Rúng động cung đình Cộng sản

Rúng động cung đình Cộng sản

Lê Văn Đoành

15-7-2022

Nhiều người dự báo, đại hội lần thứ 13 của đảng CSVN là con số “tử”, không tốt, sẽ lắm nhiễu nhương. Thực tế xảy ra đúng vậy.

Từ sau đại hội 13 đến nay, Bộ Chính trị đã kỷ luật 50 cán bộ diện Trung ương quản lý, trong đó có 8 Ủy viên, cựu Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, 20 sĩ quan cấp tướng trong lực lượng vũ trang. Hàng loạt Uỷ viên Trung ương bị kỷ luật đảng, bị cách chức, khai trừ, bị khởi tố bắt giam, như: Nguyễn Thành Phong, Trần Văn Nam, Nguyễn Thanh Long, Chu Ngọc Anh…

Tất nhiên con số nêu trên chưa dừng lại ở đó, khi mà cuộc thanh trừng nội bộ và tranh giành quyền lực trong hàng ngũ lãnh đạo cấp cao của đảng đang đến hồi “một mất một còn”.

***

Trong hai ngày 12 và 13-7-2022, tại thành phố Nam Ninh, khu tự trị dân tộc Choang, Quảng Tây, Trung Quốc, ông Phạm Bình Minh, Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ, đã cùng Vương Nghị, Ủy viên Quốc vụ, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Trung Quốc đồng chủ trì Phiên họp lần thứ 14 Ủy ban chỉ đạo hợp tác song phương Việt Nam – Trung Quốc. Thế nhưng tin nội bộ “rò rỉ” cho biết, Phạm Bình Minh đang tìm kiếm sự ủng hộ từ các đồng chí “bạn vàng” bên kia biên giới vì sinh mạng chính trị của ông ta đang bị đe doạ.

Từ Trung Quốc trở về, Phạm Bình Minh phải dự cuộc họp Bộ Chính trị do Nguyễn Phú Trọng chủ toạ vào chiều 14-7-2022.

Nội dung cuộc họp gói gọn trong vấn đề nhân sự:

– Nguyễn Hòa Bình, Uỷ viên Bộ Chính trị, Chánh án tối cao, làm Bí thư thành uỷ Hà Nội

– Trần Sỹ Thanh, Uỷ viên Trung ương, Tổng Kiểm toán Nhà nước, làm Chủ tịch UBND TP Hà Nội

– Ngô Văn Tuấn, Uỷ viên Trung ương, Bí thư Tỉnh ủy Hòa Bình làm Tổng Kiểm toán Nhà nước

– Nguyễn Văn Thể, Uỷ viên Trung ương, Bộ trưởng GTVT, làm Phó Trưởng ban Kinh tế Trung ương

– Trần Văn Sơn, Uỷ viên Trung ương, Bộ trưởng Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ (VPCP), làm Bộ trưởng GTVT

– Nguyễn Xuân Ký, Uỷ viên Trung ương, Bí thư Tỉnh ủy Quảng Ninh, làm Bộ trưởng Chủ nhiệm VPCP

– Đào Hồng Lan, Uỷ viên Trung ương, Bí thư Tỉnh ủy Bắc Ninh, giữ quyền Bộ trưởng Bộ Y tế

Bộ đôi Nguyễn Hoà Bình (trên) và Trần Sỹ Thanh (dưới). Ảnh trên mạng

Tại cuộc họp này, Ủy ban kiểm tra Trung ương yêu cầu xem xét kỷ luật các ông:

– Phó Thủ tướng Phạm Bình Minh do liên can trách nhiệm Vụ án “Đưa và nhận hối lộ tại Cục lãnh sự Bộ Ngoại giao” liên quan đến các chuyến bay “giải cứu”.

– Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam liên quan đến hàng loạt sai phạm trong ngành y tế, giáo dục và vụ án test kit Việt Á.

– Đinh Tiến Dũng, Bí thư thành uỷ Hà Nội, sai phạm giai đoạn làm Bí thư Ban cán sự Đảng, Bộ trưởng Tài chính nhiệm kỳ 2016-2021 về quy chế làm việc, công tác cán bộ, chính sách, quản lý, sử dụng vốn vay và ngân quỹ nhà nước; thiếu lãnh đạo, chỉ đạo thanh tra, kiểm tra đối với Ủy ban Chứng khoán Nhà nước và các Sở Giao dịch chứng khoán.

Như vậy số phận của một số Uỷ viên Bộ Chính trị, Uỷ viên Trung ương khoá 13 đã được định đoạt.

– Phạm Bình Minh có thể nhận mức kỷ luật “khiển trách”, vẫn yên vị đến hết nhiệm kỳ. Tuy nhiên, cuộc đua vào “tứ trụ” khoá 14 của ông Phạm Bình Minh xem như đã hết.

– Đinh Tiến Dũng tội nặng hơn, sẽ nhận mức “cảnh cáo”, bay chức Bí thư Hà Nội, sẽ bị điều về Học viện Chính trị quốc gia làm “tham mưu” cho Nguyễn Xuân Thắng.

– Vũ Đức Đam cũng sẽ nhận mức “khiển trách” để ngồi đến hết nhiệm kỳ, sau đó về đuổi gà.

– Nguyễn Văn Thể, người trước đây suýt bị khởi tố hình sự vì liên can đến Út “trọc” và công ty Yên Khánh, nay sẽ được điều về làm Phó Trưởng ban Ban kinh tế Trung ương, trám chỗ Nguyễn Thành Phong, kẻ sẽ bị khởi tố, bắt giam trong nay mai.

Sau nhiều đồn đoán, tranh chấp đến nỗi Uỷ ban MTTQ Hà Nội phải gây sức ép, đề nghị Thành uỷ Hà Nội kiến nghị Bộ Chính trị chốt nhân sự Chủ tịch UBND TP đang bỏ trống. Và chiếc ghế trống nay đã có chủ. Ngồi vào đó là Trần Sỹ Thanh, Uỷ viên Trung ương khoá 13, Tổng kiểm toán nhà nước.

Giấy mời họp của Thành ủy Hà Nội lúc 3h chiều nay. Ảnh: Lê Văn Đoành

Trần Sỹ Thanh là cháu của cựu Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng. Cha của Trần Sỹ Thanh và Nguyễn Sinh Hùng là anh em cô cậu ruột.

Trần Sỹ Thanh sinh năm 1971, tốt nghiệp đại học Tài chính kế toán Hà Nội. Trong vòng 18 năm (từ năm 2004 – 2022) ông Thanh đã kinh qua 18 chức vụ quan trọng. Nhưng thực tế, ông ta chẳng tài cán gì, chỉ là bác Nguyễn Sinh Hùng đã đưa cháu mình đi “tráng men” trên khắp các tỉnh thành cả nước.

***

Nhà nước cộng sản luôn rêu rao đây là “nhà nước của dân, do dân, vì dân”, họ công kích chế độ phong kiến, nhưng thật ra, họ còn kinh hơn chế độ phong kiến rất nhiều. Câu ca dao xưa vẫn đúng trong chế độ cộng sản:

“Con vua thì lại làm vua/ Con sãi ở chùa thì quét lá đa”.

Bao giờ dân nổi can qua? Ngày đó sẽ đến rất gần. Nhìn Sri Lanka, khi mà tổng thống cùng gia đình bỏ chạy như những tên cướp, thì chắc chắn những người cộng sản đang run sợ, không biết lúc nào phong ba bão tố sẽ đến với họ.

Đảng CSVN lo sợ là phải, khi mà càng cố cũng cố quyền lực, càng thối nát rệu rã từ trung ương đến địa phương.

 STTD Tưởng Năng Tiến – Gia Tài Của Đảng

 STTD Tưởng Năng Tiến – Gia Tài Của Đảng

Tôi vừa được biết thêm (chút xíu) về sinh hoạt của giới thanh niên/sinh viên hiện nay, qua trang mạng của HaNoi University of Industry:

“Trong các ngày từ 22/4 đến 24/4/2022, đoàn cán bộ Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội đã tổ chức tham quan, dâng hương tại các ‘địa chỉ đỏ’ – địa danh lịch sử cách mạng tại dải đất miền Trung …  Đây là hoạt động vô cùng ý nghĩa của Đại học Công nghiệp Hà Nội trong những ngày tháng tư lịch sử.

Đến với các ‘địa chỉ đỏ’ trong những ngày này, các thế hệ cán bộ, viên chức được trở về với lịch sử hào hùng của dân tộc, cảm nhận sâu sắc hơn sự hy sinh anh dũng, lòng yêu nước và ý chí cách mạng của các thế hệ đi trước.”

Sao mà phải ra tới tuốt miền Trung, xa xôi dữ vậy kìa? Ngay tại Sài Gòn, “những địa chỉ đỏ” cũng đâu có ít. Báo Thanh Niên cho biết:

Bên phải góc đường Hai Bà Trưng – Lý Chính Thắng (TP.HCM) có một “địa chỉ đỏ” của chiến dịch Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mu Thân 1968. Đó là quán phở Bình nổi tiếng của vợ chồng ông Ngô Toại (Ngô Duy Ái).

Vì có vị trí chiến lược nên ngôi nhà số 7 Yên Đỗ (Lý Chính Thắng hiện nay) từ năm 1967 đã được chủ nhân cho cách mạng sử dụng làm cơ sở bí mật của Sở Chỉ huy tiền phương phân khu 6, tập kết các chiến sĩ biệt động để trực tiếp tham gia chiến đấu…

Ông Ngô Văn Lập, con trai ông Ngô Toại, nhớ lại: “Khi đó tôi mới 12 tuổi. Từ 20 tháng chạp năm 1968, mỗi khi có ai đến ăn phở đáp đúng mật khẩu theo quy định là tôi đưa họ lên tầng 2 cho các chú cấp cao …

Ngày 16.11.1998, ngôi nhà số 7 Lý Chính Thắng (quán phở Bình) được Bộ Văn hóa trao bằng xếp hạng di tích lịch sử cấp quốc gia, trở thành niềm vinh dự cho gia đình ông Ngô Toại…Mang mấy tập hồ sơ dày cộp ra bàn, ông Ngô Văn Lập đưa chúng tôi xem bằng khoán điền thổ, trong tờ lược giải ngày 4.8.1967 có ghi rõ việc sang nhượng của chủ cũ cho ông bà Ngô Toại – Trần Thị Mỵ với giá tiền tương đương 3.600 lượng vàng.

