Hơn 80.000 chữ ký yêu cầu Đài Loan áp lực Formosa “khắc phục thảm họa”

Hơn 80,000 chữ ký yêu cầu Đài Loan áp lực Formosa ‘khắc phục thảm họa’

Hàng ngàn người dân biểu tình trước cơ sở của công ty Formosa tại Vũng Áng, Hà Tĩnh, ngày 2 Tháng Mười, 2016. (Hình: FB SVLê)

SÀI GÒN, Việt Nam (NV) – Đã có hơn 80,000 người ký tên vào bản kiến nghị kêu gọi chính phủ Đài Loan áp lực công ty Formosa “khắc phục thảm họa” mà họ gây ra tại vùng biển miền Trung Việt Nam.

Theo thông báo trên trang thông tin và thu thập chữ ký https://www.thamhoaformosa.com, tính tới ngày 30 Tháng Ba, đã có 80,178 người Việt Nam khắp nơi đã ký vào bản kiến nghị kêu gọi chính phủ Đài Loan, các định chế quốc tế làm áp lực buộc công ty Formosa khắc phục thảm họa, trả lại môi trường trong sạch và đền bù thỏa đáng cho các nạn nhân.

Từ hơn một tuần lễ qua, thỉnh nguyện thư do Ủy Ban Trợ Giúp Nạn Nhân Môi Trường Biển thuộc Giáo Phận Vinh, phối hợp với các tổ chức dân sự độc lập tại Việt Nam, vận động chữ ký của người dân Việt Nam khắp nơi yêu cầu chính phủ Đài Loan tác động tới công ty Formosa.

Formosa tuy là một công ty có trụ sở chính ở Đài Loan nhưng khi xây dựng nhà máy luyện gang thép ở cảng Vũng Áng, Hà Tĩnh, thì sử dụng hầu hết nhân sự là người của Trung Quốc, mọi thứ trang bị máy móc hầu hết cũng mang từ Trung Quốc đến. Khi mới chuẩn bị xây dựng dự án, họ đã cam kết bảo vệ môi trường.

Ngày 2 Tháng Mười Hai, 2012, khi mời Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng tới dự lễ khởi công xây dựng nhà máy gang thép Formosa, đại diện công ty này đã tuyên bố bảo đảm “xây dựng đúng tiến độ và bảo vệ môi trường.”

Nhưng đến Tháng Tư, 2016, thử một số bộ phận chuẩn bị đi vào sản xuất, Formosa đã thải ra biển một lượng rất lớn các loại hóa chất cực độc, giết chết tất cả mọi loại tôm cá và sinh vật biển một dọc dài hơn 200 km mà hiện chưa có thống kê nào thống kê đầy đủ các sự thiệt hại cho biển cũng như người dân Việt Nam, đã xảy ra cũng như về lâu về dài.

Người ta chỉ ước lượng biển miền Trung Việt Nam không “tự khắc phục” được mà cần hàng chục tỉ đô la để tẩy rửa nếu không muốn di hại tới nhiều thế hệ. Nhà cầm quyền CSVN không công bố chi tiết các cuộc điều tra về thảm họa cũng như các cuộc điều đình với Formosa trong khi người dân đòi biết.

Nhà cầm quyền CSVN cầm của công ty Formosa $500 triệu nói là bồi thường thiệt hại nhưng chỉ phát lại cho phần nào những người dân dọc theo bốn tỉnh từ Hà Tĩnh đến Thừa Thiên Huế, bỏ mặc dân Nghệ An cũng bị ảnh hưởng vì tôm cá của họ dù có đánh lên được tí nào cũng không ai mua, vì không ai dám ăn.

Đã vậy, nhà cầm quyền địa phương còn ma mãnh, phân phát theo ý riêng, cho người nhà, cán bộ, không đúng thực tế khiến dân chúng dù đã được một ít tiền bồi thường vẫn biểu tình chống đối. Các nạn nhân tại tỉnh Nghệ An cũng đã nhiều lần biểu tình và đi kiện đòi bồi thường nhưng đều bị nhà cầm quyền đàn áp.

Bản kiến nghị viết rằng: “Thảm họa Formosa đã phá hủy nguồn thủy sản, là nguồn thực phẩm chính yếu, truyền thống của người dân Việt Nam. Bên cạnh đó, thảm họa này đã cướp mất nghề nghiệp của hàng trăm ngàn lao động trong các ngành đánh bắt, nuôi trồng, chế biến thủy sản, dịch vụ hậu cần nghề cá. Các nghề nghiệp liên quan như du lịch, khách sạn, nhà hàng… cũng bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Nhiều gia đình lâm vào cảnh túng quẫn do thất nghiệp, nhiều người phải bỏ quê hương xứ sở đi mưu sinh ở những nơi xa. Nhiều trẻ em có nguy cơ rơi vào cảnh thất học do gia đình mất nguồn thu nhập.”

Nạn nhân Formosa trong tình cảnh ngặt nghèo

Nạn nhân Formosa trong tình cảnh ngặt nghèo

Gia Minh, RFA
2017-03-31

Cảnh mua bán hải sản tại một cảng cá ở Đà Nẵng trước khi có thảm họa Formosa.

Cảnh mua bán hải sản tại một cảng cá ở Đà Nẵng trước khi có thảm họa Formosa.

AFP photo
Thảm họa môi trường do nhà máy thép Formosa ở Vũng Áng, Hà Tĩnh xả hóa chất ra biển khiến cá, hải sản chết hằng loạt gây tác động nặng nề đến cuộc sống người dân sống ven biển các tỉnh miền Trung.

Sau cả năm chịu tác động, đến nay cuộc sống của họ ra sao?

Một người dân tại xã Thạch Bằng, huyện Lộc Hà, tỉnh Hà Tĩnh vào chiều 30 tháng 3 cho Gia Minh biết về tình cảnh hiện nay của họ. Trước hết ông này thông tin về hành xử của chính quyền đối với người dân ra xã biểu tỉnh từ ngày 28 tháng 3:

Ba ngày vừa rồi thì trước hết có dân quân của xã cũng như công an xã đàn áp dân. Sau khi được tin như vậy bà con vào nhiều hơn, gây áp lực thì họ lẩn trốn. Dân chúng bây giờ rất phẫn nộ đợi Ủy ban nhân dân xã ra để hỏi. Và bây giờ họ lẩn trốn không ra gặp dân.

Bây giờ cuộc sống của người dân coi như là đói hẳn rồi. Giờ lấy gì mà ăn?
– Người dân Thạch Bằng

Gia Minh: Lâu nay báo Nghệ an, báo Hà Tĩnh, Đài truyền hình Trung ương cho rằng người dân bị các linh mục ở Vinh kích động để đi biểu tình. Là người đang đòi hỏi quyền lợi thì ông thấy điều mà báo chí và truyền hình nhà nước nói ra sao?

Người dân Thạch Bằng: Thưa anh, hiện nay truyền hình nhà nước bảo vệ chính quyền chứ không bảo vệ cho người dân cho nên bây giờ nói sai lệch thông tin tất cả. Mong toàn thế giới hiểu cho rằng thông tin của nhà nước sai lệch, bóp méo sự thật.

Gia Minh: Suốt cả năm nay không có công ăn việc làm, không có kế mưu sinh thì làm sao mà sống được? Và mọi người có cách nào để mà tồn tại trong thời gian qua?

Người dân Thạch Bằng: Hiện nay người dân không có việc làm. Biển cả đi đánh bắt về không ai mua để ăn vì cũng sợ cho nên mất việc hoàn toàn, thất nghiệp. Nói chung, người đi biển cũng như người buôn bán tại chợ đi các tỉnh thì hiện nay đang bị thất nghiệp. Thời gian vừa qua có nguy cơ ảnh hưởng đến đời sống của nhân dân. Bây giờ người dân trông chờ ở biển, trông chờ đi chợ, buôn bán… Các ngành nghề bị ‘dập tắt’ tất cả nên có nguy cơ dẫn đến tình trạng chết đói.

Trong xã Thạch Bằng, hiện nay người đông mà đất thì chật. Nếu mà chuyển đổi ngành nghề thì không có vì đất chật mà người thì đông.Vốn thì nhà nước nói cho vay nhưng cũng không có cho vay để phát triển các nghề nghiệp khác. Dân chúng tôi, riêng ở đây không có ngành nghề nào khác ngoài đi biển và buôn bán. Và bây giờ trông chờ ở biển bình yên và biển phải sạch thì mưu sinh của chúng tôi mới có được, cuộc sống mới bình yên.

Nghề nghiệp hiện nay đã là thất thu hoàn toàn. Bây giờ giới trẻ một số đã đi Thái Lan, Campuchia để kiếm việc làm.
– Người dân Thạch Bằng

Gia Minh: Thực tế lâu nay làm sao sống được khi không có gì để sống và lấy gì mà sống?

Người dân Thạch Bằng: Bây giờ cuộc sống của người dân coi như là đói hẳn rồi. Giờ lấy gì mà ăn?  Mọi người vay mượn kiếm kế để đủ sống hằng ngày. Bây giờ đang đi vay mượn. Anh thì mượn em; Em thì mượn chị; Chị thì mượn bác; Bác thì mượn cô… Anh em mình ở xa quê cung cấp về để anh em mình có cuộc sống tạm qua những ngày tháng vừa rồi.Tính đến nay, không có nghề nghiệp gì nữa thì có thể là chuyển di cư vào miền Nam hoặc là đi Thái Lan hay Campuchia làm ăn chứ ở đây không thể đảm bảo cuộc sống được.

Nghề nghiệp hiện nay đã là thất thu hoàn toàn. Bây giờ giới trẻ một số đã đi Thái Lan, Campuchia để kiếm việc làm. Và hiện nay tương lai ăn học của các em cũng không còn nữa. Cha mẹ không có tiền cung cấp cho con ăn học. Nguy cơ ảnh hưởng rất lâu dài sau nầy. Một số các em trung cấp, đại học đã bỏ học. Chương trình 3 năm mà mới học có 2 năm cũng đã bỏ. Và sẽ dẫn đến thất học hoàn toàn.

Gia Minh: Ngay sau khi thảm họa xảy ra thì có một số tổ chức cứu trợ. Vậy lúc nầy ông thấy chuyện cứu trợ có còn không?

Người dân Thạch Bằng: Khi bắt đầu chịu ảnh hưởng từ tháng 4 thì đến tháng 5 thì có một số hội Chữ Thập Đỏ, Địa phận Vinh rồi một số hội Bác Ái ở các vùng Sài Gòn ra. Tháng 5, tháng 6, các nhà Tình Thương cho mỗi gia đình từ 5 kilô gạo đến 1hoặc 2 yến. Cuộc sống từ tháng 4 cho đến tháng 8 cuộc sống cũng qua ngày được nhờ sự cứu trợ của các hội Chữ Thập Đỏ, của các ân nhân, của Mái ấm tình Thương; nhất là ở địa phận Vinh cũng như của các xứ ở gần tỉnh Hà Tĩnh và Nghệ An đã cung cấp gạo cho bà con tạm ổn mấy tháng vừa qua. Bây giờ thì đã cạn kiệt cũng như địa phận Vinh cũng đã cạn kiệt, không có để mà cứu trợ cho dân.

Gia Minh: Cảm ơn ông rất nhiều về những thông tin mà ông vừa cho biết.

Tôi Đã Có Một Việt Nam Như Thế

Tôi Đã Có Một Việt Nam Như Thế

 

Nha-tho-duc-ba

 

Ngày xưa tôi đã có một thành phố được mệnh danh là Hòn Ngọc Biển Đông. Tuy nó còn thua xa những thành phố ở những nước phát triển, nhưng nó là điều gần nhất với văn minh mà đất nước tôi có. Ngày xưa tôi đã có một thành phố mà những người ở vùng khác  luôn ngưỡng mộ và ao ước để trở thành một người dân ở đó.

Thành phố đó tuy nhỏ nhưng luôn mở rộng cửa để đón người tứ xứ về làm ăn buôn bán. Người dân ở thành phố đó chẳng bao giờ quan tâm đến bạn từ nơi đâu tới, cha mẹ bạn là ai, bạn nói tiếng Việt với giọng bắc hay nam. Họ cũng không bao giờ phân biệt người khác qua cái hộ khẩu. Ngày xưa tôi đã có một thành phố là đầu tàu của cả nước, là sự tổng hợp của những văn hóa và tinh hoa của thế giới. Thành phố đó là nơi mọi người nhìn vào để học hỏi và noi gương. Ngày xưa, tôi đã có một thành phố như thế.

