8 khuyết tật qua một phiên toà dị kỳ

8 khuyết tật qua một phiên toà dị kỳ

Nguyễn Văn Tuấn

Hai hồi mõ đã vang lên, điểm danh cho hai ngành bị tính sổ ở Việt Nam: Y TẾ và GIÁO DỤC. Hồi mõ thứ ba được thay bằng một tiếng động dữ dằn hơn, để điểm danh cho một ngành quan trọng vào hàng đầu: TƯ PHÁP VIỆT NAM. Đó là phát đạn vang lên giữa khuya một ngày đầu năm 2020 bắn vào tim cụ Lê Đình Kình. Từ nay trở đi sẽ còn nhiều hồi mõ giục giã khác làm lạnh buốt lương tri tất thảy chúng ta, những ai vốn là con dân nước Việt.

Bauxite Việt Nam   

Những ai từng theo dõi nền tư pháp Việt Nam không thấy ngạc nhiên với bản án dành cho Thiền Am hôm 21/7/2022. Nhưng diễn biến của vụ án và phiên toà cho thấy nhiều khuyết tật trong xã hội ngày nay. Ở đây, tôi chỉ nêu 8 khuyết tật liên quan đến thiết chế và văn hoá xã hội.

Người ta không ngạc nhiên với bản án là vì hầu như tất cả các bản án ở Việt Nam được xử theo điều luật 331 đều đã được định trước. Tất cả 6 người trong Thiền Am bị kết tội “Lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân”. Đó là một tội danh mà các cơ quan nhân quyền quốc tế nhận xét là ‘rất mơ hồ’, hiểu theo nghĩa muốn kết tội ai cũng được.

Trong quá khứ nhiều người bất đồng chánh kiến đã bị giam cầm vì tội danh này. Ngay từ đầu, người ta dồn tổng lực từ an ninh, kiểm sát, toà án, dư luận viên đến báo chí hạ nhục Thiền Am.

Những lần ‘ra quân’ bức hại những người trong Thiền Am còn hơn cả ra quân chống khủng bố chưa làm người ta hết ngạc nhiên thì những vi phạm luật pháp của những con người kền kền đẩy tình hình lên một điểm cao mới. Những động thái đó cho thấy nhà cầm quyền quyết chí triệt tiêu một nhóm người tu tại gia và nuôi trẻ mồ côi. Phiên toà chỉ là một quy trình có tổ chức để thực hiện mục tiêu tiêu diệt đó mà thôi.

Nhìn lại toàn cảnh vụ án và phiên toà, tôi thấy nhiều ‘khuyết tật’ của nền tư pháp Việt Nam. Đó là những khuyết tật vừa mang tính thiết chế, vừa mang tính văn hoá xã hội. Chỉ xin nêu 8 khuyết tật nổi cộm như sau:

1. Khuyết tật lớn nhứt là thiếu sự độc lập giữa lập pháp, hành pháp, và tư pháp

Ngay từ giữa tháng 1/2022, trước khi đưa ra bất cứ cáo buộc nào, thì công an đã bắt giam 3 người trong Thiền Am. Điều đáng nói là một viên công an của tỉnh Long An tuyên bố rằng “Chúng tôi đang làm việc với Viện Kiểm sát nhân dân và Toà án nhân dân tỉnh để thống nhất các sai phạm của ông Lê Tùng Vân và người liên quan”.

Có lẽ nhiều người ở Việt Nam, nhứt là giới dư luận viên, thấy sự thông đồng đó là bình thường vì họ đã sống trong một môi trường như vậy quá lâu. Họ không thấy rằng đó là một khuyết tật chí mạng, bởi vì nếu ba thiết chế đó (lập pháp, hành pháp, và tư pháp) không độc lập thì làm sao có công lý, nhứt là công lý cho người ‘thấp cổ bé họng’?

Sự thật xảy ra trước mắt ở Thiền Am không phải là lần đầu, và chắc chắn sẽ còn xảy ra trong tương lai.

2. Khuyết tật về hình sự hoá một câu thành ngữ

Ai cũng biết câu ‘Ngu như bò’ chỉ là một cách nói về một hành vi kém cỏi hay ngu xuẩn. Đó là một câu thành ngữ rất phổ biến trong dân gian, phổ biến đến độ nó được dùng như là một câu nói đùa cho vui. Ấy vậy mà trong vụ án này, câu nói đó được một ông tu sĩ Phật giáo nâng tầm lên “xúc phạm” và vác đơn kiện mấy người trong Thiền Am ra toà. Và, ông ấy đã thành công đưa 6 người trong Thiền Am vào tù với tổng số năm tù tội là 23 năm 6 tháng. Không có nơi nào trên thế giới mà người ta đi tù vì câu thành ngữ đó. Chỉ có Việt Nam mới có khả năng tạo ra một tiền lệ như vậy.

Phải nói đây là một tiền lệ mang tính lịch sử.

3. Khuyết tật về chứng cớ

Các luật sư đại diện Thiền Am phát hiện một video được dùng để cáo buộc họ lại xuất phát từ một kênh youtube giả mạo những người trong Thiền Am. Kênh youtube này, theo cộng đồng mạng phát hiện, chỉ được lập ra để nói xấu Thiền Am và chỉ đăng được 3 cái video! Ấy vậy mà một video như thế được dùng làm bằng chứng để cáo buộc mấy người trong Thiền Am!

Thật ra, còn nhiều khuất tất khác về chứng cớ mà các luật sư đã nêu, nhưng toà án lờ đi những sai phạm đó!

4. Khuyết tật về trình độ của nhân viên tư pháp

Bất cứ ai chỉ cần nghe qua những câu hỏi và phát biểu trong phiên toà sẽ thấy ngay một khuyết tật liên quan đến trình độ văn hoá và kiến văn của các thẩm phán, và cả người “chủ toạ” phiên toà. Kiến văn của họ thấp đến độ kinh ngạc!

Phiên toà chỉ xét xử điều luật 331 đối với 6 người trong Thiền Am, chẳng có liên quan gì đến tôn giáo cả. Ấy vậy mà viên chủ toạ bỏ ra khá nhiều thời gian để hỏi những câu liên quan đến tôn giáo như:

“Ai đặt pháp danh cho bị cáo là Thích Tâm Đức?”

“Lý do vì sao những người trong hộ Cao Thị Cúc mặc áo màu nâu mà bị cáo lại không đăng ký sinh hoạt tôn giáo.”

Viên chủ toạ phiên toà trích từ một câu nói của ông Lê Tùng Vân rằng: “…đạo Phật chỉ khuyên người ta đừng làm ác và nếu người ta làm ác thì không có cái luật nào để trị tội người làm ác đó… trong tâm hai ngài đừng suy nghĩ đây là tôn giáo, đây là pháp luật; bỏ cái tôn giáo, bỏ cái luật pháp đó qua một bên đi…”, nhưng vấn đề ở đây là anh ta trích một cách không đầy đủ và có ác ý. Ông Lê Tùng Vân đã nhân dịp này giảng một bài cho ông chủ toạ biết thế nào là trích dẫn và học thuật [1].

Thử tưởng tượng một người kém về văn hoá, kém về kiến văn, kém cả về học thuật như thế mà lại làm chủ toạ phiên toà!

Cái khuyết tật về trình độ còn thể hiện qua phía luật sư đại diện cho phe ‘bị hại’. Các bạn thử tưởng tượng luật sư gì mà nói và viết không rành; luật sư gì mà thốt ra câu nào là người ta ngỡ ngàng câu đó. Chẳng hạn như có luật sư đặt câu hỏi:

“Nếu như bây giờ tôi nói Chúa ngu như bò thì các ông thấy sao?”

làm cho các luật sư của Thiền Am ngỡ ngàng và … cười ha hả. Nếu Chúa Jesus sống lại và nghe câu này chắc ngài cũng ngỡ ngàng. Một câu hỏi không chỉ quá ư là kém cỏi trí tuệ mà còn thể hiện một fallacy (nguỵ biện) hết sức căn bản. Ấy vậy mà người này là luật sư! Không thể tưởng tượng nổi trình độ của luật sư mà thê thảm như thế.

5. Khuyết tật của truyền thông Nhà nước

Trong hơn 3 năm trời, hệ thống truyền thông Nhà nước bịa đặt hay vặn vẹo thông tin để bôi nhọ và hạ nhục những người trong Thiền Am, đặc biệt là ông Lê Tùng Vân. Tất cả những thủ thuật misinformation (tin giả vô ý), disinformation (tin giả ác ý), và malinformation (tin độc) đều được tung ra với cường độ chỉ có thể nói là kinh hoàng.

Có thể nói rằng việc nguỵ tạo và phát tán thông tin về loạn luân là một hành vi thâm hiểm nhứt, độc ác nhứt, và trắng trợn nhứt.

Thâm hiểm là vì nó được bịa đặt ra để làm cho công chúng kinh tởm Thiền Am, và qua đó cô lập hoá họ. Độc ác nhứt là vì thông tin đó giống như một sự ám sát những trẻ em trong Thiền Am. Trắng trợn nhứt là vì nó không có bất cứ một cơ sở khả tín nào (ngoại sự ngụy tạo thông tin).

Ngay cả trước và sau phiên toà, họ vẫn không có khả năng viết những bản tin khách quan và công tâm, mà vẫn là những câu chữ gieo nghi ngờ, thậm chí sai lệch về những câu phát biểu trong toà. Thật khó tưởng tượng được báo chí gì mà ác độc như thế.

6. Khuyết tật về đạo đức xã hội

Vụ án Thiền Am là một ‘phiên toà mạng xã hội’ mà trong đó đóng vai quan toà là hàng ngàn người sử dụng Youtube và Facebook. Những người này ngày đêm phát tán những thông tin do họ tưởng tượng hay bịa đặt ra, rồi từ đó tha hồ đưa ra những kết tội mà họ muốn những người trong Thiền Am phải phạm tội. Họ tưởng tượng ra những vụ án rùng rợn để kích động trí tò mò của người xem, và từ đó có thu nhập.

Có vài người khoe rằng họ làm giàu nhờ nói xấu Thiền Am! Có thể nói không ngoa rằng những kẻ dã tâm này đã làm tiền trên máu và nước mắt của Thiền Am. Và, điều quái đản nhứt là họ tự hào bằng cách kiếm tiền như thế! Xã hội gì đã tạo nên những con người với những khuyết tật đạo đức như thế?

Vụ án còn cho thấy một số người trong công quyền đánh mất tánh người. Họ thoá mạ người của Thiền Am là “lũ bay sống bầy đàn”, là “đồ hỗn tạp”. Những câu nói đó chẳng khác gì những sĩ quan Nazi nói với người Do Thái trước đây.

Cái khuyết tật lớn nhứt là họ không có khả năng nhìn sự vật bằng cái nhìn của người khác, họ không có khả năng cảm nhận nỗi đau của người khác, và chính vì yếu tố này đã biến họ thành những người rất khác biệt: thiếu tánh người.

Vụ án còn biểu hiện một xã hội có phản ứng theo kiểu bầy đàn và bạo lực. Những kẻ dễ dãi trong suy nghĩ đã bị truyền thông Nhà nước dẫn dắt và tự biến họ thành những con người ác độc đối với Thiền Am.

Quái gở một điều là có những người xem mặt mũi không đến nổi tệ mà đòi xét nghiệm DNA để loại trừ tội loạn luân. Cái khuyết tật của mấy người này là nguỵ biện có tên là “Burden of Proof”. Kẻ phạm lỗi nguỵ biện này vu cáo người ta, rồi bảo người ta chứng minh rằng họ vô tội! Đó là một nguỵ biện thô thiển mà kẻ có học không thể nào phạm phải, nhưng trong vụ án Thiền Am thì rất nhiều người, kể cả người khoác áo ngành y, phạm phải.

Một số người sống và hành xử như những con kền kền đột nhiên nhảy tót lên bàn nghị luận xã hội và xâm nhập vào những nơi tôn nghiêm như pháp đình. Xã hội gì mà loạn chuẩn đến độ những cặn bã xã hội có khả năng đặt ra phán xét người đàng hoàng, hay loại ‘cóc nhái nhảy lên làm người’ như thế?

7. Khuyết tật về văn hoá đàn áp

Theo dõi diễn biến trong phiên toà làm cho người ta nhớ phiên toà liên quan đến Linh mục Nguyễn Văn Lý năm xưa.

Dạo đó, khi LM Lý ra toà, ông phát biểu một câu mà có lẽ nhà cầm quyền (hay toà án?) không muốn nghe, và thế là một viên an ninh bịt miệng ông một cách thô bạo. Tôi còn nhớ bức hình LM Lý bị bịt miệng được truyền khi khắp thế giới, và ở bên Mỹ người ta còn cho dán bích chương trên xa lộ!

Tưởng rằng cái văn hoá đàn áp đó là quá khứ, nhưng ai ngờ đâu nó lại được áp dụng cho phiên toà Thiền Am vừa qua nhưng với một phương tiện khác.

Theo luật sư Nguyễn Văn Miếng, “Các phóng viên phản ánh: ‘khi luật sư Thiền Am phát biểu, âm thanh kịp thời rọt rẹt. Còn những người khác nói, nghe rất rõ. Một phiên toà qua loa”. Ngoài ra, khi ông Lê Tùng Vân nói đến phần “xuyên tạc công an huyện Đức Hòa” thì video chỉ còn hình ảnh! Tương tự, nhiều câu nói của bị cáo cũng bị ‘tắt tiếng’ một cách trắng trợn như thế.

Không thể nào tưởng tượng một phiên toà vào thế kỷ 21 ở một nước có truyền thống văn hiến lâu đời mà hành xử thô thiển và thô bạo như thế.

8. Khuyết tật trong Giáo hội Phật giáo

Qua vụ án này, công chúng trong và ngoài nước chú ý đến một nhân vật trong Giáo hội PGVN rất đình đám: TT Thích Nhật Từ. Ông này được những người ủng hộ xem là một bậc “chân tu”, nhưng những hành vi của ông thì không nhứt quán với phẩm hạnh của một bậc chân tu.

Ông có vẻ không ưa Công giáo và đã nhiều lần xúc xiểm đạo Công giáo, thậm chí xúc xiểm cả Đức Giáo Hoàng! Luật sư Sỹ cho rằng thái độ đó của ông Thích Nhật Từ là “gần như là phá sản” và “không thể chấp nhận được”.

Ông là người đã tung tin rằng có hiện tượng loạn luân trong Thiền Am. Với vị thế lãnh đạo của ông trong Giáo hội, ông đã tạo nên một cơn bão truyền thông hạ nhục Thiền Am và ông cụ Lê Tùng Vân. Báo chí Nhà nước và hàng ngàn người dùng mạng xã hội trích dẫn lời nói của ông, và họ tiếp tục vu khống loạn luân trong Thiền Am.

Nhưng các luật sư khẳng định những phát biểu đó của ông Thích Nhật Từ hoàn toàn là bịa đặt, vì Thiền Am không hề phạm tội loạn luân. Theo cách lý giải của các luật sư, những gì ông ấy xúc phạm những người trong Thiền Am thì còn gấp 100 hay 1000 lần câu nói ‘Ngu như bò’ của ông Lê Tùng Vân.

Các luật sư của Thiền Am nhận xét rằng hành vi bịa đặt về tội loạn luân đó là một tội ác cần phải trừng trị. Ấy vậy mà Giáo hội PGVN im lặng trước tội ác đó. Phải xem sự im lặng của Giáo hội là một khuyết tật vậy.

***

Vấn đề giáo dục

Có thể thêm một khuyết tật khác nữa: giáo dục. Bởi một nền giáo dục đàng hoàng không thể nào cho ra những luật sư, thẩm phán hay quan toà kém kiến thức và thiếu học thức như thế. Ở nước ngoài, luật sư là nghề được xã hội quý trọng, bởi họ có khả năng học thuật tốt ngay từ bậc trung học, và họ phải qua một thời gian dài được tôi luyện trong môi trường đại học và sau đại học. Họ là nhóm có khả năng lãnh đạo quốc gia, và họ là tấm gương cho xã hội. Nhưng ở Việt Nam thì theo LS Trần Đình Triển:

“Cách đào tạo luật sư ở VN hiện chưa thể tương xứng với điều kiện và không thể hành nghề tốt được nếu theo như cách đào tạo của VN hiện giờ”.

