So với Thái, ta ở đâu? – Đỗ Ngà

So với Thái, ta ở đâu?

Đỗ Ngà

Có một thực tế lâu nay là tại Thái Lan, người dân có thể dễ dàng gởi ngoại tệ qua ngả ngân hàng, Western Union, Money Gram rất dễ dàng. Không biết giới hạn là bao nhiêu nhưng chuyển ra nước ngoài khoảng $5,000 rất đơn giản mà không cần thủ tục phức tạp nào.

Nếu so sánh với Việt Nam thì sẽ thấy, lâu nay Nhà nước Cộng sản rất khó khăn trong vấn đề chuyển ngoại tệ ra nước ngoài. Dù qua ngả ngân hàng hay qua ngả các công ty chuyển tiền đều bị chặn bởi hàng rào “thủ tục”. Để chuyển tiền đi nước ngoài, Nhà nước CS buộc người chuyển phải cung cấp giấy tờ chứng minh cho mục đích chuyển. Ví dụ, để chuyển tiền cho con đang du học nước ngoài thì phụ huynh phải cấp đầy đủ giấy tờ chứng minh con đã được du học, dù đó là chuyển số tiền chỉ vài ngàn USD cũng phải làm thủ tục rất phức tạp.

Sự dễ dãi hay khó khăn trong vấn đề cho phép chuyển ngoại tệ ra nước ngoài nó thể thể hiện điều gì? Nó nói lên rằng quốc gia đó đang khan hiếm ngoại tệ hay đang dồi dào ngoại tệ. Thực tế cho thấy, Việt Nam khan hiếm ngoại tệ hơn Thái Lan, đó là điều mà tôi có thể cảm nhận được và cần đi sâu phân tích để đánh giá sức khỏe nền kinh tế mỗi nước.

Nguồn cung ngoại tệ cho một quốc gia sẽ quyết định chính sách ngoại hối của Ngân hàng trung ương quốc gia đó. Hiện nay có 5 nguồn cung ngoại tệ lớn, đó là: từ hoạt động ngoại thương; từ kiều hối; từ đầu tư nước ngoài; từ nguồn vay quốc tế; từ bán tài nguyên v.v.. Những nguồn tiền đó sẽ đổ vào Việt Nam và nằm trong dân chúng, nếu dồi dào thì Ngân hàng Nhà nước sẽ mua vào dự trữ để thực hiện chức năng giữ cho tỷ giá nội tệ ổn định. Còn nếu quá dư thừa ngoại tệ trong dân thì Ngân hàng Trung ương mở cho dân dễ dàng chuyển ngoại tệ ra nước ngoài để phục vụ nhu cầu của người dân.

Nguồn ngoại tệ trong dân và ngoại tệ trong kho dự trữ của Ngân hàng Nhà nước đều quan trọng như nhau. Nếu giả sử như lượng ngoại tệ trong dân ít mà ngân hàng nhà nước còn bung tiền nội tệ ra vét cho vào kho thì ắt giá ngoại tệ chợ đen sẽ tăng, lúc đó thị trường ngoại hối sẽ loạn không tốt cho nền kinh tế. Mà muốn ổn định tỷ giá để cho doanh nghiệp xuất nhập khẩu yên tâm làm ăn thì Ngân hàng Nhà nước phải xuất kho bán ngoại tệ để hạ giá chợ đen xuống tương đương với giá niêm yết tại ngân hàng. Nói tóm lại, không phải Nhà nước muốn mua bao nhiêu ngoại tệ thì mua mà nó tùy thuộc vào nguồn cung ngoại tệ của quốc gia đó mạnh hay yếu.

Với chính sách nới lỏng việc chuyển ngoại tệ ra nước ngoài như Thái lan thì điều đó có nghĩa là nguồn cung ngoại tệ của Thái Lan mạnh hơn Việt Nam rất nhiều. Mà nguồn cung ngoại tệ mạnh, chứng tỏ nền kinh tế họ mạnh.

Hôm nay là ngày 30 Tháng Bảy, giá vàng tại Việt Nam là $2,382/ounce, giá vàng thế giới là $1,783/ounce và giá vàng tại Thái Lan chỉ $1,600/ounce. Nếu người dân Việt Nam mua vàng vào sẽ mất nhiều tiền hơn người Thái đến 50%. Nếu ai “buôn lậu” vàng từ Thái về Việt Nam là siêu lợi nhuận. Như vậy là dân Việt Nam phải mất rất nhiều do chính sách về giá vàng của Ngân hàng nhà nước Việt Nam đặt ra.

Nếu Ngân hàng Nhà nước cho nhập vàng về để cho giá vàng trong nước ngang bằng với giá vàng thế giới thì ngoại tệ trong kho lại vơi. Nếu ngoại tệ trong kho dư giả không nói gì, còn nếu thiếu trước hụt sau mà xuất ngoại tệ nhập vàng để bình ổn giá vàng thì lúc đó Ngân hàng Nhà nước mất công cụ giữ tỷ giá hoái đoái đồng nội tệ. Không giữ được tỷ giá đồng nội tệ nguy hiểm cho nền kinh tế nhiều hơn là không ổn định giá vàng. Với lại tính thanh khoản của vàng không bằng USD nên Ngân hàng nhà nước đành hy sinh chính sách giữ giá vàng để ổn định tỷ giá đồng nội tệ. Ngân hàng nhà nước Việt Nam không có nhiều dư địa để làm tốt đồng thời chính sách giữ giá và và chính sách giữ giá đồng nội tệ. Đó là nguyên nhân quan trọng nhất khiến cho Ngân hàng nhà nước không chịu thả cho nhập khẩu vàng ồ ạt.

So sánh hành động của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và Ngân hàng Trung ương Thái Lan thì thấy rằng Ngân hàng Trung ương Thái đang có quá nhiều dư địa để thực hiện chính sách tỷ giá hối đoái nới rộng và chính sách tự do kinh doanh vàng. Còn với Ngân hàng nhà nước Việt Nam, từ nhiều năm nay vẫn cứ chới với với chính sách tỷ giá hối đoái mà hy sinh mọi chính sách khác để người dân phải chịu thiệt trường kỳ. Theo tôi đoán, Ngân hàng Nhà nước sẽ không xóa chính sách độc quyền nhập khẩu vàng vì tôi không tin lượng USD dự trữ của Ngân hàng Nhà nước đủ dư giả để làm điều đó.

Tôi vốn không tin con số của Chính quyền thông báo, chỉ quan sát chính sách ở hai quốc gia thì thấy nền kinh tế Thái Lan khỏe hơn nền kinh tế Việt Nam nhiều lần. Đấy là thực tế không thể chối cãi. Nhìn 2 nền kinh tế, tôi thấy, Việt Nam đang bị Thái bỏ càng ngày càng xa chứ không xích lại gần hơn như con số thống kê./.

Đ.N.

Nguồn: SOI

Thư Cho Con – Sổ tay thường dân – Tưởng Năng Tiến

Thư Cho Con – Sổ tay thường dân – Tưởng Năng Tiến

Tôi không thân thiết chi với Bùi Bảo Trúc và cũng chả mặn mà gì với chuyện văn nghệ/văn gừng nên mãi tới bữa rồi mới (tình cờ) được biết thêm rằng ông không chỉ là một nhà báo, nhà văn mà còn là một nhà thơ hơi nặng tình đất nước:

  • Tôi cũng như ông đời biệt xứ
    Trẻ ra đi già vẫn tha hương
    Mấy chục năm buồn trên xứ lạ
    Tôi đọc thơ ông nát cả hồn …  (“Xa Nhà Đọc Thơ Hạ Tri Trương”)
  • Hãy tưởng tượng trong hộp thư ngoài cửa
    Mấy bức thư đọng lại những năm qua
    Một tấm thiệp báo tin người yêu nhỏ
    Đã tìm ra hạnh phúc dưới trời xa …  (“Gửi Căn Nhà Cũ”)

Ngoài khuynh hướng hoài hương, Bùi Bảo Trúc còn là một người hoài cổ. Trong hàng chục ngàn Thư Gửi Bạn Ta mà ông viết đều đặn hằng ngày, ròng rã qua mấy thập niên – có hôm – tác giả đã tỏ ý tiếc nuối những Lá Thư đã cũ của Từ Linh & Đoàn Chuẩn:

Nhớ tới mùa thu năm xưa gửi nhau
Phong thư ngào ngạt hương
Nét bút đa tình lả lơi …

Tôi sinh sau đẻ muộn nên chưa hề gửi đi (hay nhận được) một phong thư nào lãng mạn và trang trọng tới cỡ đó. Những lá thư nắn nót trên “giấy trắng mực thường” cũng khỏi có luôn:

  • Có gì đâu một lá thư
    Giấy trắng như giấy, mực như mực thường
    Cũng chưa một chữ rằng thương
    Mà tôi đọc suốt đêm trường sang mai
    Không nhớ nữa ngắn hay dài
    Hình như tôi đã đọc ngoài trang thơ
    .

    (“Có Gì Đâu” – Trần Ninh Hồ)
  • Thư thì mỏng như suối đời mộng ảo
    Tình thì buồn như tất cả chia ly
    Giấy phong kỹ mang thầm trong túi áo
    Mãi trăm lần viết lại mới đưa đi
    .
  • (“Tình Thư Thứ Nhất” – Xuân Diệu)

Tôi bước vào tuổi dậy thì cùng lúc với Bridgestone, Kawasaki, Suzuki, Honda … đang tràn ngập khắp miền Nam. Đám choai choai chúng tôi như được chắp cánh, bay lượn tá lả bùng binh, đâu có đứa nào rảnh để thư từ (vớ vẩn) nói chi đến cái dzụ “viết lại trăm lần.” Nghe mà phát mệt!

Khi đời về chiều thì nhịp sống còn hối hả và bận rộn hơn nữa. Sau máy fax, thiên hạ email, rồi inbox, và text (liền liền) cho nó lẹ. Chả còn ai đủ bình tâm hay kiên nhẫn ngồi bên bàn viết, hoặc bàn phím để thư từ gì nữa. Ấy thế mà trong những ngày qua, tôi vẫn đọc được đôi ba bức thư (mỗi chữ đều như róc/ từ xương thịt cuộc đời/ từ bi thương phẫn uất …) của mấy ông bố trẻ gửi cho những đứa con thơ.

Bức thư thứ nhất của ông Nguyễn Lân Thắng, viết hôm 30 tháng 7 năm 2014, gừi cho con gái vừa 2 tuổi – mới được lan truyền rộng rãi trên mạng – sau khi nhân vật bất đồng chính kiến này bị bắt giữ vào hôm 5 tháng 7 vừa qua. Xin ghi lại đôi ba đoạn ngắn:

Con thương yêu của bố…

Bố có thể có nhiều lựa chọn. Nếu chấp nhận cuộc sống giả dối, tung hô những điều dối trá, tận dụng những quan hệ và lợi thế sẵn có thì sẽ chả thiếu thứ gì. Rồi khi mai này đất nước tan hoang, ta có thể ra nước ngoài sinh sống không cần biết nước Việt ra sao. Rồi con sẽ được sống trong môi trường bình yên với những điều kiện giáo dục, y tế, văn hóa tốt nhất.

Nhưng con ơi, không ai chọn được tổ quốc, không ai lựa được gia đình. Bố yêu con như thế nào thì bố cũng yêu mảnh đất này như thế. Bố không thể chấp nhận làm kẻ bỏ chạy mà phải chiến đấu bằng được để giữ mái nhà tổ quốc này cho con.

Bố không thể nhởn nhơ sống cho riêng mình khi xung quanh toàn khổ đau và nước mắt. Đối với bố đó không phải là hạnh phúc. Bố ước gì con được sống trong một tương lai tốt đẹp hơn bố. Con được sống trong tình thân ái, trong niềm tin, niềm hân hoan và những thứ mà một con người đáng được hưởng.

Có thể bố sẽ thất bại. Có thể bố sẽ không được ở bên con ba mươi năm còn lại như dự tính. Nhưng dù thế nào bố cũng đã quyết định thế rồi, và nếu cuộc đời con gặp những khó khăn vì bố gây ra thì xin con hãy nhớ về một ông bố đã tuyệt vọng chiến đấu để con có cuộc sống hạnh phúc đích thực mà tha thứ cho bố.Bố yêu con rất nhiều, bé Đậu tuyệt vời của bố!

Bức thư thứ hai của nhà giáo Bùi Văn Thuận, viết hôm 5 tháng 1 năm 2017 (cho con gái đầu lòng mới mở mắt chào đời) và cũng chỉ vừa được phổ biến, sau khi ông bị bắt giữ vào hôm 30/8/2021:

Con gái à, hôm nay con đã được 3 tháng 18 ngày, con chưa thể đọc những dòng chữ ba viết cho con, nhưng ba vẫn viết ra đây để sau này con có thể đọc, con có thể cho bạn bè con đọc… 

Khi con ngủ (tối qua con ngủ khá ngoan, con gái ạ), ba mẹ nấu cơm và ăn cơm tối lúc hơn 12h đêm. Mẹ con đói lắm vì con bú nhiều, một lần nữa ba lại muốn khóc. Khi ăn ba và mẹ con đã nói rất nhiều chuyện, trong đó có chuyện khi đi “làm việc” với an ninh, nhỡ ba không về với hai mẹ con nữa thì sao?

Ba rất khó lựa chọn, thật sự rất khó con gái ơi! Nếu ba chấp nhận sống vì hai mẹ con con, cúi đầu im lặng để có thể chạy vạy lo toan cho hai mẹ con, thì đến thế hệ con, không biết các con làm sao mà sống được?

Nhưng nếu ba lựa chọn lên tiếng, lựa chọn đấu tranh cho những quyền và nhu cầu căn bản của con người, thì ba lại là người vô trách nhiệm với hai mẹ con. Nếu ba vì lên tiếng mà bị bắt, bị những kẻ xấu bỏ tù thì hai mẹ con con sẽ sống ra sao?

Đó là một sự lựa chọn rất khó khăn cho ba con gái ơi! Sau khi bàn bạc với mẹ con, ba mẹ đã quyết định: Bình thản đón nhận những gì sẽ đến…

Quyết định “bình thản” của ông Bùi Văn Thuận khiến tôi nhớ đến thái độ và sự lựa chọn của một tù nhân lương tâm khác, Lê Anh Hùng – theo tường thuật của một nhà báo nước ngoài:

Every time Le Anh Hung starts to write he thinks of his three young children. The 38-year-old has already been imprisoned twice for blogging about human rights and corruption from his home in Hanoi and lives half-expecting another fateful knock at the door. And yet “I’m not scared,” he says, “I know what I choose to do is risky but I accept the fight. Cứ mỗi lần cầm bút là Lê Anh Hùng nghĩ đến ba đứa con thơ. Người đàn ông 38 tuổi này đã hai lần vào tù, vì viết blog về nhân quyền và nạn hối lộ, hiện đang sống phấp phỏng trong căn nhà của ông ở Hà Nội. Tuy thế, ông nói, ‘Tôi biết điều mình lựa chọn là nguy hiểm nhưng tôi chấp nhận cuộc đấu tranh này.” (Charlie Campbell. “Internet Censorship Is Taking Root in Southeast Asia.” Time 18 Jul 2013).