Cô gái

Ngày xưa tôi có những anh cảnh sát khiến tôi luôn cảm thấy an toàn và trật tự. Tôi đã có những anh cảnh sát mà tôi luôn tin tưởng và luôn tìm đến khi có một vấn đề gì cần giải quyết. Họ không bao giờ đi vòng vòng kiểm tra tạm trú hay tạm vắng, hay đúng hơn là làm có cái thứ gì gọi là tạm trú tạm vắng đâu mà kiểm tra. Tôi đã có những anh cảnh sát nếu phải giữ gìn trật tự đường phố và vỉa hè, họ cũng không bao giờ đánh đuổi những người bán hàng rong. Họ chỉ nhắc khéo và mỉm cười. Và nếu họ phải kêu đi thì họ sẽ sẵn lòng phụ giúp dọn dẹp. Tôi đã có những anh cảnh sát không bao giờ đánh dân, những người sẽ luôn sẵn lòng hy sinh bảo vệ tôi. Tôi đã có những anh cảnh sát trên xa lộ mà tôi gọi là những con bồ câu trắng, đó là những anh cảnh sát xa lộ luôn sẵn lòng giúp tôi đẩy chiếc xe nếu nó bị hư dọc đường. Tôi đã có những anh cảnh sát mà tôi luôn ngưỡng mộ. Ngày xưa tôi đã có những anh cảnh sát như thế.

White_police

 

 

 

 

 

 

 

 

Ngày xưa thành phố của tôi có các bệnh viện chuyên chữa bệnh miễn phí cho người bệnh, nếu có viện phí cho dù có cao đến mức nào, thì cũng không từ chối chữa bệnh. Tôi đã có một hệ thống y tế không phân biệt giàu nghèo. Một hệ thống y tế dù phải hoạt động theo quy luật tài chính, nhưng không bao giờ để tiền làm cản trở y đức. Tôi đã có một hệ thống y tế sẵn lòng kêu một chiếc trực thăng để giải cứu bất cứ ai gặp nạn.  Tôi đã có những bác sĩ và y tá chuyên tâm làm việc và ít khi nào, nếu có, vòi tiền bệnh nhân. Ngày xưa, tôi đã có một hệ thống y tế như thế.

bv-vi-dan

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Ngày xưa tôi đã có những người thầy và người cô luôn dạy tôi cách làm người trước khi dạy tôi học thức. Tôi đã có những người thầy cô luôn tận tâm giảng dạy, luôn học hỏi để trao dồi kiến thức. Tôi đã có những thầy cô, tuy tư tưởng vẫn mang tính chất văn hóa Nho Giáo, những luôn cho tôi phát biểu, luôn cho tôi chỉ trích, luôn cho tôi không đồng ý. Tôi có thể công khai phản đối bài tập, tôi có thể biểu tình để đòi hỏi quyền lợi mà tôi cho rằng mình nên có. Tôi đã có những thầy cô luôn mang tầm hồn của những nhà học thức. Ngày xưa tôi đã có những người thầy và người cô như thế.

Thay_co_truong_qgnt

Ngày xưa tôi đã có những nhạc sĩ tài ba, những nhạc sĩ sáng tác những bài hát mà tôi nghe không bao giờ biết chán. Họ ít khi nào, hoặc chẳng bao giờ, đạo nhạc. Vì mỗi bài họ sáng tác là một tác phẩm nghệ thuật.

anhbang_lam_phuogn

 

 

 

 

 

 

 

 

Ngày xưa tôi đã có những nhà sách bán đầy sách, mọi thể loại sách. Nơi đó là nơi tôi gọi là những thư viện tri thức. Nơi đó bán những cuốn sách của nhiều tác giả của nhiều quốc gia khác nhau. Nơi đó thậm chí bán những cuốn sách mà tôi không hề thích và đồng ý chút nào. Nhưng đã là nhà sách thì phải da dạng và phong phú. Ngày xưa tôi đã có những nhà sách như thế.

tủ sách

Ngày xưa tôi đã có một Tổng Thống khiến tôi cảm thấy hãnh diện. Ông ấy có thể nói tiếng Anh, đủ để hiểu, đủ để trả lời phỏng vấn của các phóng viên quốc tế, đủ để đàm phán với các nhà lãnh đạo quốc tế, đủ để cất lên tiếng nói cho tất cả người dân dù đa số người dân không bầu chọn ông ta. Ngày xưa tôi đã có một Tổng Thống khiến tôi tự tin để nói với các bạn bè quốc tế rằng “that is our President.” Ngày xưa, tôi đã có một Tổng Thống Như Thế.

NGO DINH DIEM

 

Ngày xưa tôi đã có một Chỉ Huy Trưởng khiến tôi tự hào về lực lượng Quân Lực. Tôi đã có một Chỉ Huy Trưởng khiến tôi cảm thấy an toàn, cho dù đất nước vẫn còn trong thời chiến. Tôi đã có một Chỉ Huy Trưởng khiến tôi cảm thấy yêu nước để sẵn lòng mặc bộ quân phục để bảo vệ đất nước. Và cho dù có chết thì tôi cũng vinh dự. Ngày xưa, tôi đã có một Chỉ Huy Trưởng như thế.

Ngày xưa tôi đã có một Việt Nam khiến tôi muốn trở về. Khi tôi hoàn thành chương trình du học của mình, tôi không màn đi tìm việc làm ở nước sở tại, cũng chẳng quan tâm đến thẻ xanh hay thẻ đỏ, cũng chẳng mộng mơ hay để trở thành một công dân của nước khác, cũng không nghĩ đến việc mình nên ở hay về, vì điều duy nhất trong đầu tôi là trở về. Cho dù đất nước đó vẫn đang trong thời chiến, cho dù nơi ấy tôi phải làm việc nhiều lần hơn, cho dù nơi ấy có nhiều rủi ro hơn. Nhưng tôi chỉ muốn trở về, đơn giản, bởi vì nơi đó, đất nước Việt Nam đó, mảnh đất đó là nơi tôi gọi là nhà. Vì tôi chỉ muốn về nhà. Ngày xưa, tôi đã có một Việt Nam như thế.

Viet Nam CH

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Ngày xưa tôi đã có một nước Việt Nam khiến tôi tự hào. Tôi đã có một nước Việt Nam khiến tôi không thổ thẹn khi cầm hộ chiếu ra nước ngoài và không cảm thấy xấu hổ khi nói “I’m Vietnamese.”

Ngày xưa tôi đã có một Việt Nam như thế.

Tôi đã từng có một Việt Nam như thế. Nhưng đó là quá khứ. Bởi vì  bây giờ nước Việt Nam như thế đã không còn. Nhưng tôi lại muốn nó trở lại. Tôi muốn có một nước Việt Nam như thế. Bạn có thể gọi tôi hoang tưởng hay gọi tôi mơ mộng. Tôi không mơ mộng hay ảo tưởng. Tôi cũng không tôn vinh bất cứ thể chế hay chế độ nào. Tôi chỉ muốn có một nước Việt Nam như thế. Có thể bạn sẽ hỏi: “Vì sao? Để làm gì?” Đơn giản, bởi vì ngày xưa tôi đã có một nước Việt Nam như thế ..!

Ku Búa @ Café Ku Búa

PS: Tôi là một người sinh ra khi nước Việt Nam như thế đã không còn nữa !!!

Ngày xưa,“bọn đế quốc thực dân” không đối xử với nhân dân tôi dã man tàn ác như lũ tà quyền mất nhân tính hiện nay trên đất nước tôi!

CHẾT NHƯ CHÚA GIÊSU – ĐỨC TIN VÀ NỖI SỢ

CHẾT NHƯ CHÚA GIÊSU – ĐỨC TIN VÀ NỖI SỢ

 Rev. Ron Rolheiser, OMI

Một người lính thường chết mà không sợ hãi, còn Chúa Giêsu chết trong sợ hãi.  Iris Murdoch đã viết những dòng này và sự thật này có thể khiến bạn thấy khó chịu.  Tại sao lại thế?  Nếu ai đó chết với đức tin sâu đậm, không phải người đó chết với một sự điềm tĩnh và tin tưởng nhất định nhờ đức tin hay sao?  Chẳng phải ngược lại cũng hợp lý, chẳng phải một người chết mà không có đức tin thì sẽ chết với tâm hồn sợ hãi hơn sao?  Và có lẽ bối rối nhất là: Tại sao Chúa Giêsu, mẫu mực của đức tin, lại chết trong sợ hãi, kêu lên trong đau đớn như thể mất đức tin?

Vấn đề nằm ở trí hiểu của chúng ta.  Có lúc chúng ta có thể rất ngây thơ về đức tin và động lực của đức tin, nghĩ rằng tin vào Chúa là tấm vé cho sự bình an và hân hoan đời này.  Nhưng đức tin không phải là con đường đến với sự êm đềm dễ dãi, cũng không bảo đảm rằng chúng ta sẽ ra khỏi cuộc đời này trong êm đềm.  Và điều này có thể làm chúng ta bối rối lung lay. Một ví dụ là:

GIESU DONG DINH

Ngòi bút thiêng liêng trứ danh, Henri Nouwen, trong quyển sách “Trong Ký ức” đã chia sẻ một câu chuyện quay quanh cái chết của mẹ ngài.  Cha Nouwen, một người gốc Hà Lan, đang dạy học ở Hoa Kỳ, thì được tin mẹ ngài đang hấp hối ở quê nhà.  Trên chuyến bay từ New York về Amsterdam, ngài suy ngẫm về đức tin và đức hạnh của mẹ mình, và kết luận bà là một phụ nữ Kitô nhất mà ngài từng biết.  Với suy nghĩ đầy khuây khỏa đó, ngài hình dung mẹ sẽ chết thế nào, những giờ cuối đời của bà sẽ đầy đức tin và êm đềm, và đức tin êm đềm đó sẽ là lời chứng cuối cùng của bà cho gia đình.

Nhưng, sự thật không phải vậy.  Không những không êm đềm không sợ hãi, những giờ cuối cùng của mẹ ngài dường như bị kìm kẹp trong một bóng tối không giải thích được, một sự bất an nội tâm sâu sắc, và một đều gì đó có vẻ như đối lập với đức tin.  Điều này khiến cha Nouwen quá bối rối.  Tại sao lại thế?  Tại sao mẹ ngài lại bất an trong khi cả cuộc đời mẹ là người với đức tin quá mạnh mẽ?

Ban đầu điều này khiến ngài hoang mang sâu sắc, cho đến khi một nhận thức sâu sắc hơn về đức tin mở ra.  Mẹ ngài là một phụ nữ đã cầu nguyện mỗi ngày, xin Chúa ban ơn để bà sống như Chúa đã sống, và chết như Chúa đã chết.  Vâng, có vẻ như lời cầu nguyện của bà đã được lắng nghe.  Bà đã chết như Chúa Giêsu. Dù có đức tin vững như đá, nhưng Chúa Giêsu đã đổ mồ hôi máu khi nghĩ đến cái chết của mình, và trên thập giá, Ngài đã kêu lên thống thiết, cảm giác rằng Chúa Cha đã bỏ mình.  Nói tóm lại, lời cầu nguyện của bà đã được nhậm lời.  Bà đã xin Chúa Giêsu cho bà chết như Ngài đã chết, và với sự mở lòng đón nhận của bà, lời nguyện xin của bà đã được nhậm lời, dù cho gia và bạn bè cảm thấy thật bối rối vì họ tưởng mọi chuyện sẽ khác thế kia.  Đây cũng là cách mà Chúa Giêsu đã chết, và cũng là những gì mà gia đình và các môn đệ của Chúa cảm thấy.  Đây không phải là những gì mà người ta tưởng tượng về cái chết của một con người đầy đức tin.

Nhưng một nhận thức thâm sâu hơn về đức tin lại đảo ngược cái lập luận ấy của con người. Nhìn vào cái chết của mẹ cha Henri Nouwen, câu hỏi đặt ra không phải là, làm sao chuyện này lại xảy đến với bà như vậy?  Vấn đề nằm ở chỗ khác kia.  Tại sao điều này lại không xảy ra với bà chứ?  Đây là những gì bà đã cầu nguyện xin, và là một đấu sĩ thiêng liêng xin Chúa gởi đến cho mình thử thách cuối cùng, vậy tại sao Chúa lại không ban cho bà cơ chứ?

Điều này cũng tương tự như những hoài nghi đau khổ của Mẹ Teresa.  Khi nhật ký của mẹ được xuất bản và cho thấy đêm tối linh hồn của mẹ, nhiều người đã bị sốc mà hỏi nhau: Làm sao chuyện này lại xảy ra với mẹ chứ?  Tôi tin rằng, một nhận thức thâm sâu hơn về đức tin sẽ hỏi khác đi: Tại sao điều này lại không xảy đến với mẹ chứ, bởi mẹ có đức tin và hoàn toàn mong mỏi được đi vào những cảm nghiệm của Chúa Giêsu một cách trọn vẹn?