Sau này, cả ba anh em tôi đều đi bộ đội, tham gia chiến trường Campuchia. Giải ngũ, tụi tôi về tiếp quản tiệm phở Bình buôn bán cho đến giờ kiếm sống mà không được hưởng chế độ gì. Bao năm qua vất vả, ba hộ gia đình chúng tôi gồm 16 người sinh sống trong khuôn viên quá chật hẹp do dành hết 1 tầng làm khu trưng bày di tích, phải cải tạo bếp ăn cũ ngày xưa để làm nơi trú ngụ.

Tôi bị bệnh nan y không có tiền chạy chữa, mà nhà cửa là di tích quốc gia nên không làm giấy tờ sở hữu hợp pháp để cầm cố ngân hàng vay mượn được. Mỗi khi tôi mang hồ sơ lên phường xin hợp thức hóa đều bị bác vì lý do “nhà đã xếp hạng di tích”, ông Lập bức xúc.

Ông Lập, tất nhiên, không phải là người đầu tiên hay duy nhất “bức xúc” như vậy. Quanh ông thiếu gì những kẻ đồng cảnh ngộ. Cách Phở Bình không xa là một “địa chỉ đỏ” khác – quán Thanh Bò Tơ, của Mẹ Việt Nam Anh Hùng Đỗ Thị Bê, ở Hốc Môn – cũng đang lâm vào trường hợp oái oăm tương tự.

Quán vắng tanh. Hình chụp ghế úp vào bàn (chắc cho đỡ bụi) nhưng vì đây là “di tích quốc gia” nên không sang nhượng được. Trước tình trạng sống dở (chết dở) của chủ nhân, nhà báo Uyên Vũ góp ý:

“Ông Lập cứ xé quách cái quyết định di tích lịch sử đi, đồng thời đập bỏ cái bảng hiệu có ngôi sao vàng to tổ bố chẳng giống ai, rồi cho thuê mặt tiền để người khác kinh doanh những thứ bổ ích và sinh lợi. Chắc chắn ông sẽ có tiền chữa bệnh, có tiền thuê một chỗ khác sống cho thoải mái cuộc đời. Giữ mãi cái vòng kim cô làm gì!”

Rồi ra – có lẽ – cũng sẽ đến lúc chủ nhân của những cái địa chỉ đỏ trên toàn quốc buộc phải hành sử thế thôi (“đập bỏ cái bảng hiệu có ngôi sao vàng to tổ bố chẳng giống aiđi” – mẹ nó, sợ gì?) chứ cứ dính mãi với gia tài của Đảng thì chắc chết, chết chắc.

Tôi hoàn toàn đồng ý với đề nghị thượng dẫn nhưng vẫn còn rất băn khoăn về tình cảnh (thê thảm và bi đát hơn nhiều) của vô số những nạn nhân khác, nhất là phụ nữ. Tuy không có bất động sản bị in dấu (sao vàng) nhưng xác thân của chính họ thì đã mang đủ thứ thương tật về thể lý, cũng như tâm lý, không thể xóa nhòa.

Xin nghe qua mẩu chuyện nhỏ sau, về một cựu thanh niên xung phong – quê ở Nga Sơn, Thanh Hoá – đã từng “tình nguyện” phục vụ tại đường mòn Hồ Chí Minh:

Mỏi chân, chúng tôi rẽ vào một khu biệt thự kín cồng cao tường, vườn cây um tùm rồi ngồi xuống một chiếc ghế dài granito trông sang một vườn hoa nho nhỏ. Mất điện, tiếng máy nổ ầm ì ở trong mỗi biệt thự.

Như có trời xui, cách chúng tôi hai ba mét một phụ nữ ve chai ngồi tựa vào hông chiếc ghế dài trống không. Tôi bảo ngồi lên ghế thì lắc: “Cháu không quen ngồi vào thứ sang”. Cụ bạn bèn đến bên:

– Bây giờ được ở trong các nhà thế này cô có quen không?
– Không ạ!
– Cô thấy nó đẹp không?
– Đẹp… Nhưng cháu chỉ muốn Mỹ nó lại thả bom cho tan hết…

Chúng tôi trố mắt. Không ngờ tới câu trả lời dứt khoát, đanh thép này chút nào.

Người phụ nữ nói tiếp: “Thế hồi đánh nhau đâu có như thế này? Chả là đều nghèo như nhau cả thôi. Bây giờ đấy, đứa ăn chẳng có mà đứa thì sướng quá vua. Biết trước là ra một trời một vực thế này thì chả đi hy sinh làm gì.” (Trần Đĩnh. Đèn Cù II, Westminster, CA: Người Việt, 2014).

François Guillemot còn viết cả một thiên tiểu luận (Trực Diện Với Cái Chết Và Nỗi Đau: Vấn Đề Thanh Niên Xung Phong Trong Chiến Tranh Việt Nam (1950-1975)) về “hàng vạn thân thể phụ nữ bị hủy hoại, tàn phai, tật nguyền, và chao đảo mãi mãi.” Công trình nghiên cứu này đã được Phương Hoà chuyển ngữ, và đăng thành nhiều kỳ trên diễn đàn talawas (*).

Chúng tôi xin phép ghi lại đôi câu để rộng đường dư luận, cùng với ước mong cũng được xem đây như một lời tri ân để gửi đến tác giả và dịch giả:

  • “Họ là những người đi trước mà về sau. Trước những trận đánh, họ luôn luôn đi trước để mở đường, xây dựng chiến tuyến, rồi trực tiếp tham gia chiến đấu, cuối cùng, họ lại chính là những người về sau thu dọn chiến trường, tải thương, chôn cất liệt sĩ.”
  • “Đối với những cựu TNXP tuổi đời chỉ khoảng 20, việc quay về đời sống dân sự ở quê nhà là rất phức tạp. Sự hy sinh, khắc kỷ, dũng cảm trong những năm tháng chiến tranh tương ứng với thương tật, đớn đau và rối loạn tinh thần trong thời gian hòa bình… Những người này trở thành 5 không, sau khi cha mẹ mất đi: ‘không chồng, không con, không nhà, không chế độ, và độc thân.

Thực là một “gia tài đồ sộ” mà “đến đời con chắc chắn chưa trả được” – theo như nhận nguyên văn lời của nhà báo và nhà hoạt động xã hội Nguyễn Lân Thắng, trước khi ông bị bắt giữ vào hôm 05 tháng 7 vừa qua: “Người ta đã phản bội tất cả những gì đã hứa với dân để vun vén cho quần thần, cho gia tộc của họ. Tham nhũng tràn lan, đạo đức băng hoại, tài nguyên kiệt quệ, công nhân làm đĩ, nông dân ăn mày, trí thức hạ mình, tổ quốc lâm nguy, nợ nước ngoài đến đời con chắc chắn chưa trả được”

TNT

(*) Chú thích của talawas: François Guillemot là chuyên viên nghiên cứu tại Trung tâm Nghiên cứu Khoa học Quốc gia (CNRS), phụ trách kho tài liệu Việt Nam tại Viện Nghiên cứu Đông Á (IAO, Lyon, Pháp). Ông lấy bằng tiến sĩ về lịch sử tại Ecole pratique des hautes études (EPHE, Paris) năm 2003. Hiện ông nghiên cứu về những vấn đề văn hoá trong chiến tranh của người Việt, và về chủ nghĩa dân tộc phi cộng sản của người Việt, chẳng hạn như về Đảng Đại Việt. Tiểu luận này được thuyết trình lần đầu tại hội thảo quốc tế, “Bản sắc cơ thể ở Việt Nam: Chuyển hoá và Đa dạng”, tại Ecole normale superieure lettres et sciences humaines, Lyon. Tác giả cảm ơn Christopher E. Goscha, Agathe Larcher, Claire và William J. Duiker, Vatthana Pholsena, Tuong Vu, Edward Miller và Trang Cao đã giúp ông dịch (từ tiếng Pháp sang tiếng Anh) và hiệu đính tiểu luận này để đăng trên Journal of Vietnamese Studies vào mùa thu 2009.

Nguyễn Đức Chung, ví dụ cho ‘hàng gian, hàng giả’ mới… có giá trị!

Nguyễn Đức Chung, ví dụ cho ‘hàng gian, hàng giả’ mới… có giá trị!

Trân Văn

15-7-2022

Ông Nguyễn Đức Chung khi còn là Giám đốc Công an Hà Nội, ngày 20/05/2013. Nguồn: Reuters

Kết quả phiên xử phúc thẩm ông Nguyễn Đức Chung “lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ” chứng minh, hệ thống chính trị, hệ thống công quyền Việt Nam chuyên sản xuất, sử dụng “hàng gian, hàng giả”.

Kết quả phiên xử phúc thẩm ông Nguyễn Đức Chung “lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ” (1) chứng minh, hệ thống chính trị, hệ thống công quyền Việt Nam chuyên sản xuất, sử dụng “hàng gian, hàng giả”.

***

Ông Chung, một… Tiến sĩ Luật, từng là Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương (BCH TƯ) đảng CSVN, Đại biểu Quốc hội, Thiếu tướng công an, Chủ tịch thành phố Hà Nội kiêm Phó Bí thư Thành ủy Hà Nội đã trở thành bị can, rồi là bị cáo trong ba vụ án hình sự. Vụ thứ nhất là “chiếm đoạt tài liệu bí mật nhà nước”. Vụ thứ hai là “lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ”. Vụ thứ ba là “vi phạm quy định về đấu thầu gây hậu quả nghiêm trọng” xảy ra tại Sở Kế hoạch Đầu tư (Sở KHĐT) thành phố Hà Nội.

Ở vụ án đầu tiên, ông Chung bị phạt năm năm tù. Trong vụ án thứ hai, lúc đầu, ông Chung bị phạt tám năm tù nhưng khi phúc thẩm, hệ thống tư pháp giảm cho ông ba năm tù vì đã cùng các đồng phạm “khắc phục hết hậu quả” (tự nguyện bồi thường toàn bộ thiệt hại được xác định là 36,1 tỉ) nên hình phạt chỉ còn ba năm tù (2). Sang vụ án thứ ba, Hội đồng xét xử (HĐXX) sơ thẩm phạt ông Chung ba năm tù nhưng mới đây, HĐXX phúc thẩm giảm cho ông một năm tù.

