10 điều bạn nên biết về Chân phước Carlo Acutis

Thao Teresa

Đức Thánh Cha Leo XIV sẽ tôn phong hiển thánh cho Carlo Acutis vào Chúa Nhật 07/09/2025. Cậu thiếu niên lập trình viên, mê trò chơi điện tử nhưng có tình yêu đặc biệt dành cho Thánh Thể, sẽ trở thành vị thánh thiên niên kỷ đầu tiên của Giáo hội.

Vậy Carlo là ai? Dưới đây là 10 điều bạn nên biết:

  1. Xuất thân

Carlo Acutis sinh ngày 3/5/1991 tại London, trong thời gian cha mẹ làm việc tại đây, rồi sớm chuyển về Milan (Ý).

  1. Cơn bệnh cuối đời

Carlo được chẩn đoán mắc bệnh bạch cầu khi còn là thiếu niên. Trước khi qua đời năm 2006, cậu dâng những đau khổ của mình cho Đức Giáo hoàng Bênêđictô XVI và cho Giáo hội, với ước nguyện: “Con xin dâng tất cả để được lên thẳng thiên đàng, không phải qua luyện ngục.”

  1. Tình yêu Thánh Thể

Ngay từ nhỏ, Carlo đã yêu mến Thiên Chúa dù cha mẹ chưa sốt sắng. Sau lần rước lễ đầu đời, cậu đi lễ mỗi ngày, lôi kéo cả gia đình đến với Thánh Lễ và chầu Thánh Thể. Carlo thường nói: *“Có hàng dài người xếp hàng trước các buổi hòa nhạc hay trận bóng đá, nhưng con không thấy những hàng dài trước Thánh Thể.”*

  1. Gương sáng dẫn đưa người khác đến đức tin

Rajesh Mohur, người giúp việc trong gia đình, đã từ bỏ Ấn giáo để theo Công giáo nhờ chứng tá của Carlo – một thiếu niên biết chia sẻ thức ăn và tình thương cho người nghèo.

  1. Can đảm bảo vệ giáo huấn

Carlo mạnh mẽ bênh vực sự sống ngay từ lúc thụ thai khi bàn về phá thai trong lớp học, dù bị bạn bè phản đối.

  1. Người bạn trung tín

Cậu luôn đứng về phía những bạn nhỏ bị bắt nạt, đặc biệt là người khuyết tật, và nâng đỡ bạn bè gặp khủng hoảng gia đình.

  1. Tài năng công nghệ

Carlo tự học lập trình C, C++ và dùng khả năng ấy để thiết kế triển lãm về các phép lạ Thánh Thể, hiện đã được trưng bày tại hàng ngàn giáo xứ trên khắp năm châu.

  1. Niềm vui đơn sơ

Cậu thích Game Boy, PlayStation, Pokémon, Spider-Man… nhưng luôn giữ kỷ luật: chỉ chơi không quá 2 giờ mỗi tuần.

  1. Nơi an nghỉ

Carlo qua đời ngày 12/10/2006, được an táng tại Assisi. Thi hài cậu hiện được đặt trong lăng kính, mặc quần jean và giày thể thao, trở thành nơi hành hương của hàng ngàn tín hữu.

  1. Ngày hiển thánh

Ngày 23/05/2024, Đức Thánh Cha công nhận phép lạ thứ hai nhờ lời chuyển cầu của Carlo – việc chữa lành một thiếu nữ 21 tuổi ở Costa Rica sau tai nạn xe đạp nghiêm trọng. Phép lạ đầu tiên là việc chữa lành một bé trai 3 tuổi ở Brazil mắc dị tật tuyến tụy.

Vào thứ sáu, ngày 13 tháng 6, Đức Giáo hoàng Leo XIV đã chủ trì công nghị đầu tiên trong triều đại giáo hoàng của mình, phê chuẩn chính thức việc phong thánh cho Chân phước Carlo Acutis, được gọi là “tông đồ mạng của Bí tích Thánh Thể”.

Trong Công nghị, Đức Giáo hoàng đã sắc lệnh rằng Chân phước Pier Giorgio Frassati, cùng với Chân phước Carlo Acutis, sẽ được phong thánh vào Chúa Nhật, ngày 7 tháng 9 năm 2025.

Jos Nguyen chuyển ngữ – CNA/EWTN Vatican


 

Chúng Ta Chỉ Có Thể Cùng Nhau Đi Một Đoạn Đường

Tất cả những gì có mặt trong cuộc đời này, từ con người, mối quan hệ, đến tài sản, danh vọng… đều khởi lên từ nhân duyên. Không có gì tự nhiên mà đến. Cũng không có gì mãi mãi thuộc về ta.

Việc ta gặp một người, yêu quý hay ghét bỏ họ, tất cả đều là quả của những nhân duyên đã tạo trong nhiều kiếp sống trước.

Có người vừa gặp đã thấy thân thương, như đã từng gắn bó sâu sắc đâu đó trong quá khứ. Có người vừa nhìn đã khó chịu, bực bội, đó không phải vì họ xấu, mà bởi ta và họ từng oán kết sâu dày trong quá khứ.

Mỗi đứa con, mỗi người bạn đời, mỗi người thân… chỉ là người lữ khách có duyên ghé qua đời ta. Họ đến, rồi họ đi. Họ đến khi duyên khởi. Và sẽ rời đi khi duyên tan.

Chúng ta thường khổ vì lầm tưởng rằng: “Cái gì đến với mình thì là của mình.”

Thật ra không phải vậy.

Người con ngoan ngoãn, tài giỏi, đột nhiên rời cõi đời sớm… không phải là oan nghiệt, mà có thể là họ chỉ ghé ngang cõi người một đoạn, để trả một chút duyên, rồi tiếp tục hành trình theo phước nghiệp cao hơn.

Như một số tiền chuyển nhầm vào tài khoản, ta vui mừng, nghĩ là tài sản của mình. Nhưng đến khi ngân hàng xin lại, ta buồn bã, than trách.

Nhưng đó chưa bao giờ là của ta cả. Chỉ là một duyên tạm.

Người con ấy, người bạn ấy, người thân ấy… cũng thế.

Sự thật là: Chúng ta chỉ có thể đồng hành cùng người khác một đoạn đường.

– Cha mẹ chỉ đi với ta đến một khúc tuổi thơ, rồi rời đi trước.

– Con cái chỉ gắn bó một giai đoạn, rồi có cuộc đời riêng.

– Người bạn đời cũng đến rồi đi, theo cách đời sống sắp đặt.

– Bạn bè, người thân, ai rồi cũng có lúc không còn bên nhau nữa.

Vậy nên, hãy trân quý từng khoảnh khắc hiện tại, khi duyên còn. Hãy yêu thương đúng cách, không dính mắc. Biết rằng: Gặp nhau là duyên. Ở bên nhau là nợ. Hết duyên, hết nợ, ai rồi cũng phải đi.

 Tập buông để nhẹ lòng.

Đừng khư khư giữ lấy những thứ vốn không thuộc về mình mãi mãi.

Tất cả tài sản, người thân, địa vị, tình cảm… đều chỉ là duyên trần, có thì quý, hết thì buông.

Nếu không buông, thì khi duyên tan, ta sẽ khổ. Nếu biết buông, thì ngay cả khi chia ly, ta vẫn mỉm cười.

Hãy nhìn đời bằng con mắt nhân duyên, để:

– Không quá đau khi mất mát.

– Không quá chấp khi được trao.

– Và không quá khổ khi phải chia xa.

Ai đi qua đời ta, xin cảm ơn họ.

Ai rời khỏi đời ta, xin chúc họ bình yên.

Vì tất cả chỉ có thể cùng đi với nhau một đoạn đường.