Thái độ quyết liệt và sự lựa chọn can trường của Lê Anh Hùng, cũng như của những tù nhân lương tâm đồng hành, khiến cho vợ con cùng thân nhân của họ phải chịu rất nhiều thiệt thòi và phiền toái. Nhưng nếu không có sự hy sinh cao cả như thế thì dân Việt biết trông vào đâu để vẫn còn có thể giữ được chút niềm tin về tương lai của dân tộc, và đất nước này!

Tưởng Năng Tiến
7/2022

Việt Nam phát triển?

Việt Nam phát triển?

Lâm Bình Duy Nhiên

29-7-2022

Có lẽ đã từ lâu, từ cái ngày Việt Nam được hoàn toàn “thống nhất”, đã có nhận định mệt mỏi rằng ai tin cộng sản tự thay đổi thì cứ tin.

Hay ai muốn tin vào sự phồn hoa tráng lệ và giàu sang phát triển vượt bậc tại Việt Nam thì cũng cứ việc tin.

Nhưng những ai không dám hay không chịu nhìn vào sự thật rằng tất cả những thứ ấy chỉ là sự hào nhoáng bên ngoài và nó vẫn ẩn chứa trong lòng xã hội những bất công và cách biệt giàu nghèo một cách thảm khốc và tàn nhẫn thì đó là một sự bất lương đáng trách!

Cộng sản Việt Nam đã “giải phóng” miền Nam và “thống nhất” đất nước đã 47 năm thì hẳn nhiên cũng phải có những thay đổi tích cực dẫu chỉ tối thiểu sau gần nửa thế kỷ. Bằng không, có cái nhục nào hơn nữa nếu đời sống người dân vẫn còn như thời bao cấp, ăn bo bo và tem phiếu hợp tác xã?

Nếu sau chừng ấy thời gian mà vẫn không xây được nhà cửa, trường học, bệnh viện, đường xá,… cho ra hồn thì đó mới chính là trò cười cho thiên hạ!

Cho nên, tất cả những thay đổi mà có người cho là “vượt bậc” hay “tột đỉnh” nghĩ cho cùng cũng chỉ là bề ngoài, không có nền móng vững chắc. Phát triển vô tội vạ, giàu sang, diễm lệ, sang trọng cũng chỉ đến với một bộ phận nhỏ, rất nhỏ những người được ưu ái bởi chế độ và những chốn trung tâm đô thị. Nếu đi xa ra khỏi những nơi “văn minh không kém phương Tây” thì hẳn cái sự giàu sang, phát triển rực rỡ ấy không còn nữa. Thay vào đó là một sự thật đau lòng, đáng buồn hơn với những mảnh đời bươn chải vất vả mưu sinh với những đồng lương ít ỏi so với con số hàng chục triệu của giới “thành công” mà người ta đang miệt mài ca ngợi.

Có gì phải ngạc nhiên hay trầm trồ thán phục khi có xe hơi, thậm chí đắt tiền chạy trên đường phố các đô thị lớn? Cũng có không ít người Việt đi du lịch tứ xứ, tiêu xài tiền đô thoải mái, gởi con đi du học nước ngoài từ nhỏ, thậm chí mua nhà cửa ngay tại các quốc gia phương Tây,… Tất cả cũng chỉ là tương đối so với mặt bằng chung của toàn xã hội. Không thể lấy những hình ảnh ấy làm thước đo cho sự phát triển của xã hội Việt Nam.

Gần nửa thế kỷ, cả nhân loại đều phát triển. Nhanh, chậm, vững chắc hay dễ vỡ, các yếu tố ấy tuỳ thuộc vào hệ thống chính trị của các quốc gia. Việt Nam không phải là quốc gia duy nhất phát triển nên ca tụng hay tự hào cũng nên từ tốn. Câu hỏi quan trọng gắn liền với tương lai dân tộc là liệu những sự phát triển ấy có khoa học, có cân đối và có bền vững hay không? Và liệu mọi công dân Việt Nam có được thừa hưởng những thành quả của sự phát triển ấy không? Hay chỉ một bộ phận nhỏ, rất nhỏ mới có đặc quyền sống trong “cái thế giới tiến bộ ấy”?

Câu trả lời không khó để thấy rằng sự phát triển tại Việt Nam là không đồng bộ và chỉ có môt thiểu số mới có đặc ân hưởng thụ trong khi toàn xã hội vẫn còn sống trong nghèo khổ và khó khăn. Sự tồn tại về giai cấp xã hội là điều không thể chối bỏ khi giấc mơ của người cộng sản là đấu tranh và xoá bỏ giai cấp. Một sự mâu thuẫn cơ bản của nhà cầm quyền!

Gốc rễ của mọi vấn nạn trong xã hội chính là sự tồn tại của một thể chế chính trị độc tài toàn trị. Khi không có sự đa nguyên, đa đảng, sẽ không có sự đối lập, phản biện để ngăn chặn mọi chính sách độc đoán cho tiến trình xây dựng một xã hội dân chủ.

Không có một thể chế chính trị dân chủ, mọi sự phát triển chỉ mang tính tương đối, không bền vững và không có tính chiến lược, nếu không nói là phản khoa học.

Trung Quốc được cho là cường quốc kinh tế thứ hai trên thế giới nhưng chỉ có hơn 100 triệu dân được sống trong sự giàu có và phát triển. Gần 1,3 tỷ người Trung Quốc vẫn phải sống trong sự nghèo khổ. Đó có phải là mô hình kinh tế, chính trị để các quốc gia khác theo đuổi?

Khi đánh giá sự phát triển ”vượt bậc” của Việt Nam, chúng ta cần cẩn trọng, không nên để bị cảm tính chi phối. Không phủ nhận nhưng tất cả những sự phát triển ấy đã diễn ra sau gần nửa thế kỷ cầm quyền nên không có gì để phải ”tự sướng”, để tự tâng bốc lên tận mây xanh.

Ngược lại cần hiểu xã hội Việt Nam vẫn còn tồn đọng rất nhiều bất công và khoảng cách giàu nghèo ngày càng gia tăng một cách thảm khốc. Khái niệm “quốc gia phát triển” thậm chí “đang phát triển” đối với Việt Nam trong bối cảnh hiện tại vẫn còn xa vời và còn lắm vấn nạn phải xoá bỏ.

Một xã hội phát triển là một xã hội luôn tự khắc khoải và trăn trở về những vấn đề cấp bách liên quan đến cuộc sống của người dân và của thời cuộc.

Chính vì thế, những tiếng nói của lương tâm trong nước vẫn không không ngừng lên tiếng để lên án những chính sách tàn bạo của chế độ và đấu tranh cho một xã hội dân chủ đa nguyên. Một xã hội tiến bộ cho toàn dân chứ không chỉ dành riêng cho một thiểu số hay nhóm lợi ích nào đó.

Đó mới chính là thái độ cần thiết và dứt khoát với một chính quyền độc tài, thay vì hùa nhau, vỗ tay tán thưởng những “thành tích” của nhà cầm quyền.

Để rồi tự rơi vào cái bẫy của sự hào nhoáng có chủ đích của người cộng sản…

Cựu viện trưởng SENA bị khởi tố vì ‘lợi dụng quyền tự do dân chủ’ (VOA)

Cựu viện trưởng SENA bị khởi tố vì ‘lợi dụng quyền tự do dân chủ’

29/07/2022

Đài truyền hình VTC loan tin việc Bộ Công an khởi tố ông Nguyễn Sơn Lộ. Photo chụp từ VTC.

Bộ Công an Việt Nam vừa ra quyết định khởi tố ông Nguyễn Sơn Lộ, nguyên viện trưởng Viện Nghiên cứu Công nghệ và Phát triển SENA, về tội “lợi dụng các quyền tự do dân chủ”.

Ông Nguyễn Sơn Lộ, 74 tuổi, bị khởi tố, khám xét chỗ ở và nơi làm việc, cấm đi khỏi nơi cư trú, và tạm hoãn xuất cảnh, theo thông cáo trên trang web chính thức của Bộ Công an hôm 27/7.

Bộ Công an không nói rõ lý do khởi tố này, nhưng cho biết thêm rằng “đang tập trung điều tra, thu thập tài liệu, củng cố chứng cứ về hành vi phạm tội của bị can và các cá nhân có liên quan để xử lý nghiêm theo quy định của pháp luật”.

Với tội danh “Lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân” quy định tại Điều 331 Bộ luật Hình sự, ông Lộ sẽ phải đối mặt với khung hình phạt cao nhất là 7 năm tù.

Viện SENA do ông Nguyễn Sơn Lộ thành lập từ năm 1992, là đơn vị có tư cách pháp nhân độc lập, hạch toán độc lập, trực thuộc Liên hiệp Các Hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp các Hội KHKT).

Hồi đầu tháng 7, Liên hiệp các Hội KHKT có quyết định đình chỉ hoạt động của Viện SENA. “Việc đình chỉ nhằm thực hiện thủ tục giải thể Viện SENA do vi phạm quy định về thành lập, đăng ký hoạt động và giải thể tổ chức khoa học và công nghệ”, theo trang Pháp Luật Tp. Hồ Chí Minh Online (PLO).

Trang này cho biết rằng chính quyền thành phố Hà Nội từng có quyết định thu hồi căn nhà nơi đặt văn phòng của Viện SENA để mở rộng trụ sở làm việc cho Công an quận Ba Đình, nhưng ông Lộ đã phản đối quyết định này và gửi thư khiếu nại đến nhiều nơi.

Cuộc tọa đàm về Ukraine được tổ chức ở trụ sở của viện SENA, Hà Nội, ngày 16/7/2022. Photo Facebook Dang Bich Phuong via Asia News.

Hơn một tuần trước khi ông Lộ bị khởi tố, văn phòng của ông được một số văn sĩ trí thức dùng làm nơi tổ chức hội đàm về văn hoá Ukraine và bày tỏ tình cảm với nhân dân và đất nước Ukraine, với sự hiện diện của tham tán chính trị sứ quán và phu nhân đại sứ nước này. Sự kiện này đang diễn ra thì bị công an cắt điện, trang AsiaNews dẫn lời những người tham dự sự kiện này cho biết. Đồng thời trang này cho biết thêm rằng một số người tham dự buổi tọa đàm bị ngăn chặn trước khi đến đó.

“Việc cắt điện này là hành động bẩn thỉu”, ông Nghĩa Vi Toàn, một công dân ở Hà Nội, nói với VOA.

VOA đã liên lạc Công an quận Ba Đình để tìm hiểu về việc cho là sách nhiễu này, nhưng chưa được phản hồi.

Theo nhận định của cựu tù nhân chính trị Lê Thăng Long viết trang Facebook cá nhân, nhiều thành viên thuộc nhóm SENA “có nhiều tinh thần cấp tiến, dân chủ, tiến bộ”.

“Những điều dân chủ, cấp tiến, tiến bộ ấy nếu đem lan tỏa ra cộng đồng thì là sự cống hiến rất tốt cho xã hội”, ông Long viết. “Trong nhiều năm qua tới nay viện SENA có tầm ảnh hưởng không nhỏ tới chính trị Việt Nam”.

Ông Nguyễn Sơn Lộ, người còn có tên khác là Minh Đường, trước đây đã gửi nhiều văn bản và sách góp ý xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam.

Truyền thông Việt Nam xác nhận việc ông Lộ ở viện SENA gửi thư ngỏ góp ý xây dựng văn kiện Đại hội 13 của Đảng, nhưng nói thêm rằng “thực chất là một hình thức thể hiện quan điểm sai trái, phụ họa cho những luận điệu xuyên tạc chống Đảng, Nhà nước”.

Một bài viết của một quan chức công an đăng trên trang web của chính quyền cho biết: “Những luận điệu sai trái đó có tác động tiêu cực, gây tâm lý nghi ngờ, mơ hồ, mất cảnh giác ‘a dua’ theo tư tưởng phản động trong cán bộ, đảng viên và nhân dân”.

YouTube player

Tháng 7 tưởng niệm Giáo sư Nguyễn Ngọc Huy – NGƯỜI ĐI, NON NƯỚC Ở LẠI

Tưởng niệm một giáo sư đáng kính. “… Vì sanh trong một nước Việt Nam không độc lập, thiếu tự do và chìm đắm trong sự loạn lạc, nên tôi phải dấn thân vào cuộc tranh đấu chính trị, và do đó mà phải học về chính trị, dạy về chính trị, và đứng ra lãnh đạo một đoàn thể chính trị.

Dầu cho có được làm lại cuộc đời từ đầu mà hoàn cảnh Việt Nam không khác hoàn cảnh tôi đã trải qua, thì tôi cũng sẽ làm như tôi đã làm…” (Giáo sư Nguyễn Ngọc Huy)

  • Tháng 7 tưởng niệm Giáo sư Nguyễn Ngọc Huy-

NGƯỜI ĐI, NON NƯỚC Ở LẠI

Chu Lynh

Nén hương lòng của kẻ hậu sinh

Kính dâng anh linh nhà ái quốc Nguyễn Ngọc Huy (1926-1990)

“Những dữ kiện trong bài này được thu thập từ những tài liệu, bài viết, tiếp xúc, phỏng vấn các nhân chứng đã từng kề cận nhà ái quốc Nguyễn Ngọc Huy: ông Nguyễn Ngọc Diệp, nhà văn Đỗ Tiến Đức, ông Trần Sĩ Hải, ông Vương Từ Mỹ, ông Hoài Sơn Ung Ngọc Nghĩa, Giáo sư Tạ Văn Tài, cô Nguyễn Ngọc Thúy Tần, Giáo sư Nguyễn Toản, ông Nguyễn Phước Trang, ông Trần Cẩn Trọng, và ông Nguyễn Cao Tuấn”.

Chuyến bay định mệnh

Phi trường Zaventem, Brussels,Vương Quốc Bỉ

Khởi hành từ New York, chiếc Boeing đáp xuống phi trường Zaventem trễ ba mươi phút. Trong lúc chuẩn bị rời máy bay, hành khách bỗng phát giác một người bất tỉnh trên ghế ngồi. Người đàn ông lớn tuổi, ốm yếu, da mặt xanh xao. Một lát sau, ông tỉnh lại. Một tiếp viên thấy ông không thể di chuyển được, liền gọi xe cấp cứu.

Hôm ấy là ngày 20 tháng 7 năm 1990. Người hành khách bất tỉnh đi trên chuyến bay mang số 34 của hãng hàng không Pan Am mang tên: Nguyễn Ngọc Huy. Người Việt hải ngoại thường gọi ông là Giáo sư Nguyễn Ngọc Huy, người ngoại quốc thích gọi ông là Tiến sĩ Nguyễn. Ông ghé Brussels theo lộ trình tham dự Đại Hội Thế Giới tại Hòa Lan của Liên Minh Dân Chủ Việt Nam, một tổ chức chính trị do ông thành lập từ mười năm qua.