LS Triển nói thêm tình trạng án bỏ túi ở Việt Nam như sau:

“Trong luật pháp VN cũng nói là hội đồng xét xử và thẩm phán độc lập xét xử chỉ tuân theo pháp luật, và mọi chứng cứ chỉ đánh giá tại phiên tòa. Tôi cho là tất cả những điều đó tại VN chỉ đang là lý luận, chứ trong thực tiễn chưa bảo đảm được tính độc lập của thẩm phán chủ tọa phiên tòa. Khi luật sư đưa ra những lập luận, những tài liệu luật pháp thích hợp thì thẩm phán họ “mặc”, bởi vì hình như họ đã quyết định bản án ở đâu đó rồi. Thực tiễn nó như vậy.

Thành ra việc tổ chức phiên tòa mang tính chất hình thức. Chứ thực ra bản án người ta đã có trong túi rồi”.

Những khuyết tật trong vụ án, những sai phạm về tố tụng, cùng những lời kêu oan của bị cáo đã được gởi cho các vị có vai trò lãnh đạo Nhà nước và Quốc hội, thậm chí cả cấp trung ương đảng. Chắc chắn là các vị ấy đã biết đến vụ án, nhưng họ đã làm gì thì chẳng ai biết. Họ có hồi đáp luật sư hay là những lời tường trình của luật sư và của nạn nhân đều rơi vào không khí. Dù sao thì các vị ấy không thể nói “Chúng tôi không biết” hay “Chẳng liên quan gì đến chúng tôi.” Công chúng đang chờ một tiếng nói của các vị ấy.

_____

[1] Nguyên văn của ông Lê Tùng Vân nói là:

“Vậy chứ ngày ngày xưa Đức Phật hành đạo như thế nào? Có phải rằng Đức Phật không có làm cái gì sai trái? Ngài nhớ xưa Đức Phật không hề ăn trộm, không hề ăn cướp, không hề giết người. Tức là gì? Tức là Đức Phật tuân theo luật pháp. Ngài về lại trần gian ngài phổ biến: Tất cả tuân theo luật pháp. Các ngài phải ý thức được tầm quan trọng của luật pháp. Luật pháp thì bắt buộc con người ta không được làm ác; làm ác là phải bị tội, bị trừng phạt. Còn các ngài thấy đấy, đạo pháp chỉ khuyên người ta đừng làm ác, và nếu người ta có làm ác cũng hổng có luật nào để trị tội người làm ác đó.

[…]

Vậy thì hai bên, bên nào mạnh, bên nào yếu, cái nào bắt buộc hơn, cái nào quyết chí hơn Có phải là sự bắt buộc và quyết chí không? Còn cái lời khuyên? Khuyên thì người ta có thể nghe theo, hoặc là người ta có thể không nghe theo. Cho nên hai ngài hãy nên nhớ kỹ điều đó. Trong tâm hai ngài đừng suy nghĩ đây là tôn giáo, đây là luật pháp. Bỏ cái tôn giáo, bỏ luật pháp qua một bên đi; cái nào mà buộc người ta phải quyết tâm, quyết chí làm một đường, làm cho có hiệu quả. Cái mà hiệu quả đó mới có ích cho nhân loại. Phải hông ngài?”

Lời phát biểu sau cùng của bị cáo Lê Thanh Trùng Dương trong phiên toà vừa qua. Xem ra anh này còn có ý thức lịch sử rất sâu sắc so với những quan toà đang luận tội của anh ta. Đa số báo chí Nhà nước thích viết xách mé rằng các thành viên trong Thiền Am chỉ học lớp 7/12 hay 8/12. Nhưng tôi thấy trình độ văn hoá và kiến văn của họ hơn hẳn những thẩm phán hay luật sư loại “mickey mouse”.

clip_image005

Câu nói đáng chú ý nhứt trong phiên toà Thiền Am. Thật ra, nguyên văn câu ông ấy nói là:

“Không có đăng ký Giáo hội Phật giáo (GHPG) bởi vì GHPG đối với tôi là không xứng đáng. Xứng đáng thì tôi mới bái phục để cầu xin nghe, còn không xứng đáng thì biểu tôi nghe, ra lệnh tôi nghe, thì tôi không nghe”.
Nếu tôi là người của GHPGVN thì sẽ xem câu này là một bài học sâu sắc, là tiền đề để nhìn lại mình và cải cách.

N.V.T.

Nguồn: FB Nguyễn Tuấn

Đọc thêm:

Những câu nói của ông Lê Tùng Vân trước tòa

Đàn Chim Việt

24/07/2022

ĐCV: Cộng đồng mạng mấy hôm nay dậy sóng vì bản án tù khắc nghiệt dành cho các chân tu tại Thiền Am Bên Bờ Vũ Trụ, trong đó ông Lê Tùng Vân ngoài 90 tuổi bị án nặng nhất với 5 năm tù giam, các đồng tu khác 3-4 năm tù với tợi “lợi dụng quyền tự do dân chủ”. Đây là tội danh nhố nhăng nhất trong số các tội mà nhà nước Việt Nam khoác cho những người mà họ cho là cứng đầu, không nghe hay không muốn theo họ, dù những người này chưa làm gì phương hại tới quyền lợi của họ.

Điều đáng nói, báo chí nhà nước, và một số thông tin trên mạng internet, khi các bị cáo mới bị bắt giữ đã đưa ra các thông tin về “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và “Loạn luân”. Những những tội danh này không được đề cập tới trong mấy này xét xử vừa qua.

Hình ảnh một ông già râu tóc bạc phơ khảng khái trước tòa và bản án tù quá nặng đã khiến nhiều người xúc động. Đi tù, chỉ vì không theo phật giáo quốc doanh, nói sư quốc doanh “ngu như bò” có lẽ chỉ có ở Việt Nam.

Dưới đây là những câu nói được ghi chép bởi các luật sư bảo vệ ông Lê Tùng Vân ở tòa.

– “Tôi không đăng ký gia nhập Giáo hội Phật giáo Việt Nam vì tôi nhận thấy GHPGVN không xứng đáng!”

– “Tôi có mặc áo vàng cũng là bình thường, phẩm hạnh của tôi xứng đáng mặc những chiếc áo hơn thế nữa…!”

– “Tôi già, không ra khỏi nhà, suốt ngày nằm võng, kể cả lúc khách tới thăm, tôi không biết bấm điện thoại, không biết sử dụng mạng xã hội, chỉ lo dạy bảo đệ tử cùng tu tập, không có xâm phạm lợi ích của Nhà nước hay tổ chức, cá nhân nào…”

– “Nói tôi chủ mưu là sai không phải 100% mà sai 1.000%, không ai nghe tôi một ông già trên 90 tuổi, già khú đế, khi nhớ, khi quên…”.

– “Tôi không mạo nhận mình là đức Phật, không mạo danh đức Phật, không phỉ báng đạo Phật. Nói tôi xuyên tạc giáo lý nhà Phật là nói sai, nói bậy. Mọi người Việt Nam đều có quyền xây dựng đức tin, chọn tôn giáo cho mình…”

– “Tôi không xúc phạm Giáo hội Phật giáo Việt Nam tỉnh Long An, cũng không xúc phạm Công an huyện Đức Hòa, ngược lại tôi và một số người ở Thiền Am là nạn nhân bị làm nhục và bị vu khống trong thời gian dài, rất thậm tệ. Ai tố cáo tôi xúc phạm họ, thì cần có mặt tại tòa án, đứng lên đối chất, nói rõ, đừng lừa dối tòa án!”

– “Những ai là giám định viên tư pháp đưa ra kết luận giám định nội dung các video clip mà đệ tử của tôi quay cảnh sinh hoạt trong nhà hay các cảnh dàn dựng làm phim hài, phục vụ thiếu nhi…, cho là vi phạm pháp luật, quả thật họ là những người bất xứng vì kiến văn quá nông cạn và ác tâm, hại người…”

– “Ngày xưa dân gian có câu “Bộ Binh, Bộ Hộ, Bộ Hình, cả 3 Bộ đồng tình…”, nay tôi và các đệ tử của tôi bị tới 5 “bộ” ở tỉnh Long An cùng đồng tình truy bức chúng tôi.”

Đàn Chim Việt tổng hợp

Nguồn: danchimviet.info

Một ông ở Hải Phòng tự sát sau khi giết và cắt đầu nhân tình

Một ông ở Hải Phòng tự sát sau khi giết và cắt đầu nhân tình

July 23, 2022

Báo Nguoi-viet

HẢI PHÒNG, Việt Nam (NV) – Thi thể nghi can TVH, 59 tuổi, ở huyện Thủy Nguyên, được nhà chức trách phát hiện trên đoạn sông qua huyện An Dương, hôm 23 Tháng Bảy.

Trước đó một ngày, người dân Hải Phòng kinh hoàng về vụ thi thể đầu lìa khỏi cổ của bà NTH, 54 tuổi, ngay tại quán “Đại Sư Huynh” ở khu đô thị Cựu Viên ở quận Kiến An, do con gái bà H. làm chủ.

Người dân tụ tập gần hiện trường vụ án. (Hình: VTC)

Theo báo VTC News, nghi can TVH có hai tiền án, tiền sự. Ông này đã ly hôn vợ, đang sống cùng mẹ già 80 tuổi tại xã Hoàng Động, huyện Thủy Nguyên.

Báo này dẫn lời hàng xóm cho hay bà NTH về nhà ông TVH sống như vợ chồng. Tuy vậy, giữa hai người thường xuyên xảy ra cãi vã, nhất là sau những lần uống rượu, ông H. thường đánh đập bà.

Gần đây, bà H. đã chuyển về sống cùng con gái để phụ giúp việc bán quán. Ông H. cũng tìm sang quán để phụ giúp.

Chiều 22 Tháng Bảy, con gái bà H. đến quán thì phát hiện mẹ tử vong trong tình trạng đầu lìa khỏi cổ.

Bản tin của báo Zing cho biết thi thể bà H. có nhiều vết thương, được phát hiện ở tầng hai. Khám nghiệm hiện trường, công an thấy phần đầu của bà H. ở khu vực bếp tầng một.

Công An quận Kiến An, thành phố Hải Phòng xác định ông TVH là nghi can nên truy tìm ông này.

VTC News dẫn nguồn công an cho biết sau khi gây án, ông H. đã lên một chiếc thuyền của gia đình đang neo đậu ở xã Hoàng Động, huyện Thủy Nguyên, rồi chích điện tự tử. Do chiếc thuyền không có người lái nên đã trôi đến địa phận xã An Hồng, huyện An Dương.

Vụ giết bà NTH xảy ra tại quán “Đại Sư Huynh” do con gái bà làm chủ. (Hình: VOV)

Tờ Thanh Niên hôm 22 Tháng Bảy nhắc lại chuyện cách đây 11 năm, tại quận Kiến An cũng xảy ra vụ án mạng tương tự khi dân khu tái định cư chợ Đầm Triều, phường Quán Trữ, phát giác thi thể một phụ nữ không đầu, bị chặt mất hai cánh tay.

Nạn nhân khi đó là một phụ nữ sinh sống ở quận Lê Chân, đã bị nghi can Nguyễn Dũng Giang ở quận Hải An, sát hại để quỵt nợ. Ông này sau đó bị Tòa Án thành phố Hải Phòng tuyên án tử hình do tội “giết người và cướp tài sản.” (N.H.K)          

Ngành y khủng hoảng trầm trọng

Ngành y khủng hoảng trầm trọng

Mạc Văn Trang

Ngành y tế và ngành giáo dục Việt Nam trong giai đoạn từ chế độ bao cấp chuyển sang cơ chế thị trường đã gặp những khủng hoảng trầm trọng.

Đáng lẽ Việt Nam phải nghiên cứu học tập xem tại sao các nước Đông âu như Ba Lan, Tiệp khắc, Hungary… khi chuyển từ chế độ xã hội chủ nghĩa bao cấp sang chế độ dân chủ, tư bản mà y tế và giáo dục mau chóng ổn định và phát triển tốt hơn thời trước đó, thì lại thả lỏng cho trôi nổi phát sinh tiêu cực tràn lan.

Mọi thứ đều đổ tại “mặt trái của kinh tế thị trường” và “cơ chế”!?

Rồi quản lý theo kiểu độc tài, áp đặt, chỉ lo xử lý những chuyện bung bét trước mắt, không tìm căn nguyên và giải quyết tận gốc một cách khoa học, căn cơ, bền vững. Những khuyết tật từ bên trong không cho bộc lộ ra một cách tự nhiên, để thấy bản chất vấn đề, chữa cho căn bản; ngược lại còn che giấu, bưng bít, nên bệnh ủ lâu ngày càng trầm trọng.

Qua thử thách của đại dịch covid-19, thì ngành Y đã “bung”, “toang”, khủng hoảng trầm trọng.

Thử nhìn nhận toàn diện lúc này xem sao.

1. Khủng hoảng về triết lý

Ngành y từ trước chỉ nêu khẩu hiệu “LƯƠNG Y NHƯ TỪ MẪU”, thầy thuốc như mẹ hiền, chăm sóc bệnh nhân với tâm lý ban ơn và có đến đâu thì chăm sóc đến đó. “Mẹ” nghèo khó mà đông con thì đành cơm cháo, khoai sắn chăm nhau.

Chật chội quá thì đành 2-3-4 bệnh nhân một giường; rồi bệnh nhân nằm cả dưới gầm giường, hành lang, gốc cây.

Nếu thay đổi triết lý: Bệnh nhân là khách hàng, thầy thuốc là người phục vụ và phương châm phục vụ là: “vui lòng khách đến, vừa lòng khách đi”, thì mọi chuyện sẽ khác.

Từ đó ngành y sẽ cố gắng phát huy mọi nguồn lực, mọi sáng kiến để đáp ứng nhu cầu của khách hàng; Và bệnh nhân cũng với tư thế người được phục vụ, chứ không phải kẻ quỵ lụy được ban ơn.

2. Hệ thống cơ sở y tế rối loạn

Trước hết bệnh viện công, bệnh viện tư, bệnh viện làm phúc không rõ ràng. Trong một bệnh viện công mà thể hiện sự bất công, bất bình đẳng giữa các bệnh nhân giàu và nghèo quá trắng trợn.

Hệ thống các cơ sở y tế ở xã/phường, quận/ huyện và các tỉnh nhỏ không được đầu tư đáp ứng nhu cầu của cộng đồng địa phương. Do vậy bệnh nhân các nơi đều kéo về những bệnh viện lớn ở Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh, khiến cho các bệnh viện này chẳng khác gì cái chợ đầu mối, người người chen chúc, rối loạn, làm sao phục vụ tốt được!

3. Y học, dược học sa sút

Từ thời Pháp thuộc, nước ta có cơ sở y học và dược học hơn các nước khu vực; y học cổ truyền cũng không kém. Nhưng trong những năm qua ngành y của ta đã có những đóng góp gì đáng kể? Ngành dược càng quá tệ, việc nghiên cứu sản xuất thuốc ở trong nước quá yếu, trong khi nhập thuốc thì vô tội vạ. Trong đó có những nhóm lợi ích đã nhập thuốc giả, thuốc gần hết hạn về phân phối độc quyền.

Mấy cơ sở nghiên cứu hô “quyết tâm, quyết liệt” sản xuất vaccine ngừa covid-19 mà không thấy tăm hơi; hẹn hò liên kết sản xuất vaccine với Nga, Cuba, rồi với mấy công ty lớn nước ngoài mà tịt hết!? Tất cả chỉ thấy nổi lên vụ test kit Việt Á, làm tan hoang ngành y.

4. Nhân cách thầy thuốc tha hóa nghiêm trọng

Lỗi này căn bản thuộc về thể chế. Người làm nghề lương thiện không đủ sống bằng lương kéo dài mấy chục năm, nên sinh ra thói “làm nghề gì, ăn nghề ấy”: giáo viên “ăn” vào học sinh; bác sĩ “ăn” vào bệnh nhân; chính quyền “ăn của dân không chừa thứ gì”!

Sự tha hóa đã chạm đáy rồi: Bộ trưởng, Thứ trưởng y tế, giáo sư viện sĩ, giáo sư bác sĩ thầy thuốc nhân dân, quản lý ngành Y các cấp… lũ lượt vào tù; gần 10.000 bác sĩ, nhân viên y tế bỏ việc! Chưa bao giờ diễn ra một bức tranh y tế đáng sợ và đáng buồn đến thế!