Nguyện cho tất cả ai hữu duyên đọc được bài này, biết trân trọng những gì đang có, biết buông bỏ những gì đã qua, và sống nhẹ nhàng, thảnh thơi giữa cõi đời vô thường.

From:”Nga Thu Tran”&  NguyenNThu

Gió chướng đã đổi chiều-Tác Giả: Nguyễn Văn Lục 

Ba’o Dan Chim Viet

Tác Giả: Nguyễn Văn Lục 

04/09/2025

Reviendrez-vous un jour, ô frères exilés.

(Một ngày nào đó, các anh sẽ trở về, ôi những đứa con lưu lạc). Sébastien. Ch. Le Comte (le masque de fer)

 Cách đây vừa đúng 50 năm, 1975-2025, trên chiến hạm chỉ huy Blue Ridge thuộc hạm đội thứ 7. Người ta nhận thấy có một số nhân vật trong chính quyền My mà đặc biệt có một số ký giả từng có mặt trong cuộc chiến VN.

Họ tề tựu khá đông đủ nơi đây như những chứng nhân quan sát cơn hấp hối của Saigon từ trên biển một cách bình thản.

Người ta nhận thấy có ký giả Stanley Karnow, tác giả cuốn: Viêt Nam. A hístory.

David Haberstam với cuốn The best and the Brightest.  Và Frank Snepp, người mới tháp tùng tt. Nguyễn Văn Thiệu từ Đài Loan trở về, tác giả các cuốn Decent intervalAn Insider Account of Saigon.

 Frank Snepp có mặt ở đây lúc này là để chuẩn bị đón tiếp đại sứ Mỹ Martin- người Mỹ cuối cùng sắp rời Saigon.

Ngoài khơi, người ta nhận thấy những con thuyền nhấp nhô như những lá tre trôi trên biển.

Đó là những con thuyền đủ loại, đủ cỡ của những người Việt Nam đầu tiên bỏ chạy cộng sản. Họ là ai, số phận họ sẽ ra sao sau này?

Chẳng ai trong số những ký giả đang chứng kiến cảnh tượng bi đát ấy và ngay cả những người ngồi trên những chiếc thuyền đó có câu trả lời và tiên đoán được điều gì!!

Trong khi đó, Stanley Karnow với cái nhìn mỉa mai như chế nhạo nói với Haberstam:

  • Này anh, công cuộc di tản này hẳn có sự đóng góp công sức của những người như anh?

Haberstam, một ký giả một thời từng phê phán cuộc chiến tranh một cách hăng say lạnh lùng, tỉnh bơ đáp:

“ Anh nói không sai, nhưng điều đó chứng tỏ sức mạnh của người Mỹ chúng ta nằm ở chỗ nào? Đâu phải chỉ có sức mạnh của B.52? Anh đồng ý chứ?

Và hôm nay chúng ta là những nhân chứng duy nhất và cuối cùng chứng kiến cảnh tháo chạy. Và tôi nghĩ rằng đó là trách nhiệm của tôi và anh ở đây.

-Karnow đáp lại:

Phần tôi, sẽ không quên được câu chuyện ngày hôm nay. Tôi cảm thấy xấu hổ cho nước Mỹ, trong đó có tôi.

Trong khi đó, trong phòng chỉ huy trưởng của chiến hạm, người ta nghe tiếng đối đáp của ông chỉ huy trưởng với ngài Kissinger. H. Kissinger hỏi viên chỉ huy trưởng:

  • Ông có biết bây giờ là mấy giờ ở Hoa Thịnh Đốn không? Trong một giờ nữa mà ông đại sứ Martin không có mặt trên chiến hạm của ông thì kể như cuộc triệt thoái của người Mỹ thất bại.
  • -Thưa ngài Kissinger, ông đại sứ nán lại để cứu vớt những người Việt Nam cuối cùng cần được cứu vớt.
  • Kissinger cáu kỉnh quát trong ống nghe: Anh nói với ông ta là lệnh của tôi, ông ta phải lập tức rời Viet Nam. Tôi không cần biết phải cứu ai. Sao cái bọn “chó chết” đó không chết phứt đi cho rồi.
  • Stanley Karnow nghe được cuộc điện đàm đó đã đưa ra nhận xét:
  • ông Kissinger và ông Lê Đức Thọ nói cùng một thứ ngôn ngữ. Ông Thọ cũng gọi những người đang lố nhố trốn trên biển là những đống rác mà chúng tôi cần tống ra biển                                                                                                               ‘                                                                  
  • Cả người Mỹ và kẻ thù của họ đều coi VN như một thứ rác rưởi cần phải tống khứ đi cho rồi.

Chẳng bao lâu sau, đại sứ Mỹ đã có mặt trên chiến hạm và ông đã nhận được một công điện của H. Kissinger đánh đi như sau:

  • Người Mỹ đến VN như thế nào thì khi rút đi cũng như vậy. Đó là thành công của ông cũng như của chúng ta. Congratulation!!

Ngay sau đó, đại sứ Martin đã nhận được từ dưới bong tàu chỉ huy, một cựu tướng lãnh VN mà ông từng quen biết muốn gặp ông.. ông đã từ chối và nói với viên sĩ quan tùy viên nhắn lại:

Nói với ông ta, ở đây không phải Sài gòn mà là nước Mỹ trên biển.. Hiện nay, chúng tôi coi ông ấy  như một người “ vô tổ quốc”. Ông ấy phải tự tước bỏ lon chậu và không được tuyên bố điều gì.

Người tùy viên đã tuân lệnh nói lại và ghi lại như sau: ông cựu tướng đã quỳ xuống sàn tàu một cách tuyệt vọng và dơ hai tay ngửa mặt lên trời kêu lên rằng:

  • Ta thề với trời đất, một ngày nào đó, ta sẽ trở về.”

(Câu truyện và hình ảnh như một bi kịch biểu tượng vho những ngày mất Saigon, Tuy nhiên được biết, sau này ông có trở về thật, nhưng không phải để chiến đấu chông cộng sản, mà để bắt tay hòa giải với cộng sản.)

Tin tức sau này cho hay rằng, đã có khoảng  250.000 ngàn người đã được vớt trên biển và được định cư trên nước Mỹ.

Ngày nay, nhiều người ngồi hồi tưởng lại không thể mường tượng nổi, họ đã có thể liều lĩnh làm một việc như vậy.

Nhưng cái “ sô” vớt người trên biển đầy tình người của người Mỹ nói lên rằng: Người Mỹ có thể làm được tất cả mọi việc một cách quy mô, hoành tráng , ngay cả việc trốn chạy.

Hãy cứ tưởng tượng trong số 250 ngàn ấy, ít ra cũng đến phân nửa ở tuổi vị thành niên và nay nếu muốn diễn tả lại tâm trạng của họ thì có thể tóm tắt là tất cả đều hoang mang và không có một chút hy vọng gì về tương lai..

Vậy mà nay giới trẻ ấy đã đóng góp tích cực, đóng góp vào cộng đồng hải ngoại mà không cần nói hết ra ở đây.

