Mỗi dân tộc cần tái suy ngẫm một cách có hệ thống về lịch sử của mình

Ba’o Tieng Dan

07/03/2024

Vương Trí Nhàn

7-2-2024

Nguyên là bài: “Vì sao người Trung quốc vô duyên với tự do dân chủ?” Tác giả: Tiêu Kiện Sinh (Trung Quốc); biên dịch: Nguyễn Hải Hoành. Tôi tìm thấy bài này là do, ngày 15-2-2024 bài được đưa trên mạng Văn Việt với nhan đề “Vì sao chúng ta vô duyên với tự do dân chủ?”.

Cách đặt vấn đề “cần tái suy ngẫm một cách có hệ thống” lịch sử dân tộc không chỉ đặt ra với giới nghiên cứu lịch sử Trung quốc mà cũng là đúng với giới nghiên cứu lịch sử Việt Nam, chẳng hạn trong việc nghiên cứu về lịch sử hình thành dân tộc, nguồn gốc dân tộc đang diễn ra gần đây.

Vang vọng nhất là cái câu: “Một dân tộc không thể triệt để suy ngẫm lại lịch sử nền văn minh của mình thì rất khó nói đó là một dân tộc có hy vọng“.

Riêng trong hoàn cảnh Việt Nam sự suy nghĩ lại này chắc chắn sẽ khó khăn vô hạn và hứa hẹn nhiều đau xót hơn. Vì chúng ta không có một nền sử học lớn như Trung Quốc. Mà lại càng khó khăn hơn vì chúng ta vừa trải qua một cuộc chiến tranh lấy những tư tưởng sử học cũ làm nền tảng. Nhưng chính vì thế càng cần thay đổi như cái câu mà người ta hay nói THAY ĐỔI HAY LÀ CHẾT!

***

Sau đây là bài viết “Vì sao người Trung quốc vô duyên với tự do dân chủ?” của Tiêu Kiện Sinh, do Nguyễn Hải Hoành biên dịch:

Thập niên 1980 tôi nảy ra ý nghĩ tái suy ngẫm một cách có hệ thống về lịch sử Trung Quốc. Hồi ấy nhiều người vẫn còn quen dùng quan điểm giai cấp và đấu tranh giai cấp để xem xét các vấn đề lịch sử, lồng ghép lịch sử sống động vào trong cái khuôn phép giai cấp và đấu tranh giai cấp, tùy tiện xuyên tạc lịch sử, chia con người ra làm hai loại lớn là “cách mạng” và “phản động” để đánh giá người ta, không tôn trọng sự thực lịch sử. Tôi cảm thấy hiện tượng đó làm cho lịch sử bị đơn giản hóa và dung tục hóa.

Đến nay mấy chục năm đã trôi qua, lịch sử học của Trung Quốc đã có tiến bộ lớn. Nhưng trên nhiều vấn đề trọng đại, sử học Trung Quốc vẫn chưa có sự thay đổi thực chất, vẫn ở trong trạng thái tư tưởng hỗn loạn. Người nước ta không muốn triệt để suy ngẫm lại lịch sử của mình, cho nên không thể nhận thức chính xác các thành tựu văn minh trong lịch sử Trung Quốc, không học được các bài học kinh nghiệm thực sự hữu ích.

[Chúng ta] chưa có nhận thức đúng đắn cái gì cần vứt bỏ, cái gì cần thừa kế và phát triển. Kết quả là cái đáng bỏ thì không bỏ, ngược lại còn được coi là tinh hoa văn minh để thừa kế, còn cái tinh thần văn minh nên thừa kế và phát triển thì lại bị coi là cặn bã để vứt bỏ.

Ví dụ, Lão Tử đề xướng chủ trương “Kính thiên thuận đạo”, “Vô vi nhĩ trị”, Nho gia [Việt Nam gọi là Nho giáo] đề xướng thái độ khoan dung “Nhân giả ái nhân”, “Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân”,[1] Mặc Tử đề xướng tư tưởng bác ái, bình đẳng, phản chiến v.v… Những tư tưởng và chủ trương chính trị rất hay ấy lại bị phủ định trong một thời gian dài; ngược lại, các tư tưởng bạo lực và chuyên chế và thói giang hồ về sau xuất hiện thì lại được khẳng định và thừa kế lâu dài. Do tinh hoa văn minh trong lịch sử Trung Quốc không được kế thừa và phát triển nên kết quả là nền văn minh nước ta chưa đi lên con đường phát triển lành mạnh.

Mỗi dân tộc cần nhận thức đúng đắn lịch sử của mình. Chỉ có thế thì mới có thể tỉnh táo biết được đâu là tinh hoa và cặn bã trong nền văn minh ấy, từ đó tìm được cho dân tộc con đường đúng đắn để sinh tồn và phát triển. Một dân tộc không thể triệt để suy ngẫm lại lịch sử nền văn minh của mình thì rất khó nói đó là một dân tộc có hy vọng. Rất rõ ràng, một dân tộc không thể đối xử đúng đắn với ngay cả lịch sử nền văn minh của mình thì sao có thể hy vọng dân tộc đó hướng tới tương lai với một chí khí vĩ đại.

Cho tới nay, rất nhiều người vẫn còn coi Xuân thu Chiến quốc là thời đại đen tối, chia rẽ, rối loạn, chư hầu cát cứ, quân phiệt hỗn chiến. Về căn bản, họ chưa nghĩ xem một xã hội đen tối thì sao có thể xuất hiện tình hình Trăm hoa đua nở, Trăm nhà đua tiếng? Sao có thể sinh ra được nhiều như thế các nhà tư tưởng, nhà chính trị, nhà quân sự, nhà văn học và nhà khoa học? Sao có thể làm cho các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa của xã hội xuất hiện cảnh tượng phơi phới vươn lên, phát triển mạnh mẽ như thế?

Cho tới nay rất nhiều người vẫn coi việc Tần Thủy Hoàng dùng bạo lực thống nhất 6 nước, xây dựng quốc gia chế độ chuyên chế hoàng đế đại nhất thống cao độ là một tiến bộ vĩ đại của lịch sử. Thế nhưng họ không nghĩ xem nếu là tiến bộ vĩ đại thì vì sao sau khi Tần diệt xong 6 nước, Trung Quốc lại không tái xuất hiện các nhà tư tưởng vĩ đại như Lão Tử, Khổng Tử, Mạnh Tử? Vì sao nước ta luôn luôn xuất hiện tình trạng loạn lạc có tính chu kỳ mà không thể nào thoát ra khỏi cái vòng luẩn quẩn đó? Vì sao người Trung Quốc trong xã hội triều đại nhà Tần sống khổ như vậy? Vì sao xã hội nhà Tần nhanh chóng thiên hạ đại loạn rồi đi tới sụp đổ?

Cho tới nay rất nhiều người vẫn cho rằng triều đại nhà Tống là một triều đại chuyên chế, thối nát, lạc hậu, nghèo yếu; họ có thái độ phủ định toàn bộ đối với nền văn minh do nhà Tống tạo nên. Thế nhưng họ chưa nghĩ xem nếu là một xã hội chuyên chế, thối nát, lạc hậu, nghèo yếu như thế thì tại sao xã hội ấy lại sáng tạo nên một nền văn minh dẫn đầu thế giới hơn 100 năm? Vì sao xã hội ấy cống hiến cho thế giới những phát minh vĩ đại như thuốc nổ, kim chỉ nam, kỹ thuật in chữ rời? Vì sao dưới đời nhà Tống lại xuất hiện nền kinh tế hàng hóa phồn vinh như trình bày trong “Thanh minh thượng hà đồ”? Tại sao người nhà Tống lại sinh ra tiết tháo vĩ đại “Lo trước cái lo của thiên hạ, vui sau cái vui của thiên hạ”? Vì sao người nhà Tống lại sinh ra được khí tiết dân tộc cao thượng như “Nhân sinh tự cổ thùy vô tử, lưu thủ đan tâm chiếu hãn thanh”?[2]

Cho tới nay rất nhiều người còn thích thú cái gọi là “Khang Càn thịnh thế” [thời kỳ phồn thịnh dưới các triều vua Khang Hy, Ung Chính và Càn Long, kéo dài 134 năm]. Thế nhưng họ không nghĩ xem, nếu “Khang Càn thịnh thế” tiến bộ, phồn vinh như vậy thì tại sao hoàng đế Càn Long mới chết được có 41 năm thì Trung Quốc lại phải cắt đất, bồi thường, mất chủ quyền, làm đất nước chịu nỗi ô nhục khi bị súng lớn của người nước ngoài bắn phá? Vì sao từ đó trở đi người Trung Quốc bị coi là bệnh nhân Đông Á, bị người ta coi là quái vật và đồ ngu ngốc để cái đuôi lợn ở sau gáy [tức để đuôi sam]? Vì sao Cung Tự Trân[3] lại phải viết câu thơ bi đát “Cửu châu sinh khí thị phong lôi, vạn mã tề âm cứu khả ai, ngã khuyên thiên công trọng đẩu sậu”?

Giờ đây mọi người đều nói phải phục hưng văn minh Trung Hoa vĩ đại. Nhưng khi nói thế phải chăng mọi người đã nghĩ tới chuyện thế nào là văn minh Trung Hoa vĩ đại? Cái vĩ đại của nó thể hiện trên những mặt nào? Ngày nay cần phục hưng văn minh Trung Hoa như thế nào? Có ai đã thực sự làm rõ các vấn đề này chưa? Nếu còn chưa rõ văn minh Trung Hoa vĩ đại ở chỗ nào thì sao có thể nói tới chuyện phục hưng nó?

Đại loại những vấn đề ấy đều không thể không làm cho người ta có một cảm giác mạnh mẽ: tuy đã trải qua mấy chục năm cải cách mở cửa, người Trung Quốc vẫn chưa có nhận thức tỉnh táo về lịch sử nền văn minh của mình, vẫn còn ở trạng thái mông muội. Họ hoàn toàn chưa làm rõ cái nào là tiên tiến, cái nào là lạc hậu, cái nào là văn minh, cái nào là dã man. Nếu nói trong thời đại Cách mạng Văn hóa trước cải cách mở cửa, do lý thuyết giai cấp và đấu tranh giai cấp còn khống chế tư tưởng mọi người, họ không thể nhận thức đúng đắn lịch sử của nước mình, điều đó có thể thông cảm, thế thì ngày nay đã cải cách mở cửa mấy chục năm rồi mà người Trung Quốc vẫn còn chẳng hề động lòng, vẫn tê liệt cảm giác, thì điều đó rất không nên có. Một quốc gia, một dân tộc sao có thể lâu dài ở vào trạng thái như vậy? …

Chính vì nguyên nhân đó mà tôi cảm thấy cần thiết phải dùng các quan điểm văn minh hiện đại như dân chủ, pháp trị, tự do và nhân quyền để triệt để tái suy ngẫm lịch sử nền văn minh Trung Quốc. Tôi cảm thấy trước tình hình phát triển kinh tế nhanh chóng của Trung Quốc, chúng ta cần tiến hành tái suy ngẫm sâu sắc lịch sử nền văn minh nước ta. Có như vậy thì mới hiểu được vì sao Trung Quốc ngày nay lại như thế này, mới biết được người Trung Quốc đã làm đúng làm sai những mặt nào, tại sao người Trung Quốc lại mắc các sai lầm ấy, qua đó hấp thu những bài học kinh nghiệm hữu ích…

Một vấn đề hiện thực nhất là nên cải cách thể chế chính trị hiện nay như thế nào nhằm thích ứng tình hình kinh tế phát triển nhanh chóng của nước ta, qua đó xây dựng nên một xã hội dân chủ, pháp trị, công bằng, tự do và hài hòa. Có người cho rằng Trung Quốc muốn cải cách thể chế chính trị một cách hữu hiệu thì phải bắt chước mô hình chính trị dân chủ của phương Tây, thực hành thể chế hiến chính dân chủ toàn dân tranh cử, các chính đảng thay nhau nắm chính quyền, tam quyền phân lập v.v…, cũng tức là toàn bộ Tây hóa. Nhưng cũng có người cho rằng mô hình chính trị phương Tây không thích hợp tình hình Trung Quốc, việc cải cách thể chế chính trị Trung Quốc tuyệt đối không được đi con đường toàn bộ Tây hóa.

Vậy thì rốt cuộc Trung Quốc có thể đi con đường toàn bộ Tây hóa được không? Nếu không thì đi con đường thế nào? Nói phải xây dựng xã hội XHCN có đặc sắc Trung Quốc, thế thì thể chế chính trị của xã hội ấy nên như thế nào? Nếu nói chế độ chính trị Trung Quốc hiện nay rất hoàn thiện, không cần cải cách, thế thì vì sao lại xảy ra những đại bi kịch lịch sử như “Chống phái hữu”, “Đại Nhảy vọt”, và “Cách mạng văn hóa”? Vì sao trước những tai họa dân tộc cực kỳ nặng nề như vậy mà chế độ của chúng ta lại không có bất cứ phản kháng nào? Khi Chủ tịch nước Lưu Thiếu Kỳ và nhiều nhà lãnh đạo cùng các nhà trí thức và dân chúng bị đối xử bất công mà chết, vì sao chế độ của chúng ta không thể bảo vệ họ một cách mạnh mẽ? Vì sao hiện nay các hiện tượng thối nát như quan chức và doanh nhân câu kết, quyền và tiền trao đổi với nhau, biến của công thành của tư, tiêu xài hoang phí, mua quan bán chức, bọn xã hội đen điên cuồng hoạt động, và quyết sách sai lầm, phân phối bất công, đạo đức suy đồi, lãng phí tài nguyên, môi trường sống xấu đi… lại chưa được giải quyết triệt để?

