹp hơn và tôi sẽ làm như thế. Tôi sẽ cố gắng để bằng cách này hay cách khác, trao lại những may mắn và cơ hội mà tôi đã được trao. Hy vọng là tôi sẽ góp phần để một ngày nào đó người dân Việt Nam không còn phải tìm cách ra đi cho dù phải trả giá bằng tính mạng hay nhân phẩm

Tôi yêu Việt Nam đã sinh thành ra tôi và tôi yêu Hoa Kỳ đã dưỡng dục tôi. Đôi khi tôi tẩn mẩn phân tích tình cảm cuả mình: với Việt Nam là tình, với Hoa Kỳ là nghiã… Rồi tôi lại loay hoay tự hỏi có phải như vậy không, hay là ngược lại” Cuối cùng tôi bật cười, nghĩ mình thật là lẩn thẩn, bởi vì tình cảm đâu cần gì phân loại và đặt tên.

Khôi An.


 

TÂM HỒN THUẦN KHIẾT-Truyen rat ngan HAY

Nghệ Lâm Hồng

Một lần, nhà từ thiện Kenneth Belling đi ngang qua khu vịnh San Francisco, Hoa Kỳ vào những năm 1990 của thế kỷ 20, đột nhiên ông thấy mình đánh rơi chiếc ví khi nào không hay. Trợ lý của ông đã lo lắng nói: “Có lẽ chiếc ví đã bị rơi khi chúng ta đi bộ qua các khu nhà ổ chuột ở Berkeley vào buổi sáng, giờ chúng ta phải làm gì?” Belling miễn cưỡng nói: “Chỉ có thể chờ người nhặt được ví tiền gọi lại cho chúng ta mà thôi.”

Mấy giờ qua đi, người trợ lý thất vọng nói: “Thôi, chúng ta đừng chờ nữa, đừng hy vọng gì ở những người sống trong khu nhà ổ chuột.” Tuy nhiên, ông Belling lặng lẽ nói: “Không, tôi vẫn muốn chờ đợi xem thế nào.”

Người trợ lý nghe thấy vậy thì rất ngạc nhiên: “Trong ví có danh thiếp của ngài, nếu muốn trả lại thì họ đã gọi rồi, chỉ mất vài phút thôi. Tuy nhiên, chúng ta đã chờ đợi cả một buổi chiều mà vẫn không thấy tin tức gì. Dường như người nhặt được không có ý định trả lại.”

Tuy nhiên, Belling vẫn khăng khăng chờ đợi. Trời bắt đầu tối và điện thoại vang lên. Cuộc điện thoại này là của người nhặt được chiếc ví. Người đó nói là đợi ông trên đường Kata.

Thấy vậy, người trợ lý hét lên: “Hãy cẩn thận! Đây có phải là cái bẫy không? Liệu có phải họ muốn gõ cửa tống tiền?”

Belling vẫn bỏ qua lời cảnh báo và lái xe đi. Ông tới nơi thỏa thuận thì một cậu bé mặc chiếc áo rách, trên tay cậu cầm chiếc ví tiến lại gần. Người trợ lý vội cầm lấy chiếc ví và kiểm tra, anh thấy bên trong vẫn còn nguyên số tiền. Chờ đợi một lát, cậu bé ấp úng nói: “Cháu có một lời cầu xin, các ngài có thể cho cháu một ít tiền không?”

Lúc này, người trợ lý cười lớn: “Biết ngay mà …” Belling vội ngắt lời trợ lý rồi mỉm cười hỏi cậu bé muốn bao nhiêu.

“Chỉ cần cho cháu xin 1 đô la thôi.” Cậu bé ngượng ngùng nói: “Cháu đã tìm kiếm rất lâu để đến được bốt điện thoại công cộng nhưng không có tiền, cháu phải vay 1 đô la để thực hiện cuộc gọi.”

Nhìn vào đôi mắt trong sáng ngây thơ của cậu bé, người trợ lý đã phải cúi đầu vì cảm thấy xấu hổ. Còn Belling đã vội ngồi xuống ôm cậu bé vào lòng.

Hành động này của cậu bé đã khiến Belling thay đổi kế hoạch từ thiện. Ông quyết định xây mấy trường học ở Berkeley để các bé nghèo không có tiền đi học được đến trường.

Trong ngày khai giảng, Belling nói: “Chúng ta không nên tự phán xét về người khác. Chúng ta cần tạo ra không gian và cơ hội để đón tiếp học sinh có tâm hồn thuần khiết và tốt bụng. Điều này rất đáng để chúng ta đầu tư.”

(st)