Nhưng, vẫn có những phức tạp khác.  Có lúc, một người có đức tin sâu sắc lại không chết như thế, mà ra đi trong êm đềm không sợ hãi, được đức tin nâng đỡ như chiếc phà che chở trong cơn bão.  Tại sao điều này lại xảy đến với một số người, số khác thì không?  Chúng ta không có câu trả lời.  Đức tin không đặt tất cả chúng ta vào cùng một băng chuyền.  Có lúc những người với đức tin sâu sắc, chết như Chúa Giêsu đã chết, trong bóng tối và sợ hãi, và có lúc người có đức tin sâu sắc chết trong bình an và êm đềm.

Elizabeth Kubler-Ross cho rằng mỗi một người chúng ta đi qua năm giai đoạn rõ ràng của hấp hối, cụ thể là: chối bỏ, giận dữ, thương lượng, khủng hoảng, và chấp nhận.  Kathleen Dowling Singh lại cho rằng những gì mà Kubler-Ross gọi là sự chấp nhận, cần có một sắc thái sâu hơn nữa.  Theo Singh, phần gay go nhất của sự chấp nhận này, là một sự quy phục hoàn toàn, và trước sự quy phục đó, một số người sẽ trải qua bóng tối nội tâm thâm sâu mà người ngoài nhìn vào sẽ thấy như sự tuyệt vọng.  Chỉ sau khi đó, họ mới cảm nghiệm niềm vui và hân hoan.

Tất cả chúng ta đều cần học bài học mà cha Nouwen đã học được bên giường hấp hối của mẹ mình.  Cũng như đức mến, đức tin có nhiều thể thức, và có lẽ không thể phán định đơn giản từ bên ngoài.

 Rev. Ron Rolheiser, OMI

Langthangchieutim gởi

Lê Đức Anh: ‘Ngụy quân, ngụy quyền đã hướng về tổ quốc nhờ chính sách nhân ái’

Lê Đức Anh: ‘Ngụy quân, ngụy quyền đã hướng về tổ quốc nhờ chính sách nhân ái’

 

Bạn đọc Danlambao – Đó là lời tuyên bố của đại tướng Lê Đức Anh khi tiếp đón giới lãnh đạo chóp bu đến ‘vấn an’ nhân dịp đánh dấu 70 năm ngày CSVN cướp chính quyền.

Chiều ngày 1/9/2015, phái đoàn do thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng dẫn đầu cùng bộ trưởng quốc phòng Phùng Quang Thanh và bộ trưởng bộ thông tin – truyền thông Nguyễn Bắc Son đã đến tận nhà riêng thăm vị cựu chủ tịch nước.
 
Bức ảnh trên Cổng thông tin điện tử cho thấy, tham gia chuyến ‘vấn an’ lần này còn có phó chủ nhiệm văn phòng chính phủ Lê Mạnh Hà – con trai trưởng của ông Lê Đức Anh.
 
Tuy đã lú lẫn, nhưng ‘thái thượng hoàng’ Lê Đức Anh vẫn dành cho phái đoàn thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng những lời răn dạy quan trọng, đặc biệt là kinh nghiệm tham gia cách mạng trước ngày cướp chính quyền.
 

Trên thực tế, ông này là một cai đồn điền cao su làm việc cho tình báo Pháp trong thời gian trước năm 1945.

Lời răn dạy của một tướng cướp

 
Trong suốt buổi gặp, Lê Đức Anh đã nhiều lần nhấn mạnh đến lòng ‘nhân ái’, xem như đó là và ‘cái gốc và nhân tố chủ yếu để thắng lợi’.
 
Dẫn chứng về điều này, cổng thông tin điện tử chính phủ dẫn lời ông Anh nói: “Số ngụy quân, ngụy quyền, kể cả ở trong nước và đi di tản, phần lớn bây giờ đã và đang hướng về Tổ quốc từ chính sách nhân ái này”.
 
Phát biểu trên một lần nữa cho thấy sự trơ trẽn và xảo quyệt của những tên tướng cướp cộng sản.
 
Nếu thực sự có lòng nhân ái, Lê Đức Anh đã không gọi đồng bào mình bằng những danh từ miệt thị như ‘nguỵ quân, nguỵ quyền’.
 
Hơn nữa, chính những người bị cho là ‘nguỵ quân, nguỵ quyền’ đó đã can đảm chiến đấu đến hơi thở cuối cùng để bảo vệ Hoàng Sa năm 1974.
 
Trong khi đó, chính Lê Đức Anh lại là một tên phản quốc vì đã ra lệnh bộ đội Việt Nam không được nổ súng, dẫn đến cái chết oan uổng của 64 người lính Việt Nam trước họng súng Trung Cộng trong cuộc hải chiến Trường Sa năm 1988.
 
 

Nhà hoạt động Phạm Thanh Nghiên được chọn trao giải nhân quyền

Nhà hoạt động Phạm Thanh Nghiên được chọn trao giải nhân quyền

 
2017-03-31
 
 

Cựu tù nhân chính trị Phạm Thanh Nghiên.

Cựu tù nhân chính trị Phạm Thanh Nghiên.

Courtesy of danlambao
 
 
Nữ cựu tù chính trị Phạm Thanh Nghiên được chọn vào danh sách 5 nhân vật chung kết cho giải thưởng Người Bảo vệ Nhân quyền Trước Hiểm nguy năm 2017 của Tổ chức Front Line Defenders.

Thông cáo báo chí đưa ra vào ngày 30 tháng 3 của Front Line Defenders nêu rõ: tại Dublin, Ireland cùng trong ngày các thành viên ban tuyển lựa đã chọn 5 nhà bảo vệ nhân quyền của những quốc gia Ukraine, Nicaragua, Nam Phi, Kuwait và Việt Nam trong số 142 ứng viên được đề cử từ 56 quốc gia.

Giải thưởng thường niên của Front Line Defenders được trao cho nhân vật có những đóng góp đặc biệt vào công cuộc bảo vệ và cổ xúy  quyền con người trong cộng đồng của họ. Cá nhân nhân vật này phải đối diện những hiểm nguy lớn lao.

Những người được chọn vào danh sách chung kết trao giải năm 2017 và gia đình của họ từng phải đối diện với những vụ tấn công, các chiến dịch bôi nhọ, sách nhiễu về mặt pháp lý, dọa giết, án tù, và đe nẹt.

Tổ chức Front Line Defenders hoạt động nhằm tăng cường giúp bảo vệ và nêu bật cho mọi người trên thế giới biết về 5 nhân vật được chọn vào chung kết giải thưởng Người Bảo vệ Nhân quyền Trước Hiểm Nguy trong năm nay. Họ là những nhân tố thiết yếu cho phong trào nhân quyền tại đất nước và cộng đồng của họ.

Thông cáo của Front Line Defenders nêu rõ về nhân vật Việt Nam được chọn, bà Phạm Thanh Nghiên rằng blogger này từng bị tù 4 năm do hoạt động nhằm công khai những vi phạm và bảo vệ quyền cho thân nhân của những ngư dân bị phía Trung Quốc giết hại.

Sau khi mãn án tù, bà bị quản chế, nhưng trong thời gian đó vẫn tiên phong tiến hành nhiều chiến dịch về nhân quyền, đồng thời cùng sáng lập nên Mạng lưới Blogger Việt Nam.

Nhà bà Nghiên từng bị khám xét, bản thân bà từng bị chặn không cho đi khám bệnh theo hẹn, cửa nhà bị khóa trái từ bên ngoài, và thậm chí kết hôn cũng không được cấp giấy chứng nhận hôn phối.

Cựu tù nhân Phạm Thanh Nghiên đã sống sót qua nhiều đợt đánh đập nhằm ngăn chặn hoạt động ôn hòa nhưng mạnh mẽ của bà với mục tiêu công khai những vi phạm nhân quyền tại Việt Nam.

Nữ nghệ sĩ Kim Chi, từ Sài Gòn, đưa ra một số nhận định về cựu tù nhân Phạm Thanh Nghiên khi nghe tin Front Line Defenders chọn 5 nhân vật vào chung kết cho giải thưởng năm nay:

“Một cô bé bé bỏng, ốm đau nhưng rất can trường, dấn thân; bị công an hành hung, bắt bớ, tù đày và đến bây giờ vẫn tiếp tục còn bị đánh phá, cả hai vợ chồng.

Nhưng theo quan niệm của tôi, tôi thấy Nghiên vẫn liên tục có những bài viết đáng cho mọi người đọc. Và tôi thấy Nghiên tranh đấu không mệt mỏi.”

Mới vào ngày 29 tháng 3 vừa qua, một nhân vật nữ đấu tranh khác tại Việt Nam và cũng là thành viên đồng sáng lập Mạng lưới Việt Nam, blogger Mẹ Nấm- Nguyễn Ngọc Như Quỳnh được Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ vinh danh trao giải là một trong 13 phụ nữ quốc tế Dũng cảm năm 2017.

Nhân dịp đó, cựu tù nhân chính trị Phạm Thanh Nghiên có phát biểu về người bạn đồng chí hướng và một số công việc mà Mạng lưới Blogger Việt Nam đóng góp được cho công cuộc chung:

“Tôi muốn nói đến đóng góp của cá nhân Quỳnh cũng như của Mạng Lưới Blogger Việt Nam: chúng tôi chủ xướng hoặc cùng tham gia phong trào hoạt động đường phố như ‘Lời Tuyên bố của Công dân Tự do’, chiến dịch ‘Chúng ta muốn biết’, hay phong trào ‘Không Bán nước’ … Đó là những chiến dịch lớn, nhỏ mà Mạng lưới Blogger Việt Nam đưa ra sáng kiến chủ xướng hay cùng làm với các nhóm xã hội dân sự khác.”

Lễ công bố nhân vật được trao giải Người Bảo vệ Nhân quyền Trước Hiểm nguy năm 2017 sẽ diễn ra vào ngày 26 tháng 5 tới đây tại Dublin.

Front Line Defenders là tổ chức chuyên bảo vệ những người hoạt động vì quyền con người phải đối diện với nguy hiểm. Đó là những người hoạt động một cách ôn hòa, phi bạo lực vì những quyền được ghi trong Tuyên Ngôn Quốc tế Nhân quyền của Liên Hiệp Quốc.

Front Line Defenders được thành lập năm 2001 tại Dublin, Ireland.

“Đẹp lắm! Trên đời những vấn vương,”

Suy Tư Tin Mừng Trong tuần thứ 5 mùa Chay năm A 02/4/2017

 Tin Mừng: (Ga 11: 3-7,17.20-27.33b-45)

Hồi đó, hai cô cho người đến nói với Đức Giêsu: “Thưa Thầy, người Thầy thương mến đang bị đau nặng.” Nghe vậy, Đức Giêsu bảo: “Bệnh này không đến nỗi chết đâu, nhưng là dịp để bày tỏ vinh quang của Thiên Chúa: qua cơn bệnh này, Con Thiên Chúa được tôn vinh.”

Đức Giêsu quý mến cô Mácta, cùng hai người em là cô Maria và anh Ladarô.

Tuy nhiên, sau khi được tin anh La-da-rô lâm bệnh, Người còn lưu lại thêm hai ngày tại nơi đang ở. Rồi sau đó, Người nói với các môn đệ: “Nào chúng ta cùng trở lại miền Giuđê! “

Khi đến nơi, Đức Giêsu thấy anh Ladarô đã chôn trong mồ được bốn ngày rồi.

Vừa được tin Đức Giêsu đến, cô Mácta liền ra đón Người. Còn cô Maria thì ngồi ở nhà. Cô Mácta nói với Đức Giêsu: “Thưa Thầy, nếu có Thầy ở đây, em con đã không chết. Nhưng bây giờ con biết: Bất cứ điều gì Thầy xin cùng Thiên Chúa, Người cũng sẽ ban cho Thầy.” Đức Giêsu nói: “Em chị sẽ sống lại!” Cô Mácta thưa: “Con biết em con sẽ sống lại, khi kẻ chết sống lại trong ngày sau hết.” Đức Giêsu liền phán: “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống. Ai sống và tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải chết. Chị có tin thế không?” Cô Mácta đáp: “Thưa Thầy, có. Con vẫn tin Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa, Đấng phải đến thế gian.”

