VÀO KHUNG CỬA HẸP

VÀO KHUNG CỬA HẸP

 ĐTGM Giuse Ngô Quang Kiệt

Trong mùa thi vào đại học vừa qua, có nhiều bạn học sinh đã bị chứng suy dinh dưỡng, mất ngủ, thậm chí bị tâm thần.  Lý do là các bạn phải học rất nhiều, phải phấn đấu để được vào đại học.  Đại học hiện tại là một khung cửa hẹp.  Trường lớp có ít mà số lượng sinh viên mỗi năm mỗi tăng.  Thế nên các học sinh phải hết sức phấn đấu mới được vào.
KHUNG CUA HEP

Cảnh các thí sinh chen chúc trước các cổng trường đại học làm tôi nhớ đến bài Tin Mừng hôm nay.  Ai muốn vào Nước Trời cũng phải đi qua khung cửa hẹp.

Cửa hẹp không phải vì Nước Trời chật hẹp.  Nước Trời rộng mênh mông, có thể đón tiếp tất cả mọi người.  Nhưng không phải tất cả mọi người vào được, vì vào Nước Trời đòi có những điều kiện cần thiết.  Cửa hẹp chính là để tuyển lựa những người có phẩm chất thích hợp với Nước Trời.  Ai muốn vào Nước Trời phải phấn đấu.

Trước hết phải phấn đấu hạ mình xuống.  Ở đời người ta thường phấn đấu để vươn lên.  Người ở địa vị thấp phấn đấu để được địa vị cao.  Người hèn kém phấn đấu để được trọng vọng.  Người phải phục vụ phấn đấu để được người khác phục vụ mình.  Nhưng trong Nước Trời thì ngược lại.  Phải phấn đấu để đi xuống.  Phải phấn đấu để tìm chỗ thấp hèn nhất.  Phải phấn đấu để phục vụ anh em.  Như lời Chúa dậy: “Ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống.  Ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên” (Lc 14, 11).  “Khi anh được mời, hãy ngồi vào chỗ cuối” (Lc 14, 10).  “Ai lớn nhất trong anh em, thì phải nên như người nhỏ tuổi nhất, và kẻ làm đầu thì phải nên như người phục vụ” (Lc 22, 26).  “Ai không đón nhận Nước Thiên Chúa với tâm hồn một trẻ em, thì sẽ chẳng được vào” (Mc 10, 15).
Sau đó phải phấn đấu để bé nhỏ lại.  Thông thường ở đời người ta phấn đấu để to ra.  Ai có nhà nhỏ phấn đấu để có nhà lớn hơn.  Ai có ruộng vườn nhỏ cũng phấn đấu để vườn ruộng lớn rộng thêm.  Ai cũng phấn đấu để có nhiều của cải hơn, có nhiều bằng cấp hơn, có nhiều đặc quyền đặc lợi hơn.  Trái lại, người muốn vào Nước Trời phải phấn đấu để trở nên bé nhỏ.  Phải phấn đấu để trở nên nghèo.  Phải phấn đấu để bỏ bớt của cải đi.  “Hãy đi bán tài sản của anh và đem cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời.  Rồi hãy đến theo tôi” (Mt 19, 21).  “Phúc thay ai có tinh thần nghèo khó, vì Nước Trời là của họ” (Mt 5, 3).

Cửa vào Nước Trời hẹp vì được làm theo kích thước của Chúa Giêsu.

Cửa này thấp vì Chúa Giêsu đã hạ mình thẳm sâu.  Là Thiên Chúa, Người đã tự nguyện trở nên người phàm.  Từ trời cao, Người đã tự nguyện xuống nơi đất thấp.  Là Thày, nhưng Người đã tự nguyện trở nên người phục vụ.  Vô cùng thánh thiện nhưng Người đã để bị đối xử như một đại tội phạm.  Người đã bị vùi dập xuống tận bùn đen.

Cửa này bé vì Chúa Giêsu đã trở nên bé nhỏ.  Người đã sinh ra nghèo, sống nghèo và chết nghèo. Người đã bị bóc lột hết, không phải chỉ quần áo mà cả uy tín và danh dự.

Chúa Giêsu đã mở đường về Nước Trời . Muốn vào Nước Trời chẳng có con đường nào khác ngoài con đường Chúa Giêsu đã đi.  Chẳng có cửa nào khác ngoài khung cửa hẹp mà Chúa Giêsu đã qua.  Ai muốn qua đó cũng phải noi gương Người phấn đấu hạ mình khiêm tốn, và từ bỏ hết cái tôi cồng kềnh ích kỷ mới qua được khung cửa hẹp mà vào Nước Thiên Chúa.

Lạy Chúa Giêsu, xin giúp con biết “từ bỏ mình, vác thập giá mình” mà theo Chúa.  Amen!

ĐTGM Giuse Ngô Quang Kiệt

From: Langthangchieutim

Mẹ Teresa va` Hillary Clinton

Mẹ Teresa va` Hillary Clinton

Người có Thiên Chúa thì có sự khôn ngoan, dù người đó chỉ là một đứa bé không biết chữ, cũng khôn ngoan vượt bực, hơn xa các Tổng thống, Khoa trưởng đại học, hoặc người có bằng cấp đầy mình… mà không có Thiên Chúa trong linh hồn.

Kẻ không có Thiên Chúa thì không có khả năng nhận biết đâu là chân lý. Tương tự, tên tướng cướp nói, thì lâu la của nó hoan hô, mặc dù tướng cướp đang ra kế hoạch cướp của giết người.

Người có Thiên Chúa trong linh hồn, mới có khả năng nhận biết đâu là chân lý; bởi khả năng nhận biết đâu là chân lý là do Thiên Chúa ban cho những ai tôn thờ Ngài.

Nhân dịp ĐTC Phanxicô phong thánh Mẹ Têrêsa, ôn lại câu chuyện giữa Mẹ Thánh và Bà Hillary ClintonĐại Hội Đảng Dân Chủ (ĐDC) tổ chức tưng bừng tại Philadelphia vài tuần lễ trước đã đồng loạt quyết định chọn Bà Hillary Clinton làm ứng cử viên (UCV) chính thức của ĐDC ra tranh chức vụ Tổng Thống (TT) Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ, đánh dấu một sự kiện chưa từng có trong lịch sử nước này, đó là có một phụ nữ ra tranh cử–và rất có thể–sẽ đắc cử vào chức vụ tối cao này. Bà Clinton là cựu Đệ Nhất Phu Nhân, cựu Nghị Sĩ Tiểu Bang New York, cựu ƯCV tranh chức TT cùng với đương kim TT Obama, và cựu Ngoại Trưởng. Bậc nữ lưu như thế dễ có mấy ai!

Chúa Nhật 4 tháng 9 năm 2016 sắp tới lại chính là ngày Đức Thánh Cha (ĐTC) Phanxicô ấn định cử hành đại lễ phong hiển thánh cho Mẹ Têrêsa Calcutta (xem tin trên trang VietCatholic ngày 8/8/2016). Đây là vị thánh của thời đương đại, tưởng chừng như không ai không biết đến, đó là chưa nói tới biết bao nhiêu người đã được nhìn thấy, chạm tay vào, hưởng nhận những giúp đỡ cụ thể từ chính bàn tay Mẹ, hoặc từ Hội Dòng Mẹ đã sáng lập, nơi con cái Mẹ nối bước tiếp nhận và xoa dịu những con người khốn khổ trong nhân loại hôm nay. Bậc nữ lưu như Mẹ tưởng cũng chẳng có ai!

Trước khi ôn lại câu chuyện giữa hai bậc nữ lưu nổi bật này, tưởng cũng nên biết rằng Hillary Clinton là người cầm chịch phong trào “phò chọn lựa” (pro-choice) nghĩa là chủ trương người phụ nữ có toàn quyền quyết định giữ lại hay phá bỏ thai nhi còn trong bụng mình. Lý do đơn giản là vì cái bào thai ấy—vốn chỉ là một cái bọc nhầy nhụa—không hề có một chút nhân quyền gì ráo trọi. Thành ra, sau khi “dính bầu,” người phụ nữ được hoàn toàn tự do quyết định về số phận cái bào thai ấy: nếu cho nó sống thì giữ nó lại, còn muốn cho nó chết thì đẩy nó ra. Nếu không đẩy được bằng cách này, thì cứ tự nhiên tìm cách khác–đừng đặt vấn đề về phương pháp hay kiêng dè vì độ non già của bào thai–miễn sao là tống khứ cái của nợ đó—có khác chi một thứ ung nhọt tai quái—ra khỏi cái cơ thể mà người phụ nữ hoàn toàn làm chủ là được. Đứa nào ngăn cản hay cấm đoán thì đã có pháp luật trừng trị. Phá thai hợp pháp cơ mà! Điều này đã được (các “Đấng) Tối Cao Pháp Viện Hoa Kỳ công bố vào ngày 22 tháng 1 năm 1973 qua phán quyết ‘Roe vs. Wade.’

Trong khi đó, Mẹ Têrêsa–với tấm lòng khoan dung nhân hậu, giầu tình xót thương—đã nỗ lực tối đa để cứu các bào thai đó, trước khi các thai phụ thực hiện quyền tự quyết của mình. Đó là bối cảnh xẩy ra câu chuyện giữa hai người phụ nữ lừng danh.

Ngày 22 tháng 1 năm 1994, trong dịp gọi là “National Prayer Breakfast,” Mẹ Têrêsa được mời làm diễn giả chính. Ngay trước mặt TT Bill Clinton và Đệ Nhất Phu Nhân Hillary Clinton cùng quan khách, Mẹ Têrêsa dõng dạc vạch trần sự thối nát về mặt văn hóa nẩy sinh từ những tội ác chống lại các thai nhi. Mẹ Têrêsa nói như sau: “Tôi tin rằng thủ phạm tồi tệ nhất đang phá hoại nền hòa bình của ngày hôm nay chính là nạn phá thai, bởi vì đó chính là cuộc chiến tranh chống lại trẻ em, việc trực tiếp giết hại trẻ thơ vô tội, mà kẻ giết người lại chính là người mẹ của chúng. Nếu chúng ta đành tâm chấp nhận để cho người mẹ có thể ra tay sát hại con mình, thì làm thế nào chúng ta có thể nói cho người khác là đừng giết hại lẫn nhau? Làm cách nào chúng ta có thể thuyết phục một người phụ nữ đừng có phá thai? Lúc nào cũng thế, ta phải dùng tình yêu để thuyết phục họ, bởi vì tình yêu có nghĩa là sẵn sàng cho đi đến khi nào thấy nhói đau mới thôi. Quốc gia nào chấp nhận cho phá thai thì quốc gia ấy không hề dậy cho dân mình biết yêu thương, mà trái lại dậy cho họ cứ sử dụng bạo lực để đạt tới điều mình mong muốn. Đó là lý do tại sao thủ phạm tồi tệ nhất đang phá hoại tình yêu và nền hòa bình chính là nạn phá thai.”

Mẹ còn nói thêm: “Phá thai là chối bỏ giáo huấn của chính Chúa Giêsu Kitô là Đấng đã dậy rằng ‘ai đón tiếp một em nhỏ, tức là đón tiếp chính Ta vậy.’ Rồi Mẹ kết luận: “Phá thai đúng là từ chối không tiếp nhận trẻ nhỏ, và do đó, cũng từ chối đón nhận chính Chúa Giêsu.”

Mẹ dừng lại giây lát để đón nhận những tràng pháo tay từ phía cử toạ đang nhất loạt đứng lên biểu tỏ lòng ngưỡng phục.

Chỉ có điều là cả Ông lẫn Bà Clinton đều không hề đứng lên và cũng chẳng hề vỗ tay.

Mẹ Têrêsa vẫn dõng dạc: “Tôi xin nói cho quý vị một điều đẹp đẽ. Chúng tôi chiến đấu chống nạn phá thai bằng việc tiếp nhận–tức là chăm sóc cho người mẹ và đón nhận thơ nhi…Xin đừng giết hại thơ nhi. Tôi muốn nhận thơ nhi. Hãy trao nó cho tôi. Tôi sẵn sàng đón nhận bất kỳ thơ nhi nào đang chờ bị phá bỏ để trao em cho một đôi vợ chồng đang sẵn lòng thương yêu trẻ thơ và được trẻ thơ yêu thương lại. Chỉ từ mái ấm tại Calcutta, chúng tôi đã cứu được hơn ba ngàn trẻ em khỏi bị phá bỏ. Các thơ nhi này đã đem lại tình yêu thương và niềm hân hoan vui sướng đến cho các cha mẹ nuôi của chúng. Chúng đã lớn lên đầy ắp yêu thương và hân hoan rạng rỡ.”

Tuy trong bụng không vui, nhưng Bà Clinton vẫn phải thốt lên: “Lời nói của Mẹ Têrêsa thật thẳng thắn, cho thấy rõ ràng Mẹ không cùng quan điểm với tôi.”

Nhưng cho dù nói năng thẳng thừng như thế, Mẹ vẫn cống hiến một điều gì đó mà Bà Clinton không thể chối từ, đó là đồng ý với Mẹ Têrêsa rằng việc tiếp nhận trẻ em chính là một chọn lựa khác, một chọn lựa tối hảo. Sau đó Mẹ Têrêsa đến gặp Bà Clinton để ngỏ ý xin thiết lập tại vùng thủ đô Hoa Thịnh Đốn một trung tâm tiếp nhận các trẻ thơ không ai muốn, các trẻ em côi cút và bị bỏ rơi. Mẹ đã nhờ Đệ Nhất Phu Nhân tiếp tay với Mẹ để làm việc này và mời Bà Clinton sang Ấn Độ để chứng kiến các công cuộc Mẹ làm tại xứ sở nghèo khổ này.

