LỐC THÁNH THẦN – Lm. Minh Anh, Tgp. Huế
Lm. Minh Anh, Tgp. Huế
“Saolô, Saolô, sao ngươi bắt bớ Ta?”.
Tại một bữa tiệc, văn hào Mark Twain ngồi đối diện với một mệnh phụ xinh đẹp nhưng xem ra khá kênh kiệu. Ông nói, “Cô thật xinh!”. Phụ nữ ấy không hề cảm kích mà còn khích nộ, “Rất tiếc, không cách nào để tôi có một lời khen tương tự dành cho ông!”. Mark Twain bình thản, “Không sao, cô có thể nói một điều gì đó ‘hơi dối’ như tôi vậy!”. Nghe xong, cô ấy xấu hổ, cúi mặt lí nhí, “Tôi quá cao ngạo, thành thật xin lỗi ông!”.
Kính thưa Anh Chị em,
Nếu hai tuần qua, chúng ta mục kích những hoạt động của Thánh Thần trên các tông đồ – những con người ‘được ru hời’ – khi họ để mình ‘cuốn theo chiều gió’ Thánh Linh, thì trình thuật Saolô – “một người quá cao ngạo” – bị quật ngã và trỗi dậy hôm nay là một điều gì chớp nhoáng, mạnh mẽ và khốc liệt hơn. Nó được gọi là ‘lốc Thánh Thần!’.
“Saolô, Saolô, sao ngươi bắt bớ Ta?”, tiếng từ trời tựa hồ sấm ran ấy đã hỏi một con người nửa tỉnh nửa mê đang ngã quỵ; một người ‘cuồng nhiệt’ với dáng dấp một kẻ ‘cuồng tín!’. Saolô đâu biết ‘cuồng nhiệt’ với điều thánh thiêng không luôn luôn đồng nghĩa với việc làm đẹp lòng Chúa. Saolô gục ngã; nhưng may thay, lốc dịu lại và gió Thánh Thần đã nâng ông lên. Dầu sợ hãi, nhưng tâm hồn Saolô bắt đầu nhũn nhặn, mở ra để ân sủng đổ xuống cho một phẩm giá được phục hồi. Vậy mà tất cả những điều ấy chỉ xảy ra ngang qua sự khiêm nhường của một con người ngoan nguỳ.
Hành trình đức tin của Saolô là hành trình của một con người dám để Chúa Phục Sinh biến đổi trái tim. Tiếng sấm từ trời không chỉ tra vấn Saolô, nhưng còn mời ông “Đứng lên!”. Trỗi dậy, Saolô biết mình mù, ông đưa tay cho người ta dắt. Từ đó, tim ông mở ra và Thánh Thần đã biến Saolô thành một “Phaolô” khiêm hạ. Cũng từ đó, Phaolô nhận một sứ vụ mới, “Hãy đi khắp tứ phương thiên hạ mà loan báo Tin Mừng!” – Thánh Vịnh đáp ca.
Để từ đó, Phaolô không còn là mình, nhưng đã ‘nên một’ với Chúa Kitô, “Tôi sống nhưng không còn là tôi sống, mà Chúa Kitô sống trong tôi!”. Tin Mừng hôm nay cũng nói đến ‘nên một’ với Chúa Kitô, “Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì ở lại trong tôi và tôi ở lại trong người ấy!”. Chớ gì ‘lốc Thánh Thần’ không chỉ thổi tróc những cao ngạo của bạn và tôi nhưng còn ‘lôi kéo’ chúng ta đến với Thánh Thể hầu có thể nên một với Chúa Kitô mỗi ngày!
Anh Chị em,
“Sao ngươi bắt bớ Ta?”. Một khi mời gọi ai, Thiên Chúa luôn tra vấn người ấy và Ngài cho phép những gì cần thiết xảy ra nhằm giúp người ấy trở nên khiêm tốn vốn có thể mở rộng lòng mình cho Ngài. Thế nhưng, đừng quên, nhân vật chính ở các câu chuyện của những con người được ‘lốc Thánh Thần’ thổi tung không phải là các ‘đương sự’ nhưng là Chúa Thánh Thần. Chủ thể của các câu chuyện trong Tông Đồ Công Vụ là Thánh Thần. Ngài không ngừng ‘hà hơi ru hời’ – và nếu cần – tạo nên những cơn lốc. Đó có thể là việc quật ngã một sự nhiệt thành cuồng tín hay một ý chí lệch lạc; cũng có thể là đánh sập một sự tự phụ nơi một ai đó. Tất cả như để dọn đường cho những kế sách Ngài đã hoạch định.