5. Các giải pháp mà báo chí nêu ra, vẫn chỉ đối phó, chưa hy vọng gì nhiều

Cần phải có chiến lược cải cách ngành y – dược nước ta một cách căn bản.

Trước hết cần phải phân tích một vài mô hình của các nước thành công nhất về xây dựng, phát triển ngành y – dược để ta học theo.

Thật vớ vẩn, mới ngày nào anh Đinh La Thăng bảo, thành phố Hồ Chí Minh phải có giải Nobel y học! Cái cần làm thì không làm, cứ mơ tưởng viển vông!

Phải củng cố lại hệ thống nghiên cứu Y học, Dược học chuyên sâu, bài bản; phải đầu tư nhân lực và cơ sở khoa học xứng tầm cho nghiên cứu.

Phải điều chỉnh, cải thiện lại hệ thống, mạng lưới cơ sở y tế phục vụ cộng đồng từ cơ sở đến trung ương.

Phải làm lại chính sách lương bổng, đãi ngộ với các bác sĩ và nhân viên y tế để họ đủ sống, tận tâm phục vụ mà không cần “ăn” bệnh nhân.

Phải làm sao có hệ thống y tế và chính sách bảo hiểm y tế giúp cho người nghèo có cơ hội chữa bệnh, giảm bớt sự bất bình đẳng quá đáng trong việc chăm sóc y tế giữa người giàu và nghèo, nhất là dân nghèo ở vùng sâu vùng xa.

Tôi dân ngoài ngành, thấy gì nói đấy, cái gì sai xin bỏ qua; cái gì có ích thì tham khảo. Chỉ mong ngành y mau vượt qua khủng hoảng, khôi phục và phát triển tử tế cho dân nhờ.

23/7/2022

M.V.T.

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Dép Râu

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Dép Râu

Ảnh của tuongnangtien

tuongnangtien

Thỉnh thoảng, tôi vẫn nghe rằng: “Giầy dép cũng đều có số, nói chi đến con người.”

Quả là có thế!

Chả thế mà tiếng Việt không thiếu những hạn từ liên quan đến vận mạng, định mệnh, số kiếp, số mạng, số phận, vận số, mệnh số, phần số: số xui, số hên, số đen, số đỏ, số mạt, số nghèo, số giầu, số làm quan, số làm đĩ, số ăn mày, số xa nhà, số đi tu, số ở tù …

Tuy thế, loại dép râu (hay còn gọi là dép lốp, dép cao su, dép Bình Trị Thiên) thì chả có số má gì ráo trọi. Mẫu mã cũng không luôn. Đôi nào ngó cũng vậy. Cứ nhắm vừa chân ai là người đó xỏ đại vô – one size fit all – già trẻ, lớn bé, gái trai đều giống như nhau.

Thô kệch, trần trụi vậy thôi nhưng đôi dép lốp đã từng được thi hào Tố Hữu cho “lên tầu vũ trụ” và có tên trong Wikipedia, phiên bản tiếng Anh: 

“The Ho Chi Minh sandals (Vietnamese dép lốp ‘tire sandal’) are a form of sandal made from discarded tires. Along with the khăn rằn scarf, they were a distinctive clothing of Viet Cong soldiers. These shoes were often called ‘Ho Chi Minh sandals’ or ‘Ho Chis” by Americans.”

Vỏn vẹn có đôi ba câu ngắn ngủi (chỉ gồm 48 từ) như vậy thì e chưa đủ liều lượng để ba hoa thiên tướng nên Wikipedia – phiên bản nội hóa – tự động chêm vào vài ba đề mục nữa (Đôi Dép – Dép Lốp – Đôi Dép Bác Hồ) tổng cộng là ba ngàn bốn trăm từ, với không ít hình ảnh, và toàn là những lời có cánh:

  • Đôi dép ấy rất đỗi bình dị, mộc mạc đơn sơ, nhưng thật nhiều ý nghĩa như chính cuộc đời Bác kính yêu. Bởi đôi dép cao su đã gắn liền với cuộc đời hoạt động cách mạng vì dân, vì nước của Bác. Ngày nay, đôi dép ấy đã trở thành kỉ vật thiêng liêng và vô giá của dân tộc ta.
  • Đôi dép này được xem như là một trong những biểu tượng về “cuộc đời cách mạng” của Hồ Chí Minh, được đề cập trong nhiều bài báo cũng như một số bài hát, bài thơ.

Tự điển bách khoa toàn thư của người ta mà Ban Tuyên Giáo vẫn thản nhiên nhẩy xổ vào thêm thắt/thêu dệt trắng trợn tới cỡ đó thì thiệt là quá đáng, và quá quắt! PTT Vũ Đức Đam, Chủ Tịch Hội Đồng Chỉ Đạo Biên Soạn Bách Khoa Toàn Thư Việt Nam, đã từng tuyên bố (không ngượng miệng) rằng:

“Bộ Bách khoa toàn thư phải là tri thức cơ bản về Việt Nam đặc biệt là tri thức ứng dụng cho đất nước, phải đúng theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.”

Tạm thời, khi chưa có bộ sách này thì cứ nhào nặn Wikikipedia tiếng Anh thành ra tiếng Việt (luôn) cho nó khoẻ. Mẹ nó, sợ gì ?

Tuy không có gì đáng sợ nhưng cũng chả có hiệu quả chi. Bên cạnh những lời lẽ thương râu nhớ dép hết sức thiết tha của đám văn nghệ sỹ cung đình (Hà Nội) vẫn có những câu thơ truyền miệng, phổ biến trong văn hóa dân gian: Đôi dép râu dẫm nát đời son trẻ/ Nón tai bèo che khuất nẻo tương lai.

Nghe vậy tưởng đã quá tệ nhưng blogger Trương Nhân Tuấn còn diễn giải sự việc một cách tệ hại hơn vậy nữa: “Nón cối hay nón tai bèo, cùng đôi dép râu, đã ‘viết nên trang sử’, trên lý thuyết là đưa cả nước lên ‘xã hội chủ nghĩa’. Mà thực tế là đưa tất cả ‘xuống hàng chó ngựa’, như hai câu ‘thơ’ thời thế : ‘Đôi dép râu dẫm nát đời son trẻ, Chiếc nón tai bèo phủ kín nẻo tương lai.”  

Thế mới biết dép râu tuy không có số má chi nhưng kẻ xỏ chân thì đều có cả. Tuy tuyệt đại đa số đều “xuống hàng chó ngựa” nhưng lại có kẻ được cơ hội xưng vương, và xưng tụng như thần:

“Vào năm 1970, một năm sau ngày Bác đi xa, nhà thơ Nam Yên đã viết một bài thơ lời lẽ dung dị nhưng rất mực thắm thiết, gợi lên cảm xúc thương mến Bác vô bờ. Bài thơ được nhạc sĩ Vân An phổ nhạc: Dép Bác, đôi dép cao su/ Bác đi từ ở chiến khu Bác về/ Phố phường trận địa/ Nhà máy đồng quê/ Đều in dấu dép Bác về, Bác ơi…

Bác Hồ là biểu trưng của tất cả những gì dung dị, mang một bản sắc dân tộc Việt Nam nhuần nhị, sâu xa nhất. Ngay cả quần áo, đồ dùng tiện nghi của Bác cũng đơn sơ, mộc mạc trong đó đôi dép của Bác trở thành một hình tượng thân quen, thắm thiết đối với chúng ta…” (Trung  Đức. “Đôi Dép Bác Hồ Đôi Dép Cao Su.” Việt Nam Mới).

Nào có riêng gì “với chúng ta!” Người nước ngoài cũng thế, cũng mê mẩn chết bỏ:

“Chuyện là, khi Bác tiếp các quan chức cấp cao trong Chính phủ Ấn Độ, họ đều chú ý nhìn vào đôi dép dưới chân Người, họ luôn liếc nhìn với vẻ lạ lùng và rất đỗi trân trọng. Báo chí nước ngoài khi đó thì nói về đôi dép cao su của Bác như một chuyện lạ, một huyền thoại về một con người tuyệt vời của thế kỷ lúc bấy giờ. 

Người dân Ấn Độ đã tỏ rõ lòng ngưỡng mộ đến lạ kỳ về đôi dép cao su. Khi Bác tới thăm một ngôi đền lớn và cổ kính của Ấn Độ, lúc Bác bước vào trong đền, để lại đôi dép bên ngoài thì bất ngờ có hàng trăm phóng viên báo chí, nhiếp ảnh, quay phim ập đến vây kín đôi dép cao su của Bác. Họ như phục sẵn từ rất lâu rồi, một số phóng viên còn cúi xuống dùng tay sờ, nắn đôi dép tỏ vẻ lạ lùng và trịnh trọng.” (Huyền Chi. “Huyền Thoại Hồ Chí Minh Trong Trái Tim Các Nhà Báo Quốc Tế.” Công An Nhân Dân).

Sự “ngưỡng mộ” mà bạn bè quốc tế đã dành cho đôi dép của Bác – thực ra – chả là cái đinh gì, nếu so với lòng sùng kính của người dân bản địa (nơi vùng xa, vùng sâu, vùng căn cứ cách mạng) ở Việt Nam:

 “Không dối lòng đâu, mỗi lần đi ‘dép Bác Hồ’ là thấy bụng không nghĩ điều trái, chân không đi hai đường. Chẳng riêng mình, cả làng này ai cũng vậy. Chiến tranh khỏi nói, hòa bình rồi có biết bao chuyện khó… Bông Rẫy hồi chiến tranh chỉ có 50 hộ, bây giờ đã lớn lên gần 120 hộ mà không còn ai đói, chỉ còn 10 hộ nghèo. Ai cũng có xe máy, hơn một nửa đã làm được nhà xây.

 Không ai nghe lời kẻ xấu vượt biên trái phép… Không nhờ phép lạ ‘dép Bác Hồ’ sao được thế? Có ‘dép Bác Hồ’ là thắng tất! Đinh Ngút cất lên một tràng cười sảng khoái. Ông nâng niu đôi dép mòn vẹt trên tay nói tiếp:

– Bông Rẫy bây giờ hãy còn gần hai chục người giữ được ‘dép Bác Hồ’ năm sáu chín như mình. Năm ngoái huyện đội vào xin mấy đôi, nói để làm bảo tàng, dân làng mới cho…” (Lê Quang Hồi. “Làng Bông Rẫy Mang Dép Bác Hồ.” Quân đội Nhân dân).

Trời ơi! Tưởng gì? Chớ dép lốp thì cần chi phải đi xin để bỏ vô viện bảo tàng. Thiếu mẹ gì đây nè, theo như những bản tin nhan nhản hàng ngày qua báo chí:

Cuộc chiến đã chấm dứt gần nửa thế kỷ, xương cốt của đám con bỏ xác dọc Đường Trường Sơn đã trở thành mùn đất (các bà mẹ tìm con nay cũng đều đã khuất) nhưng những chiếc dép cao su thì hẳn vẫn còn nguyên, và còn nhiều lắm:

  • Nhà văn Xuân Vũ: “ Để vun bồi ‘uy tín’ (hão) cho một người hoặc một vài người trên dãy Trường Sơn này, núi rừng đã phải nhận hàng vạn bộ xương khô, hằng vạn nấm mồ, không có nấm, không có bia.”  
  • S. Nguyễn Văn Lục: “Người ta phỏng đoán có khoảng 300.000 vừa là TNXP, vừa là cán binh bộ đội đã đào ngũ hay mất tích hoặc chấm dứt đời sống. Bệnh tật như kiết lỵ, sốt rét đã nhanh chóng hoàn tất cuộc đời của họ mà có thể chưa một ngày lâm trận.”
  • Nhà báo Rajiv Chandrasekaran cũng ghi nhận con số tương tự: “Chừng 300 ngàn người lính miền Bắc chết trong chiến tranh mà di hài của họ vẫn chưa tìm được – và chắc sẽ không bao giờ tìm ra cả. About 300,000 North Vietnamese soldiers killed in the war whose remains have not yet been located – and likely never will be. (“Vietnamese Families Seek Their MIAs.” Washington Post 3 April 2000: A01).

Nhà đương cuộc Hà Nội chỉ muốn mọi người biết đến và tôn thờ một đôi dép râu duy nhất của Hồ Chí Minh thôi nhưng dân Việt sẽ không bao giờ quên số phận thảm thương của hằng triệu sinh linh (chả may) buộc phải xỏ chân vào cái thứ dép oan nghiệt này.

Tưởng Năng Tiến

Tịnh Thất Bồng Lai: Bỏ tù cụ ông 90 tuổi – một điểm mới trong trấn áp nhân quyền ở Việt Nam

Tịnh Thất Bồng Lai: Bỏ tù cụ ông 90 tuổi – một điểm mới trong trấn áp nhân quyền ở Việt Nam

2022.07.22

RFA Tiếng Việt

Các tổ chức nhân quyền quốc tế hôm 22/7 lên tiếng phản đối bản án mà toà án Nhân dân huyên Đức Hoà, tỉnh Long An, vừa áp đặt lên sáu người thuộc một nhóm tu tại gia là Tịnh thất Bồng lai hay còn gọi là Thiền Am Bên Bờ Vũ Trụ. Human Rights Watch thậm chí gọi đây là một điểm mới trong chiến dịch trấn áp nhân quyền ở Việt Nam khi bỏ tù một cụ ông ngoài 90 tuổi chì vì ông dám bày tỏ chính kiến của mình.

Hôm 21 tháng 7, sáu thành viên thuộc Tịnh thất Bồng Lai bị tuyên phạt tổng cộng hơn 23 năm tù với cáo buộc “Lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân” theo Khoản 2, Điều 331, Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Điều 117 về tuyên truyền chống Nhà nước và Điều 331 là các điều khoản về an ninh quốc gia trong Bộ Luật Hình sự. Từ đầu năm đến nay, có ít nhất 19 người đã bị chính quyền Việt Nam bắt giam với cáo buộc vi phạm các điều này, theo thống kê mà RFA tổng hợp được.

Ông Lê Tùng Vân tại Toà án Nhân dân huyện Đức Hoà vào tháng 7/2022. Công An Nhân Dân

Việc toà tuyên những bản án nặng nề, đặc biệt là bản án năm năm tù giam đối với ông Lê Tùng Vân, người đã ngoài 90 tuổi, đã gây chú ý.

Cáo trạng của Viện Kiểm sát Nhân dân tỉnh Long An cáo buộc những người thuộc Tịnh thất Bồng Lai cầm đầu bởi ông Lê Tùng Vân đã đăng tải nhiều bài viết, clip trên mạng xã hội Facebook và YouTube trong khoảng thời gian từ năm 2019 đến năm 2021 có thông tin sai sự thật, bịa đặt, xuyên tạc, nhằm tuyên truyền, kích động xúc phạm uy tín của cơ quan Công an huyện Đức Hoà, xúc phạm Phật giáo, xúc phạm danh dự và nhân phẩm của ông Trần Ngọc Thảo (tức Thượng toạ Thích Nhật Từ).

Điều 331 của Bộ luật Hình sự vốn được sử dụng trong các vụ án có yếu tố chính trị, nhằm buộc tội những người bất đồng chính kiến với Đảng Cộng sản. Các tổ chức nhân quyền quốc tế đã liên tiếp chỉ trích và yêu cầu chính quyền Việt Nam bãi bỏ điều luật này.

Trao đổi với Đài Á châu Tự do qua email, ông Phil Robertson, Phó giám đốc phân ban Châu Á của tổ chức Theo dõi Nhân quyền, cho biết bằng việc bỏ tù những người ở Tịnh thất Bồng Lai vì các phát ngôn của họ cho thấy chính quyền Việt Nam đã trở nên độc đoán hơn:

Tống một ông cụ 90 tuổi vào tù chỉ vì dám nói lên suy nghĩ của mình cho thấy chính quyền Việt Nam đã đưa chiến dịch trấn áp nhân quyền đến một điểm mới.

Bằng việc sử dụng điều luật hà khắc để bịt miệng những người dân bình thường, những người chỉ đơn giản đã than phiền về công chức địa phương, chính quyền Việt Nam cho thấy giờ đây họ không chỉ đàn áp những nhà hoạt động”.

Thông qua việc những cá nhân phi chính trị như các thành viên ở Tịnh thất Bồng Lai giờ đây cũng bị bắt bớ vì phát ngôn trên mạng, ông Phil Robertson cho rằng chế độ ở Việt Nam đang cho thấy họ càng ngày càng trở nên thù nghịch đối với những chỉ trích.