Cuộc vận động của Mẹ Têrêsa không hề vô ích. Sau khi về lại thủ đô Hoa Thịnh Đốn, Bà Clinton đã khởi sự giúp Mẹ xây dựng “Trung Tâm Têrêsa Nuôi Dậy Trẻ Thơ” vào năm 1995 tại vùng ngoại ô Hoa Thịnh Đốn. Bà Clinton đã mời Mẹ Têrêsa đến khánh thành cơ sở này hai năm trước khi Mẹ qua đời. Thế là trước khi về trời, Mẹ Têrêsa đã tỏ cho người phụ nữ đầy quyền lực này nhìn thấy một nét gì đó thật đáng chú ý nơi con người nhỏ thó của một nữ tu khiêm hạ tầm thường, và cũng đã gây cảm hứng cho Bà Clinton thực hiện một công trình tốt đẹp, cho dù vẫn cương quyết chủ trương “phá thai an toàn và hợp pháp,” điều mà nhóm “Cha Mẹ Có Kế Hoạch” (Planned Parenthood) vẫn đang thực hiện hàng ngày.

Rất tiếc, “Trung Tâm Têrêsa Nuôi Dậy Trẻ Thơ”—vốn được tưng bừng khai trương thế nào không rõ—đã “âm thầm đóng cửa” vào năm 2002.

Tháng Chín tới, Mẹ Têrêsa sẽ được tôn phong lên bậc hiển thánh. Tháng 11 sắp đến, liệu Bà Clinton có làm nên lịch sử khi đắc cử chức vụ Nữ Tổng Thống đầu tiên của Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ hay không? Điều này đang được nói đến hàng ngày, nhất là trên các phương tiện truyền thông xã hội. Chưa bao giờ có cuộc tranh cử nào kỳ quái đến thế, khi hai đối thủ chửi nhau ra rả, bới móc nhau một ngàn lẻ một chuyện, từ đời tư ra đến đời công, không trừ một ngõ ngách nào! Trong khi chờ đợi lịch sử sang trang, thôi thì ta cứ ôn lại bài học lịch sử giữa hai người phụ nữ lừng danh mà ta đang nói tới: Mẹ Têrêsa Calcutta và Bà Hillary Clinton, qua giai thoại nhỏ để kết thúc câu chuyện hôm nay:

“Trong một bữa ăn trưa được khoản đãi long trọng tại Toà Bạch Ốc, Đệ Nhất Phu Nhân Hillary Clinton hỏi nhỏ một thực khách cùng bàn: ‘Bà nghĩ sao khi mãi đến hôm nay chúng ta vẫn chưa có được một người phụ nữ lên làm tổng thống?’ Người phụ nữ nhỏ thó đồng bàn với Bà Clinton không chần chừ trả lời: ‘Có lẽ bởi vì người phụ nữ ấy đã bị bóp chết ngay từ lúc còn là bào thai.”

Đúng là câu trả lời của một vị thánh. Phải, người phụ nữ đồng bàn nhỏ thó ấy chính là Mẹ Têrêsa Calcutta.

Vọng Lễ Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời

08/14/2016

Nguyễn Kim Ngân

Anh chị Thụ Mai & gởi

Giáo Lý về Lòng Thương Xót Chúa trong Năm Thánh Thương Xót 2016

ĐỨC THÁNH CHA PHANXICÔ – BUỔI TRIỀU KIẾN CHUNG HẰNG TUẦN

THỨ TƯ NGÀY 10-8-2016

DUC TC 10-8

 

 

 

 

 

 

 

     

Giáo Lý về Lòng Thương Xót Chúa trong Năm Thánh Thương Xót 2016

Bài 21

DUC TC 2

 

 

 

 

 

 

Lòng thương xót là con đường bắt đầu từ con tim đến bàn tay,

tức là đến các công việc của lòng thương xót”.

Xin chào Anh Chị Em thân mến!

DUC T C 3

Đoạn Phúc Âm của Thánh ký Luca chúng ta vừa nghe (7:11-17) cho chúng ta thất một phép lạ thực sự là lớn lao của Chúa Giêsu, đó là phép lạ hồi sinh một nam nhân trẻ trung. Tuy nhiên, tâm điểm của trình thuật này không phải là phép lạ mà là lòng êm ái dịu dàng của Chúa Giêsu giành cho mẹ của nam nhân trẻ ấy. Ở đây lòng thương xót mang danh nghĩa là một tấm lòng cảm thương cao cả đối với một người phụ nữ đã mất chồng và bấy giờ lại đang mang đứa con trai duy nhất của mình ra nghĩa địa. Chính nỗi sầu thương lớn lao này của bà mẹ đã tác động Chúa Giêsu và thúc đẩy Người làm phép lạ hồi sinh ấy.

Khi dẫn nhập vào trình thuật này, vị Thánh ký đã kể đến nhiều điều đặc biệt. Gặp nhau ở cửa ngõ của một tỉnh lỵ nhỏ bé, một thôn làng là hai đám đông qua lại ngược chiều nhau chẳng có gì là chung đụng nhau. Chúa Giêsu, theo sau là các môn đệ và một đám rất đông dân chúng, đang sắp vào thôn tỉnh ấy, trong khi đó thì một đoàn rước buồn thảm đang tiến ra khỏi cổng, một đoàn rước đang đưa đám kẻ chết, bao gồm người đàn bà góa ấy cùng với nhiều người khác. Gần cổng có hai nhóm người vừa băng ngang qua nhau, một nhóm theo chiều hướng của mình, nhưng vào chính lúc bấy giờ Thánh Luca ghi nhận cái cảm xúc của Chúa Giêsu: Nhìn thấy thế (thấy người phụ nữ góa) Chúa cảm thấy hết sức xót xa cho bà “mà nói cùng ba rằng: ‘Đừng khóc nữa’. Và Người đến gần chạm tới quan tài, khiến những ai khiêng quan tài đứng nguyên tại chỗ” (câu 13-14). Lòng cảm thương sâu xa đã hướng dẫn tác hành của Chúa Giêsu: Người đã chặn đám tang lại và chạm đến quan tài, để rồi được tác động bởi một lòng xót thương sâu xa đối với người mẹ, Người đã quyết định ra tay trực tiếp đối mặt với tử thần. Và Người đã trực diện đương đầu với nó một cách vĩnh viễn ở trên Thánh Giá.

Trong Năm Thánh Thương Xót này, thật là tốt đẹp, khi bước qua Cửa Thánh, Cửa Thương Xót, những ai hành hương hãy nhớ đến trình thuật Phúc Âm này, một câu chuyện xẩy ra ở cổng thành Naim. Khi Chúa Giêsu thấy người mẹ này khóc lóc thì bà đã động chạm đến lòng của Người! Mỗi người đi đến Cửa Thánh đều mang theo đời sống của mình, kèm theo những niềm vui của nó cùng với các nỗi đau của nó, những dự tính cùng với những thất bại, những nghi ngờ cùng với những sợ hãi, để dâng chúng lên cho lòng thương xót Chúa. Chúng ta tin rằng, ở tại Cửa Thánh, Chúa đến gần để gặp gỡ từng người chúng ta, để mang đến cho chúng ta và cống hiến cho chúng ta lời an ủi mãnh liệt của Người: “Đừng khóc nữa!” (câu 13). Đó là Cửa hội ngộ giữa nỗi đau đớn của nhân loại và lòng cảm thương của Thiên Chúa. Chúng ta hãy luôn nghĩ đến điều này: một cuộc hội ngộ giữa nỗi đau đớn của nhân loại và lòng cảm thương của Thiên Chúa. Bằng việc bước qua ngưỡng cửa này chúng ta hoàn trọn cuộc hành hương của chúng ta trong lòng thương xót Chúa là Đấng lập lại cùng tất cả chúng ta, như Người đã phán cùng nam nhân trẻ trung: “Ta truyền cho anh hãy chỗi dạy!” (câu 14). Hãy chỗi dậy! Thiên Chúa muốn chúng ta đứng. Ngài đã tạo dựng nên chúng ta để đứng: bởi thế, lòng cảm thương của Chúa Giêsu mới tiến đến cử chỉ chữa lành, để chữa lành chúng ta, nên chữ chốt yếu ở đây là: “Hãy chỗi dậy! Hãy đứng lên, như Thiên Chúa đã tạo dựng nên anh chị em!” – Đứng. “Thế nhưng thưa cha chúng con thường hay sa ngã lắm” – “Cứ chỗi dậy!” Đó là những gì Chúa Giêsu luôn nói. Khi bước qua Cửa Thánh, chúng ta hãy tìm cách nghe lại lời này trong lòng của chúng ta: “Hãy chỗi dậy!” Lời nói quyền lực này có thể làm cho chúng ta chỗi dậy và thực hiện nơi chúng ta cuộc vượt qua sự chết mà vào sự sống. Lời của Người làm cho chúng ta hồi sinh, cống hiến cho chúng ta niềm hy vọng, phấn khởi những tấm lòng mệt mỏi, mở rộng nhân sinh quan vượt lên trên đau khổ và chết chóc. Đối với mỗi người chúng ta thì kho tàng khôn dò của lòng thương xót Chúa được ghi khắc ở trên Cửa Thánh!

Nghe thấy lời Chúa Giêsu, “người chết đã ngồi lên và bắt đầu nói. Và Người đã trao anh ta cho mẹ của anh ta” (câu 15). Câu này thật là tuyệt vời: nó cho thấy nỗi êm ái dịu dàng của Chúa Giêsu: “Người đã trao anh ta cho mẹ của anh ta”. Người mẹ này được lại con của mình một lần nữa. Lãnh nhận con từ bàn tay của Chúa Giêsu, bà trở thành mẹ một lần nữa, nhưng người con trai bấy giờ được hồi sinh đã không nhận lãnh sự sống từ bà. Như thế bà mẹ và đứa con nhận được cái căn tính tương xứng của mình nhờ lời nói quyền năng của Chúa Giêsu cùng với cử chỉ yêu thương của Người. Bởi vậy, nhất là trong Năm Thánh, Mẹ Giáo Hội nhận lãnh con cái của mình, nhìn nhận nơi chúng sự sống được ban cho chúng xuất phát từ ân sủng của Thiên Chúa. Do bởi ân sủng này, ân sủng Phép Rửa, mà Giáo Hội trở thành Mẹ và từng người chúng ta trở thành con cái của Giáo Hội.

Trước nam nhân trẻ trung được hồi sinh và được trao trả về cho mẹ của anh ta như thế, “tất cả mọi người đều kinh sợ; và họ đã tôn vinh Thiên Chúa mà rằng: ‘Một vị đại tiên tri đã sống lại giữa chúng ta’ và ‘Thiên Chúa đã viếng thăm dân Ngài!'” Bởi thế, những gì Chúa Giêsu đã làm không phải chỉ là một hành động cứu độ nhắm đến người mẹ góa và người con trai của bà mà thôi, hay là một cử chỉ nhân lành chỉ hạn hẹp cho thôn tỉnh này thôi. Trong việc phục hồi thương xót của Chúa Giêsu, Thiên Chúa đến để gặp gỡ dân của Ngài; nơi Người tất cả ân sủng của Thiên Chúa tỏ hiện và sẽ tiếp tục tỏ hiện cho nhân loại. Khi cử hành Năm Thánh này, một năm thánh tôi muốn được sống động nơi tất cả mọi Giáo Hội riêng, tức là nơi tất cả mọi Giáo Hội trên thế giới, chứ không phải chỉ ở Roma, toàn thể Giáo Hội khắp nơi trên thế giới liên kết với nhau trong cùng một bài hát duy nhất chúc tụng Chúa. Cả hôm nay đây, Giáo Hội nhìn nhận bản thân mình được Thiên Chúa viếng thăm. Bởi thế, khi đến Cửa Thương Xót, mỗi người nên biết rằng họ tiến đến với tấm lòng nhân hậu của Chúa Giêsu: thật vậy, Người là Cửa đích thực dẫn chúng ta tới ơn cứu độ và phục hồi sự sống mới cho chúng ta. Lòng thương xót, nơi Chúa Giêsu ở nơi chúng ta, là con đường khởi đi từ con tim tới đôi tay. Nghĩa là gì? Chúa Giêsu nhìn anh chị em, Người chữa lành anh chị em bằng lòng thương xót của Người, Người nói cùng anh chị em rằng; “Hãy chỗi dậy!” – và tâm can của anh chị em được đổi mới. Đâu là ý nghĩa của việc theo con đường từ con tim đến đôi tay? Nghĩa là với một con tim mới mẻ, một con tim được Chúa Giêsu chữa lành, tôi có thể thi hành các công việc của lòng thương xót nhờ đôi bàn tay của tôi, cố gắng giúp đỡ, chăm sóc cho tất cả những ai đang cần đến tôi. Lòng thương xót là con đường bắt đầu từ con tim đến bàn tay, tức là đến các công việc của lòng thương xót.

(Trước khi chào các phái đoàn hành hương trong ngày đang tham dự buổi triều kiến chung hằng tuần này, ĐTC đã dẫn giải thêm về mối liên hệ giữa con tim và đôi tay vừa được ngài đề cập tới ở phần kết bài giáo lý hôm nay, như sau:)

Tôi nói rằng lòng thương xót là con đường đi từ con tim đến đôi tay. Chúng ta lãnh nhận được trong con tim của chúng ta lòng thương xót của Chúa Giêsu, Đấng tha thứ cho chúng ta hết mọi sự, vì Thiên Chúa tha thứ hết mọi sự và hồi sinh chúng ta; Ngài ban cho chúng ta một sự sống mới và làm cho chúng ta nhiễm lây lòng cảm thương của Ngài. Từ con tim được tha thứ ấy và với lòng cảm thương của Chúa Giêsu, con đường này bắt đầu đến đôi tay, tức là đến các hoạt động thương xót. Một ngày kia có một vị Giám Mục nói với tôi rằng ngài đã thực hiện việc vào qua và đi ra các cửa thương xót ở Vương Cung Thánh Đường của ngài cũng như ở các nhà thờ khác. Tôi đã hỏi ngài: “Tại sao huynh làm như thế?” – “Vì một cửa để đi vào, để xin ơn tha thứ và lãnh nhận lòng thương xót của Chúa Giêsu; cửa kia là cửa lòng thương xót đi ra, để mang lòng thương xót cho người khác, bằng các công việc thương xót”. À thì ra vị Giám Mục này tinh khôn! Chúng ta cũng cần phải làm như thế bằng con đường đi từ con tim đến đôi tay, ở chỗ chúng ta tiến vào nhà thờ qua cửa thương xót, để lãnh nhận ơn tha thứ của Chúa Giêsu, Đấng nói với chúng ta rằng: “Hãy chỗi dậy! Hãy đi, đi!” – và với cái “đi” này – cái đứng – chúng ta đi ra qua ngõ thoát. Đó là Giáo Hội ra đi, là con đường thương xót đi từ con tim đến đôi tay. Hãy thực hiện đường lối này!

https://zenit.org/articles/gen eral-audience-text-on-crossing -the-holy-door-like-the-widow- of-nain/

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch kèm theo nhan đề và những chỗ tự ý nhấn mạnh

From: daminhmariacaotantinh

Trách nhiệm Vietcombank ở đâu?