  • Và cứ như thế, các con số thuyền nhân trốn khỏi Việt Nam càng gia tăng tùy theo nhịp độ của những chính sách của Hà Nội như “đi vùng kinh tế mới”, “học tập cải tạo”, “đánh tư sản mại bản”. Và cuối cùng, chính sách”đi bán chính thức” nhằm xua đuổi giới Hoa kiều ra khỏi VN.
  • Con số nay không còn là 250.000 người mà nhảy vọt lên hơn hai triệu người.
  • Giữa sự ra đi của 250.000 người và của hai triệu người sau này có sự khác biệt sâu xa về tính chất và về nục đích. Về tính chất, con số 250.000 người chỉ do sự hoảng kinh mà bỏ chạy. Trong khi những người đi sau từng nếm trải kinh nghiệm sự tột cùng khốn khổ. Họ bị đẩy vào chân tường và lối thoát duy nhất là bằng mọi giá, bằng mọi phương tiện, bằng sự trả giá ngay cả sự sống để trốn thoát ra khỏi Việt Nam mà sau này người ta gọi là “ boat people”. Ngoài những người may mắn sống sót, còn biết bao nhiêu người bị hãm hiếp, bị giết bởi hải tạc Thái Lan, để xác trên biển cả?
  • Cho đến nay, con số này chẳng ai biết là bao nhiêu. Gia đình các nạn nhân chỉ còn ngậm ngùi trong bóng tôi trong sự tiếc thương. Người chết thì đã chết. Tiếc nuối rồi cũng nguây ngoa. Thời gian rồi sẽ xóa nhoà tất cả.

Và như tiêu đề bài viết; Ngày nào đó, các con sẽ trở về.

  • Về phía nhà cầm quyền cộng sản.

Họ cho rằng chính thức nhà nước không cưỡng bức bất cứ một ai muốn bỏ nước ra đi và cũng không giữ một ai muốn ra nước ngoài sinh sống. Và cuối cùng để tránh tình trạng xô bồ vượt biển gây khó khăn cho các nước láng giềng. Chính quyền cộng sản đã đồng ý với Liên Hiệp Quốc theo một chương trình ra đi có trật tự (ordely departure program).

Thảm cảnh thuyền nhân trên biển đã giảm mức độ.

  • Tất cả cái thảm cảnh trên biển nay đã đảo ngược trở thành cái mà Michel Tauriac trong Hồ sơ đen của cộng sản

( Le dossier noir du Communisme) tóm tắt đầy đủ ý nghĩa tóm gọn trong một câu “ Những con bò sữa thuyền nhân”

Từ nay gió đã đổi chiều.. Gió chướng đã thổi họ ra biển, nay ngọn gió nào đã đưa họ về? Hình ảnh sắp tới thật biểu tượng và gợi hình. Thật vậy, tất cả những con bò sữa thuyền nhân đã ra đi với hai bàn tay trắng để lại nhà cửa, tài sản, ruộng vườn. Nay Bộ Nội Vụ  quản lý toàn bộ các tài sản, tiền bạc, nhà cửa. Đây lại cho thấy một hình thức “ nhổ sạch lông” những bọn người lưu vong này. Kẻ rỗi hơi ngồi tính nhẩm việc nhổ sạch lông này đem lại cho nhà nước 25 tấn vàng.

Nhưng tính lại, 25 tấn vàng vẫn là chuyện nhỏ.

Và để gọi tên những thuyền nhân này tùy thuộc vào từng thời kỳ. Thoạt đầu là bọn phản quốc, bọn bán nước hại dân, bọn tay sai, bọn Mỹ-Ngụy.

Cho mãi đến năm 1990, người ta vẫn còn nghe có người gọi là bọn việt gian.

Sau này, chữ dùng xem ra  có vẻ khách quan hơn cả là: Việt Kiều.

Xin nhắc lại vụ án tàu Viêt Nam Thương Tín để cùng suy gẫm lại.

Trên báo Quân Đội Nhân Dân, số ra ngày mồng 3/7/1977, ở trang ba, có viết như sau:” Luật lệ trừng phạt những kẻ phản cách mạng đã được ban hành ngày 19/11/1976 đã ấn định rõ như sau: Tội chạy trốn sang hàng ngũ địch hay trốn ra ngoại quốc vì những mục tiêu phản cách mạng sẽ bị phạt từ 3 đến 12 năm tù. Trong những trường hợp nghiêm trọng tổ chức tội phạm sẽ bị kết án chung thân hay Tử hình.

Về số phận những người đi tàu Việt Nam Thương Tín theo báo chí, họ đã bị phân tán đi Lào Cay, Yên Bái, Thái Nguyên.

  • Về phía những người Việt Nam ra hải ngoại như các nhà văn, nhà thơ, xin ghi lại một vài tâm trạng của chúng ta lúc bấy giờ như bài viết của Nguyễn Đình Toàn hay nhà thơ Cao Tần.

Thù quê hương như tên hề ốm nặng.

Hồn tang thương sau mặt nạ tươi cười.

Ôi trong ví mỗi người dân mất nước

Còn một oan hồn mặt mày ngu ngơ

Thù hận bọn làm nước ông nghèo xi

Hận gấp nghìn lần khi chúng đánh ông văng.

Nếu mai mốt đổi đời phen nữa

Ông anh hùng ông cứu được quê  hương.

Ông sẽ mở ra nghìn lò cải tạo

Lùa cả nước vào học tập yêu thương.

  • Gió chướng không còn nữa. Gió đâ đổi chiều .

Những thành phần trước đây bị coi là rác thải nay trở thành rác quý chế biến thành những sản phẩm. Rác thải cứ thế mà thay hình đổi dạng.

Những chiếc xe Mercdes, những biệt thự sang trọng như ở  Mỹ, những khách sạn Sofitel Vinpearl Resort-Spa, 5 sao tại Hòn Tre. Khu Vinpearl Resort tại Nhatrang..

Những đại gia mà trước đây có thể chỉ là dân thuyền chài sang Mỹ trở thành chủ tàu đánh cá nay trở về. Những mệnh phụ phu nhân mà trước đây có thể là chị bán cá chợ Trần Quốc Toản. Họ nói tiếng Mỹ eo éo, trơn tuột, liến thoắng đến không ai hiểu.

 Phải chăng trước đây cuộc di tản là nỗi bất hạnh nay trở thành đại hạnh cho chính họ và con cháu.

 Hà Nội đã trải thảm đỏ đón họ từ phi trường Tân Sơn Nhứt trở về như đón một đứa con phung phá nay đã trở về thành đạt.

Câu truyện về họ nay như những câu truyện thần thoại. Mà những câu truyện trước đây kể về họ ngày càng trở nên nhạt phèo như nước ốc.

Gió chướng không còn nữa, gió đã đổi chiều, ngôn ngữ đổi chiều, giọng

 lưỡi đổi giọng.

 Không còn thứ chữ nghĩa làm đau lòng nhau nữa.

Trên sách báo, trên các trang nhà, không còn tìm thấy bất cứ thứ chữ nào nói xa, nói gần đến chế độ miền  Nam. Những chữ như “bọn ngụy quân”, “ngụy quyền”, “bọn tay sai” đã không còn tìm thấy chính thức trên báo Nhân Dân nữa.

Ngược lại không thiếu những chữ mật ngọt như “ tổ quốc VN luôn mở rộng vòng tay chào đón những người con xa xứ.. “ Nhà nước bảo hộ những quyền lợi chính đáng  của người Việt Nam định cư ở nước ngoài giữ gìn quan hệ gắn bó với quê hương, góp phần xây dựng quê hương, đất nước.”.

Luật quốc tịch ghi rõ ràng thế này ở điều II: “Người Việt Nam ở nước ngoài là công dân Việt Nam.. Người Việt Nam  ở nước ngoài là bộ phận không tách rời của cộng đồng dân tộc Việt Nam”

  • Hãy nhìn vào những con số

Năm 1987 mới chỉ có 8000 người về thăm quê hương. Năm 1993, con số đã là 160.000 người. Năm  2002 là 380.000..

Nay thì con số đã lên tới 2 triệu người và trong vài năm nữa, con số nhắm tới là 10 triệu người như Thái Lan với các đường bay thẳng Sài Gon- Mỹ, Sài Gòn- Âu Châu..