Vị đại diện của tổ chức nhân quyền có trụ sở tại Hoa Kỳ cũng kêu gọi chính quyền Việt Nam trả tự do cho những người bị cầm tù:

Việt Nam cần phải đảo ngược các phán quyết lố bịch và những bản án không thể chấp nhận được nhắm vào tất cả những cá nhân ở Tịnh thất Bồng Lai”.

Đồng thời, tổ chức Ân xá Quốc tế, một tổ chức nhân quyền quốc tế có trụ sở ở Anh Quốc, cũng bày tỏ sự phản đối trước kết quả phiên toà hôm 21 tháng 7. Bà Ming Yu Hah, Phó giám đốc khu vực Đông và Đông Nam Á của tổ chức Ân xá Quốc tế, cho biết:

Việc cáo buộc ai đó là lợi dụng các quyền tự do dân chủ, thực chất là cái cớ để bịt miệng những tiếng nói chỉ trích chính quyền. Chỉ trong nửa đầu năm nay thì các điều 331 và 117 đã liên tục được lạm dụng để bắt bớ và truy tố bloggers, tín đồ tôn giáo, và người sử dụng Facebook vì những hoạt động của họ trên mạng xã hội.

Ngày nay, bất cứ ai ở Việt Nam đều có nguy cơ bị bỏ tù nhiều năm trời chỉ vì thực hành quyền tự do biểu đạt”.

Tình trạng này được bà Ming Yu Hah cho là “không thể chấp nhận và không thể dung thứ”. Bà cũng kêu gọi chính quyền Việt Nam phải chấm dứt việc đàn áp quyền tự do biểu đạt, và trả tự do cho những người bị bắt bớ.

Điều 117 về tuyên truyền chống Nhà nước và Điều 331 là các điều khoản về an ninh quốc gia trong Bộ Luật Hình sự. Từ đầu năm đến nay, có ít nhất 19 người đã bị chính quyền Việt Nam bắt giam với cáo buộc vi phạm các điều này, theo thống kê mà RFA tổng hợp được.

Nguồn: RFA Tiếng Việt

‘Trầm cảm’ và ‘thất nghiệp,’ một ông ở Phú Quốc giết vợ con

‘Trầm cảm’ và ‘thất nghiệp,’ một ông ở Phú Quốc giết vợ con

July 21, 2022

KIÊN GIANG, Việt Nam (NV) – “Không có việc làm” và “bị trầm cảm,” ông Hoàng Minh Vĩ, 37 tuổi, ở phường Dương Đông, thành phố Phú Quốc, đã chém chết vợ cùng con trai 7 tuổi rồi gọi điện báo công an, theo VNExpress hôm 21 Tháng Bảy.

Báo này cho biết thêm, Công An thành phố Phú Quốc đã bắt ông Vĩ với cáo buộc “giết người.”

Nghi can Hoàng Minh Vĩ tại đồn công an. (Hình: An Thới/VNExpress)

Sáng cùng ngày, người vợ 37 tuổi của ông Vĩ chuẩn bị bữa sáng cho chồng trước khi ông này dự kiến ra phi trường bay đi Hà Nội, để khám bệnh trầm cảm. Bất ngờ, ông Vĩ cầm một cái chảo đánh vào đầu vợ rồi dùng dao chém chết tại chỗ.

Sau đó, ông Vĩ tiếp tục cầm dao qua phòng con trai 7 tuổi đang ngủ, chém cậu bé tử vong.

Tại đồn công an, ông Vĩ khai rằng mình đưa vợ con từ quê ở tỉnh Bắc Kạn vào Phú Quốc, giữ nhà nghỉ cho người quen. Nhiều tháng qua không có việc làm, ông rơi vào trầm cảm, lo không có tiền trị bệnh nên nảy sinh ý định sát hại vợ con rồi tự sát.

Trước vụ này, các vụ giết người thân hoặc tự sát do trầm cảm diễn ra thường xuyên tại Việt Nam, với tần suất gần như mỗi tháng.

Hồi tháng trước, tờ Tuổi Trẻ loan tin ông ĐMT, 33 tuổi, bị trầm cảm, đã giết con trai 5 tuổi trong phòng ngủ một căn hộ ở tầng 9 chung cư 4S Linh Đông, phường Linh Đông, thành phố Thủ Đức, Sài Gòn, rồi tự tử.

Tại hiện trường, công an thu giữ một lá thư tuyệt mệnh được cho là của ông T. để lại.

Ngoài vụ này, liên tiếp xảy ra các vụ mẹ giết con do “trầm cảm sau sinh” tại nhiều tỉnh thành.

Theo tờ Tuổi Trẻ hôm 8 Tháng Bảy, các nghiên cứu ở một số bệnh viện phụ sản tại Việt Nam cho thấy tỷ lệ trầm cảm sau sinh là từ 11.6-33%. Đáng lo ngại là ước tính có gần 50% phụ nữ bị trầm cảm sau sinh không được chẩn đoán bởi chuyên gia y tế.

Phường Dương Đông, thành phố Phú Quốc. (Hình minh họa: VOV)

Theo báo Dân Trí hôm 3 Tháng Bảy, bệnh trầm cảm là nguyên nhân khiến gần 40,000 người Việt tự tử mỗi năm, gấp bốn lần số ca chết do tai nạn giao thông.

Con số nêu trên được công bố tại buổi tọa đàm “Thực trạng sức khỏe-hạnh phúc của người Việt Nam và giải pháp kiến tạo nếp sống khỏe- sống an,” do Hội Tâm Lý Trị Liệu Việt Nam tổ chức tại Sài Gòn. (N.H.K)

Chỉ có một “Việt Á” trong Bộ Khoa học và Công nghệ?

Chỉ có một “Việt Á” trong Bộ Khoa học và Công nghệ?

21-7-2022

Ảnh trên mạng

Năm 2018, Công ty Thu Đức của ông Nguyễn Bình Dương đăng ký một loạt nhãn hiệu: Thu Đức Ga, My Tra Petro, OIRIGIN GAS, VINSIN trùng với tên viết tắt hoặc tương tự với tên thương mại của một số doanh nghiệp khác đã nổi tiếng trên thị trường hàng chục năm như THỦ ĐỨC GAS, MỸ TRÀ GAS, ORIGIN GAS, Vinashin.

Điều đáng ngạc nhiên là, cho dù hoạt động “cùng lĩnh vực kinh doanh”, lại sử dụng tên thương mại và nhãn hiệu “rất dễ gây nhầm lẫn” với những nhãn hiệu đã nổi tiếng nhiều thập niên, “có tính chất lừa dối về nguồn gốc, xuất xứ…” mà các nhãn hiệu của ông Nguyễn Bình Dương lập ra vẫn được Cục Sở hữu Trí tuệ Bộ Khoa học và Công nghệ cấp “giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu hàng hóa”.

Không dừng lại ở mức độ “gian lận thương mại”, gây nhầm lẫn cho người tiêu dùng, ngày 5-7-2021, khi kiểm tra một cửa hàng của Gas Thu Đức ở Hòa Bình, Đoàn kiểm tra liên ngành (Cục Quản lý thị trường phối hợp với PC03 Công an tỉnh Hòa Bình) đã bắt quả tang Công ty Thu Đức có hành vi làm giả, làm nhái nhiều loại thương hiệu gas nổi tiếng trên thị trường, như Thủ Đức gas, Mỹ Trà gas, ORINGIN GAS và Vinashin.

Ngoài việc làm giả, làm nhái, ông Nguyễn Bình Dương còn thu gom bình gas của nhiều doanh nghiệp về “cưa tai, mài vỏ, mài số chế tạo, bỏ logo cũ, dán lô gô của mình vào, rồi sang chiết gas không nguồn gốc rõ ràng để cung cấp ra thị trường”.

“Cưa tai, mài vỏ” không phải là “tội phạm mới” trong ngành kinh doanh gas. Nhưng, “cưa tai, mài vỏ” với “căn cước” được cấp bởi Cục Sở Hữu Trí Tuệ của Bộ Khoa học và Công nghệ thì hành vi gian lận đã được nâng lên một quy mô mới.

Các nạn nhân của Gas Thu Đức và Hiệp hội kinh doanh Gas đã nhiều lần gửi văn bản lên ông Cục trưởng Cục Sở hữu Trí tuệ đề nghị rút lại các giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu hàng hóa; gửi C03 đề nghị “xử lý hình sự người đại diện pháp luật của công ty này, ông Nguyễn Bình Dương”. Nhưng, đến nay sự việc vẫn chưa giải quyết.

Giả mạo các nhãn hiệu nổi tiếng không phải là câu chuyện riêng của Việt Nam nhưng ít có ở đâu, việc giả mạo lại ngang nhiên tồn tại như ở Việt Nam.

Trong thập niên 1990s, không mấy ai tới Hà Nội mà không biết phố thịt chó Nhật Tân. Khởi nghiệp thành công ở “ngành công nhiệp” này là “Anh Tú”. Bắt đầu một mình với một “mái lều tranh” nhưng khi “Anh Tú” được nâng cấp thành khu nhà sàn 2 tầng, Nhật Tân ngay lập tức trở thành “liên hiệp các xí nghiệp thịt chó Hà Nội” với gần 50 quán khác. Không chỉ có Trần Mục, Hồ Kiếm, A Trang… “thương hiệu Anh Tú” đã bị nhái bởi những Anh Tú Xịn, Anh Tú Nhà Kính, Anh Tú Nhà Lá…

“Kinh đô thịt chó” vì nhiều lý do nay đã không còn nữa. Nhưng, ngay giờ đây ở Hà Nội, bên cạnh “Lạc rang húng lừu gia truyền bà Vân” vẫn có “Thương hiệu bà Vân lạc rang húng lừu gia truyền”. Ở Hà Tĩnh, bên cạnh cửa hàng của một thương hiệu cu đơ uy tín, Thư Viện, mọc thêm ngay sát một Thư Viện khác.

Hẳn nhiều người còn nhớ, năm 2010, khi xuất hiện “thương hiệu Vincon” nhái Vincom, Chánh thanh tra Bộ Khoa học và Công nghệ đã ra quyết định xử Vincon với mức phạt tiền 14 triệu và yêu cầu loại bỏ “Vincon” trên biển hiệu, giấy tờ giao dịch… Không lẽ, Bộ Khoa học và Công nghệ giờ đây không còn khả năng vận hành như 12 năm trước.

Tôi không rõ, ông bà Thư Viện và “Bà Vân” chính hiệu đã từng đăng ký nhãn hiệu hay thưa kiện hay chưa; nhưng, trong một môi trường kinh doanh mà những kẻ lười biếng (sử dụng trí tuệ), kiếm tiền bằng làm nhái, ăn cắp, gian lận… được dung túng thì sẽ không bao giờ có kinh tế thị trường.

Trong nhiệm kỳ trước, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc thường xuyên nói đến “nhà nước kiến tạo”, cho đến nay, người dân vẫn chưa thực sự hiểu rõ nội hàm của nhà nước kiến tạo là gì. Trước khi có thể kiến tạo cơ hội kinh doanh cho người dân, người dân và doanh nghiệp chỉ mong nhà nước làm đúng trách nhiệm của mình, không tiếp tay cho các hành vi gian dối, lừa đảo để chiếm đoạt thành quả kinh doanh của họ.

Không chỉ có dấu hiệu gian lận thương mại, hành vi của Thu Đức Gas có nhiều dấu hiệu chiếm đoạt tài sản của các công ty như Thủ Đức Gas, Mỹ Trà Gas… Khởi tố những vụ án tương tự (ở nhiều ngành khác nhau) không chỉ là cách duy nhất để dần thiết lập một môi trường kinh doanh lành mạnh, để thực sự có kinh tế thị trường, mà còn có thể giúp phát hiện ở Bộ Khoa học & Công nghệ thêm những vụ án khác có “mùi Việt Á”.

CHUYỆN CON BÒ TRONG TÒA – Bài của Khanh Nguyen (Nhạc sĩ Tuấn Khanh)

CHUYỆN CON BÒ TRONG TÒA

Bài của Khanh Nguyen (Nhạc sĩ Tuấn Khanh)

Trong phiên tòa xử Tịnh Thất Bồng Lai ngày 20/7, luật sư Âu Quang Phục, người được gọi là bảo vệ cho bị hại Trần Ngọc Thảo tức ông Thích Nhật Từ, đã đặt một vấn đề với những người ở Tịnh Thất Bồng Lai, trước mặt phiên tòa, điều mà ai nấy đều phải ngỡ ngàng:

“Nếu như bây giờ tôi nói Chúa ngu như bò thì các ông thấy sao?”

Luật sư Phục đưa ra câu hỏi này, bởi đơn tố cáo vì cho là bị xúc phạm của ông Trần Ngọc Thảo, nói rằng thành viên của Tịnh Thất Bồng Lai đã phát biểu nói “Thích Nhật Từ ngu như bò”. Tức giận do bị so sánh với con bò nên ông Thích Nhật Từ đã làm đơn khởi kiện, nói bị xúc phạm danh dự cá nhân, nhất định hoàn toàn không thể là bò.

Thế nhưng câu hỏi được đặt ra mang tính đối chiếu của luật sư Phục khiến ai nấy ngỡ ngàng, thậm chí phải bật cười vì sự ấu trĩ – và phải nói rõ là ngu xuẩn về trình độ nhận thức – vì Chúa Giêsu dù được đặt ra ở bất kỳ vị trí nào cũng không hề liên quan gì với những người trong Tịnh Thất Bồng Lai.

Nhưng cần nhớ, câu hỏi kém cỏi của luật sư Phục cũng có thể đáng bị đặt vào tình trạng bị khởi tố theo Điều 116 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, điểm C “Gây chia rẽ người theo tôn giáo với người không theo tôn giáo, giữa người theo các tôn giáo khác nhau, chia rẽ các tín đồ tôn giáo với chính quyền nhân dân, với các tổ chức chính trị – xã hội”.

Chuyện cố ý đưa Đức Chúa Giêsu vào trong nội dung này chính là mang tính xúc phạm vô cớ, vì nhân vật Chúa Giêsu không liên quan đến vụ án, và không thể hiện bất kỳ sự suy luận kiến giải nào về việc so sánh ông Thích Nhật Từ ngu như bò, ngoại trừ khi ông Thích Nhật Từ tự coi mình ngang hàng với Chúa, và đặc biệt là hoàn toàn khác con bò.

Cần nói rõ là nội dung quyết định ở đây, đang được cân phân giữa ông Thích Nhật Từ và con bò, là hai thực thể rất rõ ràng.

Vấn đề là phía bị hại cần phải xác định rằng con bò có những điểm xấu như thế nào mà người ta so sánh với mình khiến mình cảm thấy bị xúc phạm, kể cả chuyện “ngu” ở mức nào là được so sánh với con bò.

Tuy vậy, ở một góc nhìn khác, việc so sánh một con người với một con vật đó là chuyện thường tình mang đầy tính văn hóa dân gian vẫn diễn ra trong xã hội, ví dụ người ta vẫn so sánh “Anh A làm việc chăm chỉ như một con ong” hoặc “Anh B suốt cuộc đời cặm cụi như một con kiến”, hoặc “Hắn làm việc như con trâu”. Sự kiện ông Thích Nhật Từ tức giận đâm đơn kiện, có thể coi là vụ kiện đầu tiên trong lịch sử tòa án Việt Nam về việc bất đồng so sánh với thú vật.

Trở lại câu hỏi rất “bò” của luật sư Âu Quang Phục, chắc chắn sẽ không ai ở phiên tòa xử Tịnh Thất Bồng Lai buồn nghĩ gì cả, vì câu chuyện này không liên quan với vụ án. Hơn nữa, câu hỏi này đầy tính khiêu khích, thể hiện chủ trương thù hằn tôn giáo.

Ông Trần Ngọc Thảo / Thích Nhật Từ trong các bài giảng của mình cũng đã có rất nhiều lần vô cớ công kích Chúa Giêsu và nội dung của tín ngưỡng Công giáo. Thế nhưng phía Công giáo Việt Nam đã đối xử với ông không khác gì người lớn thấu hiểu, nhìn thấy đứa con nít cứ chòi chọc bám đít tìm cách gây khó. Vì vậy không loại trừ là luật sư của ông Thảo cũng đã được hướng dẫn cách trình bày quan điểm so sánh tín ngưỡng như vậy ở phiên tòa này – dĩ nhiên trình bày kiểu như vậy thì rất “bò”.