Trách nhiệm Vietcombank ở đâu?

Mặc Lâm, BTV Ban Việt ngữ RFA
2016-08-17

000_Hkg8563082.jpg

Logo chính thức mới được thay đổi của Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank) tại trụ sở chính của ngân hàng tại Hà Nội ngày 10 tháng 5 năm 2013.

 AFP PHOTO

06:23/07:26

Phần âm thanh Tải xuống âm thanh

Nhiều khách hàng của Vietcombank bị kẻ gian liên tục hack vào tài khoản của họ để rút tiền đang là đề tài nóng cho những người có tài khoản trong các ngân hàng thương mại tại Việt Nam.

Hack tài khoản và cách giải quyết của Vietcombank

Vào ngày 4 tháng 8 năm 2016, chị Hoàng Thị Na Hương hiện cư ngụ tại Cầu Giấy, Hà Nội phát hiện trên thẻ ngân hàng của Vietcombank mà chị là chủ tài khoản đã bị kẻ gian liên tiếp rút 7 lần với số tiền tổng cộng 500 triệu đồng. Ngay sau đó chị đã báo cho ngân hàng và có sự xác nhận của nhân viên trách nhiệm về báo cáo này.

Ngân hàng Vietcombank sau khi kiểm tra đã cho chị Na Hương biết lý do là chị đăng nhập vào một web site không an toàn từ điện thoại của chị và từ đó kẻ gian đã nắm được thông tin về tài khoản của chị để rút ra số tiền trong đó.

Vietcombank có nói là sẽ kiểm tra về thông tin đó phải mất nhiều thời gian gần hai tháng rất rắc rối nhưng cho tới ngày hôm nay đã hơn bốn tháng rồi mà chúng tôi cũng chưa nhận được bất cứ một phản hồi nào.
– Chị Nguyễn Thanh Thu

 Không riêng trường hợp của chị Na Hương, theo kênh truyền hình VTC cho biết chị Nguyễn Thanh Thu sống tại Hàng Bông Hà Nội đã mở thẻ tín dụng Visa tại ngân hàng Vietcombank. Chiếc thẻ này bị kẻ gian dùng để mua hàng mà chị hoàn toàn không biết. Ngay sau đó chị đã gọi tới Vietcombank để khóa thẻ nhưng sáng ngày hôm sau khi chị tới văn phòng của Vietcombank thì họ thông báo cho chị rằng số tiền trong tài khoản của chị đã dùng để mua thẻ kênh mặc dù chị không sử dụng dịch vụ đó. Vậy là muốn khóa thẻ chị phải trả số tiền 6 triệu mà kẻ gian đã lấy từ tài khoản của chị để mua hàng.

Trả lời kênh truyền hình VTC về lời hứa của Vietcombank sẽ giải quyết sự gian lận này làm thiệt hại trực tiếp đến tài sản của mình chị Nguyễn Thanh Thu cho biết:

“Ngày 14 tháng 4 Vietcombank có nói là sẽ kiểm tra về thông tin đó phải mất nhiều thời gian gần hai tháng rất rắc rối nhưng cho tới ngày hôm nay đã hơn bốn tháng rồi mà chúng tôi cũng chưa nhận được bất cứ một phản hồi nào từ Vietcombank.”

Nhận xét về các diễn biến này anh Hoàng Ngọc Diêu, chuyên gia bảo mật ngân hàng hiện đang làm việc tại Úc cho biết cái nhìn của anh về vấn đề an ninh mạng của nhiều ngân hàng thương mại Việt Nam:

“Dường như các ngân hàng ở Việt Nam bị thiếu sót ở chỗ họ không có một cơ chế gọi là “Risk Control” có nghĩa là có thể kiểm soát mọi giao dịch (transaction/chuyển ngân) có chuyện gì bất bình thường hay không. Những ngân lớn ngoài này họ có hệ thống đó. Khi người dùng đăng nhập vào tài khoản để chuyển ngân, mua sắm hay việc gì đó thì phần mềm này dựa trên quá trình sử dụng của tài khoản đó trong thời gian nào, họ chuyển bao nhiêu tiền, chuyển đi đâu. Họ đang ở một vị trí địa lý nào. Nó có chương trình gọi là “Rule engine”, nó lọc những thông tin cái thói quen sử dụng của người dùng rồi nó mới biến sự việc đó thành màu đỏ, cam, vàng hay xanh có nghĩa là tùy vào mức hiểm họa cao hay thấp.

Ví dụ như anh đang ngồi ở Sài Gòn vì nhà anh ở Sài Gòn tự nhiên ngân hàng nó thấy có một người đăng nhập từ Bangladesh chẳng hạn, rút 500 triệu thì tự nhiên điều đó rất bất bình thường nó sẽ hiện lên màu đỏ và ngân hàng đó lập tức phải gọi cho thân chủ của mình và hỏi có phải bạn vừa rút hoặc là chuyển ngân 500 triệu hay không. Lúc ấy họ mới có thể kịp thời ngăn chặn cái transaction không hợp lệ đó.”

000_Hkg5704712.jpg

Nhân viên Vietcombank tại Hà Nội ngày 19 tháng 12 năm 2011. AFP PHOTO

Ngân hàng Vietcombank cho báo chí biết rằng thường xuyên thông báo cho khách hàng thủ tục bảo mật, khách hàng chỉ nên đăng nhập vào website chính thức của Vietcombank mỗi lần muốn giao dịch. Nếu khách hàng không làm đúng những quy định về bảo mật thì việc chịu trách nhiệm số tiền bị đánh cắp sẽ không xảy ra.

Luật sư Trương Thanh Đức nhận bảo vệ quyền lợi cho chị Na Hương có mặt cùng với chị tại Ngân hàng Vietcombank và đánh giá rằng có ba khả năng quy lỗi vào chính chị Na Hương hay Vietcombank đó là lỗi 100% về chị vì đã nhập vào tài khoản của mình không đúng quy định, thứ hai lỗi của ngân hàng nếu Vietcombank làm lộ thông tin của khách hàng, trường hợp thứ ba là lỗi của cả hai phía.

Theo luật sư Trương Thanh Đức thì tùy vào trường hợp lỗi của ai thì tính toán mức độ bồi hoàn số tiền 500 triệu này cho chị Na Hương.

Trách nhiệm của ngân hàng

Rất khác với cách làm này của Vietcombank, các ngân hàng trên thế giới không bao giờ buộc khách hàng của mình phải chịu trách nhiệm về sự sơ suất của họ dẫn tới việc bị hacker đánh cắp tiền trong tài khoản, bởi việc bảo mật là trách nhiệm của ngân hàng, khách hàng không có trách nhiệm gì trong việc bảo mật cả.

Khách hàng có thể là một thanh niên sành sõi khi sử dụng computer nhưng cùng có những khách hàng tuổi đã 90 hay các bà nội trợ không bao giờ biết internet là gì thì không thể đánh đồng họ được.

Cách làm của ngân hàng Bank of America của Mỹ có thể làm cho các ngân hàng Việt Nam phải nghĩ lại khi có sự cố gian lận thẻ tín dụng. Chúng tôi gọi cho đơn vị phục vụ khách hàng của ngân hàng Bank of America tại Mỹ hỏi rằng khi ra nước ngoài chúng tôi phát hiện thẻ ATM của mình bị kẻ gian lấy mất tiền thì phải làm sao, ngay lập tức nhân viên trực cho biết:

“Đầu tiên, ở đằng sau cái thẻ có số điện thoại nếu ở ngoài nước Mỹ thì nó có số International call cho những người đang ở ngoài nước Mỹ. Anh gọi cho chúng tôi báo cáo lại sự gian lận này cho chúng tôi biết. Chúng tôi có nhiều chuyên gia về vấn đề gian lận và sẽ giúp anh thông qua điện thoại.”

Chúng tôi bảo đảm 100% nếu có xảy ra sự gian lận trong tài khoản của anh thì 100% số tiền đó sẽ được trả lại cho anh.
– Nhân viên ngân hàng Bank of America của Mỹ

 Chúng tôi cũng thắc mắc vậy số tiền này nếu không tìm ra thì ngân hàng có bồi hoàn lại cho chúng tôi hay không, chúng tôi nhận được trả lời:

“Chúng tôi bảo đảm 100% nếu có xảy ra sự gian lận trong tài khoản của anh thì 100% số tiền đó sẽ được trả lại cho anh.”

Theo kinh nghiệm bản thân anh Hoàng Ngọc Diêu cho biết nếu ngân hàng tiếp tục hành xử như cách thường làm, chối bỏ trách nhiệm khi bị tấn công mà quên đi việc chuyên môn hóa cao trong công tác bảo mật thì hậu quả là chính ngân hàng chịu nặng nề hơn thân chủ của mình:

“Nếu quả thật ngân hàng mất một số tiền lớn như vậy mà họ không phát hiện kịp thời và không có cơ chế gì để mà bảo vệ sau này khi phát hiện ra chuyện đó nó chứng tỏ rằng cái cơ chế bảo mật của ngân hàng quá kém. Nó kém tới cái độ những hoạt động bất thường đi ra đi vô trong một ngân hàng của mình mà họ không phát hiện được thì có thể dẫn tới sự đổ vỡ của ngân hàng đó khá dễ dàng.”

Ngày 12 tháng 8 ngay sau khi có kết luận về bảo mật của ngân hàng Vietcombank (VCB), giới đầu tư chứng khoán đã bán ra cổ phiếu của ngân hàng này mức giá thấp. Chốt phiên 12/8 VCB đã giảm 1.500 đồng trên mỗi cổ phiếu, xuống 54.500 đồng một cổ phiếu khiến vốn hóa thị trường Vietcombank “bốc hơi” gần 4.000 tỷ đồng chỉ trong một phiên giao dịch cuối tuần.

Mỗi ngân hàng của ngoại quốc đều phải mua bảo hiểm rủi ro cho việc hacker có thể làm thiệt hại cho khách hàng của mình, ngay cả cho chính bản thân của ngân hàng dù là hệ thống bảo mật của họ tốt đến mức nào đi chăng nữa. Đổ trách nhiệm cho khách hàng là cách nhanh nhất khiến cho ngân hàng sụp đổ vì thân chủ ngày nay là những người hiểu biết và tự quyết định nên gửi tiền vào nơi nào trong hàng trăm ngân hàng đang cạnh tranh với nhau trong và ngoài nước.

Bài toán về an ninh mạng không chỉ Việt Nam mới phải đối đầu nhưng đối với việc kinh doanh, đặc biệt là ngân hàng, cần phải có chiến lược thích hợp vừa chống lại sự gian lận của hacker vừa bảo vệ được khách hàng của mình đang là hướng phấn đấu vất vả cho hệ thống ngân hàng của Việt Nam hiện nay.

Một Đóa Hoa (Nhầu) Cho Người Ngã Ngựa

Một Đóa Hoa (Nhầu) Cho Người Ngã Ngựa

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến

RFA

Ảnh của tuongnangtien

tuongnangtien

Nhật ký Vương Trí Nhàn, ghi ngày 14 tháng 8 năm 1979, có đoạn rất xúc cảm. Đọc mà không ứa nước mắt (chắc) cũng ứa gan: “Các bệnh viện quá đông người. Bệnh viện St.Paul khoa nhi ba trẻ con một giường, đêm có đứa ngã xuống đất chết luôn. Không có điện, nhiều trẻ bị chết, các bà mẹ trông cả về Lăng Bác mà khóc.”

Ba mươi năm sau, vào ngày 1 tháng 12 năm 2008, báo Tuổi Trẻ đi tin: “Tám bệnh nhân trên một giường … tại các khoa hô hấp, sốt xuất huyết BV Nhi Đồng 1, bệnh nhân nằm gần kín các hành lang…  Ban ngày hành lang còn có lối nhỏ để đi, chứ đến đêm kín mít chiếu. Mỗi gia đình là một khoảnh chiếu, cứ nằm vậy để thay nhau chăm con…”

Những bà mẹ hồi năm 1979 nay đã phải thành nội/ngoại hết trơn. Những em bé thơ, vào thời điểm đó (nếu còn sống sót) hẳn cũng đều làm mẹ cả rồi. Phụ nữ thuộc thế hệ này, chắc chắn, không còn ai “trông về Lăng Bác mà khóc” nữa. Dân Việt – cũng may – tuy ngây thơ thật, ngây thơ lâu, và ngây thơ lắm nhưng không ngây thơ mãi.

Ảnh: vhea.org

Khóc lóc không giải quyết được gì. Để cho người thân có một chỗ nằm ở nhà thương thì điều cần là vài cái phong bì, chứ không phải là những giọt nước mắt.