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa Thánh Thần, cứ thổi tróc cao ngạo của con, nhưng đừng quên nâng con lên, cho con được ru hời hầu có thể trở nên con người Chúa muốn con trở thành!”, Amen.
(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế)
************************************************
Thứ Sáu Tuần III Phục Sinh
Thịt tôi thật là của ăn, và máu tôi thật là của uống.
✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Gio-an. Ga 6,52-59
52 Khi ấy, người Do-thái tranh luận sôi nổi với nhau. Họ nói : “Làm sao ông này có thể cho chúng ta ăn thịt ông ta được ?” 53 Đức Giê-su nói với họ : “Thật, tôi bảo thật các ông : nếu các ông không ăn thịt và uống máu Con Người, các ông không có sự sống nơi mình. 54 Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết, 55 vì thịt tôi thật là của ăn, và máu tôi thật là của uống. 56 Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì ở lại trong tôi, và tôi ở lại trong người ấy. 57 Như Chúa Cha là Đấng hằng sống đã sai tôi, và tôi sống nhờ Chúa Cha thế nào, thì kẻ ăn tôi, cũng sẽ nhờ tôi mà được sống như vậy. 58 Đây là bánh từ trời xuống, không phải như bánh tổ tiên các ông đã ăn, và họ đã chết. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời.”
59 Đó là những điều Đức Giê-su đã nói khi giảng dạy trong hội đường, ở Ca-phác-na-um
TIỂU SỬ ĐỨC TÂN GIÁO TÔNG LEO XIV – Lm. Phê rô Nguyễn Văn Khải DCCT
Phêrô Nguyễn Văn Khải
Đức Tân Giáo tông tên là Robert Francis Prevost, người Hoa Kỳ, tu sĩ Dòng Thánh Augustino, nguyên Tổng trưởng Bộ Giám mục.
Ngài sinh ra tại Chicago, Illinois, Hoa Kỳ, ngày 14 tháng 9 năm 1955, trong một gia đình di dân mà thân phụ là Louis Marius Prevost, một Pháp lai Ý, còn thân mẫu là Mildred Martínez, người gốc Tây Ban Nha, ngài có hai anh là Louis Martín và John Joseph.
Ngài học xong trung học tại tiểu chủng viện Dòng Thánh Augustinô năm 1973. Năm 1977 ngài tốt nghiệp Cử nhân Toán học và Cao học Triết tại Đại học Villanova, Philadelphia.
Ngày 1 tháng 9 năm 1977, ngài vào tập viện Dòng Thánh Augustino tại Saint Louis, Hoa Kỳ và ngài khấn trọng trong Dòng này ngày 29 tháng 8 năm 1981.
Năm 1982 ngài tốt nghiệp Thạc sĩ tại Học viện Thần học Công giáo Chicago và được thụ phong linh mục tại Roma ngày 19 tháng 6 năm 1982.
Năm 1985, ngài được gửi đi truyền giáo tại Peru và giữ chức vụ Chưởng ấn của giáo phận Chulucanas và Phó xứ giáo xứ Chính Tòa tại đây cho đến năm 1986.
Năm 1987, ngài tốt nghiệp Tiến sĩ Giáo luật tại Đại học Giáo hoàng Tôma Aquino. Luận án của ngài có tựa đề là “Vai trò của bề trên địa phương trong Dòng Thánh Augustino”.
Từ năm 1987 đến năm 1988, ngài cư trú tại Olympia Fields, phụ trách mục vụ ơn gọi và làm giám đốc các sứ vụ tông đồ của Tỉnh Dòng tại Hoa Kỳ.
Năm 1988, ngài trở lại Peru làm bề trên cộng đoàn cho đến năm 1992; rồi làm giám đốc chủng viện Augustino tại Trujillo từ 1988 đến năm 1998, kiêm giáo sư Giáo luật, giáo sư luân lý và Giáo phụ tại Chủng viện của các giáo phận San Carlo và San Marcello.