Theo HĐXX phúc thẩm, sở dĩ hệ thống tư pháp tiếp tục giảm hình phạt cho ông Chung thêm một lần nữa vì đại diện Viện Kiểm sát – nơi nhân danh nhà nước (tập thể đại diện cho nguyện vọng và lợi ích của dân chúng) truy tố những cá nhân vi phạm luật pháp – cho rằng có… “tình tiết mới” để… “giảm hình phạt”Ông Chung vừa bổ sung 85 “tài liệu” là… bằng khen, giấy khen, kỷ niệm chương, huân chương của ông cũng như của… cha mẹ ông,…

Cần lưu ý, ở vụ án thứ hai, ông Chung tự nguyện nộp lại 25 tỉ trong 36,1 tỉ được xác định là thiệt hại do “lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ” để tác động đến việc chọn chế phẩm khử trùng sông rạch, ao hồ nhằm giúp gia đình ông thu lợi từ việc độc quyền nhập cảng – phân phối chế phẩm này (3), nhờ vậy, ông Chung được giảm ba năm tù. Còn trong vụ án thứ ba, dù vẫn là “lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ”để tác động đến việc chọn nhà thầu cung cấp dịch vụ “số hóa” hoạt động của hệ thống công quyền ở Hà Nội, gây thiệt hại cho công quỹ hơn 26 tỉ nhưng hệ thống tư pháp chỉ buộc các thuộc cấp của ông Chung phải nộp tiền bồi thường (tổng cộng hơn sáu tỉ). Ông Chung vừa không phải chịu “trách nhiệm dân sự”, vừa được giảm hình phạt nhờ… “85 ‘tài liệu’ là… bằng khen, giấy khen, kỷ niệm chương, huân chương…” Điều đó có nghĩa là sau hai lần được giảm hình phạt trong ba vụ án mà tổng thiệt hại gây ra cho công quỹ được xác định khoảng 60 tỉ và rũ sạch toàn bộ “trách nhiệm dân sự” bất kể công quỹ vẫn còn tổn thất khoảng 20 tỉ, theo qui định của pháp luật, lúc thụ án (hình phạt tổng hợp từ ba vụ án giờ chỉ còn 12 năm), ông Chung sẽ sớm được xét giảm hình phạt thêm nhiều lần nữa! Khoan bàn đến mức độ công minh của hệ thống tư pháp, chỉ nhìn vào những “tài liệu” được tuyên bố là “tình tiết mới”, chẳng lẽ giá trị của chúng xấp xỉ… 20 tỉ?

***

Cả hệ thống chính trị, hệ thống công quyền, lẫn hệ thống tư pháp, hệ thống truyền thông chính thức đều đã lờ đi yếu tố, ông Chung chỉ từng là Ủy viên BCH TƯ đảng CSVN, Thiếu tướng công an, Chủ tịch thành phố Hà Nội kiêm Phó Bí thư Thành ủy Hà Nội. Ai cũng có thể tính được mức thu nhập bình quân của những cá nhân đảm nhận các vai trò này, thế thì tại sao những hệ thống vừa kể không thắc mắc, vì sao ông Chung có tới 25 tỉ để “khắc phục hậu quả” trong vụ án thứ hai?

Nếu 25 tỉ mà ông Chung đã dùng để “khắc phục hậu quả” trong vụ án thứ hai là do phạm tội mà có, tại sao không điều tra – truy cứu trách nhiệm hình sự của ông Chung vì “tham ô” hay “nhận hối lộ” (hình phạt vốn là chung thân hay tử hình) mà lại chọn “lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ”? Tuy không dễ chứng minh ai đó đã “tham ô” hay “nhận hối lộ” nhưng dựa vào thu nhập bình quân của viên chức với khoản tiền của những cá nhân như ông Nguyễn Đức Chung tự nguyện “khắc phục hậu quả”, có thể kết luận ngay lập tức những viên chức ấy thuộc loại “giàu có bất minh” hay không. Tuy thiên hạ có thể dễ dàng xử lý những viên chức “giàu có bất minh” nhưng Việt Nam thì không bởi theo chủ trương của Bộ Chính trị và BCH TƯ đảng, Quốc hội khăng khăng từ chối làm như thiên hạ: Xem “giàu có bất minh” là tội phạm. Năm 2015, khi sửa Luật Hình sự, Quốc hội gạt bỏ đề nghị xem “giàu có bất minh” là tội phạm theo tinh thần Công ước Chống tham nhũng của Liên Hiệp Quốc (4). Năm 2018, khi sửa Luật Phòng chống tham nhũng, Quốc hội tiếp tục gạt bỏ đề nghị xử lý những viên chức không thể giải trình hợp lý về nguồn gốc tài sản (5). Với tư cách là Ủy viên BCH TƯ đảng, Đại biểu Quốc hội, ông Chung là một trong những cá nhân đã tham gia vào tiến trình vô hiẹu hóa các hình thức xử lý viên chức “giàu có bất minh”.

Đặt những danh hiệu kiểu như… Anh hùng các Lực lượng vũ trang, những phần thưởng kiểu như… Huân chương Bảo vệ tổ quốc Hạng NhấtHuân chương Chiến công Hạng Nhất,… của ông Chung và những tuyên bố kiểu như: Không tử hình viên chức tham nhũng là không công bằng (5) của ông Chung bên cạnh các tình tiết của ba vụ án như đã biết, có thể dễ dàng kết luận ông Chung là “hàng thiệt” hay… “hàng gian, hàng giả”. Không có những danh hiệu, phần thưởng, tuyên bố kiểu đó, ông Chung không thể leo cao, luồn sâu, tự tung, tự tác, gây ra những thiệt hại như vậy. Có lẽ chỉ ở Việt Nam, những chứng cứ chứng minh yếu tố “gian, giả” mới được gom lại để dùng như “tình tiết mới” nhằm giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo! Có lẽ cũng chỉ ở Việt Nam mới có chuyện các viên chức lãnh đạo hệ thống chính trị, hệ thống công quyền, thay vì xin lỗi, nhận trách nhiệm, tự xử vì đã sử dụng “hàng gian, hàng giả” gây họa cho quốc gia, dân tộc thì lại công khai bày tỏ sự đau xót do phải loại bỏ “hàng gian, hàng giả”! Chống tham nhũng không có vùng cấm, không chấp nhận ngoại lệ mà cương quyết không công bố các tờ khai tài sản của viên chức bởi đó là… “vấn đề nhạy cảm”, chỉ khăng khăng chọn xài “hàng gian, hàng giả” vì “gian, giả” không “tự diễn biến, tự chuyển hóa”, không thắc mắc về sự bất toàn của thể chế thì đó là chống thật hay… chống giả?

Chú thích

(1) https://www.24h.com.vn/tin-tuc-trong-ngay/tuyen-an-cuu-chu-tich-ha-noi-nguyen-duc-chung-c46a1377409.html

(2) https://vnexpress.net/ong-nguyen-duc-chung-duoc-giam-3-nam-tu-4478905.html

(3) https://laodong.vn/su-kien-binh-luan/chu-dong-khac-phuc-hau-qua-la-su-khon-ngoan-cua-nguyen-duc-chung-1059583.ldo

(4) http://dantri.com.vn/phap-luat/giau-bat-thuong-co-the-bi-tich-thu-tai-san-1386181152.htm

(5) https://thuvienphapluat.vn/tintuc/vn/thoi-su-phap-luat/chinh-sach-moi/21990/quoc-hoi-thong-qua-luat-phong-chong-tham-nhung-sua-doi

(6) https://vietnamnet.vn/tuong-chung-tham-nhung-thoat-an-tu-thi-khong-cong-bang-239485.html

(7) https://www.tienphong.vn/xa-hoi/tong-bi-thu-ke-khai-tai-san-can-bo-la-van-de-rat-kho-nhay-cam-1286576.tpo

Mafia đỏ Việt Nam

Mafia đỏ Việt Nam

12-7-2022

Đằng sau mỗi tay triệu/tỷ phú đỏ Việt Nam là một thế lực chính trị tại Hà Nội. Cho nên cứ mỗi khi có tranh giành quyền lực là có chuyện một tay triệu/tỷ phú đi tù.

Không biết có ai còn nhớ tay bầu Kiên làm bóng đá đình đám, tự tin và huênh hoang một thời? Anh chàng này vẫn đang ở tù đó thôi.

Riêng bầu Đức cũng ồn ào không kém nhưng có lẽ biết thân, biết phận nên im re dạo này.

Cướp, cưỡng chiếm đất đai. Tàn phá, đốn chặt rừng để thực hiện các dự án tiền tỷ bất chấp môi trường sinh thái bị đe doạ. Kết cấu với nhau để thao túng thị trường chứng khoáng hay kinh doanh bất động sản, phát hành trái phiếu, huy động tiền nhà đầu tư nhằm chiếm đoạt tài sản,… đó chỉ là bề nổi của tản băng tội phạm mà giới mafia tài chính Việt Nam bị truy tố bởi luật rừng, bởi sự thanh trừng lẫn nhau, dưới cái gọi là chống tham nhũng.

Đừng nguỵ biện nói đến sự thành công từ những ý tưởng hơn người của giới tỷ phú Việt Nam. Trong một môi trường tù tội, một cơ chế cứng nhắc và tham nhũng, không thể có tự do sáng tạo để khơi dậy những ý tưởng siêu việt như tại Silicon Valley chẳng hạn.

Hãy thử nhìn lại những ý tưởng của Phạm Nhật Vượng và Elon Musk thì ắt chúng ta sẽ rõ giá trị của sự thành công của họ.

Cái tài của giới tỷ phú đỏ Việt Nam là mánh mung, là xảo trá và biết chớp lấy cơ hội để chiếm đoạt và gây dựng ảnh hưởng chính trị.

Trong một môi trường tiến bộ, đó là tất cả những gì mà xã hội tẩy chay và lên án.

Những Đỗ Anh Dũng (Tân Hoàng Minh) hay Trịnh Văn Quyết (FLC) đang trong tù cũng như tất cả các triệu/tỷ phú Việt Nam khác có thể cũng đang lo lắng chờ đợi đến lượt mình…

Khó có thể hình dung những tay tội phạm kinh tế, tài chính ấy có thể đơn thân hành động, lũng đoạn nền kinh tế và làm giàu một cách bất chính nếu không có sự yểm trợ và bảo kê của các thế lực chính trị đằng sau.

Số tài sản kếch xù được cho là của họ nhưng chắc chắn rằng không ít cũng thuộc về các nhà lãnh đạo cộng sản Việt Nam.