Ở nhà giam cũng thế, theo lời của cựu tù nhân lương tâm Phạm Thanh Nghiên: “Cánh sĩ quan được tắm hàng ngày vào các buổi chiều. Một tuần được 3 lần gội đầu. Nước và thời gian cũng được nhiều gấp đôi cánh tù bình dân. Sĩ quan, là những người tù có tiền. Nói cho chính xác, đám này thuộc diện có gia đình ở ngoài khá giả … Ngay cả chỗ họ nằm, cũng là gia đình lo lót, mua cho. Thời điểm tôi bị giam ở Trần Phú (2008- 2009) mỗi xuất nằm trên sàn trung tâm  có giá từ 2 đến 3 triệu đồng. Sàn đối diện giá rẻ hơn một chút, dao động từ 1 đến dưới 3 triệu, tùy theo vị trí.”

Một “xuất nằm” trong nhà thương, hay trong nhà lao mà cũng cần chạy tiền thì có chỗ nào ở nước CHXHCNVN mà không phải lo lót – kể cả chỗ đứng rất khiêm tốn, trước bảng đen/phấn trắng (với đồng lương còm cõi) của những người dậy học.

Trong bức Thư Ngỏ Gửi Quốc Hội & Ba Bộ Trưởng , gửi hôm 17 tháng 10 năm 2015, nhà báo Nguyễn Thu Trang viết:

“Từ năm 2009 đến nay, 185 giáo viên của huyện Sóc Sơn được UBND huyện nhận vào làm với mức giá, trên, dưới 50 triệu đồng/1 người. Không có tiền thì không bao giờ xin nổi việc và ngược lại. Vì muốn có việc làm, nhiều giáo viên phải vay mượn tiền để chạy việc, thông qua các đường dây cò mồi, một số trường, đích thân hiệu trưởng nhận tiền theo giá chung. Nhưng mọi quyết định cuối cùng đều nằm ở huyện…”

Tôi đã đặt bản thân mình vào hoàn cảnh của họ để viết giúp họ một bức thư, như một tiếng kêu cứu thống thiết, gửi đến những người có chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn cao nhất có thể xem xét lại giúp họ…”

Nguyễn Thu Trang chắc cũng không ngờ rằng những kẻ “quyền hạn cao nhất” mà bà vừa gửi đến “tiếng kêu cứu thống thiết” cũng phải chạy (thấy mẹ luôn) mới thành được bộ trưởng hay dân biểu quốc hội, chớ chức tước đâu phải là đồ miễn phí. Điều khác biệt duy nhất giữa họ và những cô/thầy giáo (đáng thương) là một đằng chạy chỗ để kiếm sống qua ngày, còn đằng khác  chạy chức để đầu tư.

Đại Biểu Quốc Hội Lê Văn Cuông cho biết: “Bây giờ chạy vào Quốc hội là bình thường, có tiền là chạy được, có quan hệ thân là chạy được.”  Và chạy xong thì “tránh sao khỏi tâm lý ít nhất là hoàn vốn,” theo lời của  nhà báo Bùi Hoàng Tám.

Sao hoàn vốn thôi sao, cha nội? Đâu có quan chức nào chịu (“huề”) như vậy? Họ đầu tư là để kiếm lời, bằng mọi cách, càng nhiều càng tốt, bất kể nhân phẩm và đạo lý. Xin đơn cử một trường hợp tiêu biểu, theo Wikipedia:

Võ Kim Cự (sinh 1957) là một chính khách Việt Nam, Bí thư, Chủ tịch đoàn Liên minh HTX Việt Nam nhiệm kỳ 2015-2020, nguyên Bí thư Tỉnh ủy, nguyên Chủ tịch Ủy ban Nhân dân tỉnh Hà Tĩnh, Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa 13khóa 14 thuộc đoàn đại biểu Hà Tĩnh, thành viên Ủy ban Kinh tế của Quốc hội.

Không phải khi khổng khi không mà ông Võ Kim Cự trở thành Bí Thư Tỉnh Ủy, Chủ Tịch Uỷ Ban Nhân Dân, Đại Biểu Quốc Hội …  Ở một xứ sở mà một chỗ nằm trong nhà thương, hay nhà tù, đều phải mua bằng tiền thì để được trở thành chính khách – tất nhiên – là phải chạy điên luôn!

Ông Cự rất chịu chạy và chạy rất nhanh nhưng – đôi lúc –  có lẽ vì chạy bạo quá nên không tránh khỏi dăm ba điều tiếng (eo sèo) của người dân địa phương:

Ông Võ Kim Cự xuất thân từ cán bộ phong trào đoàn xã Cẩm Thăng, huyện Cẩm Xuyên. Ông chưa học hết cấp 3, nhưng nghe nói đã có bằng bổ túc công nông. Khi lên làm đoàn xã rồi đến đoàn huyện ở Cẩm Xuyên, ông có một lần bị kỉ luật vì làm cho một cô giáo mầm non bầu bí. Năm 1991, sau khi Hà Tĩnh tách ra từ Nghệ Tĩnh. Hà Tĩnh thành lập công ty khai thác Titan liên kết với Úc có tên là Khoảng sản Hà Tĩnh, tiền thân của tổng công ty Khoáng sản Thương Mại bây giờ. Trong quá trình làm ở Mitraco, ông Cự theo học lớp đại học tại chức luật được tổ chức ở thị xã Hà Tĩnh năm 1995-1997. Khi đó ông Cự là lớp trưởng, một người có vai trò tổ chức đưa đón thầy cô giáo và bố trí nơi ăn, chỗ nghỉ cho các thầy cô về dạy tại chức. Nên khi tốt nghiệp ông Cự đại loại cao, nhiều người thắc mắc thì có thầy giáo đã trả lời. “Chúng tôi nhờ có anh Cự giúp đỡ trong khi đi dạy ở đây nên chúng tôi cho anh điểm cao là chuyện dễ hiểu”. Sau khi có bằng đại học tại chức, ông Cự lên giám đốc rồi công ty chuyển thành tổng công ty nên ông mang danh Tổng giám đốc. Sau đó vài năm ông lên chức chủ tịch UBND tỉnh Hà Tĩnh. Có nghịch lý là trong những năm ông Cự làm giám đốc Mitraco, nhiều dự án được vẽ ra và không thu được gì. Cuối cùng, các dự án này đều được bán dần để trả nợ (mà nhiều người cho là ông dùng tiền để chạy chức phó chủ tịch tỉnh). Trong khi làm phó chủ tịch, ông học Thạc sỹ MBA theo chương trình liên kết với đại học Western Pacific University. Trường này cũng nằm trong danh sách những Scam Universities mà báo chí đã từng nêu. Trớ thêu hơn, ông lại là sinh viên “thủ khoa” của khóa học này.

Trớ trêu hay không thì ông VKC vẫn là người có bằng cấp, học vị “được công nhận” bởi nhà nước hiện hành. Nhờ thế, ông ấy được bầu vào vị trí Phó Chủ Tịch UBND tỉnh, kiêm Trưởng Ban Khu Kinh Tế Vũng Áng. Sau đó là Chủ tịch UBND tỉnh rồi Bí Thư Tỉnh Ủy…

Ở địa vị này, ông VKC đã góp phần không nhỏ vào việc cấp phép cho công ty Formosa mở nhà máy thép ở Hà Tĩnh, và nhận được nhiều ưu đãi “kịch trần” – theo như (nguyên văn) cách dùng từ của báo Đất Việt: “Được hưởng thuế thu nhập doanh nghiệp 10% (doanh nghiệp trong nước là 22%), miễn thuế thu nhập trong bốn năm và giảm 50% số thuế phải nộp trong 9 năm tiếp theo; được miễn thuế nhập khẩu máy móc, thiết bị; miễn thuế tài nguyên…”

Tổng cộng là hơn mười ngàn tỷ đồng tiền hoàn thuế. Theo phỏng tính của chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan phỏng tính: “Hơn 10.000 tỷ đồng nếu tính vào thời giá cuối năm 2014, đầu năm 2015 thì nó tương đương với 500 triệu USD.”

Thiệt là quá đã, và quá đáng!

Nếu phần lại quả là hai chục phần trăm thì số tiền sẽ là một trăm triệu Mỹ Kim. Ông VKC – tất nhiên – ăn chia tử tế, theo đúng qui trình: đầu tư – hoàn vốn – kiếm lời. Việc làm này hoàn toàn không có gì sai trái nên đương sự được sự tán trợ và ủng hộ nhiệt tình của mọi giới quan chức (lớn/nhỏ) từ trung ương đến địa phương.

Vấn đề chả qua, và chả may, là Formosa lại là đồ độc. Nuốt vào rồi mới biết là lôi thôi lắm, lôi thôi lâu, và e (cả đám) sẽ lôi thôi lớn!

Chủ tịch UBND tỉnh Võ Kim Cự đón tiếp Phó Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đến thăm Vũng Áng hồi tháng 9/2014

Vậy mà sau khi sự việc lỡ vỡ thì không thấy người gian nào (khác) mắc nạn hết trơn hết trọi, ngoài cái ông Kim Cự. Sao kỳ vậy chớ?

Câu hỏi thượng dẫn được blogger Nguyễn Ngọc Như Quỳnh trả lời rành rọt và chính xác: “Dồn hết sức tấn công ông Võ Kim Cự lúc này là cách cứu vãn hệ thống đúng đắn nhất mà đảng Cộng sản đã chọn.”

Thôi thế cũng đành. Chỉ có điều (hơi) khó đành và rất đáng phàn nàn là Đảng còn nhẫn tâm và trơ tráo xua ngay cả một bầy chó dại ra sủa nhặng xị cái người đồng chí (vừa mới vừa bị lộ) hôm qua:

Báo Tiền Phong (18/07/2016) : “Formosa và Ba Lần Đụng Độ Ông Võ Kim Cự”

Báo Tuổi Trẻ (22/07/2016) : “Ông Võ Kim Cự Có Trách Nhiệm Gì Trong Vụ Formosa Thuê Đất”

Báo Vnexpress (24/07/16) “Formosa Chôn Lấp Chất Thải ở Đâu”

Báo Dân Trí (25/07/2016) : “Trả Lời Của Ông Võ Kim Cự Là Lấp Liếm”

Báo Người Lao Động 26/07/2016 : “Ông Cự quyết cho Formosa thuê đất 70 năm trước khi xin ý kiến”

Báo VnMedia (26/07/2016) : “Cận Cảnh Biệt Thự Khủng Của Nguyên Bí Thư Tỉnh Ủy Võ Kim Cự”

Báo Tin Nhanh (27/07/2016) “Phát hiện căn biệt thự ‘khủng’của nguyên Bí thư Tỉnh ủy Hà Tĩnh Võ Kim Cự”

Cái biệt thự to đùng, xây từ 2010, chớ có phải cái kim đâu mà sáu năm sau mới “phát hiện” ra – mấy cha? Trơ tráo tới cỡ đó mà vẫn được xem như là chủ trương “đúng đắn” thì chung cuộc chỉ có sự lựa chọn của ông VKC là sai lầm, và sai ngay từ đầu lận.

Hồi đó, thay vì vào ĐCSVN, nếu ông Võ Kim Cự gia nhập vào một thứ băng đảng nào khác thì đã không đến nỗi. Giới giang hồ đối với những kẻ đồng đảng, hay đồng vụ, tử tế và nghĩa khí hơn nhiều.

Trần Thị Lam – Chúng ta không vô can!

Trần Thị Lam – Chúng ta không vô can!

By Uyên Nguyên

2324713552309_n

Vậy là sau bao nhiêu ngày chờ đợi, cuối cùng dù đau đớn, ta cũng phải chấp nhận một sự thật là biển đã bị đầu độc.
Chúng ta tạm bằng lòng vì thủ phạm của tội ác đã được gọi tên.
Những người thiếu trách nhiệm, buông lỏng quản lý… rồi đây phải trả lời trước công luận và chịu trách nhiệm trước pháp luật.
Nhưng còn chúng ta, chúng ta có thật sự vô can?
Chúng ta đã thờ ơ với tình hình chính trị xã hội của đất nước khi nghĩ rằng mọi việc đã có Đảng và chính phủ lo.
Chúng ta nghĩ chỉ cần chăm sóc cho cái tổ của mình là đủ, những biến động ngoài cánh cửa không ảnh hưởng đến gia đình mình.
Chúng ta chỉ cần yên ổn.
Chúng ta dửng dưng trao vận mệnh của mình và con cháu mình vào tay của những kẻ tham lam và năng lực quản lý yếu kém.
Chúng ta sợ hãi đủ thứ, sợ một từ nhạy cảm, sợ cả cái bấm like với một bài viết bày tỏ quan điểm trên các trang facebook, sợ một tiếng nói thầm, sợ thể hiện chính kiến.
Chúng ta sống câm lặng như những cái bóng hoặc phù phiếm, sặc sỡ như loài côn trùng.
Chúng ta vô cảm.
Chúng ta hèn nhát.
Cho đến một ngày chúng ta hoảng sợ nhận ra rằng, mâm cơm nhà mình đã thiếu khuyết đi món ăn từ biển, hạt muối ta ăn không biết có an toàn, món rau không thể không chấm nước mắm… mùa hè ta đến biển chỉ để đứng trên bờ ngắm nhìn những con sóng.
Tai hoạ đã gõ cửa nhà tất cả chúng ta, không trừ một ai.
Chúng ta nơm nớp lo sợ cho tương lai.
Chúng ta sống trong môi trường xã hội nhưng quên mất một điều chúng ta được mẹ thiên nhiên bao bọc và nuôi dưỡng.
Khi mẹ thiên nhiên nổi giận thì không có biệt lệ cho bất kì ai.
Sự hèn nhát, sự sợ hãi, sự dửng dửng, vô cảm đã biến chúng ta thành những kẻ đồng loã với cái ác.
Chúng ta đã phản bội thiên nhiên, phản bội quê hương và cái giá chúng ta phải trả là môi trường sống của chính mình bị đầu độc, là sức khoẻ, sinh mạng, sự tồn vong của nòi giống.
Để xảy ra thảm cảnh môi trường như ngày hôm nay, tôi, bạn, tất cả chúng ta đều không vô can.