Đức Giêsu thổn thức trong lòng và xao xuyến. Người hỏi:”Các người để xác anh ấy ở đâu?” Họ trả lời: “Thưa Thầy, mời Thầy đến mà xem.” Đức Giêsu liền khóc.36 Người Do-thái mới nói: “Kìa xem! Ông ta thương anh Ladarô biết mấy!” Có vài người trong nhóm họ nói: “Ông ta đã mở mắt cho người mù, lại không thể làm cho anh ấy khỏi chết ư?” Đức Giêsu lại thổn thức trong lòng. Người đi tới mộ. Ngôi mộ đó là một cái hang có phiến đá đậy lại. Đức Giêsu nói: “Đem phiến đá này đi.” Cô Mácta là chị người chết liền nói: “Thưa Thầy, nặng mùi rồi, vì em con ở trong mồ đã được bốn ngày.” Đức Giêsu bảo: “Nào Thầy đã chẳng nói với chị rằng nếu chị tin, chị sẽ được thấy vinh quang của Thiên Chúa sao?” Rồi người ta đem phiến đá đi. Đức Giê-su ngước mắt lên và nói: “Lạy Cha, con cảm tạ Cha, vì Cha đã nhậm lời con. Phần con, con biết Cha hằng nhậm lời con, nhưng vì dân chúng đứng quanh đây, nên con đã nói để họ tin là Cha đã sai con.” Nói xong, Người kêu lớn tiếng: “Anh Ladarô, hãy ra khỏi mồ!” Người chết liền ra, chân tay còn quấn vải, và mặt còn phủ khăn. Đức Giêsu bảo: “Cởi khăn và vải cho anh ấy, rồi để anh ấy đi.”

Trong số những người Do-thái đến thăm cô Maria và được chứng kiến việc Đức Giêsu làm, có nhiều kẻ đã tin vào Người.

&    &   &

Đẹp lắm! Trên đời những vấn vương,

Chao ôi! Thiên lí một con đường.”

(dẫn từ thơ Lưu Trọng Lư)

Mai Tá lược dịch.

Bởi vấn vương, nên đời người vẫn là con đường của thiên lý. Của, những vấn vương, thương tình bầu bạn rải khắp nhân gian, như trình thuật nay còn nói.

Trình thuật, nay thánh Gioan lại nói đến tình bạn, Chúa vấn vương nhiều tình thương. Lòng Chúa xót thương, vấn vương tình người bạn vừa mới còn đó nay khuất bóng đi vào chốn ngủ vùi, khiến Ngài phải ra tay chữa chạy. Nhưng thiên lý đời người vẫn phải đương đầu với nỗi chết, theo cung cách khác biệt. Khác biệt ở chỗ: người có kinh nghiệm về chết chóc lại đã đặt cuộc đời mình vào niềm tin vô bờ bến. Nhờ có tin, con người mới thấy được chân lý của sự sống đang đi dần vào chốn ngủ vùi rất miên viễn. Nhờ niềm tin, người người mới hiểu được nhiệm tích vượt qua là để sống lại. Sống, bằng một hành trình băng qua thế giới khác. Hành trình đó, là cởi bỏ những lớp vỏ bọc bên ngoài để rồi người người dám đón nhận nỗi chết đang trờ tới.

Không kể về yếu tố siêu nhiên, đạo giáo, người người sẽ nhận ra nỗi chết chính là con đường thiên lý rất tự nhiên buộc Lazarô khi xưa và nay là mọi người phải đi qua. Tựa như hạt cải có rơi xuống đất và chết mục, nó mới đạt được hành trình tiến triển để vươn thành cây cải cao lớn. Cứ sự thường, con người vẫn có khuynh hướng chối bỏ khiá cạnh bình thường/tự nhiên con đường thiên lý vốn dẫn tới nỗi chết dần mòn, ở con người.

Thiên Chúa ban cho mỗi người quà tặng quý giá là chính sự sống, để ta tôn trọng. Khi tặng ban, Ngài cũng kèm theo đó một hệ thống biến cải để hoàn thiện sự sống của mỗi người bằng việc chết dần mòn như một tiến trình tăng trưởng cần có, ở mọi loài. Quà Chúa ban, Ngài không chỉ ban tặng cho cá nhân riêng một ai để rồi mỗi người cứ khư khư giữ nó suốt đời mình. Quà Ngài ban, là ban tặng cả và trời đất vũ trụ, theo qui cách rất tự nhiên, thực tiễn. Quà Ngài ban, đã hiện tỏ cả vào lúc trước khi ta lọt lòng mẹ. Và, nơi quà tặng bình thường/tự nhiên ấy, luôn có qui luật của sự chết dần mòn ngõ hầu sẽ còn diễn tiến suốt đường thiên lý, của cuộc đời.

Là hữu thể sống, con người không mặc lấy cho mình qui trình khép kín, tự thấy mình đầy đủ, nhưng vẫn là qui trình mở để sống với hệ thống mở rộng khác còn lớn nhiều, là thiên nhiên. Chính vì thế mỗi cá nhân riêng lẻ tự thấy không thể tập trung mọi sự, kể cả sự sống, cho riêng mình. Tức, có sống là phải có chết. Ít ra, là chết dần mòn. Bởi, mỗi cá nhân là thành phần của cộng đồng vũ trụ, trong đó sự chết là chuyện bình thường, rất tự nhiên. Cá nhân con người không thể chối từ tính bình thường/tự nhiên của sự chết. Chí ít, là chết dần mòn.

Ở tuần thánh, tín hữu Đức Kitô thường suy tư cùng một kiểu như thế khi nghĩ về cái chết của Đức Giêsu. Đó là thói quen cho rằng: chắc vì sự cố nào đó xảy đến khiến Chúa mới bị bắt và bị bách hại cho đến chết, đến dần mòn. Có người còn nghĩ: Chúa chết là do bọn xấu tra tay làm chuyện tày trời để Ngài phải tức tưởi đi vào chốn ngủ vùi. Và, họ coi cái chết của Chúa là do lỗi tội của con người mà ra. Thực tình, ít ai hiểu được tính bình thường/tự nhiên của con đường “thiên lý” những chết dần Chúa chấp nhận. Ngài chấp nhận, để thực hiện ý Cha khi Cha muốn tạo dựng sự sống cho muôn loài.

Chúa chấp nhận liệt mình vào với những người bé nhỏ, rất dễ chết. Thực sự, Chúa chấp nhận đường thiên-lý-những-chết-dần chẳng vì bọn xấu dám ra tay trừ khử Ngài, cho bằng Ngài không muốn thay mặt loài người sửa đổi luật bình thường/tự nhiên mà Cha Ngài tạo ra. Ngài chết dần, là vì yêu thương con người. Ngài muốn trở thành giống hệt người phàm. Nhất quyết không rút lui khi thấy có khó khăn, bực bõ, chết chóc. Và, bằng vào việc chấp nhận đường-thiên-lý-rất-chết-dần như con người, Ngài mới tỏ cho mọi người thấy Ngài yêu thương họ biết chừng nào.

Ốm đau tật bệnh, cũng như thế. Bệnh là khủng hoảng cá nhân. Tật, là ngõ bí khó tránh thoát. Khi mắc phải tật/bệnh, ta không còn thấy mình là mình nữa, nhưng đã mất đi cái ‘mình’ ấy và cứ hy vọng sẽ đạt trở lại tính chất ‘riêng tây’ của cái “mình” ấy. Có thể đạt được hoặc không thì vẫn là chuyện bình thường, tự nhiên.

Người mắc phải tật/bệnh sẽ cảm thấy may mắn nếu có ai ở cạnh, không nói ra, những vẫn gửi cho mình thông điệp nào đó để nói rằng: sự việc xảy ra như thế là chuyện bình thường, dễ hiểu. Kinh nghiệm thương đau là cái gì có thật, ai cũng biết. Chẳng riêng gì chỉ mình thôi. Đến khi bạn bè hỏi han/thăm viếng mới vỡ lẽ ra rằng thông điệp của đường thiên-lý-rất-chết-dần được đón nhận rất thông suốt. Cũng chẳng có gì phải sợ. Chẳng sợ đau đớn, cô đơn cho đến chết.

Điều người bệnh cần, không phải ai cũng có thể tâm tình, dù riêng tư. Cũng chẳng do người chạy chữa đưa ra lý lẽ để “giải thích” về căn bệnh. Nhưng, chỉ cần người khẳng định: đó là tiến trình rất bình thường/tự nhiên của trời đất. Đã là người, ai ai cũng đều phải ngang qua con đường thiên-lý-chết-dần ấy.

Nhà thương, thường là nơi người người tìm đến giải pháp kỹ thuật y-tế cho mọi trường hợp tật bệnh. Nơi đó còn là cơ ngơi để giúp những người đang còn yếu hiểu được qui luật như thế. Nhuốm bệnh, là tình trạng không thể sống sót mà không có người giúp đỡ. Là, chết dần chết mòn suốt đoạn đường thiên lý, rất trớ trêu. Nhà thương, còn là nơi có người thương yêu chăm nom săn sóc cho người đau yếu thấy dễ chịu. Chăm nom săn sóc từ cái ăn thức uống, rất vệ sinh. Là nơi, để người đau yếu kềm chế cơn đau. Nơi, để người còn khoẻ chăm sóc liên tục, rất đặc biệt. Nơi, bảo đảm kỹ thuật nay an toàn.

Với tật bệnh, tuy vẫn cần giải pháp kỹ thuật để chữa chạy. Nhưng với con đường thiên-lý-rất-chết-dần, thì vô phương. Và, khi ấy quyết định có nên đưa người đau yếu vào nhà (để) thương hoặc viện (để) dưỡng lão hay không, lại là quyết định của người khoẻ, chứ không phải người đau yếu, tật bệnh. Người đau và yếu khi ấy đã mất đi khả năng kiểm-soát các quyết-định như thế. Và, bên dưới sự việc, thì chính thiên nhiên là kẻ trợ đắc tiến trình bình thường/tự nhiên, “thiên lý” ấy.

Người đau yếu đang rơi vào tiến trình rất “thiên-lý-chết-dần” tại nhà, hoặc ở nhà thương, là người đang thực hiện một sự việc bình thường/tự nhiên rất chết dần. Họ muốn được đối xử như sự việc bình thường. Và, họ vẫn muốn làm thành phần trái đất và không muốn để mất tiêu chuẩn hoặc bị đào thải khỏi chốn miền đầy yêu thương ấy. Họ không chối bỏ sự thật. Cũng chẳng muốn bạn bè quên đi sự việc là họ đang trên đường thiên-lý-rất-chết-dần. Và không muốn ai làm ầm ỹ. Nói tóm, họ là người bình thường muốn được bình tĩnh khi cái chết chợt đến, như chuyện bình thường/tự nhiên, trong đời.

Ta đang đi vào tuần thánh là tuần để suy tư về sự chết dần của Đức Chúa-làm-người. Phúc Âm trình bày việc Chúa đi vào cái chết là về lại cùng Cha. Ngài về lại, sau khi hoàn tất sứ vụ của Ngài ở nơi này. Nơi, con đường thiên-lý-có sự chết, trên trái đất. Và, ý tưởng của thánh Gioan hôm nay nói về tính bình thường/tự nhiên của sự chết Chúa chấp nhận. Điều đó áp dụng cho ta, cho người thân của ta nữa.

Tác giả Sarah Coakley có lần từng viết: “Đã có e ngại thời hiện đại lôi cuốn nhiều người hiểu rằng: chết dần mòn, sự tắt lịm của ‘lịch trình tiến hoá’ chính là điều tệ hại nhất xảy đến với mọi người, và mọi sự. Nếu là tôi, tôi sẽ biện luận rằng… cơn hấp hối sâu xa nhất của Đức Chúa là sự mất mát phí phạm thấy rõ trong tạo dựng của Thiên Chúa sẽ được đo lường bằng lời loan báo của Chúa Thánh Linh về một hy vọng sống lại.” (x. Harvard Divinity Bulletin, 2002)

Xem như thế, có chết “bất đắc kỳ tử” hoặc chết dần mòn, thì sự chết vẫn là để loan báo sự sống lại rất tự nhiên như qui luật bình thường của sự sống.

Với tư thế hướng về sự sống lại ngay khi chết, ta cũng nên về với lời thơ trên mà ngẫm nghĩ:

“Đẹp lắm! Trên đời những vấn vương,

Chao ơi! Thiên lí một con đường

Đi trong trời đất từ duyên ấy

Sớm tối không rời một chữ thương.”