Cho nên xét theo tình hình thực tế, thể chế chính trị của Trung Quốc không những phải cải cách mà còn phải tăng tốc quá trình cải cách. Nếu không thì không thể tưởng tượng được việc làm sao có thể xây dựng Trung Quốc thành một xã hội thực sự dân chủ, pháp trị, tự do và hài hòa, làm sao có thể thực hiện được mục tiêu Trung Quốc ổn định lâu dài, kinh tế phát triển bền vững, ổn định và lành mạnh.

Lịch sử chứng tỏ, phát triển kinh tế không thể giải quyết được tất cả mọi vấn đề của xã hội, chỉ có xây dựng một chế độ chính trị tốt đẹp thì quốc gia mới có thể đi lên quỹ đạo phát triển lành mạnh, thực hiện ổn định lâu dài. Nhà kinh tế nổi tiếng Dương Tiểu Khải có viết bài “Thế yếu của quốc gia đi sau” vạch ra vấn đề này. Ông cho rằng các quốc gia lạc hậu do phát triển muộn nên có rất nhiều thứ có thể bắt chước các nước phát triển.

Có hai hình thức bắt chước. Một là bắt chước chế độ và một là bắt chước công nghệ và mô hình công nghiệp hóa. Vì là nước đi sau cho nên có thể, dưới tình hình chưa có chế độ cơ sở, thông qua bắt chước công nghệ mà thực hiện phát triển nhanh. Có điều là, kiểu bắt chước ấy tuy có thể làm cho quốc gia lạc hậu trong một thời gian ngắn phát triển rất tốt, nhưng lại sẽ để lại nhiều tai họa âm ỉ, thậm chí phát triển lâu dài có thể thất bại, nguyên nhân là ở chỗ không có một chế độ xây dựng tốt để làm đảm bảo. Cho nên ông hy vọng Trung Quốc không nên đi con đường của các nước châu Mỹ Latinh, do chưa xây dựng được một chế độ xã hội tự do, công bằng, tuy có một thời gian phồn vinh nhưng cuối cùng các nước này đều suy thoái; nên nhìn thẳng vào thế yếu của quốc gia đi sau, dùng việc xây dựng chế độ có tính cơ sở để thực hiện “Dùng chế độ [chính trị] để đưa đất nước tiến lên”. Dương Tiểu Khải cho rằng, từ Ngũ Tứ trở đi, người Trung Quốc đề xướng nhiều về dân chủ và khoa học nhưng lại bỏ qua tự do và cộng hòa. Ông cho rằng, trên ý nghĩa nào đó, tự do và cộng hòa càng quan trọng hơn dân chủ và khoa học. Cũng tức là nói chỉ có xây dựng quy tắc hiến chính và cơ chế cam kết khả tín của Chính phủ, hạn chế các hành vi chủ nghĩa cơ hội của Chính phủ, bảo đảm xã hội công bằng chính trực, bảo đảm quyền lợi và tự do của cá nhân, phát huy đầy đủ sức sáng tạo của cá nhân, đó mới là cái căn bản để Trung Quốc đi lên giàu mạnh phồn vinh.

Sau sự kiện 4/6/1989,[4] xã hội Trung Quốc đã thay đổi rất lớn. Một mặt sức mạnh quốc gia tăng lên, một số thiết bị hạ tầng cơ sở như thông tin liên lạc, năng lượng, xa lộ cao tốc và xây dựng đô thị đều đã tiếp cận hoặc đạt mức của một số nước phát triển, nhìn chung đời sống nhân dân được nâng cao rất nhiều. Nhưng mặt khác, mô hình Nhà nước chủ đạo tập trung tài nguyên đầu tư thiếu sự xây dựng chế độ tốt, thiếu sự giám sát mạnh mẽ của xã hội, kết quả cũng có mặt tiêu cực lớn. Đó là quan chức nhà nước lợi dụng quyền lực trong tay tiến hành tham nhũng trên các mặt đề bạt cán bộ, trưng thu ruộng đất, đấu thầu dự án, dẫn đến sự phình to bộ máy quan liêu và tham nhũng, cộng với sự bất công trong phân phối và sự suy đồi đạo đức của mọi người đã gây nên những vấn đề xã hội nổi trội.

Trước tình hình đó nhiều nhà trí thức đã kêu gọi Trung Quốc cần tăng tốc cải cách thể chế chính trị, từng bước xây dựng chế độ hiến chính dân chủ, bảo đảm quyền tự do và các quyền lợi hiến pháp quy định cho nhân dân về ngôn luận, tư tưởng, tín ngưỡng, xuất bản, hội họp, lập hội, sao cho Trung Quốc đi lên quỹ đạo dân chủ và pháp trị, để cho Trung Quốc chẳng những có văn minh vật chất mà còn có nền văn minh tinh thần vĩ đại.

Lịch sử chứng tỏ trên thế giới không có chế độ hoặc nền văn minh nào mười phân vẹn mười. Dưới chế độ cộng hòa dân chủ và lập hiến, xã hội vẫn có tham nhũng, có sự cấu kết quan chức với doanh nhân, hiệu suất hành chính thấp và các hiện tượng bất công, bất hợp lý. Nhưng dưới chế độ hiến chính dân chủ, các hiện tượng đó không cấu thành sự thối nát có tính hệ thống, không nguy hại tới sự vận hành bình thường nền hành chính quốc gia; nếu có thì cũng dễ bị nhanh chóng vạch ra và được sửa chữa. Nhưng chế độ chuyên chế trung ương tập quyền có một tệ nạn lớn nhất là toàn bộ hệ thống quan liêu từ trên xuống dưới đều thối nát sa đọa và lừa dối, kiểm soát khống chế, tước đoạt nhân dân nhưng lại khó bị vạch ra –– bởi lẽ quyền lực không bị giám sát hữu hiệu.

Bởi vậy, cho tới nay mô hình chính trị dân chủ phương Tây vẫn là mô hình tương đối tiên tiến, có tác dụng hữu hiệu chế ngự quyền lực và chống tham nhũng, có giá trị phổ quát trên thế giới, không phụ thuộc vào ý thức hệ tư bản hay chủ nghĩa xã hội. Xã hội loài người cho tới nay chưa phát minh được một chế độ nào tốt hơn có thể thay thế chế độ hiến chính dân chủ. Cho nên người Trung Quốc nên cố gắng học tập và bắt chước thành quả văn minh ưu tú này của nhân loại. Các nước phương Tây đã học tập và áp dụng “Tứ đại phát minh” của Trung Quốc (thuốc nổ, kim chỉ nam, kỹ thuật in chữ rời và chế độ khoa cử), thế thì vì sao Trung Quốc không học và áp dụng chế độ hiến chính dân chủ của phương Tây?

Trong sách “Tiến trình cải cách” ghi lại lời cựu Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) Triệu Tử Dương có đoạn viết: “Dĩ nhiên một ngày nào đó trong tương lai có thể sẽ xuất hiện một chế độ chính trị tốt hơn, cao cấp hơn chế độ nghị viện dân chủ, nhưng đó là chuyện tương lai, bây giờ chưa có. Vì thế có thể nói một quốc gia muốn thực hiện hiện đại hóa, thì chẳng những phải thực hành kinh tế thị trường, phát triển văn minh hiện đại, mà còn phải thực hành chế độ chính trị dân chủ. Nếu không thì quốc gia ấy không thể làm cho nền kinh tế thị trường của mình trở thành kinh tế thị trường lành mạnh, hiện đại hóa, cũng không thể thực hiện xã hội pháp trị hiện đại. Sẽ lại như nhiều nước đang phát triển (trong đó có Trung Quốc), xuất hiện tình trạng quyền lực thị trường hóa, xã hội thối nát và phân hóa hai cực nghiêm trọng.”

Nguyên là Tổng Bí thư ĐCSTQ, những năm cuối đời ông Triệu Tử Dương suy đi nghĩ lại rút ra được kết luận như trên không phải là chuyện ngẫu nhiên. Đó là sự tổng kết kinh nghiệm thực tiễn chính trị nhiều năm, là kết quả tái suy ngẫm của ông về con đường phát triển của Trung Quốc. Vì thế các quan điểm của ông rất đáng được mọi người coi trọng.

Dĩ nhiên, tại Trung Quốc, một quốc gia đất rộng người đông và có mấy nghìn năm truyền thống chuyên chế, muốn tùy tiện vội vàng tiến hành cải tạo toàn bộ theo hướng của phương Tây thì chắc chắn có khó khăn. Bởi lẽ trong lịch sử mấy nghìn năm nước này chưa thực sự xuất hiện cơ sở xã hội để thực hành chính trị dân chủ phương Tây. Trong lịch sử cận đại Trung Quốc cũng từng thực hành những cải tạo phương Tây hóa như áp dụng chế độ quân chủ lập hiến và xây dựng Trung Hoa Dân quốc và vì thế người Trung Quốc đã phải trả giá bằng nhiều hy sinh lớn, song kết quả chẳng những không thành công mà còn làm cho xã hội Trung Quốc về sau lâm vào nguy cơ sâu sắc hơn.

Bởi vậy cần làm thế nào để, dưới tiền đề giữ vững ổn định xã hội, đẩy mạnh cuộc cải cách thể chế chính trị nhằm thực hiện sự đổi mới nền văn minh Trung Quốc –– đã trở thành vấn đề quan trọng nhất hiện nay. Tìm ra được câu trả lời cho vấn đề này là trách nhiệm thiêng liêng của ngành khoa học xã hội Trung Quốc. Muốn thiết kế thành công việc cải cách thể chế chính trị Trung Quốc thì phải học mô hình chính trị tiên tiến của phương Tây, cũng phải hấp thu kinh nghiệm và bài học trong lịch sử Trung Quốc, bởi lẽ việc xây dựng mô hình chính trị của Trung Quốc thì bắt nguồn từ truyền thống lịch sử lâu dài của nước này.

Chính là xuất phát từ động cơ ấy, trong cuốn sách này tôi đã đối chiếu sự phát triển văn minh phương Tây để chú trọng nghiên cứu một số vấn đề như sau: Vì sao Trung Quốc cổ đại chỉ có thể sinh ra nền văn minh nhất nguyên hóa chuyên chế quân chủ mà không sinh ra được nền văn minh đa nguyên hóa dân chủ như Cổ Hy Lạp, Cổ La Mã? Nền văn minh chuyên chế nhất nguyên hóa của Trung Quốc ra đời như thế nào, rồi phát triển và tăng cường ra sao? Vì sao trong xã hội chuyên chế quân chủ, dưới thời Đường Tống, nhất là đời nhà Tống, người Trung Quốc lại có thể sáng tạo được nền văn minh tiên tiến dẫn đầu thế giới trong hơn 100 năm? Vì sao phương Tây có thể sinh ra được nền chính trị lập hiến? Vì sao nền văn minh nhất nguyên hóa của phương Tây thời Trung thế kỷ lại có thể thực hiện chuyển đổi thành nền văn minh đa nguyên hóa? Còn nền văn minh nhất nguyên hóa của Trung Quốc trong thời kỳ cận đại vì sao lại không thể chuyển đổi như vậy? Đâu là nguyên nhân căn bản gây ra sự thất bại chuyển đổi ấy? vv….

Đồng thời tôi còn phân tích tình trạng văn minh xã hội Tây Chu, Xuân Thu Chiến quốc và các triều đại Tần, Hán, Đường, Tống, Nguyên, Minh, Thanh; phân tích và đánh giá một loạt sự kiện lớn như Biến pháp Thương Ưởng, nước Tần diệt 6 nước xung quanh, Chiến tranh Thuốc Phiện, Duy Tân Mậu Tuất, chế độ quân chủ lập hiến, Cách mạng Tân Hợi, phong trào Ngũ Tứ, sự kiện tự trị liên tỉnh năm 1921, phong trào Hiến chính năm 1946. Ngoài ra còn trình bày các tìm hiểu về tư tưởng Nho Giáo và phương thức tư duy của người Trung Quốc.

Do trình độ có hạn của tác giả, nhiều quan điểm và cách nhìn chưa chắc đã chính xác; nhưng tôi cảm thấy quan điểm của cá nhân chính xác hay không, điều đó không phải là quan trọng nhất. Sự tái suy ngẫm sâu sắc về lịch sử nền văn minh Trung Quốc mới là điều quan trọng, bởi lẽ nó sẽ giúp mọi người tái nhận thức một cách khách quan lịch sử nước mình, giúp mọi người thăm dò khám phá kinh nghiệm thành công và mô hình cải cách thể chế chính trị. Điều đó có ý nghĩa tích cực đối với việc nâng cao tố chất dân tộc, thúc đẩy văn minh Trung Quốc tiến lên, thúc đẩy việc xây dựng Trung Quốc hiện đại hóa.

Cốt lõi của nền văn minh hiện đại là hạn chế sự lạm dụng quyền lực công của Chính phủ, bảo đảm quyền lợi và tự do của các cá nhân. Hiến chương Liên Hợp Quốc thông qua ngày 26/6/1946 coi “Tăng tiến và khích lệ sự tôn trọng nhân quyền và các quyền tự do cơ bản của toàn nhân loại” là một trong các tôn chỉ của Liên Hợp Quốc. Tuyên ngôn nhân quyền thế giới do Liên Hợp Quốc thông qua ngày 10/12/1948, câu đầu tiên viết: “Thừa nhận sự tôn nghiêm vốn có, sự bình đẳng và các quyền lợi của tất cả các thành viên trong gia đình là nền tảng của tự do, công bằng và hòa bình thế giới … Một thế giới mọi người được hưởng quyền tự do ngôn luận, tự do tín ngưỡng và thoát được mọi nỗi sợ hãi và cảnh nghèo đói đã được tuyên bố là nguyện vọng cao nhất của dân chúng.”

