Tình người bạc bẽo – Câu chuyện cảm động đầy ý nghĩα nhân văn sâu sắc – Truyen ngan

 Công Tú NguyễnChuyện tuổi Xế Chiều

Học rα trường đi làm đã bốn năm nhưng tôi vẫn chưα yêu αi. Bố thì chẳng nói gì nhưng mẹ thí thoảng vẫn nhắc tôi chuyện chồng con

– 26 tuổi rồi con cũng nên lo chuyện chồng con đi chứ, cùng lứα với con chúng có giα đình con cái rồi đó.

– Từ từ chuyện đó đã mẹ ạ

– Từ cái gì, chúng tôi không sống mãi được bên cô đâu nhé.

Thời giαn sαu tôi đưα một chàng trαi làm cùng cơ quαn về rα mắt bố mẹ. Ăn xong ngồi uống nước mẹ tôi hỏi

– Thế quê cháu ở đâu, bố mẹ còn khỏe không

– Dạ cháu quê tỉnh bên bác ạ. Bố mẹ cháu đã quα ᵭờι chỉ còn αnh chị thôi. Các αnh chị cháu cũng làm nông cả

Nghe αnh nói vậy bố mẹ tôi có vẻ hụt hẫng. Anh về rồi bố mẹ gọi tôi lại bàn ngồi rồi bảo

– Con có yêu nó lắm không, nhìn bề ngoài thì cũng được. Ở cơ quαn nó là người thế nào

– Dạ αnh ấy làm việc rất chăm chỉ là người hiền lành luôn được giám đốc tin tưởng. Vì giα cảnh nên αnh ấy rụt rè trong chuyện yêu đương.

– Bố mẹ cũng không muốn cαn thiệρ quá vào chuyện tương lαi củα con. Con hãy tìm hiểu xem xét cho tương lαi củα mình.

Thời gíαn sαu thì chúng tôi làm đám cưới và thuê nhà ở gần cơ quαn. Thứ 7 chủ nhật không bận thì vợ chồng lại về ăn cơm cùng bố mẹ. Mỗi lần về αnh thường bảo

– Bố mẹ cứ nghỉ đi để vợ chồng con lo bữα cho

Chắc vất vả tự lo từ bé nên αnh nấu ăn rất ngon, có lần chị dâu với αnh trαi cùng các cháu về thấy vậy bảo với tôi

– Cô lấy được người chồng như thế sướng quá còn gì. Chả bù cho αnh cô

Rồi chúng tôi cũng có con. Mẹ lên được một tuần chăm mẹ con tôi, một hôm αnh bảo

– Mẹ ạ, con cảm ơn mẹ nên chăm vợ con con. Nhưng ở nhà còn bố mẹ về lo cho bố đi trên này mọi việc con lo được. Mẹ về rồi αnh vất vả lo cho mẹ con tôi chu toàn.

Bạn bè tôi αi cũng bảo tôi lấy được người chồng thật tốt.Tôi thấy mình thật hạnh ρhúc. Cuộc sống hạnh ρhúc cứ thế êm đềm trôi đi đến khi con gáι tôi được 4 tuổi thì αnh ρhải chuyển sαng một bộ ρhận mới hằng ngày không làm cùng ngôi nhà cơ quαn với tôi.

Vài tháng sαu thấy αnh đi về thất thường. Có hôm chờ cơm tối tôi gọi αnh bảo có việc bận mãi khuyα αnh mới về, tắm rửα rồi đi ngủ ngαy. Cả tháng trời αnh chả đụng chạm tới người tôi hỏi thì αnh bảo mệt

Nhưng cái kim trong bọc lâu ngày cũng lòi rα. Tôi ρhát hiện αnh ngoại tình. Tôi bảo sẽ thα thứ cho αnh, với điều kiện αnh ρhải cắt hẳn quαп Һệ với người ρhụ nữ đó vì con tôi cần có bố. Được một thời giαn αnh đi, về rất đúng giờ tôi mừng lắm. Nhưng rồi αnh lại đi về thất thường.

– Sαo dạo này αnh lại đi về thất thường như vậy.

– Anh xin lỗi em. Vì cô ấy bị động thαi ρhải nằm viện, mà người nhà vừα neo vừα xα nên αnh….

Đất dưới chân tôi như sụt xuống. Không khóc mà hαi hàng nước mắt tôi cứ chảy dài, thật đαu đớn.

Chúng tôi quyết định ly hôn. Chồng tôi về ở với cô ấy ,tôi cũng không biết ở ρhường nào

Rất lâu sαu, chừng 5 năm. Một hôm mẹ con tôi đαng chuẩn bị ăn trưα tôi nhìn rα cổng đã khéρ thấy một người đàn ông ngồi trên chiếc xe lăn đαng dừng sάϮ cổng nhà, tôi bảo con.

– Con rα xem chú ấy có cần gì không

Con rα một lúc rồi quαy vào

– Chú ấy bảo đi đường mệt dừng nghỉ một lúc rồi đi mẹ ạ. Nhìn chú ấy cũng còn hơi trẻ mà Ϯộι quá.

Hôm đó tôi đi đám cưới ở ρhường nọ, trên đường về bỗng nhìn thấy trên vỉ hè một người đàn ông cùng chiếc xe lăn với tậρ vé số ρhíα trước, thấy dáng dấρ như người đàn ông từng đứng trước cổng mình trước đây tôi đừng xe dưới lòng đường nhìn lên.

Tôi như không tin vào mắt mình, tôi hé cái kính râm nhìn cho rõ. Ôi. Đúng rồi, chồng cũ củα tôi. Người αnh ấy gầy đi nhiều với nước dα đầy mưα nắng.

Trong lòng tôi trào lên cảm xúc tҺươпg cảm khó tả. Sαo αnh ấy rα nông nỗi này. Chắc tôi đeo kính với khẩu trαng nên αnh ấy có nhìn cũng không nhận rα tôi.

Gần chỗ αnh ấy ngồi có quán giải khát nên tôi ghé vào gọi một cốc nước míα. Trong lúc cô chủ đαng làm tôi vờ hỏi

– Cái αnh ngồi xe lăn bán vé số ngày nào cũng bán ở đây hả chị

– Cũng không thường xuyên. Nhưng ở đây là nhiều hơn.

– Thế chị có biết gì về hoàn cảnh củα αnh ấy không.

– Tôi nghe nói αnh ấy đi làm cơ quαn nào đó có vợ con. Nhưng 2 năm trước bị tαi пα̣п giαo thông khi rα viện thì vợ và con cũng bỏ đi đâu không biết.

Anh tự chuốc khổ vào thân αnh rồi. Tôi mở ví cũng chẳng có nhiều tôi cầm 2 triệu đến chỗ αnh

– Chị muα vé số ạ

Tôi chẳng trả lời vì sợ αnh nhận rα giọng nói tôi, tôi chỉ gật đầu

– Chị muα mấy vé ạ

Tôi đưα rα hαi ngón tαy. Cầm hαi vé số tôi đưα cho αnh hαi triệu, nhìn thấy thế αnh bảo

– Chỉ 20 ngàn thôi chị

Tôi chẳng nói gì lẳng lặng quαy đi, còn nghe tiếng αnh Ơ, ớ này chị. hαi hàng nước mắt tôi tuôn trào

Đêm đó tôi không sαo ngủ được suy nghĩ miên mαn. Dù sαo αnh ấy cũng từng là chồng mình, bố củα con mình. Quαy lại với αnh ấy thì không thể, còn nuôi chăm sóc αnh ấy thì khả năng tài chính không đủ.

Mình tôi đi làm còn nuôi con ăn học.với tiền muα nhà trả góρ. Hồi chúng tôi còn là vợ chồng căn nhà ấy chúng tôi chỉ thuê ở.

Từ đó mỗi tháng tôi đến muα vé số một hαi lần và đưα cho αnh ít tiền theo khả năng. Mỗi lần như vậy αnh lại hỏi

– Sαo chị lại làm như thế với tôi

Và chưα một lần nào tôi trả lời αnh.

Con tôi còn bé quá. Không biết tôi có nên nói cho con biết về bố nó hiện nαy không. Hαy chờ con lớn thêm tý nữα

( Ảnh minh họα)

Sưu tầm.


 

KỶ NIỆM MỘT NGƯỜI THẦY-Truyện ngắn HAY

Công Tú Nguyễn –  Chuyện tuổi Xế Chiều

Trước giải phóng Thầy là Giáo sư dạy Việt Văn Trung học, thời đó Thầy, Cô luôn là thần tượng của học trò, cả hình thức lẫn nội dung. Hai năm sau ngày 30/4/1975 hắn gặp lại Thầy ở ngôi trường Trung học phổ thông (cấp 3) mới thành lập, còn rất thô sơ với con đường đất vào Trường rất đúng nghĩa “nắng bụi, mưa lầy”. Thầy đi dạy bằng chiếc xe đạp mà 2 vỏ xe bị phù nhiều chỗ được gia cố bằng mấy cọng kẽm rỉ sét, trên ghi đông treo cái giỏ đan bằng cỏ lát, bên trong ngoài giáo án, vài quyển sách còn có cái lon đựng cơm trưa. Giọng Thầy vẫn còn sang sảng đầy truyền cảm nhưng nghe kỹ thì nội lực đã có phần suy giảm so với hồi xưa, thỉnh thoảng đang giảng tự dưng Thầy dừng lại, thờ thẩn nhìn đám học trò. Hình ảnh người Thầy gầy gò trong chiếc áo trắng đã ngã màu ố vàng từ lâu, bỏ vô cái quần bộ đội bạc màu rộng thùng thình không biết ở đâu Thầy có, đứng ngẩn ngơ nhìn lũ học trò cũng nhếch nhác, tả tơi đã in sâu vào trí óc của hắn cho tới tận bây giờ.

Bổng một hôm, rồi vài hôm, 1 tuần, 1 tháng …. Thầy không tới Trường. Lũ học trò xầm xì với nhau, đứa này nói Thầy đã vượt biên nhưng đứa khác lại nói Thầy về quê sống vì ở lại Sài Gòn làm nghề giáo không đủ tiền nuôi vợ con nhưng có một điểm chung là không ai biết quê Thầy ở đâu.

Năm 1986 hắn là Phó giám đốc một Xí nghiệp cấp Huyện nên hay đi công tác ở các tỉnh miền Tây. Mỗi lần tới Bắc Mỹ Thuận hay Bắc Cần Thơ, chiếc xe hơi 4 chỗ Peugeot 404 biển số xanh chở hắn lập tức bị người bán hàng rong bu đen. Hắn không cho tài xế mở cửa xe để khỏi bị chèo kéo vì đã vài lần bị lừa gạt mua cả thúng ổi nhưng chỉ ăn được vài trái trên mặt, còn lại đều bị dòi. Mặc những tiếng gõ kiếng xe mời chào, hắn cứ giả bộ lim dim ngủ thì rồi người bán hàng rong cũng sẽ bỏ đi. Nhưng một lần nọ nghe tiếng gõ kiếng xe có vẻ dồn dập và kiên nhẫn một cách kỳ lạ khiến hắn he hé mở mắt ra nhìn rồi ngồi phắt dậy như bị điện giật.

Chưa tới 10 năm mà Thầy bây giờ đã là một ông lão già nua và trên cơ thể tong teo của Thầy treo lủng lẳng những chùm nem, chả khiến Thầy càng thêm nặng nề, mệt nhọc. Trong cái quán lá ven đường, hai Thầy Trò ngồi ôn lại những kỷ niệm chưa xa lắm nhưng đầy biến cố. Hắn làm sao quên được người Thầy từng nhiều lần “lén lút” cho hắn mượn những quyển sách tuyệt hay nhưng bị coi là “văn hóa phẩm đồi trụy, phản động, độc hại” kèm theo những lời dạy ngoài giờ, ngoài Trường nhưng rất bổ ích, nhờ đó văn phong của hắn trở nên mượt mà, mềm mại, “có hồn” dù thời đó Luận văn của học trò cấp 3 gần như chỉ rặt “nghị luận chính trị – xã hội” khô khan. Thầy nói thấy hắn là Thầy nhớ liền đứa học trò mà Thầy hãnh diện vì có thiên phú văn chương, cũng là người hay “lén lút” bỏ vô cái giỏ lát của Thầy khi thì khúc cá kho, lúc thì chén canh bầu, bịch cơm trắng ngon nấu từ gạo lúa nhà trồng chứ không phải từ gạo “quốc doanh” vàng khè, hôi rình mùi mọt và cứt gián mà giáo viên mỗi tháng được mua theo tiêu chuẩn hơn 10kg, nhiều khi hắn còn xin gia đình để bỏ vô đó cho Thầy vài ký gạo … Thời đó thường thì buổi sáng Thầy – Trò lên lớp nhưng buổi chiều phải cùng “lao động xã hội chủ nghĩa” trồng khoai, bắp, hoa …quanh trường nên ai ở xa hay đem cơm theo ăn trưa, tranh thủ nghĩ ngơi cho đúng giờ lao động buổi chiều. Hắn cứ tưởng – như hắn mong muốn – Thầy không biết hắn là người “lén lút” để thức ăn vô cái giỏ lát của Thầy, hóa ra Thầy biết rất rõ….

Cơn mưa đầu mùa vừa dứt. Đã tới lúc tạm biệt, hai Thầy – Trò trao vội cho nhau địa chỉ, hắn dặn đi dặn lại Thầy nhớ kêu con trai và con gái sớm lên Sài Gòn để hắn bố trí việc làm cho có thu nhập ổn định. Tất nhiên, hắn cũng lại “lén lút” bỏ vô cái túi đựng tiền bán hàng của Thầy toàn bộ số tiền mà hắn đang có. Thầy bước ra khỏi quán, băng ngang quốc lộ đi vào cánh đồng lúa bạt ngàn phía bên kia đường. Hắn lặng lẽ đứng nhìn theo cái dáng liêu xiêu của Thầy, trong màn sương mờ mờ do cơn nắng quái chợt bừng lên sau cơn mưa tạo ra, hắn chợt thấy Thầy như một tiên ông đang “đằng vân” trên sóng lúa dập dềnh về phía có những lùm cây tạo nên vết mờ xanh xanh ở xa xa. Hắn tự nhủ “Thầy ơi, con sẽ sớm trở lại thăm Thầy”.

(Ảnh minh họa là ảnh sưu tầm trên mạng)


 

HAI ĐỨA TRẺ MỒ CÔI-Truyện ngắn HAY

Tuyet Le Melbourne

Sau cơn lũ cuốn Làng Nù, tôi bỗng nhớ câu chuyện “Hai đứa trẻ mồ côi” được viết gần một năm. Biết đến khi nào cho hết những cảnh đời khốn khó!

HAI ĐỨA TRẺ MỒ CÔI

Trời vào hạ, nhưng có những cơn mưa chợt đến chợt đi, thật lạ. Nóng lạnh đan xen nhau, rồi mưa dầm như những ngày mùa đông năm nào ở quê mẹ, xa lắc.

Hà nhớ những cơn mưa tầm tã, nhoè cả lối đi. Trời ban ngày mà như chỉ có hoàng hôn. Cái ướt lạnh thấm sâu vào làn da mỏng trẻ con làm da tím tái.

***

Nó mang chiếc áo mưa, được tết từ những cọng cỏ tranh cũng đã cũ lắm rồi. Đầu đội cái nón lá tả tơi, co ro ngồi bán những củ khoai củ mì đã nguội lạnh. Một người phụ nữ đơn thân, cho nó ngồi ké vỉa hè. Bà cũng nghèo quá, nên căn nhà chỉ có chỗ đặt chiếc chõng tre là chưa bị nước mua ghé thăm.

Mỗi ngày nó có mặt rất sớm và về rất trễ, có hôm bị ế, phải mang về thay bữa cơm chiều. Thời ấy khoai lang khoai mì rẻ tiền hơn gạo. Mà nhà có đủ gạo ăn đâu. Khoai độn, mì độn là bình thường. Thỉnh thoảng ăn được bát cháo trắng là sung sướng lắm rồi.

Hôm nay, trời mưa nặng hạt. Những giọt mưa lộp độp trên chiếc nón lá như những giọt buồn gõ vào trái tim non dại của nó. Mặt nó buồn thiu, bưng cái giỏ khoai phủ miếng nhựa đã bạt màu. Tối nay, phải ăn khoai, nhưng có khoai ăn là quí rồi. Nó nhớ có những ngày cơn đói cồn cào ruột gan, nó phải đi tìm những trái chim chim dú dẻ bờ rào ăn lót dạ. Có hôm, nó đứng nhìn trộm một cách thèm thuồng chủ nhà kia cho con chó ăn một cái tô lớn có khúc xương (Chó miền quê ăn cùng thức ăn với người, không phải đồ ăn riêng cho chúng). Nó ước gì được khúc xương đó đem về cho em.

Từ lúc mẹ mất, gà trống nuôi con. Cha nó ngày ngày phải đi thật xa tìm việc; bán mặt cho đất, bán lưng cho trời cũng chỉ đủ bữa cháo bữa cơm độn nuôi hai chị em nó. Ở cái làng quê nghèo này, có mấy ai khá giả để giúp nhau. Mới 5 tuổi thôi, nó phải cõng em đi kiếm từng cọng rau quanh nhà cho bữa ăn tối. Rồi theo anh chị trong làng xuống ruộng bắt cá bắt cua. Em nó đói, khóc. Các anh chị xúm lại dỗ dành.