——–

Ảnh: LS Âu Quang Phục, trong vòng tròn

ĐƯỜNG SẮT RĂNG CƯA THÁP CHÀM -ĐÀ LẠT

Lịch sử sẽ không quên lũ ăn tàn phá hại.

_______________________________

NHỮNG TÊN TÂM THẦN.

ĐƯỜNG SẮT RĂNG CƯA THÁP CHÀM -ĐÀ LẠT

Bán 650.000 đô la.

Mua lại 1.200.000.000, một Tỷ hai đô la.

..………….

Đà Lạt vừa “giải phóng”, ông Phạm Khương thay mặt ban quân quản tiếp nhận ga Đà Lạt khi đầu máy, toa xe và toàn bộ tuyến đường đã nằm phơi sương suốt từ năm 1969 vì chiến tranh. Dầu mazut, thứ dầu đặc chủng để chạy đầu máy răng cưa, cũng không còn. Vậy mà chỉ hai tháng sau, ngày 6.6.1975, chiếc đầu máy răng cưa lại lần đầu tiên lăn bánh gần 70km, vượt D’ran, vượt Eo Gió, vượt Krongpha về tới Tân Mỹ, chỉ còn chờ cầu Tân Mỹ hoàn nhịp là lăn bánh về đến ga cuối Tháp Chàm. Không có dầu mazut, ông Khương đã cùng anh em kỹ sư còn lại ở ga Đà Lạt mày mò hoán đổi cho tàu chạy bằng than củi. Vậy mà tàu lăn bánh gọn gàng, công nhân đi hái trà ở Cầu Đất, cán bộ đi công tác xuống Phan Rang, rồi lâm nông sản xuôi ngược Phan Rang – Đà Lạt được tiếp tế cho nhau sau ngày giải phóng đều nhờ những toa tàu răng cưa vừa hồi sinh chở miễn phí.

Nhưng tàu chỉ chạy được đúng 27 chuyến. Cuối năm 1975, khi vừa chuyển giao tuyến đường cho Liên hiệp Xí nghiệp đường sắt VN thì ông nhận được lệnh sét đánh : ngừng chạy tàu, tháo toàn bộ tà vẹt trên tuyến đường Phan Rang – Đà Lạt để chuyển ra tu bổ cho đường sắt Thống Nhất đoạn Bình Định – Quảng Nam. Không chỉ ông Khương mà cả chính quyền tỉnh Lâm Đồng lúc đó cũng bàng hoàng. Một sự đánh đổi cấp tốc được đề ra, Lâm Đồng quyết định hạ cây rừng, cấp 230.000 thanh tà vẹt gỗ cho ngành đường sắt. Nhưng số tà vẹt ấy vẫn không làm thay đổi được quyết định ban đầu.

Tàu răng cưa ngưng chạy. Đường sắt răng cưa vẫn bị tháo tà vẹt. Ông Phạm Khương một lần nữa gửi công văn hỏa tốc năn nỉ lần cuối cùng : xin tháo 70% tà vẹt để những thanh ray còn có điểm tựa ( không bị gỡ đi vì khác kích cỡ với tuyến đường sắt Thống Nhất ). Nhưng tất cả đều bị khước từ. Sau đó thì gần như toàn bộ tuyến đường từ ga Trại Mát trở về Tháp Chàm đều bị gỡ sạch tà vẹt. Còn những thanh ray và cả những đoạn răng cưa mười mấy cây số thì được hóa giá đưa về các nông trường, nhà máy tận dụng làm các công trình và sau đó tiếp tục được người dân “tiếp sức” cho vào những xưởng phế liệu.

Quá khứ bị bán rẻ

Vậy là tuyến đường răng cưa huyền thoại đã tan hoang chỉ sau một quyết định. Bảy đầu máy Fuka lầm lũi nằm lại ga Đà Lạt, Tháp Chàm và Krongpha phơi sương gió. Những đầu máy răng cưa ấy có thể bị quên lãng trên chính xứ sở nó từng hoạt động, nhưng với những kỹ sư hỏa xa Thụy Sĩ, nơi cũng có một tuyến đường sắt răng cưa nhưng lại không còn chiếc đầu máy răng cưa hơi nước nào còn vận hành được, thì “đống sắt” trên những nhà ga ở miền cao nguyên Việt Nam là một báu vật.

Ông Khương nhớ đầu năm 1988, Ralph Schorno, một kỹ sư hỏa xa người Thụy Sĩ, đã tìm đến ga Đà Lạt và Tháp Chàm để xem những chiếc đầu máy răng cưa. Trong số bảy chiếc đầu máy, Ralph Schorno chấm được bốn cái còn tốt có thể khôi phục và một số toa tàu của Mỹ để lại. Và sau chuyến thị sát ấy của kỹ sư Ralph Schorno, những cuộc mặc cả đã được đẩy đi nhanh chóng với sự trợ giúp của Đại sứ quán Thụy Sĩ tại Hà Nội bởi một lý do rất đơn giản : cả một tuyến đường đã bị phá dỡ, chỉ còn mấy đầu máy hoen gỉ bỗng dưng có người mang đến những khoản USD lớn xin mua thì tại sao phải ngại ngần. Số tiền đề nghị bán là 1 triệu USD nhưng sau nhiều lần đàm phán đã được chốt giá 650.000 USD, cả lúc đó và muôn đời sau, đó là một cái giá rẻ bèo cho các báu vật nầy.

Thương vụ diễn ra nhanh chóng đến mức không ai kịp can thiệp. Ông Phạm Khương kể khi tỉnh Lâm Đồng một lần nữa hay biết về quyết định đó đã triệu tập một cuộc họp suốt 3 ngày liền để tìm cách giữ lại những chiếc đầu máy răng cưa. Nhưng “tiền trao cháo múc”, tháng 8.1990 khi mọi người đang họp thì phía Thụy Sĩ đã đưa xe đặc chủng lên tới Đà Lạt. Và cứ vậy, lần lượt những chiếc đầu máy và toa tàu răng cưa rời D’ran, rời Eo Gió, vượt Kronphra về Tháp Chàm rồi thẳng cảng Vũng Tàu, xuống tàu biển Thụy Sĩ. Câu chuyện về thương vụ bán những đầu máy răng cưa ấy đã vĩnh viễn đóng chặt giấc mơ nối lại tuyến đường xe lửa răng cưa trong ông Phạm Khương và rất nhiều người. Nhưng với người Thụy Sĩ lại mở ra một chương mới về sự hồi sinh của tuyến đường răng cưa mà từ nhiều thập kỷ trước đó, họ đã không còn đầu máy để chạy.

Chỉ hai tháng sau khi những đầu máy răng cưa rời Đà Lạt, ông Phạm Khương đã nhận được bưu phẩm của kỹ sư Ralph Schorno từ nhà ga Jungfraujoch. Đó là một cuốn sách rất dày, in những tấm ảnh màu trên nền giấy tốt, kể lại hành trình tìm ra đầu máy răng cưa ở Đà Lạt, đưa về Thụy Sĩ. Và cuối sách là những hình ảnh về hai trong bốn chiếc đầu máy răng cưa mà họ đã khôi phục thành công đang nhả khói trên đường đèo vượt dãy Alpes. Và rất lịch sự, người Thụy Sĩ đã không quên đính kèm một tấm bảng trên thành đầu máy, với dòng chữ về mốc thời gian mà chiếc đầu máy từng chạy trên tuyến đường Phan Rang–Đà Lạt. Như một sự nhắc nhớ về nguồn cội, nhắc nhớ về cả một nỗi đau trong những người Việt Nam từng yêu mến và tự hào về con đường răng cưa đã mất.

* Trong quá trình xây dựng và khai thác Thiết lộ Lâm Viên, Công ty Hỏa xa nhà nước CFI nhập cảng vào Việt Nam các đầu máy chạy được trên đường rầy răng cưa theo bốn đợt như bảng bên. Các đầu máy HG 4/4 được xem là vật hiếm không thể tìm đâu ra ngoài Việt Nam vì công ty SLM ở Winterthur của Thụy Sĩ ( Schweizerische Lokomotiv und Maschinenfabrik ) chỉ chế tạo 7 chiếc đầu máy kiểu HG 4/4 và công ty MFE ( Maschinenfabrik Esslingen ) của Đức chế tạo thêm 2 đầu máy HG 4/4 dựa trên giấy phép nhượng quyền của SLM trong chương trình bồi thường chiến tranh cho Pháp khi Đức bại trận trong Đệ nhất Thế chiến theo hoà ước Versailles. Tất cả 9 đầu máy nầy đều được đem sử dụng ở Việt Nam và không có ở nơi nào khác trên thế giới. Tất cả cũng đều là những đầu máy hơi nước mạnh nhất thế giới chạy được trên hệ thống răng cưa Abt.

* Đây không phải chỉ là một sai lầm lớn mà còn thể hiện sự ngu xuẩn cực độ. Bởi vì đường rầy xe lửa đoạn Sông Pha – Đà Lạt được chế tạo đặc biệt cho đường xe lửa răng cưa với tính toán kỹ lưỡng về thiết kế cho địa thế dốc. Để có thể chịu được lực kéo khủng khiếp khi xe lửa leo núi trong một khoảng thời gian dài nên bản thân các tà vẹt đỡ phải được làm bằng thép có chất lượng cao nhất. Ngay cả đến những con ốc và bù lon cũng khác với loại dùng cho đường rầy xe lửa thông thường.

Do sự không hiểu biết về kỹ thuật cơ khí đường sắt của lãnh đạo, mặc dù có sự phản đối của các nhân viên hoả xa miền Nam cũ, Cục Đường Sắt vẫn ra lệnh tháo gỡ toàn bộ tuyến đường để đưa vào việc phục hồi tuyến đường sắt Xuyên Việt. Thời kỳ nầy tiếng nói của những nhân viên làm việc cho chính quyền cũ không được xem xét. Ngay cả phản ứng của chính quyền cấp tỉnh mới ở sở tại cũng không mang lại hiệu quả, họ đành nhìn địa phương mình mất đứt đi một báu vật mà ngay trong thời điểm khó khăn về kinh tế, đây là một tuyến giao thông kinh tế huyết mạch mang tính sinh tồn.

Và có thể đoán chuyện gì xảy ra tiếp theo sau đó. Đường rầy đặc biệt này không thể ăn khớp khi kết nối với loại đường rầy ở nơi bằng phẳng. Họ quyết định biến chúng thành sắt phế thải, chất đống tại các kho chứa, nơi lũ kẻ cắp cưa vụn ra và các quan tham bán chúng đi với giá sắt vụn rẻ như bèo. Đúng là một thảm kịch của lịch sử hỏa xa Đông Dương! Nếu đường xe lửa này không bị tháo gỡ, thì giờ đây đã có thể dễ dàng khôi phục để có những chuyến xe lửa du lịch kỳ thú từ các khu nghỉ dưỡng vùng duyên hải Nha Trang, Ninh Chữ, Mũi Né đi lên cao nguyên Lâm Viên.

Copy từ Hung Phan

HÃY BÌNH SỬ VỚI TƯ CÁCH LÀ NGƯỜI TỬ TẾ, TÔN TRỌNG SỰ THỰC, SÒNG PHẲNG VẢ TIẾN BỘ…

HÃY BÌNH SỬ VỚI TƯ CÁCH LÀ NGƯỜI TỬ TẾ, TÔN TRỌNG SỰ THỰC, SÒNG PHẲNG VẢ TIẾN BỘ…

Anh tôn trọng người khác để nhận được sự tôn trọng ngược lại.

Nhiều người đang bụm miệng vì một ông tiến sĩ kinh tế nhận định về lịch sử Miền Nam, ông ta cho rằng Miền Nam là “tinh hoa Bắc Việt tụ lại, dồn vào theo dòng khai phá Phương Nam”.

Thiệt là…! Bậu không hề hiểu câu “Ăn theo thuở, ở theo thời” gì hết.

Dân gian Bắc Hà có câu:

“L.. bà bà tưởng l.. ai

Bà cho ông Lý mượn hai tháng liền”

Tự nhận mình là “người liêm chính” và giảng moral, nói về năng lực, đạo đức và khơi về dòng họ mà đại bác thụt không tới.

Lý thuyết là cùng một dân tộc, cùng chữ viết, cùng tiếng nói, điều đó không ai phủ nhận.

Nhưng trời ơi! Thực tế Nam và Bắc hoàn toàn khác nhau về cách sống, tư duy, văn hóa ,ẩm thực. Bây giờ nói về “bà con” thì có lẽ chắc không ai còn nhớ đâu.

Máu pha nhiều quá.

Thí dụ như người Mỹ, nếu người Anh nói người Mỹ là người Anh thì dân Huê Kỳ sẽ cười vô mặt liền.

Cũng như danh xưng “Việt kiều”, người VN ở hải ngoại đời đầu, khi mà họ còn sanh đẻ và lớn lên ở VN rồi di tản ra hải ngoại thì còn dính chữ Việt Nam. Nhưng qua thế hệ thứ hai, thứ ba, thứ tư thì con cháu đã thành người Mỹ, người Úc, người Châu Âu rồi, nói nó là người VN thì nó cười vô mặt. Nhìn bà con rồi kêu cháu hãy làm nghĩa vụ gửi tiền về VN cho họ hàng là cái không bao giờ có vì nó không thể có trách nhiệm như cha mẹ nó được, đây là sự thực.

Miền Bắc từng có 1000 năm Bắc thuộc, khi đó người Tàu di cư qua hàng hà sa số đặng cai trị, nhưng người Tàu không làm sao đồng hóa Lạc Việt được vì tinh thần dân quá cứng cỏi, thậm chí người Tàu di cư qua ở vài đời thành người Việt cũng đòi độc lập ,dính mẫu hệ cả dòng.

Nếu nhìn họ hàng thì Bắc Kinh giờ làm như Putin với Ukraine, nói rằng người VN ở Miền Bắc giờ là con cháu của “tinh hoa người Hoa Hạ xưa” thì nghe có vui không?

Mà ngẫm lại Bắc và Nam như âm với dương vậy, thời tiết Nam nóng thì Bắc lạnh và Bắc luôn dính cái lòng thòng từ Trung Hoa, bên đó có cái gì Bắc có cái đó, rõ nhứt là sĩ diện hảo và rất thích làm “anh cả”.

Vũ trụ là một dòng sông dài, cả một quá trình lịch sử cũng dài, con người qua bao khúc nhoi, thăng trầm có đủ hết, Nam Kỳ và Bắc Kỳ cũng vậy.

Mà ngộ!

Rất nhiều người cứ thắc mắc, tại sao kêu Nam Kỳ, Trung Kỳ, dân hai xứ này cười hề hề, không để ý gì hết. Còn kêu người Bắc nào là Bắc Kỳ, nếu người Bắc di dân vào nam 1954, hay gọi là Bắc 54 thì cũng không sao, nhưng Bắc 75, Bắc đang ở phên dậu thì đa số họ sẽ đưng đửng lên như bị con gì cắn, rồi chửi người kêu là phân biệt vùng miền, chửi người kêu là miệt thị.

Kỳ chỉ là đất một cõi mà ta? Thành đô một nước còn có tên là “Kinh Kỳ” đó thôi.

Trong lịch sử Việt Nam ta có một cái huyện được sử Nguyễn ghi chép là “Quý huyện”, trong đó có một ngoại trang gọi là “Quý hương”.

Vùng đất đó là Gia Miêu ngoại trang thuộc tổng Thượng Bạn huyện Tống Sơn, phủ Hà Trung, trấn Thanh Hoa, là nơi phát tích của vương triều Nguyễn.

Là nơi quê nhà lão tướng Nguyễn Kim đã trung hưng thành công nhà Lê Trung Hưng.

Cũng là quê của Quận Công Nguyễn Hoàng ra đi trấn thủ xứ Thuận Hóa năm 1558, ông về Phương Nam, tiên khởi hùng mạnh khởi lập lên xứ Đàng Trong với 9 chúa, 13 vua.

Xin lật lịch sử vào những năm 1558-1600.

Chúng ta nghe giai thoại rằng chúa Nguyễn Hoàng vì “nghe lời” Trạng Trình “Hoành sơn nhứt đái, vạn đại dung thân” nên xuôi về Nam.