Trung Quốc là nước ký Hiến chương Liên Hợp Quốc và Tuyên ngôn nhân quyền. Cố nhiên Chính phủ Trung Hoa Dân quốc phải gánh vác nghĩa vụ thực hiện các nguyên tắc đó. Tháng 10/1945, Mao Trạch Đông tuyên bố với tư cách Chủ tịch Chính phủ trung ương của Đảng CSTQ: Trung Quốc phải thực hiện “Các nguyên tắc dân sở hữu, dân trị, dân hưởng của Lincoln và 4 tự do lớn của Roosevelt”.

Trong Hiệp định Song thập do đảng Cộng sản và Quốc dân đảng Trung Quốc ký năm 1945 và Cương lĩnh xây dựng hòa bình do hai đảng nói trên cùng một số đoàn thể chính trị khác ký năm 1946 đều xác định mục tiêu Trung Quốc sẽ thực hành chế độ hiến chính dân chủ và xây dựng Trung Quốc thành một nước dân chủ, tự do, hòa bình, giàu mạnh.

Sự thành bại của một quốc gia được quyết định bởi trình độ tự do cá nhân sống trong quốc gia đó, trình độ chuyển biến từ thần dân thành công dân của họ. Nghiêm Phục[5] nói: “Quốc quý tự chủ, dân quý tự do”. Ông cho rằng then chốt sự thành bại của quốc gia là cá nhân “có tự do hay không có tự do”. Một quốc gia mà cá nhân không có tự do tư tưởng, không có nhân cách độc lập thì đó là cái gốc của việc quốc gia đó chưa thể đi lên con đường hiện đại hóa, chưa thể trở thành nước lớn mạnh, người dân chưa thể trở thành công dân.

Có người cho rằng quyền sinh tồn là quyền con người lớn nhất; giờ đây người Trung Quốc đã được hưởng đầy đủ quyền sinh tồn tức là đã được hưởng nhân quyền. Đây là quan điểm sai lầm. Quyền sinh tồn không phải là quyền lợi riêng của loài người; các loài động vật cũng có quyền sinh tồn. Coi nhu cầu sinh lý và bản năng kiếm sống của giới động vật là nhân quyền –– đây là sự bóp méo và báng bổ nhân quyền. Nhân quyền là quyền lợi riêng loài người mới có; nhân quyền có hàm nghĩa rất rõ ràng: đó là tự do tư tưởng và ngôn luận, tự do tín ngưỡng tôn giáo, tự do xuất bản, tự do hội họp lập đoàn thể v.v… Đây là nội dung nhân quyền do hiến pháp quy định. Muốn bảo đảm thực hiện những quyền con người đó thì phải mở rộng nền chính trị; nếu không thì không thể bảo đảm nhân quyền.

Hiện nay Đài Loan đã đi lên con đường hiến chính dân chủ. Đại lục Trung Quốc cũng nên thực hiện lời cam kết của mình, từng bước ổn thỏa mở rộng nền chính trị, đi lên văn minh hiện đại hiến chính dân chủ. Việc xây dựng nền hiến chính dân chủ không thể xa xôi vô thời hạn, trở thành cái bánh vẽ trong đầu óc người Trung Quốc, mà nên có thời gian biểu, có lộ trình nhằm chấn hưng tinh thần dân tộc, tăng lòng tin của nhân dân về tương lai và tình yêu đất nước, tăng lực ngưng tụ lòng người. Điều này vô cùng quan trọng đối với việc xây dựng một quốc gia vĩ đại.

Ngày nay, khi ôn lại lịch sử, chúng ta không thể không vô cùng hy vọng về tương lai của Trung Quốc, nhưng cũng không thể không cảm khái sâu sắc về sự thay đổi của lịch sử: mô thức thay đổi triều đại theo kiểu được làm vua thua làm giặc khiến cho người Trung Quốc chịu đựng quá nhiều đau khổ; cường quyền và bạo lực nên được chấm dứt; đằng sau quốc nạn tham nhũng là các khiếm khuyết nghiêm trọng về chế độ, quyền lực thiếu chế ước khiến cho các quan chức mặc sức làm bậy. Sự mở rộng vô hạn quyền của quan chức đã trở thành nguồn gốc của các trở ngại tiến bộ xã hội và mất ổn định xã hội. Cho dù xây dựng chế độ gì, áp dụng mô hình chính trị nào thì mọi quốc gia đều phải coi hiến chính dân chủ là sự xếp sắp chế độ cơ bản không thể thiếu được, đều phải đặt vấn đề hạn chế quyền lực Chính phủ và tôn trọng quyền lợi và sự tự do của mỗi cá nhân lên vị trí hàng đầu.

Một quốc gia văn minh thì phải giải quyết mọi vấn đề trên cơ sở dân chủ, pháp trị, bất cứ ai cũng phải hoạt động trong phạm vi hiến pháp. Trong tình hình bị cưỡng chế bạo lực, mọi công dân không nên làm những việc đi ngược ý chí của mình. Nếu công dân bị cưỡng bức nói ngược lòng mình, làm ngược lòng mình thì chẳng còn tự do gì để bàn. Chỉ cần không vi phạm hiến pháp và pháp luật thì không công dân nào nên bị cưỡng chế. Nhà tư tưởng Anh Karl R. Popper có một danh ngôn: “Mỗi người đều chỉ có quyền hy sinh vì sự nghiệp của mình nhưng không ai có quyền khuyến khích người khác hy sinh vì một lý tưởng.”  Điều này nên là nguyên tắc cơ bản mà một xã hội văn minh phải tuân theo.

Việc xây dựng chế độ hiến chính dân chủ của phương Tây bắt nguồn từ một tư tưởng quan trọng –– đó là không tín nhiệm quyền lực, cũng tức là không tin vào nhân trị. Kinh Thánh nói “Ngoài Thượng Đế ra, chẳng có ai là lương thiện cả.” Nếu con người đã không tin cậy được thì ắt phải tiến hành chế ước quyền lực do con người nắm giữ. Vì thế các quốc gia phương Tây đặt ra nhiều trình tự để phân tán quyền lực và tiến hành chế ước lẫn nhau giữa các quyền lực, qua đó ngăn ngừa sự lạm dụng quyền lực của Chính phủ. Ví dụ như bầu cử dân chủ, tự do báo chí, chính trị đa đảng, địa phương tự trị, tam quyền (lập pháp, hành pháp, tư pháp) phân lập, kiểm sát viên độc lập, đoàn bồi thẩm độc lập, chánh án độc lập, nhà nước hóa quân đội v.v… Việc đặt ra, xây dựng và hoàn thiện các chế độ đó đã trải nghiệm qua mấy trăm năm, trong đó tư tưởng cơ bản là bảo đảm các quyền lợi và sự tự do cá nhân không bị chính quyền xâm phạm. Có lẽ những chế độ đó chưa phải là phương thuốc hiệu nghiệm có thể giải quyết tất cả mọi vấn đề, nhưng nó là một mô hình sinh hoạt lý tưởng mà nhân loại theo đuổi, là then chốt để một quốc gia, một dân tộc đi lên hưng thịnh.

Trong thời kỳ cận đại, vì để thực hiện mục tiêu vĩ đại hiến chính dân chủ tại Trung Quốc, nhiều người đã nối tiếp nhau tiến lên, nhiều vị tiên liệt như Đàm Tự Đồng, Tôn Giáo Nhân đã đầu rơi máu chảy, trả những cái giá lớn, thế nhưng với người Trung Quốc thì hiến chính dân chủ vẫn như bóng trăng dưới nước, đóa hoa trong gương, có thể nhìn thấy nhưng không thể sờ vào. Năm 1911, Trung Quốc xây dựng nên nước cộng hòa đầu tiên của châu Á. Tiếp đó năm 1949 lại một lần nữa xây dựng nước cộng hòa. Ngày ấy người Trung Quốc đều nghĩ rằng dân chủ đã đến với họ. Thế nhưng cuối cùng thì vẫn là sự thay đổi triều đại kiểu được làm vua thua làm giặc, giấc mơ dân chủ tự do của người Trung Quốc vẫn là cái ảo ảnh.

Vì sao thực hiện dân chủ tự do tại Trung Quốc lại khó như vậy? Vì sao người Trung Quốc lại vô duyên với dân chủ tự do như vậy? Đây là một câu hỏi muôn thủa. Để giải đáp câu hỏi này, rất nhiều người đã nghiên cứu bàn luận nhưng chưa ai có thể đưa ra câu trả lời được mọi người tin phục.

Trên cơ sở kết quả nghiên cứu tìm hiểu của những người đi trước, sách này tiến hành phân tích bàn thảo một lần nữa về các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, tôn giáo, tính cách dân tộc, nhằm tìm ra những chứng cớ và con đường để Trung Quốc có thể đi lên văn minh hiện đại. Mong rằng các quan điểm của sách này có thể cung cấp cho mọi người một số gợi ý hữu ích.

Tiêu Kiện Sinh(  , 1955-), nhà báo, người dân tộc Thổ Gia tỉnh Hồ Nam, tốt nghiệp ngành văn học Hán ngữ Đại học Phát thanh Truyền hình Trung ương, hiện là biên tập viên “Nhật báo Hồ Nam”.

Nguyễn Hải Hoành lược dịch từ nguồn tiếng Trung 中国文明的反思(前言).  新世纪出版社香港2009925. Bài viết nhân dịp Quốc khánh Trung Quốc và kỷ niệm 100 năm Cách mạng Tân Hợi (10/10/1911).

______

[1] Kính thiên thuận đạo 敬天顺道:  Kính trọng Trời, thuận theo Đạo, nghĩa là tuân theo quy luật của thiên nhiên. Vô vi nhĩ trị 无为而治: Cai trị thiên hạ thuận theo tự nhiên, để cho dân tự do phát triển. Nhân giả ái nhân 仁者爱人: Người có lòng Nhân thì tràn đầy tình yêu thương, là người có trí tuệ lớn, có nhân cách cao cả. Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân己所不欲勿施於人: Điều gì mình không muốn thì cũng đừng áp cho người khác (Theo baike.baidu.com).

[2] 人生自古誰無死, 留取丹心照汗青 Nhân sinh tự cổ thùy vô tử, lưu thủ đan tâm chiếu hãn thanh. Xưa nay có ai sống mãi không chết đâu, (tôi muốn) để lại tấm lòng son yêu nước để chiếu rọi sử sách. Ý nói người có lý tưởng cao quý thì sẵn sàng chết vì sự nghiệp của nước nhà. Một câu trong bài thơ nổi tiếng “Quá Linh Đinh Dương” của Trạng nguyên Văn Thiên Tường 文天祥 (1236-1283), vị tướng chống giặc Nguyên xâm lược và nhà thơ yêu nước đời Nam Tống.

[3] Cung Tự Trân, 龚自珍1792-1841, nhà tư tưởng và nhà văn học đời Thanh, chủ trương chống sự xâm lược của phương Tây, vạch trần sự thối nát của xã hội phong kiến. Đoạn thơ đầy đủ là 九州生氣恃風雷,萬馬齊喑究可哀. 我勸天公重抖擻,不拘壹格降人才. Ý nói: Bất mãn sâu sắc trước bầu không khí nặng nề của xã hội TQ cuối đời Thanh, tác giả kêu gọi cải cách xã hội, cho rằng biến đổi càng lớn càng tốt, lớn đến như tiếng sấm mùa xuân kinh thiên động địa; tôi khuyên ông Trời hãy chấn phấn tinh thần, đem người tài cho chúng tôi.

[4] Vụ đàn áp cuộc biểu tình của sinh viên ngày 4/6/1989 tại quảng trường Thiên An Môn.

[5] 严复, 1854-1921, nhà tư tưởng khai sáng, nhà giáo dục và phiên dịch nổi tiếng đời Thanh.  Quốc quý tự chủ, dân quý tự do: Ý nói tự chủ là điều quý nhất đối với quốc gia, tự do là điều quý nhất đối với nhân dân.


 

Đào Ngọc Dung, bộ trưởng Lao Động, bị sờ gáy vì ‘dính’ AIC

March 8, 2024

Ba’o Nguoi-Viet

HÀ NỘI, Việt Nam (NV) – Ông Đào Ngọc Dung, 62 tuổi, bộ trưởng Lao Động, Thương Binh và Xã Hội Việt Nam, vừa bị Ủy Ban Kiểm Tra Trung Ương đề nghị kỷ luật vì có sai phạm trong vụ AIC.

Báo Tuổi Trẻ hôm 8 Tháng Ba dẫn thông cáo của cơ quan giám sát đảng viên nêu trên quy trách nhiệm cho ông Dung về việc “thiếu trách nhiệm, buông lỏng lãnh đạo, chỉ đạo để bộ vi phạm nghiêm trọng quy định của đảng trong thực hiện các gói thầu của công ty Tiến Bộ Quốc Tế (AIC) và các doanh nghiệp con của AIC.”

Ông Đào Ngọc Dung, bộ trưởng Lao Động, Thương Binh và Xã Hội Việt Nam. (Hình: Gia Hân/Tuổi Trẻ)

Công ty AIC thuộc sở hữu của bà Nguyễn Thị Thanh Nhàn, người bị tòa án kết án khiếm diện 30 năm tù trong lúc bà đang ở ngoại quốc và khước từ lời kêu gọi về đầu thú của Bộ Công An Việt Nam.