Những khối tàn sản khổng lồ ấy, đôi khi được cướp đoạt từ xương máu và công sức lao động của người dân nghèo, có lẽ cũng đã được tẩu tán ra ngoài, nơi các thiên đường quốc tế về rửa tiền. Bọn tội phạm kinh tế chắc chắn đã toan tính và dự trù những kịch bản tệ hại nhất trong cuộc tranh giành quyền lực này.

Và một khi đã làm giàu một cách bất hợp pháp thì các tranh chấp tài sản, quyền lực sẽ rất tàn bạo và không còn chỗ cho tình đồng chí chuyên chính vô sản gì cả!

Họ thanh trừng nhau, bất chấp đời sống nghèo khổ của người dân lương thiện trong một xã hội đầy bất công và dối trá!

LONG AN: ĐƯỜNG ĐƯA VÀO SỬ DỤNG MỚI KHOẢNG 2 TUẦN THÌ LÚN SÂU TỚI 5 MÉT

*** Những công trình MADE IN CSVN

– LONG AN: SỞ NÔNG NGHIỆP PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN LÀM CHỦ ĐẦU TƯ LÀM ĐƯỜNG NÔNG THÔN – ĐƯỜNG ĐƯA VÀO SỬ DỤNG MỚI KHOẢNG 2 TUẦN THÌ LÚN SÂU TỚI 5 MÉT

Dự án đường liên xã Tuyên Bình Tây – Vĩnh Bình cặp sông Vàm Cỏ Tây do Ban Quản lý dự án nông nghiệp – thuộc Sở NN-PTNT Long An – làm chủ đầu tư. Tuyến đường dài 6 km – mặt đường rộng 4 m – có 1 cây cầu gần 40 m – tổng vốn đầu tư 10 tỉ đồng. Dự án khởi công năm 2021 – vừa hoàn thành đưa vào sử dụng cách đây khoảng 2 tuần. (Trích Thanh Niên)

Tưởng đâu Sở NN&PTNT thì sẽ làm ra các công trình chất lượng – hóa ra còn tệ hơn tư nhân làm….

TL Thoi luan.

 Các nhóm lãnh đạo Việt Cộng dưới nét nhìn của Bà Dương Thu Hương.

Linh hồn cao cả của Thái-Bình đất Bắc hiện có một người …! Biết đâu rồi sẽ có hàng ngàn người…! hàng triệu triệu người từ đất Bắc, Trung, Nam sẽ ” Hành Động.Hành Động…! vì linh hồn của họ chưa bị bán rẻ cho ma quỷ… hay chưa chết và mục nát…!  

Trích một đoạn trong bài của Phạm Bá Hoa:

 Các nhóm lãnh đạo Việt Cộng dưới nét nhìn của Bà Dương Thu Hương.

Thưa quý vị, với nội dung này tôi trích dẫn và tóm lược bài viết trong Wikipedia + bài phỏng vấn của nhà báo Đinh Quang Anh Thái năm 2005 + bài phỏng vấn của Nguyễn Huy Đức năm 2006 + và bài phỏng vấn của Quốc Phương đài BBC năm 2009.

Người được phỏng vấn là bà Dương Thu Hương, người phụ nữ bên thắng cuộc. (Bên Thắng Cuộc là tựa một quyển sách của Huy Đức)

Bà từng là đảng viên đảng cộng sản Việt Nam, bị khai trừ khỏi đảng vào năm 1989.

Năm 1994, Bà được Bộ Trưởng Văn Hoá Pháp -ông Jacques Toubon- trao tặng Huân Chương Văn Hoá Nghệ Thuật (Chevalier des Arts et des Lettre). 

Tháng 4/2006, bà được mời sang Paris (Pháp), sau đó sang New York (Hoa Kỳ) dự hội nghị Văn Bút Quốc Tế.

Xin có đôi lời để mong quý vị thông cảm, sở dĩ tôi giữ nguyên những chữ quá mạnh -nếu không nó là chói tai- khi Bà Dương Thu Hương trả lời phỏng vấn của đài BBC, và sau đó là nhà báo Đinh Quang Anh Thái, vì đó là tính cách của Bà.

Và đây là lời của Bà Dương Thu Hương:

Tôi chào đời năm 1947 tại tỉnh Thái Bình trên đất bắc.

Năm 1955 -lúc ấy 8 tuổi- tôi trong đoàn học sinh tiểu học, do nhà trường dẫn đi dự buổi đấu tố những người bị xếp vào hàng địa chủ trong chiến dịch Cải Cách Ruộng Đất, và bị giết chết ngay tại chỗ.

Tôi thật sự hãi hùng vì những cách giết những người bị đấu tố!

Năm 1967, theo tiếng gọi của nhà nước, tôi trong số 120 bạn học cùng trường, đã cắt máu xin theo đoàn quân vào Nam đánh Mỹ cứu nước, vì những bài học chính trị mà họ đã dạy chúng tôi, thì Mỹ Ngụy rất tàn ác với gười dân trong đó, cho nên người dân rất khổ..   

Năm 1968, tôi theo đoàn quân vào chiến trường miền Nam để cứu dân tộc trong Nam.

Sau những năm tháng bị cuốn vào cuộc chiến đẫm máu, đến tận bây giờ, cuộc chiến đó vẫn ám ảnh tôi. Nhớ lại, số học sinh của cả bốn lớp 10 của trường gồm 120 học sinh chúng tôi vào chiến trường miền Nam.

Sau 7 năm, chiến tranh kết thúc, chúng tôi chỉ còn lại 2 người: Tôi thì bị bom làm tai bên phải bị điếc, còn người kia là cậu Lương bị cụt một tay, và trở nên ngớ ngẩn. 

Chưa hết. Khi tôi đi tìm mộ của những bạn đã chết, tôi mới biết là trong những trận đánh mà chúng tôi thua, thì không lưu lại tên tuổi của bất cứ người nào đã chết, cũng không chôn cất người nào. Và họ giải thích rằng:

“Dân tộc ta là dân tộc anh hùng phải chiến thắng quân thù, nhưng trận này chưa thắng, nên không thể kiểm kê các liệt sĩ được. Cho nên hàng trăm người chết dưới đáy hồ, dưới đáy vực, không cần tìm tung tích”.

Và dấu mốc quan trọng làm thay đổi hoàn toàn cuộc đời tôi, là khi “đoàn quân của bên thắng cuộc” vào Sài Gòn, trưa ngày 30 Tháng Tư 1975.

Từ ngày đó, là ngả rẽ trong đời tôi. Khi mọi người trong đội quân chúng tôi đều hớn hở cười, thì tôi ngồi bên lề đường, và khóc. Tôi khóc, vì thấy tuổi xuân của tôi đã hy sinh một cách oan phí.

Vào Sài Gòn, tôi không choáng ngộp vì nhà cao cửa rộng, vì xe cộ trên đường phố thênh thang, mà tôi choáng ngộp vì những tác phẩm của những nhà văn miền Nam đều được xuất bản trong một chế độ tự do mà tôi không thể tưởng tượng được.

Trong nhà sách, trưng bày vô số những tác phẩm của các tác giả tôi từng biết tên cũng như chưa biết tên, và cả tác phẫm của các tác giả ngoại quốc nổi danh,với nội dung trong các lãnh vực xã hội, đặc biệt là những tác phẫm chính trị, có cả tác phẫm của Karl Marx, Lénine nữa.

Đến các phương tiện truyền đạt tin tức, như Radio, Tivi, Cassette, ..v..v… Những tác phẩm, những phương tiện truyền đạt tin tức, hình ảnh, đối với người dân miền Bắc chúng tôi, chỉ là những giấc mơ không tưởng. 

 Ở miền Bắc chúng tôi, tất cả báo chí, sách vở, đều do nhà nước quản trị. Những cán bộ được đảng tin tưởng, mới được nghe đài phát thanh Trung Quốc. Còn toàn dân chúng tôi chỉ được nghe loa phóng thanh tập thể ở từng khu phố. Tôi muốn nói là, người dân chỉ được nghe một tiếng nói mà thôi.  

 Vào được Sài Gòn, tôi mới hiểu rõ rằng, chế độ ngoài Bắc là chế độ man rợ. Vì nó chọc mù mắt con người, nó bịt lỗ tai mỗi người dân.

Trong khi đó ở miền Nam, mọi người trong xã hội tự do nghe bất cứ thứ đài nào trong nước, và cả đài phát thanh của Pháp, của Anh, của Mỹ, tùy người dân muốn. Ðó mới là chế độ của nền văn minh.

Và thật chua chát, khi nền văn minh đã thua chế độ man rợ.

Sự chống đối mạnh mẽ của Bà, đã đẩy bà vào nhà tù Việt Cộng từ tháng 4 đến tháng 11 năm 1991.

Bà nói tiếp: Năm 1998, trong bài diễn văn tôi đọc ở Đại Hội Nhà Văn, tôi nói rằng: “Đảng cộng sản phải biết ơn nhân dân. Bởi vì xưa nay họ chỉ nói nhân dân phải biết ơn đảng thôi. Tôi phân tích rằng, cả một dân tộc đã đổ xương máu để kháng chiến chống Pháp, và những gì dân tộc đạt được là do truyền thống chống ngoại xâm của dân tộc, nhưng đảng cộng sản đã cướp tất cả công đó, và nhận vơ là công của đảng. Họ còn dậy dỗ quần chúng là phải biết ơn đảng. Hành động như thế vừa đểu cáng, vừa vô ơn bạc nghĩa, và tự cao tự đại. Những kẻ như thế, không xứng đáng để lãnh đạo dân tộc.

Vẫn trong năm 1998, trong một nghị của trí thức Hà Nội, tôi đọc bài diễn văn với tựa  là “Nhân Cách Trí Thức”. Đọc xong, Tổng Bí Thư Nguyễn Văn Linh tỏ ra đắc ý với nội dung, ông ta đến ôm tôi và hôn tôi thắm thiết, đồng thời xin bài diễn văn của tôi. Đến lúc giải lao, người thư ký của ông ta tìm tôi và chuyển đề nghị của ông Linh muốn tặng tôi một căn nhà theo tiêu chuẩn cấp cho hàng Bộ Trưởng. Cùng lúc, người thư ký này muốn tôi im lặng để cho đảng tự cải sửa. Tôi trả lời rằng, tất cả những việc tôi làm là vì dân tộc chứ không phải vì bản thân tôi. Tôi không giàu có, nhưng cũng có một căn nhà đủ để ở. Tôi nhờ ông ta nói với ông Tổng Bí Thư rằng, hiện giờ đang có 20.000 giáo viên tiểu học ở Hà Nội không có nhà để ở, nếu nhà nước có dư nhà thì nên cấp cho họ có chổ ở.