Giả dụ, mỗi Việt Kiều về Việt Nam ở hai tuần lễ, chi tiêu khoảng 4000 đô la.

 Cán cân kinh tế được kích cầu lên không nhỏ. Tiềm năng thật lớn. Tương lai cũng đày hứa hẹn.

Đó là một nền kinh tế dựa trên một kỹ nghệ không khói.

Tuy nhiên, từ trước đến nay, nhà nước chỉ giữ có một độc quyền không thay đổi.

 Mang tiền về thì được, nhưng đừng mang “chữ” về.

“Chữ” hiểu theo nghĩa rẩt rộng như sách báo, tư tưởng, âm nhạc, ca hát, nghệ thuật.

Cần nhớ rằng từ khi thành lập đảng đến nay, chữ vẫn là độc quyền tuyệt đối nằm trong tay đảng. Nó nằm trong một hệ thống khép kín. Chủ nghĩa hay ý thức hệ, bạo lực khủng bố và một chính quyền toàn trị.( Ideology, terror and  totaliarian government).

Hiểu như thế, chẳng lạ gì, khi về Việt Nam, người ta thường khuyên có một điều duy nhất: anh muốn làm gì thì làm, chẳng hạn cờ bạc, chơi bời đủ kiểu, cà phê đủ kiểu, gái gú đủ kiểu, sex đủ kiểu, ăn đủ kiểu, đĩ điếm đủ kiểu, gian trá đủ kiểu, lưu manh đủ kiểu, thằng ăn  cướp xử thằng ăn cắp đủ kiểu..

Ta có quyền đủ kiểu hết, miễn là đừng đụng chạm đến chính trị .

  • Vài mẫu người việt di tản nay về sống ở Việt Nam.

Phải nói thẳng với nhau rằng họ là những người “ ngoại quốc” sống trên chính quê hương họ: tách biệt và đẳng cấp.

 Họ ở những khu riêng biệt với những biệt thự sang trọng,  đủ tiện nghi như ở  Mỹ, Canada.

Những khu nhà có những bãi cỏ xanh, hồ bơi, những mái nhà mái màu cam kiểu California, có những hàng dừa cọ, bên cạnh có chữ tiếng Anh “Welcome”.

Họ lái những chiếc xe SUV ra khỏi cổng săt tự động mở.

Chẳng hạn anh chàng Võ Quy, kèm theo cái tên là là Larry trước đây là sĩ quan không quân cùng với bà vợ có tên cúng cơm là Ngọc, nay là Linda.

Anh năm nay đã 70 tuổi, về hưu. Anh ở trong một ngôi nhà với đồ dùng toàn Inox, phòng tắm lớn có vòi tắm hơi, thiết kế theo kiểu jacuzzi của Ý.

 Toàn đồ xịn không à. Anh tỏ ra hãnh diện. Anh thiệt là Việt kiều.

Có điều oái ăm là khi ở Mỹ, người ta bằng mọi cách nhắc nhở và nhớ về Sài gon và đặt các tên như Little Sài gòn, Phở Bắc, bánh mì Tân Định, bánh cuốn Dakao, restaurant Hoài Hương, phở Hà Nội, phở Nguyễn Huệ, Brodard restaurant vv.. để gợi nhớ về một miền Nam thân yêu của một thời..

Nay ở Việt Nam thì họ lại tiếc lối  sống ở Mỹ, nhớ những kỷ niệm về Mỹ.

 Họ trở thành người ngoại  quốc trước đồng bào của họ.

Trường hợp anh chàng Hoàng Tiến rất bực mình khi người hàng xóm đã vứt những bao rác trước cửa nhà anh. Lại còn mở nhạc karaoke ầm ĩ bất kể giờ giấc.

 Hoàng Tiến khi ở Mỹ thì bắt con học tiếng Việt. không muốn trở thành một thứ Melting Pot.

 Về Việt Nam, anh lại chỉ quen  xổ tiếng Mỹ.
Trong tương lai, Hoàng Tiến sẽ còn gặp nhiều điều rất khó chịu. Chẳng hạn, một anh cán bộ phường cứ xồng sộc vào nhà mà chẳng điện thoại trước.

Trường hợp Nguyễn Anh lại ở một dạng khác. Anh tốt nghiệp kỹ sư, năm nay 35 tuổi làm việc cho một công ty nước ngoài.

Những khó chịu của Nguyễn Anh cũng khá nhiều. Vào ngân hàng, ở siêu thị khi trả tiền, anh chứng kiến cái cảnh chen lấn, huých khủy tay.

Nhất là mấy cô thiếu nữ.

Nguyễn Anh còn sững sờ khi  giúp đỡ một người khác mà không bao giờ nhận được tiếng thanh kiu, thanh kiếc gì hết.

Hầu như tiếng cám ơn là một điều xa xỉ với họ.

 Về môn giải trí xem đá banh thì thực sự Nguyễn Anh đến ngỡ ngàng không hiểu được.  Đá thì các đội có lúc được có lúc thua.

Thua được đó là chuyện bình thường.

Thanh niên, thiếu nữ bỏ ăn, bỏ làm.Ngay truyện chăn gối cũn tạm hoãn lại.

Họ sẵn sàng thức trắng đêm để xem các trận đấu. Họ la lối, tức tối, cởi phanh áo ngực, chửi thề như thể họ mới là cầu thủ.

Phần các cô thiếu nữ có những lối bày tỏ đến ngỡ ngàng đến không ở đâu trên thế giới này có cảnh tượng như vậy. Có thiếu nữ còn đứng trên yên xe, cởi chuồng trơ chẽn la hét mà không biết ngượng.

Quả thực, tuy là người Việt Nam,  nhưng anh Nguyễn Anh lại không hiểu gì về người mình.

Chưa kể những thiếu nữ miền Bắc, xinh đẹp dễ sợ, sexy dễ sợ, ăn mặc thiếu vải không che đậy, hấp dẫn con mắt không chịu được.

Vậy mà mở cái mồm xinh đẹp ra là địt cha, địt mẹ, liếm nọ liếm kia như chỗ không người.

Thanh niên thì ngồi ăn nhậu tối ngày, đụng một tý là rút dao ra đâm chém chỉ vì một câu nói khích và coi mạng người như cỏ rác với một thứ luật rừng..

Phần người viết bài này tự hỏi :

Phải nhìn nhận ở Việt Nam có nhiều điều không hiểu được.

 Không biết cái tương lai bảng chỉ đường đất nước chỉ về đâu hay vẫn có thể chỉ trật đường?

Và tôi có cảm tưởng, họ, tất cả không trừ đang chơi một canh bạc giả mà Hà Nội là tay chủ sòng.


 

CANH TÂN – Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

“Rượu mới phải đổ vào bầu da mới!”.

“Quan niệm sai lầm về sự toàn vẹn và thánh thiện của Giáo Hội nằm ở chỗ, bạn có thể ‘cộng thêm’ Chúa Kitô vào cuộc sống mà không cần phải ‘trừ bớt’ tội lỗi. Đó là thay đổi niềm tin mà không cần thay đổi hành vi; phục hưng mà không cần cải cách; trở lại mà không cần ăn năn! Điều quan trọng là cần thắp lên một ngọn đuốc sám hối, và mỗi người cho phép mình có một trải nghiệm mới, trải nghiệm canh tân!” – Patrick Morley.

Kính thưa Anh Chị em,

Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta cho phép mình có một trải nghiệm mới, trải nghiệm biến đổi của ân sủng – đó là một hành trình không ngừng ‘canh tân!’.