Thông cáo của Ủy Ban Kiểm Tra Trung Ương kết luận rằng những vi phạm của ông Dung “làm ảnh hưởng đến kết quả thực hiện chiến lược phát triển dạy nghề, gây hậu quả nghiêm trọng, khó khắc phục; nguy cơ thiệt hại, lãng phí rất lớn tiền, tài sản của nhà nước và nguồn nhân lực xã hội…”

Các báo ở Việt Nam dẫn nguyên văn thông cáo nêu trên mà không làm rõ chi tiết về các gói thầu của AIC với Bộ Lao Động, Thương Binh và Xã Hội Việt Nam, cũng như mối quan hệ của ông Dung với bà Nhàn, cũng như ông này được “lại quả” thế nào trong vụ việc.

Ông Đào Ngọc Dung được ghi nhận tại vị ghế bộ trưởng được gần tám năm, trước đó từng làm bí thư Tỉnh Ủy Yên Bái.

Việc bị quy kết dính vụ AIC là vụ bê bối thứ nhì của ông Dung.

Hồi năm 2006, báo Tuổi Trẻ đưa tin, tại buổi thi môn Hành Chính Công của kỳ tuyển nghiên cứu sinh trường Học Viện Hành Chính Quốc Gia, thí sinh Đào Ngọc Dung đã bị lập biên bản do “dùng giấy nháp không có chữ ký của giám thị.”

Trụ sở Bộ Lao Động, Thương Binh và Xã Hội Việt Nam. (Hình: Chính Phủ)

Ông Dung, khi đó đã là ủy viên trung ương đảng, đã phản ứng bằng cách không ký vào biển bản này vì “không đồng ý với mức xử lý theo quy định của pháp luật.”

Do vụ bê bối này mà ông Đào Ngọc Dung đã đảng khiển trách và phân công công tác khác.

Tuy vậy, Học Viện Hành Chính Quốc Gia sau đó phát đi thông báo khẳng định thí sinh Đào Ngọc Dung “không gian lận đem tài liệu, ‘phao’ vào phòng thi.” (N.H.K)


 

Bí Thư và Chủ Tịch tỉnh Vĩnh Phúc bị bắt thêm vào danh sách dài các Bí Thư, Chủ Tịch đi tù

Lời Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng: ” Chưa bao giờ nước ta được như ngày hôm nay”

  • Lực lượng Ủy Viên Trung Ương Đảng vào tù đông đảo nhất lịch sử Đảng
  • Ủy Viên Bộ Chính Trị cũng vào tù vì tham nhũng.
  • Bí Thư  và Chủ Tịch Tỉnh, Thành Phố ở trong tù đông không kém, Bến Tre, An Giang, Lào Kai, Phú Yên, Thanh Hóa, và mới nhất là Vĩnh Phúc

Theo thông tin từ Trung tướng Tô Ân Xô, người phát ngôn Bộ Công an, ngày 8/3, sau khi VKSND tối cao phê chuẩn các quyết định khởi tố bị can, bắt bị can để tạm giam và lệnh khám xét với 9 bị can, Cơ quan Cảnh sát điều tra Bộ Công an đã tổ chức thi hành theo đúng quy định pháp luật.

Trong số 9 bị can nêu trên, bà Hoàng Thị Thúy Lan, Bí thư Tỉnh ủy, Trưởng đoàn Đại biểu Quốc hội, Chủ tịch HĐND tỉnh Vĩnh Phúc và ông Lê Duy Thành, Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch UBND tỉnh Vĩnh Phúc bị khởi tố, bắt tạm giam về tội “Nhận hối lộ”, quy định tại khoản 4, Điều 354 Bộ luật Hình sự.

Như thông tin từ Bộ Công an, việc triển khai các quyết định và lệnh khám xét đối với các bị can Hoàng Thị Thúy Lan, Lê Duy Thành đã được thi hành theo đúng quy định pháp luật.

Trước đó, theo ghi nhận của PV VietNamNet, từ khoảng 12h – 14h50 chiều nay, rất đông các lực lượng, trong đó có cả cảnh sát giao thông đã lập rào chắn, tạm phong tỏa khu vực phố Chiền, nơi có nhà riêng của Bí thư Tỉnh ủy Vĩnh Phúc Hoàng Thị Thúy Lan.  

Cùng thời điểm, lực lượng công an cũng lập rào chắn, hạn chế đi vào khu vực đường Phạm Hồng Thái (TP Vĩnh Yên), nơi có nhà riêng của ông Lê Duy Thành, Chủ tịch UBND tỉnh Vĩnh Phúc.

Người dân nhận được thông báo di chuyển theo hướng đường khác, vì nơi đây đang có cơ quan chức năng thực thi công vụ. Nhiều CSGT ứng trực để hướng dẫn phương tiện qua lại.

W-b237-thu-tinh-uy-vinh-ph250c.jpg
CSGT lập rào chắn tại ngõ 1, phố Chiền (TP Vĩnh Yên) không cho người dân vào khu vực các lực lượng làm nhiệm vụ. Ảnh: V.Hậu
W-z5229064736935-7406d94df5f8e7d7ae82f80492b404d5-1.jpg
Người dân được tạm mời ra khỏi khu vực lực lượng chức năng làm nhiệm vụ. Ảnh: Nhị Tiến 
W-b237-thu-tinh-uy-2.jpg
Người dân tập trung đông ở phố Chiền. Ảnh: Nhị Tiến

ĐẾN MỨC TRÀN ĐẦY – Lm. Minh Anh, Tgp Huế

Lm. Minh Anh, Tgp Huế

“Chính nhờ Ta mà ngươi trổ sinh hoa trái”.

Kính thưa Anh Chị em,

“Sống là sống với, sống cùng, sống các mối tương quan!”. Thế mà, tương quan giữa người với Chúa, giữa người với người xem ra luôn nửa vời, đứt đoạn và thiếu cam kết. Vấn đề nằm ở phía con người! Lời Chúa hôm nay chỉ cho chúng ta con đường tình yêu, con đường Giêsu, con đường ngắn nhất để có thể hoàn thiện các mối tương quan ‘đến mức tràn đầy!’.

Bài đọc một nói đến một dân nửa vời, thiếu cam kết, đứt đoạn, nên đã gục ngã trong tội ác. Qua Hôsê, Thiên Chúa mời gọi Israel, “Hãy trở về với Chúa là Thiên Chúa ngươi!”; “Nhờ Ta mà ngươi trổ sinh hoa trái”, nghĩa là “Nhờ Ta, ngươi sẽ sống ‘đến mức tràn đầy!’”.

Với bài Tin Mừng, nhân một kinh sư hỏi đâu là giới răn trọng nhất, Chúa Giêsu chỉ ra con đường ngắn nhất, “Hãy yêu mến Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực!”. Tại sao phải yêu mến Chúa? Sự thật là, cách duy nhất để yêu người khác và ngay cả yêu chính mình, là chọn yêu mến Chúa với tất cả những gì chúng ta ‘có’, chúng ta ‘là!’. Ngài là nguồn cội và là cùng đích của mọi tình yêu. Ngài phải được yêu trên hết và trước hết vì Ngài là trọng tâm duy nhất của mọi tình yêu. Điều đáng kinh ngạc là khi càng chọn yêu Thiên Chúa, chúng ta càng nhận ra rằng, mọi tình yêu trong cuộc đời mình – nếu có – là tình yêu do chính Ngài tuôn đổ ‘đến mức tràn đầy’.

Trái lại, nếu tìm cách chia cắt tình yêu, yêu nửa vời, đứt đoạn và thiếu cam kết để chỉ dâng cho Chúa một phần trái tim, một phần linh hồn, một phần trí khôn, một phần sức lực, thì tình yêu của chúng ta không thể lớn lên ‘đến mức tràn đầy’. Hạn chế khả năng yêu mến Chúa, con người rơi vào ích kỷ! Đây là lý do tại sao Chúa Giêsu gọi đây là giới răn trọng nhất; bởi lẽ, tất cả các giới răn khác bao hàm trong giới răn này. Giới răn trọng nhất định hướng và mời gọi các giới răn khác. Thiên Chúa là suối nguồn tình yêu, chân trời tình yêu! Đóng cửa và lấy đi chìa khoá của tình yêu, con người không bao giờ đạt đến sự cứu rỗi; và như thế, tình yêu của chúng ta đối với Chúa, với nhau, sẽ luôn nông cạn, hời hợt.

A.W. Tozer viết, “Kitô hữu xét cho cùng, là một con người kỳ cục nhưng không kém độc đáo! Họ cảm nhận một tình yêu ‘đến mức tràn đầy’ dành cho một Đấng mình chưa từng gặp; trò chuyện hằng ngày với Đấng mình chưa từng thấy. Họ bỏ mình để có một cuộc sống sung mãn; mạnh mẽ khi nhận mình hèn yếu; giàu có khi biết mình nghèo; hạnh phúc khi biết mình tồi tệ; và chết đi để sống một cuộc sống tràn đầy hôm nay và mai ngày!”.

Anh Chị em,

“Nhờ Ta mà ngươi trổ sinh hoa trái”. Thập giá Chúa Kitô cũng là một cái gì “kỳ cục nhưng không kém độc đáo!”. Thập giá là biểu tượng của tình yêu, hoa trái của tình yêu, yêu đến cùng. Chúa Giêsu đã yêu Chúa Cha đến nỗi Ngài chỉ có một giấc mơ duy nhất, làm tất cả để vui lòng Cha; Ngài yêu con người đến nỗi chấp nhận hiến dâng mạng sống để cứu nó. Chính nhờ tình yêu ‘đến mức tràn đầy’ Ngài dành cho Cha; từ đó, cho con người, mà “chúng ta nhận được hết ơn này đến ơn khác”. Đúng, chỉ trong Chúa Kitô, bạn và tôi mới trổ sinh hoa trái trong các mối tương quan – với Chúa với người – ‘đến mức tràn đầy!’.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, đừng để con yêu Chúa nửa vời, đứt đoạn và thiếu cam kết! Dạy con yêu như Chúa yêu; từ đó, con lớn lên trong tình yêu Chúa, yêu người, đến mức sung mãn!”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp Huế)

From: KimBang Nguyen


 

Những câu hỏi nhức nhối từ vụ Vạn Thịnh Phát

 Báo Tiếng Dân

Võ Xuân Sơn

7-3-2024

Khi vụ Vạn Thịnh Phát vỡ lở, những thông tin mà báo chí đăng về qui mô vụ án làm cho hầu hết chúng ta kinh ngạc. Một câu hỏi mà nhiều người trong chúng ta đều đặt ra: Tại sao bà Trương Mỹ Lan đã có nhiều tiền, nhiều tài sản như vậy, mà vẫn tìm cách lừa đảo để cướp thêm tiền?

Đây thật sự là một câu hỏi mà không có mấy người có thể trả lời được. Cả nước Việt Nam này, có lẽ chỉ có vài người có số tài sản, tiền bạc, đủ để hiểu, tại sao bà Trương Mỹ Lan lại làm như vậy. Có lẽ hầu hết chúng ta, ngay cả khi mơ ước, cũng không dám mơ ước đến số tài sản, số tiền lớn như vậy. Ngay cả những câu chuyện thần thoại phương Đông như Alibaba và 40 tên cướp, thậm chí là cả ông Thần đèn, cũng không có số tài sản lớn như vậy.

Giống như mọi người, tôi không thể trả lời được câu hỏi đó. Nhưng tôi nhớ đến câu chuyện “Ông lão đánh cá và con cá vàng”. Bà vợ của ông lão muốn có một tòa lâu đài. Khi có tòa lâu đài, bà lại muốn làm Nhất phẩm Phu nhân. Rồi khi là Nhất phẩm Phu nhân, bà lại muốn làm Nữ Hoàng. Khi đã là Nữ Hoàng, bà lại muốn làm Long Vương, để trực tiếp sai khiến cá vàng… Lòng tham của con người ta không có điểm dừng. Có lẽ vậy.

Không lẽ chỉ một mình bà Trương Mỹ Lan có lòng tham không có điểm dừng. Tôi nghĩ số này thì nhiều, nhiều lắm. Nhưng tại sao chỉ có bà Trương Mỹ Lan (và có thể một số kẻ khác mà chúng ta chưa biết, nhưng chắc chắn là không nhiều), là đạt được đến mức độ khủng như chúng ta đã biết. Có lẽ là hầu hết mọi người đều bị nỗi sợ hãi không chế. Họ sợ pháp luật trừng trị, họ sợ quả báo…

Nhưng nếu chỉ có nỗi sợ không thôi thì có đủ khống chế những người có lòng tham không có điểm dừng không? Có lẽ chỗ này, bà Trương Mỹ Lan có điều kiện hơn nhiều kẻ khác. Đó là bà dễ dàng thực hiện các hành vi trái pháp luật, trái lương tâm, độc ác… để thâu tóm tiền bạc. Có thể cơ quan điều tra không biết, hầu hết chúng ta không biết, nhưng hàng chục ngàn nhân viên trong hệ sinh thái Vạn Thịnh Phát biết, tại sao không có ai tố cáo?

Thực ra chúng ta không biết có ai tố cáo không. Nhưng chỉ thấy ngay sau khi bà Trương Mỹ Lan bị bắt, có mấy cái chết đột tử xảy ra ở những người nắm được các điểm mấu chốt của vụ án. Biết đâu trước đây cũng đã có người tố cáo, nhưng đã bị bịt đầu mối. Cái này chỉ là phỏng đoán thôi, nhưng nếu nó là thật, thì đây là một băng nhóm tội phạm hung ác và tàn nhẫn.