Bà còn nói rằng: Tổng Bí Thư Việt Cộng Nguyễn Văn Linh chửi tôi là “con đỉ chống đảng. Lúc đó tôi nói với một ông trong ban tổ chức đảng rằng, nếu tôi là đĩ thì may cho cái đảng này; nhưng vì tôi không được làm đĩ, nên tất cả năng lực của tôi đều dồn vào việc ỉa vào mặt đảng. Họ đã chửi tôi như vậy thì từ giờ trở đi mọi sự đều rõ ràng, không còn con đường thứ ba nữa. Nghĩa là tôi dấn thân đến cùng trong mục tiêu đấu tranh cho dân chủ.

Tôi chẳng có gì phải kiêng dùng những danh từ mà nhiều người cho là thô bỉ, như là “ỉa vào mặt kẻ cầm quyền”. Vì đó là cách nói thuần của người Việt Nam răng đen mắt toét như tôi. Là ngôn ngữ đích xác của người nông dân, khi họ biểu lộ thái độ khinh bỉ và bất chấp. Tôi hành động như thế là có dự tính, chứ không phải ngẫu hứng. Tôi rất ghét những thứ ngôn ngữ nhờ nhờ nhạt nhạt. Chế độ hiện nay tại Việt Namchỉ sống bằng xác chết thôi. Nó không có giá trị gì trong thời đại này cả. Những người lãnh đạo chế độ hoàn toàn vô năng và tham nhũng”.

“Những kinh nghiệm trong chiến tranh, những chua chát của tháng 4 năm 1975, được Bà gói ghém trong những tác phẩm “Những Thiên Đường Mù”, “Bên Kia Bờ Ảo Vọng”, “Khải Hoàn Môn”, “Đỉnh Cao Chói Lọi”, và  “No Man Land” là bản Anh ngữ, dịch sang tiếng Pháp là “Terre Des Oublis”.

Và đây là nhận định của nhà báo Đinh Quang Anh Thái về bà Dương Thu Hương: “Từ nhận thức trên đây, báo chí Pháp gọi bà là “Con Sói Đơn Độc” ngay giữa bầy sói của mình. Vì hầu như không có người nào trong hàng ngũ lên tiếng đấu tranh cho dân chủ sau năm 1975, mà có lối nói như “chém đinh chặt sắt” như bà. Trong khi Bà tự nhận mình là người đàn bà nhà quê”.     

Nhà báo Đinh Quang Anh Thái nêu câu hỏi: “Bà đã tiêu phí tuổi trẻ trong chiến tranh, để rồi bị chế độ mà bà phục vụ đày đọa vì họ nói bà làm giặc, bản thân bà thì không ai dám giao tiếp vì sợ bị liên lụy. Vậy, có bao giờ bà chùn bước không?”

Bà trả lời: “Không. Không bao giờ chùn bước”.

“Bà có tin vào thuyết nhân quả không?”

Bà trả lời: “Có. Tôi hoàn toàn tin vào thuyết nhân quả. Tôi hoàn toàn tin vào kiếp sau. Khi dậy các con tôi,  tôi không yêu cầu các con tôi phải trở thành bác sĩ, kỹ sư, hay tiến sĩ, mà yêu cầu duy nhất của tôi là các con tôi phải làm con người tử tế trong gia đình, trong xã hội, vì  đạo đức là cốt lõi của con người”.

Nhà báo Đinh Quang Anh Thái nhận định: “Bà Dương Thu Hương có nguyên tắc sống đạo đức rạch ròi, không khoan nhượng. Tôi xin phép biếu bà chút quà, thì Bà quát lên: Tôi không nhận bất cứ vật chất nào của bất cứ ai”.

Thậm chí những bữa ăn tại Paris,  bà giành trả tiền và khẳng định rằng: “Nếu Anh trả tiền thì từ nay đừng  phỏng vấn tôi nữa’.

Câu cuối cùng trong bài viết của Đinh Quang Anh Thái như sau: “Tôi đành bó tay chịu thua “mụ nhà quê mắt toét. Đó là cách mà tôi vẫn gọi bà Hương mỗi khi điện thoại thăm hỏi Bốp chát, bõ bã, không khoan nhượng, chính là Bà Dương Thu Hương. Đạo đức cốt lõi, cũng chính là Bà Dương Thu Hương.

Và bây giờ, “Con Sói Đơn Độc” đã bước vào tuổi 70, vậy mà ngọn lửa đấu tranh cho một tương lai Việt Nam tươi sáng vẫn ngùn ngụt cháy trong trái tim bà.

From: TU-PHUNG

Mạn đàm về người Việt và “văn hóa” ngụy biện

Lê Hoàng Nam

Mạn đàm về người Việt và “văn hóa” ngụy biện

  1. “Nhìn lại mình đi rồi hẵng nói người khác”

Mình làm sai thì là sai rồi, sao lại không nhận sai, không nói thẳng vào vấn đề “mình sai” mà lại quay qua tìm điểm yếu của người khác? Việc này cũng giống như khi nhận được góp ý: “Viết sai chính tả rồi kìa”, thì thay vì sửa sai, bạn lại đốp chát: “Thế mày chưa viết sai bao giờ à?”

  1. “Có làm được gì cho đất nước đâu mà to mồm”

Người ta có làm được gì hay không thì là điều mình chưa biết, hơn nữa bạn đã “lạc đề” rồi. Vấn đề người ta nêu ra thì bạn không trả lời, không đưa ra luận điểm logic, mà lại đi đường vòng, chuyển qua công kích người khác.

  1. “Nó ăn trộm chó thì cứ đánh cho nó chết”

Lập luận này đã khiến cho những kẻ trộm chó vốn không đáng phải chết bị giết chết bởi chính những người dân tưởng chừng “lương thiện” rồi. “Ăn trộm chó” là sai, nhưng “giết người” cũng là sai, hai sai thì không phải là một đúng, mà là sai lại càng sai.

  1. “Làm được như người ta đi rồi hãy nói”

Lại một hình thức “lạc đề”. Luận điểm mà người ta đưa ra thì bạn không xoay quanh mà bàn luận, lại cứ phải công kích cá nhân người khác thì mới vừa lòng sao?

  1. “Nếu không hài lòng thì cút xéo ra nước ngoài mà sinh sống”

Lời nói này không chỉ đánh lạc hướng vấn đề, mà còn rất bất lịch sự, chuyên dùng để làm người đối diện tức giận, chứ chẳng có một chút logic nào trong đó cả.

  1. “Chỉ có những người chân lấm tay bùn từ nhỏ mới là người cần cù chăm chỉ xây dựng đất nước”

Câu khẩu hiệu này đã từng xuất hiện ở Việt Nam trong quá khứ. Người ta có câu “vơ đũa cả nắm”, ấy chính là để chỉ việc lập luận cảm tính, khái quát cảm tính, mà không hề đưa ra logic hợp lý nào cả.

Cũng như vậy, khi phân chia giai cấp và tuyệt đối hóa đấu tranh giai cấp, thì người ta đã mắc sai lầm ngụy biện, ví như chủ đất không nhất định là xấu, chủ doanh nghiệp cũng không nhất định là xấu, và người làm công ăn lương hay nông dân chắc gì đã là một người tốt cần cù chăm chỉ?

  1. “Nước nào mà chẳng có tham nhũng”

Vì nước nào cũng có tham nhũng nên Việt Nam được phép có tham nhũng hay sao? Vì mọi người đều vượt đèn đỏ nên tất nhiên tôi cũng phải vượt đèn đỏ? Vì xã hội thiếu gì nghiện hút nên trong nhà có người hút chích cũng là bình thường?

  1. “Nếu anh là họ mà anh làm được thì hẵng nói”

Đặt mình vào vị trí người khác là một tiêu chuẩn người xưa dùng để tu sửa bản thân, hướng vào bản thân tìm lỗi, là một nét văn hóa rất độc đáo của phương Đông. Tuy nhiên câu nói đó chỉ sử dụng khi một người tự răn mình, chứ không phải là một câu nói dùng trong tranh luận.

Việc sử dụng nó trong tranh luận không chỉ là sự bịt miệng những phê bình của người khác, không giải thích các luận điểm của người khác, mà còn chứng tỏ rằng chúng ta đang phá hoại và lãng quên văn hóa truyền thống của chính mình.

  1. “Tại sao anh dám nói chúng tôi sai? Anh là một tên phản bội dân tộc”

Kiểu lập luận chụp mũ này mặc nhiên coi mình là đúng, họ là sai, và những người đồng quan điểm với họ cũng là sai. Nó không hề đưa ra một thứ logic nào, nhưng lại cắt ngang một cái giới tuyến, và tùy tiện định tội cho người khác.

Tất nhiên đây mới chỉ là những câu ngụy biện cơ bản nhất, thường thấy nhất. “Văn hóa ngụy biện” đã ngày càng xuất hiện thường xuyên hơn, muôn hình vạn trạng, và luôn ẩn giấu trong tư duy của người Việt. Vậy nguyên nhân của thói quen này là từ đâu?

Trong phần nhiều các lỗi ngụy biện thường gặp của người Việt, có một tâm lý cơ bản hiện rõ ra khi tham gia thảo luận, đó chính là tâm tranh đấu, hiếu thắng, và không hề tôn trọng người đối diện. Ngoài đó ra, chúng ta cũng hay bị ảnh hưởng của tâm lý đám đông, lợi dụng tâm lý đám đông để che đi trách nhiệm của bản thân mình.

Muốn tránh cách tư duy ngụy biện, chúng ta không những phải sửa lối tư duy vòng vo, thiếu suy nghĩ, mà còn phải sửa chính từ tâm thái của mình khi trao đổi và luận bàn về mọi việc. Điều cơ bản nhất khi tham gia tranh luận là có trách nhiệm trong lời nói của chính mình và biết tôn trọng người đối diện.

Nguồn: https://tachcaphe.com/man-dam-ve-nguoi-viet-va-van-hoa-ngu…/

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Nguyễn Văn Vàng Bis

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Nguyễn Văn Vàng Bis

Trong những trang sổ tay trước, tôi đã có dịp ghi lại đôi điều về cuộc đời hoạt động của linh mục Nguyễn Văn Vàng (N.V.V) và những ngày tháng cuối cùng của ngài nơi trại kiên giam A 20. Tuần qua, có độc giả nêu câu hỏi: Cha Vàng đã “đột tử” ra sao trong trại tù Xuân Phước, nơi đã từng được mệnh danh là Thung Lũng Chết?