Trần Thị Lam

MẸ LÊN TRỜI

MẸ LÊN TRỜI

 GM GB Bùi Tuần

ME LEN TROI
Ngày 1.11.1950 Đức Thánh cha Piô XII đã long trọng công bố tín điều Đức Mẹ hồn xác lên trời như sau: “Thánh Mẫu Thiên Chúa là Đức Maria Vô nhiêm trọn đời đồng trinh, sau khi đã đi trọn cuộc đời trần thế, được triệu vời cả hồn lẫn xác trong vinh quang thiên quốc.”   Đặc ân hồn xác lên trời vừa như hoa trái vinh quang của trọn vẹn cuộc đời hoàn toàn thuộc về Chúa, vừa là kết thúc và bao gồm mọi đặc ân Thiên Chúa đã ban cho Mẹ Maria.  Khi tuyên dương công trạng đầy tràn của Mẹ Maria bằng việc triệu vời Mẹ về trời, Thiên Chúa đã biểu dương chính hồng ân Chúa ban cho Mẹ.  Và như vậy Thiên Chúa muốn đề cao Mẹ Maria như thành quả tuyệt vời có một không hai của ân sủng, để mọi người ở mọi thời ngợi khen Mẹ diễm phúc, và nhìn nhận Thiên Chúa là Đấng Toàn Năng, chí thánh chí tôn đã làm cho Mẹ biết bao điều cao cả.

  1.  “Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này?”

Bà Êlisabét được đầy tràn Thánh Thần đã lớn tiếng tuyên xưng thiên chức Thánh Mẫu của Mẹ Maria.  Thiên chức Thánh Mẫu cao cả giờ đây đang bày tỏ ra nơi chính con người thiếu nữ Maria bằng xương bằng thịt, bình thường, giản dị và khiêm nhường thẳm sâu.  Chỉ bằng việc có mặt khi đến thăm, và chỉ bằng một lời chào đơn sơ của Đức Maria, bà Êlisabét lại nhận ra thiên chức Thánh Mẫu của Mẹ.  Mẹ Maria là Mẹ Thiên Chúa bằng cả hồn cả xác của mình.

1.1.Mẹ Thiên Chúa bằng tâm hồn

Trong khi Chúa Giêsu đang giảng thì có một người phụ nữ đã lên tiếng nói với Chúa:“Phúc thay người mẹ đã cưu mang và cho Thầy bú mớm (Lc 11, 27).  Thuộc giới phụ nữ và trong tư cách làm mẹ, người phụ nữ ở đây cảm phục và yêu mến Chúa Giêsu bao nhiêu, thì lại muốn đề cao và hết lòng ca ngợi hồng phúc của người mẹ đã sinh ra Chúa bấy nhiêu.  Đó là cái nhìn thường tình.  Nhưng Chúa Giêsu cho thấy cần phải vượt lên trên quan niệm tự nhiên mới có thể đánh giá được hồng phúc làm Mẹ của Đức Maria, và hồng phúc đó trước hết và cốt yếu là ở trong tâm hồn: “Đúng hơn phải nói rằng: Phúc thay kẻ lắng nghe và tuân giữ lời Thiên Chúa.”

Một lần kia Mẹ Maria và anh em họ hàng đến thăm Chúa Giêsu và khi nghe biết thế, Chúa Giêsu đã đề cao Mẹ Maria trong chiều sâu thẳm của thiên chức Thánh Mẫu: “Mẹ tôi và anh em tôi, chính là những ai nghe lời Thiên Chúa và đem ra thực hành” (Lc 8, 2).  Như vậy căn bản thiên chức Thánh Mẫu của Đức Maria, không chỉ do ngài được làm Mẹ Đức Giêsu – Thiên Chúa làm người – tại tâm hồn của Mẹ đã hoàn toàn mở ra cho lời Chúa, và lời Chúa thành sự sống và lẽ sống của Mẹ.  Mẹ Maria đã cưu mang lời Chúa trong tâm hồn trước khi cưu mang Lời trong thân xác.  Thánh Augustinô còn nhận định tư cách môn đệ nơi Đức Maria (Mẹ trong tâm hồn) trổi vượt hơn tư cách làm mẹ nơi Đức Maria (Mẹ trong thân xác).

1.2. Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa

Khi Lời Thiên Chúa đã đi vào và thấm nhuần trọn vẹn tâm hồn Đức Maria tới mức sung mãn, thì Lời Thiên Chúa đi vào trong thân xác vô nhiễm của Đức Maria.  Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa theo một nghĩa trọn vẹn (cả hồn xác).  “Người đã nhập thể trong lòng Trinh Nữ Maria, và đã làm người.”   Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa bằng con người toàn diện, cả hồn lẫn xác.  Có nghĩa là hồn xác Mẹ vốn đã thuộc về Chúa, dành riêng cho một mình Chúa.  Và như vậy thân xác Mẹ không phải hư nát là dấu thuộc về trần gian cát bụi.  Mẹ xứng đáng lên trời cả hồn xác.  Đó là điều đã được tiền định do ý định khôn ngoan nhiệm mầu của Thiên Chúa khi tuyển chọn Mẹ làm Mẹ của Ngôi Lời Nhập Thể.

  1. “Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới”

Trong ngày Truyền tin, Đức Maria đã thưa lời xin vâng với Thiên Chúa, một lời xin vâng toàn vẹn và tuyệt hảo, bao gồm cả quá khứ, hiện tại, và tương lai.  Mẹ đã không ngừng “Xin vâng” với mọi lời Thiên Chúa đến với Mẹ từ trước đến nay.  Và giờ đây tiếng xin vâng thốt ra ngoài miệng là âm vang và kết quả của tâm hồn Mẹ đã hoàn toàn vâng phục Thiên Chúa.  “Tôi đây là nữ tỳ của Chúa” là một lời xác định rằng: từ trước đến nay và mãi mãi sau này, tôi là nữ tỳ của Chúa, hoàn toàn lệ thuộc vào Chúa.  Hoàn toàn lệ thuộc vào Chúa cả hồn xác trong mọi lúc, là một cách giải thích đặc ân Vô nhiễm nguyên tội và trọn đời đồng trinh của Mẹ Maria.
2.1. Mẹ Maria Vô Nhiễm nguyên tội

Vô nhiễm nguyên tội là không mắc tội nguyên tổ.  Có nghĩa là ngay từ giây phút đầu tiên thụ thai trong lòng thân mẫu, con người (hồn xác) của Mẹ hoàn toàn đóng kín, không một kẻ hở nào cho tội lỗi và cho tất cả những gì thuộc trần gian đã bị tội lỗi làm hư thối.  Mẹ cũng hoàn toàn đóng kín với chính bản thân của mình, cái “tôi” của mình.  Đóng kín với tất cả, để Mẹ có thể trọn vẹn mở ra cho Thiên Chúa, và chỉ một mình Thiên Chúa mà thôi.  Đó là đặc ân Vô Nhiễm của Mẹ Maria.  Với đặc ân này, Mẹ Maria dù vẫn sống cuộc đời trần thế của một con người, Mẹ có thể qui hướng tất cả, và trọn vẹn từng chi tiết của bản thân và từng giây phút của đời sống về cho Chúa.  Nói cách khác, đặc ân Vô Nhiễm ban cho Mẹ Maria có khả năng không ngừng thuộc về Chúa cả hồn lẫn xác.  Mẹ xứng đáng lên trời cả hồn xác để mãi mãi thuộc về Chúa.

2.2. Mẹ Maria trọn đời đồng trinh

Hội Thánh tuyên xưng Mẹ Maria trọn đời đồng trinh trước khi, đang khi, và sau khi sinh Chúa Giêsu.  Và Phụng Vụ đã giải thích như sau: “Khi Người giáng sinh, đức đồng trinh của Thánh Mẫu đã không vì thế mà bị tổn thương, nhưng đã được thánh hiến” (Lời nguyện tiến lễ, lễ chung Đức Mẹ).  Đức đồng trinh của Mẹ rất thánh không thể được nhìn theo thường tình mà phải được nhìn theo đức tin, nghĩa là như ý định nhiệm mầu và khôn ngoan của Thiên Chúa.  Thiên Chúa ban cho Mẹ ơn đồng trinh trọn đời có mục đích là để con người toàn vẹn của Mẹ, cả hồn cả xác, hoàn toàn thuộc về Chúa, không sứt mẻ, không biến chất, trái tại luôn luôn nguyên tuyền và mãi mãi toàn vẹn.  Do đó khi Con Một Thiên Chúa được thụ thai và được sinh ra bởi Mẹ, thì không những không làm tổn thương hồn xác nguyên tuyền của Mẹ, mà trái tại còn làm cho hồn xác thuộc về Chúa hơn nữa.  Thuộc về Chúa trọn vẹn hồn xác nguyên tuyền, và suốt cả cuộc đời từng giây từng phút như vậy, nên việc Mẹ được Chúa đưa lên trời cả hồn cả xác là kết quả đương nhiên và hợp tình hợp lý.

Kết luận

Con đường Thánh Mẫu Maria Vô Nhiễm trọn đời đồng trinh đã đi để được lên trời cả hồn cả xác, là con đường Tin Mừng đã ghi tại: “Còn bà Maria thì hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy và suy đi nghĩ lại trong lòng” và “Riêng Mẹ Người thì hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy trong lòng” (Lc 2, 9-5).  Mẹ hằng đón nhận Lời Chúa, ghi nhớ và suy đi nghĩ lại trong lòng, cho tới khi Lời Chúa thành máu thịt, thành hơi thở, thành sự sống cho mình.  Và lúc đó hồn xác Mẹ được thánh hiến trọn vẹn cho Thiên Chúa, thuộc về Chúa từ trong ra ngoài, từ đầu đến chân.
Con đường đưa lên trời cả hồn cả xác của Mẹ Maria được mở ra cho mọi người như Tin Mừng đã ghi tại.  Tất cả mọi tín hữu đều được mời gọi đi con đường Mẹ Maria đã đi, để đến nơi Mẹ đã đến.

GM GB Bùi Tuần

Trung Quốc bất chấp thông lệ quốc tế ở Hoàng Sa

Trung Quốc bất chấp thông lệ quốc tế ở Hoàng Sa

Việt Hà, phóng viên RFA
2016-08-15

RFA

hoangsa.jpg

Bản đồ các đảo và bãi đá thuộc quần đảo Hoàng Sa.

 Courtesy of thiemthu62.blogspot.com

00:54/10:15

 

Báo chí trong nước mới đây dẫn nguồn tin từ Bộ Ngoại Giao cho biết phía Trung Quốc hôm 12/8 đã từ chối không cho 6 tàu cá của ngư dân Việt Nam vào tránh sóng to gió lớn ở đảo Bông Bay thuộc quần đảo Hoàng Sa đang tranh chấp giữa hai nước với lý do quần đảo này không thích hợp để tránh trú.

Đây không phải là lần đầu tiên Trung Quốc từ chối các tàu thuyền của ngư dân Việt Nam đánh cá gần khu vực quần đảo Hoàng Sa vào trú bão, khiến ngư dân Việt Nam phải đối mặt với những nguy hiểm trên biển.

Hành động này của Trung Quốc bị cho là trái với thông lệ quốc tế trên biển và đi ngược với những thỏa thuận giữa hai nước. Việt Hà phỏng vấn tiến sĩ Trần Công Trục, nguyên trưởng ban Biên giới chính phủ về vấn đề này. Trước hết, nhận định về hành động mới đây của Trung Quốc, tiến sĩ Trần Công Trục cho biết:

“Các bạn biết là quần đảo Hoàng Sa bao gồm một số đảo và bãi cạn, các đầm nước lặng. Bong Bay là một vị trí, một vùng có thể cho tàu thuyền vào tránh bão được. Bong Bay nằm trên một rạn san hô, giữa đó là đầm nước lặng. Ngư dân đánh cá ở đây lâu đời và họ biết được là họ có thể tránh bão ở đầm nước lặng đó. Cho nên Trung Quốc nại ra lý do là không thích hợp cho trú bão là để họ từ chối không cho người dân bị gặp nạn trên biển vào trú đậu thôi chứ không phải là lý do chính đáng.”

Hành động sai trái

Tiến sĩ Trần Công Trục: Các bạn biết là quần đảo Hoàng Sa bao gồm một số đảo và bãi cạn, các đầm nước lặng. Bông Bay là một vị trí, một vùng có thể cho tàu thuyền vào tránh bão được. Bông Bay nằm trên một rạn san hô, giữa đó là đầm nước lặng. Ngư dân đánh cá ở đây lâu đời và họ biết được là họ có thể tránh bão ở đầm nước lặng đó. Cho nên Trung Quốc nại ra lý do là không thích hợp cho trú bão là để họ từ chối không cho người dân bị gặp nạn trên biển vào trú đậu thôi chứ không phải là lý do chính đáng.

Việt Hà: Vậy theo tiến sĩ thì hành động này của Trung Quốc có trái với những thỏa thuận hay thông lệ quốc tế hay không?

Hành xử theo thông lệ quốc tế là khi người đi biển gặp nạn thì họ phải có trách nhiệm và nghĩa vụ cứu giúp nhưng họ đã làm trái với văn hóa ứng xử thông thường của người đi biển.
– Tiến sĩ Trần Công Trục

 

Tiến sĩ Trần Công Trục: Theo tôi nghĩ họ nói như vậy thì có một số điều mà chúng ta cần bình luận. Thứ nhất quần đảo Hoàng Sa là của Việt Nam mà họ dùng vũ lực chiếm đóng từ những năm 70 của thế kỷ trước. Đây là thuộc lãnh thổ Việt Nam mà giờ họ chiếm đóng. Người Việt đến đây làm ăn thì họ bắt bớ và có nhiều hành động thì đó là sai về pháp lý.