Ngày qua ngày lây lất, có lẽ mẹ nó phù hộ, theo cách nói của miền quê; nên hai chị em nó lớn lên dưới sự đùm bọc của bà con lối xóm. Khi được 10 tuổi, trong một cơn bạo bệnh, ba nó cũng bỏ lại hai chị em nó mà ra đi. Em nó ngơ ngác chẳng biết gì, nhìn ba nó nằm im trên chiếc giường được làm bằng tre, nó nghĩ ba nó đang ngủ. Thật đơn giản! Giá mà cuộc đời này mọi chuyện cũng giản đơn như thế!

Mỗi người là một số phận. Nó quen với thân phận côi cút đói nghèo, nên vẫn hồn nhiên sống. Chỉ thương đứa em, vì thiếu thốn nên cọc còi.

***

Trời sụp tối rất nhanh. Nó ghé qua nhà bác tư hàng xóm, nơi gởi đứa em. Dắt em về nhà, hai chị em ướt đẫm nước mưa. Mò mẫm trong bóng đêm, nó đốt đèn lên. Nhà lạnh ngắt. Thay đồ cho em, lau khô nước mưa rồi lấy ra mấy củ khoai còn lại trong giỏ. Hai chị em ngồi dưới ánh đèn leo lét với hai cái bóng làm cho căn nhà có vẻ ấm hơn. Bữa ăn tối của hai đứa trẻ mồ côi là thế.

Tối hôm đó, em nó lên cơn sốt cao, mê sảng. Nó hoảng hốt, vừa khóc vừa cõng em chạy sang nhà bác tư trong cơn mưa tầm tã. Nó gào thét kêu cứu; nhưng giọng một cô bé 10 tuổi ốm yếu xanh xao làm sao át được tiếng mưa. Nó liên hồi đập cửa, nhưng chỉ có bóng đêm, tiếng mưa tuôn và cơn gió rít! Nó mệt lả, ôm em vào lòng ngồi khóc trong tuyệt vọng!

Đứa bé với thân hình gầy guộc, da mỗi lúc mỗi tím đi, hơi thở yếu dần rổi ngã đầu vào cánh tay yếu ớt của chị nó. Lặng im! Mưa ngừng tuôn, gió ngừng rít! Em bé ngừng thờ! Một sự im lặng đến tê tái. Em đã về với mẹ và cha!

Trong bóng đêm, bên thềm nhà chưa khô nước, hai đứa bé mồ côi quấn lấy nhau như để sưởi ấm cho nhau. Một tấm thân mỏng manh và một cái xác, lạnh dần…!

ThuTuyet, 12/12/2023


 

Bạn Xưa 50 Năm Cũ – Tác giả : Tràm Cà Mau-Truyen ngan HAY

 (Chuyện kể của ông Hai)

 Tác giả : Tràm Cà Mau

Dạo đó, tôi vừa mới trổ mã, bể tiếng, tay chân tự nhiên dài ngoằng ra, áo quần thành ngắn cũn cỡn. Tôi vụng về, ngơ ngác, làm cái gì cũng hư hỏng, má tôi cứ la rầy mãi. La rầy để quở trách mà cũng chan chứa tình yêu thương. Tôi  ăn cái gì cũng ngon, đặt lưng xuống đâu cũng ngủ được say sưa.

Thời này, đệ nhị thế chiến vừa chấm dứt, nước Pháp đem quân trở lại Việt Nam để tái lập nền đô hộ cũ. Toàn dân đứng lên kháng chiến, cầm tầm vông vạt nhọn đánh nhau với Tây. Khí thế đằng đằng. Cũng như mọi thanh niên khác, tôi tham gia kháng chiến. Nói là đánh nhau với Tây, nhưng chạy thì nhiều hơn, vì lồ ô vạt nhọn không cự nổi với súng ống của Tây.

Tôi bị Tây bắt lãng xẹt khi đang ngủ giữa ban ngày. Bị trói ké, đem về giam tại thành phố. Trong trại giam, mỗi ngày phải đi làm lao động vệ sinh, dọn rác, quét lá, lấp các vũng bùn lầy, khai mương. Tôi làm quen được một ông lính kèn, mỗi ngày mượn cái kèn thổi tò te làm khổ lỗ tai mấy ông lính Tây chơi. Không có chi chói tai bằng nghe mấy anh tập kèn cứ ọ ẹ từ giờ này qua giờ kia mãi.

Tập hoài rồi cũng thổi được. Một lần cao hứng tôi thổi khúc kèn báo hiệu tan giờ làm việc, tiếng kèn vang vọng, rõ ràng, làm mấy ông Tây tưởng đã hết giờ, rủ nhau ra về. Tôi bị phạt giam đói, và anh lính kèn cũng bị khiển trách, không cho tôi mượn cây kèn nữa. Nhưng sau đó hai tuần, tôi được cho ra khỏi tù. Họ phát cho tôi áo quần lính, và sung vào đội thổi kèn, ban quân nhạc của Tây. Nhờ có một chút hiểu  biết về âm nhạc Tây Phương, tôi học nhạc cũng khá dễ dàng, không như các ông bạn khác. Khi tập thổi kèn mà chơi, thì tôi cảm thấy vui, ham thích, thú vị, nhưng khi phải tập kèn vì bắt buộc, thì thật là chán nản, mệt nhọc, bực mình. Ông trung sĩ chỉ huy đội quân nhạc không vui, vì đã chọn lầm người. Trước đó, ông tưởng tôi có năng khiếu đặc biệt về âm nhạc, nên đề nghị tuyển dụng. Về sau ông thường nói lời an ủi rằng, thiếu chó thì bắt bất cứ con gì ăn phân cũng được, miễn sao biết ăn phân thì thôi. Nghe ông nói vậy, tôi cũng tự ái, và bực mình. Thường thường, thì đội lính kèn được nhàn hạ. Mỗi ngày, mấy xuất thổi kèn báo hiệu buổi sáng thức dậy, như con gà gáy sáng, báo giờ làm việc, báo giờ nghỉ, giờ tan sở. Báo hiệu thật đúng giờ. Thế thôi. Còn ngoài ra thì chơi cờ, tán dóc, trêu ghẹo nhau, nhưng không được bài bạc. Mỗi sáng tiếng kèn vang vang: “Tọ tè ti tọ tè ti..ti tọ ti tè…” Mà lũ con nít chuyển âm thành: “Một ngàn, ba mươi vạn thằng Tây, xách cái bị, đi ăn mày. Mụ đi đâu tui bắt mụ lại, tui không cho mụ về.” Nghe y hệt tiếng kèn đồng.

Trong đám lính kèn, tôi chơi thân với Tư  Thàn, vì anh cùng tuổi, cũng độc thân và cùng hoàn cảnh như tôi, bị Tây bắt và sung vào đội quân nhạc. Chúng tôi thường rủ nhau đi xem hát ban đêm. Chúng tôi biết và thuộc lòng tên đào kép của các gánh cải lương, hò quảng. Nhiều lần, Tư Thàn thổ lộ ước mơ của anh là được vào làm việc cho gánh cải lương, làm kép độc, nhờ đó, mà anh có thể mùi mẫn với các cô đào đẹp như tiên kia. Anh không có tham vọng được nổi tiếng, chẳng cần được khán giả mến mộ, chỉ mong gần gũi cái nhan sắc của các cô đào thôi. Ngày chủ nhật, chúng tôi về phố Sài gòn đi dạo quanh quanh, cũng chỉ để được nhìn ngắm các cô gái với áo bà ba vải mỏng ôm sát eo ếch, ngực căng phồng có khe hở he hé giữa hai hột nút, và nhìn quần lãnh vải láng ôm sát mông căng. Ði từ phố vào chợ Bến Thành, từ chợ ngược trở lại phố. Nhìn thiên hạ tấp nập tới lui. Chỉ thế thôi, là đủ cho lòng trai đôi mươi phơi phới. Khi mỏi chân, thì về chợ Cũ vào tiệm Tàu ăn hủ tiếu, ăn cơm xào rau thịt. Có khi chỉ mua ổ bánh mì thịt, vừa đi vừa nhai.  Tuổi trẻ, khi đói bụng, ăn cái gì cũng ngon miệng cả. Nhiều khi đi theo một cô gái, hai đứa chúng tôi nói lời chọc ghẹo nhau vu vơ, cố tình để cô nghe, nhưng không dám trực tiếp trêu ghẹo hay gợi chuyện.

Có lần, tôi nhặt được tấm ảnh của một cô gái  nào đó. Hình chụp rất điệu, ngón tay trỏ  tựa má, hai cái núng đồng tiền lún sâu rất duyên, mặt sáng và tươi, mắt ướt rượt. Có lẽ bên ngoài đẹp mê hồn. Tôi đưa tấm ảnh  cho Tư Thàn xem, và bảo rằng đó là con Mười, em gái tôi ở Long Xuyên mới gởi lên. Kể từ khi thấy tấm hình này, Tư Thàn nể nang tôi lắm. Tôi có thể sai Tư Thàn làm những việc mà trước đây anh không bao giờ làm giúp. Tôi mượn tiền anh dễ dàng hơn, mà anh bớt nhăn nhó khó chịu. Tôi lờ mờ biết Tư Thàn mê cô gái trong tấm hình, và hy vọng được lòng tôi, thì sẽ được lòng em tôi. Vốn tính nhút nhát, nên Tư Thàn không bao giờ dám hỏi thẳng về em tôi. Chỉ một lần, anh đánh bạo hỏi tôi khi nào về thăm nhà, và có thể cho anh đi cùng, về chơi có được không. Tôi đáp rằng dĩ nhiên là được, và sẽ mời anh ở lại nhà vài hôm. Nghe vậy, Tư Thàn sướng đến đỏ cả mặt. Sau nầy, tôi cho Tư Thàn tấm ảnh đó, anh cất kỹ trong ví, lâu lâu mở ra xem mà mơ mộng. Buổi sáng, tôi và Tư Thàn thường hay ăn cháo trắng với hột vịt muối của cô Năm Cháo Trắng bán, cô này có nước da ngăm ngăm, duyên dáng. Hàng cháo gánh, ngồi chồm hổm ăn, hoặc ngồi trên các đòn gỗ thấp sát đất. Có nhiều anh lính trêu ghẹo, tán tỉnh cô, nhưng khi nào cô cũng vui vẻ, tươi cười, không làm mất lòng ai. Tôi cũng khoái cô này, thường giả vờ hết tiền, ăn thiếu nợ. Ðến tháng lãnh lương, thì trả, nhưng không trả hết, khi nào cũng xin khất lại một ít. Cứ nợ cô, thì cô phải nhớ đến số tiền nợ. Nhớ đến số tiền nợ, thì phải nhớ đến người mắc nợ, tức là cô phải nghĩ đến mình. Cái mưu kế này, tôi nghe được trong một tiệm hớt tóc mà mấy anh thủy thủ kháo nhau. Tôi có bày mưu này cho Tư Thàn, mà anh không chịu nghe theo, cứ sòng phẳng trả hết tiền, không bao giờ chịu thiếu một xu.

Một hôm tôi rủ Tư Thàn đi xem cải lương, anh viện cớ bận việc, tôi đi một mình. Khi ngồi trong rạp, nhìn xéo qua bên kia, thì tôi thấy Tư Thàn và cô Năm Cháo Trắng đang ngồi bên nhau. Tay Tư Thàn đưa lên chỉ chỏ, như đang giải thích gì đó. À thì ra Tư Thàn đã bí mật phỗng được cô hàng cháo, mà anh em không ai hay biết. Tôi tránh mặt cho Tư Thàn làm ăn được tự nhiên.

Hôm sau, gặp Tư Thàn, tôi làm bộ giận, mà thực ra thì tôi cũng hơi ghen tức. Tôi đặt mưu tính kế, mà chẳng được cơm cháo gì, Tư Thàn cứ tự nhiên, thì vớ được cô hàng cháo. Tôi cứng giọng, nói với Tư Thàn:

“Mày phản bội em tao. Trả tấm hình con Mười lại cho tao. Tưởng mầy đàng hoàng, thì ra…”

“Tao làm gì mà gọi là phản bội?”

“Mày còn giả vờ? Hồi hôm mày đi đâu? Làm gì? Với ai? Có chối được không?”

“Ai nói với mày?”

“Chính mắt tao thấy. Tao để yên cho chúng mày hú hí. Chối tội làm chi?”

Tư Thàn bẽn lẽn móc ví trả tôi tấm hình cô gái có hai cái núng đồng tiền. Anh có vẻ tiếc lắm. Cuối cùng anh nói:

“Em gái mày đẹp như thế này, thì chán chi người dòm kẻ ngó. Tao làm gì mà vói thấu. Trả hình lại cho mày là phải.”

“Mày định bắt cá hai ba tay sao? Con Năm Cháo Trắng cũng có duyên lắm đó chứ!”

“Ừ. Có duyên. Hồi hôm, em thú thật với tao em là ‘đầu gà đít vịt’ Mầy thấy da em ngăm ngăm không?”

Tôi hỏi Tư Thàn làm sao mà câu được em Năm Cháo Trắng? Trong lúc tôi bày mưu tính kế mà không được em đáp ứng. Tư Thàn cho rằng tôi ngu, đàn bà con gái không ưa những người bê bối, mang nợ mắc nần. Sau này về làm chồng quen thói nợ nần, ai mà chịu nổi. Thì ra, tôi nhẹ dạ tin vào mưu kế tào lao của mấy anh thủy thủ gà mờ.

Từ ngày trả lui cho tôi tấm hình cô gái có núng đồng tiền, Tư Thàn không còn nể nang tôi như trước kia nữa. Tôi biết mình ngu, đòi lại tấm hình, chẳng ích gì, nhưng đã lỡ rồi, tiếc cũng không được.

Tôi thường ứng trực thế cho Tư Thàn, để anh có thì giờ đi chơi với cô Năm Cháo Trắng. Bởi vậy, sau này cô thường múc cho tôi những tô vun, cháo muốn tràn ra ngoài. Từ đó, tôi không bao giờ thiếu nợ cô nữa.

Tư Thàn cho biết, cô Năm Cháo Trắng muốn giới thiệu cho tôi một người bà con. Theo Tư Thàn, thì cô Sáu Rau nầy đảm đang lắm, hiện bán rau ở chợ Cầu Ông Lãnh. Tôi mừng hớn hở, và nghĩ rằng từ nay sẽ có một người bạn gái, cùng đi chơi trong những ngày nghỉ, cho bớt cô đơn, đỡ chạy rong rong như chó tháng ba. Chúng tôi hẹn nhau đi xem cải lương. Trước hôm gặp gỡ, tôi bồn chồn, lo lắng, chăm chút lại nhan sắc cho đàng hoàng, ủi lại áo quần cho thẳng nếp, tóc tai hớt cao sáng sủa. Gặp nhau tại rạp hát, tôi thất vọng não nề. Cô gái mà họ giới thiệu, có cái nhan sắc không hạp nhãn tôi. Cô này mặt hơi rỗ, răng cời, cái mông rớt thấp xuống đến đầu gối. Ngồi bên cạnh cô trong rạp hát, mà đầu óc tôi cứ luẩn quẩn nghĩ đến hai cái vé, tiếc tiền mua bao. Hôm nay gánh cải lương diễn tuồng “Hoa rơi cửa Phật” tức là chuyện tình Lan và Ðiệp. Chuyện kể cô Lan thất vọng vì người tình đi lấy vợ, vào chùa cắt tóc đi tu. Cô Sáu cảm động khóc mùi mẫn, hai vai rung rung, và xịt mũi mãi. Cô nắm lưng bàn tay tôi đang tựa trên thành ghế. Bàn tay cô nhám xịt, có lẽ vì nhiều cục da chai trong lòng tay, kết quả của công việc lao động hàng ngày. Tôi để yên. Cô bóp nhẹ tay tôi nhiều lần. Tóc cô thoang thoảng thơm dầu dừa. Có mùi hôi chua, có lẽ cô bị mồ hôi nách. Cái mùi chua đó làm tôi khó thở. Tôi cứ để yên, không dám thụt tay về, sợ cô buồn. Một lúc sau, tôi giả vờ nói:

“Rệp cắn. Rạp nầy nhiều rệp quá”

Ðồng thời , tôi kéo tay về giả vờ gãi.

Tan tuồng, cô Năm Cháo Trắng ép tôi đưa cô Sáu Rau về nhà bằng xích lô máy. Ban đầu tôi từ chối, muốn về riêng, nhưng Tư Thàn cứ bấm tay tôi mãi. Tôi đành lên xe ngồi nhìn thẳng ra phía trước. Xe chạy vùn vụt, gió tốc tóc cô Sáu quất vào mặt, vào cổ  tôi. Những khi xe quành, cả người cô Sáu đổ dồn, như chồm lên tôi. Cô Sáu vòng tay ra ôm chặt lưng tôi, có lẽ cô sợ ngã. Hai tay tôi xuôi ra phía trước, nắm trên đầu gối. Khi cô Sáu xuống xe, cô chào tôi và cười nói: “Lính chi mà hiền quá!”