Khi nhân viên xe cứu thương hỏi ông cần đi bệnh viện không, ông từ chối và yêu cầu chở vào phòng đợi, viện lẽ đã hẹn người nhà ra đón.

Ba người đến đón ông: Nguyễn Kim Luân, Trần Qúy Phong, Nguyễn Ngọc Vinh. Họ đã không tìm ra ông trong đám hành khách đang đứng quanh quẩn bên thang máy bay chờ nhận hành lý. Họ chia nhau tìm kiếm.

Khi được nhân viên phi trường cho hay tin, họ trở lại phòng đợi, thấy ông Nguyễn Ngọc Huy đang đứng với một người Việt Nam. Nhưng xem ra ông quá mệt mỏi chẳng nghe người bên cạnh nói gì.

Trên đường về nhà ông Nguyễn Ngọc Diệp, một đoàn viên Liên Minh Dân Chủ, với giọng rất yếu, ông hỏi có ai biết cạo gió không. Một người lễ phép thưa sẽ cạo gió cho ông khi về đến nhà.

Khoảng 12 giờ 30, chiếc xe về đến nhà. Ông Diệp thực sự xúc động khi nhìn thấy cơ thể của ông quá tiều tụy. Ông bắt đầu cạo gió. Không có gió ở phía sóng lưng bên trái, nhưng bên phải và cổ, da thịt đỏ ửng lên. Nhờ xoa bóp toàn thân, người ông ấm lên, ông cho biết đã đỡ hơn.

Giọng nói của ông thều thào, phát âm không rõ, hậu quả của chứng ung thư lưỡi từ tám năm nay. Ông cho hay: “Trước khi đi bị cảm lạnh, rồi mất ngủ suốt đêm, trên phi cơ cũng không ngủ được. Qua đây lại bị trúng gió …”

Trong căn phòng gia đình đã chuẩn bị cho ông, để sẵn hai tờ báo Le Monde và Le Soir, có lẽ chủ nhà biết thói quen của ông. Qua cửa kính mờ, hình ảnh một ông già ốm yếu lom khom đọc báo, tay phải cầm cây viết ghi chép, khiến mọi người muốn rơi lệ. Bên ngoài phòng, các đoàn viên của ông đã hội ý nhau và quyết định mời bác sĩ Hoàng Thị Ngọc Quỳnh đến chăm sóc cho vị lãnh đạo của mình.

Tuy mệt, ông vẫn ra phòng khách nói chuyện, vẫn trả lời thông suốt các câu hỏi, nhưng luôn luôn hỏi lại “Tôi nói các anh nghe có rõ không?”

Bác sĩ Ngọc Quỳnh khám rất kỹ. Bà cho biết, áp huyết bệnh nhân rất thấp, mạch tim đập yếu, các bộ phận khác cũng yếu. Muốn hồi sức, phải tiếp nước biển. Nhưng nếu tiếp nước biển ở nhà, luật lệ y tế ở Bỉ đòi hỏi phải thử nghiệm máu, và một số thủ tục khắt khe khác, nên cấp thời chỉ còn cách chích thuốc khoẻ. Bà cũng không có sẵn loại thuốc này.

Cuối tuần, chỉ có nhà thuốc trực, nên nửa giờ sau, mới tìm mua được thuốc. Việc chích thuốc cho ông cũng không mấy dễ dàng. Mười phút sau, bác sĩ khám lại. Bệnh nhân có phần tươi tỉnh.

Gia đình bưng đến một chén súp. Mỗi lần đưa được một muỗng súp vào miệng là ông ho sặc sụa, phải uống thêm nước cho thông cổ.

Trước đây, ông xin mọi người đừng hỏi khi ông đang ăn. Lần này, không ai lên tiếng, nhưng ông vẫn cứ ho liên tiếp, có khi không nuốt được phải nhả ra. Mồ hôi từng giọt hai bên cổ. Ông cúi đầu xuống, nhắm mắt lại chịu đựng cơn đau. Mọi người nhìn ông ứa nước mắt. Khoảng nửa giờ sau, ông đưa vào miệng được gần một chén súp nhỏ. Sau đó, ông dùng một ly crème flanc, nuốt vào ít khó khăn hơn.

Ăn xong, ông tiếp tục hỏi thăm mọi người, kể cả những người vắng mặt. Ông Diệp còn nhớ, những lần đến Brussels, ông Nguyễn Tấn Liêm thường tiếp ông Nguyễn Ngọc Huy tại nhà, tâm đắc nhắc những kỷ niệm xa xưa, vì hai người cùng tuổi, cùng học trường Petrus Ký Sài Gòn. Có lần ông Nguyễn Tấn Liêm tâm sự:

“Bây giờ chỉ còn có anh là thỉnh thoảng tôi gặp, còn mấy người khác chẳng bao giờ tôi thấy..” Ông chậm rãi đáp lại: “Còn chút sức khỏe, tôi còn cố gắng đi. Vài ba năm nữa thôi, cũng sẽ hết đi nổi. Mỗi năm tôi ở nhà bốn tháng, còn tám tháng ở nhà anh em..”

Đêm hôm đó, dù đã khuyên thầy mình đi ngủ sớm, ông Diệp vẫn thấy bóng ông lờ mờ sau cửa kiếng. Ông đang viết, khom người trên nệm. Đồng hồ chỉ 1 giờ 30 sáng.

Mọi người sắp xếp đưa ông về Paris, vì điều kiện chăm sóc y tế ở đó khả quan hơn ở Bỉ. Hơn nữa, ngày Thứ Bảy 21-7-1990, ông có cuộc họp quan trọng ở Paris.

Khoảng 1 giờ trưa ngày 21-7, các ông Trần Cẩn Trọng, Thái Quan, và Lê Chí Thiện đến dùng cơm chung với ông và gia đình. Ông cũng chỉ nuốt được một muỗng cơm.

5 giờ 40, ông chuẩn bị rời Brussels. Hành trang của ông gồm mấy cái xách tay, cặp da đầy sách vở, áo quần, thuốc men, và một máy xay thức ăn nhỏ. Ông để lại một số vật dụng, dự tính sẽ trở lại Brussels để đi Hòa Lan sau đó.

Ông đưa tay chào gia đình. Không ngờ đó là lần cuối cùng gia đình ông Nguyễn Ngọc Diệp tiếp người thầy của mình.

Paris ngậm ngùi

Thứ Bảy 21-7-1990. Ông Trần Cẩn Trọng đưa ông về nhà mình, và gọi điện thoại ngay cho một bác sĩ quen đến vào nước biển cho bệnh nhân. Nhưng khi vào được khoảng 300cc thì bệnh nhân than mệt phải ngưng lại. Buổi chiều, ông ăn được cơm và cho biết đã khỏe lại một chút.

Thứ Ba 24-7-1990, ông họp toàn thể Liên Khu Bộ Âu Châu đến 11 giờ khuya.

Thứ Tư, ngày 25-7-1990. Thức dậy, ông cảm thấy bình thường. Nhưng đến trưa thì ông than mệt. Bác sĩ Nguyễn Minh Tân đến chích nước biển cho ông, nhưng chỉ được 250cc rồi ngưng lại.

Tối đó trưởng nam của ông, Nguyễn Ngọc Quốc Thụy đến thăm. Bác sĩ Tân đề nghị gia đình nên đưa bệnh nhân về Hoa Kỳ chữa trị. Cô Nguyễn Ngọc Thúy Tần, ái nữ của ông, từ New York gọi điện thoại qua, ông nói không ngủ được, vì thời tiết Paris quá nóng.

Thứ Năm, 26-7-1990. Ông cố gắng nuốt được hai muỗng súp, nhưng vẫn chưa mất hết vị giác, vẫn còn muốn dùng thức ăn như bí, cá mòi. Bác sĩ Tân chích một liều thuốc an thần.

Thứ Sáu, 27-7-1990. Ông có cảm giác buồn ngủ. Bác sĩ chích một mũi thuốc Kenacort. Ông ngủ được đêm hôm đó.

Thứ Bảy, 28-7-1990. Sáng thức dậy, ông nói với ông Trọng đã ngủ ngon đêm qua. Ông Trọng làm cho ông một ly sữa hột gà. Ông căn dặn ông Trọng xem lại bài thuyết trình ông đã soạn sẵn để tiến hành Đại Hội Hòa Lan.

Quốc Thụy đi mua vé máy bay cho ông trở về Hoa Kỳ. Chiều trở về dùng cơm với ông. Bác sĩ Tân chích thêm nước biển, nhưng ông từ chối vì mệt.

Đến chiều, bác sĩ tiếp tục chích nước biển. Nhưng khi chích vào gân nào, thì bể mạch máu đến đó, nơi chích bị sưng phù lên. Bác sĩ đành phải chích vào thịt loại Cortine Naturale.

Khoảng 8 giờ tối, ông ra phòng khách nói chuyện với bác sĩ Tân, ông Trọng và một số đoàn viên. Bác sĩ Tân hỏi ông cần dùng gì thêm không, ông nói muốn uống hết lọ Renutryle để thay cho thức ăn. Bác sĩ kiếu từ ra về.

Khi người nhà bưng ly trà sâm lên, ông không thể uống được vì còn quá nóng. Nghe xong, ông Trọng đi xuống bếp.

9 giờ 15, Quốc Thụy gọi ông Trọng cho hay ông mệt và hơi thở có dấu hiệu khác thường. Ông Trọng thấy ông hắt hơi, khó thở. Cả ba người, ông bà Trọng, và Quốc Thụy cùng đở ông lên giường. Ông Trọng gọi điện thoại cho bác sĩ Tân.

Bác sĩ Tân đến ngay. Người thầy thuốc tận tụy những ngày cuối cùng với bệnh nhân, cũng là nhân chứng cho giờ phút lâm chung của người bạn chí thiết Nguyễn Ngọc Huy. Ông thở hắt hơi ra vài lần. Rồi lịm dần, lịm dần…

Ông trút hơi thở cuối cùng trên tay người con trai, kết thúc một định mệnh sáu mươi sáu năm trên cõi nhân gian này, vĩnh biệt các môn sinh và bằng hữu, để bước qua một thế giới khác lúc 9 giờ 30 tối ngày 28-7-1990.

Trên bầu trời hải ngoại, ngọn hải đăng Nguyễn Ngọc Huy đã vụt tắt.

Nỗi đau sâu thẳm

Cuối thập niên 1970, và đầu thập niên 1980, trong lúc người Việt tỵ nạn cộng sản khắp nơi náo nức với phong trào trở về chiến đấu giải phóng quê hương, thì ông Nguyễn Ngọc Huy là người đi tiên phong mở mặt trận nhân quyền làm vũ khí đấu tranh, vì ông nhận thấy giải pháp quân sự rất khó thực hiện.

Ông thành lập Liên Minh Dân Chủ Việt Nam, quy tụ nhiều thành phần trí thức và tâm huyết. Rồi ông vận động các chính khách ngoại quốc, tướng lãnh, dân biểu, nghị sĩ của nhiều quốc gia để thành lập Ủy Ban Quốc Tế Yểm Trợ Việt Nam Tự Do. Hai thành quả vượt bực của nhà vận động Nguyễn Ngọc Huy.

Có thể ví ông như “Thiên tài là cái đồng hồ đi trước” khi ông đi trước quần chúng một khoảng cách xa. Không phải dễ dàng hướng dẫn dư luận. Nhưng các thành viên của hai tổ chức này lạc quan về triển vọng cuộc tranh đấu sẽ thành công. Trong cuộc nói chuyện tại Calgary, Canada ngày 21-12-1986, ông tin rằng cộng sản sẽ sụp đổ, nếu người Việt biết vận dụng các yếu tố: tổ chức lực lượng trong nước, người Việt hải ngoại yểm trợ, và vận động quốc tế yểm trợ cuộc đấu tranh chính nghĩa của người Việt.

Nhưng mệnh trời đã không cho ông đi nốt cuộc đấu tranh mà ông đã khổ công đeo đuổi hơn bốn mươi năm qua. Căn bệnh ung thư lưỡi kéo dài nhiều năm, nay đã đến giai đoạn cuối. Bác sĩ kinh ngạc khi thấy ông đã coi thường căn bệnh hiễm nghèo, vẫn sống, vẫn bôn ba khắp nơi, vẫn lạc quan về tương lai Việt Nam.

Hình ảnh của ông những ngày cuối cùng trên giường bệnh, không phải trong bệnh viện đủ tiện nghi, mà tại nhà một người bạn, mới biết ông đã chiến đấu với tử thần, dũng cảm như một chiến sĩ ngoài trận địa. Vẫn đọc, vẫn viết, vẫn hội họp. Như thể ông có thể thắng trong cuộc chạy đua với thời gian. Nhưng hơn ai hết, ông linh cảm tử thần đã lảng vảng bên mình khi nhận ra cuộc chiến đấu với căn bệnh đã đến hồi kết thúc.

Đức độ và tài năng của ông Nguyễn Ngọc Huy đã khiến dân biểu Canada, ông David Kilgour đã ví ông như một Gandhi Việt Nam. Nhưng ông lại đảm trách quá nhiều vai trò, từ trên chính trường đến hậu trường. Là con người nhìn xa trông rộng, hẳn ông đoán được đoàn thể của ông sẽ đối diện với nhiều khó khăn nội bộ lẫn với bên ngoài khi ông nằm xuống.

Nhiều người hối thúc ông dự liệu một truyền nhân thay thế ông tiếp tục lèo lái hai tổ chức quan trọng này. Nhưng, theo nhà văn Đỗ Tiến Đức cho biết, nhiều lần được hỏi, ông Nguyễn Ngọc Huy vẫn chưa có câu trả lời. Có lẽ đây là nỗi ưu tư lớn nhất những ngày cuối đời của ông.

Ngày 16-4-1974, bà Dương Thị Thu, người vợ của ông do bạn bè mai mối, đã chết trong một tai nạn tại bãi biển Vũng Tàu. Người đàn bà đảm đang, không bao giờ xen vào công việc của chồng, chăm sóc và dạy dỗ con cái để ông có thì giờ hoạt động. Trong mọi hoàn cảnh, bà đã chu toàn bổn phận người vợ trong âm thầm, như một anh hùng vô danh trong bài thơ “Anh Hùng Vô Danh” của ông.

Ông mang nỗi đau khổ này trong lòng, suốt phần đời mười sáu năm còn lại. Nghĩ đến tình yêu, lòng chung thủy và hy sinh của bà đã dành cho ông trong nghĩa vợ chồng hai mươi hai năm, từ đó ông không còn tha thiết người đàn bà nào nữa.

Thật lạ lùng, cùng ngày tháng ấy, đúng tám năm sau, 1982, tai nạn thứ hai lại đến với ông. Đứa con út 17 tuổi, Nguyễn Ngọc Khánh Thụy, chết ngộp trong xe hơi trong nhà để xe của một người bạn Mỹ, ông William Littauer, tại Iang Larchmont, New York. Lúc đó, ông đang ở Cambridge, Massachusetts, và ái nữ Nguyễn Ngọc Thúy Tần đang học ở Albany, New York.