(Lưu Trọng Lư – Đi Giữa Vườn Nhân)

Cũng một chữ “thương” ấy, giải quyết hết mọi chuyện rất bình thường. Chuyện sống, chuyện chết và sống lại của Đức Chúa và con người trong trời đất thân thương. Bình thường. Tự nhiên.

Lm Kevin O’Shea CSsR biên-soạn –

Mai Tá lược dịch.

Giòng đời trôi, bao tháng năm qua rồi,

httpv://www.youtube.com/watch?v=Qmcki0l6zSQ

Mong Chờ Giêsu

Chuyện Phiệ’m Đọc Trong Tuần thứ 5 mùa chay năm A 02/4/2017

“Giòng đời trôi, bao tháng năm qua rồi,”

Chuyện buồn chuyện vui, cho tôi mãi mong chờ.

Lòng chờ mong không biết đến bao giờ được gặp Giêsu.

Maranatha! Maranatha!

Lòng chờ mong không biết đến bao giờ

được gặp Giêsu.”

(Nhạc: Maranatha – Lời: Lm Vũ Khởi Phụng DCCT – Mong Chờ Giêsu)

 (Amos 4: 12 / Mt 8: 34)

 Trần Ngọc Mười Hai

Trên đây, là lời ca vãn có những yêu cầu kéo dài mãi đến vô cùng vô tận. Yêu cầu, là nỗi niềm mong mỏi “được gặp Giêsu”, đồng thời được gần cận mãi với tạo cho bạn bè/người thân, trong cuộc đời. Đó là trải-nghiệm có được khi nghe người anh em đồng môn đọc lời bạt do chính anh viết ở dĩa nhựa Chuyện Phiếm Đạo Đời số 8, trên “Sound Cloud”..

Và dưới đây, lại thêm một cảm-nhận chân-tình của người anh em khác cùng Dòng gửi đến bạn bè đồng song sau chuyến ra đi của thân mẫu, vừa xảy đến:

Quí anh chị rất mến thương,

Không có ngôn-từ nào có thể diễn tả đươc tấm lòng của gia đình trước nghĩa-cử thật yêu thương mà quí anh chị đã dành cho gia đình trong dịp tang lễ của mẹ vừa qua. Xin anh chị em nhận nơi đây lòng biết ơn thật sâu xa của bần đệ và gia quyến.

Lời cầu nguyện của anh chị em trong các Thánh lễ, nhất là những tâm tình chia sẻ trong giờ cầu nguyện tại nhà quàn đã nhắc cho bần đệ, các em và các cháu trong tang quyến được phép ngẩng đầu lên mà hãnh diện về mẹ. Và đây cũng là nguồn động-lực giúp gia đình từ từ vượt qua nỗi đau thương để đón nhận.

Xin anh chị em đã thương thì thương cho trót bằng cách là tiếp tục cầu nguyện với, cùng và cho linh hồn Anna.

Thân ái trong Chúa Cứu Thế.

(trích điện thư của Lm Mai Văn Thịnh, CSsR gửi anh em trong gia đình An-Phong qua anh Mai Tá lá thư đề ngày 04/3/2017)

“Vượt qua nỗi đau thương để đón-nhận..”, chính đó là ý-nghĩa và mục tiêu mà mọi người trong Đạo đều nhắm đến. Lời ca cảm-nhận hay câu vãn có yêu cầu, vẫn là những lời tụng ca đầy ý-nghĩa như còn thấy ở nhiều chỗ khác, có bài hát rất như sau:

“Giòng đời trôi theo nắng sớm mưa chiều.

Tìm gần tìm xa, nghe như vẫn tiêu điều.

Rồi ngày nao tôi sẽ yêu thương nhiều vì gặp Giêsu.

Maranatha! Maranatha!

Rồi ngày nao tôi sẽ yêu thương nhiều vì gặp Giêsu.

Cuộc trần ai đưa nát tan cho đời.

Người người biệt ly, bao sông núi chia lìa.

Rồi ngày nao từ bốn phương quay về gặp được Giêsu.

Maranatha! Maranatha!

Rồi ngày nao từ bốn phương quay về gặp được Giêsu.

Người ở đâu mang mác bốn phương trời.

ngàn trời mây, muôn hoa lá mong người.

Và hằng đêm tôi vẫn khêu ngọn đèn đợi chờ Giêsu.

Maranatha! Maranatha!

Và hằng đêm tôi vẫn khêu ngọn đèn đợi chờ Giêsu.”

(Nhạc: Maranatha – Lời: MONG CHỜ GIÊSU bđd)

“Rồi ngày nao tôi sẽ yêu thương nhiều vì gặp Giêsu”, đó còn là mục-tiêu mà mọi người “cần vượt qua để đón nhận”. Đón và nhận, sự-kiện “gặp Giêsu” nơi những người đang sống quanh mình vào mọi lúc. Không chỉ vào lúc cùng ta quây quần bên người thân thuộc vừa quá vãng mà thôi, nhưng còn là và phải là mọi lúc, trong đời người.

Và, “ngày nao tôi sẽ yêu thương nhiều vì được gặp Giêsu.” Ôi! Đây chính là ý-nghĩa của cuộc sống vào dạo trước và cả vào thời mai hậu, như lời khẳng định của thần-học-gia tên tuổi là Edward Schillebeeckx từng nói đến như sau:

“Bản thân con người phàm-trần bao giờ cũng mang tính-chất sử-học, đưa vào lịch-sử để làm nên lịch-sử. Vì thế nên, hành trình mà con người còn rong ruổi lại chính là hành-trình được thiết-lập với Thiên-Chúa. Bởi lẽ, con người là tạo-vật do Thiên-Chúa thiết-dựng. Nhưng, có thể đó cũng là hành-trình không có Chúa đi cùng hoặc vào thời-điểm con người cứ mải kình-chống Thiên-Chúa nữa.

 Con người là hữu-thể phàm-tục có chất sử luôn sống trong tương-quan với Thiên-Chúa vĩnh-cửu. Tương-quan đây, là hành-trình rong ruổi được thể-hiện giữa bản-thể con người với Thiên-Chúa vĩnh-cửu đã dấy lên vấn-đề cánh-chung-luận. Bởi lẽ, cuộc sống con người là sự sống phụ thuộc vào thứ gì có khởi-đầu và kết-đoạn hẳn-hoi.

 Vậy nên hỏi rằng: con người có thể tồn-tại mãi không? Ta thấy những gì được thêm vào đây? Có chăng sự sống sau khi chết? Có chăng thiên-đàng dành cho những người làm điều tốt lành? Có chăng luyện-ngục là nơi chốn dành cho những người luôn làm việc gian-ác?

 Vấn-đề này được lịch-sử đặt ra cho con người phàm-trần. Cánh-chung-luận là câu đáp trả của Đạo Chúa với những câu hỏi đại-loại như thế. Sự sống vĩnh-cửu không là thứ gì dính-liền với bản-chất của hữu-thể hạn hẹp và bất ngờ. Cả ở trường hợp bản-thể người có linh-hồn thiêng-liêng, ta cũng không thể nào bảo là: tính-chất thần-thiêng nơi linh-hồn con người lại là nền-tảng của sự sống sau khi chết…” (X. Lm Edward Schillebeeckx, I Am a Happy Theologian, SCM Press Ltd 1994, tr. 63)

 Rõ ràng là, thần-học-gia Schillebeeckx những muốn chứng-tỏ trong cuốn “Tôi là nhà thần-học phúc-hạnh” vốn dĩ bảo rằng: sự sống và nỗi chết của con người vẫn cứ là trạng-huống của hữu-thể hạn-hẹp, chứ không là khúc/đoạn của không gian và thời, bao giờ hết.

Bản thể “người” luôn ưu-tư/quan-ngại về những hạn-chế của không-gian và thời-gian, nên mới sáng-tạo ra các phạm-trù đầy ấm-ức bằng các cụm-từ như: thiên đàng, luyện-ngục, trần-gian hoặc chốn vĩnh-hằng.

Thế nhưng, thực sự thì các phạm-trù đó có ý-nghĩa gì đáng để ta lưu-tâm, bàn-thảo hay không? Đáp trả bằng những quan-niệm vững chãi, lại xin mời bạn và mời tôi, ta tiếp-tục đi vào giòng chảy đầy phân-tích của thần-học-gia tên tuổi ở trên, đã xác định bằng những ý-tưởng sau đây:

“Thiên-đàng và hoả-ngục là những sự, những việc có thể xảy đến với con người. Tôi thường biện-bạch rằng: ta luôn có tính-chất rất đối-xứng giữa ý-niệm về thiên-đàng và quan-niệm về hoả-ngục: cả hai đều không thể đặt chung vào cùng lãnh-vực được. Giả như nền-tảng của sự sống sót là tương-quan sống động như thế với Thiên-Chúa, tôi vẫn tự hỏi xem những gì xảy đến khi tương-quan với Thiên-Chúa không sống-động cách nào hết, nghĩa là: khi người nào đó làm chuyện gian ác cố ý đến cùng tột.

 Ta không thể biết được là có hay không những người làm điều gian-ác theo cung-cách nhất-định, bác-bỏ mọi ân-huệ Chúa tha thứ cho họ, nữa. Và, đây chỉ là giả-thuyết bảo rằng: nếu trên đời này lại có những người không có tương-quan thần-thánh với Thiên-Chúa, thì những người như thế sẽ không có nền-tảng về sự sống vĩnh-cửu.

 Và, hoả-ngục là kết-đoạn cho những ai làm điều gian ác theo cung-cách nhất-định, thì cái chết thể xác và kết đoạn cuộc đời nơi họ sẽ là điều tuyệt-đối. Thành thử, từ một quan-điểm cánh-chung-luận, ta nói được là chỉ có thiên-đàng mà thôi.” (X. Lm Edward Schillebeeckx, I Am a Happy Theologian, SCM Press Ltd 1994, tr. 64)

Nếu thế thì, các phạm-trù ở trên được sáng-chế là để đề-nghị ta và mọi người hãy cùng nhau nghe lại khẳng-định làm nền nơi ca-từ đã trích có những lời vang vọng mãi:

“Giòng đời trôi, bao tháng năm qua rồi,”

Chuyện buồn chuyện vui, cho tôi mãi mong chờ.

Lòng chờ mong không biết đến bao giờ được gặp Giêsu.

Maranatha! Maranatha!

Lòng chờ mong không biết đến bao giờ

được gặp Giêsu.”

(Maranatha – Vũ Khởi Phụng DCCT – bđd)

Nếu thế thì, trọng-tâm cuộc sống hay nỗi chết vẫn cứ là “đợi chờ để được gặp Giêsu”, một khẳng-định được tác-giả Marcus J. Borg lại cũng quả-quyết như sau:

“Tất cả mọi người chúng ta, trước đây đều đã gặp gỡ Đức Giêsu. Phần đông chúng ta gặp Ngài hồi còn thơ ấu. Điều này, hà tất là chuyện có thật, đối với những ai được nuôi dưỡng trong lòng Giáo-hội và nhất là những người lớn lên ở vùng trời có nền văn-hoá Tây phương. Ở đó, mọi người đều có cùng một ấn-tượng về Đức Giêsu, theo cách nào đó như ảnh-hình về Ngài tuy lu-mờ nhưng rất đặc-biệt.

 Với nhiều người, ảnh-hình về Đức Giêsu mà họ có từ thời ấu-thơ, vẫn hoàn-hình cả vào lúc trưởng-thành. Với người khác, ảnh-hình này được giữ gìn bằng những xác-tín đậm-sâu, đôi khi còn nối-kết cả với lòng sủng-mộ tư-riêng đầm ấm và nhiều lúc còn kết chặt vào với lập-trường đầy học-thuyết cứng ngắc, nữa.

 Một số người khác, cả ở bên trong lẫn bên ngoài Giáo-hội, thì ảnh-hình về Đức Giêsu thời ấu-thơ còn trở-thành vấn-đề, tạo nên nhiều bối rối/ phức-tạp và ngờ-vực, có khi lại dẫn đến tình-huống dửng-dưng đối với Giáo-hội hoặc chống-đối cái Giáo-hội của thời con trẻ mà họ từng sống.

 Quả là, đối với nhiều tín-hữu Đạo Chúa, đặc-biệt là các thành-viên Giáo-hội chính-cống, có lúc xảy ra thời-kỳ trong đó ảnh-hình Đức Giêsu thời son trẻ không còn mang ý-nghĩa gì to tát cả. Và, rất nhiều người trong số đó, không cảm thấy cần thay thế nó. Với họ, gặp gỡ Đức Giêsu thêm một lần nữa lại sẽ như chỉ mới gặp Ngài lần đầu tiên, tức là lúc họ cảm thấy tràn-ngập ảnh-hình mới mẻ về Ngài.