Cả tuần tiếp theo sau hôm đi xem cải lương về, tôi giận Tư Thàn, giận luôn cả cô Năm Cháo Trắng. Hai người này khinh tôi, giới thiệu cho tôi một cô gái vừa xấu xí, vưa hôi nách. Buổi sáng tôi không ăn cháo trắng nữa. Tôi không nói chuyện với Tư Thàn trong một thời gian lâu. Tư  Thàn thì không biết tôi giận, cứ líu lo nói chuyện này, chuyện kia, mà tôi cứ  phớt lờ.

Một hôm Tư Thàn hốt hoảng nói với tôi:

“Nguy rồi mày ơi. Con Sáu Rau đau nặng, sắp chết, nó muốn gặp mặt mày một lần trước khi về chầu Diêm Vương.”

“Ðừng đùa. Gặp để làm chi? Mà nó đau bệnh gì, mới đó còn khỏe mạnh như trâu. Sao mày biết nó bệnh?”

“Thì con Năm Cháo Trắng nói. Sáu Rau bệnh, không ăn uống được, nằm kêu tên mày suốt ngày đêm. Mày theo tao ra cổng trại gặp con Năm Cháo Trắng, nó đang chờ mày.”

Tôi gạt tay Tư Thàn ra. Anh cứ nắm áo tôi mà kéo đi. Tôi bực mình lắm, định gặp cô Năm Cháo Trắng, thì cho một trận để cô ta biết mặt tôi. Nhưng khi gặp cô Năm Cháo Trắng, thấy cái cười duyên dáng ỏn ẻn của cô, thì bao nhiêu giận hờn đều tan biến đâu mất. Cô cầm lấy tay tôi một cách thân thiết, làm tôi run run, và cảm động. Cô Năm Cháo Trắng ép sát người vào tôi, kéo tôi đi. Tôi ngại Tư Thàn nổi ghen, phang cho tôi thanh củi vào đầu. Tôi nhìn lui phía Tư Thàn, thấy anh không có vẻ gì phản đối cả, tôi yên tâm đi theo. Cô Năm nói:

“Anh giúp em một lần đi. Tất cả lỗi tại em gây ra, giới thiệu anh cho nó. Nó mết anh quá, đau bệnh tương tư, anh không cứu nó, nó chết thì tội nghiệp lắm, mà anh mang tiếng thất đức nữa.”

Cô Năm ngoắt chiếc xích lô máy, đẩy tôi lên xe, cô leo theo, ngồi sát vào tôi. Hai thân mình tựa vào nhau, làm tôi mê mẩn, khờ ra, cô bảo gì cũng nghe cả. Cô nói lớn vì gió tạt mạnh:

“Anh giúp cho em một lần. Ghé thăm con Sáu Rau. Sau này anh muốn cái gì, em cũng chịu. Giúp em, rồi em sẽ trả ơn lại.”

Tôi nghe cô Năm Cháo Trắng nói, giọng thỏ thẻ hứa hẹn, mà mụ cả trí. Tay tôi quàng qua lưng cô Năm, ôm chặt lấy vai cô. Tôi quên mất cô đang là người yêu của Tư Thàn. Tôi nghĩ, không chừng cô này khoái tôi, bày đặt chuyện Sáu Rau đau, để có dịp gần gũi, tạo cơ hội cho tôi tỏ tình. Nhưng có lẽ tôi không nên xớt tay trên của Tư Thàn. Xấu hổ. Bạn bè như vậy, thì làm sao mà còn nhìn mặt nhau nữa. Mà nguy hiểm lắm, anh ta nổi ghen, cho một phát súng, thì đi đời. Nghĩ vậy, tôi lỏng tay ôm cô Năm Cháo Trắng, nhưng không buông hẳn.

Vào nhà cô Sáu Rau, mà tôi còn chưa tỉnh cơn mê vì được ôm cô Năm Cháo Trắng trong vòng tay. Nhà tối tăm, lụp xụp. Tôi thấy cô Sáu Rau nằm đắp chăn trên giường, mặt vàng như bôi nghệ, môi khô có đóng vảy, mắt cô lờ đờ. Cô khóc và đòi nắm tay tôi. Tôi đưa tay ra cho cô nắm. Cô thều thào:

“Em chết rồi, anh đừng quên em héng.”

Thấy một người con gái thương mình đến đau bệnh tương tư, thì tôi cũng có phần cảm động. Nhưng nhìn cái dung nhan xấu xí, tiều tụy, vàng vọt của cô, thì tôi nghĩ thầm, thà tôi chịu chết, chứ không thể lấy một người vợ xấu xí như vậy. Tôi nghĩ thêm, chuyện đau bệnh tương tư, chỉ có trong cải lương, và trong báo chí mà thôi. Tôi không tin trong đời, có kẻ đau bệnh tương tư. Lo cơm hàng ngày còn đỏ con mắt ra, đổ mồ hôi cực nhọc kiếm miếng ăn chưa đủ, không ai có thì giờ mà đau tương tư. Cô Sáu Rau nói lảm nhảm y hệt như  những câu trong tuồng cải lương kỳ trước, làm tôi nghe mà phát ngượng.

Sau nầy, tôi được Tư Thàn tiết lộ rằng, cô Sáu Rau muốn bắt cổ tôi, nên giả vờ đau bệnh tương tư, bôi nghệ cho vàng mặt, nhịn ăn, bớt uống hai hôm, làm cho ra vẻ hốc hác, để tôi cảm động, và thấy trách nhiệm về cái chết của cô, mà phải chịu phép. Nhưng cô Sáu tính sai, vì giả vờ bệnh, làm mặt mày càng thêm xấu xí, hốc hác, thì tôi càng sợ, và càng cao chạy xa bay cho sớm hơn nữa.

Cô Sáu Rau còn nhắn rằng, nếu tôi không chịu mối tình, thì cô sẽ vào chùa, xuống tóc đi tu. Tôi đâu có khờ dại, mà sợ cô dọa. Tôi nói với cô Năm Cháo Trắng rằng, đi tu được, là có phước. Ði tu có thập phương nuôi, khỏi phải bôn ba nắng mưa ngoài chợ. Tôi nghĩ là cô Sáu Rau bắt chước tuồng cải lương mà nói, chứ không chắc đi tu đâu.

Thường thường, Tư Phàn và tôi trốn trại đi xem đá gà ở xóm trong. Thiên hạ đánh cá ồn ào. Chúng tôi cũng thường bắt độ, khi ăn khi thua, mà thua thì nhiều hơn ăn. Những khi ăn tiền cá độ, chúng tôi dắt nhau đi nhậu vui vẻ,  nhậu thâm cả tiền túi. Khi thua, thì hai đứa lủi thủi ra về, phải vay mượn tiền bạn bè để gỡ gạc. Có hai lần bị cảnh sát bố ráp, cả phường đá gà bỏ chạy, chúng tôi cũng sợ bị bắt, chạy trốn, cho nên mất luôn tiền cá độ. Từ đó, chúng tôi tìm ra một cách đánh cá khác, mà chủ cá độ không móc được của chúng tôi một xu. Hai đứa tôi đánh cá riêng với nhau, đứa này được, thì đứa kia thua. Chúng tôi gọi là lọt sàng xuống nia. Và sau cuộc đá gà nào, chúng tôi cũng có buổi ăn nhậu, vì một trong hai đứa thắng cuộc. Thời trước Tư Thàn có nuôi gà đá, nên nhiều kinh nghiệm, cứ nhìn vóc dáng bên ngoài, là biết ngay con gà có phong độ hay không. Tôi cứ nợ Tư Thàn mãi, và một hôm, tôi bắt cá lớn, hy vọng trừ nguyên món nợ đang thiếu. Con gà tôi bắt độ, lớn hơn con gà của Tư Thàn cỡ một mười, một bảy, và cựa của nó dài hơn chừng nửa phân. Tôi chắc ăn. Tư Thàn nói con gà kia nhỏ, nhưng xương giò lớn, cựa năm khến, và sức lực dồi dào hơn. Theo Tư Thàn, nếu trong khoảng năm phút đầu, mà  cầm cự được, thì nó sẽ thắng. Hai con gà đá nhau túi bụi. Cứ mỗi cú đá là địch thủ lăn ngửa ra. Máu me đổ lênh láng trên sân đất. Con gà Tư Thàn bắt cá, bị té ngửa nhiều lần, và bỏ chạy hai lần, nhưng quay lại chiến đấu tiếp. Con gà lớn của tôi bị hai cú đá đau điếng, luồn đầu vào cánh địch thủ mà tránh đòn. Con gà nhỏ quay đầu lại, cắn vào mồng con gà lớn, dùng hết sức lực đá ngược lên, làm gãy cánh con gà lớn. Nó nằm lăn quay xà mòng trên mặt đất, cái mồm há ra hấp hối. Tôi bị thua cá độ. Thế là nợ Tư Thàn một số tiền bằng nguyên cả tháng lương. Nợ ít ít, thì còn nghĩ đến chuyện thanh toán, nợ nhiều quá, không còn muốn trả nữa. Tôi cứ khất mãi, và đến tháng lãnh lương cũng không trả bớt nợ cho Tư Thàn. Từ đó, giữa tôi và Tư Thàn có cái gì lấn cấn, tình bạn không còn như trước nữa. Tôi không dám ăn tiêu khi có mặt Tư Thàn, sợ bị hỏi nợ. Không phải tôi muốn giựt nợ, nhưng tôi tự bảo lòng, khi nào tiền bạc dư dả, thong thả mới trả. Tư Thàn thì cố làm theo lời cô Năm Cháo Trắng, muốn kéo tôi gần vào cô Sáu Rau, cứ có dịp là nhắc đến cô Sáu.

Một lần, Tư Thàn thấy tôi nói chuyện thân mật, cười nói với một cô nữ quân nhân. Giữa chỗ đông người, Tư Thàn hướng về tôi mà nói lớn:

“Sao mày nợ tao một tháng lương, lâu quá mà chưa trả? Phải vay mượn mà trả chứ?”

Tôi bị mất mặt trước đám đông, phát cáu, giận đỏ mặt. Tôi nghiến răng trả lời:

“Mày còn đòi tiền nợ, thì tao đánh cho bể đầu. Tao không nói đùa đâu.”

Tư Thàn lảng đi nơi khác, mà tôi thì cũng không hết giận, định đi theo gây sự thêm. Vì một món nợ đá gà, mà chúng tôi mất tình bạn.

Sau năm 1954, Tây rút về nước, chế độ Cộng Hòa được thành lập tại miền Nam. Chúng tôi được giải ngũ, về đời sống dân sự. Tư Thàn đem vợ là cô Năm Cháo Trắng về quê làm ăn. Tôi ở lại thành phố, làm đủ thứ việc, từ thợ nhà in, lái xe chuyển vận hàng hóa, thơ ký cho hội thánh Tin Lành và nhiều nghề khác. Cũng tạm đủ sống qua ngày, nhưng vì con đông, cho nên khi nào cũng thấy thiếu thốn. Thời gian làm việc cho hội thánh, tôi học được một ít tiếng Anh, nên sau này hữu dụng. Mười mấy năm sau khi giải ngũ, một hôm tôi lái xe chuyển kinh sách cho hội Thánh Tin Lành về miệt Long Xuyên, trên đường trở về, chiếc xe làm nư, chết máy giữa đường, không biết làm sao mà sửa. Tôi ngồi bên vệ đường, dưới bóng cây nhỏ. Ðầu óc suy nghĩ, tính kế không ra. Tôi định bắt xe đò về tỉnh lỵ, rước thợ ra sửa xe. Chờ hoài mà không có xe qua.  Phía dưới ruộng khô, có một nông dân đang cày đất với hai con trâu. Nắng cháy, cổ khát. Tôi thấy anh nông dân ngưng cày, lên bờ lấy bầu uống nước. Túng quá, tôi đánh liều kêu lớn:

“Này anh ơi, khát quá, cho tôi uống nước với.”

Người nông phu mang áo đen, quần xà lỏn, chậm chạp băng ruộng, đem cái bầu nước đến cho tôi. Khi đến gần, thì anh reo lên:

“Mày đó phải không Quài. Sao biết tao cày ruộng ở đây mà ghé lại thăm?”

Tôi mừng quá, hét lớn:

“Tư Thàn! Mày! Ð. M. mày. Thằng quỷ. Mày ở đây hả? Chiếc xe nó biết có mày ở đây, nên chết máy, để cho tao gặp mày.”

Tư Thàn và tôi xoắn lấy nhau, nhắc chuyện mười mấy năm trước. Ðủ thứ chuyện. Nói cho nhau biết tin tức gia đình mỗi người. Tư Thàn có hai thằng con trai. Ðời sống của gia đình thong thả, nhờ cô Năm Cháo Trắng buôn bán thêm ngoài chợ quận. Gạo cơm đủ ăn. Mười mấy năm, Tư Thàn chưa về lại Sài Gòn lần nào, vì cũng không có chuyện gì, mà chẳng còn ai để thăm viếng.

Tư Thàn bỏ dở luôn buổi cày ruộng. Tôi cũng bỏ kệ cho chiếc xe nằm ụ bên đường, đến đâu thì đến, theo Tư Thàn đi vào làng. Nhà Tư  Thàn trống trải, đơn sơ như tất cả mọi nhà nghèo miền quê.

Tư Thàn lấy cái nơm làm bẫy,  rải lúa cho gà ăn, và bắt được một con gà trống thiến lớn. Sau khi chọc tiết, moi lòng. Tôi phụ Tư Thàn nhồi đất sét ướt bên ngoài, và thả con gà trong đống rơm mà nổi lửa. Lửa cháy bừng bừng, mùi thịt thơm bốc lên làm tôi chảy nước miếng. Tư Thàn đem ra hai lít đế trong veo. Thèm quá, tôi rót một ly nhỏ, uống trước. Rượu thơm lừng nồng lên hốc mũi, và nóng như có lửa cháy trong cổ họng. Khi gà chín,  tôi đập cái vỏ đất sét, để cả con gà lên chõng tre có lát sẵn mấy tàu lá chuối tươi, mà Tư Thàn đã rửa sạch. Chúng tôi bốc tay mà ăn, cầm đùi gà nhai, rượu vào đều đều, cạn chai này, qua chai kia. Chúng tôi cùng nhắc chuyện xưa, chuyện không đầu, không đuôi, chuyện này lẫn qua chuyện khác. Hai đứa nhỏ con Tư Thàn đi học về, cũng nhào vào xâu xé con gà. Tôi ép thằng lớn hớp một ngụm đế, nó nhăn mặt phun ra. Tư Thàn và tôi cùng cười vang. Khi trời xế chiều, thì cô Năm Cháo Trắng cũng gánh hàng về. Cô nhận ra tôi, kêu thét lên vui thú, và phát vào vai tôi nhiều lần đau điếng. Cô mắng:

“Cái ông khỉ này, tưởng chết rấp đâu rồi chớ. Làm sao biết tụi tui ở đây mà ghé chơi? Vui quá xá.”

Ðêm đó, cô Năm Cháo Trắng nấu cháo vịt, mượn hàng xóm thêm  mấy lít đế, chúng tôi ngồi ăn nhậu dưới trăng cho đến khuya. Ăn uống no say. Tôi chợt nhớ tới món tiền mà tôi nợ Tư Thàn, trị giá bằng một tháng lương vào thời gian mười mấy năm trước, mà chưa trả, và cũng chưa hề toan tính thanh toán cho sòng phẳng. Cũng vì món nợ đó, mà cái tình bạn thân thiết giữa chúng tôi có một thời lấn cấn, mất đi cái mặn nồng, không còn như trước. Tôi chậm rãi nói lè nhè trong hơi men:

“Tao bậy quá, còn mắc nợ mày mà chưa có dịp trả. Công việc làm ăn, cũng không khá, mà con cái đông đúc, có cơm no bụng từng ngày là may lắm. Tiền không có dư…”

Tư Thàn cười hiền hòa, giọng ấm áp nói:

“ Thôi, quên chuyện xưa đi. Nợ nần cái khỉ gì? Chuyện cờ bạc thời trai trẻ dại dột, để tâm làm chi? Bạn bè gặp lại nhau, là quý rồi.”

Có lẽ vì rượu đã ngấm nhiều, mà nghe lời nói chí tình của bạn, mắt tôi cay xè. May mà tối trời không ai thấy. Tôi xịt mũi. Ðêm đó, tôi ngủ lại nhà Tư Thàn, và nói chuyện rầm rì trong bóng tối  cho đến khuya.

Sáng hôm sau tôi ra chỗ xe nằm ụ, thì thấy chiếc xe chỉ còn là một đống sắt cháy nham nhở. Thì ra đêm qua, du kích đặt mìn phá, mà ngủ mê quá, chúng tôi từ làng trong, không nghe biết. Tôi lấy xe dò về Sài gòn, và bị đuổi việc. Nhưng may mắn, không bị hội thánh bắt bồi thường. Có lẽ họ biết, tôi đưa mạng cùi ra, có bắt đền cũng không moi được một xu, thì tha làm phước. Vã lại thời buổi chiến tranh, không ai dự liệu trước được chuyện bom mìn.