Ngài cũng làm giám học và sau đó làm giám đốc của chủng viện giáo phận Trujillo một năm, rồi làm thẩm phán của tòa án và thành viên của hội đồng cố vấn của Tổng giáo phận Trujillo.
Ngài là người sáng lập giáo xứ Đức Mẹ là Mẹ Giáo Hội mà ngày nay là giáo xứ Thánh Rita da Cascia từ năm 1988 đến năm 1999, và từ năm 1992 ngài còn quản nhiệm giáo xứ Đức Mẹ Montserrat.
Năm 1999 ngài trở về Chicago làm Giám tỉnh của Tỉnh Dòng Thánh Augustino Chicago. Ngày 14 tháng 9 năm 2001, ngài được bầu làm Bề trên Tổng quyền của Dòng và ngài giữ chức vụ này trong hai nhiệm kỳ 6 năm, cho đến ngày 4 tháng 9 năm 2013.
Sau đó, ngài giữ chức giám đốc đào tạo tại Tu viện Thánh Augustino ở Chicago, cố vấn thứ nhất và Phó Giám tỉnh của Tỉnh Dòng Đức Mẹ Chỉ Bảo Đàng Lành.
Vào ngày 3 tháng 11 năm 2014, Đức Giáo hoàng Phanxicô đã bổ nhiệm ngài làm giám quản tông tòa của giáo phận Chiclayo và giám mục hiệu tòa Sufar. Ngày 7 tháng 11, ngài đã tiếp quản sứ vụ trước sự hiện diện của Đức TGM James Patrick Green, sứ thần tòa thánh và của hội đồng cố vấn.
Ngài đã được Đức Tổng Giám mục James Patrick Green truyền chức giám mục vào ngày 12 tháng 12 tại Nhà thờ Santa Maria ở Chiclayo từ, Sứ thần Tòa thánh tại Peru.
Vào ngày 26 tháng 9 năm 2015, Đức Giáo hoàng Phanxicô đã bổ nhiệm ngài làm giám mục của giáo phận Chiclayo.
Từ tháng 3 năm 2018 đến tháng 1 năm 2023, ngài là Phó Chủ tịch thứ hai của Hội đồng Giám mục Peru, kiêm Chủ tịch của Ủy ban Văn hóa và Giáo dục và là thành viên của Hội đồng Kinh tế.
Vào ngày 15 tháng 4 năm 2020, chính Giáo hoàng Phanxicô cũng bổ nhiệm ngài làm giám quản tông tòa Callao. Ngài giữ chức vụ này đến ngài 26 tháng 5 năm 2021.
Ngài được bổ nhiệm làm thành viên của Bộ Giáo sĩ kể từ ngày 13 tháng 7 năm 2019 và của Bộ Giám mục kể từ ngày 21 tháng 11 năm 2020.
Ngày 30 tháng 1 năm 2023, Đức Giáo hoàng Phanxicô bổ nhiệm ngài làm Tổng trưởng Bộ Giám mục và Chủ tịch Ủy ban Giáo hoàng về Châu Mỹ Latinh, đồng thời phong cho ngài chức danh Tổng giám mục-Giám mục danh dự của Chiclayo. Ngài bắt đầu nắm giữ cả hai chức vụ vào ngày 12 tháng 4 năm 2023.
Ngài còn được bổ nhiệm làm thành viên của Bộ Giáo lý Đức tin, Bộ các Giáo hội Đông phương, Bộ Đời sống Thánh hiến và các Tu đoàn Tông đồ, Bộ Văn hóa và Giáo dục, Bộ Rao giảng Tin Mừng, Uỷ Ban Giải Thích Văn bản Lập pháp và Ủy ban Giáo hoàng về Thành quốc Vatican.
Ngày 9 tháng 7 năm 2023, khi kết thúc Kinh Truyền Tin, Đức Giáo hoàng Phanxicô đã công bố tấn phong ngài làm hồng y phó tế.
Ngày 6 tháng 2 năm 2025, Đức Giáo hoàng Phanxicô đã nâng ngài làm hồng y giám mục và trao cho ngài chức vụ giám mục danh dự của Albano, một giáo phận ngoại ô Roma.
Ngày 8 tháng 5 năm 2025, ngài được các đức hồng y trong Mật nghị bầu làm vị giáo tông 267. Ngài lấy tên gọi là Leo XIV (Tiếng Việt đọc là “Lê – Ô Thứ Mười Bốn”, hoặc “Lê-ô Mười Bốn”).