Cái sai thứ hai là họ không để ngư dân Việt Nam làm ăn ở đây khi gặp tai nạn trên biển được cứu đậu. Hành xử theo thông lệ quốc tế là khi người đi biển gặp nạn thì họ phải có trách nhiệm và nghĩa vụ cứu giúp nhưng họ đã làm trái với văn hóa ứng xử thông thường của người đi biển. Đó là hành xử không tốt đẹp không được loài người hoan nghênh. Cho dù có mâu thuẫn và tranh chấp, nhưng khi người ta gặp nạn thì phải rộng lòng cứu giúp người ta.

Việt Hà: Đây không phải là lần đầu tiên Trung Quốc từ chối không cho ngư dân Việt Nam vào trú bão ở quần đảo Hoàng Sa. Theo ông thì đâu là lý do thực sự đằng sau lý do mà họ đưa ra là Hoàng Sa không thích hợp để trú bão?

Tiến sĩ Trần Công Trục: Lần này họ không sẵn lòng cứu giúp ngư dân thì đúng như chị nói không phải là lần đầu tiên mà trước đây cũng rất nhiều lần rồi. Những ngư dân gặp nạn do thiên tai hoặc bị tàu họ húc đâm thì họ vẫn để mặc cho ngư dân chống chọi với sóng to gió lớn. Đó là điều mà mọi người không ngạc nhiên lắm. Ý của họ là không muốn có sự hiện diện của người Việt ở khu vực họ đã đánh chiếm của Việt Nam. Điều đó là mục tiêu của họ.

Ý sâu xa của họ là gì? Họ tạo nên một tình huống hết sức căng thẳng để đe dọa ngư dân hàng ngày ra đó làm ăn sinh sống từ xưa. Họ làm như vậy để tạo tình huống khó khăn, để răn đe ngư dân không ra khu vực này nữa. Về mặt pháp lý, làm như vậy họ nói họ có quyền làm chủ quần đảo này cho nên họ làm bất kỳ điều gì thuộc quyền của họ. Tất cả mọi hành động để nhằm mục đích để họ chứng tỏ trên thực tế quyền lực của họ đối với khu vực họ đánh chiếm của Việt Nam.

Triển vọng đàm phán?

Việt Hà: Mới đây Philippines và Trung Quốc đã cho thấy những tín hiệu về đàm phán giữa hai nước để giải quyết tranh chấp. Ông có hy vọng gì về việc Việt Nam và Trung Quốc có thể đàm phán và hợp tác trong việc chia sẻ ngư trường truyền thống ở Hoàng Sa như hai nước đã làm ở vịnh Bắc Bộ không?

Hai bên đã đàm phán có được đường ranh giới và có những hoạt động tuần tra chung, hợp tác cứu nạn cứu hộ với ngư dân hoặc những người hoạt động trên biển gặp nạn.
– Tiến sĩ Trần Công Trục

 

Tiến sĩ Trần Công Trục: Chuyện Việt Nam đã nhiều lần nói với Trung Quốc là cùng Trung Quốc giải quyết tranh chấp bằng biện pháp hòa bình, trong đó giải quyết bằng đàm phán, hoặc chưa giải quyết được thì có những vấn đề có thể hợp tác được như hợp tác đánh cá, bảo vệ môi trường, nghiên cứu khoa học ở những khu vực có tranh chấp. Đó là chủ trương của Việt Nam.

Tôi nghĩ Trung Quốc khó có thể đáp ứng được nguyện vọng chính đáng đó của Việt Nam cũng như của một số nước khác. Khi họ thỏa thuận đàm phán thì họ chỉ tạo ra hình ảnh là có thiện chí nhưng trong thực chất họ phải đàm phán trên điều kiện là họ phải có quyền trong đó, quyền cho phép và không cho phép theo ý muốn của họ chứ không đàm phán bình đẳng, không như chúng ta hy vọng Trung Quốc phân chia mọi lợi ích trong khu vực họ đã đánh chiếm. Tôi nghĩ cho dù có thể có tín hiệu nhưng vì lý do nào đó họ vẫn đàm phán nhưng thực chất họ dùng cái đó để khẳng định hơn nữa cái quyền mà họ nói là họ có chủ quyền trong những vùng biển thuộc yêu sách của Trung Quốc.

Việt Hà: Xin ông cho biết là giữa Việt Nam và Trung Quốc có những thỏa thuận nào trong hợp tác cứu nạn trên biển không?

Tiến sĩ Trần Công Trục: Giữa Việt Nam và Trung Quốc cũng từng có những hợp tác ở vịnh Bắc Bộ chẳng hạn. Hai bên đã đàm phán có được đường ranh giới và có những hoạt động tuần tra chung, hợp tác cứu nạn cứu hộ với ngư dân hoặc những người hoạt động trên biển gặp nạn. Trong đàm phán giữa hai nước thì hai bên cũng thỏa thuận phải tính đến những giải pháp để dần dần từng bước tháo gỡ những khó khăn để đến thỏa thuận cuối cùng.

Tôi nghĩ vấn đề cứu nạn cứu hộ là lẽ thường tình và tất cả các nước trên thế giới này khi gặp hoàn cảnh đó đều cứu vớt mà không phân biệt họ là ai, vi phạm gì chăng nữa. Đó mới là ứng xử văn minh. Còn Trung Quốc làm như vậy là bất chấp thông lệ quốc tế và thỏa thuận chính trị hai bên đạt được từ trước đến nay.

Việt Hà: Xin cảm ơn tiến sĩ Trần Công Trực đã dành cho chúng tôi cuộc phỏng vấn này.

Cái đêm hôm ấy vận vào ngày nay.

 Cái đêm hôm ấy vận vào ngày nay.

canhco

RFA

Câu chuyện 28 năm về trước từng ám ảnh cả nước nay quay trở lại với chính cái nơi mà nó từng xảy ra. Trở lại với nội dung không sai một mảy may chỉ khác là nhân vật trẻ hơn, nghèo hơn và nhất là chung quanh nó không ai còn căm phẫn như ngày xưa, thậm chí người ta xem nó bình thường, không có gì phải ầm ĩ.

Ngày 23 tháng 1 năm 1988 báo Văn Nghệ lúc ấy do nhà văn Nguyên Ngọc coi sóc, đã đăng một bút ký của nhà văn Phùng Gia Lộc mang tên “Cái đêm hôm ấy đêm gì?” kể lại câu chuyện của một gia đình mà tác giả chứng kiến.

Lúc ấy chính quyền địa phương tỉnh Thanh Hóa có chính sách tận thu thuế của dân, bất kể nghèo cách mấy cũng phải đóng đủ số thuế mà địa phương đưa ra. Câu chuyện xoay quanh một gia đình nghèo, vì nghèo quá mà lại có một bà mẹ già gần tới ngày về với tổ tiên nên người nhà đã đóng cổ quan tài cho cụ. Trong chiếc quan tài ấy người nhà của cụ cất 70 kí thóc để sau này khi có tang ma thì mang ra sử dụng, vậy mà do không tiền đóng thuế số thóc ấy đã bị chính quyền thẳng tay lật chiếc quan tài và tịch thu bằng hết.

Câu chuyện chấn động cả nước nhưng người viết nó phải trốn chui trốn nhủi do sợ bị công an Thanh Hóa theo tới Hà Nội để bắt. Phùng Gia Lộc may có Nguyên Ngọc cất giấu mới thoát vòng truy bức của sai nha. Lạ thay bất kể dư luận kêu gào, không ai bị đem ra truy vấn vì đã làm một việc phản cách mạng như thế. Phùng Gia Lộc sau khi nổi tiếng vẫn là một nhà văn nghèo rớt mồng tơi, tiếp tục đạp xe lang thang như chưa bao giờ từng kể lại một bi kịch nơi anh ở hay đến thế. Mọi cử động được gọi là đổi mới không ra khỏi chiếc giường ngủ ọp ẹp của thời cách mạng tháng Tám, và người cổ vũ nhiệt liệt cho cái vở kịch “đổi mới” ấy lại là người đóng sầm cánh cửa hy vọng vào một cuộc thanh trừng cái ác, cái phản cách mạng đến tận đáy điển hình nhất tại Thanh Hóa: Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh.

28 năm sau, cũng chính tại cái nơi mà chiếc quan tài bị lật úp lấy thóc lại xảy ra một việc tương tự.

Lần này chuyện xảy ra ban ngày, thay vì chiếc quan tài có thóc bên trong thì vật bị “cưỡng chế” là chiếc giường ngủ của hai vợ chồng một nông dân, chiếc giường là tài sản duy nhất của họ. Nhìn sai nha ào ào nhào vào tháo ra vác đi họ chỉ còn cay đắng ngồi khóc.

Theo gót Phùng Gia Lộc, hai tác giả Đào Tuy và Tuấn Nam đã tường thuật lại câu chuyện của gia đình chị Toàn một người dân ở làng Thành Liên, xã Trường Sơn, Nông Cống, Thanh Hóa. Theo chị Toàn kể lại do hết hạn đóng thuế mà hai vợ chồng chị không cách nào kiếm ra tiền, cán bộ xã làng đã kéo nhau đến tận nhà để “vận động” chị phải tìm cách nào đó hầu có tiền mà đưa cho họ.

Kể với phóng viên chị cho biết: “Họ đến đông lắm, cả trưởng làng, phó làng cùng các cán bộ ở làng. Có cả các anh công an xã nữa”, “Hai vợ chồng tôi đã khóc lóc van xin mong họ thư thư cho ít bữa nhưng không được”, chị Toàn cũng cho biết“Không tìm được cái gì đáng giá, mấy người ấy chực quay ra thì ông trưởng thôn lại lao vào. Ông ấy tháo chiếc giường mà vợ chồng cùng hai con của tôi đang nằm

Chiếc giường ấy, theo lời chị Toàn cho phóng viên biết là tài sản duy nhất mà vợ chồng chị sắm khi nên duyên chồng vợ.“Thấy trưởng làng vào tháo giường, mấy anh đội mạnh (công an viên- PV) cũng lao vào. Tất cả xúm vào tháo tung chiếc giường nhà tôi ra rồi bó lại khiêng ra nhà văn hóa của làng. Khi ấy tôi chỉ biết khóc nhưng van xin thế nào họ cũng chẳng động lòng”

Nguyễn Du, Ngô Tất Tố, kể cả Phùng Gia Lộc nếu nghe câu chuyện này ở thế kỷ 21 chắc  đành phải bẻ bút, bởi trong thời đại rực rỡ như ông Nguyễn Phú Trọng hả hê xác nhận lại xảy ra câu chuyện như thời sơ khai hơn cả phong kiến thực dân cộng lại thì hẳn là đáng ngạc nhiên lắm chứ?

Ngạc nhiên không phải vì tính “tháo vác” của cả một hệ thống chính quyền, ngay chiếc giường là vật hèn mọn nhất của một gia đình chúng cũng không từ nan. Ngạc nhiên bởi phản ứng của xã hội khi biết chuyện xảy ra ngay trong thời đại mình sống lại có phản ứng như câu chuyện của nước láng giềng Campuchia chứ không phải đang xảy ra tại Thanh Hóa, nơi từng cướp thóc dành cho người chết.

Quan tài hay giường ngủ, không vật gì chúng từ nan bởi dưới mắt của chúng, từ Bí thư Tỉnh ủy cho tới một tên xã trưởng con con lúc nào cũng muốn thị oai cho dân thấy thế nào là bạo lực cách mạng.

Bạo lực cách mạng trong trường hợp này được cả nước ngắm nghía, sờ mó, bỉu môi hay thậm chí chửi bới nhưng tiếc thay không một trí thức nào làm cho ra ngô ra khoai. Họ vẫn lang thang đâu đó trong khu vườn oang oang chữ nghĩa. Vài đại biểu Quốc hội đã về vườn vừa lên tiếng vừa run bởi không biết “bọn nó” mạnh tới đâu, không khéo chúng lại kéo tới tận nhà ném phân vào cửa.

Ngạc nhiên nhất là điều không đáng ngạc nhiên vẫn xảy ra: cả hệ thống im như gái ngồi phải cọc, bởi ra lệnh điều tra thì lại lòi ra cái nguyên nhân dẫn đến sự kiện: tận truy thu thuế.

Mà tận thu thuế thì chỉ có trung ương mới có quyền ra lệnh cho thuộc hạ trong lúc ngặt nghèo này. Kéo nó ra đấm không khéo nó lại thò cái công văn này hay nghị quyết nọ ra thì có mà gục mặt vào đâu cho hết  nhục?