Nhưng nếu chỉ hung ác và tàn nhẫn, thì bà Trương Mỹ Lan và các đồng phạm có thể dễ dàng thu tóm tiền bạc được như vậy không? Câu trả lời chắc chắn là không. Dù có hung ác đến đâu thì bà Trương Mỹ Lan và đồng phạm cũng chưa thể là đối thủ của hệ thống chuyên chính này. Vậy thì tại sao bà Trương Mỹ Lan lại có thể thâu tóm tiền bạc trái pháp luật suốt bao nhiêu năm trời, công khai trước bàn dân thiên hạ?

Đó là do cái định chế kiểm soát bà Trương Mỹ Lan và đồng phạm đã thoái hóa, thối nát. Nguyên một đoàn thanh tra gồm các thành viên Cơ quan Thanh tra giám sát Ngân hàng Nhà nước, các thành viên của Kiểm toán Nhà nước, các thành viên của Thanh tra Chính phủ, các thành viên của Ủy ban Giám sát tài chính quốc gia, và hàng loạt cán bộ cao cấp của Ngân hàng Nhà nước đều nhận hối lộ, và đều đồng ý ký vô một biên bản thanh tra, bao che cho sai phạm của bà Trương Mỹ Lan và ngân hàng SCB.

Từ khi công cuộc “đốt lò” được triển khai, chúng ta đã đi từ ngạc nhiên này đến kinh ngạc khác. Không biết tới đây còn chuyện gì kinh thiên động địa hơn nữa không? Thực ra, nếu chiếu theo TTX vỉa hè, thì bà Trương Mỹ Lan chưa phải là người giàu nhất. Thậm chí người ta còn đồn từ trước khi bà mua cái tài sản XYZ nào đó, rằng bà sẽ mua nó dưới tên bà, nhưng là mua cho ai đó khác, giàu hơn bả.

Mà người ta còn đồn, rằng cái kẻ giàu hơn bà Trương Mỹ Lan, được bả đứng tên mua cho các tài sản XYZ nào đó, cũng vẫn chưa có phải người giàu nhất. Thôi, đó là những chuyện người ta đồn đại. Chúng ta còn chưa đủ sức hiểu những gì đã được công bố, thì làm sao mà hiểu những thứ người ta đồn đại.

Xem them:

Hình ảnh mới nhất những khu ‘đất vàng’ Vạn Thịnh Phát thâu tóm

Kế hoạch hiện đại hoá quân đội của Việt Nam đang “dậm chân tại chỗ”

Kế hoạch hiện đại hoá quân đội của Việt Nam đang “dậm chân tại chỗ”Ảnh minh họa: Thủ tướng Phạm Minh Chính và các quan chức tham dự triển lãm quốc phòng Vietnam 2022 International Defense Expo ở Hà Nội hôm 8/12/2022.

ảnh của AFP

 

Chi tiêu quốc phòng của Việt Nam được dự kiến là đạt mức hơn 10 tỷ USD vào năm 2029, theo tính toán của Global Data, một công ty chuyên về thống kê và phân tích dữ liệu.

Thông tin trên đã thu hút giới quan sát quân sự ở khu vực, đặc biệt trong bối cảnh căng thẳng trên khu vực Biển Đông, điển hình là việc Trung Quốc quân sự hoá hàng loạt các thực thể mà họ chiếm đóng. Hành động của Trung Quốc gây nên lo ngại về một cuộc chạy đua vũ trang cấp khu vực.

Tuy nhiên, không phải đến bây giờ Việt Nam mới đẩy mạnh chi tiêu cho quân đội, trên thực tế quá trình hiện đại quá đã được bắt đầu ít nhất trong hai thập kỉ gần đây.

Dậm chân tại chỗ

Mở đầu bằng bản hợp đồng mua hai chiến hạm lớp Gepard của Nga hồi năm 2006, và theo sau là bản hợp đồng bom tấn mua 6 tàu ngầm lớp kilo của Nga hồi năm 2009, Việt Nam sau đó thực hiện thêm các thương vụ mua máy bay chiến đấu, tàu chiến, tên lửa phòng không, và xe tăng.

Với mục tiêu đưa hai quân chủng Hải quân và Phòng không- Không quân “tiến thẳng lên hiện đại”, có thời điểm, quốc gia Đông Nam Á này trở thành tâm điểm của thị trường buôn bán vũ khí thế giới, khi liên tiếp thực hiện các thương vụ lớn.

Những tưởng chương trình hiện đại hoá quân đội của Việt Nam sẽ tiếp tục duy trì  đà tiến, tuy nhiên, kể từ năm 2016, thời điểm Việt Nam ký mua 64 xe tăng T-90 từ Nga, tình hình trở nên im ắng một cách đột ngột.

Ở chiều ngược lại, Trung Quốc – nước được cho là mối đe doạ số một đối với an ninh của Việt Nam, vẫn không ngừng xuất xưởng các thế hệ vũ khí mới trên quy mô lớn. Chỉ riêng trong năm 2021, Hải quân Trung Quốc đã bổ sung vào biên chế thêm 28 tàu chiến.

Điều này dấy lên lo ngại Trung Quốc sẽ ngày càng bỏ xa Việt Nam về sức mạnh quốc phòng, khiến cho mọi nỗ lực gây dựng năng lực răn đe của Việt Nam trở nên vô nghĩa.

Câu hỏi đặt ra là điều gì đã xảy ra đối với tham vọng hiện đại hoá lực lượng vũ trang của Việt Nam?

Trao đổi với Đài Á châu Tự do, giáo sư Carlyle Thayer, chuyên gia nghiên cứu trong lĩnh vực quân sự, cho biết nhận định của ông:

“Ngay sau kỳ Đại hội Đảng gần nhất thì Việt Nam đã công bố một chương trình hiện đại hoá quân sự tầm cỡ, với tham vọng hiện đại hoá từ gốc tới ngọn lực lượng quân đội, và thứ tự ưu tiên rõ ràng. Nhưng kế hoạch này hiện giờ đang bị khựng lại. Thay vì tiến lên phía trước thì hiện đang dậm chân tại chỗ.”

Chính trị nội bộ

Trong bài viết được đăng trang web của Viện Nghiên cứu Đông Nam Á, ông Nguyễn Thế Phương, nghiên cứu sinh tiến sĩ chuyên ngành an ninh hàng hải tại trường đại học New South Wales, lý giải rằng sự ra đi của nguyên thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng là yếu tố chính trị nội bộ ảnh hưởng tới kế hoạch mua sắm quốc phòng của Việt Nam.

Hầu hết các hợp đồng mua vũ khí đáng chú ý nhất của Việt Nam trong hai thập niên vừa qua đều được xúc tiến khi ông Nguyễn Tấn Dũng còn đương chức. Và kể từ khi ông này về hưu vào năm 2016, mà theo đồn đoán là bị hạ bệ bởi đương kim Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, thì hoạt động mua sắm khí tài cũng chùng xuống.

Hàng loạt cuộc điều tra tham nhũng nhắm vào Bộ Quốc phòng cũng xảy ra sau đó, dẫn đến việc hàng chục sĩ quan cấp tướng bị kỷ luật hoặc truy tố.

Một sự thay đổi đáng kể nữa theo ông Nguyễn Thế Phương, đó là nhận thức của giới lãnh đạo Việt Nam về tình hình an ninh khu vực. Trao đổi với phỏng viên đài RFA, ông nói thêm:

“Việt Nam có vẻ như khá tự tin về việc có thể quản lý tranh chấp với Trung Quốc, bởi vì kịch bản xấu nhất mà lãnh đạo quân sự sợ nhất là một cuộc xung đột hạn chế ở Biển Đông, chứ không phải một cuộc xung đột lớn. Và bản thân Việt Nam cũng nghĩ rằng khả năng (xảy ra xung đột) là không cao.”

Sở dĩ giới lãnh đạo Việt Nam đánh cược rằng xung đột với Trung Quốc sẽ không xảy ra, theo ông Phương còn cho biết, là vì đảng Cộng sản Việt Nam tự tin có thể dùng kênh chính trị và ngoại giao để giải quyết tranh chấp với nước đồng chí phía bắc, chứ không cần dùng đến giải pháp quân sự.

Do vậy việc đầu tư quá nhiều vào quân đội là không cấp thiết.

“Với một cái cách đối xử với Trung Quốc và với vấn đề tranh chấp, thông qua việc sử dụng ngoại giao và kênh Đảng, với một sự tự tin như vậy, thì rõ ràng việc hiện đại hoá có gặp một số vấn đề thì vẫn chấp nhận được với Việt Nam ở thời điểm hiện tại.”

Khi đương chức, thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng là người đã có những phát ngôn cương quyết về vấn đề Biển Đông, điển hình với câu nói “không đánh đổi chủ quyền lấy tình hữu nghị viển vông”. Nhưng kể từ khi ông Dũng xuống, thì những lãnh đạo kế nhiệm ông đã tỏ ra thận trọng hơn.

vu khi b.jpeg
Gian hàng của Công ty vũ khí Nga Rosoboronexport tại Triển lãm Quốc phòng Quốc tế Việt Nam 2022, tại Hà Nội,, ngày 8/12/2023 (ảnh minh họa). Reuters

Tình hình thế giới thay đổi

Do phụ thuộc hoàn toàn vào vũ khí và học thuyết quân sự của Liên Xô trong thời kỳ chiến tranh, quân đội Việt Nam sau này dựa chủ yếu vào Nga, nước thừa hưởng nền công nghiệp quốc phòng của Liên Xô, để tiến hành hiện đại hoá.

Theo thống kê của Viện Nghiên cứu Hoà bình Stockholm thì hơn 80% số vũ khí mà Việt Nam mua trong khoảng từ năm 1995 đến 2021 là từ Nga.

Nguồn cung vũ khí từ Nga bị gián đoạn kể từ khi nước này tiến hành chiếm và sáp nhập bán đảo Crimea của Ukraine vào năm 2014, dẫn đến bị các nước Phương Tây áp đặt hàng loạt lệnh trừng phạt.

Mọi chuyện trở nên trầm trọng hơn khi Nga tiến hành cuộc xâm lược toàn diện vào Ukraine ngày 24 tháng 2 năm 2022. Khiến phương tây triển khai các đòn cấm vận một cách khắc nghiệt hơn.

Không chỉ cấm cửa các công ty Nga khỏi hệ thống thanh toán và các định chế tài chính toàn cầu, phương tây còn đe doạ trừng phạt bất cứ công ty nước ngoài nào làm ăn với Nga. Việc này, theo giới quan sát là đã khiến Việt Nam e ngại.

Cuộc chiến mà Nga gây ra ở Ukraine còn tạo ảnh hưởng sâu rộng hơn đến giới lãnh đạo quân sự Việt Nam, thông qua sự thể hiện của vũ khí Nga trên chiến trường, theo giáo sư Carlyle Thayer:

Trước khi chiến tranh nổ ra thì Việt Nam đã ký hợp đồng mua xe tăng chiến đấu chủ lực T-90 từ Nga. Sau đó, chúng ta chứng kiến cảnh những cỗ xe tăng này bị bắn nổ tung bởi vũ khí chống tăng của Mỹ và đồng minh, ở thời điểm đầu cuộc chiến.

Tiếp theo chúng ta được chứng kiến việc sử dụng drone (phương tiện bay điều khiển từ xa). Rồi tự dưng chúng ta thấy ở ngoài biển thì Ukraine sử dụng xuống cảm tử không người lái đánh chìm tàu chiến Nga.

Quay trở lại với Việt Nam, tôi nghĩ lúc này họ đã nhận ra vấn đề của vũ khí Nga, và hiện đang phải tiến hành xem xét lại nhu cầu.”

vu khi a.jpegLính Việt Nam đứng cạnh các tên lửa được trưng bày tại Triển lãm Quốc phòng Quốc tế 2022 ở Hà Nội hôm 8/12/2022. AFP

Nguy cơ từ việc chậm trễ hiện đại hoá 

Với những tác động từ tình hình thế giới, Việt Nam đang đối diện với việc phải thay đổi chiến lược hiện đại hoá để phù hợp hơn với hoàn cảnh và thực tế mới.

Thế nhưng, theo giáo sư Carlyle Thayer thì vẫn chưa có dấu hiệu gì cho thấy Việt Nam đã tìm ra lời giải:

“Ở thời điểm hiện tại chúng ta không biết là chiến lược mới sẽ trông thế nào và khi nào các quyết định sẽ được đưa ra.”

Và sự dậm chân tại chỗ như hiện nay, theo ông Nguyễn Thế Phương, sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến khả năng bảo vệ lợi ích của Việt Nam nếu tình huống xấu

Theo Hãng Thông Tấn Reuters

Việt Nam đang chú ý đến một sự thay đổi lớn về quốc phòng khi nước này tìm cách giảm sự phụ thuộc vào vũ khí của Nga và thúc đẩy xuất khẩu vũ khí sản xuất trong nước, họ muốn bán vũ khí cho những người mua tiềm năng ở Châu Phi, Châu Á – và có khả năng thậm chí cả Matxcơva nữa.

 Việt Nam đang chuyển sang mua vũ khí từ các nhà cung cấp từ châu Âu, Đông Á, Ấn Độ, Israel và Mỹ, các nhà ngoại giao, quan chức và nhà phân tích cho biết. Các nhà phân tích và quan chức cho biết nước này cũng đã thúc đẩy ngành công nghiệp quân sự trong nước với sự hỗ trợ từ Israel và các đối tác khác, đồng thời hy vọng xuất khẩu vũ khí.