Ngài là một mục tử, một nhà truyền giáo, một nhà đào tạo, một nhà quản trị, có kinh nghiệm mục vụ quốc tế, cả ở Giáo triều Roma lẫn các quốc gia trên thế giới.
Ngày là người Mỹ đầu tiên được bầu làm Giáo tông,  đứng đầu Giáo hội Công giáo hoàn vũ.
Ngoài tiếng Anh, ngài còn nói được tiếng Tây Ban Nha, tiếng Ý, tiếng Pháp và tiếng Bồ Đào Nha. Ngài cũng đọc hiểu được tiếng Latin và tiếng Đức.
Sự xuất hiện đầu tiên của ngài, từ phong cách đến nội dung thông điệp làm tôi nhớ đến dung nhan và phong cách của Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolo II trước đây.
Lm. Phê rô Nguyễn Văn Khải DCCT.
(Tổng hợp từ các tài liệu Tây Phương).
Giáo hoàng Lêô XIV – (Leo thứ 14)
Hai người Trung Quốc đào trộm mộ vua ở Thanh Hóa
May 8, 2025
Hai người đàn ông Trung Quốc bị bắt khi đang trên đường trốn về nước sau khi mang thiết bị dò kim loại đến khu di tích Lam Kinh để đào bới lăng mộ vua Lê Túc Tông – một phần linh thiêng của lịch sử Việt Nam.
Chiều ngày 6 Tháng Năm, Công an tỉnh Quảng Ninh đã bắt giữ hai nghi can Deng Zhiji (41 tuổi) và Shen Jiangyang (43 tuổi), đều quê ở Quảng Tây, Trung Quốc. Cả hai bị cáo buộc “xâm phạm thi thể, mồ mả, hài cốt” và đã được bàn giao cho công an tỉnh Thanh Hóa để tiếp tục điều tra.
Trước đó, vào tối 3 Tháng Năm, trong lúc tuần tra khu vực lăng mộ vua Lê Túc Tông tại xã Kiên Thọ, huyện Ngọc Lặc, lực lượng bảo vệ di tích phát hiện dấu hiệu lạ: một khu đất có dấu vết đào bới, kèm theo một điện thoại di động có cài đặt tiếng Trung, giấy tờ tùy thân và một dụng cụ kim loại để xăm dò lòng đất. Tất cả đều nằm gần khu vực nơi từng an táng vị vua thứ bảy của triều Lê sơ – người chỉ trị vì vỏn vẹn bảy tháng trước khi băng hà vào năm 1504.
“Chúng dùng thiết bị dò xuyên đất để tìm đồ tùy táng có giá trị, có thể là vàng bạc, ngọc ngà hoặc cổ vật quý hiếm,” đại diện Trung tâm Nghiên cứu Lịch sử và Bảo tồn Di sản Văn hóa Thanh Hóa xác nhận. Vụ việc đã lập tức được báo cáo lên Sở Văn hóa – Thể thao và Du lịch tỉnh Thanh Hóa.
Nhận tin báo, công an tỉnh Thanh Hóa phối hợp với công an tỉnh Quảng Ninh lập tức mở cuộc truy bắt. Đến khoảng 2 giờ 15 chiều 4 Tháng Năm, cảnh sát giao thông Quảng Ninh kiểm tra một xe taxi ở khu vực Móng Cái – cửa ngõ biên giới Việt – Trung, thì phát hiện và bắt giữ hai nghi can đang chuẩn bị xuất cảnh.
Tại cơ quan điều tra, cả hai khai nhận đã nhập cảnh vào Việt Nam hôm 28 Tháng Tư qua cửa khẩu quốc tế Móng Cái, mang theo thiết bị dò kim loại và bộ dụng cụ chuyên dụng để “săn cổ vật.” Tại Thanh Hóa, họ thuê xe máy để tiếp cận khu di tích Lam Kinh, nghiên cứu địa hình và chuẩn bị dụng cụ như khoan điện, dây thừng, cưa tay, bao bì, cuốc xẻng.
Ngày 3 Tháng Năm, họ thực hiện hành vi đào bới tại lăng mộ nhưng không tìm được gì đáng giá. Khi thấy có người xuất hiện gần đó, cả hai vội bỏ lại dụng cụ, trốn chạy.