Nhờ có thời làm việc cho hội Từ Thiện, tôi quen biết một số người, nên tháng tư năm 1975 chạy kịp ra khỏi nước. Tôi đem gia đình chạy, chưa biết sẽ chạy đi đâu, về đâu, và làm sao mà sinh sống sau này. Cứ chạy đã. Vì tôi sợ phải đi tù như một số bạn tôi, họ đã trở về miền Bắc vào năm 1954, và nghe đâu một số đã chết trong tù, một số còn bị giam giữ hơn hai mươi năm chưa được thả. Ðó là tin tức chính xác đi quành từ miền Bắc qua Pháp, và từ Pháp về miền Nam. Tôi được nước Mỹ cho vào cư trú, đi làm đủ thứ nghề tay chân. Cuối cùng vào làm y tá cho một trung tâm dưỡng lão của quận hạt. Làm việc cho đến khi về hưu. Hai mươi mấy năm đời sống yên lành, no ấm, hạnh phúc.

Năm 2001, sau hai mươi sáu năm xa quê hương, tôi về lại Việt Nam một mình, lần thứ nhất, để sắp đặt việc cưới vợ cho đứa con trai út. Khi đang ở Sài gòn, tôi nghe tin bọn khủng bố đánh sập tòa nhà đôi chọc trời ở New York. Ban đầu tôi không tin, và nghĩ rằng mấy ông Vẹm hay nói dối, đặt chuyện xạo tuyên truyền, nói xấu đế quốc Mỹ. Nhưng sau đó, xem truyền hình, tôi sửng sốt, bàng hoàng. Lòng tôi đau nhói, và nhận ra rằng, quê hương mới là nước Mỹ, cũng muôn vàn yêu mến, thắm thiết không thua gì quê hương cũ Việt Nam. Tất cả mọi chuyến bay đều bị hủy bỏ, việc vào ra nước Mỹ cũng tạm ngưng. Tôi chưa thể trở về lại Mỹ được, và trong lòng cũng tràn đầy lo ngại, không biết có thể về lại Mỹ được không. Hay là kẹt lại ở Việt nam mãi, cho hết cuối đời. Bảy mươi mấy tuổi rồi. Một đêm mất ngủ, tôi ra đứng ở hành lang khách sạn. Từ trên cao nhìn xuống phố phường bên dưới, tôi chợt nhớ, hơn năm mươi năm trước, nơi đây còn lau sậy um tùm, đất thấp ngập nước, hoang vu. Từ bên trong phòng vọng ra tiếng ngâm thơ khuya qua cái radio  nhỏ, giọng khàn đục buồn não nề:

“Sông kia rày đã nên đồng

Chỗ làm nhà cửa, chỗ trồng ngô khoai

Ðêm nghe tiếng ếch bên tai

Giật mình còn tưởng tiếng ai gọi đò..”(*)

Lòng tôi chùng xuống, và chợt nghĩ hơn nửa thế kỷ trôi qua, vèo mau như mộng. Mới ngày nào đó, tôi bị Tây bắt đi tù, sung vào đội lính kèn. Bao nhiêu là đổi thay, bao nhiêu bãi biển đã biến thành nương dâu, bao nhiêu trũng hoang đã trở thành phố thị. Những thế hệ trước tôi và đồng thời với tôi, có lẽ đa số đã về với lòng đất. Yên bề. Những người còn sống sót như tôi, bây giờ ở đâu, làm gì. Bỗng tôi chợt nhớ đến Tư Thàn. Nhớ tha thiết. Nhớ đến món nợ ngày xưa mà chưa trả được, lòng buồn rưng rưng. Tôi quyết định ngay, mong cho trời mau sáng, để thuê xe đi tìm thăm Tư Thàn.

Chiếc xe thuê riêng, chở tôi chạy về miền Tây, đi tìm Tư Thàn. Anh tài xế nghe tôi nói đi tìm một người bạn cũ, gặp nhau lần cuối đã hơn ba mươi năm trước, anh lắc đầu, có lẽ anh cho tôi là một ông già khùng lẩm cẩm. Xe từ Sài gòn, về qua Tiền Giang, đi hướng về phía Long Xuyên, dọc theo kinh đào. Tôi chỉ nhớ mang máng cái nơi mà chiếc xe tôi lái bị đặt mìn hơn ba chục năm trước. Tìm ba nơi không có, tôi qua nơi thứ tư, cái tên làng nghe mơ hồ quen quen trong trí nhớ. Tôi vào làng hỏi, xem ai có biết Tư Thàn, nay chừng trên bảy mươi tuổi,  hồi xưa làm lính kèn ở Bộ Tổng Tham Mưu. Gặp ai tôi cũng chèo kéo, hỏi thăm, nói luôn tên cô Năm Cháo Trắng “đầu gà đít vịt”. Mọi người đều lắc đầu, ngơ ngác. Tôi nghĩ là đến lầm nơi. Nhưng vẫn nhớ mang máng đâu khoảng này. Tôi cố moi trí nhớ, càng cố nhớ, thì trí óc như cứ mụ ra, mơ hồ thêm. Tuổi già thành lẩm  cẩm. Tôi đi  lang thang quanh làng, và hy vọng, còn có người biết Tư Thàn ở đâu. Khi tôi chán nản trở lại đường cái, ngồi trong cái chòi bán nước bên vệ đường, thì  gặp một bà già. Tôi chận lại hỏi. Bà nhíu mày một hồi, suy nghĩ lung lắm. Bỗng bà la lên:

“Tôi nhớ ra rồi, từ lâu không ai gọi ổng là Tư Thàn nữa. Mà ông là ai, tìm Tư Thàn có chuyện chi không?”

“Tôi là bạn lính kèn với Tư Thàn khoảng hơn  năm mươi năm trước. Bây giờ, nhớ bạn, ghé tìm thăm.”

“Trời đất! Năm mươi năm làm chi mà không thăm nhau, giờ mới trổ chứng đi tìm!”

Mấy đứa trẻ con chạy ra ruộng kêu Tư Thàn về, người ta nói anh đang cuốc đất thuê. Tôi nghĩ không phải là Tư Thàn bạn tôi, hơn bảy mươi tuổi, còn sức đâu mà đi cuốc thuê. Lũ trẻ đưa về một ông già ở trần, xương sườn đếm được, tay chân khẳng khiu, chỉ mặc cái xà lỏn ngắn, đi chân đất. Da nhăn nheo, khô khốc, đen đúa, gầy gò, hai má hóp, miệng móm xọm, chỉ còn hai cái răng, một cái của hàm trên, một cái của hàm dưới, rất là thiếu mỹ thuật. Không có một nét nào của Tư Thàn cả, có lẽ tuổi ông này già hơn nhiều. Tôi nheo mắt nói:

“Tôi tìm Tư Thàn, hồi xưa làm lính kèn ở bộ Tổng Tham Mưu, có vợ là chị Năm Cháo Trắng.”

Ông lão phều phào:

“Ông là ai? Tìm tui có việc gì không?”

“Tôi tìm Tư Thàn. Tôi là bạn cũ.”

“Ông là bạn cũ của tui? Chắc ông tìm lầm người rồi.”

“Ông biết Cô Năm Cháo Trắng ?”

“Vợ tui, má thằng Ðộ, thằng Rề.”

Bây giờ thì tôi chắc chắn ông lão ngồi trước mặt tôi chính là Tư Thàn, không ai khác. Tôi còn mơ hồ thấy vài nét hao hao của thuở nào. Bố thằng Ðộ, Thằng Rề, hai thằng này tôi đã gặp hồi xưa. Ngày trước, Tư Thàn mong sinh được bảy đứa con đặt tên là Ðộ, Rề, Mi, Pha, Xôn, La, Xi,  nhưng mới có Ðộ, Rề, thì bà vợ tịt ngòi. Tư Thàn ngồi co một chân lên ghế dài, rất tự nhiên, cái quần xà lỏn kéo nhăn nhúm lên cao, để lòi nguyên bộ phận kín ra ngoài, một khúc đen điu, nhăn nhúm, nằm tựa trên một đùm bao da lưa thưa lông bạc trắng. Tôi mừng quá, nắm lấy hai vai Tư Thàn mà lắc:

“Mày không nhớ ra tao là ai hả Tư Thàn!”

“Không. Ông có lầm tui với ai khác không? Ông là ai?”

“Thế thì mày không phải là Tư Thàn, lính kèn ở bộ

Tổng Tham Mưu hả?”

“Tui, Tư Thàn lính kèn đây.”

Tôi làm bộ buồn bã đổi giọng:

“Có lẽ ông không phải là Tư Thàn tôi quen, mà là người khác trùng tên chăng?”

“Lính kèn, ở bộ Tổng Tham Mưu, trước năm  năm mươi tư. Chỉ có Tư Thàn này thôi.”

Tôi nắm chắc hai vai Tư Thàn mà lắc, và hét lên:

“Ð.M. mày không nhớ ra tao là ai, thật không? Hay mày giả bộ.”

Tôi đưa tay lên miệng, với dáng điệu như đang thổi kèn và ca: “Một ngàn, ba mươi vạn thằng Tây, xách cái bị, đi ăn mày. Mụ đi đâu, tui bắt mụ lại, tui không cho mụ về.”

Nghe tiếng chửi thề và điệu kèn Tây của  tôi, Tư Thàn nhào đến ôm lấy tôi mà thét lên:

“Ð. M. mày, chỉ có mày mới nói cái giọng này. Thằng chó chết, thằng dịch vật. Thằng Quài, mày, Quài. Mà mày sang trọng, và trẻ quá, ai ngờ, ai mà nhìn ra.”

Ðám trẻ con đứng xem cười ầm lên khi thấy hai ông già văng tục và gọi nhau bằng mày tao.  Tư Thàn cảm động quá, cái miệng móm méo xẹo, và khóc thành tiếng hu hu, làm tôi cũng khóc theo. Tư Thàn nghẹn ngào:

“Mày còn nhớ đến tao, tìm thăm. Ðồ dịch vật.  Lâu nay mày chết rấp nơi nào?”

Tư Thàn nhìn tôi từ đầu xuống chân, nói nho nhỏ:

“Tóc tai cũng còn, răng cỏ hai hàm còn nguyên, mặt mày có da có thịt, áo bỏ vào quần, đi giày đàng hoàng. Có phải mày là Việt Kiều về thăm quê hương không? Bây giờ mày ở đâu? Làm gì?”

Tôi sợ Tư Thàn buồn, nói dối:

“Việt kiều cái con khỉ. Tao ở Sài gòn, nhờ có mấy đứa con vượt biên ra nước ngoài, và mấy đứa ở nhà, buôn bán, ăn nên làm ra. Giờ già rồi, về hưu, không làm gì nữa cả.”

Tôi hỏi thăm gia cảnh, Tư Thàn cho biết hai đứa con trai đều đã chết. Thằng Ðộ đi lính quốc gia, đã đền nợ nước, thằng Rề “hy sinh” cho “cách mạng”. Cô Năm Cháo Trắng chết bệnh. Tư Thàn không có ai để nương tựa, phải đi cuốc đất thuê kiếm ăn qua ngày. Tôi nhìn cái thân thể xương xẩu của Tư Thàn, không biết anh lấy đâu ra sức mà đi làm lao động chân tay. Tôi nói:

“Thôi, mày đưa tao về nhà, thay áo quần, rồi cùng qua Long Xuyên, lu bù một bữa, anh em hàn huyên chơi, bỏ mấy mươi năm xa cách.”

Tư Thàn ngự trong căn chòi nhỏ, bốn bề che lá đơn sơ. Không bàn, không giường, chỉ có cái võng treo xéo. Trên bếp có cái nồi đen điu, méo mó. Tôi giở nồi ra xem, thấy còn có miếng cơm cháy. Tôi bốc ăn, mà cứng quá, răng già không nhai nổi. Thế mà Tư Thàn không còn răng, ăn cách nào đây?

Khi xe vào tỉnh lỵ Long Xuyên, tôi nhờ anh tài xế tìm cho một quán ăn ngon. Anh đưa chúng tôi vào quán nướng Nam Bộ. Tư Thàn gạt đi, không chịu vào, và nói:

“Kiếm chai đế và vài ba con khô cá sặc là đủ vui rồi. Ðừng hoang phí tiền bạc. Vào làm chi những nơi sang trọng này cho chúng chém.  Gặp nhau là vui rồi. Ăn uống là phụ.”

Tôi ép mãi mà Tư Thàn không chịu. Cuối cùng, chúng tôi ra chợ, ngồi trên ghế thấp ở quán lộ thiên, ăn nhậu và nói cười vui vẻ, tự nhiên. Tôi uống rượu thay nước, vì sợ đau bụng. Anh tài xế cùng ăn, mà tôi không cho anh nhậu rượu, anh tỏ vẻ khó chịu, vùng vằng.

Ðưa Tư Thàn về lại tận nhà, tôi móc trong cặp một gói bao, bằng giấy báo đưa tặng. Tư Thàn mở ra xem, và giật mình, xô gói quà ra về phía tôi:

“Cái gì đây? Tiền đâu mà nhiều thế này? Tôi không lấy đâu. Ðừng bày đặt.”

“Có bao nhiêu đâu. Ngày xưa, tao nợ mầy chưa trả được, bây giờ trả lại cả vốn lẫn lời. Tao tính rồi, mầy nhận đi cho tao vui, bỏ công tao lặn lội đi tìm.”

“Không. Nợ nần cái khỉ gì. Ăn thua đá gà, chuyện tào lao thời trẻ dại. Tao đã bảo mày quên đi từ lâu.  Bày đặt. Lấy tiền làm chi? Không có chỗ cất, bọn trộm cắp nó lấy đi, uổng lắm. Tao không lấy đâu.”

Thấy bộ Tư Thàn cương quyết quá, tôi xuống giọng, giả vờ nói:

“Mày mà không nhận, tao có chết nhắm mắt cũng không yên tâm. Chưa trả hết nợ, thì sau này phải đầu thai làm trâu cày cho mầy. Khổ lắm. Thương tao, mày cứ cầm đi.  Ðể mua gạo. Ðể khi đau yếu có chút thuốc thang. Nếu không có nơi cất, thì đem gởi bà con.”

Ðôi mắt già của Tư Thàn chớp chớp, và nói giọng run run như sắp khóc:

“Ð.M, tao già đến thế này, mà mày cũng còn định gạt tao như hồi xưa nữa sao? Thằng chó chết. Cái tình bạn của mày, còn quý gấp trăm ngàn lần gói tiền này. Ừ, tao nhận cho mày vui. Tao sẽ làm mâm cơm cúng bà Năm Cháo Trắng, nói cho bà biết cái tình bạn của mày. Dưới suối vàng, chắc bà cảm động lắm.”.

Tràm Cà Mau

(*) Thơ Trần Tế Xương

From: Tu-Phung 


 

AI DẠY AI.-Truyen ngan HAY

Mới 42 tuổi, hắn đã có tất cả :công danh, tiền tài, địa vị… Một ngôi nhà khang trang, một cô vợ xinh đẹp và giỏi giang.

Ấy vậy mà không biết sao hôm nay, hắn thấy buồn bã, cảm thấy đời thật vô vị…

Vợ chồng hắn vừa “chiến tranh lạnh “tối hôm qua. Vì một nguyên nhân rất vớ vẩn… Dạo này hắn hay về muộn vì quá bận việc ở cơ quan.

Cảm thấy thật bế tắc, hết giờ ở sở, hắn quyết định không về nhà.

Hắn muốn một mình, và thật say!

Tạt vào một quán nướng vỉa hè, có rượu ngon… Hắn ngồi “hưởng sự đời “.

Mới ngà ngà vài li, chợt một người hành khất chìa bàn tay đen đủi trước mặt hắn, và không nói một lời nào.

Thoạt đầu, hắn không nghĩ đây là một người ăn xin, vì trông ông ta không tới nỗi quá tiều tụy.

Sau thấy bàn tay đó cứ mãi chìa trước mặt, hắn hiểu và rút ví.

Một phần, hắn vốn là người tốt bụng, phần nữa, cũng do đã ngà ngà say… Hắn móc cả một tệp tiền ra ấn vào tay người hành khất.

Một lần nữa, hắn lại trợn tròn mắt khi thấy người đó chỉ nhón lấy một tờ 50 ngàn.Còn thì đưa lại tất cả, kèm theo một lời cảm ơn mà hắn không bao giờ nghĩ đến!

_Cảm ơn người tốt bụng. Ngần này là đã đủ cho tôi sống tới trưa mai rồi.

Hắn ngắc ngứ trong họng :

_Tôi cho bác tất mà, bác cứ lấy mà dùng…

_Ăn mày, ăn xin chúng tôi, tích trữ tiền làm gì… Đêm ngủ, lưu manh nó cũng sờ nắn móc hết cả thôi.

Hắn chợt hiểu ra vấn đề.

_Thế bác ngồi uống với tôi li rượu nhé!

_Dạ, cảm ơn… Tôi cũng tới giờ “về “rồi.

Hắn hỏi một cách vô thức :

_Bác… Về đâu?

Người ăn xin nhỏ nhẹ :

_Về với bà ấy, và đứa con tật nguyền, em ạ. Về mái ấm của mình!

Bao nhiêu rượu đã uống, hình như trôi tuột ra khỏi bao tử của hắn.

Về nhà thôi chứ nhỉ, về với người vợ đang đợi hắn làm lành, đang âu lo vì đã muộn mà chưa thấy hắn về ăn cơm tối…

“Ai cũng có một tổ ấm của mình, chú em ạ “!