Tôi thì đọc giai thoại cho vui thôi, cái đám sĩ phu Bắc Hà rất thích đặt giai thoại, thiệt ra là tầm nhìn chánh trị của chính chúa Nguyễn Hoàng mà thôi, ông nhìn xa ra cái hướng mà dung thân, phát triển khi anh rể Trịnh Kiểm đã nuốt hết cơ nghiệp nhà vợ rồi giết anh trai Nguyễn Uông,sẽ giết tới Nguyễn Hoàng.

Đi vô vùng “Ô châu ác địa”, “Biên viễn xa xôi” là một cuộc thử thách thực sự chứ không phải đi du lịch chơi chơi như thời nay. Cái duyên này là Trời định, là Thiên Mệnh, để Việt tộc phát triển dài ra cương thổ.

Năm 1558 Nguyễn Hoàng ôm theo nhiều anh em, bà con, tùy tùng quê ở Tống Sơn.

Ta phải kể ra ba ông lớn có tiếng trong đời Nguyễn Hoàng mà lịch sử ghi là: Nguyễn Ư Dĩ, Tống Phước Trị và Mạc Cảnh Huống.

Con cháu Nguyễn Ư Dĩ sau này đổi sang họ Nguyễn Khoa, với Nguyễn Khoa Chiêm, Nguyễn Khoa Đăng.

Dòng thứ hai là họ Tống của ông Tống Phước Trị.Tống Phước Trị là người mang họ Tống của chính “Qúy huyện” Tống Sơn. Khi Nguyễn Hoàng vào Nam thì ông đã có danh phận chức tước ngang hàng với chúa Nguyễn Hoàng, tước Luân Quận Công, làm Trấn thủ Thuận Hóa trước cả Nguyễn Hoàng.

Dòng Tống Phước Trị là đệ nhị công thần của chúa Nguyễn Hoàng.

Ông Tống Phước Trị là tổ của hai ông Tiền Hiền Tống Phước Hiệp, Tống Phước Hòa là bậc danh tướng, có công gìn giữ Vĩnh Long và Sa Đéc.

Đất Trung Kỳ là đất của Chàm. Người Việt kêu người Champa là người Cham, Chăm, Chàm, Chiêm, Thổ, Mọi , Hời.

Cham Pa gồm 5 tiểu quốc là:

– Indrapura (vùng Quảng Bình, Quảng Trị – tương đương với lãnh thổ Lâm Ấp)

– Amaravati (vùng Quảng Nam, Thừa Thiên)

– Vijaya (Bình Ðịnh)

– Kauthara (Phú Yên, Khánh Hòa)

– Panduranga (Phan Rang, Phan Rí)

Vua Chàm Chế Bồng Nga đánh Đại Việt 12 lần.Từ 1371 đến 1383, quân Chiêm Thành 4 lần chiếm đóng Thăng Long và năm 1390, lúc đang tiến vào Thăng Long lần thứ tư, thì Chế Bồng Nga bị tử trận.Cái chết vô cùng lãng nhách, thằng đầy tớ phản chủ qua bên Việt chỉ chiếc thuyền Chế Bồng Nga có một vết sơn xanh nhỏ và Trần Khắc Chân chỉ tập trung hỏa lực bắn vô thuyền nầy là Chế Bồng Nga tử trận.

Người Chàm rất xui khi lập quốc cạnh người Việt vì nằm ngán đường của người Việt. Bắc là Tàu, tây là dãy Trường Sơn cao ngút,đông là biển, chỉ còn hướng Nam là con đường sanh tồn của Việt tộc. Nên Chàm bị vong quốc m.

Nhưng Chàm vẫn còn đâu đây trong huyết quản người Miền Trung.

Khi ông Nguyễn Văn Thiệu lên làm Tổng Thống VNCH nhiều người già nói sấm ám chỉ có một ngày một người có máu Chàm làm vua người Việt.

Nhiều người hỏi, vậy dân Chàm hồi xưa ở VN đi đâu mất tiêu hết vậy?

Chiến tranh, loạn lạc, có những vụ đánh nhau, kể cả tận diệt, nhưng người Việt không thể nào giết hết dân tộc này như nhiều người kết tội, dân tộc này không có nhỏ.

Thực ra người Chàm nào chịu ở lại định cư chung với người Việt đã bị đồng hóa, pha máu từ từ, lần hồi thành người Việt hết ráo. Trước tiên đàn ông Việt lấy vợ Chàm, cái phụ hệ của Việt khuất phục mẫu hệ Chàm, rồi đàn bà Việt lấy chồng Chàm, cái “mẫu hệ” ngầm trong gia đình Việt cũng khuất phục luôn dân tộc này.

Nói về đồng hóa bằng hôn nhân thì dân Tàu cũng quỳ lạy dân Việt chúng ta. Người Việt không nề hà, đụng đâu lấy đó, Chàm quất tuốt, Miên không tha, Tàu quất sạch.

Người Trung mang nhiều máu Chàm trong người. Người Trung có da ngăm đen, vai ngang, mặt vuông, tóc dợn sóng, mắt sâu, má cao, mắt một mí, mũi cao, môi dầy, miệng kín. Rồi cái âm Trung lơ lớ với mô, tê, răng, rứa, hè… ảnh hưởng rõ rệt người Chàm.

Một nhúm Chàm ở Phan Rang, Phan Thiết do co cụm, sống tách biệt nên vẫn còn bản sắc.

Thế hệ đầu tiên ngoài Bắc vô Trung của Nguyễn Hoàng thành dân Trung Kỳ đã phai lợt từ từ “gốc gác”, tới những thế hệ sau thì họ đã là người Đàng Trong, khác hoàn toàn tâm tánh, ăn ở, văn hóa Đàng Ngoài .

Chưa kể lại đối nghịch nhau về chánh trị.

Lịch sử Việt Nam ta có cuộc Trịnh, Nguyễn phân tranh rất nhiều giai thoại thú vị.

Khi họ Nguyễn tạo ra xứ Đàng Trong ly khai vua Lê chúa Trịnh ở Đàng Ngoài thì hiểu rằng người ở phía Nam đã muốn độc lập, cắt đứt với người phía Bắc.

Trịnh, Nguyễn đánh nhau từ 1627 tới 1672 với 7 lần đánh nhau với đại quân.

Trong bảy lần đó quân Trịnh chủ động tấn công đánh quân Nguyễn tới sáu lần, quân Nguyễn chỉ chủ dộng tấn công quân Trịnh trong lần giao tranh thứ năm (1655-1660).

Họ Trịnh dựa vua Lê, người Bắc rất lơ láo, họ chuyên lấy vua Lê ra làm bình phong cho sự chính danh của họ khiến quân Đàng Trong rất ghét.

Tương truyền trong một trận đánh, hai bên dàn trận rồi mà Đàng Ngoài còn chơi trò lấy lông gà làm lịnh tiễn “vua Lê”.

Một ông quan Bắc chạy xe ngựa có cờ lộng uy nghi ra giữa trận tay giơ cao tờ chiếu la lớn “Chiếu chỉ vua Lê tới đây, quân họ Nguyễn nghênh đón”.

Thoáng ngỡ ngàng, quan bên Nguyễn thấy rằng hai bên đang đánh nhau thì mang chiếu chỉ vua Lê ra làm chi, Đàng Trong đã thực tế là đất của chúa Nguyễn.

Quan Bắc vẫn gân cổ, là thần tử vua Lê thì phải nhận chiếu.

Rốt cuộc súng của quân Nguyễn chỉa thẳng vô ông quan cầm chiếu vua Lê ngay giữa trận.

Nhớ tới Quốc Phụ xứ Đàng Trong Đào Duy Từ nửa đêm ôm bè chuối vượt sông giới tuyến vô Nam giúp chúa Nguyễn giữ đất Đàng Trong độc lập.

Đào Duy Từ hay Nguyễn Hoàng là bỏ xứ ra đi rồi, bỏ luôn rồi, kiểu “Người ra đi đầu không ngoảnh lại”.

Thuận Quảng là đất chó ăn đá gà ăn muối lúc bấy giờ. Kinh tế thấp kém, đất đai rộng nhưng hoang vu, lam sơn chướng khí, lại bị người Chàm đánh miết để đòi lại, vô đó chỉ có nước chết mà Nguyễn Hoàng tồn tại được là cái không ai ngờ.

Bản thân Nguyễn Hoàng từ năm 1600 đã từng đốt quán trọ, hạ nhục sứ họ Trịnh là Lê Nghĩa Trạch để phản kháng. Sự bất mãn, phân ly và phản kháng đã từ từ phát diện.

Rốt cuộc, Phú Xuân (Huế) từ năm 1687 thành kinh đô của Đàng Trong.

Chúa Trịnh vua Lê ở Đàng Ngoài.Đàng Ngoài năm nào cũng có đói, thời chúa Trinh các năm 1557, 1559, 1570, 1571, 1572, 1577 hàng loạt trận đói xảy ra.

Chúa Tiên Nguyễn Hoàng và các vị sau đó còn làm bộ nhún nhường thần tử, song tới đời Võ vương Nguyễn Phước Khoát (1714-1765 ) mở ra một thời kỳ mới.

Năm 1744 lên ngôi vương xưng là Võ Vương cho đúc ấn Quốc Vương với cương vực từ sông Gianh tới Cà Mau, vạch rõ san hà Nam-Bắc khác nhau.

Ta nhớ tới bài thơ của Đào Duy Từ viết thay chúa Nguyễn trả lời cho chúa Trịnh.

Năm 1762 chúa Trịnh bắt họ Nguyễn Đàng Trong phải thần phục, bèn cử đoàn sứ giả mang sắc vua Lê vào phong cho Sãi Vương Nguyễn Phước Nguyên và đòi Sãi Vương phải cho con về Thăng Long chầu, đồng thời phải nộp 30 con voi cùng 30 chiếc thuyền làm lễ vật cống nạp nhà Minh.

Sãi Vương không chịu nhận chiếu chỉ, không thuận theo điều gì hết, Đào Duy Từ viết bài thơ trả lời:

Mâu nhi vô dịch,

Mịch phi kiến tích

Ái lạc tâm trường

Lực lai tương địch

Phùng Khắc Khoan phải ra tay dịch ra bốn chữ: Dư bất thụ sắc (ta không nhận sắc phong).

Họ Nguyễn không chịu thần phục triều đình, không nhận sắc vua Lê cho nên làm ra bốn câu thơ đó.

Đào Duy Từ là người Đàng Ngoài, giỏi nhưng bị chà đạp, nửa đêm ôm bè chuối vượt sông Gianh vô Nam làm Lộc Khuê Hầu giúp chúa Nguyễn độc lập, cắt đứt Đàng Ngoài.

Họ Trịnh biết, tiếc nên cho người ôm vàng bạc vô Nam dụ họ Đào về Bắc, chúa Trịnh viết thư ưỡm ờ:

“Trèo lên cây bưởi hái hoa

Bước xuống vườn cà hái nụ tầm xuân.

Nụ tầm xuân nở ra xanh biếc

Em có chồng anh tiếc lắm thay”

Đào Duy Từ trả lời rằng:

“Ba đồng một mớ trầu cay

Sao anh chẳng hỏi những ngày còn không?

Bây giờ em đã có chồng

Như chim vào lồng như cá cắn câu.

Cá cắn câu biết đâu mà gỡ

Chim vào lồng biết thuở nào ra?”

Tháng 1 năm 1775 khi Tây Sơn nổi dậy đánh chúa Nguyễn, quân Trịnh do Hoàng Ngũ Phúc cầm quân đã tiến vô nam đánh chiếm Phú Xuân.

Quân Trịnh chiếm đóng Phú Xuân trong 11 năm với 3 vạn quân, cai trị mạnh tay, dân Thuận Hóa ná thở, oán khí ngập trời.

Nếu coi nhau là đồng bào thì đã không có sự cai trị kinh khủng như vậy.

Năm 1786 quân Tây Sơn do Nguyễn Huệ tiến ra đánh bật quân Trịnh giải phóng Phú Xuân. Tây Sơn xua quân giết quân Trịnh, tàn sát gần hết, một số chạy thoát ra khỏi thành thì bị dân Huế bản địa căm thù ra tay giết.

Trong một ngày khắp Phú Xuân xuất hiện ăn mày nhưng toàn là á khẩu, câm để giấu cái giọng Bắc, tìm đường chạy ra Bắc thoát thân.

“Lịch Triều Tạp Kỷ” của Ngô Cao Lãng ghi rằng:

“Các lính thủ chạy đi các xóm làng để xin trú ngụ đều bị thổ dân giết sạch…. giết hại tất cả đến vài vạn người, chỉ còn vài trăm người là qua được sông Gianh trở về Bắc Hà thôi”.

Nguyễn Hữu Chỉnh, Ngô Thời Nhiệm, Đặng Trần Thường đều đã về Nam tìm gió mới, Nguyễn Du cũng từng đi nhưng không thành công.

Đặng Trần Thường một nho sanh Bắc Hà xuất sắc cũng đã vượt đường cái quan, qua sông núi biển xa vạn dặm vào đến Gia Định.

Đất Bắc với nạn nhân mãn, anh cả, nhà thờ họ, lũy tre làng, những con đê khổng lồ chặn hết phù sa, những ông lý như tiểu vương đã là nỗi ám ảnh của nhiều người Việt lúc đó.

Xuôi Nam là con đường mà họ chọn để theo nước đẩy thuyền.

“Tiếng ai than khóc nỉ non

Là vợ chú lính trèo hòn Cù Mông”

Năm 1698, Nguyễn Hữu Cảnh vào Nam kinh lý, lập phủ Gia Định gồm hai huyện: Phước Long kể từ tả ngạn sông Sài Gòn ra bờ biển Đông và Tân Bình kể từ hữu ngạn sông Sài Gòn tới sông Vàm Cỏ Đông.

Người Miền Nam là con cháu Nam Kỳ, vốn là xứ của lưu dân Ngũ Quảng hiệp cùng người Minh Hương, Chàm, Khmer và bổn địa như Stieng tạo ra.

Cái máu Bắc trong người Miền Nam khai hoang không có bao nhiêu.

Ông bà ta nói đất sanh ra người, người là hoa của đất, là tinh túy của xứ sở, đất tạo ra tâm tánh người dân.

Chúa Nguyễn áp dụng những chánh sách cai trị rất khôn khéo, trước khuyến khích tạo điều kiện cho dân vào Nam khai hoang lập ấp, nói chung làm ăn ổn định cuộc sống trước đã. Sau khi cuộc sống của dân cư đi vào ổn định, Chúa Nguyễn bắt đầu áp dụng chính sách thuế trên đất Miền Nam.

Người Nam Kỳ là dân khai hoang tứ xứ, vì kinh hoàng với xứ Bắc nên họ tạo ra văn hóa Nam Kỳ khác văn hóa Bắc rất nhiều, ví dụ chuyện dòng tộc, lũy tre làng là không có ở xứ Nam.

Miền Nam không có Thị Mầu, không có Chị Dậu, không có Chí Phèo, không có cảnh người dân ngụ cư, làng này đánh làng khác.

Người Miền Nam không lập gia phả, không có chế định nhà thờ họ. Nam Kỳ thời chỉ thờ cúng trực hệ tổ tiên trong 4 đời.Nam Kỳ bỏ “cả”, chỉ công nhận “hai”, cũng không lấy cái đình làng làm nơi dọa nạt người dân.

Lịch sử lưu dân Nam Kỳ quá trẻ, quá gần, không có nhiều quá khứ, nhưng quá khứ huy hoàng.

Bản chất dân Nam Kỳ đôn hậu mộc mạc. Tánh Nam Kỳ lửa rơm dễ nóng, dễ cháy. Sông rạch và đất nước bao la vì vậy đã tạo cho dân Nam Kỳ tánh khẳng khái, bộc trực, ít chịu cúi lòn, kém thủ đoạn.

“Ví dầu cầu ván đóng đinh

Cầu tre lắc lẻo gập ghình khó đi

Khó đi mượn chén ăn cơm

Mượn ly uống rượu mượn đờn kéo chơi”

Đất Nam Kỳ không dễ dàng mà có, ông bà cũng nẻ chưn tét da, rướm máu, mẻ xương, mất mạng mà giành nó, giữ nó và xây dựng, phát triển nó. Quá trình dài và đầy máu, nước mắt, ai đọc sử cũng sẽ biết quá trình này.