Trong Chúa Kitô, Phaolô mời gọi chúng ta chiêm ngắm tình yêu vô bờ của Thiên Chúa, “Trong Người, muôn vật được tạo thành!”; “Nhờ Người”, muôn vật được đổi mới – bài đọc một. Trong bài Tin Mừng, các kinh sư và biệt phái đặt vấn đề với Chúa Giêsu, “Môn đệ ông Gioan năng ăn chay cầu nguyện, môn đệ người Pharisêu cũng thế, còn môn đệ ông thì ăn với uống?”. Đây là một lời kết án ‘khéo nguỵ trang!’. Đáp lại, Ngài kể cho họ dụ ngôn áo mới, vải cũ; bình cũ, rượu mới. Ngài muốn nói, hãy có một tầm nhìn mới, ‘tầm nhìn xót thương’, đó là sự ‘canh tân’ của con tim. “Nếu không có sự đổi mới từ trái tim, mọi cuộc cải cách đều chỉ là lớp phấn son bên ngoài!” – Henri Nouwen.

Với giới kinh sư biệt phái, “rượu mới” chính là tin nhận Chúa Giêsu, Đấng Chúa Cha sai đến; với chúng ta là trở nên tạo vật mới trong Ngài nhờ phép Rửa và ân sủng các Bí tích tuôn trào từ thập giá. Nhờ đó, chúng ta trở nên mạnh mẽ và hoan lạc trong Thánh Thần mà Ngài luôn ân ban. Thánh Vịnh đáp ca mời gọi, “Hãy vào trước thánh nhan Chúa giữa tiếng hò reo!”; nhưng các điều ấy xảy ra làm sao nếu chúng ta cứ ‘cộng thêm’ Chúa vào cuộc sống, mà không cần ‘trừ bớt’ tội lỗi? “Chúa Kitô không chỉ muốn làm sạch bạn, Ngài muốn biến đổi – ‘canh tân’ bạn. Ngài không đến để sửa một mái nhà dột, nhưng đến để xây một lâu đài mới, nơi Ngài có thể ngự trị!” – C.S. Lewis.

Anh Chị em,

“Rượu mới phải đổ vào bầu da mới!”. Lời Chúa mời gọi chúng ta đón nhận “rượu mới” bằng cách sẵn sàng từ bỏ con người cũ tội lỗi để trở nên một con người mới thánh khiết. Nhưng “Đi đôi giày cũ vẫn dễ chịu hơn!”, việc đổi thay có thể rất khó khăn; vì lẽ, đổi mới bao hàm cắt tỉa, bỏ mình và chết đi. “Mọi cuộc canh tân đều đòi cái chết của con người cũ, để con người mới có thể trỗi dậy!” – Thomas Merton. Đó là một hành trình hoán cải, từ niềm tin đến hành vi; từ lối sống đến cách nhìn vốn phải luôn kèm theo một lòng sám hối chân thành. Chúng ta dễ tự mãn và hài lòng với cuộc sống; vậy mà điều đó sẽ cản trở rượu mới ân sủng của Chúa Kitô những muốn đổ lai láng vào linh hồn mỗi người. Ước gì bạn và tôi biết rằng, một sự ‘canh tân’ bên trong ngày càng sâu sắc hơn sẽ là dấu của vầng hồng phục sinh đang lấp ló ở cuối chân trời!

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, thêm Ngài thì dễ, bớt tội thì khó; cho con – mỗi ngày – can đảm trừ bớt tội lỗi, cộng thêm ân sủng và nhân lên niềm vui!”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế) 

********************************************************

Lời Chúa Thứ Sáu Tuần XXII Thường Niên, Năm Lẻ

Sẽ có ngày chàng rể bị đem đi ; ngày đó, khách dự tiệc mới ăn chay.

✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Lu-ca.    Lc 5,33-39

33 Khi ấy, các người Pha-ri-sêu và các kinh sư nói với Đức Giê-su rằng : “Môn đệ ông Gio-an năng ăn chay cầu nguyện, môn đệ người Pha-ri-sêu cũng thế, còn môn đệ ông thì ăn với uống !” 34 Đức Giê-su trả lời : “Chẳng lẽ các ông lại có thể bắt khách dự tiệc cưới ăn chay, khi chàng rể còn ở với họ ? 35 Sẽ có ngày chàng rể bị đem đi ; ngày đó, họ mới ăn chay.”

36 Đức Giê-su còn kể cho họ nghe dụ ngôn này : “Chẳng ai xé áo mới lấy vải vá áo cũ, vì như vậy, không những họ xé áo mới, mà miếng vải áo mới cũng không ăn với áo cũ.

37 “Không ai đổ rượu mới vào bầu da cũ, vì như vậy, rượu mới sẽ làm nứt bầu, sẽ chảy ra và bầu cũng hư. 38 Nhưng rượu mới thì phải đổ vào bầu mới. 39 Cũng không ai uống rượu cũ mà còn thèm rượu mới. Vì người ta nói : ‘Rượu cũ ngon hơn’.”


 

 Đức tin là gì?- Cha Vương

Thứ Năm rồi bạn ơi! Cuộc đời đã ngắn ngủi rồi đừng làm cho nó ngắn thêm qua việc lãng phí thời gian nhé.

Cha Vương

Thứ 5: 4/9/2025.   t4. – 24

GIÁO LÝ: Đức tin là gì? Là nhân đức giúp ta đi lên tới Thiên Chúa, trông cậy ở Thiên Chúa, nhận biết sự thật của Người, và hiến thân mình cho Người. (YouCat, số 307)

SUY NIỆM: Đức tin là con đường Thiên Chúa làm để dẫn ta đến sự thật, là chính Thiên Chúa. Vì Chúa Giêsu là Con Đường, là Sự Thật và là Sự Sống (Ga 14,6), đức tin không thể chỉ là một thái độ đơn thuần, một “tin tưởng” vào sự gì đó. Một đàng đức tin bao gồm những dữ kiện chính xác: Hội thánh tuyên xưng trong kinh Tin Kính, và có trách nhiệm gìn giữ. Ai đón nhận ơn đức tin, nghĩa là muốn tin, thì tự mình tuyên bố theo đức tin đã được trung thành gìn giữ qua mọi thời và mọi nền văn hóa. Đàng khác, tin cũng là dấn thân vào một quan hệ cậy trông với Chúa, hết lòng hết trí khôn, hết sức lực hữu hình của mình. Vì điều quan trọng là “đức tin hành động nhờ đức ái” (Gl 5,6). Không phải qua những lời nói hay mà ta biết người nào tin Chúa thật, nhưng là xem các hành động tình yêu của họ.

Thật, Thầy bảo thật anh em, ai tin vào Thầy thì người đó cũng sẽ làm được những việc Thầy làm. Người đó còn làm những việc lớn hơn nữa bởi vì Thầy đến cùng Chúa Cha.—Ga 14,12 

❦ Ai nói rằng mình biết Người mà không tuân giữ các điều răn của Người, đó là kẻ nói dối, và sự thật không ở nơi người ấy. 1 Ga 2,4 (YouCat, số  307 t.t.)

LẮNG NGHE: Ai tuyên bố nhận Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ tuyên bố nhận người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời. Ai chối Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ chối người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời. (Mt 10:32.33)

CẦU NGUYỆN: “Lạy Chúa, xin thêm lòng tin cho chúng con!”, xin tuôn độ Thánh Thần tình yêu xuống đầy tâm hồn con, để con có sức nhổ tận gốc tất cả những nghi nan và sống bằng lòng trung thành với Chúa cho đến cùng.