Xu hướng giảm nhập khẩu vũ khí của Nga, vốn có giá trị lớn, đã bị giảm xuống chỉ còn 72 triệu USD vào năm ngoái (30% tổng lượng nhập khẩu) từ mức cao nhất năm 2014 là 1 tỷ USD, mà năm đó chiếm gần 90% tổng giá trị, theo SIPRI.

Theo Tạp Chí Quốc Phòng

Hội chợ Triển lãm Quốc phòng Quốc tế Việt Nam, hay VIDEX, diễn ra từ ngày 8 đến ngày 10 tháng 12, 2022 tại Sân bay Gia Lâm ở thủ đô Hà Nội của Việt Nam. Khoảng 170 tổ chức đã tham gia sự kiện này, bao gồm nhà cung cấp dịch vụ viễn thông nhà nước Viettel và chuyên gia công nghệ không người lái RT Robotics có trụ sở tại Hoa Kỳ.

Viettel, do Bộ Quốc phòng Việt Nam điều hành, đã trưng bày nhiều loại vũ khí hạng nhẹ tại gian hàng trong nhà; Màn trình diễn ngoài trời của nó bao gồm một số radar phòng không gắn trên xe cũng như các hệ thống liên lạc và tác chiến điện tử. Chúng bao gồm các radar phòng không băng tần 3D S tầm ngắn và tầm trung và dòng hệ thống tác chiến điện tử AJAS-1000.

Mong muốn của Việt Nam thay thế các thiết bị cũ do Nga chế tạo cũng được thể hiện rõ, với các hệ thống thời Chiến tranh Lạnh – như xe trinh sát BRDM-2 và tên lửa phòng thủ bờ biển 4K44 Redut-M – hiện diện tại các cuộc triển lãm ngoài trời.

Cùng tham gia với các hệ thống vũ khí hiện đại, không phải của Nga được Việt Nam mua trong những năm gần đây, bao gồm máy bay vận tải chiến thuật Airbus C295 của châu Âu cũng như các phiên bản tầm ngắn và tầm trung của hệ thống phòng không Spyder do công ty Rafael Advanced Defense Systems của Israel sản xuất.

Rafael : SPYDER™ FAMILY


 

BỨC THƯ MẸ GỬI CON TRAI GÂY BÃO CỘNG ĐỒNG

– Hiền Phạm post –

Con trai à,

Giờ này vợ chồng con và các cháu đã ngủ chưa. 10h đêm mẹ mới dọn hàng cá để về, trời mưa nên cá vẫn ế rất nhiều. Trên đường về nhà, mắt mờ nên mẹ chẳng nhìn rõ đường nữa, không may va phải một nhóm thanh niên, khiến quần áo của họ bị thùng cá đổ lên. Mẹ đã vội vàng giải thích và xin lỗi, nhưng nhóm người đó chỉ nhìn mẹ rồi nói:

”Chó thật, bà đi đứng thế à?. Biết bộ quần áo này đắt tiền thế nào không? Già rồi thì ở nhà đi, ra đường làm gì gây phiền phức cho người khác.”

Với người bình thường khi nghe câu đó chắc hẳn họ phải tức giận lắm, nhưng mẹ lại thấy bình thản, thậm chí là vui lắm. Lâu nay mẹ đều muốn làm một con chó, nhưng là con chó mà vợ chồng con vẫn đang nuôi ấy.

Con trai biết không, bố mất sớm, một mình mẹ với gánh cá cũng đã hơn 35 năm nuôi con khôn lớn. Ra trường con tìm được công việc ổn định, cưới vợ đẹp, có nhà, có xe. Mẹ mừng lắm, cuối cùng con trai mẹ cũng bằng người ta.

Nhưng căn nhà của con lộng lẫy quá, khác xa căn nhà cấp 4 mẹ đang ở, nắng thì oi bức mà mưa thì mẹ phải mang hết nồi niêu xoong chảo ra để hứng nước.

Mẹ nhớ con vô cùng, mỗi lần con gọi điện về mẹ vui mừng lắm. Còn bảo con có thể về đón mẹ lên chơi nhà con, thăm vợ chồng con và 2 đứa cháu nội được không.

Mẹ có thể nghe thấy tiếng thở dài, khó chịu và có chút hậm hực của con:

Mẹ lên đây làm gì, con bận bao nhiêu việc đâu thể về chăm sóc cho mẹ được. Hơn nữa giá xăng thì đang lên, con về chở mẹ lên thì mua được 5 kg thịt cho con Mực ăn rồi. Mẹ nhớ đúng không? Con mực là con chó mà con được đối tác tặng ấy, giá của nó là 40 triệu đấy.

Làm sao mà mẹ không nhớ được, hồi nhỏ con cũng rất thích nuôi chó. Nhưng lúc đó nhà mình nghèo, tiền ăn tiền học cho con mẹ còn phải chắt góp từng đồng thì sao đủ gạo mà nuôi chó được. Mẹ định bảo thôi không chở mẹ lên thành phố thì 1 tuần con gọi mẹ 2 lần cũng được. Nhưng chưa kịp nói thì đã thấy con Mực sủa lên đòi ăn thì con đã tắt máy để chăm sóc cho con chó rồi.

Từ cuộc điện thoại đó đến nay cũng 3 tháng rồi con chưa gọi cho mẹ lần nào. Bệnh đau khớp chân của mẹ lúc nào cũng tái phát, mẹ đau chẳng thể ngủ nổi. Nhưng mẹ không dám gọi làm phiền con.

Chờ mãi không thấy con gọi, cũng chẳng thấy con đưa vợ con về thăm mẹ. Thế là có đứa cháu ông Tư hàng xóm nhà mình lái xe lên thành phố nên mẹ nhờ chở mẹ đến thăm con, tạo bất ngờ cho con luôn.

Mẹ mang cá, rau, thịt mua ở quê mang lên cho các con ăn cho đảm bảo sức khỏe. Nhưng vừa thấy mẹ ở cổng tay xách nách mang con đã hậm hực:

“Mẹ lên sao không báo trước, mà mẹ ăn mặc kiểu gì thế? Trông quê không chịu được. Mấy mớ rau cá này mang lên làm gì, ai ăn đâu”.

Lúc đầu mẹ chỉ nghĩ con sợ mẹ không có tiền nên bảo vậy. Nhưng không, lúc nào con mang toàn đồ thức ăn mẹ mang lên ném vào thùng rác.

Đến giờ cơm trưa mẹ thấy con mang thịt bò, hải sản loại tốt mua ở siêu thị lớn để cho con Mực ăn. Cách con chăm sóc con chó khiến mẹ chạnh lòng. Con ơi, có thể nào con cũng chăm sóc cho mẹ giống như con chó của con được không. Mẹ định thốt lên như thế nhưng sợ con giận nên lại không dám nói gì.

Chiều đến con lại mang con Mực đi tắm, đi dạo rồi ôm nó vuốt ve. Nhà của con Mực cũng đẹp, còn có tấm nệm bằng lông cừu mà con khoe là mua tận bên nước ngoài lần đi công tác. Nệm của nó còn ấm và đắt hơn cả chiếc nệm mẹ nằm 10 năm nay nữa. Mẹ chợt nhận ra đã lâu con không ôm mẹ, những chuyện con kể với con Mực còn nhiều hơn với mẹ.

Lúc mẹ đói lả người, tìm đồ ăn nhưng đồ đạc nhà con toàn thứ hiện đại mẹ dùng chẳng quen. Tới lúc con Mực sủa lên vì đói thì mẹ thấy con trộn thứ cơm gì đó thơm ngon lắm, nhìn hấp dẫn vô cùng. Lúc này mẹ bèn xin con một bát thì con quát lên:

”Đến cơm của chó mẹ cũng đòi ăn sao? Nhà con đầy thứ ăn đó, mẹ không tự lấy được à?”

Con đi làm về câu đầu tiên không chào mẹ mà chạy đến ôm lấy con Mực mà vuốt ve nó, nựng yêu nó. Nó có bị ốm thì con cho đi bác sỹ, chăm sóc hết sức chu đáo. Nhưng tới lúc mẹ ốm thì con chẳng hỏi thăm, còn quát:

“Thôi mẹ về đi, lên đây không hợp khí hậu nên mới ốm. Vợ chồng con đi làm cả ngày, mẹ mà để lây bệnh sang chúng con thì làm sao có tiền đây. Thế này thì con Mực nó đói là chết con đấy”

Đêm đó mẹ nghĩ mẹ chẳng thể chịu đựng được nữa. Cách con quan tâm con chó, mẹ thấy sinh mạng của nó còn quan trọng hơn mẹ nữa.

Con trai à, nếu có kiếp sau, để mẹ được đầu thai làm con chó mà con nuôi được không?.

Câu nói này khiến tất cả những đứa con phải suy ngẫm: Kiếp sau mẹ muốn làm con chó của con có được không?. Bởi lẽ con chó còn được quan tâm, yêu thương hơn cả cha mẹ mình.

Cha mẹ nuôi con bằng trời bằng biển. Vậy mà có những người con coi trọng con chó hơn cả cha mẹ của mình. Đây là một trong số câu chuyện có thật ở ngoài xã hội kia. Cũng là câu chuyện tiêu biểu về tình thân trong gia đình.

———-

# Trithucuocsong. com

DieuLe_Sưu tầm


 

Hỏa Tiễn Siêu Vượt Thanh AGM-183A trang bị cho cuộc huấn luyện ở căn cứ Anderson

Hỏa Tiễn Siêu Vượt Thanh AGM-183A
Một "pháo đài bay" B-52H Stratofortress của Mỹ trang bị 4 tên lửa siêu thanh AGM-183A ARRW dưới cánh
Gắn Hỏa Tiễn AGM-183A vào cánh B52 H
Huấn luyện làm quen với tên lửa siêu thanh tại căn cứ không quân Andersen vào ngày 11/11/2023
AGM-183A bay nhanh gấp 20 lần âm thanh
Hỏa tiễn AGM-183A ARRW có cấu tạo gồm đầu đạn dạng tàu lượn một cách linh hoạt với động cơ tên lửa đẩy công suất lớn.
Vũ Khí có thể trấn an các nước Đồng Minh của Mỹ
Hỏa Tiễn AGM-183A có tính năng vượt xa so với loại Kh-47M2 Kinzhal của Nga.

Tổng hợp Báo Chí Mỹ

Hình ảnh do không quân Mỹ đăng tải cho thấy các đội bay B-52 tại căn cứ không quân Andersen đang huấn luyện làm quen với tên lửa siêu vượt âm AGM-183A vào ngày 27-2. Tên lửa AGM-183A được gắn bên dưới cánh máy bay ném bom B-52H.

ARRW chủ yếu bao gồm một tên lửa đẩy cỡ lớn và phương tiện lượn siêu vượt âm. Sau khi tên lửa đẩy đầu đạn đến độ cao và tốc độ tối ưu, động cơ và phần mũi sẽ rơi ra, để lộ phương tiện lượn siêu vượt âm. Phương tiện này sẽ đi theo đường bay tương đối thấp đến mục tiêu ở tốc độ siêu vượt âm, tốc độ trên Mach 5 (gấp hơn 5 lần tốc độ âm thanh).

 

Tên lửa AGM-183A ARRW lắp đặt dưới máy bay B-52 tại đảo Guam. Ảnh: Không quân Mỹ

Tên lửa AGM-183A ARRW lắp đặt dưới máy bay B-52 tại đảo Guam. Ảnh: Không quân Mỹ

Cho đến nay, lực lượng không quân Mỹ không xác nhận hoặc phủ nhận có kế hoạch phóng ARRW từ đảo Guam. Tuy nhiên, có những dấu hiệu cho thấy Mỹ sắp thử nghiệm loại tên lửa siêu vượt âm. Mỗi oanh tạc cơ B-52 có thể mang tối đa 4 tên lửa ARRW.

Lực lượng không quân Mỹ tuyên bố mục đích đưa tên lửa ARRW tới đảo Guam là để đào tạo làm quen vũ khí.

Không quân Mỹ tuyên bố mục đích đưa tên lửa ARRW tới đảo Guam là để đào tạo làm quen vũ khí. Ảnh: Không quân Mỹ

Không quân Mỹ tuyên bố mục đích đưa tên lửa ARRW tới đảo Guam

Phim Cảm Tình Viên (the Sympathizer), hãng HBO sắp ra mắt

Theo BBC tiếng Việt  

Dựa trên cuốn tiểu thuyết cùng tên đoạt giải Pulitzer của Việt Thanh Nguyễn, The Sympathizer là một bộ phim gián điệp kinh dị và châm biếm đa văn hóa kể về cuộc đấu tranh của một điệp viên cộng sản nửa Pháp, nửa Việt Nam trong những ngày cuối cùng của Chiến tranh Việt Nam và ông ta. dẫn đến việc bị lưu đày ở Hoa Kỳ. 

 

Park Chan-wook và Don McKellar đồng điều hành và điều hành sản xuất. Dàn diễn viên do Hoa Xuân Đức, Fred Nguyên Khan, Toàn Lê, Nguyễn Cao Kỳ Duyên, Sandra Oh dẫn dắt; và ngôi sao kiêm điều hành sản xuất Robert Downey Jr., đóng nhiều vai trong phim.

The Sympathizer: Tiểu thuyết về Chiến tranh Việt Nam có được chuyển thể ‘táo bạo’ dưới bàn tay HBO?