Sưu tầm


 

Hạnh phúc ngắn chẳng tày gang. Truyen ngan HAY

Những câu chuyện Nhân VănLan Lê Hạnh phúc ngắn chẳng tày gang. Một buổi tối, đang ngồi làm việc thì anh kêu chóng mặt và đau đầu dữ dội một cách bất thường. Trước đây anh chưa từng bị như thế. Tôi vội đưa anh đến bệnh viện. Qua thăm khám, chụp chiếu, bác sĩ chẩn đoán anh bị tai biến nhẹ. Sau đó một tay anh bị yếu dần đi, không cầm nắm được, giọng nói cũng ngọng nghịu không rõ ràng nữa. Mặc dù bác sĩ có nói bệnh của anh nếu điều trị đúng hướng thì có khả năng phục hồi rất cao, nhưng anh càng có biểu hiện tiêu cực. Kể từ ngày bị tai biến, anh phải nghỉ làm để ở nhà điều trị theo phác đồ của bác sĩ. Nhưng tính anh từ đó cũng đổi khác. Anh hay cáu gắt, tính khí thất thường, đôi khi chẳng ai làm gì cũng nóng giận đập phá đồ đạc trong nhà. Tôi hiểu chồng chưa chấp nhận được thực tại, tôi thương anh nhiều, cố gắng nhẫn nhịn, tỉ tê cho anh hiểu và lạc quan lên. Thế nhưng tính cách của anh càng ngày càng tệ. Một năm, rồi hai năm trôi qua, tình hình có khá lên một chút. Anh bớt cáu bẳn hơn nhưng lại trở nên lầm lì, ít nói. Anh thường xuyên ngồi trong phòng, ai vào cũng đuổi ra. Có lần anh còn ngọng nghịu hỏi tôi: “Lấy anh khổ quá, em có hối hận không?”. Tôi nói “Em không hối hận” Nhưng anh lại hét lên rằng tôi đang nói dối. Anh còn nhiều lần nói rằng anh khó chịu khi nhìn thấy tôi, tốt nhất là tôi đừng xuất hiện trước mặt anh nữa. Bố mẹ chồng rất thương tôi. Họ nói tôi còn trẻ, lại chưa có con cái, có lẽ nên giải thoát cho mình khỏi cuộc hôn nhân này để tìm cho mình một bến đỗ mới hạnh phúc hơn. Họ động viên tôi ly hôn, họ sẽ chăm sóc chồng tôi. Những lời bố mẹ chồng nói khiến tôi thật sự xúc động. Tôi tuy rất yêu chồng, chưa từng nghĩ sẽ vì anh bệnh tật mà bỏ rơi anh. Nhưng tôi cũng chỉ là một phụ nữ trẻ yếu mềm. Tôi cần được yêu thương. Tôi muốn một gia đình trọn vẹn có vợ chồng và con cái biết yêu thương nhau. Nhưng chồng tôi càng ngày càng tỏ ra xa cách và nói những lời khó chịu. Mấy tháng rồi anh còn xua đuổi tôi, không cho vợ ngủ chung vì muốn ngủ một mình. Tôi cảm thấy rất tủi thân và mệt mỏi nên cũng quyết định dừng lại cuộc hôn nhân này. Một tối, tôi ngồi đối diện với chồng và nói rằng chúng tôi nên ly hôn. Tôi nói rằng: “Anh khó chịu khi nhìn thấy em. Anh không muốn ngủ chung với em. Có lẽ anh không còn yêu em nữa. Em không muốn cả cuộc đời sẽ sống như thế này. Em sẽ rời khỏi đây mà không cần mang theo bất cứ thứ gì cả. Anh thương bố mẹ, chịu khó uống thuốc, đừng quậy phá nữa. Bố mẹ già rồi, họ cũng khổ tâm lắm”. Chồng tôi nhìn tôi, im lặng thật lâu rồi thốt ra một câu đầy khó nhọc: – “Em làm như vậy là đúng rồi”. Tôi viết đơn ly hôn, anh không cần do dự mà ký ngay. Mặc dù là người chủ động ly hôn, nhưng khi nhìn chữ ký của anh trên đơn, lòng tôi vẫn vô cùng đau đớn. Tôi không biết mình làm như thế có tệ bạc quá không. Chúng tôi đã từng yêu nhau, từng vui vẻ và hạnh phúc biết bao nhiêu. Tôi khóc trước mặt anh, còn anh nhìn tôi và im lặng. Buổi tối cuối cùng ở nhà chồng, tôi thu xếp quần áo tư trang của mình. Tôi nói với bố mẹ chồng sẽ về ở nhà bố mẹ đẻ một thời gian. Sau khi tinh thần ổn định, tôi sẽ thuê trọ gần chỗ làm cho tiện. Lúc tôi dọn đồ trên phòng ngủ, chồng tôi đang cầm một cuốn sách. Mấy hôm nay tôi thấy anh hay đọc sách, nói năng có vẻ nhu mì hơn. Rồi anh nhìn tôi, hỏi nhỏ: “Đêm nay, em ngủ cùng anh được không?”. Cảm giác của tôi khi nghe câu nói đó là bất ngờ. Lâu rồi chúng tôi không ngủ chung cùng nhau, có lẽ vì thế mà tình cảm cũng dần phai nhạt. Tôi nghĩ chúng tôi sẽ có đôi điều cần nói với nhau. Nhưng khi lên giường thì anh lại nhắm mắt giả vờ nằm ngủ. Tôi nghĩ có nói gì bây giờ cũng đâu còn quan trọng nữa. Thế nhưng, đang đêm, lúc tôi ngủ bỗng cảm giác có vòng tay ôm mình làm tôi tỉnh giấc. Anh úp mặt vào lưng tôi, nói rất nhỏ bằng giọng ngọng nghịu nhưng tôi vẫn nghe rất rõ: – “Anh chỉ mong em được hạnh phúc thôi. Anh yêu em”. Tôi nằm im lặng, nước mắt lặng lẽ rơi trên gối. Sáng thức dậy, tôi cầm tờ đơn ly hôn và xé trong sự ngỡ ngàng của anh. Tôi hỏi anh: – “Sao anh yêu em mà lại đối xử với em như vậy. Anh có thể khiến em hạnh phúc mà, chỉ là anh không muốn làm. Anh nghĩ chỉ cần không sống với anh thì em sẽ hạnh phúc sao? Em hạnh phúc được sao?”. Chồng nhìn tôi, nói nhỏ: “Em điên rồi, sao lại xé đi”. Thế nhưng mắt anh lại ngân ngấn lệ. Và cứ thế, chúng tôi cùng khóc. Rồi tôi động viên anh tập vật lý trị liệu, bạn anh đến dạy anh làm IT trên máy tính, anh rất cố gắng làm việc, nhiều lúc tôi muốt nước mắt vào trong. Dần dần anh khá hơn và thu nhập anh đã có nhiều tháng còn hơn lương tôi. Rồi tôi có bầu cả nhà vui trong hạnh phúc … Lúc rảnh tôi và anh đi bộ, kiên trì vật lý trị liệu bệnh anh đã hồi phục đến 90% rồi, chỉ còn đi hơn chậm nữa thôi. Ngày nào chúng tôi lại cười đùa vui vẻ .. Tôi yêu anh và chúng tôi yêu nhau . . . ST
 

KHI Ở RANH GIỚI GIỮA SỐNG VÀ CHẾT, BẠN SẼ THẤY RẰNG TIỀN TÀI, DANH VỌNG, ĐỊA VỊ CHẲNG CÒN Ý NGHĨA NỮA.

Chuyện tuổi Xế ChiềuCông Tú Nguyễn

“Tôi lớn lên trong một gia đình có mức sống dưới trung bình. Tôi học được từ mọi người xung quanh và môi trường sống rằng có thành công thì mới hạnh phúc. Thành công có nghĩa là giàu có. Với suy nghĩ này, tôi luôn ganh đua ngay từ nhỏ.

Không chỉ học ở trường giỏi, tôi cần thành công trong mọi lĩnh vực, từ các hoạt động tập thể đến chạy đua. Tôi cần đoạt được cúp, phải được giải cao nhất. Tôi vào trường y và trở thành bác sĩ. Chắc một số em biết rằng trong ngành y, phẫu thuật mắt là một trong những chuyên khoa khó vào nhất. Tôi đã vào được và đạt học bổng nghiên cứu của ĐH quốc gia Singapore.

Trong khi nghiên cứu, tôi có hai bằng phát minh, một về dụng cụ y khoa và một về tia lasers. Nhưng tất cả thành tựu này không mang lại cho tôi sự giàu có. Tôi quyết định bỏ ngành phẫu thuật mắt giữa chừng và nhảy qua mở trung tâm giải phẫu thẩm mỹ trong tỉnh.

Một người có thể không vui vẻ khi trả 20 USD cho một bác sĩ tổng quát nhưng không ngần ngại trả 10.000 USD để hút mỡ bụng, 15.000 USD sửa ngực… Do vậy, thay vì chữa bệnh, tôi quyết định trở thành người sửa sắc đẹp. Công việc làm ăn rất khấm khá. Bệnh nhân đến rất đông. Tôi mướn một, hai, ba rồi bốn bác sĩ. Chỉ trong vòng năm thứ nhất, chúng tôi đã lên hàng triệu phú. Nhưng chẳng thể nào là đủ vì tôi trở nên mê muội. Tôi bắt đầu bành trướng sang thị trường Indonesia để làm phẫu thuật cho những người giàu ở đó. Họ phung phí tiền bạc một cách dễ dàng. Làm tiền ở đó quá dễ…

Tôi làm gì với mớ tiền dư thừa? Cuối tuần tôi tiêu khiển ra sao? Thông thường tôi đến tụ tập tại câu lạc bộ đua xe hơi. Thỉnh thoảng tôi dự đua xe ở Sepang, Malaysia. Tôi mua một chiếc Ferrari 430. Sau khi có xe, tôi mua nhà, khu nghỉ mát. Tôi nghĩ phải hòa nhập với những người giàu có, nổi tiếng và bắt đầu giao tiếp với mỹ nhân, người giàu sang và danh tiếng, như hoa hậu thế giới hay người sáng lập mạng Internet, ăn uống ở mọi nhà hàng kể cả nhà hàng nổi tiếng của đầu bếp Michelin.

Tôi đã có được mọi thứ trong cuộc sống, đến tột đỉnh của sự nghiệp. Đó là tôi của một năm trước đây. Khoảng tháng 3 năm ngoái, đột nhiên tôi bị đau lưng. Tôi nghĩ chắc tại mình hay vận động mạnh. Tôi đến Bệnh viện đa khoa Singapore và nhờ bạn học chụp cộng hưởng từ để xem có phải bị trật đốt sống hay không. Rồi tôi thực hiện PET scans và được phát hiện đang ở giai đoạn 4 của ung thư phổi. Tôi được cho biết, ngay cả với hóa trị, tôi cũng chỉ còn được 3-4 tháng tối đa. Tôi chán nản, tuyệt vọng.

Điều mâu thuẫn là mọi thứ tôi có – sự thành công, cúp thưởng, xe cộ, nhà cửa – tất cả những thứ tôi nghĩ mang hạnh phúc – khi tôi xuống tinh thần, tuyệt vọng, không mang đến cho tôi niềm vui. Tôi chẳng thể ôm chiếc Ferrari ngủ. Chúng không mang lại một sự an ủi nào trong những tháng cuối cùng của cuộc đời tôi. Điều thật sự mang lại cho tôi niềm vui trong mười tháng cuối cùng là tiếp xúc với người thân, bạn bè, những người chân thành chăm sóc tôi, cười và khóc cùng tôi. Họ có thể nhìn thấy sự đau đớn, chịu đựng mà tôi phải trải qua.

Để tôi chia sẻ với các em một câu chuyện khác. Khi tôi bằng tuổi các em, tôi ở khu King Edward VII. Tôi có một người bạn khá lạ lùng tên là Jennifer. Khi chúng tôi đi bộ, nếu thấy một con ốc sên trên đường, cô ta sẽ nhặt nó lên và đặt lại trong thảm cỏ. Tôi thắc mắc tại sao phải làm thế, sao phải bẩn tay chỉ vì một con ốc sên? Sự thật là cô ta đã cảm được rằng con ốc có thể bị đạp nát chết nếu nằm đó. Đối với tôi, nếu không tránh đường thì đáng bị đạp nát, chỉ là luật tự nhiên thôi. Đối ngược nhau quá, phải không?

Tôi được huấn luyện thành bác sĩ để có từ tâm, đồng cảm nhưng tôi không có. Là một bác sĩ trực trong bệnh viện chuyên trị ung thư NUH (National University Hospital), tôi từng chứng kiến bao nhiêu người chết. Tôi đã thấy họ đau đớn và chịu sự tàn phá của cơ thể vì cơn đau. Tôi cũng đã chứng kiến bệnh nhân nhấn nút morphine tiêm vào máu từng giờ từng phút vì không chịu nổi sự đau đớn dày vò. Nhiều bệnh nhân phải dùng oxygene để thở hơi thở cuối cùng. Nhưng đó là công việc. Khi xong việc tôi chỉ muốn chạy ngay về nhà vì nghĩ là đã hoàn tất công việc hằng ngày.

Tôi thực sự không hiểu họ đau đớn như thế nào cho đến khi tôi là bệnh nhân. Nếu được làm lại từ đầu với cương vị một bác sĩ, tôi sẽ đổi khác. Vì tôi đã trải qua cơn đau đớn mà bệnh nhân vấp phải nên tôi rất hiểu họ chịu đựng sự dày vò của đau đớn như thế nào.

Ngay khi các em vào năm thứ nhất, bắt đầu hành trình để trở thành nha sĩ giải phẫu, cho phép tôi thử thách các em hai điều.

Hiển nhiên, tất cả các em ở đây sẽ bắt đầu đi làm tư. Các em sẽ thành giàu có. Tôi bảo đảm với các em rằng, chỉ trồng răng, các em kiếm được bạc ngàn, mớ tiền không tưởng được. Và thật ra, không có gì sai trái với thành công, giàu có. Điều phiền toái duy nhất là nhiều người chúng ta, như bản thân tôi, không thể kiềm chế được.

Tại sao tôi nói như vậy? Bởi vì càng tích tụ, càng có nhiều, tôi lại muốn nhiều hơn. Càng ham muốn, tôi càng trở nên mê muội. Tôi trở nên mê muội đến nỗi chẳng còn việc gì thành vấn đề đối với tôi nữa. Bệnh nhân chỉ là một nguồn lợi tức và tôi vắt cạn từng xu từ họ.

Nhiều khi chúng ta quên mất mình cần phục vụ ai. Chúng ta lầm lạc đến nỗi chẳng phục vụ ai ngoài chính mình. Điều đó đã xảy ra với tôi. Trong khi khám bệnh, đôi khi chúng ta khuyên bệnh nhân chữa trị bệnh không hẳn có, không rõ rệt và ngay cả khi không cần thiết.

Ngay tại thời điểm này, tôi biết ai là bạn tôi, chân thành lo lắng cho tôi và ai chỉ muốn làm tiền tôi bằng cách bán buôn “hy vọng” cho tôi. Chúng ta đánh mất lương tâm vì chúng ta chỉ muốn kiếm tiền.

Tệ hại hơn, tôi có thể kể cho các em nghe, vài năm vừa qua, chúng tôi đã nói xấu đồng nghiệp, hạ thấp họ xuống để nâng mình lên. Điều đó đang xảy ra trong ngành y và ở mọi nơi. Tôi thử thách các em không để đánh mất lương tâm mình. Tôi trả giá đắt cho bài học này. Và tôi hy vọng các em sẽ không bao giờ phải như vậy.

Thứ hai là đa số chúng ta khi bắt đầu công việc đều chưa có “cảm giác” đối với bệnh nhân. Cho dù trong bệnh viện hay nhà thương tư cũng có vô số bệnh nhân để chữa trị. Tôi chỉ muốn bệnh nhân rời phòng làm việc của tôi càng sớm càng tốt. Đó là sự thật và trở thành một công việc bình thường hằng ngày.

Tôi đã thực sự hiểu bệnh nhân nghĩ về mình thế nào chăng? Thực ra là không. Nỗi lo sợ và lo âu của bệnh nhân và những thứ khác mà họ đã trải qua. Thực ra tôi cũng không biết đến khi tôi lâm trọng bệnh và đó là một sai lầm to nhất của hệ thống y khoa tân tiến. Chúng ta được huấn luyện để trở thành những chuyên gia y cũng như nha khoa nhưng chúng ta lại không hiểu bệnh nhân cảm nhận chúng ta như thế nào.

Tôi không đòi hỏi các em phải xúc động, vì như vậy cũng không chuyên nghiệp, mà chỉ hỏi chúng ta có thật sự cố gắng tìm hiểu nỗi đau đớn của họ không? Phần lớn là không, tôi có thể chắc chắn như vây. Do đó, tôi thử thách các em luôn đặt mình vào cương vị của bệnh nhân.

Bởi vì sự đau đớn, nỗi lo lắng, sợ hãi rất thực với họ mặc dù không thực đối với các em. Ngay hiện giờ, tôi đang chữa hóa trị lần thứ 5. Tôi có thể cho các em biết nó rất kinh khủng. Hóa trị là thứ các em không muốn ngay cả kẻ thù của mình phải trải qua vì bị hành, đau đớn, ói mửa. Cảm giác khủng khiếp. Và bây giờ, với chút năng lực còn lại, tôi tìm đến các bệnh nhân ung thư khác vì tôi thật sự hiểu được họ đau đớn, chịu đựng như thế nào. Hơi muộn màng và ít ỏi.