 Thật sự mà nói, ý-niệm nền-tảng sẵn có trong đầu nhiều người là sự nối kết mạnh mẽ giữa ảnh-hình Đức Giêsu và nét phác hoạ về đời sống tín-hữu Đạo Chúa thật rõ nét. Nối kết đây, là sự tương-giao giữa những điều mọi người người nghĩ về Đức Giêsu và những gì mọi người trong chúng ta suy-tư về cuộc sống phải có của người đi Đạo. Ảnh-hình ta có về Đức Giêsu vẫn luôn tạo ảnh-hưởng lên nhận-thức ta có về cuộc sống của người tín-hữu theo hai cách: một, là cung-cách tạo nên hình-dạng cuộc sống người tín-hữu Đạo Chúa; và cách kia, là quyết-tâm biến Đức Chúa trở-thành đạo-giáo đáng tin hoặc không đáng tin.

 Xem như thế, thì người đi Đạo lâu nay nhiều ít vẫn cứ tin Đức Giêsu mà mình được gặp tựa như ảnh-hình mình duy-trì từ thời niên-thiếu. Dù ảnh-hình ấy có do Giáo-hội nhồi nhét vào đầu óc son trẻ của mình hay không.” (X. Marcus J. Borg, Meeting Jesus Again for the First Time, HarperCollins1994, tr. 1-2)

 Lòng chờ mong không biết bao giờ được gặp Giêsulại là sự mong chờ được gặp Đức Giêsu của thời trưởng-thành. Ảnh-hình của một Đức Giêsu-thực vừa là người thực như ta, vừa là Đấng được toàn-thể Hội-thánh nâng-nhấc lên thành Ngôi Hai Thiên-Chúa.

Chờ mong một gặp gỡ như thế để làm gì? Phải chăng là để như lời hiền-nhân ngôn-sứ khi xưa trong Cựu Ước từng khuyên-bảo như sau:

“Hỡi Israel,

ngươi hãy chuẩn bị

đi gặp Thiên Chúa của ngươi.”

(Amos 4: 12)

Đó là người đời thời Cựu ước. Còn thời Tân Ước, sau khi chứng kiến Đức Giêsu làm việc lạ lùng, khi trừ tà, người trong làng lại cũng tụ-tập để gặp Ngài sau đó thì mời Ngài ra đi như Tin Mừng Mát-thêu còn nói rõ:

“Bấy giờ,

cả thành ra đón Đức Giêsu,

và khi gặp Ngài,

họ xin Ngài rời khỏi vùng đất của họ.”

(Mt 8: 34)

Thành ra, cũng là chờ mong/mong chờ “được gặp Giêsu”, nhưng mỗi thời và mỗi người lại có ý khác nhau. Chờ và mong “được gặp Giêsu” như bài hát trên lại mang một ý-nghĩa khác hẳn:

“Rồi ngày nao tôi sẽ yêu thương nhiều vì gặp Giêsu.

Cuộc trần ai đưa nát tan cho đời.

Người người biệt ly, bao sông núi chia lìa.

Rồi ngày nao từ bốn phương quay về gặp được Giêsu.

Maranatha! Maranatha!

Rồi ngày nao từ bốn phương quay về gặp được Giêsu.

Người ở đâu mang mác bốn phương trời.

ngàn trời mây, muôn hoa lá mong người.

Và hằng đêm tôi vẫn khêu ngọn đèn đợi chờ Giêsu.

Maranatha! Maranatha!

Và hằng đêm tôi vẫn khêu ngọn đèn đợi chờ Giêsu.”

(Nhạc: Maranatha/Lời: Lm Vũ Khởi Phụng DCCT – bđd)

Có mong/có chờ rồi mới thấy. Có chờ và có đợi rồi sẽ hay. Duy, có điều là: khi gặp Ngài rồi, thì bản thân người chờ đợi cũng như người xục xạo kiếm tìm sẽ ra sao? Có mãn nguyện không? Người mãn-nguyện rồi, lại sẽ có quyết-tâm như thế nào? Phải chăng như lời lẽ người anh em vừa viết trong bức thư tâm-tình đầy tri-ân, vang vọng mãi rằng: “Những tâm tình chia sẻ trong giờ cầu nguyện tại nhà quàn đã nhắc cho bần đệ, các em và các cháu trong tang quyến được phép ngẩng đầu lên mà hãnh diện về mẹ.” (X. tâm-thư trích-dẫn ở trên)

Với mẹ ruột, mà người con còn hãnh-diện đến độ “sẽ ngẩng đầu lên” như thế. Thì, với Đức Giêsu được nâng-nhắc thành Thiên-Chúa Ngôi Hai, chắc người người sẽ còn ngẩng cao đầu ghi dấu ấn đến mãn đời, nữa mới phải.

Dấu ấn ấy. Cảm-nghiệm đây, còn là và sẽ là những cảm và nghiệm của đời người vẫn có niềm vui bất tận của những người đã và đang trên đường kiếm tìm hoặc từng mong chờ nay được gặp. Tâm tình ấy, nay hoà-đồng vào với tình-tiết của câu truyện kể đầy cảm-tính như dưới đây:

“Một chuyến tàu ngoài khơi gặp bão và bị đắm. Có hai người giạt đến một hoang đảo. Cả hai đã nhiều lần làm thuyền nhưng không lần nào thành công. Cuối cùng, họ đồng ý với nhau là cùng ngồi cầu nguyện. Mỗi người sẽ ở một nửa hòn đảo xem lời cầu nguyện của ai sẽ linh nghiệm.

 Đầu tiên, người thứ nhất cầu nguyện có được thức ăn. Sáng hôm sau, người thứ nhất tìm thấy một cây có nhiều quả rất ngon nên anh ta không còn phải lo lắng đi tìm thức ăn nữa. Ở phần bên kia hòn đảo, đất vẫn khô cằn và người thứ hai không tìm được gì cả.

 Hết một tuần, người thứ nhất cầu nguyện cho có bầu bạn. Chỉ sau một ngày, ở bên đảo của người thứ nhất có một chiếc tàu khác bị đắm và một người phụ nữ giạt vào. Hai người chuyện trò cho bớt cô đơn, còn ở phần bên kia hòn đảo, người thứ hai vẫn không có gì khác.

 Liên tục những ngày sau đó, người thứ nhất cầu nguyện được căn nhà, quần áo ấm và nhiều thức ăn hơn. Phép mầu lại xảy ra. Những gì anh ta ước thường xuất hiện ngay vào buổi sáng ngày hôm sau. Tuy nhiên, vẫn không có gì khác xảy ra ở phần đảo của người đàn ông thứ hai.

 Cuối cùng, người thứ nhất và người phụ nữ – nay đã là vợ anh ta- cầu nguyện có một chiếc tàu. Sáng hôm sau, một chiếc tàu lớn xuất hiện trên bãi biển. Người thứ nhất dẫn vợ mình lên tàu và quyết định bỏ người thứ hai ở lại trên đảo. Anh ta nghĩ rằng người kia không đáng được nhận bất kỳ thứ gì anh ta có được từ những lời cầu nguyện riêng của anh ta.

 Khi chiếc tàu chuẩn bị rời bến, bỗng người thứ nhất nghe thấy có tiếng nói vang lên từ không trung: “Tại sao con lại bỏ bạn mình?” Người thứ nhất thản nhiên cao giọng: “Tất cả mọi thứ đều do tôi cầu nguyện mà có. Anh ta cầu nguyện nhưng chẳng được gì cả nên không xứng đáng để đi cùng với tôi.”

 “Con lầm rồi” – giọng nói vang lên  – “Từ đầu đến cuối, anh ta chỉ ước có một điều và Ta đã thực hiện cho anh ta điều ước ấy.” Người thứ nhất rất ngạc nhiên: “Anh ta đã ước gì?”

 “Anh ta đã ước rằng những lời cầu nguyện của con được biến thành sự thật!” (truyện do St sưu tầm)

 Tâm tình của người chờ mong, nay được gặp Đấng mà mình mong ước, lại sẽ hằn in nơi ca-từ nhè nhẹ được nghe thêm một lần nữa làm kết-đoạn cho bài luận-phiếm về một “chờ mong/mong chờ được gặp Giêsu” rất hôm nay. Câu hát nhẹ ấy, cứ từ từ đi vào lòng người nghe với những lời lẽ gọn gàng như sau:

“Rồi ngày nao từ bốn phương quay về gặp được Giêsu.

Người ở đâu mang mác bốn phương trời.

ngàn trời mây, muôn hoa lá mong người.

Và hằng đêm tôi vẫn khêu ngọn đèn đợi chờ Giêsu.

Maranatha! Maranatha!

Và hằng đêm tôi vẫn khêu ngọn đèn đợi chờ Giêsu.”

(Nhạc: Maranatha/Lời: Lm Vũ Khởi Phụng DCCT – bđd)

 Trần Ngọc Mười Hai

Với những tình-tự hằn in nơi tâm-khảm

Khi nghe bài

“Giòng đời trôi” với lời ca

Lã chã, êm ả, rất mong chờ

Được gặp Giêsu.

HỎI ĐÁP VỚI THIỀN SƯ Ottamasara Sayadaw

HỎI ĐÁP VỚI THIỀN SƯ Ottamasara Sayadaw

 Câu hỏi 18: Con đang rất đau khổ, bởi vì vợ chồng con bất hòa, mấy tháng trước mẹ con vừa mất thì đến nay bố con không muốn sống nữa, bố con kinh doanh tại nhà và có một khoản nợ ngân hàng khổng lồ, với tình hình làm ăn như thế này có thể con phải bán nhà để trả nợ. Cuộc sống đối với con hiện nay như địa ngục. Con phải làm sao?

 Thiền sư Ottamasara:
 

Rồi một ngày bạn sẽ mất tất cả mọi thứ: gia đình, nhà cửa, nghề nghiệp, vợ con, tài sản. Điều đó là Sự Thật không thể trốn thoát. Và điều đó chắc chắn sẽ xảy ra, không chỉ với bạn mà với tất cả mọi người. Điều này là hoàn toàn chắc chắn. Bạn cho rằng nỗi đau khổ của bạn xuất phát từ mọi người xung quanh, nhưng bản chất nỗi khổ ấy xuất phát từ việc bạn không có khả năng chấp nhận sự mất mát. Bạn càng có khả năng chấp nhận mất mát, càng có khả năng chấp nhận sự thật thì bạn sẽ càng bớt đau khổ. Đây cũng là sự thật nữa. Bạn không chấp nhận được mất mát là vì bạn nắm giữ, hiểu sai lầm rằng đó là nhà của bạn, cha mẹ, tài sản của bạn. Do có sự hiểu lầm đó nên bạn nắm giữ, điều khiển và không có khả năng chấp nhận sự thật là chúng sẽ mất. 

 

Thật sự rằng bạn đã mất chúng ngay từ khi bạn bắt đầu “có” chúng, vì hiểu là mình có chúng nên bạn mới mất chúng, còn hiểu được rằng chúng đến với bạn là do các điều kiện nhân duyên hội tụ thì khi không đủ điều kiện nữa nó sẽ ra đi, khi đó bạn sẽ chấp nhận được sự mất mát.

 

Khi kết hôn bạn cho rằng đó là vợ của mình và sở hữu được người vợ, nắm giữ được họ, khi có con bạn cũng cho rằng con của bạn và nắm giữ ý tưởng đó, cùng hiểu lầm ấy với tài sản, cha mẹ, nhà cửa, nghề nghiệp. Cho nên có thêm một vật gì, điều gì là bạn có thêm sự nắm giữ, và sự nắm giữ ấy trở thành thói quen của bạn. Bạn có thói quen nắm giữ chứ không có thói quen chấp nhận mất mát (chấp nhận sự thật). Từ trước tới nay bạn không mất mát nhiều nên khả năng chấp nhận mất mát rất yếu và sự nắm giữ rất mạnh mẽ, chúng được tích lũy cùng với nhau. Bạn cần xây dựng và ghi nhớ sự thật rằng mọi thứ có bản chất riêng, và bản chất tột cùng của chúng là chúng đang thay đổi và bạn sẽ phải mất chúng, hãy ghi nhớ và tạo cho mình khả năng chấp nhận điều đó. Khi bạn nghĩ rằng mình “có” bất cứ điều gì, hãy nhắc nhở và ghi nhớ sự thật đó, chúng không phải là của bạn và bạn không thể nắm giữ được chúng.

 

Hỏi tiếp: Con còn quá trẻ để mất tất cả những thứ đó, và mất cùng một lúc, nếu như mất từ từ và mất khi con đã già có khi con lại dễ chấp nhận hơn.