Tác giả Nguyễn Thanh Việt đã đoạt giải thưởng cao quý Pulitzer của Mỹ với cuốn tiểu thuyết The Sympathizer

NGUỒN HÌNH ẢNH,GETTY IMAGES

Chụp lại hình ảnh,

Tác giả Nguyễn Thanh Việt đã đoạt giải thưởng cao quý Pulitzer của Mỹ với cuốn tiểu thuyết The Sympathizer

Báo chí Mỹ vừa đồng loạt đưa tin nhân sự kiện hãng HBO ấn định thời điểm ra mắt của dự án phim The Sympathizer (Cảm tình viên), được chuyển thể từ tác phẩm văn chương cùng tên đoạt giải Pulitzer của tác giả Nguyễn Thanh Việt.

Series gồm bảy tập với sự tham gia của ngôi sao hạng A Robert Downey Jr. và hàng loạt diễn viên gốc Việt như Kiều Chinh, Nguyễn Cao Kỳ Duyên, Hoa Xuande, Fred Nguyen Khan, Toan Le, Vy Le, Alan Tong… sẽ lên sóng màn ảnh nhỏ vào 21 giờ ngày 14/4/2024 (giờ Mỹ, tức buổi trưa ngày 15/4 tại Việt Nam).

Dự án cũng trở thành tâm điểm chú ý khi được nhào nặn dưới bàn tay của đạo diễn bậc thầy người Hàn Quốc Park Chan-wook, người đứng sau nhiều tác phẩm điện ảnh nổi tiếng như Oldboy (Báo thù), The Handmaiden (Người hầu gái)…, theo Hollywood Reporter.

Vai Đại úy – nhân vật chính của loạt phim – sẽ do diễn viên người Úc gốc Việt Hoa Xuande thủ vai. Anh là một cái tên mới và chưa được biết đến nhiều tại Hollywood với chỉ một vài vai phụ trong các dự án nhỏ.

Cuốn tiểu thuyết ‘không thể làm thành phim’

Dù được giới thiệu là tác phẩm văn chương hư cấu nhưng The Sympathizer lấy chất liệu từ cuộc chiến tranh Việt Nam vào những năm 1970. Đây là thời điểm lịch sử hết sức nhạy cảm mà có lẽ, chỉ những nhà sản xuất tâm huyết mới đủ dũng khí chạm vào, theo tạp chí L’Officiel.

Bộ phim kể về cuộc đời thăng trầm của một điệp viên hai mang mang hai dòng máu Pháp-Việt, từ một đứa con lai bị ghét bỏ, trở thành đại úy quân đội, điệp viên hai mang, cuối cùng làm một thuyền nhân mang theo trọng trách của một cảm tình viên.

Một số người đánh giá cuốn thiểu thuyết này là “không thể làm thành phim được”.

Vanity Fair dẫn lời Don McKellar, đạo diễn thứ hai của bộ phim, cho biết tiểu thuyết của nhà văn gốc Việt “giận dữ, châm biếm, rất thông minh và cũng không ngại giải quyết các chủ đề lớn – nhưng cũng vui tươi một cách đáng ngạc nhiên khi nói đến những chủ đề nặng nề”, đồng thời tiết lộ bộ phim bám khá chặt chẽ vào cấu trúc của cuốn sách.

“Chiến lược chính của chúng tôi là tái tạo giọng điệu của cuốn sách qua ngôn ngữ điện ảnh bằng cách đưa Park Chan-wook vào, bởi vì ông ấy thực sự đồng cảm với điều đó. Đấy là lợi thế của ông ấy. Ông ấy có thể châm biếm, có thể tàn bạo, nhưng ông ấy cũng có sự vui tươi và hóm hỉnh này.”

Nhà làm phim Hàn Quốc Park Chan-wook đảm nhiệm vị trí đạo diễn cho 3 tập đầu của series phim

NGUỒN HÌNH ẢNH,GETTY IMAGES

Chụp lại hình ảnh,

Nhà làm phim Hàn Quốc Park Chan-wook đảm nhiệm vị trí đạo diễn cho 3 tập đầu của series phim

Phim về Việt Nam nhưng không được quay ở Việt Nam

Khi thông tin The Sympathizer được chuyển thể lên màn ảnh được công bố vào tháng 7/2021, nhiều khán giả đã mong chờ những khía cạnh đời sống – văn hóa Việt Nam, cuộc sống người Việt tại Mỹ sẽ có cơ hội được tái hiện bởi các nhà sản xuất uy tín như HBO, A24, Rhombus Media kết hợp với Cinetic Media và Moho Film.

Điều đáng chú ý là khâu sản xuất của bộ phim không hề dễ dàng, đặc biệt khi có nội dung về Việt Nam nhưng lại được bấm máy tại Mỹ và Thái Lan trong khoảng thời gian từ tháng 9/2022 đến tháng 3/2023.

Tác giả Nguyễn Thanh Việt từng chia sẻ tại trường Đại học San Jose, California về việc Việt Nam từ chối cho phim bấm máy.

Năm 2023, vài hình ảnh được lan truyền trên mạng xã hội cho thấy nhiều phân đoạn của bộ phim được quay ở khu vực Hua Lamphong của Bangkok, Thái Lan. Nhiều ý kiến cho rằng bộ phim không tái hiện lại được bối cảnh Sài Gòn trước năm 1975 và những ngày cuối tháng 4/1975.

Chẳng hạn, có người chỉ ra rằng bảng chỉ hướng các con đường Phạm Ngũ Lão, Gia Long và Nguyễn Phi Khanh lại cùng một hướng qua các hình ảnh trên mạng là không đúng sự thật.

Tuy nhiên, đấy chỉ là vài hình ảnh được chia sẻ “không chính thức”, thực tế thế nào phải chờ đến khi phim ra mắt mới đánh giá được.

Bối cảnh Sài Gòn xưa được dựng tại phim trường Thái Lan

NGUỒN HÌNH ẢNH,UGC

Chụp lại hình ảnh,

Bối cảnh Sài Gòn xưa được dựng tại phim trường Thái Lan

Dàn diễn viên gốc Việt

Tuy không được quay tại Việt Nam để lấy cảnh thật, nhưng hơn một nửa diễn viên của The Sympathizer đều là diễn viên gốc Việt. Đây là tiền lệ hiếm hoi bởi hầu như không có bất kì loạt phim nào do Hollywood sản xuất lại quy tụ nhiều gương mặt gốc Việt đến thế.

Có lẽ tác giả Nguyễn Thanh Việt đã cố gắng để Hollywood không “da trắng hóa” nhân vật từ tác phẩm của ông.

Từ trái qua: Nguyễn Cao Kỳ Duyên, Hoa Xuande, Kiều Chinh là những diễn viên đóng trong The Sympathizer
Chụp lại hình ảnh,

Từ trái qua: Nguyễn Cao Kỳ Duyên, Hoa Xuande, Kiều Chinh là những diễn viên đóng trong The Sympathizer

Nam diễn viên chính Hoa Xuande không thông thạo tiếng Việt như nhân vật mà mình thủ vai. Do đó, anh đã phải trải qua “khóa học cấp tốc kéo dài hai tuần”, đưa anh trở lại trường mẫu giáo, học bảng chữ cái, nguyên âm và cách phát âm.

Nhờ có có cha mẹ là người Việt, anh có thời gian để tìm hiểu sâu hơn về câu chuyện.

“Tôi cố gắng có được cái nhìn tổng thể về tất cả những người có liên quan, đặc biệt là người dân Việt Nam, bởi vì câu chuyện chiến tranh của họ không phải lúc nào cũng được kể. Và tôi đã nghe những câu chuyện từ cha mẹ tôi thời đó, về những điều họ đã chứng kiến, đã đối mặt và đã phải chạy trốn,” anh chia sẻ với Vanity Fair.

 

Cuộc sống vô thường!

Nhà thiết kế và tác giả thời trang nổi tiếng thế giới “Crisda Rodriguez” đã viết đoản văn này trước khi bà qua đời vì bệnh ung thư:

1. Tôi có chiếc ô tô thương hiệu đắt nhất thế giới trong ga ra của mình nhưng giờ tôi phải di chuyển bằng xe lăn.

2. Nhà tôi có đầy đủ các loại quần áo hàng hiệu, giày dép và đồ có giá trị. Nhưng cơ thể tôi được bọc trong một tấm vải nhỏ do bệnh viện cung cấp.

3. Có đủ tiền trong ngân hàng. Nhưng bây giờ tôi không nhận được bất kỳ lợi ích từ số tiền này.

4. Ngôi nhà của tôi giống như một cung điện nhưng tôi đang nằm trên chiếc giường đôi trong bệnh viện.

5. Tôi có thể đi từ khách sạn năm sao này sang khách sạn năm sao khác.

Nhưng bây giờ tôi dành thời gian trong bệnh viện để di chuyển từ phòng thí nghiệm này sang phòng thí nghiệm khác.

6. Tôi đã tặng chữ ký cho hàng trăm người. Ghi chú của bác sĩ ngày hôm nay là chữ ký của tôi.

7. Tôi có bảy người thợ làm tóc để trang điểm cho mái tóc của mình – Hôm nay tôi không có một sợi tóc nào trên đầu.

8. Trên chuyên cơ riêng, tôi có thể bay đến bất cứ đâu tôi muốn. Nhưng bây giờ tôi cần sự giúp đỡ của hai người để đến được cổng bệnh viện.

9. Dù ăn nhiều nhưng khẩu phần ăn của tôi là ngày hai viên và tối nhỏ vài giọt nước muối.

Ngôi nhà này, chiếc xe hơi này, chiếc máy bay phản lực này, đồ đạc này, rất nhiều tài khoản ngân hàng, rất nhiều danh vọng và tiếng tăm, không cái nào phù hợp với tôi cả. Không ai trong số này có thể giúp tôi nhẹ nhõm. Cuộc sống thực là để an ủi rất nhiều người và mang lại nụ cười trên khuôn mặt của họ.

“Không có gì là thật ngoài cái chết.”.

From: Anh Dang & Kim Bang Nguyen


 

 

Nhà nghiên cứu Mỹ gốc Việt sở hữu 70 thông báo sáng chế cho dụng cụ y khoa trong năm 2023

Theo Báo Người Việt

OMAHA, Nebraska (NV) – Thời điểm mà Tiến Sĩ Thắng Nguyễn gia nhập Khoa Cấp Cứu của Trung Tâm Y Tế đại học University of Nebraska (UNMC) vào năm 2010, ông gần như ngay lập tức bắt tay vào tìm cách làm mọi thứ tốt hơn, một bài báo của John Keenan thuộc UNMC giới thiệu nhà nghiên cứu người Mỹ gốc Việt này hôm Thứ Hai, 4 Tháng Ba.

TS Thắng Nguyễn, lúc đó nghiên cứu bên ngành điều dưỡng, đang quan sát một bác sĩ phẫu thuật thẩm mỹ khâu vết thương trên mặt cho một cô gái trẻ.

“Đây quả là vị bác sĩ được huấn luyện nghệ thuật khâu vết thương chuẩn xác, và cuối cùng thì vết thương lành lặn tuyệt vời,” ông nói. Nhưng TS Thắng Nguyễn nhận thấy rằng, dù bác sĩ phẫu thuật có tỉ mỉ cách mấy thì mỗi mũi khâu đều làm cho làn da bệnh nhân phải co tới giật lui.”

TS Thắng Nguyễn cùng đồng nghiệp phát minh một dụng cụ bơm phun thuốc có thể dùng với chai soda nhựa gọi là Project FreeAir do Quỹ Tưởng Niệm Eugene Kenney ở UNMC tài trợ, miễn phí cho công chúng (Hình: UNMC)

“Lúc đó tôi chợt nghĩ, ‘Tại sao chúng ta không thể phát minh ra thứ gì đó có thể làm giảm chuyển động của cổ tay khi bác sĩ cầm mũi kim khâu xuyên qua mô?’” TS Thắng Nguyễn nói.

Hóa ra, cũng có người khác nghĩ tới điều này. Tuy nhiên, TS Thắng Nguyễn lại không phát giác ra điều đó cho tới khi ông tỉ mỉ phác thảo một bản vẽ của thứ mà ông gọi là máy bơm kim và gửi nó cho UNeMed, công ty kỹ nghệ sinh học trực thuộc UNMC, để đánh giá. Chỉ trong vài tuần, tôi nhận được hồi âm – có ai đó có chung ý tưởng với tôi.”

Theo lời của TS Thắng Nguyễn thì “chính phát minh của mình làm cho mình bị nghiện. Sau khi tôi gửi bản thảo đó và tham gia nghiên cứu của UNMC, thật vui là tôi cứ vậy mà tiếp tục.” TS Thắng Nguyễn thậm chí còn vươn xa tới nỗi chế tạo nguyên mẫu phiên bản máy vặn kim bằng cách ứng dụng các thành phần từ viết BIC cùng nhiều loại keo dính rất chặt.

TS Thắng Nguyễn xác định nỗ lực cải tiến của ông từ thời thơ ấu với tư cách là dân nhập cư thế hệ đầu tiên.

Ông tập trung vào phát triển các loại kỹ nghệ có thể hỗ trợ xóa bỏ sự bất bình đẳng trong chăm sóc sức khỏe và cải thiện sức khỏe toàn cầu.

Gần 14 năm sau nguồn cảm hứng đầu tiên, TS Michael Dixon, Chủ Tịch kiêm Tổng Giám Đốc UNeMed, thừa nhận TS Thắng Nguyễn là một trong những người tạo ra ý tưởng hàng đầu cho đơn vị chuyển giao kỹ nghệ.