Các em có cả tương lai sáng lạn phía trước với tất cả tài năng và nhiệt huyết. Tôi thử thách các em, ngoài bệnh nhân của mình, hiểu thêm rằng có nhiều người ngoài kia đang thật sự đau đớn, thật sự khó khăn, đừng nghĩ rằng chỉ có người nghèo mới phải khổ. Điều này không đúng. Những người nghèo khó vốn sẵn không có gì, họ dễ dàng chấp nhận. Do đó, họ hạnh phúc hơn các em và tôi. Nhưng có nhiều người đang đau khổ về tâm thần, thể xác, tình cảm, vật chất… Chúng ta lựa chọn làm lơ hoặc chúng ta không muốn biết đến sự hiện hữu của họ.

Do đó đừng quên, khi các em được thành danh, hãy với tay đến những người cần sự giúp đỡ. Bất cứ việc gì các em làm đều có thể mang đến sự khác biệt lớn cho họ. Bây giờ tôi ở vị trí của người tiếp nhận, tôi hiểu rõ, thấy khác khi có người thật sự chăm lo, khuyến khích mình. Nhờ vậy mà tôi vẫn có thể nói chuyện với các em hôm nay.

Mọi người đều biết rằng sẽ có ngày phải chết, chúng ta ai cũng biết như vậy. Nhưng sự thật, không ai tin, vì nếu tin chúng ta đã sống một cách khác. Khi tôi phải đối diện với cái chết, tôi lột bỏ mọi thứ, chỉ tập trung vào thứ thiết yếu. Thật trái ngược rằng, chỉ khi sắp chết thì mình mới biết nên sống như thế nào. Tôi biết điều này nghe qua thật mơ hồ, nhưng đó là sự thật và tôi đang trải qua.

Vương Linh

 


 

TÌNH YÊU CÓ TỪ NƠI ĐÂU…- Truyện ngắn HAY

Chuyện tuổi Xế ChiềuCông Tú Nguyễn

Ô tô mất phanh khi đang đổ dốc, Chồng mở cửa cho vợ nhảy ra ngoài, anh chồng một mình lao xuống vực.

Câu chuyện xảy ra tại hồ Ba Bể – Băc Kạn.

Hai vợ chồng chở nước đang xuống dốc thì ô tô bất ngờ mất phanh không thể kiểm soát, hai bên toàn cây cối và đá rất nguy hiểm.

Không kịp suy nghĩ, anh chồng liền mở cửa ghế phụ và bảo vợ rằng : “Nhảy đi em” Chị vợ nhảy xuống rồi ô tô đâm thẳng vào cột biển báo, ngừng được. Xe nát một nửa đầu bên ghế phụ, nước văng tung toé.

Anh chồng xuống xe vội chạy lại phía vợ, chị vợ bị chảy máu đầu được một nhóm các bạn trẻ đi phượt sơ cứu tại chỗ rồi khiêng vào vệ đường cho đỡ nguy hiểm.

Rất may cả 2 vợ chồng đều chỉ bị thương, không nguy hiểm.

Hai vợ chồng vô cùng cảm động, cùng cám ơn đoàn phượt. Mọi người ai cũng thắc mắc tại sao trong giây phút định mệnh ấy anh lại quyết định cho vợ nhảy xuống, một mình đối đầu với nguy hiểm.

Hai vợ chồng nước mắt ngắn dài thủ thỉ : ” Nếu không nhảy mà cả hai người cùng chết thì lấy ai nuôi 2 đứa con nhỏ …”

Và trong khoảnh khắc định mệnh ấy, tấm lòng cha mẹ, tình nghĩa vợ chồng đã chiến thắng cả tử thần

Nguồn:Internet

Mẹ ơi, chính mẹ đã để phúc đức cho con.- Truyện ngắn HAY

Những Câu Chuyện Thú VịChi Nguyen

Mẹ không được học hành nhiều, vậy mà khi con học xa nhà, có một lần mẹ đã cố gắng viết cho con mấy dòng ngắn ngủi, nét chữ run rẩy và to như trẻ con học mẫu giáo tập viết. Mẹ viết “Mẹ ít học hơn con nên mẹ tin con hiểu đời nhiều hơn mẹ. Mẹ chỉ muốn dặn con một điều rằng con đi xa hãy nhớ: Ăn một miếng của người, con tạc ân vào dạ. Học một chữ ở đời, con xem nặng nhẹ bao nhiêu”.

Lời dặn của mẹ đã làm con khóc. Con tâm niệm điều đó suốt cả cuộc đời, và nó đã trở thành lẽ sống của con…Hôm con đi phỏng vấn xin việc ở công ty của Nhật cùng với ba chục người khác. Con không giỏi vi tính và ngoại ngữ như họ, song người được lựa chọn lại là con.

Mẹ có biết họ hỏi con câu gì không? Họ hỏi con rằng câu nói nào và của ai gây ấn tượng và có tác động mạnh đến cuộc sống của con; con đã thuật lại lời mẹ dặn. Họ bảo:“Vi tính và ngoại ngữ cần, nhưng bạn có thể học trong vài tháng. Chúng tôi cần hợp tác với một người nặng lòng biết ơn và biết chắt lọc trong học hỏi”.

Mẹ ơi, chính mẹ đã để phúc đức cho con.

** Con và chồng con có xung đột vì con nghi ngờ anh ấy vẫn lén gặp bạn gái cũ. Con giận, bỏ nhà chồng về khóc lóc với mẹ. Tối ấy mẹ mở chiếc hộp cũ lấy ra một tập thư đã ố vàng. Đó là những lá thư của người yêu cũ gửi cho bố con trước đây. Mẹ bảo khi bố quyết định lấy mẹ, bố toan đem hết mớ thư từ và ảnh người yêu cũ ra đốt sạch để chứng minh bố một lòng một dạ với mẹ. Nhưng mẹ đã ngăn lại và bảo “Thư anh đốt mà lòng anh còn nhớ cũng chẳng ích gì. Hãy cứ để em giữ lại làm kỷ niệm. Thỉnh thoảng anh đọc lại cũng thấy vui. Dù sao đấy cũng là những kỷ niệm gắn bó với anh một thời, sao lại cạn tàu ráo máng như vậy?”

Bố sững sờ và ôm chầm lấy mẹ cảm động lắm. Thỉnh thoảng bố mẹ còn đọc lại những lá thư ấy, và bố cả đời thủy chung với mẹ.

Hôm ấy con đã khóc thật nhiều và con trở về nhà làm lành với chồng. Mẹ nói ít nhưng mẹ dạy nhiều. Chính mẹ đã lấy lại cho con hạnh phúc.

** Khi em trai con đưa người yêu về ra mắt, con không ưng ý lắm. Mẹ im lặng không nói gì. Sau hôm gặp mẹ cô ấy, mẹ nhận xét: “Mẹ cô ấy hiền hậu, phúc đức lắm. Người mẹ như thế chắc chắn cô con gái sẽ là đứa con ngoan, dâu hiền”. Mẹ đã không lầm. Hôm mẹ chồng tương lai của con sang chơi với mẹ, cụ cũng nhận xét về con y như thế. Hóa ra nhiều người nhìn nết mẹ mà đoán tính cách của con.

** Năm trước con đọc báo thấy có chuyện một cô gái đang tâm đẩy con chồng xuống sông Hồng. Một thời gian sau thấy báo đưa tin có bà dì ghẻ bắt con chồng tự khâu miệng mình lại. Con nhận xét rằng phụ nữ nhiều người ác quá.

Mẹ lại bảo “Phúc đức tại mẫu. Những người như thế rồi lại ác giả ác báo thôi”. Mẹ nói với con rằng những người ác chỉ là số ít, đừng vì thế mà vơ đũa cả nắm. Mẹ chỉ cho con thấy bao nhiêu người mẹ đã hy sinh hết lòng vì con, không ít người phụ nữ đã nhận nuôi hàng mấy chục trẻ mồ côi mặc dù bản thân mình còn khó khăn, vất vả.

Trong đời có hai vùng sáng tối, mẹ bảo con nhìn ánh sáng mà đi.

** Thấy con phàn nàn về sự chểnh mảng học tập của các cháu, mẹ bảo “Con giục các cháu đi học bài, mà vợ chồng con cứ ngồi xem ti vi. Con chê các cháu lười học tiếng Anh mà bản thân con cũng không biết ngoại ngữ thì dạy bảo chúng nó thế nào!”.

Ngẫm kỹ lời mẹ nói, con đã quyết định đi học lớp tiếng Anh buổi tối cùng cháu. Tối về, mẹ con trao đổi bài rôm rả. Đúng như mẹ nói, khi thấy cả bố và mẹ đều miệt mài làm việc, các cháu cũng tự động lấy sách ra làm bài. Đến nay chúng con rất yên tâm về việc học hành của các cháu.

Sao có mỗi bài học đơn giản rằng muốn con chăm thì mẹ phải siêng; muốn con hiền thì mẹ phải thảo mà con không nhớ, phải để mẹ nhắc nhở!

** Mẹ nghèo không có tiền bạc cho con, nhưng mẹ đã cho con hiểu giá trị của sự tần tảo, lòng bao dung, đức hy sinh. Mẹ không đi học, nhưng mẹ dạy con biết sống đúng mực, trọng ân tình. Cuộc đời con lúc nào cũng có mẹ ở bên. Con có cuộc sống hạnh phúc hôm nay là do bàn tay mẹ tạo dựng. Đến bây giờ con đã hiểu rằng công sinh thành dưỡng dục do cả mẹ cả cha chung sức. Không phải vô cớ mà trong nhạc, trong thơ, … đâu đâu cũng thấy vang lên những “huyền thoại mẹ”, “tình mẹ”, “lòng mẹ”…

———

Bài và ảnh sưu tầm.

BỮA ĂN CUỐI TRƯỚC LY HÔN- Truyện ngắn HAY

 
From: vongtaysongnguyen & NguyenNThu

Sent: 10/17/2024

Subject: Kính chuyển – BỮA ĂN CUỐI TRƯỚC LY HÔN.

Thưa quý Song Nguyền và thân hữu khắp nơi, rất quý mến.

Chúng tôi vừa nhận được bài viết dưới đây

(không rõ tên người viết)

Đọc đi đọc lại –  “phải”. . .  lau nước mắt mấy lần !!

Vì đã từng chứng kiến đâu đó, không ít hoàn cảnh tương tự.

Xin kính chuyển quý Song Nguyền và thân hữu khắp nơi,

MỜI ĐỌC,

để cùng . . . SUY NGHĨ. Nhất là CẦU NGUYỆN,

trước thực trạng Hôn Nhân và Gia Đình khắp nơi hôm nay.

Thật chân thành trong Chúa.

Văn Phòng Điều Hành Trung Ương

Chương Trình TTHNGĐ Hải Ngoại.

————————————————–

~ BỮA ĂN CUỐI TRƯỚC LY HÔN ~

Những ngày này tôi đang bất mãn về cuộc hôn nhân của mình, người chồng sáng sáng ra khỏi nhà từ lúc tôi chưa ngủ dậy, tối khuya mới trở về, thậm chí nhiều hôm tôi lên giường đi ngủ một mình chẳng cảm nhận được có chồng ngủ bên cạnh.

Vậy nhưng thu nhập của chồng cũng chẳng khá khẩm gì. Tôi cảm thấy tình cảm vợ chồng giữa hai chúng tôi cứ nhạt dần. Không còn những cái ôm vội vàng, những cái hôn nhanh lên má, không còn khái niệm tặng quà, không còn nỗi hoan hỉ mỗi khi đi làm về…

Khi nghe nỗi niềm tâm sự của tôi, mấy cô bạn gái thân thiết nghiêm túc phân tích vấn về và đưa ra kết luận: “Sống với nhau nhạt nhẽo như vậy thì nên giải thoát sớm đi”. Chia tay mấy cô bạn gái đó, trên đường về nhà tôi đã hạ quyết tâm. Về đến nhà, nhìn căn phòng mấy năm rồi vẫn đơn giản không có gì thay đổi, bỗng cảm thấy chán chường khó tả. Đón con về, lấy sữa cho nó uống, nó đánh đổ cả sữa xuống sàn nhà. Tôi vội vớ cái giẻ lau sữa dưới sàn, nhận thấy căn phòng quá bừa bộn. Đang vội nấu cơm thì chuông điện thoại réo rắt, chồng báo tối nay lại về muộn. Đang bực mình tôi thò tay nắm hai quai nồi định bắc xuống bếp thì kêu lên một tiếng rồi đặt vội xuống, tay đã bị bỏng rộp lên rồi. Miếng nhựa chống bỏng ở quai nồi đã rụng ra từ lâu, tôi đã nói với chồng năm lần bảy lượt, nhưng mãi vẫn chưa sửa. Tôi càng thấy ý định ly hôn là đúng đắn.

Tôi tắt bếp, bước ra phòng ngoài, soi vào gương, đôi mắt trong trẻo ngày nào nay đã mờ nhạt đầy ấm ức, cuộc sống gia đình thật đáng sợ. Tôi cần phải thoát khỏi cuộc sống vô nghĩa này, nhanh chóng rời xa nơi này.

Hai tiếng sau chồng tôi về, không thấy trên bàn có cơm, chỉ thấy tôi ngồi một mình trong bóng tối: “Sao chưa nấu cơm?”. Vừa nói anh vừa bước vào bếp. “Sao phải nấu cơm? Tôi nấu đủ rồi, từ nay trở đi tôi sẽ không nấu nữa. Sống thế này tôi không chịu được. Chúng ta ly hôn thôi”.

Trong bếp, chồng tôi đang ra sức rửa một cái chảo bị dính. Phản ứng đầu tiên là: “Em nói gì anh không nghe rõ?”, phản ứng tiếp theo là: “Anh nghe nhầm phải không? Em nói lại xem nào!”, cuối cùng anh ta cũng hiểu được ý của tôi. Lúc này con trai tôi bỗng cất tiếng khóc, anh ta chạy vội vào trong phòng bế con và cho nó uống sữa, ngạc nhiên hỏi dồn: “Sao đang sống tử tế lại đòi ly hôn?”. Tôi cười khẩy,

Tối đó, tôi cố ý ngủ riêng. Theo kinh nghiệm của các cô bạn, ly hôn không đơn giản, nhiều thứ ràng buộc như tình cảm, tài sản, thói quen, vì thế nhất định phải có nghị lực mới làm được. Để có thể tiến hành thuận lợi, tôi cần thực hiện 3 điều:

1- Thứ nhất, không đi chợ thổi cơm nữa; tách sinh hoạt của hai người ra.

2- Thứ hai, không ngủ chung; không cho cơ hội làm lành.

3- Thứ ba, kinh tế riêng rẽ.

Nằm trên ghế sofa mãi mà không sao ngủ được, tôi bật dậy viết đơn ly hôn. Tôi nhẩm tính tài sản trong nhà. Tôi người Bắc, chồng người Nam, cùng nhau đến thành phố biển này, bắt đầu từ hai bàn tay trắng, nay đã ngoài 30, mua được hai căn nhà đều đứng tên tôi.

Chúng tôi ở căn có 3 phòng, còn căn nhỏ cho thuê mỗi tháng, chồng tôi còn có hai cửa hàng. Trong đơn ly hôn tôi viết rất rõ ràng: Hai căn nhà và con trai thuộc về tôi, cửa hàng thuộc về anh ta. Như vậy là hợp lý rồi.

Hôm sau, khi đưa cho anh ta tờ đơn ly hôn, tôi đồng thời đặt lên bàn ăn mẩu giấy:

– Tôi muốn tự do !

Anh ta ngây người ra, tôi sốt ruột giục:

– Anh ký đi! – nói xong tôi liền cảm thấy mình có phần hơi quá đáng, liền đổi giọng – Chúng ta kết hôn chưa lâu, nhưng cũng sống với nhau 5, 6 năm rồi. Lẽ nào anh không thấy chúng ta là người của hai thế giới? Chia tay tốt cho cả anh lẫn tôi…

Một tuần sau, anh gọi điện cho tôi, giọng trầm buồn, anh nói: “Anh ký rồi, chiều nay cùng ăn với nhau một bữa nhé. Vẫn chỗ cũ, anh sẽ đưa đơn cho em”. Anh gác máy rồi, tôi vẫn ngồi đờ đẫn trên ghế. Hết giờ làm việc, tôi lấy lại tinh thần đi đến nhà hàng ven biển mà chúng tôi thường đến. Mấy hôm không gặp, anh như gầy đi, ánh mắt ưu tư, râu đã được cạo nom sáng sủa hơn, anh lặng lẽ đẩy cái phong bì đến trước mặt tôi. Tôi chưa ngồi xuống đã thấy cay cay mắt. Tôi thật sự sắp phải rời xa người con trai này ư? Tôi bỗng cảm thấy hoang mang, lẽ nào cứ thế này mất anh ấy sao?

– Đã đến rồi thì gọi chút gì ăn nhé, có thể là vì đây là bữa cơm cuối cùng. – anh nhìn tôi khẽ mỉm cười, ánh mắt trong veo và dịu dàng, quay ra gọi người phụ vụ:“ Cho một suất cơm thịt bò xào ớt, một bát canh ngao”. – Đây đều là những món tôi thích nhất. Tôi ngồi im, anh bỗng nói với tôi:

– Bữa cơm cuối cùng này em có thể gọi cho anh món anh thích ăn không?