Việt Cộng / Trung Cộng

Việt Cộng / Trung Cộng

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến

Ảnh của tuongnangtien

tuongnangtien

Bữa rồi, tôi nghe blogger Vũ Đông Hà kể lại chuyện sau:

HL là một sinh viên ở một tỉnh miền Tây. Trong khi bạn bè rủ nhau trở thành cô dâu Đài Loan thì HL làm đơn xin đi lao động hợp tác. Cán bộ phường là một gã côn đồ, hống hách, xem dân như cỏ rác. HL cũng không thoát khỏi hoàn cảnh đó, vừa sợ hãi, vừa căm giận, vừa phải nhịn nhục khi đến xin chữ ký. “Cuối cùng em nghiệm ra rằng em là nô lệ cho sự sợ hãi của chính em và từ đó danh dự, nhân phẩm của em đã trở thành nô lệ cho chúng nó. “

 3 năm sau, HL về nước. Những cảm nhận ở nước ngoài làm HL có một nhận thức mới về chính mình. Ngày lên phường để khai báo, cũng tên cán bộ phường đó, cũng thái độ hống hách, coi thường người dân. “Em đã đứng thẳng dậy, nhìn thẳng vào mắt nó và rất nghiêm trang nhưng rất dữ, “quạt” nó cả 10 phút không ngừng nghĩ. Anh biết gì không? Mặt mày nó tái mét, khi em dừng nói nó bối rối dữ lắm, không biết phản ứng ra sao. Cuối cùng nó lí nhí xin lỗi và bỏ tuốt vào bên trong. Từ đó đến nay, thái độ của nó đối với em khác hẳn. Em ngộ ra một điều là qua nhiều năm, tụi em vì thời thế đã tự tạo cho mình khả năng tự vệ khi bị làm khó làm dễ; ngược lại có kẻ quen tấn công người khác thì không có khả năng phản ứng khi bị tấn công vì chưa có kinh nghiệm bao giờ. Tụi nó chỉ biết núp bóng bộ đồng phục ở trên người và cái bóng của hệ thống…”

Chuyện ni cũng na ná như nội dung của hàng trăm hoạt cảnh mà tôi đã được thấy qua youtube:

– Người Đàn Bà Mạnh Mẽ Dậy Công An Cách Làm Người

– Người Phụ Nữ Khiến Ngành Công An Run Sợ

– Dân Dậy Cho Công An Về Hiến Pháp Khi Bị Công An Canh Cửa

– Phản Ứng Của Bà Giáo Về Hưu Trần Thị Thảo Sau Khi Bị CA Ngăn Chặn Không Cho Đi Biểu Tình Chống Trung Cộng Vào Sáng 17/7/2016 Tại Hà Nội

  – Người Giáo Viên Nghỉ Hưu Làm Cả Bộ Công An Lo Sợ

– Bà Mẹ Trẻ Khiến Bộ Công An Phải Run Sợ

– Cô Giáo Nghệ An Dậy Luật Cho Cảnh Sát Giao Thông

Mềm nắn rắn buông. Cái thói côn đồ xưa nay vẫn thế,  bất cứ nơi đâu, và bất kể cả là loại côn đồ đứng đường huýt còi hay côn đồ bang giao quốc tế.

Cứ mỗi lần nhìn thấy phản ứng quyết liệt của một phụ nữ VN trước sự đe doạ của cường quyền, và thái độ bối rối/lo ngại (rồi) lẳng lặng rút lui của đám nhân viên công lực là tôi lại nhớ ngay đến bức ảnh ông Vương Nghị, chụp chung với bà Aung San Suu Kyi, vào ngày 5 tháng 4 năm 2016.

Hôm ấy, theo tường thuật của tờ The Global New Light of Myanmar thì ngài Ngoại Trưởng của nước lớn (bỗng) xụi lơ. Nói năng mềm mỏng và hoà nhã chưa từng thấy:

Mr Wang Yi said Myanmar has seen change in internal affairs but China’s friendly relations with Myanmar have remained unchanged, pledging that China would not interfere in the internal affairs of Myanmar. China supports the choice of the Myanmar people and I hope Myanmar will find itself on the right path in conformity with the country’s reality.”

(Ông Vương Nghị phát biểu rằng, Miến Điện đã có những đổi thay trong nội bộ của mình, nhưng quan hệ hữu nghị giữa Trung Quốc và Miến Điện vẫn không thay đổi. Ông cam kết Trung Quốc sẽ không can thiệp vào công việc nội bộ của Miến Điện. “Trung Quốc ủng hộ sự chọn lựa của nhân dân Miến Điện và tôi hy vọng, Miến Điện sẽ thấy mình đang đi trên con đường đúng đắn, phù hợp với hiện thực của đất nước.” Bản dịch Bùi Xuân Bách).

Ngoại Trưởng Trung Cộng & Ngoại Trưởng Miến Điện. Ảnh: MNA

Chớ chuyện gì đã khiến cho ông Vương Nghị phải lật đật bay từ Bắc Kinh qua Nay Pyi Taw để chúc mừng tân chính phủ Miến Điện, với những lời lẽ hoà nhã và tình cảm (chứa chan) như thế?

Lý do, giản dị, chỉ vì Miến Điện đã tỏ thái độ cứng rắn và cương quyết với Tầu:

– Chính phủ Miến Điện từ chối dự án thủy điện Myitsone hơn 3 tỷ USD … là một “cái tát” đối với Trung Quốc

–  Miến Điện tuyên án chung thân khổ sai 153 công dân Trung Quốc

– Chiến đấu cơ Myanmar ném bom lãnh thổ Trung Quốc, 4 người chết

Thử tưởng tượng nếu Việt Cộng cũng dám bầy tỏ một thái độ quyết liệt tương tự (đình chỉ việc khai thác bauxite ở Tây Nguyên, đóng cửa nhà máy Formosa ở Hà Tĩnh, khởi kiện Trung Cộng ra toà án quốc tế vì những hoạt động bất hợp pháp ở biển Đông, bắt giữ và truy tố những chủ tầu lạ thường xuyên xâm nhập lãnh hải và gây rối cho ngư dân Việt Nam … ) thì chuyện gì sẽ xẩy ra?

Những kẻ nắm quyền lãnh đạo hiện nay (chắc chắn) sẽ được sự ủng hộ của người dân, cùng sự hổ trợ và nể trọng của quốc tế – kể cả Trung Cộng. Nhưng đám Việt Cộng đời nào dám thế, vì thế nên Trung Cộng mới có thế “được chân lân đầu,” và vừa doạ “sẽ dậy lại cho Việt Nam một bài học” nữa – theo như bản tin của VOA, nghe được vào hôm 1 tháng 8 năm 2016.

Trước lời đe doạ trắng trợn và xấc xược này, phát ngôn viên của bộ ngoại giao Việt Nam, ông Lê Hải Bình, đã “đáp trả” bằng một … lời đề nghị:

“Đề nghị Trung Quốc không đe doạ bằng bạo lực!”

Lê Hải Bình – Ảnh Tuổi Trẻ

Đúng là mặt trơ trán bóng. Thiệt chán mớ đời! Sao mà yếu xìu vậy, cha nội?

Thái độ cầu an của Việt Cộng giải thích được, phần nào, câu hỏi (đã nêu) của độc giả Dân Quê:

Trung quốc có biên giới với hàng chục chục nước, có nước rất nhỏ bé, dân số chỉ có chưa đầy một triệu dân như Bhutan. Vậy mà Trung quốc không làm gì được, trong khi đó thì Trung quốc chỉ bắt nạt ta, chèn ép dân tộc ta. Sao thế?

Trăng với sao gì? Hèn hạ đến thế mà không bị bị bắt thì mới là chuyện lạ. Đời vẫn vốn không nương người thất thế mà Việt Cộng lại lựa thế qùi nên bị bợp tai và đá đít là lẽ tất nhiên.

Chỉ có điều cần minh định là không thể đồng nhất sự hung hãn của Đảng Cộng Sản Trung Hoa và sự bạc nhược của Đảng Cộng Sản Việt Nam với dân Tầu và dân Việt. Hai cái đảng ôn dịch này không có đủ tính chính danh và chính đáng để đại diện cho bất cứ ai ngoài chính chúng nó.

Có dân tộc nào mà ưa chuộng chiến tranh? Dân Tầu chả có lý do gì để hiếu chiến. Dân Việt Nam cũng thế. Tuy thế, dân tộc này chưa bao giờ ngại ngần trong việc chống lại ngoại xâm.

Người nhạc sĩ xưa và sáng tác của ngày nay

Người nhạc sĩ xưa và sáng tác của ngày nay

Cát Linh, phóng viên RFA
2016-08-14

trucho-630.jpg

Nhạc sĩ Trúc Hồ trả lời phỏng vấn Đài Á Châu Tự Do.

 RFA

00:00/00:00

Phần âm thanh Tải xuống âm thanh

Khi người nhạc sĩ sáng tác, nhạc phẩm của họ ảnh hưởng rất nhiều từ chính thời đại họ sống. Chính vì vậy, âm nhạc Việt Nam đã có những ca khúc tiền chiến bất hủ về một xã hội qua nhiều biến động của thời cuộc, những bản nhạc tình thơ mộng, lãng mạn gắn liền với những cách trở vì cuộc chiến.

Rồi mấy mươi năm sau, cũng chính những nhạc sĩ ấy, ở một nơi rất xa quê hương, họ tiếp tục sáng tác, nhưng đó là những sáng tác trăn trở về một Việt Nam đang có nhiều câu hỏi.

Từ một bài thơ

“Đất nước mình ngộ quá phải không anh
Bốn ngàn tuổi mà dân không chịu lớn
Bốn ngàn tuổi mà vẫn còn bú mớm
Trước những bất công vẫn không biết kêu đòi…

Đất nước mình lạ quá phải không anh
Những chiếc bánh chưng vô cùng kì vĩ
Những dự án và tượng đài nghìn tỉ
Sinh mạng con người chỉ như cái móng tay…”

Tôi ghi nhận: “Hào khí” của tuổi trẻ VN, can đảm viết lên những lời thơ mang tính “tự trào”, thách thức với chế độ bạo quyền Cộng sản Việt Nam.
– Nhạc sĩ Trần Duy Đức

Trần Duy Đức, người chuyên chắp cánh cho những tứ thơ của Mai Thảo, Du Tử Lê, Ngô Tịnh Yên nay lại trăn trở khi tình cờ “nghe” cô giáo Trần Thị Lam ở Hà Tĩnh đặt ra một câu hỏi trong câu trả lời, “Đất nước mình ngộ quá phải không anh?”

“Tôi nhận được bài thơ Đất nước mình ngộ quá phải không anh hơi muộn (01/05/2016) từ email của 1 người bạn gửi cho, và phổ nhạc trong thời gian ngồi chờ hẹn Trần Thái Hoà ghé thăm để cùng nhau đi ăn tối. Sau khi phổ nhạc xong, mới hay trên YouTube có hàng chục nhạc sĩ đã phổ nhạc. Nhưng “lỡ” phổ nhạc bài thơ này rồi, thì thôi, cũng gọi là chút lòng ngậm ngùi nghĩ về đất nước mình… Tuy nhiên, tự an ủi mình 1 điều: Đã giữ được trọn vẹn nguyên bản của bài thơ, chỉ thêm thắt vài chữ “vô thưởng vô phạt”: Ôi, và, thì, mà… như chút gia vị cho món ăn thêm mặn mà…”

Trần Duy Đức đã từng dạo lên tiếng cổ cầm Koto trong Khúc mưa sầu, từng viết lên những ca khúc mang dáng dấp nhân sinh, đã nhìn thấy tiếng khóc của đứa bé 4 ngàn năm chưa chịu lớn qua lời trần tình của cô giáo Trần Thị Lam.

Hơn thế nữa, ông còn nghe thấy tiếng kêu gào của những ngư dân Việt Nam đang bị tước mất đi nguồn sống.

Từ đó, ông nghe thấy tiếng vọng từ một người trai trẻ trong mình đang cất lên tiếng nói của thế hệ thanh niên Việt Nam (VN).

“Khi làm công việc chuyển nhạc vào bài thơ này, điều đầu tiên tôi ghi nhận: “Hào khí” của tuổi trẻ VN, can đảm viết lên những lời thơ mang tính “tự trào”, thách thức với chế độ bạo quyền Cộng sản Việt Nam; ẩn chứa sự “khích tướng” đối với người dân trong nước: “…Trước những bất công mà không dám kêu đòi!” (Ôi tôi yêu biết bao và kỳ vọng biết mấy những người tuổi trẻ VN trong nước…)

Từ nỗi niềm ấy, Trần Duy Đức Nên đã cố gắng dẫn dắt dòng nhạc của mình kết hợp với 3 niềm cảm xúc: Hùng, Bi, Hài, chuyển sang những chuỗi âm thanh kết nối, phù hợp với từng ý nghĩa, tâm tình của từng chữ, từng câu, từng vần của bài thơ vào ca khúc, như lời thúc dục tuổi trẻ VN  đứng lên, dấn thân cho Tổ Quốc…

Tiếng hát Trần Thái Hoà đã cùng với Trần Duy Đức gửi đến tuổi trẻ Việt Nam tiếng gọi ấy.

“Tôi cảm kích, trân quý ở Trần Thái Hòa một tấm lòng của người tuổi trẻ VN hải ngoại, ước muốn “tiếp lửa” với những người tuổi trẻ trong nước.”

Cho đến Biển Đông

Có lẽ những người nghe nhạc Việt Nam không ai không biết đến nhạc sĩ Song Ngọc, tác giả của ca khúc Tiễn đưa nổi tiếng. Ông còn được biết đến với tên Hàn Sinh của ca khúc “Xin gọi nhau là cố nhân”, Hoàng Ngọc Ân của ca khúc Định mệnh.

DatNuocMinhNgoQua.jpg

Bản phổ nhạc của nhạc sĩ Trần Duy Đức từ bài thơ Đất nước mình ngộ quá phải không anh của cô giáo Trần Thị Lam. Courtesy of phonuipleiku.org

Những bản tình ca diễm lệ, những cuộc tình ‘Định mệnh’, những ước mơ về chuyến bay đêm thời trai trẻ của Song Ngọc được nhường chỗ cho nhịp điệu oai hùng, tiếng nói của dân tộc Việt Nam con Rồng cháu Tiên, về một Trường Sa, Hoàng Sa của “tổ tiên bao ngàn năm gầy dựng cơ đồ”.

“Biển Đông dậy sóng

Tàu giặc xâm lấn

Muôn triệu người Việt Nam yêu nước

Quyết một lòng bảo vệ non sông

Đây Hoàng Sa, đây Trường Sa của tổ tiên ta

Bao ngàn năm gầy dựng cơ đồ

Con cháu thề cùng chống xâm lăng…” (Biển Đông dậy sóng)

Sau hơn 40 năm rời quê hương và hơn nửa đời người dành cho sáng tác, một ngày nọ, nét đẹp hào phóng, lãng mạn trong các ca khúc của ông hoá thành tiếng gọi hào hùng của biển Đông đang dậy sóng.