Thực sự, người tù N.V.V không lìa đời một cách đột ngột. Cái chết của ông đã được nhà nước hiện hành “định sẵn,” ngay từ khi ông vừa bị bắt:

“Khoảng tháng 8-1977, Mặt Trận Liên Tôn tức Mặt Trận Quốc Gia Giải Phóng 2 do Linh-mục Nguyễn Văn Vàng lãnh đạo bị bể. Cha Vàng và người em là Thiếu-tá Nguyễn Văn Viên cùng tất cả bộ phận đầu não và những người tham gia tổ chức bị bắt gần 100 người. Thiếu-tá Nguyễn Văn Viên là một trong những người Tiểu Đoàn Trưởng kỳ cựu của Lữ Đoàn Dù VNCH. Cha Vàng bị giam ở xà lim 25 khu C-1 và ông Viên giam ở xà lim 11 khu C-2 tại Phan Đăng Lưu.

 “Thời gian hỏi cung, Cha Vàng và ông Viên được đối xử rất đặc biệt làm ngạc nhiên tất cả tù ở khu C-1 và C-2. Chúng tôi ăn tiêu chuẩn mỗi ngày một khúc khoai mì buổi trưa và 1 chén cơm với nước muối vào buổi chiều, thì Cha Vàng và ông Viên được một tô cơm với thịt hoặc cá và một trái chuối tráng miệng, mỗi ngày trại trưởng đều xuống tận xà lim hỏi han sức khỏe…

 “Sự biệt đãi hai anh em Cha Vàng kéo dài hơn hai tháng cho đến khi kết thúc hỏi cung. Vụ án ra tòa, ông Nguyễn Văn Viên bị tử hình, Cha Vàng và ông Nguyễn Quốc Bảo, Ủy-viên Quân Sự của tổ chức bị kết án chung thân, những người khác trong Bộ Tham Mưu lãnh án 20 năm. Những người không ra tòa bị đưa đi tập trung cải tạo lao động.

“Năm 1982, gặp Cha Vàng ở trại Xuân Phước, tôi hỏi Cha vì sao Cha và ông Viên được “ưu đãi”, Cha Vàng giải thích đó là một thủ đoạn dụ cung rẻ tiền của chấp pháp…” (Nguyễn Chí Thiệp. Trại Kiên Giam. Los Angeles, CA: Sông Thu, 1992).

Thay vì bị tử hình như bào đệ Nguyễn Văn Viên, nhờ vào chức danh tu sỹ và uy tín cá nhân đối với giáo dân nên linh mục N.V.V chỉ bị kết án chung thân. Tuy thế, cái chết của ông thì đã được Cục Quản Lý Trại Giam “sắp sẵn” rồi – theo lời của người bạn chung tù (và cùng chung xà lim biệt giam) cho biết:

“Tết Nguyên Ðán năm 1984, chúng tôi lại trải qua một cuộc “xóa bài làm lại” trong khu biệt giam của Phân trại E thuộc A-20 Xuân Phước, nghĩa là phải thay đổi chỗ ở sau một màn tất cả lần lượt “bị” lùa ra giếng nước ngay bên cạnh ao thả cá rô phi sau khu biệt giam. Trời Tháng Giêng ở thung lũng tử thần lạnh như có ai cầm dao cắt vào da, nhất là khi trời vào tiết Xuân, gió hiu hiu làm lay động hàng dừa trong sân trại.

 “Cái lạnh thiên nhiên cộng với việc thiếu đường và chất béo từ 9 năm qua khiến cho buổi sáng ngày 30 Tết Nguyên Ðán năm 1984 trở thành buổi sáng không thể nào quên được trong đời. Chân tay anh em chúng tôi gần như tê liệt. Linh Mục Nguyễn Văn Vàng đứng như trời trồng trước cửa biệt giam số 5 khi ngài được trật tự mở còng cho đi tắm và làm tổng vệ sinh buồng giam.

“Một tu sĩ Công Giáo nhỏ con, lanh lẹ như một con sóc, nổi tiếng hùng biện và can trường như ngài mà chỉ mới hơn 3 năm bị cùm trong xà lim, thân xác không khác gì người tù Do Thái trong các trại tập trung của Ðức Quốc Xã hồi Thế Chiến Thứ Hai.

“Linh Mục Vàng đứng lên được nhưng không thể nào bước đi được… Tôi được tháo cùm sau Linh Mục Vàng, hai đầu gối tê cứng, thân mình xiêu đổ khi đứng lên và cũng được hai tù hình sự dìu ra giếng nước. Một trong hai tù hình sự đứng kéo nước từ giếng lên để xối cho chúng tôi biết ông Vàng là linh mục nên nói: “Cha ngồi xuống dựa vào bức tường chắn cho đỡ lạnh. Anh cũng vậy. Em kéo nước lên sẽ dội ra ngoài để che mắt bọn nó. Cả hai người yếu quá rồi chỉ nên thay quần áo chứ không thôi thì ở dơ không chết mà chết vì cảm lạnh đấy.” Chúng tôi thấy người tù hình sự này nói có lý nên làm theo.

“Cả hai chúng tôi ngồi cho đến hết giờ tắm để lại được dìu ra khỏi giếng nước đến ngồi ở bờ hè bên bức tường hông nhà bếp nơi có thùng nước nóng mà tù cải tạo đội nhà bếp xin mang ra để phát cho những tù nhân biệt giam ra tắm. Tôi cho ca nước của mình múc một ca, uống hết một nửa, một nửa đưa cho Linh Mục Vàng.

 “Ngài uống hết rồi múc thêm một nửa ca nữa. Tôi hỏi ngài: “Bố vẫn còn khát hả” Ngài trả lời: “Uống phòng xa.” Ðộng từ “phòng xa” anh em chúng tôi dùng để chỉ thời kỳ bị nhục hình bằng chính sách hai muỗng cơm, hai muỗng nước, hai muỗng muối khi chúng tôi bị nhận chìm vào cơn khát của những người đi trong sa mạc nên mỗi khi bị gọi ra “làm việc” phải xin uống cho thật nhiều nước trước lúc bị dẫn trở lại buồng giam rồi đái ra để uống cho đỡ khát.” (Vũ Ánh. Thung Lũng Tử Thần. Westminster, CA: Người Việt Books, 2014).

Tôi cũng đã đi qua đôi ba nhà tù, và cũng có dịp tìm biết qua sách báo/phim ảnh về nhiều loại trại giam ở khá nhiều nơi nhưng chưa thấy nơi đâu (kể cả những trại tập trung của Đức Quốc Xã) mà tù nhân phải uống nước thải để sinh tồn cả. Với “chính sách hai muỗng cơm, hai muỗng nước, hai muỗng muối” mỗi ngày (và tình trạng thường xuyên “bị nhận chìm vào cơn khát của những người đi trong sa mạc”) mà tù nhân vẫn còn có thể sống sót thì mới là chuyện lạ.

Linh mục Nguyễn Văn Vàng lìa đời trong xà lim, tại Trại Kiên Giam A20 vào tháng 4 năm 1985, qua lời tường thuật (và cảm thán) của một người đồng cảnh –  nhà báo Vũ Ánh:

“Cha Vàng lâm bệnh vào lúc sức khỏe của ngài đã quá yếu. Có lẽ ngài đã kiệt sức, sốt cao rồi đi vào hôn mê. Tôi đập cửa kêu cấp cứu suốt ngày, nhưng lúc tên trực trại chịu mở cửa để cho một y sĩ vào khám bệnh, thì mọi việc có vẻ quá muộn…

 “Trước đó, dù yếu và bệnh, ngài đã bàn với tôi là làm sao có được bánh thánh lúc ngài làm lễ nửa đêm trong Noel 1985 mà con chiên duy nhất trước ngài lúc đó lại là một Phật tử như tôi. Nhưng mơ ước của Ngài không thành, kể cả việc lớn trước đó là lập lực lượng võ trang để mong lật ngược lại tình thế của một đất nước vừa chìm đắm trong luồng sóng đỏ.

 “Nhưng dù ngài đã mất đi, trong suy nghĩ của tôi cho đến bây giờ, Linh Mục Nguyễn Văn Vàng vẫn là một ngọn lửa, âm thầm cháy như con cúi vải ngày nào bỗng bùng lên soi sáng cái không gian tăm tối của tất cả những xà lim đang hiện diện trên đất nước Việt Nam.”

Có bao nhiêu tu sỹ (Công Giáo, Phật Giáo, Cao Đài, Hòa Hảo) và bao nhiêu người dân Việt Nam đã bị “giết nguội” trong nhà giam một cách dã man và tàn độc như thế – gần thế kỷ qua – trong chế độ hiện hành?

Trao đổi với với BBC, luật sư Phạm Công Út, trưởng văn phòng luật Phạm Nghiêm phát biểu:

“Một khi kết quả giám định pháp y những vụ này không được công khai và vẫn được xem là ‘bí mật nhà nước’ thì người dân càng hoang mang và hoài nghi không biết chuyện gì sẽ xảy ra khi mình hoặc người thân được mời đến đồn công an.”

Không có nhà nước nào tồn tại mãi, những “bí mật” của mọi chế độ cũng thế. Rồi ra – chắc chắn – sẽ phải có những phiên tòa “muộn” về những cái chết oan khuất và thảm khốc của linh mục Nguyễn Văn Vinh (1971), thượng tọa Thích Thiện Minh (1978), linh mục NVV… Quá khứ cần phải được thanh thỏa để hậu thế có thể an tâm sống với hiện tại, và tránh bớt những lỗi lầm (cùng tội ác) cho mai sau.

Cựu trụ trì chùa ở Hưng Yên tham gia vụ ‘chạy án $2.2 triệu’ 

Cựu trụ trì chùa ở Hưng Yên tham gia vụ ‘chạy án $2.2 triệu’ 

July 8, 2022

HƯNG YÊN, Việt Nam (NV) – Ông Nguyễn Ngọc Triệu, 49 tuổi, tức Thượng Tọa Thích Đồng Huệ, cựu trụ trì chùa Nôm ở huyện Văn Lâm, thừa nhận cầm $400,000 trong vụ “chạy án” cho giám đốc bệnh viện thành phố Thủ Đức.