THỰC HÀNH: Đọc chậm và suy niệm kinh Tin Kính

From: Do Dzung

*************************

Tôi Tin | Nguyễn Hồng Ân 

Đọc Hồi ký của Giáo Sư Vũ Quốc Thúc: Nhìn từ khía cạnh đời sống tâm linh. Tác giả: Phùng văn Phụng

Tác giả: Phùng văn Phụng        

            Đọc xong hai cuốn sa’ch “Thời Đại Của Tôi” “Đời Tôi trải qua các thời biến” do Người Việt xuất bản năm 2010, tôi đã nhìn thấy sự cố gắng phi thường, làm việc không mệt mỏi của Giáo Sư cùng với tấm lòng yêu mến quê hương đất nước thiết tha. Nhưng thời thế đã dẫn đưa con người tài năng hiếm có và có lòng với đất nước ấy phải rời bỏ nước Việt Nam yêu quí ra đi và sống định cư ở Pháp.

             

Tôi đã học Giáo Sư Vũ Quốc Thúc ở Đại Học Luật Khoa Sài Gòn niên khóa 1963-1964.

             Giáo Sư sinh năm 1920 tại Nam Định,Bắc Việt. Tiến sĩ Luật, Thạc sĩ Đại Học Kinh tế ở Pháp. Giám Đốc trường Luật Hà nội (1951-1954). Khoa Trưởng Đại học Luật Khoa Sài gòn (1957-1963). Giáo sư các viện Đại học Đà Lạt, Sài gòn và Học Viện Quốc Gia Hành Chánh (1954-1975). Giáo Sư Viện Đại Học Paris XII (1978-1988)

             Từ năm 1946 đến 1975 từng giữ các chức vụ: Ủy Viên Hành Chánh Kháng Chiến cấp tỉnh, Bộ Trưởng Quốc Gia Giáo Dục, Thống Đốc Ngân hàng Quốc Gia , Cố Vấn Phủ Tổng Thống, Phó Chủ Tịch Hội Đồng Kinh Tế Quốc Gia, Quốc Vụ Khanh đặc trách Tái Thiết và Phát Triển…

             Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, Giáo sư cũng như hầu hết trí thức miền Nam đều rơi vào hoàn cảnh tuyệt vọng giống nhau. Thất nghiệp, bị theo dõi, bị làm khó dễ, nơm nớp lo sợ không biết lúc nào bị bắt đi cải tạo (đi tù) nếu còn ở ngoài đời. Đa số người trí thức miền Nam lúc bấy giờ đều sống trong lo âu, hồi hộp vì họ không ít thì nhiều đều có dính líu với chế độ cũ, mà cộng sản gọi là “ngụy quân, ngụy quyền”. Giáo sư Vũ Quốc Thúc không thể thoát khỏi tình trạng đó.

             Trong sách trên, Giáo Sư Vũ Quốc Thúc viết: “ Tôi không theo Thiên Chúa Giáo, nhưng cũng không phải là một Phật tử. Tôi theo đúng truyền thống Khổng giáo của gia đình không quy y Phật giáo, mặc dầu chấp nhận Phật giáo; không theo Thiên Chúa Giáo nhưng vẫn tôn trọng Thiên Chúa Giáo… Sau khi bị bắt vì mưu toan vượt biên tôi thấy tương lai của mình u ám vô cùng…

             Hằng ngày mặc dầu tôi không phải là tín đồ Thiên Chúa Giáo tôi đã đến nhà thờ Đức Bà… Tôi cầu nguyện trước tượng Đức Mẹ, xin Đức Mẹ run rủi cho gia đình tôi được thoát khỏi Việt Nam toàn vẹn. ..Hôm chủ nhật đó nếu tôi không lầm là ngày lễ Pentecôte, tôi đã đạp xe lên nhà thờ Bình Triệu. (1)

             Tôi ngồi trước tượng Đức Mẹ và tôi lẩm nhẩm cầu nguyện… Khi tôi vừa dứt lời cầu nguyện bỗng thấy tượng Đức Mẹ sáng rực lên. Tôi cần phải nói rằng hôm đó trời ở ngoài cũng âm u vì vào mùa mưa…Khi tôi cầu nguyện xong bỗng thấy tượng Đức Mẹ sáng rực lên từ trên xuống dưới có lẽ khoảng vài giây đồng hồ thôi. Đặc biệt trên gò má tay mặt của bức tượng có một giọt nước mắt long lanh. Sau đó tôi nhìn kỹ thì trên gò má bức tượng không thấy có gì cả. Như vậy, giọt nước mắt mà tôi nhìn thấy chỉ  là  một ảo ảnh. Từ  lúc đó  trở  đi, suốt buổi  chiều tôi thấy trong lòng hồi hộp như mình đang chờ  đợi một chuyện gì sắp xảy ra. (2)

             Sau đó Giáo Sư mở đài BBC nghe lén, đã nghe thấy ông Raymond Barre một người cùng thi Thạc sĩ năm 1950 được Tổng Thống Pháp là Valéry Giscard d’Estaing cử làm Thủ Tướng và Giáo sư đã  thảo bức thơ gởi Thủ Tướng Pháp kể lại hoàn cảnh của mình đang lâm vào sự khốn khó, nhờ đó ông Raymond Barre mới biết và đã can thiệp với Thủ tướng Việt Nam lúc bấy giờ là ông Phạm văn Đồng để giúp đỡ gia đình của Giáo sư sang Pháp.

             Giáo sư Vũ quốc Thúc viết tiếp: “ Sự linh ứng của Đức Mẹ Bình Triệu khiến cho tôi tìm được lối thoát tình trạng bế tắc. Bổn phận của tôi rồi đây là phải thi hành đúng lời nguyện của mình trước Đấng Thiêng Liêng”(3)

 GS Vũ Quốc Thúc đã gia nhập Giáo Hội Công Giáo (4)

 Paris, Hôm 8.4.2012, Lễ Phục Sinh, Giáo xứ Việt Nam Paris đã đón nhận 25 tân tòng nhập đạo, trong đó có Giáo sư Vũ quốc Thúc. Trong bữa tiệc tiếp tân chúc mừng, do Hội Ái Hữu Đại Học Đà Lạt tại Âu Châu, quy tụ các cựu Giáo Sư và Sinh Viên Viện Đại Học Đà Lạt, tổ chức sau lễ rửa tội, ông đã nhắc đến ba điều ông đã thấy và đã tin. Đặc biệt: Ông đã thấy ơn Đức Mẹ.

  Ông muốn xin được rửa tội công khai và trang trọng theo đủ các nghi thức của Giáo hội, như mọi tân tòng khác, như một biểu lộ và dấu chứng làm chứng nhân, công khai công bố đức tin của mình.

 Nhân dịp này trong niềm vui chung của cộng đoàn Giáo Xứ đại gia đình Thụ Nhân trên khắp thế giới và riêng tại Paris, các cựu Giáo sư, sinh viên và gia đình thuộc Viện Đại học Đà lạt đã tổ chức một bửa tiệc chúc mừng lễ rửa tội gia nhập Giáo Hội Công Giáo của Giáo sư Jean Paul Vũ Quốc Thúc, vừa để chúc mừng sinh nhật thứ 92 của Giáo sư. Trong bửa tiệc tiếp tân chúc mừng, Giáo Sư  đã nhắc đến ba điều ông đã thấy và đã tin. Đặc biệt ông đã thấy ơn của Đức Mẹ.

 Tác giả: Phùng văn Phụng

               17-04-2012

 (1)   trang 540 Sách “Thời Đại Của Tôi” cuốn II

(2)   trang 542 Sđd

(3)   trang 543 Sđd (người viết in đậm và in nghiêng).

Chị tôi, người đào mộ – Truyen ngan HAY

Chị tôi, người đào mộ

-::-

Đêm Văn Điển hun hút gió. Nghĩa trang mênh mông những gò mả mới, ánh trăng loang loáng trên bia đá lạnh. Phượng ngồi thu mình bên gốc bạch đàn, hai bàn tay gầy run rẩy ôm chiếc cuốc cũ. Bụng đói cồn cào, trong đầu chỉ hiện lên khuôn mặt hai đứa em gầy guộc đang ngủ trong căn nhà dột.