Một hột giống gieo xuống đất, đất đó phải xới, phải vun bồi, tưới tẩm, phải dẫn nước, xẻ mương, mưa thuận gió hòa qua sự điều hòa của trời đất thì hột mới nẩy mầm cho ra cái cây, sanh bông kết trái.

Miền Nam có những mùa hạn khô queo không còn một miếng nước cực khổ thấu trời. Có những vùng nước tù đọng muỗi mòng rắn rít, những vùng phèn vàng khè cháy da cháy tóc. Ông bà Miền Nam phải đổ xương máu ra khai phá, đào kinh, xẻ mương, lên liếp.

Nói gọn lại là đất Nam Kỳ không phải tự dưng trên trời rớt xuống cái chủm cho người Việt, đất này gốc của Phù Nam rồi Cao Miên, người Việt phải trầy vi tróc da giữ nó, khai phá nó mới có cơm gạo.

Prei NoKor, Phiên Trấn, Gia Định, Phan An, Sài Gòn đã thành một đô thị an vui, no ấm, thạnh vượng của Nam Kỳ Lục Tỉnh, là đô thành của Lục Tỉnh.

“Phủ Gia Định, phủ Gia Định, nhà đủ người no chốn chốn

Xứ Sài Gòn, xứ Sài Gòn, ở ăn vui thú nơi nơi.

Lạc thổ nhóm bốn dân: sĩ nông công thương ngư tiều canh độc”

Đất Nam Kỳ từ khi lưu dân cắm đất khai phá và Nguyễn Hữu Cảnh vào kinh lược thì cha ông chúng ta luôn hướng tới tự do, dân chủ, tôn trọng và muôn đời là như vậy.

Sài Gòn là sản phẩm của người yêu chuộng tự do, của tinh hoa Nam Kỳ Lục Tỉnh.

“Sài Gòn dễ ở khó về

Trai đi có vợ, gái về có con”

Sài Gòn là cái đỉnh cao của văn minh kiểu Lục Tỉnh, cách chơi Lục Tỉnh, tâm hồn Lục Tỉnh.

Tây Sơn tràn vào, không phải tự dưng mà có “Thảm sát cù lao Phố”, “Thảm sát Chợ Lớn”, “Hủy diệt Mỹ Tho đại phố”.Mục đích là kiếm một mớ rồi nhân tiện tiêu thổ luôn.

Những ngày đầu từ Phú Xuân vô Nam thì chúa Nguyễn Ánh cũng không là cái gì, chẳng có danh gì ngoài cái danh “cháu Chúa Nguyễn”.

Lúc này Nam Kỳ đã có quân đội, dân và hào phú Ba Giồng vì chống sự cướp bóc, giữ an xóm làng đã hùn tiền của, góp con cháu lập ra đạo quân Đông Sơn 3.000 người do Đỗ Thanh Nhơn chỉ huy.

“Năm nầy Thanh Nhơn mới có 42 tuổi, khí lực cường tráng, tánh nết thẳng ngay, dám nói dám làm, không kiêng không vị”(Đỗ Nương Nương báo oán-Tác giả: Hồ Biểu Chánh)

Khi Tân Chánh Vương lẫn Thái Thượng Vương bị Tây Sơn bắt giết ở Sài Gòn thì chúa Nguyễn Ánh nổi lên như người kế thừa khôi phục sự nghiệp của họ Nguyễn.

Năm 1777 Đỗ Thanh Nhơn đưa Nguyễn Phước Ánh lên làm tôn chủ cho chánh danh. Năm 1780 chúa Nguyễn Ánh xưng vương.

Và chúa Nguyễn Ánh lập mưu giết Đỗ Thành Nhơn đặng đoạt binh quyền.

Chúa Nguyễn Ánh đụng ngay sự phản kháng và bất hợp tác của thuộc hạ ông Nhơn là Võ Nhàn, Đỗ Bảng là những phó tướng, đầu lãnh của ông Nhơn, họ dẫn quân đi gần hết, cát cứ vùng khác.

Một thời gian dân Nam Kỳ tẩy chay chúa Nguyễn Ánh. Tây Sơn lại hành quân vào, chúa Nguyễn Ánh đánh không thắng được trận nào, chỉ biết chạy lòng vòng.

Võ Tánh là em Võ Nhàn, Võ Nhàn chống lại Nguyễn Ánh và cũng bị giết chết, vì vậy Võ Tánh phải bỏ đi chổ khác, sau cùng dẫn binh về cát cứ ở Gò Tre Gò Công.

Từ năm 1784, quân đội Võ Tánh với đạo quân “Khổng Tước nguyên võ” là lực lượng duy nhứt dám dàn trận công khai đánh chận Tây Sơn ở Gia Định. Chúa Nguyễn Ánh nhiều lần “chiêu dụ” Võ Tánh nhưng ông làm ngơ, không thèm nhìn vì thù anh, ông tự mình đánh Tây Sơn.

Năm 1788 Võ Tánh nghe theo lời các tướng thân cận như Mạc Văn Tô, Nguyễn Văn Hiếu mới đồng ý theo Nguyễn Ánh vì hai chữ “chính danh”.

Tức là Võ Tánh bỏ qua tình riêng.

Nhà Nguyễn được thành lập là nhờ dân Miền Nam.

Chúng ta hiểu rằng với dân Nam Kỳ, họ Nguyễn Phước là họ tượng trưng nhưng không phải là số một.

Tỷ dụ vua Gia Long biết ông Lê Văn Duyệt là người ít học nhưng thẳng thắn và làm kinh tế giỏi nên đối với ông Duyệt có sự biệt đãi, ông Duyệt trung thành nhưng lại có cái cách “thinh thang” kiểu Nam Kỳ khi Nam Kỳ cho tự do tôn giáo, mua bán,thông thương, dân an vui no đủ.

Vua Minh Mạng tìm cách phá bỏ ảnh hưởng của phe Nam Kỳ trong Gia Định sau cái chết của ông Duyệt.

Vua đã đưa vào đất Nam “người của mình”, đám này chủ yếu có quê gốc ở Trung và Bắc để thực hiện những đường lối chánh sách mới,kiểm soát và nắm kinh tế, bỏ những ảnh hưởng của phái Gia Định và xóa bỏ mọi uy tín của vị Tả Quân trong dân chúng.

Dân Nam Kỳ đã trả lời bằng cuộc đảo chánh của Lê Văn Khôi.Bộ sậu có con cháu Nguyễn Văn Tồn, Nguyễn Văn Thoại, Mạc Cửu… những vị khai quốc công thần xưa.

Mắc cười thay! Lê Văn Khôi là người gốc Bắc. Điều này chứng tỏ rằng người Miền Nam không bao giờ câu nệ xuất thân, gốc gác, máu mủ. Cứ cùng chung suy nghĩ, cùng bảo vệ quyền lợi thì cứ mặc sức mà thể hiện.

Cuộc đảo chánh này không có phương hướng rõ, do dự, chần chừ và bị vài phần tử phản bội do “hèn” sau lưng nên rốt cuộc không thành công.

Dù trấn áp được cuộc khởi nghĩa Lê Văn Khôi thành công, nhưng từ thời Minh Mạng triều đình Huế đã không còn “uy tín” như thời vua Gia Long.

Sau 1862 Nam Kỳ thành thuộc địa của Pháp.

Nghị định 82 ký ngày 6.4.1878 toàn Nam Kỳ phải chuyển sang chữ Quốc Ngữ, tức chữ La Tinh.

Tức là thủ tiêu chữ Hán và phải học chữ Quốc Ngữ.

Năm 1878 chữ Quốc Ngữ áp dụng ở Nam Kỳ đầu tiên, các “tổ sư” chữ Quốc Ngữ áp dụng đầu tiên toàn dân Nam Kỳ như: Trương Vĩnh Ký, Huỳnh Tịnh Của, Trương Vĩnh Tống, Trương Minh Ký, Nguyễn Trọng Quản…

“Chữ quốc ngữ phải trở thành chữ viết của đất nước. Phải như thế vì lợi ích và sự tiến hóa. Vậy, người ta nên tìm cách phổ biến thứ chữ này bằng mọi phương tiện…”(Trương Vĩnh Ký “Vần quốc ngữ” xuất bản năm 1876).

Trong văn hóa Việt tộc ta, vì xài chữ Quốc Ngữ nên Việt Nam được coi là nước theo hệ chữ La Tinh, nhưng Việt khác các quốc gia Tây khác như Anh hay Pháp là chữ Quốc Ngữ có rất nhiều dấu.

Chúng ta đã có chữ viết, chữ La Tinh tuy là “vay mượn” Tây, nhưng nó thể hiện đúng nhứt về cấu trúc cách nói, ngữ âm của dân tộc Việt, chỉ có 24 chữ ráp lại, thêm dấu là xong, thể hiện đúng hình và thanh của dân tộc Việt.

Tờ báo quốc ngữ đầu tiên là tờ Gia Định Báo, do Pháp lập năm 1865, với chủ bút Trương Vĩnh Ký, rồi Huỳnh Tịnh Của. Tiếp đó đến tờ Nam Kỳ Nhật Trình (số 1 ra ngày 21/10/1897), Nông Cổ Mín Đàm (số 1: 1/8/1901), Lục tỉnh tân văn (số 1: 15/1/1907) v.v…

Theo tài liệu của Nguyễn Văn Trung (công bố năm 1987), cuốn tiểu thuyết quốc ngữ sớm nhứt viết theo lối Tây phương là “Thầy Lazzaro Phiền” của Nguyễn Trọng Quản, xuất hiện ở trong Nam ngay từ 1887 và bản dịch Tam Quốc Chí đầu tiên, cũng khởi đăng trên Nông Cổ Mín Đàm, số một. (Nguyễn Văn Trung, Lục Châu Học).

Ông Phạm Quỳnh vào Nam năm 1918 hết hồn thấy báo chí, nhựt trình trong Nam nhiều quá.

Người Bắc 54 vô Nam ngạc nhiên khi có cảnh người đạp xe xích lô ở Sài Gòn, buôn gánh bán bưng vào buổi trưa tìm chỗ mát nghỉ ngơi, ngồi gác chân đọc nhựt trình, cảnh không thể có ở ngoài Bắc.

Sở dĩ có hiện tượng này bởi vì Miền Nam có truyền thống đọc sách báo của người bình dân mà ở ngoài Bắc không có, bởi Miền Nam đã là vùng đất của quốc ngữ và báo chí, tiểu thuyết, ngay từ cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, khiến nền văn chương bình dân phát triển mạnh ở trong Nam, trong khi ngoài Bắc, sách vở, báo chí phần lớn chỉ dành cho người có học trung lưu.

Tới năm 1910 chánh phủ Đông Pháp mới áp dụng chữ Quốc Ngữ ở Bắc Kỳ.

Nhớ hồi năm 2009 dịp kỷ niệm 1000 năm Thăng Long Hà Nội, nhà điêu khắc Phạm Văn Hạng muốn hiến tặng tượng cha A Lịch Sơn Đắc Lộ (Alexandre de Rhodes) cho Hà Nội.

Linh Mục Alexandre de Rhodes (1591 – 1666) là người có công lớn nhứt với chữ “Quốc Ngữ” Việt Nam ta.

Tuy nhiên sau đó ông Phạm Văn Hạng đã bị một số người lên án thất kinh. Trong khi Sài Gòn đã có đường Alexandre de Rhodes từ xưa rồi.

Hà Nội không thể chấp nhận một con đường mang tên Alexandre de Rhodes nhưng lại có đường Mạc Đăng Dung thì cũng đã thể hiện suy nghĩ Nam Bắc khác nhau rồi.

Đi sau Miền Nam nhưng vẫn thích ta đây là anh cả, vẫn thích bố đời.

Thí dụ nữa là, đường sắt Sài Gòn – Mỹ Tho có từ năm 1885 (ngưng chạy năm 1958). Dân Nam Kỳ kêu và đặt tên là “xe lửa” là từ chuẩn.

Xe vì nó chạy trên bộ, nhưng nó chạy bằng đường ray sắt và đầu máy hơi nước phun ra khói lửa nên kêu là xe lửa, trúng bài.

Sân bay Tân Sơn Nhứt xây ở Nam Kỳ đầu tiên, dân Nam Kỳ kêu sân bay là phi trường, phi cơ, phi công.

Không biết vì sao từ máy bay thành tàu bay, từ xe lửa thành tàu hỏa?

Bắc thời đó là xứ kém văn minh, bị bỏ quên, tới những năm 1900 vì toàn quyền Paul Doumer muốn lấy Hà Nội làm bàn đạp tấn công qua Vân Nam nên mới dời thủ đô từ Sài Gòn về Hà Nội và bắt đầu xây hạ tầng.

Nên nhớ thống đốc Nam Kỳ Charles Le Myre de Vilers và ông Paul Blanchy, Chủ tịch Hội đồng quản hạt Nam Kỳ đều chống đối chuyện đem ngân sách Nam Kỳ đầu tư ra Bắc.

Hà Nội toàn đi sau Nam Kỳ.

Nam Kỳ định hình, khái niệm xe lửa, dầu hôi, xe hơi, phi trường, phi cơ là của người Nam đặt ra đầu tiên.

Bắc đi sau nhưng rất khoái dạy đời, sửa chữ.

Sửa sạch sẽ, từ “nhựt” thành nhật, “bịnh” thành bệnh, “bổn” thành bản, “lộ” thành đường, “nhứt” thành nhất, “bịnh” thành “bệnh”, “dòng” thành “giòng”….

Cái gì mà tàu bay, tàu hỏa, cảng hàng không, dầu hỏa?

Và nay lại sửa chữ Quốc Ngữ theo âm Bắc, dám nói đọc kiểu Nam là sai? Bắc đứng ở chuẩn nào mà dám nói mình chuẩn nhứt?

Trong gần 100 năm dân Nam Kỳ chỉ biết có Paris mà không nhớ Huế chứ đừng nói tới Hà Nội.

Vua Nguyễn chỉ là một chút hoài niệm của người Nam Kỳ. Dân Nam Kỳ chỉ biết có Thống Đốc, quan chủ tỉnh, chủ quận, đốc phủ sứ, ông hội đồng.

Thành ra giai đoạn Quốc Gia VN, Quốc trưởng Bảo Đại đâu có ở Sài Gòn lâu, ông thích ở Đà Lạt nhiều hơn, ông thích ở bên Pháp, bên Cannes nhiều hơn VN.

Đến độ lúc bị ông Ngô Đình Diệm làm trưng cầu dân ý lật đổ mà Bảo Đại có mặt ở Sài Gòn đâu.

Quốc trưởng Bảo Đại dính với Nam Kỳ nhờ lấy bà Nam Phương hoàng hậu, nếu soi kỹ ông không có dấu ấn nào với đất Nam Kỳ Lục Tỉnh.

Quốc trưởng Bảo Đại không đủ uy tín để cầm đầu đất Nam Kỳ.

Sử dạy cho chúng ta trước nhứt là kinh nghiệm vì lịch sử không chỉ có quá khứ, sử nối liền quá khứ với hiện tại và tạo ra nền tảng tương lai.

Bạn nhìn quá khứ, cảm nhận hiện tại, hiểu hiện tại và hình dung ra tương lai, hết thảy nó đi theo một quy luật nhứt quán.

Lịch sử chánh trị Việt Nam xưa nay là lịch sử của biến động, chánh trị của binh đao, máu và nước mắt.

Nhứt là khi xuất hiện xứ Đàng Trong, xứ Nam Kỳ thì người Bắc hết còn vai trò “độc quyền” trong chánh trị nữa, sĩ phu Bắc Hà không thể khua môi múa mép nữa.

Nam, Bắc, ta có nhiều điều vui và buồn từ ngày đó.

Sài Gòn là đô thành, đẹp tuyệt vời, đẹp từ những cái tên đường.

Một nhạc sĩ đã viết rằng:

“Cùng nhau đi tới Saigon

Cùng nhau đi tới Saigon

Thủ đô yêu dấu nước Nam tự do

Dừng chân trên bến Cộng Hòa

Người Trung Nam Bắc một nhà

Về đây chung sống hát khúc hoan ca”

Xin ghi nhớ Trần Đại Định, Võ Tánh,Tả Quân Lê Văn Duyệt, Trương Tấn Bửu, Võ Di Nguy,Cha Cả Bá Đa Lộc, Lê Quang Định,Trịnh Hoài Đức, Tôn Thọ Tường, Trương Vĩnh Ký, Huỳnh Tịnh Của, Hui Bon Hoa, Quách Đàm… đã ghi dấu ấn ở đất này.