“Tôi viết Biển Đông dậy sóng trong tâm trạng của một người đang nhìn về quê hương mình và bất lực…”

Và ‘Con đường Việt Nam’

Song Ngọc, Trần Duy Đức là nhạc sĩ của những bản tình ca lãng mạn, ru lòng người bằng những câu chuyện nhẹ nhàng, bay bổng. Thế nhưng, sau mấy mươi năm, cũng chính bằng âm nhạc, họ nói lên tiếng nói của một dân tộc. Họ trăn trở nhìn về Biển Đông, họ ưu tư trước câu hỏi về một đất nước bốn ngàn năm chưa chịu lớn.

Vì sao? Vì bên trong đất nước ấy, có những người đang bị lao tù vì quê hương, vì đồng bào

“Trong bóng tối trại giam, nơi cầm tù những người có tội.
Nhưng trớ trêu tình đời – có những người đi tù vì quê hương.
Bao người vì yêu nước vẫn dấn thân dẫu ngục tù đọa đầy,
dẫu chông gai để còn có ngày mai,
vẫn hiên ngang bước đường dài miệt mài.
Đi lao tù vì đồng bào, vì quê hương…” (Con đường Việt Nam)

Tôi viết Biển Đông dậy sóng trong tâm trạng của một người đang nhìn về quê hương mình và bất lực.
– Nhạc sĩ Song Ngọc

Con đường Việt Nam là tác phẩm do một tù nhân lương tâm trong nước sáng tác và chính nhạc sĩ Trúc Hồ hoà âm, dành tặng riêng cho người tù lương tâm Trần Huỳnh Duy Thức.

Và người thể hiện ca khúc này, ca sĩ Thế Sơn đã thật sự chạm vào tận sâu trái tim của người Việt.

Rất nhiều những sáng tác của nhạc sĩ Trúc Hồ đã vượt đại dương để về có mặt bên cạnh người trong nước, những người đấu tranh cho một Con đường Việt Nam. Những ca khúc ấy như ngọn lửa truyền cho mọi người sức mạnh, cho mọi người biết rằng “Đã đến lúc”.

“Không phải người dân trong nước mà tất cả người Việt Nam trên toàn thế giới đều nhìn về Việt Nam với một nỗi buồn đau lo lắng không biết Việt Nam mình sẽ thế nào. Khi ngồi máy bay đi công tác sang Úc, có một bức hình chụp biểu tình ở Sài Gòn, nhiều người giương cao biểu ngữ, rồi nghe được bài giảng của Đức giáo hoàng trong đó có câu ‘bước vào nấm mồ của dối trá, của hận thù, bất công’. Từ đó, anh có cảm xúc và viết xong ca khúc ‘Đã đến lúc’ vào ngày 5 tháng 5 vừa qua.” (Trích: Phóng sự đặc biệt của SBTN)

“Đã đến lúc đứng lên công bằng

Người VIệt Nam  suốt đời cùng nhịp chân tiến lên

Vì quê hương vì Tổ quốc Việt Nam.”

Trời reo nắng thì chim reo tiếng sang

Suy Tư Tin Mừng Tuần thứ 20 thường niên năm C 14/8/2016

                        Tin Mừng (Lc12: 49-53)

Hôm ấy Đức Giêsu nói với các môn đồ rằng: “Thầy đã đến ném lửa vào mặt đất, và Thầy những ước mong phải chi lửa ấy đã bùng lên! Thầy còn một phép rửa phải chịu, và lòng Thầy khắc khoải biết bao cho đến khi việc này hoàn tất!

 Anh em tưởng rằng Thầy đến để ban hoà bình cho trái đất sao?

Thầy bảo cho anh em biết: không phải thế đâu, nhưng là đem sự chia rẽ. Vì từ nay, năm người trong cùng một nhà sẽ chia rẽ nhau, ba chống lại hai, hai chống lại ba.53 Họ sẽ chia rẽ nhau: cha chống lại con trai, con trai chống lại cha; mẹ chống lại con gái, con gái chống lại mẹ; mẹ chồng chống lại nàng dâu, nàng dâu chống lại mẹ chồng.”

* * * * * *

 “Trời reo nắng thì chim reo tiếng sang”

Xuân có hồng thì tôi có tình tôi.

Tiếc nhau chi, mai mốt đã xa rồi.

Xa là chết, hãy tặng tình lúc sống.

Chớ chia rẽ, dễ gì ta gặp mộng,

Những giòng đời muôn kiếp đã chia trôi.”

(Dẫn từ thơ Xuân Diệu)

Nói giống nhà thơ: xa là chết. Chết về tinh-thần. Chết, cả về thể xác. Nhưng, dẫu có chết như thế nào đi nữa, tình mình đâu đã hết. Tình chỉ hết, khi người mình cứ thế rẽ chia như nghịch lý/nghịch thường Chúa vẫn nói, mãi lâu nay.

Lời Chúa nói hôm nay, thoạt nghe như có vẻ mâu-thuẫn, khó khăn. Khó, nhưng nên nhớ trình-thuật Tin Mừng luôn được thần-hứng như kinh-nghiệm sống của cộng-đoàn các kẻ tin. Cụ-thể hơn, nội-dung Lời Chúa hôm nay nói về việc vẫn có rẽ chia trong cộng đoàn dân Chúa. Chí ít, là cộng-đoàn gia-đình tình-thương, vẫn vui sống. Tin Mừng Lời Chúa cũng nói đến Lửa mà Chúa đem đến cho trái đất. Lửa đây, nên hiểu như yếu-tố rẽ chia chăng?

Lửa ở đây, trước tiên không phải là thứ lửa của dịch hành đốt phá rừng nhiệt-đới, mỗi mùa khô. Lửa đây, là sức nóng bừng bừng; là, ánh sáng và là yếu-tố gột rửa những thanh-thoát. Lửa gột tẩy Chúa gửi đến, vẫn cháy bừng nơi bụi rậm xưa Môsê đã nhìn thấy, và là lửa gột tẩy cháy nóng từng cột và từng cột vốn tháp-tùng chúng dân  chốn sa-mạc lưu-đày. Lửa, mà Chúa nói còn mang hình lưỡi với khí thế bừng bừng ngày Thánh Thần đến, rất tâm-giao.

Và, Lửa lại là tình-yêu nóng cháy Chúa đến với môn-đệ, với Hội-thánh, với tất cả mỗi người chúng ta. Lửa của Ngài, dù không ở dạng đốt phá hoặc mang hình-hài tẩy xoá, vẫn là lửa ngọn lung-linh đưa dẫn con người về với đổi thay, giải-thoát.

Tin Mừng hôm nay, nhắc lại sự rẽ chia ngày Chúa đến. Đây, là khẳng-định dễ kích-động tranh-luận, làm sống lại các xung-đột bên trong tôn-giáo cùng tin vào một Chúa, vào thần-linh. Như, Do-thái-giáo và đạo Hồi ở Trung Đông; như Công giáo, Chính thống-giáo lẫn đạo Hồi ở Nam Tư; hoặc tệ hơn nữa, như Ấn giáo Hồi giáo và Thiên Chúa giáo ở Ấn-Độ.

Thoạt nhìn, tưởng chừng như Tin Mừng nhắc là những gì đi ngược lại điều Chúa nói trong Bài Giảng Trên Núi; hoặc, buổi Tiệc Tạ Từ trước ngày Ngài chịu nạn, và khác hẳn bức thư tâm-tình thánh Phao-lô gửi giáo-đoàn Ê-phê-sô. Xét cho cùng, đây không là sấm Trạng hoặc mặc-khải nào đó tỏ-bày ý-định của Chúa ở trên cao. Mà, chỉ là văn-phong miêu-tả kinh-nghiệm rất thực mà Giáo-hội thời xưa sống. Thánh Luca hôm nay chỉ muốn viết lại Lời Ngài nói ngay từ đầu, áp-dụng cho hôm nay.

Hiện nay, ở nhiều nước trên thế-giới, nhiều cá-nhân riêng rẽ cũng như các cộng-đoàn theo chân Chúa vẫn bị coi là mối đe-doạ lớn đối với các chính-quyền trần-gian như nhiều nhóm quyền-lực ở trần-gian cũng như tôn-giáo khác đã hành-xử như thế. Cụ-thể như, vào thế-kỷ thứ 20, có những chế-độ độc-tài vẫn muốn chia-rẽ, bách-hại khối Công-giáo, chỉ vì những người anh em này cứ đoàn-kết chung lưng thành một lực-lượng để giúp nhau sống niềm tin của mình.

Với các chính-phủ này, dân con Đạo Chúa vẫn là bè nhóm đáng ngờ vực gây nhiều hãi sợ. Cụ thể hơn, có lần Stalin dám nhạo bang hỏi Đức Giáo Hoàng thời đó: “Phía các ông được bao nhiêu sư-đoàn?” Kể ra thì, họ hãi sợ người Công-giáo thật cũng phải. Bởi, con dân nhà Đạo dù chẳng dùng đến sung đạn chỉ cậy vào niềm tin thôi cũng đã làm sụp đổ cả khối chính-trị ở Đông Âu.

Ngược giòng lịch-sử đạo-giáo, người người đều thấy có quá nhiều tín-hữu Đức Kitô và gia-đình họ chịu khổ-hình chỉ vì quyết tuân theo đường-lối hy-sinh bác ái Chúa dạy. Bằng chứng là, biết bao vị thánh đã hy-sinh tánh-mạng để bảo-vệ đức tin. Từ đó, sống Đạo theo đúng Tin Mừng dạy còn khó hơn nhiều. Và vì thế, con số các vị tử-đạo ngày nay có thể còn nhiều hơn các thế-kỷ trước.

Dù có tử vì đạo hay không, sứ-điệp mà tín-hữu Đức Kitô đưa ra, luôn là chủ-trương bất bạo-động. Tín-hữu Đức Kitô quyết một lòng mang tình yêu, lòng thương xót, niềm an-ủi hài-hoà đến với hết mọi người, bất kể họ là Do-thái hay Hy-Lạp, nô-lệ hay tự-do, nam hoặc nữ, và bản-chất người Kitô-hữu luôn luôn bất bạo-động. Sứ-điệp làm nhân-chứng cho Tình-yêu Chúa vẫn luôn thách-thức đánh thẳng vào những bất-công tham ô, kỳ-thị, lạm-dụng, bất lương. Và, vào cả những ai xúc phạm đến phẩm-giá con người nữa.

Và, vai-trò của người rao-truyền Lời Chúa, vẫn luôn là “làm hoà với những người khốn-khổ gây khó với những người chỉ biết ăn chơi, hưởng-lạc. Khi Hội-thánh Chúa đã quyết-tâm rao-giảng và sống đúng như Tin Mừng Ngài dạy, thì mọi tranh-chấp rẽ chia vẫn là chuyện khó tránh. Hội-thánh chẳng bao giờ muốn có tranh-chấp, rẽ chia. Và, dân con nhà Đạo chẳng bao giờ có ý-định phân-ly rẽ đám một ai.

Nói cho cùng, tôn-giáo không chia rẽ. Chỉ có phe nhóm giả-dạng tôn-giáo hoặc giáo-phái tà-đạo mới tính chuyện phân rẽ. Các tôn-giáo này luôn đề-cập đến trang-thái “nó và ta” hoặc lúc nào cũng nghĩ “phe ta và phe nó”. Đạo đích-thật, không khi nào chia rẽ cũng chẳng tạo khổ đau cho bất cứ ai. Chỉ những người tự cho là giáo-dân ngoan đạo hoặc giáo-phái “chính-thống” có lẽ là người gây chia rẽ. Vì, chính họ luôn vỗ ngực tự-hào là mình chính quy, đạo-đức. Mình giữ đầy-đủ luật-lệ, và chỉ mình mình mới là người làm đúng. Còn lại, mọi người khác đều đi trật đường rầy, đều lạc đạo, cấp-tiến. Và cuối cùng, những kẻ chủ-trương chia rẽ chính là ngư ông hưởng lợi.

Tóm lại, Đạo của Chúa không chia rẽ, nhưng luôn bảo-vệ sự thật. Luôn rao truyền sự công-chính. Lúc nào cũng quyết bảo-vệ phảm-giá và sự tự-do của con người. Chủ-trương ấy, đường-lối kia dĩ nhiên sẽ kéo theo nhiều đối-kháng, tị nạnh. Chính vì thế, mới có quả-quyết của Chúa nơi hiến-chương được ban-bố khi Ngài khởi-đầu cuộc đời rao-giảng : “Phúc cho ai bị bách-hại vì Tin Mừng.” Hiến-chương tuy hơi lạ nhưng là hiến-pháp luôn có sự thật song-hành.

Chung vui Tiệc Thánh hôm nay,ta cảm tạ và biết ơn các vị thánh đã xả-thân để bảo-vệ sự sống. Bảo-vệ lối sống có niềm tin và yêu thương. Cảm-tạ và biết ơn các đấng bậc đã chiến-đấu cho sự thật. Cho, công-bằng và lẽ phải. Các ngài chiến-đấu để duy-trì phẩm-giá con người và bảo-tồn tự-do làm con cái Chúa. Đó, là quyền của họ. Và, cũng là bổn-phận làm nhân-chứng cho Tình Yêu của Chúa.

Thành thử, với gương lành Đức Kitô, Đấng từng là đối-tượng của nhiều khích-bác, bạo-động, ta được khích-lệ duy-trì bảo vệ sự đoàn-kết và an-bình nội-tâm. Một an-bình chỉ có Đức Ki-tô và đường-lối Ngài dạy mới giúp ta vững tâm tiến-bước.

Trong hân-hoan tiến bước theo chân Chúa, ta hãy cùng bầu bạn hãy hát vang bài ca bừng sáng thuở nào cho thêm nhựa sống mới. Bừng sáng lên, để không ai phải hãi-sợ lửa ngọn rẽ chia, nhưng vui mừng tiếp đón ngọn Lửa tin yêu kết-đoàn mà Chúa sáng soi, cho hết mọi người. Với lửa ấm cúng ngọt ngào ấy ta sẽ biết “tặng tình lúc còn sống”, dù “Giòng đời muôn kiếp chia trôi”.

Lm Richard Leonard sj biên-soạn  –

Mai Tá lược dịch.