Đây là đứa con ông yêu thương nhất, vì cậu bé mồ côi mẹ từ nhỏ, thường xuyên vắng cha, và người chị lại đi học ở xa. Cậu đã tự vận bằng hơi thán khí xe tỏa ra. Nỗi đau của người cha biến thành nỗi ân hận suốt đời.

Trong một lần nói chuyện với ông Tạ Văn Tài, người cộng tác với ông những năm khảo cứu tại Đại Học Harvard, khi nói về cái chết của đứa con, ông đã tâm sự: “Tôi luôn luôn lo việc đoàn thể và đất nước, nhưng đời riêng của tôi gặp nhiều bất hạnh”

Phải chăng, những câu thơ của ông trong tập thơ nổi tiếng Hồn Việt ngầm báo trước một định mệnh khắc nghiệt:

Éo le thay muốn phụng sự quê hương

Phải dẫm nát bao lòng mình kính mến

Trong cuộc phỏng vấn tại California, ông Vương Từ Mỹ đã nói về một phiên họp đặc biệt của đảng Tân Đại Việt và Phong Trào Quốc Gia Cấp Tiến, được tổ chức tại đường Bà Triệu ở Chợ Lớn, vài ngày trước khi miền Nam mất vào tay cộng sản. Lần đầu tiên, thủ lãnh Nguyễn Ngọc Huy đã khóc trước những người đã từng sát cánh hoạt động với ông trong một giai đoạn lịch sử đầy giông bảo. Ông cương quyết ở lại cùng sống chết với anh em. Ông nghĩ rằng thuyền trưởng phải chết theo con tàu. Nhưng tổ chức đã phân tích lợi hại, và quyết định vị thủ lãnh phải ra đi.

Nhìn bức hình của ông, được chụp lại từ một đoạn phim tài liệu. Đôi mắt nhân chứng, đôi mắt hồi tưởng về một quá khứ đầy những hoài bảo xây dựng đất nước.

Hồi tưởng những năm giảng dạy ở Học Viện Quốc Gia Hành Chánh để đào tạo các cán bộ cho nhu cầu hành chánh của Việt Nam Cộng Hòa. Vào năm 1974, cùng với Giáo sư Nguyễn Văn Ngôn, Bác sĩ Mã Xái, Tiến sĩ Phan Văn Song, Tiến sĩ Đỗ Thành Chi, Tiến sĩ Nguyễn Hoàng Trinh, và Giáo sư Trần Minh Xuân, ông đã thành lập Trường Cao Đẳng Thương Mại Minh Trí nhằm đào tạo một đội ngũ cán bộ có kiến thức và chuyên môn để lãnh đạo đất nước trong giai đoạn hậu chiến tranh.

Đôi mắt ấy chắc cũng hồi tưởng về một quê hương thân yêu trên đường xây dựng tương lai, với một chính nghĩa sáng rực, bỗng chốc bị cướp sạch, bị đào xới tận gốc rễ bởi bàn tay người cộng sản. Làm sao thấu được nỗi đau đoạn trường bên trong con người ấy? Hẳn đây là nỗi đau lớn nhất của ông và cũng là nỗi đau của bao người Việt tỵ nạn cộng sản nơi xứ người.

Để lại cho đời

Ông Nguyễn Ngọc Huy ra đi, để lại cho đất nước và các thế hệ đi sau một tấm gương phục vụ đất nước, những công trình nghiên cứu về chính trị và văn hóa, chủ trương xây dựng tương lai Việt Nam, và các tổ chức chính trị do ông thành lập vẫn còn tồn tại đến ngày hôm nay.

Nhưng có thể tóm gọn lại hai di sản quan trọng nhất ông để lại cho hậu thế: Sự hy sinh cho đất nước và nỗ lực quảng bá nền văn minh pháp trị các bậc tiền bối để lại.

Di sản thứ nhất rất cần cho những người lãnh đạo chính trị, những nhà tranh đấu cho tương lai Việt Nam. Ông đi xe buýt, ngủ nhà anh em. Nơi ông, không có chỗ cho danh vọng bạc tiền, chỉ có đất nước, chỉ có Quốc Dân. Ông là người “Làm việc nước chỉ thấy nước” như câu nói của ký giả Phạm Thái. Với ông, “Tổ Quốc Trên Hết”, không mơ hồ, mà thể hiện cụ thể bằng chính đời sống hiện tiền của ông.

Ông coi đảng phái chỉ là phương tiện. Ông chưa bao giờ xưng danh chức vụ lãnh đạo của mình khi đi diễn thuyết. Ông thuyết phục người khác không phải bằng tài năng hay kiến thức lỗi lạc của mình, mà bằng lý lẽ và tấm chân tình của ông.

Có những tài năng người ta chỉ đứng xa xa mà thán phục. Còn tài năng Nguyễn Ngọc Huy, người ta lại muốn gần gũi. Giáo sư Jerome Cohewn, Giám đốc đầu tiên của Chương Trình Luật Á Châu đã nói về ông:

“Ông là người uyên bác, phong nhã, và dí dỏm, ai gần gũi ông đều vui thích”

“He was a learned, gentle, humorous person who was always a joy to be near”

Đọc những tác phẩm ông để lại về khảo luận, nghiên cứu cả hai lãnh vực chính trị và văn hóa, mới thấy sự uyên bác của học giả Nguyễn Ngọc Huy. Không thể không nói đến thi ca của ông, với những vần thơ đầy ắp tình yêu nước, sáng tác để ca tụng các anh hùng lịch sử của dân tộc Việt Nam.

Giữa những tác phẩm đa dạng ấy, chỉ cần dẫn chứng một bộ sách hiện trưng bày tại thư viện trường Luật Đại Học Harvard, thành phố Cambridge của Hoa Kỳ: The Le Code: Law in Traditional Vietnam. Đây là một công trình nghiên cứu rất công phu gồm 3 tập, trên 1000 trang, viết bằng Anh ngữ cùng với ông Tạ Văn Tài, vừa dịch thuật, vừa chú giải bằng các dữ kiện lịch sử và luật pháp đối chiếu.

The Le Code chính là di sản về nền pháp trị cổ truyền, là nền tảng của nhân quyền và dân chủ có giá trị trường cửu. Công trình của ông đã đóng góp vào việc vinh danh nền pháp trị cổ truyền của Việt Nam, không những là di sản cho các học giả người Việt, mà còn cho thế giới Tây phương. Giáo sư Alexander Barton Woodside, một học giả nổi danh tại Đại Học Harvard cho rằng bộ sách này là:

“Một trong vài cuốn sách rất hiếm về Việt Nam có giá trị hoàn hảo. Chắc chắn đó là thành tích học thuật quan trọng nhất xuất phát từ hàng ngũ trí thức Việt Nam lưu vong ở hải ngoại sau năm 1975. Đó cũng là tiêu mốc đánh dấu kỷ nguyên mới trong tương quan văn hóa Việt Nam và Tây Phương, “One of those very rare works about Vietnam that may claim to be definitive. This is undoubtedly the most important single achievement in scholarship to come thus far from the ranks of Vietnamese intellectuals exiled from Vietnam since 1975. It also represents a significant landmark in Vietnamese-Western Cultural relations”

Bổ túc cho giá trị của tác phẩm, Giáo sư Douglas Pike của Đại Học University of California-Berkeley đã phê bình:

“Đây là tác phẩm học thuật gây ấn tượng mạnh mẽ nhất trong thập niên vừa qua”

“The most impressive piece of Vietnamese scholarship in the past decade”

Trong một xã hội cộng sản đầy ảo tưởng muốn nhào nặn mọi lãnh vực theo quan điểm Mác Lê, hôm nay bộ sách The Le Code đang được trưng bày tại Viện Sử Học ở Hà Nội, đã nói lên vừa là giá trị bền vững về công trình nghiên cứu của học giả lỗi lạc Nguyễn Ngọc Huy, vừa là một nghịch lý cho người cộng sản hiểu rằng họ không thể nào tiêu diệt được văn hóa dân tộc. Chỉ có trở về nguồn dân tộc mới mong bảo vệ được non sông Việt Nam.

Nguyện vọng của ông Nguyễn Ngọc Huy là muốn được hỏa táng và đem tro cốt về quê nhà. Dù nguyện vọng chưa thực hiện được, nhưng sự hiện diện tác phẩm The Le Code đã nói lên sự kính trọng công trình trí tuệ của ông ngay tại trung tâm quyền lực của một nước cộng sản, đồng thời như một điềm báo trước, sớm muộn cộng sản Việt Nam sẽ cáo chung và dân tộc sẽ sinh tồn như đã sinh tồn mạnh mẽ bốn ngàn năm nay.

Non nước ở lại

Nhìn chiều dài cuộc tranh đấu, sự nghiệp của nhà lãnh đạo chính trị Nguyễn Ngọc Huy đã nửa đường đứt gánh. Nhưng nếu nhìn toàn phía cuộc đời ông, thì đây là một bức tranh hoàn hảo với một nội dung sống động, những đường nét và màu sắc ý nghĩa, làm nên một tác phẩm giá trị gần như khó tìm được tác phẩm thứ hai.

Nỗi đau về những mất mát trong gia đình, nỗi buồn về công lao bao nhiêu năm tranh đấu tan tành sau ngày cộng sản cướp đoạt miền Nam, nỗi đau thể xác ròng rã tám năm chiến đấu với trọng bệnh, và những chướng ngại trên đường hoạt động, ông đã vượt qua, đã chiến thắng nghịch cảnh.

Ông đã sống, đã tranh đấu, đã cống hiến cho đất nước Việt Nam trong mọi thời điểm của lịch sử, từ tham gia kháng chiến đến lãnh đạo các tổ chức chính trị, từ giảng huấn đến biên khảo, từ hợp tác bước qua vận động quốc tế. Ông đã làm nên tấm gương một nhà lãnh đạo đức độ và tài năng, đầy viễn kiến và thuyết phục, đem lại cho những người theo ông niềm tin về triển vọng thành công cuộc tranh đấu dân chủ hóa Việt Nam. Ông đã tạo được ảnh hưởng sâu rộng, không những trong cộng đồng người Việt, mà cả trên thế giới.

Hình ảnh một nhà lãnh đạo chính trị sức cùng lực kiệt, lại mang trọng bệnh ung thư, lầm lũi trên đường thiên lý bất kể nắng mưa sương tuyết, để tìm phương cứu vớt đồng bào khỏi xiềng xích cộng sản, là hình ảnh của tình nhân ái vô cùng lớn lao trong thời đại ngày nay.

Ông Trần Sĩ Hải cho rằng sự ra đi của ông là tổn thất lớn nhất của Cộng Đồng Người Việt hải ngoại, vì sự nghiệp chính trị của ông quá lớn lao, con người ông quá vĩ đại, con đường ông vạch ra quá rõ ràng.

Ông đã dành trọn cuộc đời phụng sự đất nước, từ tuổi thanh xuân đến hơi thở cuối cùng. Không có gì dang dở nơi ông. Những kẻ ở lại, những người từng theo ông, cần tiếp tục đi nốt phần còn lại của cuộc tranh đấu ông đã vạch ra. Như một lời tự vấn mà Giáo sư Nguyễn Toản muốn trong lòng mỗi người Việt: “Hãy làm gì để khỏi hổ thẹn với người quá cố”

Người đi, đã ra đi vĩnh viễn, để lại cho các thế hệ Việt Nam những thông điệp mạnh mẽ, tiềm tàng trong hai di sản vàng ròng: Sự hy sinh cho Đất Nước và nền Dân Chủ Pháp trị cho tương lai Việt Nam.

Chu Lynh

Gửi nhiều sách góp ý xây dựng Đảng, cựu Viện trưởng SENA bị khởi tố theo Điều 331

Đài Á Châu Tự Do 

Ông Nguyễn Khắc Mai từ Hà Nội cho biết, ông là bạn thân với ông Nguyễn Sơn Lộ từ mấy chục năm nay.

Theo lời Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Văn hóa Minh Triết thì ông Lộ từng tham gia cuộc chiến với Mỹ và lập nhiều công trạng, tuy nhiên khi trở về thì ông nghiên cứu và tiếp nhận kiến thức đồng thời có những tình cảm đáng quý về tình hình của đất nước, về sự phát triển đời sống của nhân dân. Ông Nguyễn Khắc Mai nói với phóng viên Đài Á Châu Tự Do như sau:

“Gần đây thì anh ấy thành lập cái viện think tank về nghiên cứu và phát triển văn hóa.

Anh ấy khẳng định với chúng tôi là ‘bây giờ vấn đề văn hóa trở thành một vấn đề rất là lớn của thời đại và của dân tộc’ cho nên anh ấy muốn đóng góp vào lĩnh vực này, vào những hoạt động về văn hóa.

Anh ấy cũng là một số đầu sách nghiên cứu để kiến nghị một cách chân thành với những người lãnh đạo của đất nước, anh ấy thường cho in những tác phẩm ấy, những kiến nghị ấy về lĩnh vực kinh tế đặc biệt là về văn hóa cho những người lãnh đạo của đất nước.

Ban Kiểm tra Trung ương thì họ đã xuống làm việc với anh ấy và họ khẳng định rằng họ không cấm các anh ấy phát biểu ý kiến, kiến nghị nhưng mà họ chỉ đề nghị anh ấy đừng có phát tán rộng rãi.”

Theo đó, ông Nguyễn Sơn Lộ được khuyên không gửi các cuốn sách góp ý cho địa phương, các tỉnh thành, các Bí thư tỉnh ủy hay các Đại biểu Quốc hội mà chỉ nên gửi trong nội bộ, ví dụ như Ban Tổ chức, Ban Kiểm tra Trung ương Đảng, Ban Tuyên giáo, Ban Bí thư, Bộ Chính Trị…

Cũng theo ông Nguyễn Khắc Mai thuật lại thì ông Lộ đồng ý chỉ gửi góp ý của mình tới những nơi có trách nhiệm, tuy nhiên không hiểu lý do gì dẫn đến chuyện bị khởi tố.

#RFAVietnamese #NguyenSonlo #SENA #Vietnam #VietnamHumanrights #MinhDuong

https://www.rfa.org/…/former-sena-chief-nguyen-son-lo…

Gửi nhiều sách góp ý xây dựng Đảng, cựu Viện trưởng SENA bị khởi tố theo Điều 331

RFA.ORG

Gửi nhiều sách góp ý xây dựng Đảng, cựu Viện trưởng SENA bị khởi tố theo Điều 331

“Nói là chống phá thì không đúng đâu, bởi vì anh ấy chỉ có cái tâm là xây dựng muốn đóng góp, muốn sửa lỗi, muốn cải tiến, muốn cho cái Đảng này, cái chính quyền này nó văn minh, văn hóa hơn”- ông Nguyễn Khắc Mai nói về người bạ…

Chuyện con bò trong tòa – Tuấn Khanh

Chuyện con bò trong tòa

Tuấn Khanh

Trong phiên tòa xử Tịnh Thất Bồng Lai ngày 20/7, luật sư Âu Quang Phục, người được gọi là bảo vệ cho bị hại Trần Ngọc Thảo tức ông Thích Nhật Từ, đã đặt một vấn đề với những người ở Tịnh Thất Bồng Lai, trước mặt phiên tòa, điều mà ai nấy đều phải ngỡ ngàng:

“Nếu như bây giờ tôi nói Chúa ngu như bò thì các ông thấy sao?”