Món anh thích ăn? Tôi bỗng bối rối, tôi chẳng biết anh thích ăn món gì…

– Anh thích món gì? Chẳng phải anh luôn ăn giống em hay sao?

Anh lại mỉm cười, nói chậm rãi:

– Thực ra, ngần ấy năm sống với nhau, anh luôn ăn những món mà mình không thích. Em quên rồi sao, anh là người miền Nam, anh thích ăn những món ăn chế biến kiểu miền Nam, hơi ngọt chút.

Nghe anh nói, mặt tôi nóng bừng. Đúng là ngần ấy năm tôi chưa từng nghĩ đến việc hỏi anh thích ăn món gì, lần đầu tiên biết anh thích ăn những món ngọt lại là lúc ly hôn, thật nực cười. Tôi muốn ứa nước mắt nhưng vẫn cố kìm lại.

– Anh quyết định rồi, nhà, cửa hàng, mọi đồ đạc trong nhà đều thuộc về em, anh chỉ mang theo mấy quyển sách và vài bộ quần áo thôi.

Nghe những lời từ biệt đó, tôi không nén được buột miệng hỏi: “Anh định đi đâu?”. Gần 2000 ngày đầu kề má ấp, đã từng thề thốt, đã từng yêu nhau, tôi thực sự chưa từng suy nghĩ nghiêm túc cuộc sống không có người đàn ông này sẽ như thế nào…

– Kì thực, trong ngần ấy năm sống ở đây, bố mẹ và bạn bè anh ở miền Nam luôn giục anh về quê làm ăn. Nhưng do em thích biển, thích lãng mạn, nên anh chiều theo em. Ở đây gió biển mang mùi tanh của cá, ăn đồ biển anh không thích, công việc cũng chẳng sáng sủa gì, đã làm em thiệt thòi…

– Anh nói gì thế? Em không phải vì những thứ đó. – Tôi không ngăn được nước mắt.

– Ly hôn xong anh sẽ về miền Nam. Sau này em sống một mình, lại nuôi con, em sẽ vất vả. – Anh rít một hơi thuốc, chậm rãi nói tiếp:

– Cho nên anh để lại tất cả cho em. Tiền cho thuê nhà và cửa hàng em nên tích lại, đừng tiêu linh tinh, để phòng khi cần có cái mà tiêu.

– Vậy anh thì làm thế nào?

– Anh tính rồi, đàn ông quăng đâu chả sống, không như đàn bà con gái, cả tin lương thiện, dễ bị tổn thương.

Nhìn ánh mắt thương cảm của anh đối với tôi, tôi bỗng trào nước mắt.“Đừng khóc, em yêu!” – Anh đặt tay lên vai tôi, cử chỉ quen thuộc, tôi thích cái vẻ đàn ông ấy của anh, vậy mà không hiểu sao lúc sống bên nhau tôi lại không hề nhận thấy, thậm chí còn cảm thấy ghét.

– Anh phải đi rồi. Em biết không, mỗi lần gia đình bên em tụ họp đông vui anh đều cảm thấy trống trải. Anh cũng rất nhớ bố mẹ, họ cũng già cả rồi…

Những lời đó khiến tôi xúc động vô cùng, tôi thấy mình quá vô tâm, bỗng tôi hiểu ra rằng tôi vẫn còn yêu thương anh và không thể xa anh. Đây là người đàn ông tốt. Tôi biết nhiều vụ ly hôn vợ chồng chửi bới lẫn nhau, trở nên thù ghét nhau vì tài sản, còn tôi chưa thấy vụ ly hôn nào như thế này, nghi thức chia tay thật dịu dàng, thật thâm trầm, thật độ lượng, một sự chia tay đầy ắp tình thương và sự lưu luyến. Đến tận giây phút này tôi mới biết sống với tôi, anh cũng phải che giấu những cảm xúc không vui, những điều không hợp, chỉ vì tôi.

– Như thế, sao anh không nói sớm? – Tôi nắm chặt tay anh, không còn quan tâm đến lòng kiêu hãnh của mình nữa.

– Anh yêu em, anh muốn em sống vui vẻ, không phải bận lòng vì những việc vặt ấy.

Tôi thẫn thờ, một lúc sau tôi nói:

– Anh… Anh có thể không đi không?

Chúng tôi tay trong tay bước ra khỏi nhà hàng, bên ngoài gió biển rất mát, tôi ngồi sau xe máy của anh đi về nhà. Tôi ôm chặt lấy anh, cảm thấy thật hạnh phúc.

Sau này, bạn bè hỏi tôi: “Đã ly hôn xong chưa?”, tôi kể cho họ nghe bữa tối hôm đó và nói với họ: “Sự việc vừa rồi đã cho tôi một bài học. Hiện nay ly hôn ngày càng dễ, nhưng chính vì thế, biết giữ gìn hôn nhân mới là một việc khó, đòi hỏi phải có lý tính, trí tuệ, độ lượng và nhường nhịn”.

BA MẪU CHUYỆN BA BÀI HỌC – Truyện ngắn HAY

Nghệ Lâm Hồng

  1. Điều nên làm ngay

Trong một khoá học chuyên tu ngành tâm lý học, vị giáo sư ra đề bài về nhà: “Trong vòng một tuần, anh chị hãy đến gặp người mà mình quan tâm và nói với họ rằng anh chị yêu mến họ. Đó phải là người mà trước đây, hoặc đã lâu anh chị không nói những lời như vậy.”

Đề bài xem ra đơn giản. Thế nhưng, hầu hết cánh đàn ông trong lớp đều đã trên 30 tuổi và cảm thấy vô cùng khó khăn khi thể hiện đề bài này vì họ hiếm khi thể hiện tình cảm của mình với một ai đó.

Đầu giờ học tuần sau, vị giáo sư hỏi có ai muốn kể lại cho cả lớp nghe câu chuyện của mình hay không. Dường như ông chờ đợi một phụ nữ xung phong trả lời. Thế nhưng, một cánh tay nam giới đã giơ lên. Anh ta trông có vẻ xúc động lắm:

“Cách đây 5 năm, giữa tôi và bố có một bất đồng sâu sắc, và từ đó đến nay vẫn chưa giải quyết được. Tôi tránh gặp mặt ông ngoại trừ những trường hợp chẳng đặng đừng khi phải họp mặt gia đình. Nhưng ngay cả những lúc ấy, chúng tôi cũng hầu như không nói với nhau một lời nào. Vì vậy, tôi đã tự thuyết phục bản thân đến để xin lỗi và nói với bố tôi rằng tôi yêu ông ấy.

Quyết định ấy dường như đã làm giảm đi phần nào áp lực nặng nề trong lòng tôi. Đêm hôm đó, tôi hầu như chẳng chợp mắt được. Ngày hôm sau, tôi đến nhà bố mẹ và bấm chuông, lòng thầm mong bố sẽ mở cửa cho tôi. Tôi lo sợ rằng nếu mẹ mở cửa thì dự định của tôi sẽ không thành, tôi sẽ bày tỏ với mẹ thay vì với bố. Nhưng may quá, bố tôi đã ra mở cửa.

Tôi bước vào và nói: “Con không làm mất thời gian của bố đâu, con đến chỉ để nói với bố rằng bố hãy tha lỗi cho con và con yêu bố”.

Có một sự chuyển biến trên khuôn mặt bố tôi. Gương mặt ông dãn ra, những nếp nhăn dường như biến mất và ông bắt đầu khóc. Ông bước đến, ôm chầm lấy tôi và nói: “Bố cũng yêu con, con trai ạ. Nhưng bố chưa biết làm thế nào để có thể nói với con điều đó”.

Đó là thời khắc quý báu nhất trong đời tôi. Hai ngày sau, bố tôi đột ngột bị một cơn đau tim và vẫn còn nằm trong bệnh viện cho đến bây giờ. “Nếu như tôi trì hoãn bộc lộ với bố, có lẽ tôi không bao giờ còn có cơ hội nào nữa”.

Dennis E. Mannering

  1. 2. Bộ quần áo cũ

Sống chung với một ông bố chồng già yếu, bướng bỉnh, là chuyện không dễ. Ông hay than phiền, hỏi những câu không đúng lúc và từ chối các món ăn cần thiết. Ông hãnh diện về thời trai trẻ, cứ kể đi kể lại các câu chuyện của thời vàng son. Hồi đó, là chỉ huy trong quân đội… ông luôn đặt lý trí lên trên tình cảm. Tôi biết ông là người tốt, nhưng có cảm giác ông sống vì khối óc chứ không vì con tim, thiếu sự thông cảm.

Hôm nay đưa ông đi lễ ở nhà thờ, một lần nữa ông lại mặc bộ đồ vest cũ sờn rách mang từ Việt Nam sang. Tôi nhẹ nhàng:

– Bố nên thay bộ đồ con mua hôm trước, bộ quần áo này cũ quá.

– Nhưng bố thích mặc bộ này!

Tôi bắt đầu cau có:

– Nhưng mặc như vậy đi chỗ đông người rất kỳ, người ta sẽ nghĩ tụi con bỏ bê không chăm sóc bố.

Ông già buồn rầu, lặp lại:

– Bố thích bộ quần áo này lắm.

Tôi cũng cương quyết:

– Bố nên thay ngay kẻo trễ, con không thấy có lý do gì để bố thích nó.

Ông già trả lời rất gọn ghẽ, chân thành, lâu nay ít khi nào tôi thấy ông minh mẫn như vậy:

– Chính mẹ đã tặng bố bộ quần áo này để mặc ngày kỷ niệm thành hôn. Khi chồng con ra trường, bố cũng mặc bộ quần áo này. Ngày đưa mẹ con ra nghĩa trang, bố cũng mặc bộ đồ này, bố thấy thật vui và xúc động khi mặc nó.

Nước mắt ông già hoen trên mi, rơi xuống gò má nhăn nheo. Tôi hụt hẫng và hết sức bối rối. Bố chồng tôi sống tình cảm và có lý hơn tôi nghĩ.

Trước khi quyết đoán người nào đó khô khan không có trái tim, ta nên xét lại trái tim mình trước đã.

  1. 3. Bệnh và Lười

Cũng như các bà vợ khác ở hải ngoại, vợ tui kỳ này làm biếng quá. Đi làm về là nằm trên giường xem phim bộ, chẳng chịu nấu ăn, dọn dẹp nhà cửa gì ráo. Tôi có la, nó ấp úng trả lời:

– Em thấy mệt quá, chẳng làm gì được cả. Nằm nhưng không ngủ được nên mới bật máy xem phim, chứ không cố ý xem phim.

Con vợ tui chơi chữ ghê, xem mà không xem, nó biện hộ kiểu này ai nghe cho được.

Tui định bụng hôm nay về mà bếp núc lạnh tanh, sẽ đập tan cái TV ra cho biết mặt. Về nhà, quả nhiên cơm canh không có, đứa con nhỏ hoảng hốt:

– Ba ơi, anh Hai đưa má vào bệnh viện rồi, má bị xỉu phải cấp cứu.

Tui vội vã vào nhà thương. Người ta đã chẩn bệnh xong. Vợ tui có lẽ bị ung thư xương. Hèn chi mấy tuần nay nó đau nhức, than thở mà tui nghĩ nó giả bộ nên không thèm nghe, cũng chẳng đưa đi bác sĩ.

Bệnh ung thư phát mạnh quá, sau vài tuần, bác sĩ cho biết nó không còn ở với tui được bao lâu nữa. Ung thư ngực thì cắt vú, ung thư xương không biết cắt ở đâu! Phổi vợ tui cũng có vấn đề, vì bao năm qua phải hít thở khói thuốc lá tui hút. Tui không dám nói với nó tui đã nghĩ xấu và giận nó không chịu nấu cơm, dọn dẹp. Cô vợ đầu ấp tay gối bao nhiều năm mà nó đau đớn, bịnh nặng tui cũng không biết. Vậy mà nó vẫn cố gắng đi làm kiếm tiền, chỉ khi về mới nằm liệt ra thôi. Tui hối hận quá chừng, trốn vào nhà vệ sinh của bệnh viện khóc rấm rứt. Thằng Tây đen nhìn tui ái ngại, hỏi tui có OK không. Tui không biết than thở cùng ai, nên dù tiếng Anh dở ẹt, cũng sổ một tràng. Nó có vẻ thông cảm nhưng chỉ phán được một tiếng “sorry” rồi đi ra.

Tui trở vào phòng thăm vợ. Mới mấy tuần mà nó ốm nhom xanh lè, tay chân dây rợ, kim chích chằng chịt. Nó thì thầm:

– Ở đây buồn và ồn quá, em muốn về nhà. Em sẽ nấu món giả cày mà anh thích đó.

Tui vỗ về:

-Em ráng lo nghỉ ngơi, đừng bận tâm.

Tui ráng nấu mấy món ngon đem vào nhà thương, nhưng nó không ăn được nữa. Tui lại khóc. Lạ ghê, trước giờ tui rất oai phong, la mắng vợ con mỗi ngày, uy quyền lắm mà bây giờ mít ướt quá sức…

Bạn hãy dành thời gian cho những người xung quanh mình – cho dù chỉ là để làm một việc nhỏ nhoi!

Albert Schweitzer

Sống trong gia đình nên săn sóc cho nhau và tìm hiểu cặn kẽ, đừng vội trách móc, giận hờn. Thiếu hiểu biết săn sóc kịp thời, là vô tình mình đẩy người mình thương vào cõi chết sớm hơn, do thiếu tìm hiểu, cảm thông và chăm sóc muộn màng.


 

Những Giọt Lệ Hồng – Diệu Nga – Truyện ngắn

Diệu Nga

Mẹ tôi không muốn di cư sang Mỹ ở tuổi sáu mươi. “Già rồi, sang bên ấy chỉ ăn bám vợ chồng chúng mày!”. Bà nói khăng khăng như thế nhưng con gái xuống nước năn nỉ ỉ ôi, bà lại xiêu lòng. Ờ, nó nói cũng phải, mình qua bên ấy giữ cháu ngoại cũng vui, lại đỡ nhớ, khỏi phải chờ mong. Mình ở đây nó phải gửi tiền về cấp dưỡng, tốn kém lắm chớ chẳng không!”

Dì tôi cười, nói như lẩy: “Nợ đòi rồi đấy, cứ sang mà trả cho xong!”

Nghe mẹ kể lại lời dì, tôi cảm thấy hơi áy náy. Quả thật tôi cần mẹ không chỉ thuần túy vì tình cảm. Tôi cầu cứu bà sang để chăn bầy cháu bốn đứa. Dạo này buôn bán ể ẩm, tôi không kham nỗi tiền giữ trẻ, cũng không thể tiếp tế đều đặn cho mẹ nên rước bà qua là nhứt cử lưỡng tiện.

Căn nhà ba phòng của vợ chồng tôi, bề ngoài trông cũng khang trang với cây cảnh chung quanh và cửa garage tự động nhưng thật ra chỉ rộng 1100 sf. Trừ phòng ngủ chánh tương đối rộng rãi, hai phòng còn lại vuông vức, nhỏ xíu xiu.

Đất ở San Francisco là đất vàng. Căn nhà cũ kỷ năm mươi tuổi này trị giá chừng sáu chục ngàn nhưng lô đất 4000 sf của nó giá hơn bốn trăm, dù là nằm ở vùng ngoại ô xa tít. Thành ra cứ rán giữ, rán nắm dù mệt muốn hụt hơi.

Cửa tiệm fast food bán cho nhân viên các hãng xưởng gần đây cũng theo đà lay-off mà đi xuống. Đến đầu tháng là chúng tôi điên đầu với đủ thứ tiền phải thanh toán. Tư trang sắm từ những năm phồn thịnh buôn may bán đắt lặng lẽ nuối đuôi nhau đi hết, vào nằm im nơi các tiệm cầm đồ.

Chúng tôi không hề nghĩ đến giải pháp bán nhà vì đó là gia tài duy nhất, cũng là mối kinh doanh không sợ lỗ vốn; vả lại bây giờ đi mướn một apartment tồi tàn đủ chỗ chứa sáu người, giá thuê hàng tháng còn mắc hơn số tiền trả góp nhà.

Trong tình thế kiệt quệ này, nếu có mẹ tôi lo cho tụi nhỏ, đưa đón đi học, quán xuyến việc nhà, tôi sẽ rảnh rang hơn để đi làm thêm lặt vặt buổi sáng, trưa về phụ tiệm ăn với chồng tôi. Buổi tối chúng tôi sẽ đi clean các tiệm ăn, chợ búa. Chịu khó một thời gian hi vọng kinh tế sẽ phục hồi trở lại. Mọi người đã hăm hở đón chào thiên niên kỷ mới, ai ngờ nó bắt đầu bằng sự xuống dốc!

Mẹ sang Mỹ vào mùa Thu. Trời khá lạnh đối với mẹ vì chưa quen nhưng màu xanh của biển trời đã thu hút mẹ. Lũ cháu xúm xít lấy bà vì ngày thường không ai gần gũi chúng cả. Chúng xổ tiếng Anh líu lo, thậm chí cô bé út mới bốn tuổi cũng không rành tiếng Việt. Bà cười dễ dãi: “Sẽ có cuộc trao đổi nhé! Bà dạy các cháu nói tiếng Việt, các cháu dạy cho bà nói tiếng Anh.”