 Thiền sư Ottamasara:
 

Với người không có khả năng chấp nhận mất mát thì không có gì để mất là điều tốt nhất cho anh ta, giả sử nếu mất gia đình, mất nhà, mất nghề nghiệp thì bạn sẽ ra sao? Nếu có được bài học lớn từ điều đó, có thể đó là cơ hội cho bạn xuất gia và trở thành tu sĩ không tài sản như tôi đây, có sao đâu (cười). Đó là bạn nghĩ vậy thôi, còn sự thật chưa chắc bạn đã mất tất cả những thứ đó. Bạn còn trẻ, còn sức khỏe nên còn rất nhiều thời gian cho bạn học hỏi và rút kinh nghiệm, những gì đang xảy ra là cơ hội rất tốt cho bạn, là điều rất mừng cho bạn để có thể đối diện, xây dựng tính chấp nhận mất mát cho tương lai. Nếu bạn đã lớn tuổi và bệnh tật, bạn vẫn có thể mất những thứ kể trên nhưng khi đó sẽ còn khó khăn hơn, khó chấp nhận hơn nữa. Nếu bạn mất mát từng thứ một thì khả năng chấp nhận mất mát sẽ rất nhỏ, đây là cơ hội để bạn xây dựng khả năng chấp nhận đối với những mất mát lớn hơn. Đến một ngày, bạn và tôi và tất cả đều sẽ mất cùng một lúc, khi đó bạn có đủ mạnh mẽ để chấp nhận rồi. Điều đó là cần thiết. Bây giờ bạn còn trẻ và không phải người trẻ nào cũng có cơ hội tốt như bạn để học hỏi. 

 

Hỏi: Vậy những điều Ngài nói giúp ích gì cho con để giải quyết tình hình hiện nay?

 Thiền sư Ottamasara:
 

Bạn không thể điều khiển được tất cả mọi người, tất cả mọi hoàn cảnh, bạn không thể làm cho sự việc, con người, niềm vui tồn tại mãi mãi nhưng bạn có thể xây dựng được cho mình khả năng chấp nhận sự thay đổi ấy. Khi có được sự chấp nhận sự thật ấy, tâm lý bạn sẽ ổn định hơn, khi đó tự bạn sẽ biết cần làm gì để thay đổi con người, hoàn cảnh xung quanh. Khi bạn biết chấp nhận mất mát thì sẽ giúp cho gia đình, người thân cũng biết chấp nhận mất mát, và khi đó có tự do, sự hiểu biết trong tâm trí của mọi người thì gia đình bạn sẽ thay đổi.

 (Cảm ơn Sư Cô Hương Thiền đã thông dịch)

Vì sao đa nguyên là lựa chọn chính trị tối ưu của nhân loại cho đến lúc này?

Vì sao đa nguyên là lựa chọn chính trị tối ưu của nhân loại cho đến lúc này?

FB Nguyễn Đình Bổn

31-3-2017

Hãng tin AFP đưa tin, sau phán quyết của tòa án trung tâm quận Seoul ngày 30-3, cựu tổng thống Hàn Quốc bị phế truất đã bị bắt giam như một nghi phạm liên quan tới một loạt bê bối cáo buộc tham nhũng, tiết lộ bí mật quốc gia, lạm dụng quyền lực.

Bà Park Geun-hye từng được nhận xét như một phụ nữ tài năng, liêm chính, có khả năng lãnh đạo, và người Hàn Quốc khi bầu cho bà hẳn là đã nhìn và tin vào các tính cách đó, vậy nhưng vì sao bà đã rơi vào bi kịch như hiện nay?

Phải chăng quyền lực tột đỉnh đã làm tha hóa người phụ nữ một thời được người Hàn Quốc tự hào, kính trọng?

Bản chất con người là tham, sân, si, thiện ác trộn lẫn. Vì vậy khi nắm trong tay quyền lực, nhất là quyền lực chính trị, họ sẽ bộc lộ tham vọng của mình. Cái mầm mống bất thiện sẽ trồi lên, lấn át lý tưởng phục vụ quốc gia, và vậy là bi kịch xảy ra.

Trong lịch sử nhân loại, chế độ phong kiến minh họa rõ nhất điều này, với rất nhiều anh hùng dân tộc nhanh chóng trở thành hôn quân khi trở thành hoàng đế.

Vì vậy, để khống chế nó, nền dân chủ ra đời và đa nguyên là lựa chọn chính trị tối ưu của nhân loại cho đến lúc này, bởi chỉ có đa nguyên mới ngăn chặn được độc tài. Một khi lạm quyền xảy ra, dù là tổng thống, các đảng đối lập sẽ nhanh chóng chứng minh sự phạm tội, và tòa án độc lập sẽ xét xử. Cựu tổng thống Hàn Quốc là một ví dụ. Từ đỉnh cao quyền lực, hiện nay Park Geun-hye phải sống trong tù với bữa ăn 1,30 USD và phải tự rửa bát sau khi ăn như bất cứ một phạm nhân nào khác.

Hàn Quốc trở thành một quốc gia hùng mạnh hàng đầu thế giới dù vẫn đang trong “tình trạng chiến tranh” với Bắc Triều tiên là do họ đã chọn lựa thể chế tối ưu cho mình.

Không có một biện luận nào khác về sự phi dân chủ của một thể chế độc tài, nơi mà tài sản cán bộ cấp tỉnh cũng là một “bí mật quốc gia” và tất nhiên, với sự tự tung tự tác nay, tài nguyên dù phong phú bao nhiêu cũng bị xâu xé cho đến cạn kiệt, và lạc hậu, đói nghèo cũng chính từ thể chế này mà ra.

QUÂN ĂN CƯỚP

QUÂN ĂN CƯỚP

  Đặng Chí Hùng

quanancuop (1)

Mấy tháng nay, mẹ của Lan bệnh ngày càng nặng, không thể đi làm nữa. Cho nên, ngoài giờ đi học, Lan phải làm đủ việc để nuôi mẹ. Từ mò cua, bắt ốc, đi mót cá con ở các bến thuyền của ngư dân…Lan gầy và ốm yếu. Nước da đậm màu của nắng và nước biển, trông bạn ấy nhỏ thó và tội nghiệp. Mẹ Lan là một người đàn bà còn trẻ và bất hạnh. Bà không có chồng. Trong một lần đi lao động ở thành phố, bà nhặt được Lan từ một thùng rác trong đêm. Đêm đó, bà bỏ thành phố mang Lan về sống ở làng chài này. Hai năm trước bà bị tai nạn, ảnh hưởng về thần kinh, khiến bà nhiều lúc như trẻ con, có khi như điên dại. Cám cảnh trước đứa con nhỏ phải quần quật nuôi sống mình, nhiều lần bà đã muốn quyên sinh. Những lúc tỉnh táo sau một quãng dài giữa những cơn bạo bệnh bà thường nói với Lan:

– Con …hãy để mẹ được ra đi. Mẹ biết con sẽ buồn khi không có mẹ. Nhưng rồi thời gian sẽ đưa con lớn lên, và nỗi buồn sẽ vơi theo. Còn thế này….mẹ đau lắm. Mà nỗi đau này chẳng bao giờ vơi được. Mẹ không muốn con mẹ khổ….

Bà thường nói với con như thế. Lúc đầu Lan khóc, nhưng dần dần Lan đã không còn nước mắt. Cô bé ôm mẹ vào lòng, với một tình yêu vô bờ bến. Chỉ cần nhìn thấy con, được con động viên, bà ấy lại quên đi ý định tự tử.

***

Một buổi sáng, Lan vừa về đến nhà thì có tiếng người lạ vọng từ căn nhà rách nát của mình ra:

– Bà nên xem bán lại căn nhà này cho Xã để xã lấy đất làm đường mới. Bà không có con đẻ, con bé Lan là con rơi bà nhặt về. Và nó lại là con gái, sau này đi lấy chồng thì bà cần gì mảnh đất này. Thôi chịu khó nghe lời đảng và nhà nước ký vào biên bản này đi !

Lan nghe rõ đó là giọng đàn ông ồm ồm như con vịt đực nhà bà Năm hàng xóm. Nó ghé mắt qua vách nhà có những lỗ thủng do bao năm nay nó chỉ là cái nhà tranh thiếu bàn tay đàn ông tu sửa. Con bé chợt nhận ra là ông chủ tịch xã là tác giả của câu nói vừa phát ra mà nó nghe lạnh cả xương sống.

Nó không lạnh sao được khi mẹ con nó chỉ có ngôi nhà này làm chỗ chui ra, chui vào nhưng mà giờ đây nguy cơ nó không còn là chỗ che mưa nắng của mẹ con Lan nữa.

Tiếng của mẹ Lan đều đều trong hơi thở mệt nhọc:

– Mẹ con tôi không có ý chống đối ai cả, nhưng ông chủ tịch ơi, cái giá nhà nước đưa ra quá rẻ, tại sao chỉ có cách 200 m mà đất vườn của nhà ông bí thư được đền bù 5 triệu đồng/m2 còn ngôi nhà ở của mẹ con tôi lại chỉ có 1 triệu đồng/ m2. Mẹ con tôi lấy gì mà mua đất làm nhà mới ? Mẹ con tôi sẽ sống ra sao ? Làm sao tôi nỡ nào ký vào để con bé Lan phải ra đường. Tôi thì như ông biết chết sống chẳng cam, nhưng ngặt nỗi còn con bé Lan…

Nói chưa dứt câu, người đàn bà với khuôn mặt khắc khổ vì bệnh tật và nghèo khó dừng lại ở đó và đưa đôi mắt thâm quầng ra xa một cách thiểu não.

Không để cho bà tiếp tục câu nói, ông chủ tịch xã tiếp ngay:

– Tôi đã nói với bà nhiều lần rồi ! Cái này là chủ trương và chính sách của đảng và nhà nước. Người như ông bí thư là cán bộ của đảng, họ phải gánh trọng trách với dân với nước nên có ưu tiên một chút cũng là hợp tình hợp lý thôi! Nếu bà cứ khăng khăng thì chúng tôi phải cưỡng chế đó. Đây là lần cuối cùng tôi nói chuyện tử tế với bà, ngày mai là hạn cuối cùng xe ủi sẽ đến đây cưỡng chế…

Đôi tai Lan ù đi vì câu nói đó của ông chủ tịch, nó lao đầu xuống căn bếp lợp bằng lá dừa dại không đủ che mưa khi trời nổi gió trên ngọn tre đầu xóm. Nó thấy trời như đang sụp xuống dưới chân nó. Hàng loạt câu hỏi đang vần vũ xung quanh đầu nó như những đám mây đen những ngày bão biển nổi lên mà lúc đó nó nép mình vào bàn tay gầy guộc nhưng luôn nồng hơi ấm của mẹ. Lan đã biết nó là một đứa con rơi được mẹ nó nhặt về từ năm ngoái khi lũ bạn học đã vô tình cho nó biết. Và cũng từ ngày đó, nó càng yêu bà hơn vì nó đủ nhận thức để nhận ra rằng bà yêu nó hơn cả một bà mẹ thương con ruột của mình.

***

Sáng nay, trời hãy còn lờ mờ sáng khi ánh mặt trời mới lấp ló trên đầu ngọn dừa ngoài bãi thì mẹ con Lan đã thức dậy vì những tiếng ồn ào ngoài đầu đường. Tiếng bà con lẫn tiếng động cơ máy xúc đã phá tan không khí tĩnh lặng thường nhật của vùng quê yên ả miền biển nghèo khó này. Lan đứng bên cạnh mẹ như hai thân cây dừa dại trước cơn song dữ của lốc biển mùa hè. Nó nắm chặt tay mẹ, mắt nhìn về phía mấy chục người công an tay dùi cui đang đứng bên máy xúc thái độ thật hung dữ. Nó chợt nói với bà:

– Mẹ ! Sao họ lại đến đây ủi nhà mình? Mẹ không đồng ý ký giấy bán nhà cơ mà? Chẳng nhẽ họ nói và làm thật à ?

Mẹ của Lan vốn hiền lành, bà chưa bao giờ có một tiếng nặng lời với Lan, cũng chưa bao giờ nói một lời chê trách với hàng xóm. Nhưng hôm nay, bà đã nói một câu mà Lan có lẽ bất ngờ nhất:

– Con à, mẹ con mình phải ra đường rồi ! Mình chẳng làm gì được đâu con. Chúng là quân ăn cướp đó …!