Luật sư Phục đưa ra câu hỏi này, bởi đơn tố cáo vì cho là bị xúc phạm của ông Trần Ngọc Thảo, nói rằng thành viên của Tịnh Thất Bồng Lai đã phát biểu nói “Thích Nhật Từ ngu như bò”. Tức giận do bị so sánh với con bò nên ông Thích Nhật Từ đã làm đơn khởi kiện, nói bị xúc phạm danh dự cá nhân, nhất định hoàn toàn không thể là bò.

Thế nhưng câu hỏi được đặt ra mang tính đối chiếu của luật sư Phục khiến ai nấy ngỡ ngàng, thậm chí phải bật cười vì sự ấu trĩ – và phải nói rõ là ngu xuẩn về trình độ nhận thức – vì Chúa Giêsu dù được đặt ra ở bất kỳ vị trí nào cũng không hề liên quan gì với những người trong Tịnh Thất Bồng Lai.

Nhưng cần nhớ, câu hỏi kém cỏi của luật sư Phục cũng có thể đáng bị đặt vào tình trạng bị khởi tố theo Điều 116 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, điểm C “Gây chia rẽ người theo tôn giáo với người không theo tôn giáo, giữa người theo các tôn giáo khác nhau, chia rẽ các tín đồ tôn giáo với chính quyền nhân dân, với các tổ chức chính trị – xã hội”.

Chuyện cố ý đưa Đức Chúa Giêsu vào trong nội dung này chính là mang tính xúc phạm vô cớ, vì nhân vật Chúa Giêsu không liên quan đến vụ án, và không thể hiện bất kỳ sự suy luận kiến giải nào về việc so sánh ông Thích Nhật Từ ngu như bò, ngoại trừ khi ông Thích Nhật Từ tự coi mình ngang hàng với Chúa, và đặc biệt là hoàn toàn khác con bò.

Cần nói rõ là nội dung quyết định ở đây, đang được cân phân giữa ông Thích Nhật Từ và con bò, là hai thực thể rất rõ ràng.

Vấn đề là phía bị hại cần phải xác định rằng con bò có những điểm xấu như thế nào mà người ta so sánh với mình khiến mình cảm thấy bị xúc phạm, kể cả chuyện “ngu” ở mức nào là được so sánh với con bò.

Tuy vậy, ở một góc nhìn khác, việc so sánh một con người với một con vật đó là chuyện thường tình mang đầy tính văn hóa dân gian vẫn diễn ra trong xã hội, ví dụ người ta vẫn so sánh “Anh A làm việc chăm chỉ như một con ong” hoặc “Anh B suốt cuộc đời cặm cụi như một con kiến”, hoặc “Hắn làm việc như con trâu”. Sự kiện ông Thích Nhật Từ tức giận đâm đơn kiện, có thể coi là vụ kiện đầu tiên trong lịch sử tòa án Việt Nam về việc bất đồng so sánh với thú vật.

Trở lại câu hỏi rất “bò” của luật sư Âu Quang Phục, chắc chắn sẽ không ai ở phiên tòa xử Tịnh Thất Bồng Lai buồn nghĩ gì cả, vì câu chuyện này không liên quan với vụ án. Hơn nữa, câu hỏi này đầy tính khiêu khích, thể hiện chủ trương thù hằn tôn giáo.

Ông Trần Ngọc Thảo / Thích Nhật Từ trong các bài giảng của mình cũng đã có rất nhiều lần vô cớ công kích Chúa Giêsu và nội dung của tín ngưỡng Công giáo. Thế nhưng phía Công giáo Việt Nam đã đối xử với ông không khác gì người lớn thấu hiểu, nhìn thấy đứa con nít cứ chòi chọc tìm cách gây khó. Vì vậy không loại trừ là luật sư của ông Thảo cũng đã được hướng dẫn cách trình bày quan điểm so sánh tín ngưỡng như vậy ở phiên tòa này – dĩ nhiên trình bày kiểu như vậy thì rất “bò”.

T.K.

Nguồn: Tuấn Khanh’s Blog

Vụ Tịnh thất Bồng Lai và hệ thống lãnh chúa Việt Nam

Vụ Tịnh thất Bồng Lai và hệ thống lãnh chúa Việt Nam

Jackhammer Nguyễn

24-7-2022

Một người bạn vong niên của tôi tâm sự rằng, anh muốn về Việt Nam sống sau nhiều năm bôn ba xứ người. Anh bảo, Việt Nam bây giờ không phải sống dưới một chế độ khắc khe và ảm đạm như những năm anh bỏ nước ra đi.

Nhưng điều cuối cùng làm anh quyết định không quay về Việt Nam là… viên công an phường! Anh bảo, những câu nói lặp đi lặp lại về sự kiên định lập trường của ông Nguyễn Phú Trọng, hay là màu đỏ cộng sản bay phấp phới mọi nơi thì anh không… quan tâm, nhưng anh không thể cứ đi bia ôm hàng tuần với viên công an phường ấy được!

Câu chuyện viên công an phường đi bia ôm của anh bạn, theo tôi cũng chính là câu chuyện bản án tổng cộng mấy mươi năm tù mà các thành viên Tịnh thất Bồng Lai vừa lãnh. Viên công an bia ôm của anh bạn tôi, hóa thân thành công an huyện Đức Hòa, và một viên chức tu hành của chính phủ có tên là Thích Nhật Từ, có biệt danh trên mạng xã hội là ‘con bò’ (ông ta kiện Tịnh thất Bồng Lai ra tòa vì có người ở đó mắng ông ngu như bò).

Thích Nhật Từ (trái) và năm người ở Tịnh Thất Bồng Lai. Nguồn: RFA edit

Viên công an bia ôm, công an Đức Hòa, Nhật Từ ‘con bò’, chính là những viên lãnh chúa cỏn con ở địa phương của hệ thống cai trị Việt Nam hiện nay. Trên đỉnh của hệ thống này là các “đại công tước” ủy viên Bộ Chính trị. Phía dưới là 200 “công hầu” ủy viên Trung Ương đảng, cai trị các tỉnh và các bộ chuyên môn. Các vị công hầu này, tùy theo thời thế, lại là “bồi thần” (lãnh chúa đàn em) cho các “đại công tước” trên kia.

Xuống dưới cấp quận, làng, xã, phường là một hệ thống tương tự các lãnh chúa con con, nhưng đông đúc hơn, và đói ăn hơn. Các “đại công tước”, “công hầu” có nhiều bổng lộc hơn, “ăn chính sách” nhiều hơn, và có nhiều “bồi thần” cống nạp. Còn các lãnh chúa con con như viên công an bia ôm, công an Đức Hòa, hay Nhật Từ con bò, … phải bắt ép dân chúng như Tịnh thất Bồng Lai, hay gã “Việt kiều” tội nghiệp là bạn tôi.

Gã “Việt kiều” thì dù sao cũng có quyền định đoạt số phận mình, còn cụ Lê Tùng Vân và các thanh thiếu niên mồ côi của Tịnh thất Bồng Lai thì không có sự lựa chọn nào.

Nếu cụ Vân và Tịnh thất Bồng Lai không nổi tiếng, không nhận nhiều tiền của bá tánh đóng góp cho những chuyện xã hội của mình, thì có lẽ bàn thờ Phật, hay màu áo nâu sòng của họ chẳng làm phiền lòng viên chức tu hành Nhật Từ con bò. Nhật Từ cũng sẽ chẳng quan tâm đến chuyện Tịnh thất Bồng Lai có gia nhập Giáo hội Phật giáo Việt Nam (bọn “xấu mồm” nói rằng đây là giáo hội quốc doanh) hay không. Hàng ngàn, thậm chí hàng chục ngàn gia đình ở Việt Nam có bàn thờ Phật như thế, mặc áo nâu sòng như thế, chả ai đăng ký cả.

Bản án cuối cùng mà tòa Việt Nam phán cho Tịnh Thất Bồng Lai là “Lợi dụng quyền tự do dân chủ...”. Tất cả những “tội” được cơ quan tuyên giáo tung ra trước đây như là loạn luân (sic), lường gạt (sic) … đều không có.

Tội của Tịnh Thất Bồng Lai là nhận nhiều tiền quá, làm nhiều việc công đức quá, thế là “ảnh hưởng uy tín” của các viên chức tu hành. Các viên chức tu hành bèn cầu viện các viên công an Đức Hòa. Chuyện chỉ có vậy.

Phải chi Tịnh thất Bồng Lai … chia cho thùng phước sương của Nhật Từ con bò thì có lẽ sẽ không đến nỗi. Thùng phước sương này cũng có thể được chia cho các “bồi thần” công an Đức Hòa, thì mọi chuyện sẽ vui vẻ… cả làng!

Một viên chức Việt Nam giấu tên nói với tôi rằng, đây cũng là một trong những nguyên nhân chính làm cho chuyến về Việt Nam vào năm 2005 của Thiền sư Thích Nhất Hạnh bị thất bại. Chỉ vì Thiền sư và Làng Mai nổi tiếng quá, các viên chức tu hành kiểu Nhật Từ, cảm thấy bất an, mà không chỉ bất an về tinh thần, họ còn cảm thấy bất an trong dạ dày nữa.

Thực ra chuyện dạ dày cũng là một trong những nguyên nhân làm cho chế độ Việt Nam hiện nay được ổn định, vì hàng triệu nông dân bỏ quê lên phố, dù sao chăng nữa cũng có cái dạ dày đỡ lép hơn ngày trước, và họ chỉ mong có thế.

Nhưng đối với các viên chức tu hành thì nhu cầu cao hơn, theo đúng như tháp nhu cầu cơ bản của Maslow vậy. Ngoài chuyện ăn uống, ở… các viên chức này còn cần nổi tiếng nữa, cần nhiều tín đồ nữa. Cớ đâu mà ông Tùng Vân và Tịnh Thất lại ngáng đường như thế!

Tháp nhu cầu của Maslow

Câu đầu môi trong các quyển kinh Mác Xít mà các lãnh chúa Việt Nam, trong đó bao gồm cả các viên chức tu hành như Nhật Từ, leo lẻo lúc mới nhập môn là: Vật chất quyết định ý thức. Điều trớ trêu là các lãnh chúa ngày nay lại hay nói chuyện đạo đức, chuyện đốt lò, hơn là chuyện câu thần chú của ông tổ Karl Marx.

Đảng Cộng sản Việt Nam nên đưa vào “kho tàng lý luận” của mình cái tháp nhu cầu của ông Maslow nữa.

Anh bạn vong niên của tôi, đành phải sống buồn bả xa xứ, hơn là thỏa mãn nhu cầu bia ôm của viên công an phường vậy.

Mà nói cho cùng thì cái xứ ấy có còn là cái xứ của anh nữa đâu

Người mẹ Việt Nam và tử sĩ của hai miền Nam-Bắc

Người mẹ Việt Nam và tử sĩ của hai miền Nam-Bắc

Lê Nguyễn

27-7-2022

“Hồn tử sĩ gió ù ù thổi,

Mặt chinh phu trăng dõi dõi soi,

Chinh phu, tử sĩ mấy người,

Nào ai mạc mặt, nào ai gọi hồn?”

(Chinh phụ ngâm khúc – Đoàn Thị Điểm – Đặng Trần Côn)

Sau hơn 20 năm chiến trận giữa hai miền Nam-Bắc, các bà mẹ của bên thắng cuộc được vinh danh ngất trời, có nơi dành vài trăm tỷ xây dựng tượng đài, vừa xây xong vội vàng gửi thư xin Trung ương rót tiền… cứu đói. Thôi thì, vinh danh các Mẹ cũng là điều hợp với đạo lý, nếu như bên cạnh việc làm này, người ta cũng biết cúi xuống cảm thông nỗi đau của những bà mẹ bên thua cuộc, ngày ngày quét bụi trên cái bàn thờ của thằng con tử sĩ VNCH hay tựa cửa mong ngóng ngày trở về của đứa con đi cải tạo nơi rừng xa, núi thẳm.

Sau cái ngày 30 tháng 4 ấy, người ta chứng kiến sự đoàn tụ của nhiều gia đình bị ly tán vì cuộc chiến. Một sự đoàn tụ kéo theo đủ niềm vui, nỗi buồn, có nhiều nụ cười, nhưng không thiếu nước mắt. Tôi vẫn thường kể lại trường hợp một bà mẹ hạnh phúc nhất trong những bà mẹ thời chiến, đó là bà mẹ người bạn đồng môn của tôi. Dưới chế độ VNCH, bà là mẹ một trung tướng kỳ cựu thời Tổng thống Ngô Đình Diệm, sau 30.4.1975, được biết bà cũng là mẹ một thiếu tướng của bên thắng cuộc. Song đó chỉ là ngoại lệ. Bên cạnh bà mẹ hạnh phúc đó, có hàng chục, hàng trăm ngàn bà mẹ ứa nước mắt, ngày ngày thắp hương trên bàn thờ những đứa con không bao giờ trở về, dù của bên này hay phía bên kia.

Nhưng cay đắng và khó xử nhất lại là các bà mẹ có những đứa con trai mà hoàn cảnh xã hội đã đưa đẩy họ đứng ở hai bên chiến tuyến đối nghịch nhau. Cuộc chiến kết thúc, mẹ chứng kiến bao nhiêu cảnh xào xáo gia đình. Người anh đi tập kết trở về hằn học lên lớp thằng em trai theo “ngụy”, “ôm chân đế quốc”, “giết hại đồng bào”… người mẹ không kiên nhẫn được nữa, bà gào lên trong nước mắt: ”nó theo ngụy, nhưng nó nuôi tao sống tới bây giờ, mày theo cách mạng, mày có nuôi tao được ngày nào chưa?”. Nhiều tình huống gia đình như thế mà những bà mẹ sau cuộc chiến hẳn sẽ rất đau lòng khi chứng kiến.

Những ngày ở trại cải tạo Xuyên Mộc, một người bạn tù họa sĩ kể cho tôi nghe câu chuyện gia đình của một nữ viên chức cao cấp bên thắng cuộc, có người anh ruột là “ngụy dân” đang sống ở Sài Gòn. Cứ mỗi lần người phụ nữ này đến thăm nhà người anh là những con trai của ông này vừa nhác thấy bóng dáng người cô ruột đã đứng bật dậy, bỏ nhà đi chỗ khác. Hậu quả của sự ly tán lòng người khiến cho người nữ viên chức này ray rứt không yên.