Theo báo Zing hôm 8 Tháng Bảy, sau khi bị phát giác, ông Triệu lập tức trả lại cho một “mắt xích” trong đường dây $100,000 và 2.39 tỷ đồng ($102,322).

Ông Nguyễn Ngọc Triệu, 49 tuổi, tức Thượng Tọa Thích Đồng Huệ, là cựu trụ trì chùa Nôm ở huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên. (Hình: Dân Việt)

Theo quy trình xử phạt giới chức tôn giáo, Thượng Tọa Thích Đồng Huệ bị bắt sau khi bị ép buộc hoàn tục hai ngày hồi Tháng Mười Một năm ngoái.

Ông Triệu là một trong sáu người bị Cơ Quan Cảnh Sát Điều Tra Bộ Công An CSVN đề nghị truy tố trong vụ “chạy án” cho ông Nguyễn Minh Quân, giám đốc bệnh viện Thủ Đức.

Báo Zing dẫn hồ sơ của công an cho hay, hồi năm 2021, ông Quân tìm người để nhờ lo lót nhằm không bị bắt, xử phạt do “có sai phạm về đấu thầu gây hậu quả nghiêm trọng.” Vụ này sau đó được hiểu là vụ bê bối kit xét nghiệm COVID-19 của công ty Việt Á.

Theo sự sắp đặt của giới chức Bộ Công An CSVN, một người trong đường dây “chạy án” là ông Hà Duy Tuấn, được mô tả là “người lao động tự do,” nhận $1 triệu của ông Quân tại khu vực cổng sau của Bộ Công An ở Hà Nội.

Ông Tuấn khai rằng sau khi nhận tiền, ông này sáu lần mang đến chùa Nôm, đưa $970,000 cho sư trụ trì là ông Triệu để nhờ lo việc cho ông Quân. Tuy nhiên, ông Triệu chỉ thừa nhận với công an rằng đã nhận tổng số tiền $400,000.

Ông Triệu khai đã lấy $100,000 đóng kín vào hộp giấy kèm theo chiếc chuông gió phong thủy, mang đến gặp ông Vũ Văn Đắc, chủ tịch Hội Đồng Quản Trị công ty cổ phần môi trường Thuận Thành, để nhờ “tìm hiểu tình hình” để “chạy án” cho ông Quân.

Ông Triệu còn khai là do không giải quyết được vụ này nên đã trả lại cho Hà Duy Tuấn $100,000 và 2.39 tỷ đồng vào tài khoản ông này.

Hai nhân vật chủ chốt trong vụ “chạy án” cho ông Quân là ông Bùi Trung Kiên, cựu cán bộ Phòng 6, và ông Lê Thanh An, cựu cán bộ Phòng 5 thuộc Cơ Quan Cảnh Sát Điều Tra Bộ Công An.

Theo quy trình xử phạt giới chức tôn giáo, Thượng Tọa Thích Đồng Huệ bị bắt sau khi bị ép buộc hoàn tục hai ngày hồi Tháng Mười Một năm ngoái. (Hình: VOV)

Theo tờ Tuổi Trẻ, ông Kiên bị cáo buộc “lừa đảo chiếm đoạt tài sản,” trong lúc ông An bị đề nghị truy tố tội “môi giới hối lộ.”

Tổng cộng ông Kiên đã nhận $2.2 triệu trong vụ này.

Do nhận thấy “không nhờ vả được,” ông Quân đòi tiền nhưng ông Kiên chỉ trả lại $1.15 triệu trong số tiền đã nhận. Khoản còn lại, ông Kiên dùng để mua nhà đất ở nhiều địa phương. Sau đó, ông Quân nhờ người khác “móc nối” đưa $1.5 triệu cho ông Lê Thanh An “nhờ giúp đỡ.” (N.H.K) [qd]

Sổ tay thường dân -Tưởng Năng Tiến – Trần Khuê

Trần Khuê – Sổ tay thường dân -Tưởng Năng Tiến

“Một ngày phiên chợ, u tôi mua về đôi gà nhỏ. Hai con gà: một trống, một mái, dáng còn bé tí teo, như vừa mới lìa đàn. Suốt ngày chúng cứ rúc vào một góc sân và kêu chim chíp bằng một giọng thảm thương, ai oán!”

Những câu trên được trích dẫn từ tập truyện O Chuột mà tôi đã được cô giáo đọc cho nghe, khi còn thơ ấu. Hơn nửa thế kỷ đã qua nhưng tôi vẫn tin rằng mình vừa ghi lại “gần” đúng nguyên văn, theo trí nhớ. Sao tôi cứ thương mãi đôi gà côi cút đó, và có cảm tình hoài với tác giả của đoạn văn dẫn thượng.

Tô Hoài chắc chắn sẽ rất sung sướng khi biết có một người đọc đã nhớ nằm lòng cả một đoạn văn của mình, và (có lẽ) sẽ bớt sướng đi nhiều, nếu biết thêm rằng tôi chưa bao giờ đọc thêm một trang sách nào khác của ông.

Tôi sinh trưởng ở miền Nam, nơi mà trẻ con không đeo khăn quàng đỏ, không thi đua lập chiến công, cũng không có kế hoạch (lớn – nhỏ) nào phải hoàn thành. Chúng tôi chỉ có việc học với chơi, và chơi mới là chuyện chính. Tôi quá mãi chơi nên không rảnh để đọc sách vở của bất cứ ai.

Mãi cho đến khi cuộc chiến Bắc/Nam chấm dứt tôi mới bắt đầu để ý đến sách báo. Cũng như nhiều người dân miền Nam khác, sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, tôi  bỗng hoá ra rất rảnh, và rất … đói!

Tác phẩm duy nhất mà tôi tâm đắc, vào thời điểm đó, là Hồ Chí Minh Toàn Tập. Đây là bộ cuốn sách đồ sộ, giấy in cực tốt nhưng giá rất bèo nên được những bà và những cô bán hàng rong vô cùng ưa thích. Họ cần giấy để gói (hoặc để chùi) còn tôi thì cần một phần ăn nhiều hơn số tiền túi mình có thể mua.

Do đó, dù có đói thảm thiết tôi cũng chả bao giờ xà ngay xuống mẹt xôi hay mẹt bánh. Tôi chịu khó đi (lòng vòng) mua sách, rồi mới mang đổi lấy thức ăn, cho đỡ khổ cái dạ dầy!

Nói tình ngay, lỡ có thấy những tác phẩm của Tô Hoài – trong hoàn cảnh ấy – tôi chắc mình cũng sẽ ngó lơ thôi. Mắt tôi lúc nào cũng chỉ dáo dác, liếc nhìn ra biển, tìm một đường chui.

May mắn là tôi chui lọt.

Lưu lạc mãi, có hôm, tôi tình cờ gặp lại Tô Hoài trong tác phẩm (Cây Bút, Đời Người, nxb Phương Nam 2002) của nhà phê bình xã hội & văn học Vương Trí Nhàn:

“Ngay từ năm 1940, khi bắt tay làm quen với giới sáng tác đương thời, thì đồng thời tác giả Dế Mèn cũng bước vào hoạt động cách mạng…  Mặt khác, ngay trong giới cầm bút, ông cũng luôn luôn có hoạt động xã hội của mình, khi là Phó Tổng thư ký Hội Nhà Văn, khi chủ tịch Hội Văn nghệ Hà Nội, từ đó đẻ ra cơ man nào là đầu việc, là họp hành, mà người ta gọi chung là công tác.” (sđd 264).

Tiểu sử Tô Hoài (như thế) có vẻ lung tung lang tang, ngổn ngang cả đống chức vụ, nhưng không để lại một ấn tượng đậm nét nào về đời người và cây bút của ông. Tô Hoài như luôn bị nhấn chìm vào những đoàn đội hay đoàn thể (vớ vẩn) gì đó, “với cơ man nào là đầu việc”. Toàn là những công việc chán ngán và nhạt nhẽo, tôi đoán thế.

Được thế thì đã phúc!

Cuộc đời của Tô Hoài chán ngán (hẳn) có thừa nhưng nhạt nhẽo thì chưa chắc, và đắng chát với tủi nhục (xem ra) không thiếu – vẫn theo như ghi nhận của Vuơng Trí Nhàn: “Đại khái có thể hình dung như cái cảnh đứa bé bị qùy, thì cũng quỳ đấy, song mắt vẫn liếc về phía mọi người đùa bỡn. Xá gì chuyện này, qùy cho xong nợ, tí nữa lại tha hồ tung tẩy.” (sđd 266).

Tôi thực muốn ứa nước mắt xót xa cho “cây bút” và “đời người” của Tô Hoài khi biết rằng (đôi lúc) ông vẫn phải qùi như thế. Tôi còn e rằng Vuơng Trí Nhàn chỉ khéo miệng mà nói thế (để đỡ tủi cho nhau) chứ chuyện “đùa bỡn” và “tha hồ tung tẩy” làm sao tìm được trong “cây bút” và “đời người” (chật hẹp) của Tô Hoài!

Đến như Nguyễn Tuân – dù vốn tính bất tuân – khi phải mặc đồng phục, trông cũng rúm ró và thảm hại chả kém gì cái hình ảnh Tô Hoài cả. Ở vào hoàn cảnh đó, mới hiểu và thông cảm cho sự cuống cuồng của một người – vốn tính đồng bóng và yếu bóng vía – như Xuân Diệu:

“Xuân Diệu sợ chúng tôi say sưa quá, bốc đồng quá tử vì đạo, rồi không giữ được ngòi bút của mình. Hơn ai hết, ông hiểu về những lưỡi gươm Damoclès thường xuyên treo trên đầu người làm văn nghệ. Khi nói chuyện này đột nhiên giọng ông đột nhiên nhỏ hẳn đi, khe khẽ thì thào. Rồi ông lắc đầu, ông le lưỡi, ý bảo rằng sợ lắm, mà cỡ các cậu thì càng phải nên biết sợ ngay thì vừa, nên nhớ là sau có hối cũng không kịp nữa” (sđd 295).

Xuân Diệu đã chết. Cái cung cách và thái độ ‘đột nhiên giọng nhỏ hẳn đi’, ‘khe khẽ thì thào”, “lắc đầu”, “le lưỡi” cũng … chết luôn. Thế hệ của những người cầm bút kế tiếp, không có vẻ gì là hào hứng và sẵn sàng tiếp nhận sự khiếp đảm mà Xuân Diệu muốn truyền đạt cho họ.