“Chỉ một lần thôi,” Phượng thì thầm, rồi quỳ xuống trước ngôi mộ vừa mới đắp. Cô thắp ba nén hương, giọng run rẩy:

– Con xin lỗi… Con chỉ muốn các em con được đi học…

Chiếc cuốc cắm xuống đất. Ngôi mộ vừa chôn. Đất còn chưa khô. Những vòng hoa vẫn tươi. Âm thanh khô khốc vang vọng giữa đêm, như cứa vào da thịt chính cô. Mồ hôi rịn ra lạnh buốt, mùi đất tanh nồng trộn lẫn mùi tử khí. Khi lớp ván mộ bật ra, cô thấy những vật dụng nhỏ lấp ló. Tay run bần bật, nước mắt chảy xuống hốc mộ. Cô cầm lên từng món, khấn lạy, rồi bỏ vào túi. Đêm ấy, lần đầu tiên, Phượng trở thành “kẻ đào mộ”.

Nhưng rồi một lần biến thành trăm lần. Năm năm ròng rã, cái cuốc cũ in hằn bao dấu vết trong nghĩa trang Văn Điển. Lần nào cũng có ba nén hương, có lời xin lỗi run run. Lần nào cô cũng tự nhủ: “Đây là lần cuối.” Nhưng sáng hôm sau, khi thấy hai đứa em ngủ gục trên sách, bụng lép kẹp, Phượng lại ra đi.

Có một đêm, khi bật ván mộ, trong khi loay hoay lột quần áo của thi thể một người đàn bà to béo nặng nề, bất ngờ bà đổ sập xuống, đè lên thân hình mảnh khảnh của cô. Cái lạnh bủa vây, mùi tử khí xộc thẳng vào ngực. Cô ngất lịm. Tỉnh dậy, thấy mình nằm dưới cái xác đã bốc mùi, cô òa khóc như đứa trẻ, vừa run vừa khấn: “Con sẽ dừng lại… con thề sẽ dừng lại.”

Nhưng rồi, cô lại xách cuốc ra nghĩa trang.

Một sáng Hà Nội se lạnh, cái tên Phượng vang lên trên loa phóng thanh trước Tòa án Nhân dân. Người ta tụ lại, không phải chỉ vì tò mò, mà còn vì căm phẫn. Thân nhân của những gia đình bị một cô gái trẻ cậy mộ quây kín toà án. Phiên toà mở công khai cho toàn dân chứng kiến.

Trong phòng xử, cô bước vào, dáng nhỏ bé lọt thỏm giữa không gian luật pháp. Người ta nhìn cô như nhìn một bóng ma. Bản cáo trạng đọc dõng dạc: “Đào trộm mộ tại nghĩa trang Văn Điển, tái phạm nhiều lần.”

Chủ tọa cất giọng cứng rắn:

– Bị cáo có hiểu tội danh không?

Phượng cúi đầu:

– Dạ… con hiểu.

– Vì sao bị cáo lại làm như vậy?

Giọng ông rơi xuống, nặng nề như hòn đá. Cả phòng xử nín thở.

Phượng im lặng rất lâu. Rồi cô ngẩng lên, đôi mắt trũng sâu, giọng khàn đặc:

– Vì… hai đứa em của con.

Một làn sóng rúng động tràn khắp khán phòng. Người ta thì thầm, rồi lặng đi. Chủ tọa gật đầu ra hiệu, giọng bớt gay gắt:

– Nói rõ hơn.

Phượng bắt đầu kể. Bố mẹ mất sớm, cô gánh lấy mái nhà khi mới chưa đầy 16. Hai đứa em đang tuổi ăn học, còn cô làm thuê, bán hàng rong, cấy thuê, đổi công, làm hàng xáo, mò cua bắt ốc thôi thì không từ việc gì. Đầu tiên, cô chỉ mò vào nghĩa trang lấy trộm bát cơm quả trứng mấy chị em ăn cho qua bữa, sau là tấm áo manh quần, rồi đào những ngôi mộ mà cô biết người ta chôn theo những đồ quý giá… Mỗi lần đều thắp nhang, đều khấn xin. Mỗi lần đều hứa “chỉ một lần thôi.”

Đến đoạn thi thể đổ sập xuống, Phượng bật khóc, giọng nghẹn đặc. Nước mắt chảy dài xuống hai gò má hốc hác.

Bỗng từ hàng ghế khán giả, hai đứa trẻ òa khóc, lao lên phía trước. Đó là hai đứa em của Phượng. Chúng quỳ sụp, ôm lấy chị, nghẹn ngào:

– Chị ơi! Chúng em không biết… Chúng em không biết…

Khán phòng chấn động. Người tham dự phiên toà cúi mặt, nhiều người đưa tay lau vội nước mắt.

Thẩm phán im lặng rất lâu. Ông nhìn xuống hồ sơ, rồi nhìn cô gái gầy gò quỳ trong vòng tay hai đứa em. 

Toà xử án treo.

Mấy hôm trước nhà mình vừa xem xong bộ phim 150 tập của Hàn quốc. Bộ phim nói về cuộc đời của ba người chị thay cha mẹ đã chết nuôi em trai ăn học thành tài. Họ không ai đi ăn trộm, càng không trộm mộ- vì của nả cha mẹ để lại đủ ăn cả đời. Nhưng ông xã mình kể cho mình nghe vụ án chị gái đào mộ nuôi hai em, được xử khoan hồng do yếu tố nhân đạo. Nửa thế kỷ trước- chồng mình khi đó còn nhỏ, đã đi xem xử án.

Không biết ai ở Hà nội những năm đó còn nhớ vụ này không? Mình chỉ biết nghe rồi kể lại thôi…

Hồi đó… con người ta cũng thật biết thương lấy nhau. Giờ vì nghèo mà làm bậy- không biết toà xử sao? Lương tâm phán thế nào?

Hả các cụ?

Cụ Ka

Kiều Thị An Giang


 

Thư gửi cho chính mình khi về già

Vanhoa Nguyen – Chuyện tuổi Xế Chiều

Thư gửi cho chính mình khi về già

Con à, khi con già đi…

Đừng cố dạy ai điều gì. Dù con có đúng, hãy nhớ lại, ngày xưa chính con cũng khó chịu thế nào khi người lớn tuổi luôn cho rằng họ biết hết.

Đừng ép buộc ai, cũng đừng cố bảo vệ hết thảy những người thân khỏi mọi nỗi khổ của cuộc đời. Chỉ cần yêu họ thôi là đủ.

Đừng suốt ngày than phiền về bệnh tật, về hàng xóm, về chính quyền hay về lương hưu. Đừng biến mình thành một bà cụ cáu kỉnh.

Đừng mong chờ con cái phải biết ơn. Hãy nhớ: không có con cái nào vô ơn cả – chỉ có những bậc cha mẹ dại khờ, đặt quá nhiều kỳ vọng vào lòng biết ơn.

Đừng bao giờ nói những câu khó nghe như:

“Ngày xưa mẹ bằng tuổi con thì…”,

“Cả tuổi thanh xuân mẹ đã hy sinh cho con…”,

“Mẹ lớn tuổi hơn nên mẹ biết nhiều hơn…”.

Những lời ấy chẳng giúp gì, chỉ khiến người nghe thêm nặng lòng.

Nếu có cháu, hãy để chúng gọi con bằng bất cứ cái tên nào chúng thích. Điều quan trọng không phải là cách gọi, mà là tình cảm chúng dành cho con.