Một người bạn đồng môn của tôi vừa qua đời cách nay mấy năm, vào thập niên 1970, từng trải qua những ngày cải tạo ở một trại thuộc vùng núi Châu Đốc. Bữa nọ, ban giám thị trại thông báo anh có một người anh ruột là Thiếu tướng NTB, tư lệnh phó một quân khu đến thăm, yêu cầu anh ra gặp. Anh trả lời thẳng thừng với họ: “tôi không có người anh nào tên NTB cả!”. Cuối cùng thì ông thiếu tướng đã thân hành vào tận nơi ở thăm cậu em “ngoan cố”. Câu chuyện đó nói lên lòng tự trọng của người thua cuộc, dẫu là trong chỗ ruột rà, nhưng quan trọng hơn, nó phản ánh một số thực trạng đáng tiếc của nhiều gia đình sau ngày 30.4 khi con cái họ từng ở hai chiến tuyến đối đầu nhau. Và người đau khổ nhất khi phải chứng kiến những thực trạng đó chính là những người mẹ.

Sáng nay (4.2019), mình đọc trên trang của bạn Báu Lại Thanh một bài viết ngắn thật ấn tượng. Bài viết trích dẫn truyện “Má Phải Sóc Trăng” của nhà báo Nguyễn Tiến Tường. Đó là câu chuyện về một người mẹ có mấy người con trai, thằng Tư đi lính VNCH, thằng Năm theo quân giải phóng, thằng Sáu đi đâu mất tích. Một đêm nọ, thằng Năm được lệnh công đồn, trong đồn có thằng Tư:

(trích) “Đêm công đồn thằng Năm tìm cho được anh mình trong những xác chết la liệt, nó đã hoàn thành nhiệm vụ trên giao. Trên đường về nó tranh thủ ghé nhà cho Má nó hay.

– Anh Tư chết rồi Má” (hết trích).

Câu nói ráo hoảnh, sắc ngọt như một nhát dao bén, song chắc chắn đàng sau đó là rất nhiều nước mắt của người mẹ già nua!Nên chăng trong những ngày 30 tháng 4, 27 tháng 7 trên đất nước này, bên cạnh hàng triệu gia đình vui của bên thắng cuộc, hàng triệu gia đình buồn của bên thua cuộc, chúng ta hãy dành những phút lắng lòng tưởng nhớ đến những bà mẹ của thằng Tư, thằng Năm do mẹ rứt ruột sinh ra và đau đớn chứng kiến cảnh chúng chĩa súng, nã đạn vào nhau để hoàn thành những nghĩa vụ “thiêng liêng” nhất.

TỈNH NGỘ ĐÃ QÚA MUỘN

TỈNH NGỘ ĐÃ QÚA MUỘN

ĐOÀN VĂN TOẠI là một Sinh Viên thân cộng nổi tiếng, Ông trong Chủ tịch đoàn Hội Liên hiệp Sinh viên Sài Gòn , Và đã tham gia vào các hoạt động đòi hoà bình khác nhau, đã lãnh đạo sinh viên biểu tình chống chế độ TT Thiệu và sự dính líu của người Quân-Đội Mỹ tại VN, sau đây là một hồi ký ngắn của ông.

***

Khi cộng sản chiếm miền Bắc Việt Nam năm 1954, hàng triệu người đã lũ lượt di cư vào Nam. Tôi đã tận tai nghe nhiều câu chuyện về sự đau khổ tột cùng của họ. Nhưng cũng như nhiều người miền Nam lúc ấy, tôi đã không tin vào những câu chuyện đó. Cả về sau này, tôi cũng đã không tin về những câu chuyện được kể trong tác phẩm Quần Đảo Ngục Tù (The Gulag Archipelago) của văn hào Solzhenitsyn. Tôi không tin vì cho rằng đó là những luận điệu tuyên truyền chống Cộng.

Nhưng vào năm 1979, tôi đã cho xuất bản cuốn sách Việt Nam Ngục Tù của chính tôi. Liệu những người đã từng nếm trải những kinh hoàng dưới chế độ cộng sản có bao giờ thử thuyết phục những người không có cái kinh nghiệm này?

Kể từ năm 1945, năm tôi ra đời tại huyện Cái Vồn thuộc tỉnh Vĩnh Long, một tỉnh lỵ cách Sài Gòn 160 km về hướng Nam, cho đến khi ngày tôi rời Việt Nam vào tháng 5/1978, tôi chưa từng một ngày vui hưởng hoà bình. Căn nhà gia đình tôi đã bị đốt 3 lần trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Trong suốt cuộc đời niên thiếu, tôi đã phải theo cha mẹ di tản từ làng này sang làng khác để tránh tên bay đạn lạc.

Cũng giống như những người Việt Nam yêu nước khác, cha mẹ tôi cũng tham gia kháng chiến chống Pháp. Khi tôi lớn lên, tôi lại tận mắt chứng kiến các nông dân đã bị các quan chức địa phương của chính quyền Sài Gòn áp bức ra sao, và họ đã phải chịu những cuộc oanh tạc tàn khốc của quân Pháp như thế nào. Tôi đã học trong lịch sử sự chiến đấu kiên cường của dân tộc chống lại ách đô hộ ngàn năm của giặc Tàu rồi đến các cuộc kháng chiến gian khổ chống ách thống trị trăm năm của giặc Tây. Với hành trang đó, tôi và các bạn đồng lứa đã lớn lên cũng với nỗi căm thù sự can thiệp của ngoại bang.

Khi các sinh viên Sài Gòn bầu tôi vào chức Phó Chủ tịch Hội Liên hiệp Sinh viên Sài Gòn vào năm 1969 và 1970, tôi đã tham gia vào các hoạt động đòi hoà bình khác nhau, đã lãnh đạo sinh viên biểu tình chống chế độ Thiệu và sự dính líu của người Mỹ. Tôi đã ấn hành nguyệt san Tự Quyết, và đã làm một cuộc du hành đến California để thuyết trình về các hoạt động phản chiến ở Đại học Berkeley và Stanford vào tháng 1/1971.

Vì các hoạt động đó, tôi đã bị bắt và tống giam nhiều lần dưới chế độ Thiệu. Vào thời điểm ấy, tôi tin rằng tôi đang thi hành sứ mệnh hoà bình và độc lập cho đất nước tôi. Tôi cũng tin tưởng vào đề cương của Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam, một tổ chức đang lãnh đạo cuộc kháng chiến cách mạng ở miền Nam Việt Nam. Tôi căm ghét các nhà lãnh đạo Sài Gòn, các người như Trung tướng Nguyễn Văn Thiệu, Thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ, Trung tướng Đặng Văn Quang ‒ những cựu chiến binh trong quân đội viễn chinh Pháp.Đó là những người được Pháp tuyển mộ vào năm 1940 để giúp chúng tiêu diệt các phần tử kháng chiến Việt Nam. Theo thời gian, họ đã vươn lên thành những nhà lãnh đạo, nhưng sự lãnh đạo của họ không thu được lòng dân. Và chính vì không có được ủng hộ của người dân, nên họ phải dựa vào các thế lực nước ngoài.

Với tư cách một lãnh tụ sinh viên, tôi cho rằng tôi phải hoàn thành khát vọng của người dân Việt Nam về dân chủ, tự do và hoà bình. Một cách ngây thơ, tôi nghĩ rằng chế độ Hà Nội ít nhất cũng là người Việt Nam, trong khi người Mỹ chỉ là những kẻ xâm lược giống như người Pháp trước đó. Như nhiều người trong phong trào đối lập tại miền Nam lúc ấy, tôi tin rằng dù sao các đồng bào cộng sản miền Bắc cũng sẽ dễ có sự tương nhượng và dễ nói chuyện hơn là người Mỹ. Hơn thế nữa, tôi lại thấy choáng ngợp trước các thành tích hy sinh và tận tâm của các lãnh tụ cộng sản. Chẳng hạn, Tôn Đức Thắng, Phó Chủ tịch Bắc Việt, đã bị nhốt đến 17 năm trong nhà tù của Pháp. Tôi cũng bị hớp hồn trước bản đề cương chính trị được MTDTGPMN áp dụng, bao gồm chính sách hoà giải dân tộc, không hề có sự trả thù, và chính sách ngoại giao phi liên kết.

Cuối cùng, tôi đã chịu ảnh hưởng của các phong trào tiến bộ khắp thế giới và các nhà đại trí thức phương Tây lúc ấy. Tôi đã có cảm tưởng rằng các lãnh đạo phong trào phản chiến ở Mỹ cuối thập niên 60 đầu 70 đã chia sẻ cùng niềm tin với tôi.

Niềm tin ấy càng được củng cố hơn sau khi Hiệp định Paris ký kết vào năm 1973 và sự sụp đổ của Đệ nhị Việt Nam Cộng hòa năm sau đó. Khi cuộc giải phóng đã hoàn tất, tôi chính là người đã khuyên bảo bạn bè và thân nhân không nên di tản.

“Tại sao các người lại bỏ đi?” tôi hỏi, “Tại sao các người lại sợ cộng sản?”

Tôi chấp nhận một viễn cảnh khó khăn trong thời gian tái thiết quê hương nên đã quyết định ở lại và tiếp tục làm việc với tư cách một quản trị viên một chi nhánh của Ngân hàng Saì Gòn, nơi tôi đã làm việc hơn 4 năm, và là nơi tôi viết các báo cáo mật về tình hình kinh tế Nam Việt Nam cho MTDTGPMN

(Sau khi tốt nghiệp đại học, tôi đã không bị chính quyền Việt Nam Cộng hòa động viên vì là con một trong gia đình. Tôi cũng không gia nhập Việt Cộng vì MTDTGPMN nghĩ rằng tôi sẽ phục vụ tốt hơn trong vai trò báo cáo tài chính từ ngân hàng).

Sau khi Sài Gòn thất thủ được nhiều ngày, MTDTGPMN thành lập chính quyền Cách mạng Lâm thời, mời tôi gia nhập một uỷ ban tài chính, một nhóm bao gồm các trí thức có nhiệm vụ cố vấn cho chính quyền về các vấn đề kinh tế. Tôi hăng hái tham gia, chấp nhận mức cắt giảm lương đến 90%. Nhiệm vụ đầu tiên của tôi là giúp thảo ra một kế hoạch nhằm tịch thu tất cả các tài sản tư nhân ở miền Nam Việt Nam. Tôi cảm thấy sốc, tôi đề nghị chỉ nên thi hành điều đó với tài sản những người từng cộng tác với chính quyền cũ và với những người đã làm giàu nhờ chiến tranh, và sẽ phân phối lại theo một cách thức nào đó cho các người nghèo và nạn nhân chiến tranh không phân biệt thuộc phe nào. Đề nghị của tôi bị bác bỏ. Tôi đã quá ngây thơ khi nghĩ rằng các quan chức địa phương đã sai lầm, rằng họ đã hiểu lầm ý định tốt của các lãnh đạo đảng cộng sản.

Tôi đã tranh đấu với họ nhiều lần, vì hoàn toàn đặt niềm tin vào các tuyên bố của Hà Nội trước đây rằng: “tình hình ở Nam Việt Nam rất đặc biệt và rất khác với tình hình miền Bắc Việt Nam”.

Chỉ vài tháng trước khi Sài Gòn thất thủ, Lê Duẩn, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản, đã tuyên bố: “miền Nam cần có chính sách riêng của nó”. Sau cùng, tôi không thể tuân theo lệnh sắp đặt các cuộc tịch thu tài sản tư hữu, một kế hoạch vẫn đang được xúc tiến. Một kế hoạch như vậy không hề đáp ứng nguyện vọng của người dân Nam Việt Nam, và nó đi ngược với lương tâm của tôi. Tôi quyết định từ chức.

Nhưng không ai được phép từ chức trong chế độ cộng sản. Một ngụ ý bất tuân lệnh sẽ không được người cộng sản tha thứ. Khi tôi đưa đơn từ chức, người lãnh đạo uỷ ban tài chính đã cảnh cáo rằng hành động của tôi “sẽ bị xem là sự tuyên truyền nhằm kích động quần chúng, và rằng chúng ta không bao giờ cho phép điều đó xảy ra”. Nhiều ngày sau đó, trong khi tôi đang tham dự một buổi hoà nhạc tại Nhà Hát Lớn (trước đây là trụ sở Quốc hội Việt Nam Cộng hòa, nơi mà tôi đã lãnh đạo các sinh viên chiếm giữ nhiều lần trước đây dưới chế độ Thiệu), tôi bị bắt. Không có sự truy tố cũng như không có lý do nào được đưa ra.

Sau khi Sài Gòn thất thủ,rất nhiều nhà trí thức tiến bộ cũng như nhiều nhà lãnh đạo các phong trào phản chiến trước đây đều tin rằng chính quyền mới sẽ đem lại dân chủ và tự do thay cho sự thống trị của ngoại bang. Họ tin rằng chính quyền mới sẽ đeo đuổi các quyền lợi tốt nhất cho nhân dân. Sẽ giữ đúng lời hứa của chính họ về chính sách hoà giải dân tộc, không có sự trả thù. Phủi sạch những hứa hẹn, nhà cầm quyền cộng sản đã bắt giam hàng trăm ngàn người ‒ không chỉ những người đã cộng tác với chế độ Thiệu mà cả những người khác, bao gồm các vị lãnh đạo tôn giáo và các cựu thành viên MTDTGPMN. Việt Nam ngày nay trở thành một quốc gia không có luật pháp nào khác hơn là sự điều hành độc đoán của những kẻ đang nắm quyền lực.Không hề có cái gọi là dân quyền. Bất cứ ai cũng đều có thể bị bắt mà không cần truy tố cũng như không cần xét xử. Và khi đã ở trong tù, các tù nhân đều được giáo dục rằng chính các thái độ, hành vi và sự “cải tạo tốt” là yếu tổ chủ chốt đễ xét xem liệu họ có thể được trả tự do hay không- không cần biết họ đã phạm tội gì.

Vì vậy, các tù nhân thường là phải tuân lệnh tuyệt đối các quản giáo để hy vọng được thả sớm. Trong thực tế, họ không bao giờ biết được khi nào họ sẽ được thả – hay có thể bản án của họ sẽ được kéo dài thêm. Ở đất nước Việt Nam ngày nay có bao nhiêu tù chính trị? Không ai có thể biết được con số chính xác.Bộ Ngoại giao Mỹ cho rằng có khoảng từ 150.000 đến 200.000 chính trị phạm, người Việt tỵ nạn thì ước đoán con số đó là 1 triệu.

Hoàng Hữu Quýnh, một trí thức tốt nghiệp Đại học Mạc Tư Khoa, hiệu trưởng một trường kỹ thuật tại Tp. HCM (trước đây là Sài Gòn), vừa mới bỏ trốn trong một chuyến đi tham quan các nước Châu Âu do nhà nước bảo trợ. Ông đã nói với báo chí Pháp, “Hiện nay ở Việt Nam có ít nhất 700.000 tù nhân”.