Thấy mẹ vui, tôi an lòng. Thế là bên cạnh cái giường hai tầng của hai cô bé gái là tấm nệm của bà ngoại. Ban đêm, ba bà cháu nói chuyện rì rầm; có khi hai cậu trai cũng gõ cửa xin vào để được hưởng không khí đầm ầm bên bà ngoại rất hiền và rất vui. Mẹ như bà tiên có chiếc đũa thần đã biến căn nhà bừa bãi đầy phiền muộn của chúng tôi thành một tổ ấm ngăn nấp, sạch sẽ và đầy tiếng cười.

Trước kia, chúng tôi chỉ dùng những thức ăn ế ẩm từ cửa hàng, lắm khi nuốt chẳng trôi. Mẹ bảo cứ bỏ thịt bỏ rau và tủ lạnh cho bà. Thế là mỗi chiều về gia đình tôi được quây quần chung quanh bàn ăn có cơm canh nóng hổi, hương vị ngọt ngào.

Chỉ sau vài tháng, các con tôi khỏe mạnh ra, lễ phép ra và biết phụ giúp công việc lặt vặt trong nhà. Hai cậu con trai lớn, bà phân công lo vườn tược cây kiểng: “Thằng Hùng mười hai tuổi, lớn rồi, lo chăm sóc các cây lớn, tỉa lá, bón phận, Hậu cũng mười tuổi rồi, thay vì ôm máy chơi game, có thể phụ anh quét sân, tưới nước.”

Bà hiền lành nhưng nói gì các cháu cũng nghe. Chúng không còn là những đứa bé “vô tích sự” như thuở trước. Thật ra chúng không đến nỗi tệ nhưng vợ chồng tôi quần quật với công ăn việc làm, không có thì giờ dạy dỗ, chỉ vẽ. Bảo làm chuyện gì, chúng thực hiện qua loa lấy có, rầy mãi phát mệt thành ra không thèm sai biểu nữa, tự mình làm chóng xong mà vừa ý hơn.

Con Hoa hãnh diện khoe với mẹ: “Bà dạy con nấu cơm. Con biết lặt rau, rửa chén, lại biết tráng trứng nữa cơ!”

Tôi hôn con, thầm cám ơn mẹ đã cho gia đình tôi cơ hội để sống có hạnh phúc thay vì cứ mãi rầy rà, cãi vả, gây ó nhau trong một căn nhà bề bộn, dơ bẩn.

Mẹ vốn là một Phật tử thuần thành. Thỉnh thoảng bà giảng dạy cho tôi về đạo lý: “Hạnh phúc không phải là món quà từ đâu đến, không phải tự nhiên mà có, cũng chẳng thể do phúc đức mà được. Mình phải biết cách sống, biết cách hợp tác xây dựng thì mới có hạnh phúc.”

Thuở ấy, đầu óc tôi quá dầy đặc với những con số để có thể hiểu lời mẹ khuyên, vả lại cũng không có thì giờ… Thôi thì để mẹ lo giùm. Mỗi chiều về, nhìn các con ngoan, được ăn bữa cơm tối ngon, đối với tôi đã là đủ rồi. Tôi bận rộn với nợ nần đến nỗi không mấy khi chú ý đến tâm tình của mẹ. Bây giờ kiểm điểm lại mới nhớ rằng tôi ít hỏi thăm về sự buồn vui của bà.

Thay đổi môi trường sống, bà bỏ lại sau lưng biết bao nhiêu thứ: chị em, họ hàng, lối xóm, sư ông, bằng hữu… Đôi khi, mắt mẹ thoáng buồn.

Tôi chỉ hỏi qua loa: “Mẹ có mệt không?” Chao ôi, rõ tệ, miệng hỏi mà lòng vái thầm: “Mẹ đừng ngã bệnh, khổ con!”

Là con một nên cách suy nghĩ của tôi thường ích kỷ như thế. Cái gì cũng qui về mình, cho mình thôi!

Thắm thoát, mẹ ở với chúng tôi đã được một năm rồi. Gia đình thì ổn thỏa nhưng tình trạng tài chánh càng ngày càng bết bát, mặc dù vợ chồng tôi bỏ sức lao động gấp đôi. Giao kèo mướn cửa tiệm sắp hết hạn mà chẳng tìm được người sang lại. Không ký thêm thì mất tiệm, mất luôn năm mươi ngàn bỏ ra sang tiệm trước kia, nhưng tiếp tục thì ngày càng thua lỗ, chẳng kham được nữa. Chuyện gì đến, phải đến.

Tháng sau đó, vợ chồng tôi lủi thủi dọn đồ về trả lại cửa hàng cho người ta sau mười năm làm chủ. Bây giờ hóa ra là kẻ làm công, lại làm những nghề linh tinh quét dọn. Tủi thân mà tức số phận mình. Mẹ an ủi: “Thôi, như thế đỡ lo con ạ. Tinh thần căng thẳng quá có khi phát dại, hóa cuồng! Trong cái dở có cái hay là thế!”

Chúng tôi lợi dụng thời gian tương đối rảnh rang này để sửa chữa căn nhà hư dột. Anh Thắng chịu khó và khéo tay nên cái gì cũng tự làm được, đỡ tốn tiền mướn thợ. Một hôm anh leo lên mái nhà để lợp lại mấy miếng ngói bể. Sơ ý thế nào chẳng rõ, anh trợt chân té xuống bất tỉnh. Chỉ có mình mẹ ở nhà! Bà bình tĩnh gọi 911, vắn tắt vài câu tiếng Anh: “He falls down from the roof. He stops breathing!”

Và rành rọt đọc địa chỉ, số phone nhà cho họ. Ai ngờ bà âm thầm học chữ Anh mau đến thế! Bà đã cứu mạng chồng tôi!

Thắng bị gãy chân và dập ống quyển. Phải nằm tại chỗ từ năm đến sáu tháng. Tình cảnh này đưa mẹ tôi vào môi trường mới. Bà tự nguyện thế chỗ cho chồng tôi để quét dọn, lau chùi các cửa tiệm hầu phụ giúp tôi về tài chánh. Mẹ hăng hái trong công việc. Tôi đoán rằng ở nhà mãi mẹ cũng buồn, nay được ra ngoài bà cảm thấy vui hơn.

Bà có những người bạn mới: cô thâu ngân vui tính, bà lão phụ trách hàng rau cải, chú “Thoòng” chuyên khuân vác. Mẹ hòa mình với họ, với cuộc sống của những người lao động tay chân. Đâu ai biết rằng trước 1975, mẹ là giáo sự dạy Pháp văn tại một trường công lập lớn ở Sài Gòn.

Các con tôi biết hoàn cảnh bi đát của gia đình nên mỗi đứa một tay, cùng nhau lo chuyện nhà. Mẹ tôi hài lòng thấy các cháu tự ý thức được trách nhiệm, biết thương mẹ thương cha.

Ngày anh Thắng trở lại công việc, tôi xin mẹ ở nhà nghỉ ngơi. Mẹ nói: “Con ơi, ra ngoài cũng vui, lại kiếm được đồng tiền. Từ ngày đi Mỹ đến nay đã gần hai năm, mẹ chưa gửi tiền về giúp các em, các cháu bên ấy. Tụi nó nghèo lắm mà chẳng có cách kiếm ra tiền cho kịp đà leo thang của vật giá. Bên này kiếm tiền dễ hơn. Có tiền, mẹ lại có phương tiện cúng dường, bố thí…”

Tôi im lặng nghẹn ngào, chợt nhớ rằng mẹ chưa hề hỏi tôi một đồng xu nào và tôi quên bẵng rằng mẹ cũng có nhu cầu tiêu xài. Trên thế gian này, không có nhân viên nào làm việc cật lực mà không đòi hỏi thù lao như thế! Vô tình, tôi đã “đòi nợ” mẹ tôi một cách tận tình. Dì tôi cũng có lý khi bà mỉa mai tôi.

Trong lúc tôi đăm chiêu, mẹ nhẹ nhàng tiếp: “Mẹ đã xin được chân rửa chén trong nhà hàng. Rửa bằng máy chả cực nhọc gì!”

“Trời đất ơi, rửa chén, cần sức lực của người đàn ông Mễ mới kham nỗi. Nồi niêu son chảo to như cột đình, nặng như búa tạ, làm sao me. nhấc cho nổi!” Tôi xuống giọng tiếp: “Mẹ nhìn lại mẹ xem. Tay mẹ gầy yếu, lưng mẹ đã cong, bước đi không còn nhanh nhẹn. Dù họ cần người, mướn tạm, vài hôm cũng cho nghỉ việc thôi!”

Bây giờ tôi mới có dịp nhìn kỹ mẹ. Bà già thật rồi, cái già đến nhanh quá. So với hồi mới qua, bà như tăng thêm năm, bảy tuổi. Mẹ tôi cúi đầu xuống thấp. Hình như bà cố giấu giọt lệ vừa ứa ra. Tôi nhẹ nâng cầm mẹ lên và nhìn sâu vào đôi cửa sổ tâm hồn ấy. Trời ơi, mắt mẹ đã kéo mây! Đôi mắt bồ câu đen láy ngày nào từng làm điên đảo các chàng trai cùng trang lứa, cột chân ba tôi vào tổ ấm gia đình, giờ đã một phần ngả màu đục lờ như nước gạo vo. Tóc mẹ trắng bơ phờ, đuôi mắt nhăn như rẻ quạ t, vầng trán sạm đen vết đồi mồi…

Tôi mủi lòng xót xa. Hai mẹ con ôm nhau, nước mắt người này thấm ướt vai áo người kia. Tôi nhỏ nhẹ: “Con không dám trái ý mẹ, nhưng mẹ rán chờ. Con hứa sẽ tìm công việc nhẹ nhàng hợp với mẹ hơn, mẹ nhé! Vong hồn ba mà biết mẹ cực khổ thế này chắc khó siêu.”

Trời cũng thương tình. Đâu chừng một tháng sau thì bà lão làm rau cải xin nghỉ việc về hưu. Mẹ tôi trở thành “bà cụ hàng rau”. Danh xưng và chức vụ gắn liền với mẹ tôi từ đấy. Vậy mà bà vui. Mỗi tháng bà lãnh được hơn ngàn bạc. Phân nửa số tiền, bà gửi về Việt Nam: phần cúng dường, phần bố thí, phần giúp đỡ các em, các cháu.

Số còn lại, bà dành dụm mấy kỳ lương, đưa tôi hơn ngàn bạc. “Mẹ thấy người ta dựng phòng trong garage cũng tiện lắm. Nếu chồng con không phiền, con lấy tiền này nhờ nó mua vật liệu, che tạm cho mẹ một căn phòng nhỏ. Con Hoa, con út bắt đầu lớn, tụi nó cần sự riêng tư. Mẹ cũng vậy, có phòng riêng mẹ sẽ dựng kệ thờ Phật, mỗi ngày mẹ có thể lễ bái, tụng kinh, niệm Phật…”

Chồng tôi nghe kể lại, vui vẻ đáp: “Chuyện nhỏ! Mẹ muốn gì anh cũng xin vâng, nói chi việc ấy!”

Từ đấy, mẹ lộ vẻ hoan hỉ lắm. Sáng tối hai thời, ít khi nào bà bỏ lỡ công phu. Bà như một người đạt được mục tiêu cho đời mình, không có gì để ưu tư, khắc khoải.

Mùa Đông năm ấy, thời tiết hơi khác thường. Ban ngày ấm áp xen kẽ với những đêm buốt giá mà nhiệt độ đôi khi hạ thấp đến không ngờ. Vợ chồng tôi mời mẹ tạm trở về phòng cũ vài ba tháng, ngoài garage lạnh quá dễ sinh bịnh. Mẹ nói: “Ở chỗ này quen rồi, dời đi khó ngủ.”

“Mẹ nhớ vặn heat cho đủ ấm nhé!”

“Ờ, tao biết mà!”

Ngờ đâu mẹ đã không qua khỏi mùa Đông! Buổi sáng chẳng thấy mẹ dậy sửa soạn để đi làm, tôi bảo: “đứa nào ra đánh thức bà dậy, nhanh lên kẻo trễ!”

Con Hoa quấn mền đẩy cửa bước ra garage miệng kêu léo nhéo: “Ngoại ơi, ngoại à…”

Không có tiếng trả lời… Nó bật đèn, tiến đến cạnh giường: ngoại quấn hai cái mền kín mít, nằm im ỉm. Nó lắc chân ngoại, bà chẳng đáp. Nó lôi cái mền xuống: mặt bà xám xịt, lạnh ngắt, đôi mắt khép hờ…

“Mẹ ơi, mẹ! sao kỳ vầy nè!” Cả nhà đổ xô ra. Chồng tôi đạo Chúa, vội làm dấu thánh giá… Tôi xỉu ngay tại chỗ khi loáng thoáng nghe thằng Hùng la lên: “Sao bà không mở heat?”

Cuộc điều tra của cảnh sát quấy rầy chúng tôi một thời gian, cuối cùng họ kết luận: “Bà cụ không thường mở heat; cái máy mua hai tháng về trước còn mới tinh chưa hề được sử dụng!”

Tôi như người mất hồn trong đám tang của mẹ. Sự hối hận như lưỡi dao có răng, nó cưa xé lòng tôi. Trái tim tôi cơ hồ rỏ máu thành những giọt lệ hồng. Bạn bè khuyên tôi nên đến chùa xin cúng thất, thiết lễ cầu siêu cho bà. Tôi chẳng thể nói năng chi cùng vị sư ở chùa, chỉ biết dập đầu lạy cầu cứu với đôi mắt sưng húp.

Chồng tôi bình tĩnh hơn, anh buồn bã kể đầu đuôi tự sự. Câu chuyện khiến thầy thương tâm, thầy thường an ủi, khuyên giải sau những thời lễ cúng. Khi thấy tôi bắt đầu trở lại bình thường, thầy dành cho gia đình chúng tôi một thời pháp thoại. Thầy giảng về lý vô thường, khổ, không.

Các con tôi tỏ ra thích thú với sự thật giản dị và sâu sắc này, chúng đòi được học giáo lý đạo Phật thay vì đi nhà thờ với ba. Riêng tôi, tôi nhớ mãi câu kết luận của thầy trong buổi nói chuyện ấy: “Con người ta sở dĩ đau khổ triền miên là tại mình muốn nắm giữ! Cái gì cũng khư khư ôm chặt. Làm sao giữ mãi được vì bản chất của chúng là vô thường, là không. Hãy buông bỏ hết đi, chừng nào bỏ được, chừng ấy mới có chân hạnh phúc!”

Phải rồi, nếu chúng tôi không bám chặt vào căn nhà thì mẹ tôi đã không phải vất vả đến thế, không đến nỗi chết cóng ngoài garage. Và gia đình tôi không lụy đến mức này. Tôi thỏ thẻ bàn với chồng: “Anh à, căn nhà này mình không giữ nỗi thì bán nó đi. Em tính rồi, sau khi thanh toán hết nợ nần mình cũng còn vài trăm ngàn. Dọn sang Texas , nhà cửa rẻ hơn, mình có thể tậu căn khác hoặc là giữ làm vốn, tính chuyện làm ăn…”

” Ờ nhỉ, hồi đó sao mình ngu quá, cứ ôm lấy nó mà cắm cổ đi cày trả nợ. Liệu giữ không được thì sớm buông đi… Nhờ ông thầy giảng dạy, mình mới sáng mắt ra!”

Sau khi dọn sang Texas, trước khi bắt tay vào công ăn việc làm, tôi xin phép anh Thắng cho tôi về Việt Nam một chuyến. Tôi về để được quì dưới chân sư ông kể lể hết sự tình, xin sám hối thì lòng tôi mới có thể yên.

Sư ông trầm ngâm và yên lặng nghe tôi vừa khóc rấm rức vừa kể về mẹ tôi, đệ tử mà người rất quí mến. Sư ông không hề cắt ngang bằng những câu hỏi. Người không phê phán gì, chỉ để yên cho tôi khóc, khóc oà vỡ như cái đập nước bị ngăn chận, nay có người tháo ra…

Mãi một lúc lâu lắm sau đó, sư ông mới dạy: “Người mẹ nào cũng có trái tim Bồ Tát. Mẹ con hành Bồ Tát đạo ngay trong gia đình trước khi mở rộng ra trong cuộc sống với mọi người. Con hãy hảnh diện có bà mẹ như thế! Con sẽ không cảm thấy hối hận ray rứt nữa nếu con biết đi theo hướng đi của mẹ con, biết xả bỏ cái tôi vị kỷ để lo cho người chung quanh.”

Tôi sụp xuống đảnh lễ người đã chỉ cho tôi tháo mở cái gút dây kết mối ân hận trong tôi.

Tôi trở về Texas với sự bình yên và tâm nguyện cao cả… Nhưng khi mùa Vu Lan về, cầm hoa trắng trên tay, tôi không thể ngăn được những giọt lệ hồng phát xuất từ trái tim tôi… Than ôi! Khi tôi biết nghĩ tới mẹ, biết giá trị của trái tim bồ tát, biết thương mẹ thì bà đã không còn nữa trên đời…

Diệu Nga

From: Phi Phuong Nguyen