Mặc dù TS Thắng Nguyễn không nắm giữ nhiều bằng sáng chế nhất nhưng vào cuối năm tài khóa 2023, ông lại nộp nhiều Thông Báo Phát Minh Mới (NIN) nhất, đây là bước đầu tiên trong quy trình cấp bằng sáng chế, với 70 thông báo. Howard Gendelman, Bác Sĩ Y Khoa, chủ tịch Khoa Dược Lý và Thần Kinh Thực Nghiệm của UNMC, nộp 69 thông báo phát minh đồng thời là nhà nghiên cứu đang làm việc tại UNMC có nhiều bằng sáng chế Hoa Kỳ nhất, và cũng là trưởng khoa của TS Thắng Nguyễn, Michael Wadman, Bác Sĩ Y Khoa, chủ tịch Khoa Y Tế Cấp Cứu của UNMC, cũng nộp 60 thông báo phát minh.

Và những ý tưởng đó thì sao? Không phải lúc nào cũng khó thành hiện thực. TS Thắng Nguyễn và các đồng nghiệp trong khoa cấp cứu nhận được bằng sáng chế đầu tiên vào năm 2019 cho một máy rửa vết thương cải tiến, nối với hệ thống không khí, tạo ra dòng nước muối ổn định với mức áp suất tối ưu là 13 tới 14 PSI.

Cho tới nay, TS Thắng Nguyễn và nhiều đồng nghiệp ở khoa cấp cứu nộp 17 bằng sáng chế tạm thời, sáu đơn xin cấp bằng sáng chế của Hoa Kỳ và ba đơn xin cấp bằng sáng chế quốc tế. TS Thắng Nguyễn được trao hai bằng sáng chế, cùng với ba bằng sáng chế khác hiện đang trong tiến trình phê duyệt. Bằng sáng chế ông được cấp gần đây nhất là dụng cụ xét nghiệm Covid-19 mới.

Thử nghiệm COVID-19 của Tiến sĩ Thắng, bằng cách hút nhờn vào ống tiện lợi hơn là cách ngoáy tăm bông vào mũi. (Hình của dài KETV-7)

Dụng cụ mới của TS Thắng Nguyễn, Microwash, lấy cảm hứng từ máy rửa vết thương.

“Các tài liệu về rửa vết thương chứng minh rằng khoảng 13 PSI là áp suất đủ để loại bỏ vi khuẩn trên da. Vì vậy, tôi nghĩ, ‘Nếu chúng ta làm điều tương tự cho phần mũi thì sao? Điều gì sẽ xảy ra nếu thay vì dùng tăm bông, chúng ta xịt nước vào mũi ở mức PSI nhất định? Điều đó có thể loại bỏ virus trong mô mũi và thay vào đó chúng ta có thể sử dụng phần mô đó để xét nghiệm.”

Phải mất hơn bốn năm, nhưng MicroWash là cải tiến thành công đầu tiên của khoa cấp cứu. Sau khi sửa đổi thiết kế, vượt qua các rào cản trong sản xuất và phân phối, MicroWash cuối cùng cũng có mặt trên thị trường. Khoa cấp cứu UNMC thực hiện các nghiên cứu cho thấy kết quả xét nghiệm có độ chính xác tương đương với kết quả khi dùng tăm bông.

Mặc dù TS Thắng Nguyễn nộp nhiều thông báo phát minh NIN nhất cho UNeMed nhưng ông nhấn mạnh rằng có nhiều NIN trong số đó có sự hợp tác từ những người đồng phát minh trong khoa cấp cứu của UNMC. (TTHN)

______

Tiểu sử của Tiến Sĩ Thắng theo trang mạng của đại học Y Khoa Nebraska:

Thần Nguyên

Trợ lý Giáo sư, Khoa Y học Cấp cứu,
Nhà khoa học Nghiên cứu của UNMC, Khoa Y học Cấp cứu, UNMC

Học vấn:
Cử nhân Khoa học Điều dưỡng (BSN)
Thạc sĩ Khoa học Điều dưỡng (MSN)
Tiến sĩ Tâm lý học (Tiến sĩ)

Chứng nhận của
Hội đồng Học viện Y tá Hoa Kỳ

Nghiên cứu/Sở thích nghề nghiệp:
Tôi chủ yếu quan tâm đến việc tìm kiếm mối liên hệ giữa công nghệ và y học để cải thiện sức khỏe tổng thể của bệnh nhân. Tôi tin rằng việc áp dụng đổi mới công nghệ như AI, in 3D và y học có nguồn mở có thể chấm dứt sự chênh lệch về sức khỏe toàn cầu.


Bao giờ Sài Gòn lại là Hòn Ngọc Viễn Đông?

Theo Đài Á Châu Tự Do

"Sài Gòn - Hòn Ngọc Viễn Đông": làm sao để có lại?Một người bán bánh mì đi ngang qua UBND TP.HCM (Tòa thị chính Sài Gòn theo phong cách Pháp thế kỷ 19) vào ngày 29 tháng 6 năm 2020

 AFP

Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng khẳng định TP.HCM sẽ phát triển bứt phá, xứng đáng quay lại vị trí Hòn Ngọc Viễn Đông. Ông Dũng phát biểu như thế tại buổi hội thảo tham vấn quy hoạch TP.HCM thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn 2050, diễn ra tại Hà Nội hôm 28 tháng 2 vừa qua.

Tám năm trước, tại Hội nghị Thành ủy TP.HCM lần thứ 4, Bí thư Thành ủy lúc đó là ông Đinh La Thăng đã nhìn nhận: “TP.HCM đã từng là Hòn Ngọc Viễn Đông, từng là số một của khu vực. Trước đây, Singapore, Thái Lan nhìn về Sài Gòn với một sự ngưỡng mộ, khao khát bao giờ mới được như Sài Gòn. Thế nhưng giờ đây, ngay cả so sánh các TP trong cả nước thì chúng ta đã tụt hậu so với họ”. Ông Thăng mong muốn TP.HCM phải giành lại vị trí số một Đông Nam Á.

Bây giờ muốn làm sống lại Hòn Ngọc Viễn Đông thì phải trả lại tên Sài Gòn. Đó là điều kiện căn bản nhất và quan trọng nhất. Thứ hai, muốn làm cho Sài Gòn – Hòn Ngọc Viễn Đông sống lại, tức là phải làm cho văn hóa Sài Gòn xưa sống lại. – Nhà báo Nguyễn Ngọc Già

“Hòn ngọc Viễn Đông là một nét văn hóa đặc trưng của Việt Nam. Nó chấm dứt vào năm 1976, là năm mà Sài Gòn chính thức bị xóa tên và thay bằng thành phố Hồ Chí Minh. Như vậy, khi mà Sài Gòn mất tức là Hòn Ngọc Viễn Đông cũng mất, và văn hóa của Sài Gòn xưa đã bị triệt diệt dần. Trong tên gọi Hòn Ngọc Viễn Đông nó mang đầy đủ các yếu tố chính trị và thời cuộc.

Bây giờ muốn làm sống lại Hòn Ngọc Viễn Đông thì phải trả lại tên Sài Gòn. Đó là điều kiện căn bản nhất và quan trọng nhất.

Thứ hai, muốn làm cho Sài Gòn – Hòn Ngọc Viễn Đông sống lại, tức là phải làm cho văn hóa Sài Gòn xưa sống lại. Trong khi đó, văn hóa hiện nay ở thành phố Hồ Chí Minh, cũng như cả nước được gọi tên là văn hóa xã hội chủ nghĩa. Trên thực tế, đối với quan sát của cá nhân tôi, thì văn hóa thành phố Hồ Chí Minh cũng như văn hóa cả nước hiện nay có thể gói gọn trong một chữ “vô văn hóa” trải dài trên mọi lĩnh vực. Từ kinh doanh, giáo dục, y tế cho đến du lịch, du học, xuất khẩu lao động…”

TP.HCM được cho là đang tận dụng tối đa những lợi thế từ Nghị quyết 98/2023 của Quốc Hội, được ban hành ngày 24/6/2023 về thí điểm một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển thành phố Hồ Chí Minh.

Cũng trong buổi hội thảo hôm 28 tháng 2 vừa qua, Chủ tịch UBND TP.HCM Phan Văn Mãi cho biết, thành phố sẽ tiếp tục phát huy vị trí đầu tàu của cả nước, trở thành thành phố văn minh, hiện đại, nghĩa tình, năng động sáng tạo, có nguồn nhân lực chất lượng cao; là thành phố dịch vụ – công nghiệp hiện đại, đầu tàu về kinh tế số, xã hội số; trung tâm kinh tế, tài chính; thương mại, văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ của cả nước, hội nhập quốc tế sâu rộng, có vị thế nổi trội trong khu vực Đông Nam Á.

Một số người dân cho rằng, muốn làm gì thì điều kiện tiên quyết là phải có tiền, sau đó phải có cơ chế phù hợp cho sự phát triển. Thống kê ngân sách năm 2023 cho thấy, Hà Nội được giữ lại 32%, trong khi TP.HCM chỉ được giữ lại 21% các khoản thu phân chia giữa ngân sách trung ương và ngân sách địa phương.

Nhà nghiên cứu Đinh Kim Phúc nói với RFA:

“Trải qua sự thăng trầm của đất nước, dù bất cứ thể chế nào, bất cứ chế độ chính trị nào, Sài Gòn vẫn là trung tâm văn hóa, khoa học, kỹ thuật của đất nước. Nhưng 49 năm qua, Sài Gòn đã mất đi vai trò và vị trí của nó.

Năm 1975, nhìn sang các nước Đông Nam Á như Singapore, Kuala Lumpur của Malaysia, Manila của Philippines… thì thấy họ không là gì so với Sài Gòn lúc đó. Nhưng ngày hôm nay, Manila, Singapore, Kuala Lumpur đã vươn lên một cách thần kỳ. Bao giờ Sài Gòn đuổi kịp!

Muốn đưa Sài Gòn trở lại Hòn Ngọc Viễn Đông thì phải trao cho Sài Gòn cái vai trò tự thân của nó để nó phát triển. Còn nếu làm ra 100 đồng mà chỉ được hưởng 23 đồng, còn tất cả phải nộp về trung ương thì xin lỗi, một trăm năm nữa Sài Gòn cũng không là Hòn ngọc Viễn Đông mà nó là “một cái gì đó” ở Việt Nam và ở khu vực Đông Nam Á.”

Ông Đinh Kim Phúc nói thêm, ngày xưa Việt Nam bị thực dân Pháp đô hộ nhưng vẫn phát triển thành Hòn Ngọc Viễn Đông là do có tự do – dân chủ. Khái niệm này từng được cố Luật sư Nguyễn Hữu Thọ, một trí thức miền Nam đi theo Cách mạng. Ông từng làm Phó Chủ tịch Việt Nam sau năm 1975, từng là Chủ tịch Quốc hội, từng là Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc.

Tại Đại hội Mặt trận Tổ quốc Việt Nam TP.HCM năm 1988, ông Nguyễn Hữu Thọ có bài phát biểu với nội dung: “Dân chủ là thế mạnh của chúng ta, nhưng khi giành chính quyền trọn vẹn chúng ta lại làm xói mòn thế mạnh này… Tất cả vấn đề là phải đấu tranh để thực hiện. Cuộc đấu tranh này không giống cuộc đấu tranh đối kháng với địch trước đây, nhưng cũng phải diễn ra quyết liệt, bởi lẽ dân chủ không thể có bằng sự ban ơn mà bằng sự đấu tranh.”

Tuy dân chủ – tự do được coi là điều kiện để phát triển đất nước, nhưng một số bài viết trên Tạp chí Cộng sản lại cho rằng, dân chủ, nhân quyền là phạm trù chính trị, pháp lý gắn liền với mỗi chế độ chính trị và mỗi quốc gia khác nhau, do đó, cần phải hiểu đúng về dân chủ, nhân quyền để kiên quyết đấu tranh với việc áp đặt quan điểm, tư tưởng về dân chủ, nhân quyền của quốc gia này đối với quốc gia khác, cũng như việc lợi dụng dân chủ, nhân quyền để chống phá Việt Nam.

Thực tế cho thấy nhiều người trong nước chỉ vì bày tỏ ý kiến thẳng thắn trước những vấn đề xã hội đã bị cáo buộc theo Điều 331 Bộ luật Hình sự về tội “ lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân”. Còn ở mức độ nặng hơn là Điều 117 Bộ luật hình sự về tội “làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm nhằm chống Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam’.

Hai điều luật này bị các tổ chức nhân quyền quốc tế cho là mơ hồ và cơ quan chức năng lạm dụng để dập tắt các tiếng nói chỉ trích chính quyền một cách ôn hòa.

Theo Báo VN Express:

PGS.TS Trần Đình Thiên – Viện trưởng Kinh tế Việt Nam – cho rằng, thập niên 60-70, Sài Gòn vẫn được mệnh danh là “Hòn ngọc Viễn Đông” – thành phố được định danh duy nhất ở khu vực. Trong khi Singapore lúc đó chỉ là đảo quốc hoang vu, Bangkok cũng ít người nhắc đến. Những quốc gia này lấy Sài Gòn như hình tượng để phát triển theo.

“TP HCM hiện phát triển hơn nhiều so với thời Hòn ngọc Viễn Đông nhưng những bước tiến đạt được chưa tương xứng tiềm năng, chưa đáp ứng yêu cầu đua tranh với các thành phố có vị thế, chức năng tương tự trên thế giới. Những thành phố như Bangkok, Singapore, Busan… đã vượt lên, dù TP HCM có xuất phát điểm tốt hơn”, ông Thiên nói.