Một nhân chứng khác, Nguyễn Công Hoan, một cựu thành viên trong Quốc hội thống nhất được bầu vào năm 1976, đã vượt biển thành công vào năm 1978, đã tuyên bố:chính bản thân ông được biết về “300 trường hợp xử tử” chỉ nội trong tỉnh Phú Yên của ông. Vào năm 1977, các quan chức Hà Nội khăng khăng rằng chỉ có 50.000 người bị bắt giữ vì có những hành vi gây nguy hại cho an ninh quốc gia. Nhưng trong khi đó,Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã tuyên bố trên tờ Paris Match số ra ngày 22/9/1978:

“Trong vòng 3 năm qua, tôi đã trả tự do cho hơn 1 triệu tù nhân từ các trại cải tạo.”

Người ta có thể tự hỏi làm thế nào có thể thả 1 triệu tù nhân trong khi chỉ bắt giữ có 50.000!Tôi bị tống vào một xà lim 1m x 2m, tay trái bị xiềng vào chân phải và tay phải xiềng vào chân trái. Thức ăn của tôi là cơm trộn với cát. Khi tôi khiếu nại về cát trong cơm, các quản giáo đã giải thích rằng cát được cho vào cơm để nhắc nhở các tù nhân về các tội ác mà họ đã phạm. Tôi đã khám phá ra khi đổ nước vào tô cơm có thể tách cát ra khỏi cơm và lắng nó xuống đáy. Nhưng phần nước chỉ có 1lít cho một ngày dùng cho uống và tắm rửa, do vậy tôi phải dùng nó hết sức tiết kiệm.

Sau 2 tháng biệt giam, tôi được chuyển ra phòng giam lớn, một phòng giam 5m x 9m, tuỳ theo thời điểm được nhồi nhét từ 40 đến 100 tù nhân. Nơi đây chúng tôi phải thay phiên để được nằm xuống ngủ, và phần lớn các tù nhân trẻ và còn mạnh khoẻ phải chịu ngủ ngồi. Trong cái nóng hầm hập, chúng tôi cũng phải thay phiên để được hứng vài cơn gió mát của khí trời từ một lỗ thông gió chút xíu và cũng là cửa sổ duy nhất của phòng giam.

Mỗi ngày tôi đều chứng kiến các bạn tù chết dưới chân tôi.

Vào tháng 3, 1976, khi một nhóm phóng viên phương Tây đến viếng thăm nhà tù của tôi, các quản giáo đã lùa các tù nhân đi và thay vào đó là các bộ đội miền Bắc.

Trước cửa nhà tù, không còn thấy các hàng rào kẻm gai, không có tháp canh, chỉ có vài công an và một tấm bảng lớn chăng ngang cửa chính đề câu khẩu hiệu nổi tiếng của Hồ Chí Minh: “Không có gì quý hơn độc lập tự do”. Chỉ có những người đang bị giam và các quản giáo là biết cái gì thực sự ẩn giấu đằng sau những dấu hiệu đó. Và mọi tù nhân đều biết rằng nếu họ bị tình nghi đào thoát thì người bạn đồng tù và người thân của họ tại nhà sẽ bị trừng phạt thay vì chính họ.

Chúng ta sẽ không bao giờ biết được con số thực sự của những tù nhân bỏ mạng, nhưng chúng ta đã biết cái chết của nhiều tù nhân nổi tiếng, những người trong quá khứ chưa bao giờ cộng tác với Chính quyền Thiệu hay với người Mỹ: chẳng hạn, Thích Thiện Minh, nhà chiến lược cho các phong trào tranh đấu hoà bình của Phật tử tại Sài Gòn, một nhà đấu tranh phản chiến đã từng bị kết án 10 năm dưới chế độ Thiệu, sau cùng bị buộc phải thả ông vì sự phản đối mạnh mẽ của nhân dân Việt Nam và các nhà hoạt động phản chiến khắp thế giới. Đại Đức Thiện Minh đã chết trong tù 6 tháng sau khi ông bị bắt vào năm 1979.

Một cái chết âm thầm khác là của Luật sư Trần Văn Tuyên, một lãnh tụ khối đối lập tại Quốc hội dưới thời Tổng thống Thiệu. Nhà hoạt động nổi tiếng này đã chết dưới bàn tay cộng sản vào năm 1976, mặc dù vào cuối tháng 4/1977, Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã tuyên bố với các phóng viên Pháp rằng ông vẫn còn sống mạnh khoẻ trong trại cải tạo.

Một trong những tổn thất to lớn nhất là cái chết của triết gia nổi tiếng Việt Nam Hồ Hữu Tường. Tường, bạn đồng môn với Jean Paul Sartre thập niên 30 tại Paris, có lẽ là nhà trí thức hàng đầu tại Nam Việt Nam. Ông chết tại nhà tù Hàm Tân vào ngày 26/06/1980.

Đây là những người bị bắt, cùng với rất nhiều những người khác trong nhóm những người Nam Việt Nam ưu tú và được trọng nể nhất, với mục đích ngăn ngừa bất cứ một sự chống đối nào với chế độ cộng sản.

Một số người Mỹ ủng hộ Hà Nội đã làm lơ hoặc biện minh cho những cái chết này, như họ đã từng làm với vô số các thảm kịch đã xảy ra từ khi Việt Nam Cộng hòa sụp đổ năm 1975. Rất có thể họ sẽ vẫn tiếp tục giữ im lặng nhằm lãng tránh một sự thật về Việt Nam nếu tiết lộ sẽ mang lại một nỗi vỡ mộng sâu xa đối với họ.

Cay đắng thay nếu tự do và dân chủ vẫn là mục tiêu xứng đáng để chiến đấu tại Philippines, tại Chile, tại Nam Hàn hay tại Nam Phi, thì nó lại không xứng để bảo vệ tại các nước cộng sản như Việt Nam. Mọi người đều nhớ đến vô số các cuộc biểu tình chống đối Mỹ can thiệp vào Việt Nam và chống lại các tội ác chiến tranh của chế độ Thiệu. Nhưng một số trong các người đã từng một thời nhiệt thành với các nguyên tắc dân chủ và nhân quyền thì nay lại tỏ ra hết sức lãnh đạm khi cũng chính các nguyên tắc ấy đang bị chà đạp tại nước Việt Nam cộng sản.

Chẳng hạn, một nhà hoạt động phản chiến, William Kunstler, vào tháng 5, 1979 đã từ chối ký vào một bức thư ngỏ gởi nhà nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, trong đó có chữ ký của nhiều nhà hoạt động phản chiến khác, kể cả Joan Baez, phản đối sự vi phạm nhân quyền của chế độ Hà Nội.

Kunstler nói:

“Tôi không tin vào sự chỉ trích công khai một chính quyền xã hội chủ nghĩa, dù đó là sự vi phạm nhân quyền”, và “toàn bộ chiến dịch này của Baez có thể là một âm mưu của CIA”.

Câu nói này đã làm tôi nhớ lại lập luận mà chế độ Thiệu thường đưa ra làm lý do đàn áp các người đối lập, “Tất cả các hoạt động phản chiến và đối lập đều do cộng sản giựt dây”.

Còn có rất nhiều những huyền thoại về chế độ hiện hành tại Việt Nam mà người dân rất nên được soi sáng. Nhiều người cho rằng Hồ Chí Minh đầu tiên là một người quốc gia và rằng đảng cộng sản Việt Nam trước đây cũng như hiện nay đều độc lập với Liên Sô.

Tôi cũng là người tin như vậy trước khi cộng sản chiếm miền Nam. Nhưng rồi chân dung các nhà lãnh đạo Soviet nay được treo đầy các chung cư, trường học và các công sở trên khắp nước “Việt Nam độc lập”. Ngược lại, người ta chưa từng thấy chân dung bất cứ một nhà lãnh đạo Mỹ nào được treo ngay cả trong chế độ được gọi là bù nhìn của Tổng thống Thiệu. Mức độ lệ thuộc của chính quyền hiện hành vào các ông chủ Soviet được thể hiện rõ ràng nhất do thi sĩ nổi tiếng của cộng sản Việt Nam, Tố Hữu, thành viên Bộ Chính Trị và là Trưởng Ban Văn hoá Đảng Cộng sản Việt Nam. Chúng ta có cơ hội được nghe người thi sĩ cao cấp này than khóc nhân cái chết của Stalin:

‘Xít-ta-lin! Xít-ta-lin,

Yêu biết mấy, nghe con tập nói

Tiếng đầu lòng, con gọi Xít-ta-lin

Ông Xít-ta-lin ôi. Ông Xít-ta-lin ôi,

Hỡi ôi ông mất, đất trời có không?

Thương cha, thương mẹ, thương chồng

Thương mình thương một, thương ông thương mười.’

(Đời đời nhớ ông – Tố Hữu).

Thật là khó mà tưởng tượng những vần thơ như vậy lại được viết tại Việt Nam, một đất nước mang nặng truyền thống gia đình và bổn phận với con cái. Và bài thơ ấy vẫn đang chiếm một vị trí trang trọng trong ấn bản về thơ ca Việt Nam hiện đại được xuất bản tại Hà Nội. Hơn thế nữa, Lê Duẩn , Tổng Bí thư đảng cộng sản Việt Nam, trong một bài diễn văn chính trị đọc trước Hội nghị khoáng đại của Quốc hội thống nhất năm 1976:

“Cuộc cách mạng Việt Nam là để thực thi bổn phận và các cam kết quốc tế”, và vì vậy, trong lời lẽ của bản luận cương của đảng năm 1971 đã viết: “dưới sự lãnh đạo của Liên bang Soviet”. Sự vinh quang của một xã hội Soviet là mục tiêu chính yếu trong sách lược của đảng cộng sản Việt Nam.

Sau khi Sài Gòn thất thủ, nhà nước đã ngay tức khắc đóng cửa toàn bộ các nhà sách và rạp hát. Tất cả các sách vở được xuất bản trong chế độ cũ đều bị tịch thu hay đốt bỏ. Các tác phẩm văn hoá thuần tuý cũng không ngoại lệ, kể cả các bản dịch tác phẩm của Jean Paul Sartre, Albert Camus và Dale Carnegie. Ngay cả tác phẩm Cuốn Theo Chiều Gió của Margaret Mitchell cũng nằm trong danh sách văn chương đồi truỵ.

Nhà nước thay thế những tác phẩm ấy bằng những tác phẩm văn chương nhằm nhồi sọ trẻ em và người lớn với ý tưởng chủ đạo: “Liên bang Soviet là thiên đường của xã hội chủ nghĩa”. Một lập luận khác của các nhà biện luận phương Tây có liên quan đến vấn đề tự do tôn giáo tại Việt Nam.

Một điều khoản của bản hiến pháp mới, được đưa ra vào năm nay, có nêu rằng: “nhà nước tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng và quyền tự do không tín ngưỡng”. Về điều khoản này, Lê Duẩn đã nhiều lần tuyên bố: “Chế độ của chúng ta triệu lần dân chủ hơn bất cứ chế độ nào trên thế giới”.

Ngược lại, trên thực tế, đã trình bày rõ sự thật qua một sự kiện mang tính báng bổ một ngôi chùa Phật giáo, trong vụ đó một người đàn bà khoả thân theo lệnh nhà nước đã tiến vào ngôi chùa trong giờ hành lễ. Khi Hoà thượng Thích Mẫn Giác, một nhà lãnh đạo Phật giáo nổi tiếng, lên tiếng phản đối, nhà nước đã nhân vụ này lên án Phật giáo là kẻ thù của dân chủ, chính xác là vi phạm quyền tự do không tín ngưỡng. Hoà Thượng Thích Mẫn Giác, người đóng vai trò là cầu nối giữa Phật giáo và nhà nước cộng sản, đã phải vượt thoát Việt Nam bằng thuyền vào năm 1977 và nay đang định cư tại Los Angeles.

Tất cả những ai từng ủng hộ MTDTGPMN trong cuộc chiến đấu chống chế độ Sài Gòn đều có thể cảm nhận sự bị phản bội và nỗi tuyệt vọng của họ.

Khi Harrison Salisbury của tờ New York Times viếng thăm Hà Nội vào tháng 12, 1966,các nhà lãnh đạo Hà Nội đã nói với ông:“Sách lược tranh đấu của miền Nam được chỉ đạo từ miền Nam chứ không phải từ miền Bắc”. Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã nói với Salisbury:“Không có ai ở miền Bắc có ý tưởng ngu ngốc, tội ác” rằng miền Bắc muốn thôn tính miền Nam. Vậy mà trong diễn văn đọc nhân lễ mừng chiến thắng vào ngày 19/05/1975,Lê Duẩn đã nói:

“Đảng của chúng ta là một và là người lãnh đạo duy nhất đã tổ chức, kiểm soát và điều hành toàn bộ cuộc chiến đấu của nhân dân Việt Nam ngay từ ngày đầu của cuộc cách mạng”. Trong bản báo cáo chính trị đọc trước Quốc hội hợp nhất tại Hà Nội vào ngày 26/05/1976, Lê Duẩn nói:

“Nhiệm vụ cách mạng chiến lược của đất nước ta trong thời kỳ mới là thống nhất tổ quốc và đưa toàn bộ đất nước tiến nhanh, tiến mạnh và tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội, lên chủ nghĩa cộng sản”.

Vào năm 1976, Chính phủ Cách mạng Lâm thời do MTTGPMN thành lập đã bị xoá sổ, và toàn thể 2 miền Nam Bắc Việt Nam đều nằm dưới sự cai trị của những người cộng sản. Ngày nay, trong số 17 thành viên Bộ Chính trị và 134 Uỷ viên Trung ương thuộc Đảng Cộng sản Việt Nam, không hề có người nào thuộc MTDTGPMN trước kia. Ngay cả Nguyễn Hữu Thọ, cựu Chủ tịch MT, chỉ nắm chức vụ Chủ tịch nhà nước, một chức vụ mang tính nghi lễ với nhiệm vụ đón tiếp khách nước ngoài và tham dự các buổi lễ lạc. Nhưng ngay cả vị trí đó rồi sẽ bị xoá bỏ khi bàn hiến pháp mới ra đời. Hãy nghe lời của ông Trương Như Tảng, một những người sáng lập MT, cựu Bộ trưởng Tư pháp của Chính phủ Cách mạng Lâm thời, vừa mới đây cũng là một thuyền nhân vượt biển. Ông Tảng trốn thoát khỏi Việt Nam vào tháng 12, 1979 và hiện nay sống tại Paris. Ông đã nói với các phóng viên về kinh nghiệm của ông trong cuộc họp báo gần đây vào tháng 5, 1980. 12 năm trước, ông nói, khi ông bị bỏ tù dưới chế độ Thiệu vì các hoạt động thân cộng của mình, cha của ông đã đến thăm ông.

Ông cụ đã hỏi ông:

-“Tại sao con lại dứt bỏ tất cả ‒ một công việc tốt, một gia đình sung túc ‒ để gia nhập cộng sản? Con không biết rằng cộng sản rồi sẽ phản bội con và sẽ thủ tiêu con, và khi con thật sự hiểu ra thì đã quá muộn?”

Tảng, một nhà trí thức, đã trả lời cha:

“Tốt hơn là cha nên im lặng và chấp nhận sự hy sinh một trong các đứa con của cha cho nền dân chủ và độc lập của đất nước”.