Đừng lãng phí tiền vào những liệu pháp “cải lão hoàn đồng”. Vô ích thôi. Hãy dành số tiền ấy cho một chuyến đi, một trải nghiệm vui, một kỷ niệm đẹp.

Đừng soi gương trong bóng tối để tự lừa dối mình. Hãy nhìn thẳng vào tuổi tác, và cố gắng giữ cho mình nét thanh lịch, sang trọng. Không cần trẻ lại, chỉ cần đẹp trong sự chín muồi.

Hãy chăm sóc chồng con, ngay cả khi ông ấy đã trở thành một ông già gầy yếu, khó tính. Đừng quên rằng, đã có lúc ông ấy trẻ trung, mạnh mẽ, vui tươi… Và có thể chính lúc này, ông ấy mới thật sự cần con nhất.

Đừng cố chạy theo thời đại: con không cần phải rành công nghệ mới, không cần ép mình theo dõi mọi tin tức, không cần học thêm mọi thứ chỉ để “không tụt hậu”. Hãy làm những gì khiến con vui, thế là đủ.

Đừng tự trách mình vì những gì đã qua – trong đời con hay trong đời con cái. Con đã làm hết sức rồi.

Và trên hết, hãy giữ phẩm giá của mình, trong bất kỳ hoàn cảnh nào. Cho đến giây phút cuối cùng.

Cuối cùng, xin nhớ: nếu con còn sống, nghĩa là vẫn có ai đó cần đến con.

Tác giả vô danh – nhưng như viết cho tất cả chúng ta.

Sưu tầm


 

Nỗi sợ lớn nhất của tuổi già

Anh Chi -Tâm Thức Việt

Nỗi sợ lớn nhất của tuổi già

“Con có biết điều khó nhất khi già đi là gì không?”

“Là gì ạ?”

“Là trở nên vô hình. Khi còn trẻ, con vẫn là ‘ai đó’: xinh đẹp, vui vẻ, lôi cuốn, mạnh mẽ… ít nhất cũng là người được chú ý. Nhưng rồi tất cả phai tàn. Và bỗng nhiên, con chỉ còn là ‘ông già khoác áo sờn cũ’ hay ‘bà cụ đội mũ len và mặc chiếc áo len bạc màu’. Cảm giác như mình chẳng tồn tại nữa. Như thể mình trong suốt.”

Đoạn thoại này lấy từ một bộ phim truyền hình nổi tiếng của Anh. Nghe buồn, nhưng lại đúng lắm.

Quá nhiều khi, thứ duy nhất người ta nhìn thấy ở một người già chính là… tuổi tác. Không ai nói: “bà từng là cô giáo dạy ngoại ngữ” hay “ông từng là kỹ sư.” Họ chỉ buông một câu: “bà ấy ngoài tám mươi rồi,” “ông chắc cũng gần chín mươi.”

Theo thời gian, số người thực sự biết câu chuyện đời bạn — bạn từng là ai, yêu thích điều gì, giỏi điều gì — ngày một ít đi. Bạn bè mất dần. Người còn sống thì chẳng ra ngoài nổi. Chuyến đi xa nhất trong ngày có khi chỉ là xuống cửa hàng tạp hóa mua ổ bánh mì.

Trong khi đó, con cháu ai cũng bận rộn với guồng quay riêng. Thỉnh thoảng mới gọi điện. Hiếm hoi lắm mới ghé thăm. Ở khu chung cư, đã có hàng xóm mới: những cặp vợ chồng trẻ, ông bố bận rộn xách túi đồ, những chiếc xe nôi lăn qua lại. Không ai biết tên bà cụ sống ở tầng hai. Cửa hàng góc phố cũng đổi nhân viên mới, chẳng còn khuôn mặt thân quen. Nhiều nhất, người ta chỉ biết số phòng và chừng tuổi của bạn. Còn sau cánh cửa ấy là gì? Chẳng ai quan tâm. Và thế là khoảng trống len vào.

Chúng ta thường thắc mắc: tại sao mẹ gọi điện mười lần một ngày chỉ để nói chuyện vụn vặt? Sao cha cứ lặp đi lặp lại cùng một câu hỏi?

Sự thật là: họ chỉ sợ bị lãng quên. Họ muốn được chú ý. Muốn được lắng nghe. Dù chỉ qua điện thoại.

Bởi già đi không chỉ là cộng thêm tuổi. Già đi còn là cảm giác dần bị xóa khỏi thế giới.

Già đi còn là nỗi cô đơn.

Già đi còn là khao khát vẫn còn ý nghĩa với ai đó.

Đừng đợi đến khi quá muộn. Hãy gọi điện. Hãy ghé qua. Hãy hỏi một câu: “Hôm nay bố mẹ thế nào?”

Với bạn, đó chỉ là một phút.

Với họ, đó là cả một thế giới.

Đôi khi, chỉ một câu đơn giản: “Con vẫn nhớ” cũng đủ để ai đó thấy mình vẫn còn sống — được nhìn thấy, được trân trọng, không bị bỏ quên.

St


 

LS thứ Sáu Các triệu chứng bệnh tâm lý ở người cao tuổi – Dr. Wynn Tran

LS thứ Sáu Các triệu chứng bệnh tâm lý ở người cao tuổi. 

Đây là các bệnh hay gặp với ông bà cha mẹ của chúng ta:

Sa sút trí tuệ (Dementia): phổ biến nhất là Alzheimer, ngoài ra có sa sút trí tuệ mạch máu, thể Lewy 

Trầm cảm người già (Late-life depression): nhiều quý vị thường bị bỏ qua, dễ nhầm với suy giảm trí nhớ hoặc mệt mỏi tuổi già.

Rối loạn lo âu: lo âu lan tỏa, ám ảnh, hoảng loạn.

Rối loạn giấc ngủ: mất ngủ, rối loạn nhịp thức-ngủ.

Rối loạn tâm thần do bệnh lý cơ thể: Parkinson, sau tai biến mạch máu não, bệnh tim mạch, bệnh nội tiết.

Rối loạn tâm thần do thuốc: thuốc ngủ, thuốc chống Parkinson, corticosteroid

Tâm thần phân liệt (Schizophrenia) khởi phát muộn

Bấm huyệt, phần cổ, cột sống rất phải cẩn thận

Chuyện tuổi Xế ChiềuCông Tú Nguyễn

  Việc này xảy ra quá nhiều rồi và tôi tin là sẽ còn xảy ra nữa với người lao động ít cập nhật thông tin. Các bạn đi mát-xa, bấm huyệt, phần cổ, cột sống rất phải cẩn thận. Tôi có ông bạn đi mát-xa ở NY, liệt cho 6 tháng sau khi bẻ cổ, may mà sau đấy khỏi. Nhiều năm trước có mấy cậu thợ đóng gạch, giờ nghỉ giải lao tẩm quất bẻ cổ cho nhau, cố tạo ra tiếng rắc, khiến bạn chết ngay lập tức.

Trường hợp này thì là gặp bác sỹ nắn chỉnh xương.

“Vào năm 2022, Caitlin Jensen đến gặp một bác sĩ nắn chỉnh xương ở Georgia để điều chỉnh cổ và phải chịu những chấn thương thay đổi cuộc đời. 

Ngay sau khi thực hiện thủ thuật, cô cảm thấy không khỏe và được đưa đến phòng cấp cứu, nơi các xét nghiệm cho thấy bốn động mạch ở cổ bị rách. 

Điều này dẫn đến ngừng tim, đột quỵ và mất mạch hơn 10 phút trước khi được hồi sinh. 

Cô đã sống sót nhưng không còn khả năng nói và bị hạn chế vận động.”

Nguồn: Morbid Knowledge