Đất Miền Nam là đất dân chủ, tự do, biết vị nhân tâm, hễ ai theo luật chơi thì cứ ở lại.

Người Miền Nam không bao giờ nhìn họ hàng xa, cũng không bao giờ lấy số đông dòng họ ra “đè” người ta.

Người Miền Nam không quan trọng huyết thống kiểu “Một giọt máu đào hơn ao nước lã”.

Ai cũng biết câu đặc tánh Miền Nam “Bán bà con xa mua láng giềng gần”. Đi đám hay đi ra dường tự dưng có người lạ hoắc xấn xổ nhào lại nhìn bà con xa thì người ta sẽ cảnh giác liền, muốn cái gì đây?

Miền Nam cũng như Huê Kỳ là một hợp chúng quốc tứ xứ, ai có khả năng, tôn trọng luật chơi, biết giữ đạo lý, biết giữ quyền lợi là cứ chơi.

Vũ Tài Lục nói rằng: “Không đọc sử không đủ tư cách nói chuyện chánh trị” nên chúng ta phải siêng tìm sử.

Và thêm một câu nữa xin góp là: “Hãy đọc sử với tư cách của người tử tế”.

Lịch sử dân tộc này khá phức tạp, Nam Bắc vốn đã từng là hai quốc gia riêng và cách suy nghĩ cũng có nhiều khác biệt.

“Tinh hoa” Bắc V gì mà “tụ lại”, “dồn vào” khi mà văn hóa, cách sống, hát xướng, cấu trúc xóm làng, cúng tế, lễ nghi Nam Bắc đều khác nhau.

Bà bóng và cách thức lên đồng Nam Bắc cũng khác nhau mà.

Nội ẩm thực, ăn uống cũng khác nhau nữa. Hãy nhớ, đoàn kết là sự tôn trọng, tử tế chứ không phải dạy đời và áp đặt.

Không bàn tới yêu hay ghét kiểu lý tính, không nói ý thức hệ, bỏ hết, cũng không làm “phản động” như người ta hay nói, cứ nhìn lịch sử thôi và so sánh, ai không dám nhìn là đã thua nặng.

Lịch sử rất công bằng, nếu cứ cố níu kéo, cứ phá, cứ làm nó nát bấy tất sẽ có sự trừng phạt, khi đó còn tàn khốc hơn trong thực tế.

Lịch sử đã cho người đọc sử thấy rõ ràng là xứ Bắc thời cuối nhà Lê trung hưng đã rất uể oải và không còn cái gì thì lấy đâu ra “tinh hoa” xuôi Nam. Khi mà Lê Chiêu Thống ôm Tàu về, khi mà một anh “sơn dã” người phía nam sông Gianh như Nguyễn Huệ vô Thăng Long, một anh buôn trầu như Nguyễn Nhạc nhìn vua tôi nhà Lê khinh khỉnh coi thường trước hình ảnh ông vua già tàn tạ Lê Hiển Tôn lê lết lấy hơi lên sắp chết.

Thiệt là dở khi cố đào mồ mả tìm cho ra huyết thống. Để làm gì? Mọi sự là con người thực tại, là đầu óc thực tại, nó không phải chỉ là quá khứ.

Không ai cạp quá khứ ra ăn hoài để no bụng.

Thế giới văn minh luôn xiển dương sự tôn trọng nhau, có tôn trọng mới hiểu biết được.

NGUYỄN GIA VIỆT

 Ghi chú: Nên đọc thêm ” Khẩn Hoang Miền Nam” của Sơn Nam để hiểu về đất phương Nam. (Phùng Văn Phụng)

Cây kim may – Đào Hiếu

Nhân vụ rùm beng “Việt Nam sắp sản xuất ô-tô-con hiện đại” do ông chủ mì ăn liền làm sếp, tôi xin kể lại câu chuyện về cây kim may mà tôi từng là người trong cuộc. Chuyện kể rằng:

Ngày xửa ngày xưa, vào khoảng năm 1978, 1979 gì đó, khi còn làm phóng viên báo Tuổi Trẻ tôi được (hay bị) đưa đi “vô sản hoá” tại nhà máy Sinco ở Sàigòn.

Nhà máy này vốn của chế độ cũ để lại, chuyên sản xuất máy may lấy hiệu là Sinco. Khi các “tồng chí” tiếp quản được ít lâu thì hết mẹ nó phụ tùng nên đếch hoạt động được.

Lúc tôi đến xin làm công nhân ở đó thì thấy Giám đốc cùng mấy anh kỹ sư, thợ tiện, thợ phay, thợ nguội… đang ngồi bàn cách phục hồi hoạt động của nhà máy, để chế tạo cho được một cái máy may mang thương hiệu Việt Nam chính cống.

Các linh kiện của một chiếc máy may bàn đạp khá đơn giản nên không bàn tới. Mọi người đều tập trung nghiên cứu làm cái ổ thuyền, vì đó là bộ phận khó làm nhất.

Muốn làm cái ổ thuyền phải qua rất nhiều công đoạn: thiết kế bản vẽ, chọn nguyên liệu. Sau đó là thi công: những thợ phay, thợ tiện, thợ mài… giỏi nhất làm đi làm lại nhiều lần, rồi tới thợ nguội đo đạc chính xác từng “zem”, rồi đánh bóng, kiểm tra… rồi cho chạy thử.

Sau nhiều lần trục trặc, chiếc máy may nhãn hiệu Sinco do Việt Nam sản xuất cũng ra đời. Tuy nhiên hôm họp báo công bố sản phẩm, giám đốc nhà máy đã làm tôi ngạc nhiên khi nói:

“Thưa các đồng chí, chúng tôi có thể tự hào tuyên bố rằng chúng ta đã sản xuất được một chiếc máy may hoàn chỉnh trừ… cây kim!”

Bỏ mẹ! Tôi nghĩ thầm, cái ổ thuyền khó như vậy mà còn làm được, sao cây kim lai chịu thua?!

Kể từ đó đến nay, cái sản phẩm đầy tâm huyết, đầy tim óc của tập thể giám đốc, kỹ sư, công nhân nhà máy Sinco, cái “niềm thự hào thương hiệu Việt Nam” kia biến mất tăm và nhà máy Sinco chắc cũng đã bị phù phép thành cái quỷ quái gì rồi.

Bốn mươi năm sau, tôi gặp một cô bé công nhân trên xe buýt, nó nói:

-Con làm trong một nhà máy của Nhật tại khu chế xuất Tân Thuận.

-Chế cái gì?

-Cái kim may

Thưa quý vị,

Như vậy là cho đến năm 2018 này. Sau 40 năm, Việt Nam chúng ta cũng chưa chế tạo được cái kim may. Và cái máy may Sinco (không có kim) mà Việt Nam chế tạo được chắc cũng đang nằm trong viện bảo tàng!

Không phải nòi giống ta đần độn. Không phải dân tộc ta lười biếng…

Vậy thì vì cái gì?

Bà Phạm Chi Lan, chuyên gia kinh tế từng nói:

“Thế giới gồm nước phát triển, nước đang phát triển, nước chậm phát triển nhưng Việt Nam có lẽ là mô hình đặc biệt nhất. Đó là nước… không chịu phát triển! Đầu tư nhiều đến thế, ODA nhiều đến thế (20 năm qua lượng ODA đổ vào Việt Nam lên tới gần 90 tỉ USD) nhưng đến bây giờ vẫn không phát triển được thì chỉ có thể là… không chịu phát triển!”

Sao vậy?

Vì thực ra “Đảng ta” không có khả năng lãnh đạo đất nước. Và vì chẳng biết làm cái cóc khô gì cả nên họ đã chọn công việc dễ nhất và hiệu quả nhất là tham nhũng.

Bây giờ tới chuyện “sản xuất ô-tô hiện đại” xem ra cũng chỉ là lắp ráp theo dây chuyền công nghệ và linh kiện của nước ngoài.

Chuyện đó cũng chẳng mới mẻ gì vì Toyota. Huyndai, Fiat, Samsung, Sony… đã và đang làm.

Tôi ủng hộ anh bạn Mì Gói và cầu chúc anh thành công. Nhưng tôi muốn anh hiểu rằng đừng khoác lác. Đừng nổ. Vì nó rất kỳ!

Con đuòng còn dài lắm, chúng ta còn phải học hỏi nhiều, nhiều, nhiều, nhiều lắm.

Rất mong chúng ta đừng quên câu chuyên về nhà máy Sinco.

Họ đã cố gắng hết sức để làm cho được cái ổ thuyền vậy mà còn cái kim may cho đến giờ vẫn chưa làm được, đủ hiểu con đường công nghiệp gian khổ đến nhường nào!

Cây kim may –

Đào Hiếu

ngày 3/10/2018

LeVanQuy sưu tầm 

Rúng động cung đình Cộng sản

Rúng động cung đình Cộng sản

Lê Văn Đoành

15-7-2022

Nhiều người dự báo, đại hội lần thứ 13 của đảng CSVN là con số “tử”, không tốt, sẽ lắm nhiễu nhương. Thực tế xảy ra đúng vậy.

Từ sau đại hội 13 đến nay, Bộ Chính trị đã kỷ luật 50 cán bộ diện Trung ương quản lý, trong đó có 8 Ủy viên, cựu Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, 20 sĩ quan cấp tướng trong lực lượng vũ trang. Hàng loạt Uỷ viên Trung ương bị kỷ luật đảng, bị cách chức, khai trừ, bị khởi tố bắt giam, như: Nguyễn Thành Phong, Trần Văn Nam, Nguyễn Thanh Long, Chu Ngọc Anh…

Tất nhiên con số nêu trên chưa dừng lại ở đó, khi mà cuộc thanh trừng nội bộ và tranh giành quyền lực trong hàng ngũ lãnh đạo cấp cao của đảng đang đến hồi “một mất một còn”.

***

Trong hai ngày 12 và 13-7-2022, tại thành phố Nam Ninh, khu tự trị dân tộc Choang, Quảng Tây, Trung Quốc, ông Phạm Bình Minh, Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ, đã cùng Vương Nghị, Ủy viên Quốc vụ, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Trung Quốc đồng chủ trì Phiên họp lần thứ 14 Ủy ban chỉ đạo hợp tác song phương Việt Nam – Trung Quốc. Thế nhưng tin nội bộ “rò rỉ” cho biết, Phạm Bình Minh đang tìm kiếm sự ủng hộ từ các đồng chí “bạn vàng” bên kia biên giới vì sinh mạng chính trị của ông ta đang bị đe doạ.

Từ Trung Quốc trở về, Phạm Bình Minh phải dự cuộc họp Bộ Chính trị do Nguyễn Phú Trọng chủ toạ vào chiều 14-7-2022.

Nội dung cuộc họp gói gọn trong vấn đề nhân sự:

– Nguyễn Hòa Bình, Uỷ viên Bộ Chính trị, Chánh án tối cao, làm Bí thư thành uỷ Hà Nội

– Trần Sỹ Thanh, Uỷ viên Trung ương, Tổng Kiểm toán Nhà nước, làm Chủ tịch UBND TP Hà Nội

– Ngô Văn Tuấn, Uỷ viên Trung ương, Bí thư Tỉnh ủy Hòa Bình làm Tổng Kiểm toán Nhà nước

– Nguyễn Văn Thể, Uỷ viên Trung ương, Bộ trưởng GTVT, làm Phó Trưởng ban Kinh tế Trung ương

– Trần Văn Sơn, Uỷ viên Trung ương, Bộ trưởng Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ (VPCP), làm Bộ trưởng GTVT

– Nguyễn Xuân Ký, Uỷ viên Trung ương, Bí thư Tỉnh ủy Quảng Ninh, làm Bộ trưởng Chủ nhiệm VPCP

– Đào Hồng Lan, Uỷ viên Trung ương, Bí thư Tỉnh ủy Bắc Ninh, giữ quyền Bộ trưởng Bộ Y tế

Bộ đôi Nguyễn Hoà Bình (trên) và Trần Sỹ Thanh (dưới). Ảnh trên mạng

Tại cuộc họp này, Ủy ban kiểm tra Trung ương yêu cầu xem xét kỷ luật các ông:

– Phó Thủ tướng Phạm Bình Minh do liên can trách nhiệm Vụ án “Đưa và nhận hối lộ tại Cục lãnh sự Bộ Ngoại giao” liên quan đến các chuyến bay “giải cứu”.

– Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam liên quan đến hàng loạt sai phạm trong ngành y tế, giáo dục và vụ án test kit Việt Á.

– Đinh Tiến Dũng, Bí thư thành uỷ Hà Nội, sai phạm giai đoạn làm Bí thư Ban cán sự Đảng, Bộ trưởng Tài chính nhiệm kỳ 2016-2021 về quy chế làm việc, công tác cán bộ, chính sách, quản lý, sử dụng vốn vay và ngân quỹ nhà nước; thiếu lãnh đạo, chỉ đạo thanh tra, kiểm tra đối với Ủy ban Chứng khoán Nhà nước và các Sở Giao dịch chứng khoán.

Như vậy số phận của một số Uỷ viên Bộ Chính trị, Uỷ viên Trung ương khoá 13 đã được định đoạt.

– Phạm Bình Minh có thể nhận mức kỷ luật “khiển trách”, vẫn yên vị đến hết nhiệm kỳ. Tuy nhiên, cuộc đua vào “tứ trụ” khoá 14 của ông Phạm Bình Minh xem như đã hết.

– Đinh Tiến Dũng tội nặng hơn, sẽ nhận mức “cảnh cáo”, bay chức Bí thư Hà Nội, sẽ bị điều về Học viện Chính trị quốc gia làm “tham mưu” cho Nguyễn Xuân Thắng.

– Vũ Đức Đam cũng sẽ nhận mức “khiển trách” để ngồi đến hết nhiệm kỳ, sau đó về đuổi gà.

– Nguyễn Văn Thể, người trước đây suýt bị khởi tố hình sự vì liên can đến Út “trọc” và công ty Yên Khánh, nay sẽ được điều về làm Phó Trưởng ban Ban kinh tế Trung ương, trám chỗ Nguyễn Thành Phong, kẻ sẽ bị khởi tố, bắt giam trong nay mai.

Sau nhiều đồn đoán, tranh chấp đến nỗi Uỷ ban MTTQ Hà Nội phải gây sức ép, đề nghị Thành uỷ Hà Nội kiến nghị Bộ Chính trị chốt nhân sự Chủ tịch UBND TP đang bỏ trống. Và chiếc ghế trống nay đã có chủ. Ngồi vào đó là Trần Sỹ Thanh, Uỷ viên Trung ương khoá 13, Tổng kiểm toán nhà nước.

Giấy mời họp của Thành ủy Hà Nội lúc 3h chiều nay. Ảnh: Lê Văn Đoành

Trần Sỹ Thanh là cháu của cựu Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng. Cha của Trần Sỹ Thanh và Nguyễn Sinh Hùng là anh em cô cậu ruột.

Trần Sỹ Thanh sinh năm 1971, tốt nghiệp đại học Tài chính kế toán Hà Nội. Trong vòng 18 năm (từ năm 2004 – 2022) ông Thanh đã kinh qua 18 chức vụ quan trọng. Nhưng thực tế, ông ta chẳng tài cán gì, chỉ là bác Nguyễn Sinh Hùng đã đưa cháu mình đi “tráng men” trên khắp các tỉnh thành cả nước.

***

Nhà nước cộng sản luôn rêu rao đây là “nhà nước của dân, do dân, vì dân”, họ công kích chế độ phong kiến, nhưng thật ra, họ còn kinh hơn chế độ phong kiến rất nhiều. Câu ca dao xưa vẫn đúng trong chế độ cộng sản:

“Con vua thì lại làm vua/ Con sãi ở chùa thì quét lá đa”.

Bao giờ dân nổi can qua? Ngày đó sẽ đến rất gần. Nhìn Sri Lanka, khi mà tổng thống cùng gia đình bỏ chạy như những tên cướp, thì chắc chắn những người cộng sản đang run sợ, không biết lúc nào phong ba bão tố sẽ đến với họ.

Đảng CSVN lo sợ là phải, khi mà càng cố cũng cố quyền lực, càng thối nát rệu rã từ trung ương đến địa phương.