Trần Khuê là một trong những người này.

Ông đòi đổi tên Nước, tên Đảng, đòi hủy bỏ điều 4 hiến pháp, đòi Trường Chinh phải xin lỗi Kim Ngọc (bí thư tỉnh ủy Vĩnh Phú, tác giả của Khoán 10), đòi Tố Hữu phải xin lỗi những văn nghệ sĩ trong nhóm Nhân Văn, đòi Lê Đức Thọ phải xin lỗi những người trong “vụ án xét lại”, đòi lập Hội Chống Tham Nhũng …

Nói tóm lại là Trần Khuê không để yên cho bất – cứ – cái – gì và bất – cứ – ai, kể cả những nhân vật được coi là untouchable:

“Chúng ta đề nghị Tổng cục thống kê và Bộ tài chính thử tính sổ xem 30 năm qua ta đã tiêu tốn vào lăng Người tổng số là bao nhiêu tiền của… Và thử xem riêng ngân sách dụ chi cho năm 2000 xem có thể xây được bao nhiêu trường học cho một ngàn xã hãy còn trắng về giáo dục ở miền cao. Có thể xây bao nhiêu căn nhà để nuôi trẻ mồ côi … Có thể xây bao căn nhà dưỡng lão cho người già lão cô đơn, không nơi nương tựa. Có thê xây bao nhiêu nhà thương làm phúc chữa bệnh cho người nghèo …” (Trần Khuê – Ng. T. Thanh Xuân, Đối Thoại Năm 2000).

Đến cỡ như bác Hồ (dù đã mồ yên mả đẹp) mà còn bị hạch hỏi đủ điều như thế thì có ai khác mà được không bị … làm phiền. Mọi kẻ có chức quyền, từ Tổng Bí Thư trở xuống – kể cả ông TBT Giang Trạch Dân của nuớc bạn Trung Hoa vĩ đại – đều bị mang ra hỏi tội và chửi mắng (xối xả) vì sự ngu dốt, cũng như tội gian tham – của từng người một!

Thảo nào mà đã có lúc Trần Khuê được mô tả như một Sao Khôi hoặc Sao Khuê. Vì sao này (tiếc thay) lại “khi tỏ khi mờ,” theo nhận xét của một vị thức giả cùng thời – nhà văn Phạm Đình Trọng:

Trần Khuê thấy được giữ lại thi thể Hồ Chí Minh trong hòm kính dù đặt trong nhà hầm vẫn là tênh hênh trên mặt đất, là không thuận ý nguyện cuối cùng, ý nguyện thiêng liêng nhất của người chết, không thuận qui luật tự nhiên, là đày đọa thân xác người quá cố và tạo ra cái thùng không đáy ngốn tiền mồ hôi nước mắt dân. Nhận ra những cái có hại sờ sờ như vậy, Trần Khuê đòi đốt xác Hồ Chí Minh nhưng hồn vía Trần Khuê vẫn thuộc về Hồ Chí Minh.

Sắt son với con người rước họa cộng sản về đày đọa người dân Việt Nam, thờ phụng con người mất gốc không còn hồn Việt Nam là khoảng mờ rất đáng tiếc của ngôi sao Khuê họ Trần.

Kể cũng “hơi” tiếc thật nhưng vẫn hơn rất nhiều vị thức giả (cùng thời) chỉ sống cả đời trong cái khoảng mờ!

Tưởng Năng Tiến
7/2022

THẢM HẠI…

8 SÀI GÒN

THẢM HẠI…

Thì ra, họ nó đã đổi xong bia “liệt sĩ vô danh” ở nhiều tỉnh rồi, trong hình là Quảng Nam.

Cha nó lú thì phải có chú nó khôn chứ! Chẳng lẽ ông bộ trưởng dốt đã đành rồi nhưng cả bộ máy không còn ai khác biết tiếng Việt nữa sao?!

Nhắc lại, “vô danh” là một tính từ, không phải danh từ. Kẻ nào “dịch” “vô danh” thành “không tên” là cực kỳ dốt nát. Vô danh có nghĩa là không biết tên, không có tiếng tăm, không nổi tiếng…, chứ không phải không có tên!

Vô danh cũng không phải “khuyết danh”, vì khuyết danh chỉ có nghĩa là không biết tác giả là ai, và chỉ dùng trong trường hợp đối với các tác phẩm nghệ thuật. Không ai nói “người khuyết danh” bao giờ cả! Tác phẩm “Thoại Khanh – Châu Tuấn” là khuyết danh, nhưng tên nó là “Thoại Khanh – Châu Tuấn”, chứ không phải nó không có tên.

Đó là chưa kể đến việc nếu đổi từ Hán-Việt “vô danh” thành “chưa xác định được thông tin” thì sao không đổi nốt mấy chữ còn lại: “Liệt sĩ” thành “người chết trong khi làm nhiệm vụ”; “hi sinh” đổi thành “chết”?

Tôi đề nghị, dừng ngay cái việc làm có tính phá hoại này: phá hoại tiền của, phá hoại văn hóa – tâm linh, phá hoại tiếng nói dân tộc.

THÁI HẠO

Bộ Ngoại giao: Tây Ban Nha đang thu thập chứng cứ vụ án tố 2 nghệ sĩ Việt hiếp dâm

Bộ Ngoại giao: Tây Ban Nha đang thu thập chứng cứ vụ án tố 2 nghệ sĩ Việt hiếp dâm

07/07/2022

Bãi biển ở đảo Mallorca, Tây Ban Nha, nơi thu hút nhiều du khách quốc tế đến tham quan, nghỉ dưỡng. Hai nghệ sĩ Việt Nam bị tố cáo xâm hại tình dục tại đảo này.

Bộ Ngoại giao Việt Nam hôm 7/7 cho biết các cơ quan chức năng Tây Ban Nha hiện đang thu thập các thông tin, chứng cứ để phục vụ cho việc điều tra vụ án tố cáo hai nghệ sĩ nổi tiếng của Việt Nam hiếp dâm một thiếu nữ người Anh trong lúc đi du lịch tại đây.

“Hai công dân nói trên sức khoẻ bình thường, được hỗ trợ pháp lý theo đúng quy định”, người phát ngôn Lê Thị Thu Hằng cho biết trong cuộc họp báo vào ngày 7/7 khi được yêu cầu cung cấp thông tin chi tiết về tình hình hai công dân Việt Nam, được cho là diễn viên Hồng Đăng và nhạc sĩ Hồ Hoài Anh, hiện đang bị cảnh sát Tây Ban Nha điều tra với cáo buộc xâm hại tình dục.

Trước đó, vào ngày 1/7, Bộ Ngoại giao Việt Nam xác nhận Đại sứ quán Việt Nam tại Tây Ban Nha đã nhận được thông báo từ cảnh sát đảo Mallorca của nước này cho biết đã bắt giữ 2 công dân Việt Nam với cáo buộc “xâm hại tình dục đối với trẻ vị thành niên 17 tuổi” và “xâm phạm quyền riêng tư”, sau khi hàng loạt hãng truyền thông Anh và Tây Ban Nha đưa tin một thiếu nữ Anh 17 tuổi đã tố cáo với cảnh sát Tây Ban Nha rằng cô đã bị hai người là “nam diễn viên và nhạc sĩ nổi tiếng” người Việt, ở độ tuổi 37 và 42, cưỡng hiếp trong khách sạn tại Majorca (Mallorca), sau khi cô gặp các nghệ sĩ này ở một nhà hàng gần đó và giao lưu với họ.

Hai nghệ sĩ Việt đã bị cảnh sát Tây Ban Nha bắt vào ngày 25/6 và ra hầu tòa vào ngày 28/6. Mặc dù đã được tại ngoại, nhưng họ bị tịch thu hộ chiếu, bị cấm rời khỏi Tây Ban Nha trong khi cuộc điều tra đang diễn, theo truyền thông địa phương của Tây Ban Nha.

Thiếu nữ người Anh đã trở về nước cùng với gia đình sau khi đưa lời khai đầy đủ cho cảnh sát Tây Ban Nha.

Trả lời tại buổi họp báo ngày 7/7, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam cho biết thêm rằng “Đại sứ quán đã khẩn trương bước đầu triển khai các biện pháp bảo hộ công dân”, và những thông tin liên quan đến vụ án cũng như việc bảo hộ công dân “sẽ được Bộ Ngoại giao cung cấp theo đúng chức năng nhiệm vụ và thẩm quyền phù hợp với quy định của pháp luật Việt Nam”.

Cho đến nay, mặc dù danh tính của hai nghệ sĩ người Việt vẫn chưa được các cơ quan chức năng tiết lộ, nhưng công luận và truyền thông Việt Nam đều đưa thông tin ám chỉ đến diễn viên Hồng Đăng và nhạc sĩ Hồ Hoài Anh, là hai nghệ sĩ có cùng độ tuổi và cũng đang có chuyến công tác kết hợp nghỉ dưỡng tại Italy và tại đảo Majorca của Tây Ban Nha.

Sau khi thông tin về vụ bê bối được đưa ra, hai nghệ sĩ này dù chưa xuất hiện nhưng đã bị các hình thức kỷ luật ảnh hưởng nặng nề đến sự nghiệp.

Ngay ngày 1/7, ngày đầu tiên thông tin được công bố tại Việt Nam, Đài truyền hình Việt Nam (VTV) đã ra chỉ thị thay thế hoặc cắt bỏ tất cả các chương trình có sự xuất hiện của diễn viên Hồng Đăng và nhạc sĩ Hồ Hoài Anh, dù họ đang là hai tên tuổi đang ăn khách của làng giải trí Việt.

Đến tối 1/7, Ban giám đốc Học viện Âm nhạc Quốc gia Việt Nam, nơi nhạc sĩ Hồ Hoài Anh đang là giảng viên, đã có cuộc họp khẩn cấp và đưa ra quyết định đình chỉ công tác của nhạc sĩ này với lý do “vi phạm quy định tự động ra nước ngoài nhưng không xin phép hay thông báo tới nhà trường”.

Hôm 5/7, Thứ trưởng Bộ Văn hóa – Thể thao và Du lịch Tạ Quang Đông cho biết diễn viên Hồng Đăng và nhạc sĩ Hồ Hoài Anh đã có luật sư và vẫn đang ở Tây Ban Nha để chờ gặp thẩm phán.