Sau cuộc Tổng Công kích Tết Mậu thân 1968, Tảng được trao đổi với 3 Đại tá tù binh chiến tranh Mỹ, và sau đó ông biến mất vào rừng với MT. Ông đã viếng thăm nhiều nước cộng sản và các nước thế giới thứ 3 để kêu gọi sự ủng hộ dành cho MT trong cuộc chiến tranh Việt Nam. Ông đã nói trong cuộc họp báo:

“Tôi đã biết MT là một tổ chức do cộng sản chi phối và tôi đã quá ngây thơ khi cho rằng Hồ Chí Minh và Đảng của ông ta sẽ dặt quyền lợi quốc gia lên trên ý thức hệ và đặt quyền lợi nhân dân Việt Nam lên trên quyền lợi của đảng. Nhưng nhân dân Việt Nam và tôi đã sai lầm”.

Trương Như Tảng đã kể về kinh nghiệm của ông về phương sách các tầng lớp lãnh đạo cộng sản cai trị,“Người cộng sản là chuyên gia về nghệ thuật chiêu dụ và có thể làm bất cứ cách nào để dụ bạn về phe họ một khi họ chưa nắm được chính quyền.Nhưng một khi đã nắm được quyền lực lập tức họ trở thành sắt máu và tàn nhẫn”.

Ông tóm tắt tình hình tại Việt Nam hiện nay:

“Gia đình ly tán, xã hội phân ly, ngay cả đảng cũng chia rẽ”.

Bây giờ nhìn lại cuộc chiến Việt Nam, tôi chỉ cảm thấy buồn rầu cho sự NGÂY THƠ CỦA MÌNH KHI TIN RẰNG CỘNG SẢN LÀ NHỮNG NGƯỜI CÁCH MẠNG và XỨNG ĐÁNG ĐƯỢC ỦNG HỘ.

TRÊN THỰC TẾ, HỌ ĐÃ PHẢN BỘI NHÂN DÂN Việt Nam và LÀM THẤT VỌNG CÁC PHONG TRÀO TIẾN BỘ TRÊN TOÀN THẾ GIỚI. TÔI NHẬN LÃNH TRÁCH NHIỆM về những thảm kịch xảy ra cho đồng bào của tôi. Và nay tôi chỉ còn cách ĐÓNG VAI NHÂN CHỨNG CHO SỰ THẬT NÀY HẦU CÁC NGƯỜI ĐÃ TỪNG ỦNG HỘ VIỆT CỘNG TRƯỚC KIA CÓ THỂ CÙNG CHIA SẺ TRÁCH NHIỆM VỚI TÔI.

Khi tôi còn trong tù, MAI CHÍ THỌ, một Uỷ viên Trung ương đảng, đã nói chuyện trước một nhóm tù nhân chính trị chọn lọc. Ông ta đã nói với chúng tôi: “Hồ Chí Minh có thể là một quỷ dữ, Nixon có thể là một vĩ nhân. Người Mỹ có thể có chính nghĩa, chúng ta có thể không có chính nghĩa. Nhưng chúng ta đã chiến thắng và người Mỹ đã bị đánh bại bởi vì chúng ta đã thuyết phục được người dân rằng Hồ Chí Minh là một vĩ nhân, Nixon là một tên sát nhân và người Mỹ là những kẻ xâm lược”.

Ông ta đã kết luận: “ YẾU TỔ CHỦ CHỐT LÀ LÀM THẾ NÀO KIỂM SOÁT NGƯỜI DÂN VÀ Ý TƯỞNG CỦA HỌ. Chỉ có chủ nghĩa Mác Lê mới có thể làm được như vậy. Không ai trong các anh đã từng biết đến một sự kháng cự nào đối với chế độ cộng sản, bởi vậy không nên nghĩ đến điều đó nữa. Hãy quên chuyện đó đi? Giữa các anh ‒ những nhà trí thức ưu tú ‒ và tôi, tôi đã nói với các anh sự thật”.

Và quả là ông ta đã nói sự thật. Từ năm 1978, khi cộng sản Việt Nam chiếm đóng Lào, xâm lấn Kampuchea và tấn công Thailand, trong khi đó Liên Sô xâm lăng Afghanistan. Trong MỖI MỘT SỰ kiện ĐÓ, NGƯỜI CỘNG SẢN VẪN TỰ PHÁC HOẠ CHÂN DUNG CỦA HỌ MỘT CÁCH LY KỲ, là NHỮNG NGƯỜI GIẢI PHÓNG, NGƯỜI CỨU RỖI, NGƯỜI BẢO VỆ CHỐNG LẠI CÁC LỰC LƯỢNG XÂM LĂNG NƯỚC NGOÀI. Và trong mỗi sự kiện, dư luận thế giới vẫn tương đối êm dịu. Nhưng ở Việt Nam, người dân vẫn thường nhắc nhau: “Đừng nghe những gì cộng sản nói mà hãy nhìn những gì cộng sản làm”.

Một trong những người Nam Việt Nam theo cộng sản, ông Nguyễn Văn Tăng, bị tù 15 năm dưới thời Pháp, 8 năm dưới thời Diệm, 6 năm dưới thời Thiệu, và hiện nay vẫn còn đang nằm tù, đã nói với tôi, “Muốn hiểu người cộng sản, trước nhất phải sống với cộng sản”.

Vào một buổi chiểu mưa rơi tại nhà tù Lê Văn Duyệt, Sài Gòn, ông đã nói với tôi: “Ước mơ của tôi bây giờ không phải là được thả ra, không phải là được gặp lại gia đình. Tôi chỉ mơ được trở lại nhà tù của Pháp 30 năm trước”. Đó là giấc mơ của một người đàn ông 60 tuổi đã gởi trọn tuổi thanh xuân vào việc ra vào nhà tù để chiến đấu cho tự do và độc lập của đất nước. Giờ này, có lẽ ông đã chết trong tù hay có thể đã bị nhà nước của nhân dân hành quyết. Ước mơ của nhân dân Việt Nam là một cuộc cách mạng thực sự, họ không muốn chủ nghĩa cộng sản. Mức độ đo lường sự chán ghét cộng sản là việc hàng ngàn người đã từ bỏ sự ràng buộc lịch sử của họ với đất mẹ.

Dưới thời thực dân Pháp, trải qua bao năm dài chiến tranh, ngay cả trong thảm cảnh nạn đói năm 1945 có đến 2 triệu người chết đói, người Việt Nam vẫn không đành đoạn rời bỏ quê hương, mảnh đất có mồ mả ông cha. Các cuộc đổ xô ra đi tỵ nạn là bằng chứng trực tiếp của sự kinh hoàng với chế độ hiện nay. Hãy nghe lời một người tỵ nạn khác, Nguyễn Công Hoan, cựu thành viên MT và là thành viên Quốc hội thống nhất được bầu năm 1976, “Chế độ hiện nay là chế độ phi nhân và áp bức nhất mà nước Việt Nam từng được biết đến”. Ông Hoan trốn thoát bằng thuyền vào năm 1977, sau khi từ bỏ chức vụ của ông trong Quốc hội cộng sản. “Quốc hội”, ông tuyên bố, “là một bù nhìn, các thành viên ở đó chỉ biết nói dạ, không bao giờ biết nói không”.

Giữa các thuyền nhân sống sót, bao gồm cả những người bị hải tặc hảm hiếp và những người chịu nhiều cực nhục trong các trại tỵ nạn, không hề có người nào hối tiếc đã tìm cách trốn khỏi chế độ hiện nay. Tôi tuyệt đối tin rằng sự thật về Việt Nam sẽ dần dần hiện rõ. Nó có sẵn cho những ai muốn tìm hiểu về nó. Như Solzhenitsyn đã từng nói, “Sự thật cũng nặng nề như là thế giới vậy”. Và Việt Nam là một bài học về sự thật.

ĐOÀN VĂN TOẠI

Hình sự hóa và tranh cãi về “ngu như bò”: Nỗi buồn quy chuẩn tư pháp Việt Nam

 Hình sự hóa và tranh cãi về “ngu như bò”: Nỗi buồn quy chuẩn tư pháp Việt Nam

Luat khoa

Không phân biệt được hành vi biểu đạt và hành vi ngôn luận là nỗi xấu hổ của nền tư pháp.

On  21/07/2022

By  VÕ VĂN QUẢN

Minh họa: Luật Khoa.

Phiên tòa xét xử vụ án Tịnh thất Bồng Lai đang thu hút nhiều sự quan tâm, và một trong các từ khóa ngốn nhiều phím gõ nhất của dư luận những ngày qua là ba chữ “ngu như bò”.

Việc các luật sư của bị cáo, bị hại lẫn kiểm sát viên tranh cãi với nhau liệu câu chửi thông dụng “ngu như bò”có phải là hành vi “lợi dụng các quyền tự do ngôn luận”, từ đó xâm phạm “quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân”, thật sự khiến những nhà nghiên cứu pháp luật hình sự nói chung và pháp luật so sánh nói riêng bất ngờ. Sau bất ngờ là nỗi xấu hổ, nhất là đặt trong bối cảnh Bộ luật Hình sự Việt Nam đã được ban hành nhiều thập niên qua.

Những cuộc tranh luận trong vụ án của Tịnh thất Bồng Lai ngớ ngẩn đến ngẩn ngơ. Chúng bàn về những nội dung như “ngu như bò” có được tính là một sự xúc phạm trong pháp luật hay không; rồi một vị luật sư phản biện theo kiểu bây giờ tôi nói Chúa “ngu như bò” thì có xúc phạm hay không.

Những kiểu tranh luận đó cho thấy một khoảng trống kinh hoàng trong tư duy triết học pháp luật Việt Nam.

Hệ thống tư pháp Việt Nam, đến thế kỷ 21, vẫn từ chối xây dựng các quy chuẩn rõ ràng và hợp lý để phân biệt giữa những câu chửi bới, xúc phạm đời thường với những biểu đạt nguy hiểm, có khả năng gây hại thật sự cho quyền và lợi ích của công dân.

Cho đến nay, dường như các nhà lập pháp Việt Nam, các cơ quan tư pháp Việt Nam, và hệ quả phụ là một phần giới luật sư trong nước vẫn không thể nào phân biệt được sự khác biệt giữa “hành vi biểu đạt” (expressive act) và “hành vi ngôn luận” (speech act).

Chửi bới, xúc phạm với tư cách là một hành vi biểu đạt không có tác dụng đưa ra thông tin, làm sai lệch thông tin, từ đó cũng không tạo ra những hệ quả mà một hệ thống pháp luật cần bảo vệ người dân tránh khỏi.

Những câu chửi như “địt mẹ mày”, “thằng ngu”, “đồ đầu đất”, hay trong trường hợp này là “ngu như bò”, đều là những hành vi biểu đạt không đưa rất kỳ cáo buộc trọn vẹn nào về nhân phẩm, sự thật liên quan đến một cá nhân hay tổ chức.

Vì vậy, nó không thể được xem là một hành vi ngôn luận, hay “hành vi giao tiếp” (communicative act) – những thứ là đối tượng điều chỉnh của pháp luật liên quan đến ngôn luận.

Nói theo ngôn ngữ của triết gia Joel Feinberg trong quyển “Offence to Others”, [1] những lời chửi nói trên (như “you are a son of a bitch” trong ví dụ ông đưa ra) chỉ là một tập hợp ngôn ngữ thể hiện sự tức giận và miệt thị tức thời dành cho một cá nhân, tổ chức.

Chúng không thể truyền tải bất kỳ thông điệp nào hoàn chỉnh, và vì vậy không thể gây hại cho quyền – lợi ích được pháp luật bảo vệ. Ông gọi chúng là “chửi bới thuần túy” (pure insults).

Tại Việt Nam, “ngu như bò” là kiểu miệt thị thuần túy, bình dân và phổ quát.

Ba mẹ chửi con cái. Thầy cô chửi học trò. Học trò chửi nhau. Người va chạm giao thông cự cãi. Đồng nghiệp trong công ty tranh chấp. Cùng vô số trường hợp khác.

Khẳng định những lời chửi bới thuần túy này có bất kỳ giá trị nào để được xem là một yếu tố cấu thành cho một tội danh của hệ thống pháp luật hình sự quốc gia là điều xấu hổ nhất về tư duy pháp lý mà tôi từng nghe.

***

Các tác giả Luật Khoa đã nhắc đi nhắc lại chủ đề này nhiều năm qua, từ các loạt bài nhiều kỳ cho đến những bài độc lập. [2] [3]

Những bài viết trên đã cố gắng giới thiệu, phân biệt và hệ thống hóa các khái niệm cơ bản trong pháp luật thế giới về ngôn luận như chửi thề, nói tục, xúc phạm, phỉ báng, bôi nhọ, phát ngôn thù hận, hay kích động lật đổ chính quyền. Tuy nhiên, những nỗ lực này chưa mang lại bao nhiêu tác dụng.

Sự mập mờ và thiếu quy chuẩn trong những quy định hình sự liên quan đến vấn đề ngôn luận tại Việt Nam, như rất nhiều nhà quan sát đã chỉ ra, quá có lợi cho các cơ quan thực thi pháp luật tại đây.

Và khi mà một xã hội còn bị ngăn cản, không thể đưa ra những giải pháp và quy chuẩn tư pháp nền tảng cho những vấn đề đơn giản như vậy, rất khó để chúng ta tạo ra những bước tiến căn bản nào về tư duy pháp lý, triết học pháp lý dân tộc và các kỹ thuật tư pháp khác.

Mưu sinh trên… bánh xe ở thành phố Hồ Chí Minh – BBC News Tiếng Việt

BBC News Tiếng Việt  

Hàng hóa họ bán rất đa dạng, từ đồ dùng trong nhà, vật dụng chăm sóc cá nhân, quần áo, cây cảnh, đến thực phẩm, rau củ, trái cây, thức uống, đồ ăn vặt…

Bạn có thể bắt gặp họ đang di chuyển trên đường hoặc dừng lại ở một góc đường và trong các con hẻm. Cũng có khi bạn thấy họ bán cố định tại một điểm nào đó trong một khoảng thời gian nào đó, phục vụ cho một nhóm khách riêng như dân văn phòng, du khách…

Điều đáng nói là kể từ cuối năm 2021, tức khi đại dịch vừa lắng xuống, ban ngày xuất hiện rất nhiều xe bán rong trái cây, thực phẩm ở những góc đường, lề đường, thậm chí trên mặt cầu… Họ len vào tận các con hẻm, đi cả vào những nơi có chợ họp trên lòng lề đường và trên xe không chỉ có rau củ, trái cây mà còn có cả thịt, cá…

Còn ban đêm, tại nhiều con hẻm xuất hiện rất nhiều xe bán cà phê, trà chanh, trà sữa, nước ép… và bán đồ ăn vặt như đồ chiên, bánh tráng trộn, phá lấu, khoai lắc… với màu sắc trẻ trung, vì người bán đa phần chỉ trên dưới 30, thanh niên trai tráng. Đó là nét mới.