Nói xong câu đó, bà kéo tay Lan lẳng lặng vào nhà thu dọn vài bộ đồ rách rưới và mấy thứ lặt vặt rồi bước ra khỏi nhà. Hai mẹ con Lan lầm lũi đi ra trước ánh mắt tỉnh bơ của một đám công an. Đâu đây vài lời xì xầm bàn tán của bà con lối xóm thông cảm với mẹ con bà. Chợt một tiếng còi nổi lên:

– Tuýt, tuýt, tuýt …Đề nghị Bà con trật tự và tránh lối cho xe ủi làm nhiệm vụ ! Lái xe ủi đâu ? Vào ủi sập ngay ngôi nhà này cho tôi.

Lan chợt ngước mắt quay lại, nó thấy tiếng còi được phát ra từ cái miệng phúng phính mỡ của ông trưởng công an xã, đứng cạnh ông ta là cái dáng bệ vệ của 2 ông bí thư và chủ tịch xã. Mắt nó nhòe đi vì ngôi nhà đã nuôi dưỡng tuổi thơ nó, đã che chở cho người mẹ kính yêu của nó sắp trở thành miếng mồi ngon cho chiếc xe ủi có cánh tay dài tựa như con ngáo ộp đang chực chờ nuốt con mồi ngon miệng.

Đâu đó có vài tiếng thở than của bà con lối xóm: Quân ăn cướp !.

Đặng Chí Hùng.

BIEN CHET

ĐỪNG CẦM TÙ CHÍNH BẠN

Nhiều người đã đặt câu hỏi cho tôi “Vì sao anh là con cháu cộng sản, anh lớn lên trong môi trường XHCN mà anh lại chống cộng sản và chống Hồ Chí Minh ?”.Tôi đã trả lời rất nhiều lần và lần này thì tôi muốn tóm gọn lại một kinh nghiệm sống của bản thân đến với bạn bè xa gần.

Lý do tôi đến với VNCH, đến với Cờ Vàng đó là do nhạc vàng và chịu khó tìm hiểu sách vở, hồi ký, lịch sử. Tôi thù ghét cộng sản bởi luôn tự đặt câu hỏi cho mình để đi tìm lời giải về sự thật của cộng sản, Việt Nam, Hồ Chí Minh. Cộng thêm một chút máu liều thì tôi đã trở thành một tên “phản động” như quí vị đã thấy.

Nhưng sự thật ẩn sau những nguyên nhân đó là một nguyên nhân chính yếu: Tôi không muốn cầm tù chính bản thân tôi !

Tôi không tự cầm tù mình trong sự bao bọc của gia đình. Tôi không tự cầm tù ý chỉ chỉ cần sống sao cho sung sướng bản thân mình là đủ.

Tôi không tự cầm tù mình với tư tưởng: Đất nước này có đảng, có nhà nước, có kẻ khác lo. Mình thì mặc kệ họ.

Tôi không tự cầm tù mình với tư tưởng ăn chơi để ngủ quên trên đau khổ của dân tộc Việt Nam.

Tôi cũng không tự cầm tù mình với tư tưởng đấu tranh để được gì và sẽ mất gì.

Tôi không tự cầm tù mình với tư tưởng an phận, tôi muốn mình khám phá những chân trời xa, những điều còn chưa biết như cách cha ông chúng ta đã mở nước và dựng nước…

Tôi không tự cầm tù mình rằng phải sợ hãi trước bạo quyền và sợ hãi trước giặc Tàu hung bạo. Tôi phải chiến đấu dù có cô đơn, khổ sở và phải chết đi chăng nữa.

Tôi không tự cầm tù mình với tư tưởng phải nhìn thấy rồi mới làm, tôi tin rằng muốn có một con đường mòn thì ít ra chúng ta cũng phải biết dẫm lên cỏ dại mà bước đi hàng ngày.

Những điều đó, tôi muốn chia sẻ với các bạn gần xa từ kinh nghiệm bản thân mình. Tôi muốn chúng ta tự xóa bỏ sợ hãi, tự giải phóng trái tim mình để vươn lên chiến đấu cho sự tồn vong của dân tộc.

Đừng tự trói trái tim và khối óc, tư tưởng của mình trong những vũng bùn sáo rỗng…

Đừng cầm tù chính bạn !

Đặng Chí Hùng

Đinh Việt Nữ gởi

LƯỠI HÁI HAY CHÌA KHÓA VÀNG?

LƯỠI HÁI HAY CHÌA KHÓA VÀNG?

 

Thánh Charles Borrômê sống ở Italia trên 400 năm trước đây (1538-1584).  Khi còn trẻ, Borrômê đầy những tước vị, danh vọng.  Nhưng một lúc Borrômê đã nhận ra ngày nào đó, Ngài sẽ phải bỏ tất cả.  Ngài muốn ghi khắc điều đó, nên nhờ một họa sĩ nổi tiếng vẽ bức bích họa trong tư thất để diễn tả cái chết.  Bức họa hoàn thành: họa sĩ trình bày thần chết theo lối cổ điển: một bộ xương người nắm chặt lưỡi hái trong tay.

 

Borrômê ngạc nhiên: “Tại sao họa sĩ hình dung cái chết bằng chiếc lưỡi hái?”

 Họa sĩ đáp: “Vì thần chết cắt hái mọi cuộc sống.  Cái chết hủy hoại mọi cuộc đời.”

 “Đồng ý”, Borrômê nói, “nhưng thần chết cũng mở cửa Nước Trời nữa chứ.  Cái chết là cửa ngõ vào đời sống tốt đẹp hơn.  Vì thế, tôi đề nghị họa sĩ xóa chiếc lưỡi hái đi và đặt vào tay thần chết chiếc chìa khóa vàng.”

 Phải, Chúa Kitô đã chết và đã sống lại. Thập giá là chìa khóa Nước Trời. Thần chết đã buông lưỡi hái và cầm lấy chiếc chìa khóa vàng. Cửa Trời đã mở ra cho con người vào Nhà Cha.

 Anh chị em thân mến,

Chúa Giêsu đã tuyên bố: “Tôi là sự sống lại và là sự sống”.  Lời tuyên bố của Chúa Giêsu trước khi làm cho Lagiarô sống lại là một trong những lời “lạ tai” nhất đối với người thời đại cũng như bao người ngoài Thiên Chúa giáo và những người không tin ngày nay.  Nhưng đối với chúng ta, lời tuyên bố đó chính là nền tảng và hy vọng của cuộc đời.

Chúa Giêsu tuyên bố: “Tôi là sự sống.  Ai đang sống mà tin tôi sẽ không bao giờ chết.”  Chúa không nói đùa.  Chúa không thể đùa với sự chết, vì nó hoàn toàn trái nghịch với Ngài.  Là sự sống và đến để đem lại sự sống, Chúa không thể muốn sự chết cho con người.  Phép lạ cho ông Lagiarô sống lại làm chứng rằng Ngài có quyền ban sự sống.  Không phải sự sống như đám đông bao quanh Ngài thầm nghĩ – sống một thời gian rồi chết – cũng không phải sống lại ngày tận thế mà thôi, như Matta tin tưởng, mà là sống ngay bây giờ và sống đời đời, như Ngài đã nói: “Ai nghe lời Tôi và tin vào Đấng đã sai Tôi thì được sống đời đời và khỏi bị xét xử, nhưng được từ cõi chết mà qua cõi sống” (Ga 5,24).

VERITAS

Vậy là có một sự sống khác.  Có một sự sống thật.  Sự sống ấy đã bắt đầu từ bí tích Rửa Tội và tiếp tục mãi đến đời đời.  Sự sống thật này không mất đi khi con người chết, nhưng chỉ mất đi bởi tội lỗi (Ga 8,21).  Tội lỗi mới là cái chết thật.  Và ngược lại, cái mà chúng ta coi là sống chưa hẳn là sống.

Chỉ khi nào sống bằng chính sự sống của Chúa thông ban cho, lúc đó mới là sống thật và bảo đảm sống đời đời ngang qua cái mà chúng ta gọi là chết.

Thánh Phaolô, trong bài đọc 2 hôm nay (Rm 8,8-11) đã nói đến tình trạng những người “sống mà như chết” và “chết mà vẫn sống” đó: “Ai sống theo xác thịt, tội lỗi, thì dù có sống cũng như chết; ngược lại, ai sống theo Thánh Thần thì dù có chết cũng vẫn sống; hơn nữa, một ngày kia, Đấng đã cho Đức Kitô phục sinh cũng sẽ cho thân xác của những kẻ sống theo Thánh Thần được sống lại”.

Một người nhắm mắt xuôi tay từ giã cõi đời này được coi là chết.  Nhưng nhiều người đang sống vẫn tự coi mình đã chết.  Vì sống mà không có hy vọng, sống không tình thương, sống mà bị đời bạc đãi, phản bội, sống không ra con người, và nhất là sống trong tội ác.  Sống như vậy, con người không cần đợi đến chết mới là chết.  Chúng ta khóc thương người chết, nhưng biết đâu người sống lại chẳng đáng khóc thương hơn?

Bất cứ ai đã thoát khỏi tội lỗi và sống trong ân sủng thì đang sống trong sự sống đời đời rồi.  Sự chết thể xác không làm gián đoạn được sự sống thân thiết với Thiên Chúa trong Nước Trời.  Sự sống lại ngày tận thế, sự sống vinh quang đời sau đã bắt đầu ở hiện tại như cây trái đã bắt đầu trong hạt giống.

Từ Lời Chúa hôm nay, chúng ta mới có được một cái nhìn lạc quan hơn về thân phận con người chúng ta.  Là tội nhân, là loài người phải chết, nhưng chúng ta đã được Con Thiên Chúa xuống thế làm người mạc khải tình yêu thương của Thiên Chúa cho chúng ta và Ngài đã thực hiện công việc cứu chuộc của Thiên Chúa giữa chúng ta và cho chúng ta.  Cuối cùng, bằng chính cái chết và cuộc Phục Sinh của Ngài, Ngài đã giải thoát chúng ta khỏi chết đời đời và cho chúng ta được tham dự vào sự sống bất diệt của Thiên Chúa.

Như thế, đối với chúng ta, những người đã tin nhận Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, là Đấng Cứu Thế và đang cố gắng sống Lời Chúa dạy, thì sống hay chết, không thành vấn đề, mà chỉ có một thực tại duy nhất là sống, sống trong Chúa, sống cho Chúa, sống thuộc về Chúa.  Cái chết chẳng qua chỉ là bước vượt qua từ đời sống trần gian đến đời sống vinh quang vĩnh hằng với Chúa Cha trên trời.  Chính vì có sự liên tục giữa hai cuộc sống mà đời sống trần gian này mới có ý nghĩa và mới quan trọng, đòi hỏi mỗi người chúng ta phải sống làm sao cho cuộc sống trần gian này là khởi điểm, là bảo đảm, là dấu chứng cho cuộc sống mai sau.

Trước khi bước vào Tuần Thánh là đỉnh cao của mầu nhiệm Khổ Nạn Phục Sinh, Giáo Hội đọc bài Tin Mừng hôm này nhằm kêu gọi chúng ta tin vào Đấng là sự sống lại và là sự sống.  Niềm tin ấy thắp sáng lên trong chúng ta một hy vọng mà trần gian này dù đen tối đến đâu cũng không thể nào dập tắt được.  Đức tin không chuẩn chước cho chúng ta khỏi những tang chế đau thương, những chia ly mất mát hay sự sợ hãi khi đối diện với cái chết.  Nhưng đức tin là chấp nhận hiểu và sống các biến cố hiện tại dưới ánh sáng của sự sống siêu việt mà Đức Giêsu Kitô, Đấng là nguồn cội sự sống đã loan báo.

“Tôi là sự sống lại và là sự sống. Ai tin Tôi sẽ không chết bao giờ.”  “Matta, con có tin điều đó không?”  Chúa Giêsu hỏi.

“Vâng, thưa Thầy, con tin.”  Matta nói lên niềm tin của chị cũng là niềm xác tín của chúng ta: “Con tin Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống đã đến trong thế gian.”

Chớ gì khi tuyên xưng: “Tôi trông đợi kẻ chết sống lại và sự sống đời sau”, trong kinh Tin Kính chúng ta sắp đọc, niềm tin ấy không chỉ được phát biểu cách máy móc ngoài môi miệng, nhưng sẽ trở nên sức mạnh giúp chúng ta đứng vững trước mọi đau khổ thử thách, ngay cả cái chết.  Đồng thời niềm tin ấy thúc đẩy chúng ta đến với anh em, để góp phần mang lại sự sống dồi dào cho anh em.

R. Veritas.

Trích trong “Niềm Vui Chia Sẻ”

Langthangchieutim gởi