Theo báo Dân Trí, lăng mộ vua Lê Túc Tông từng bị tàn phá trong quá khứ, chỉ còn lại một số gạch vồ mỏng. Sau khi khảo sát lại vào năm 1997, khu mộ được phục dựng, xây bằng gạch và trát xi măng bên ngoài.
Hành vi đào trộm mộ không chỉ là hành vi phạm pháp nghiêm trọng, mà còn là sự xúc phạm đến di sản quốc gia và linh hồn tổ tiên người Việt. Trong bối cảnh Việt Nam đang nỗ lực gìn giữ những giá trị văn hóa lịch sử hàng trăm năm tuổi, vụ việc này gióng lên hồi chuông báo động về lỗ hổng trong việc bảo vệ các khu di tích linh thiêng – đặc biệt là trước sự nhòm ngó từ bên ngoài.
Liệu đây chỉ là vụ việc đơn lẻ, hay đằng sau còn một đường dây săn cổ vật xuyên biên giới? Nhà Cầm Quyền CSVN có dám làm rõ đến tận gốc, hay sẽ chỉ dừng lại ở việc xử lý “hai cá nhân xâm phạm”?
Ta là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ sống đời đời.(Ga 6:51) – Cha Vương
CHUYỆN VỢ CON ÔNG TỐ HỮU, BÂY GIỜ MỚI KỂ
Việt Nam xưa và nay – Lien Nguyen
Dai Tat Phan NHỮNG BÀI POST HAY.
Nước mình nghèo đến nỗi như thế này cũng từ những chính sách chế độ thiếu nhất quán.
Vào năm nào đó tôi cũng quên rồi, chỉ biết khi đó nhà ông Tố Hữu ở phố Hồ Xuân Hương được hoá giá rẻ như cho sau khi họ trả nhà công vụ ở Phan Đình Phùng, HN. Báo Tiền phong đã có bài phàn nàn về một cố ủy viên Bộ chính trị , nhà thơ lớn Tỗ Hữu không có chỗ để lập bàn thờ. Mới nghe, ai cũng mủi lòng thương cảm với ông. Nhiều người tỏ ra bất bình với Đảng và nhà nước sao lại đối xử phũ với một bậc lão thành như vây.
Do bị áp lực của dư luận, Ban Tư tưởng Văn hoá buộc phải công bố sự thật của một nhân vật nổi tiếng , đáng trân trọng nhưng người thân của ông thì đã làm hại thanh danh ông tại một buổi giao ban báo chí định kỳ mà tôi có dự và được Trưởng ban Tư tưởng Văn hoá ngày đó là nhà báo Hữu Thọ được phép của cấp trên ” nói lại cho rõ”.
Số là sau khi gia đình ông Tố Hữu chuyển về phố Hồ Xuân Hương, gia đình nhà thơ đã cho một hãng dầu nhờn nước ngoài thuê, lấy mỗi tháng tới 9 ngàn đô la. Vì thế, bà Thanh, nguyên Phó ban Tuyên giáo Trung ương Đảng, vợ cố nhà thơ Tố Hữu phải về nhà con ở tại phường Thành Công ở nhờ để tiếp tục xin thêm chế độ nhà theo tiêu chuẩn ngang thứ trưởng riêng bà . Vì có chật nên bàn thờ không được đàng hoàng như nhà biệt thự nếu ở phố Hồ Xuân Hương mà gia định được mua rẻ. Lỗi này đâu phải do Đảng không chăm sóc chu đáo ? Báo Tiền phong bữa đó bị hớ to.
Từ ngôi biệt thự ở Hồ Xuân Hương, sau này gia đình bán cho ông Phạm Nhật Vũ Cty AVG, nghe đâu cả chục ngàn cây vàng. Điều này thì tôi ko nắm được mà nay đọc bài sau đây mới biết.
Từ chuyện gia đình ông Tố Hữu, tôi thấy buồn cho gia đình các quan chức , họ không hiểu rằng, tiền nhiều bao nhiêu cũng không đổi được thanh danh vốn người thân của họ được cả xã hội một thời trân trọng.
(Bài viết của Nhà báo Quoc Phong kể lại vào 2-12-2018) .
BA VAI TRÒ TRONG CUỘC ĐỜI LÀM CÁCH MẠNG CỦA TỐ HỮU
Bải ở Tố Hữu có ba vai trò trong suốt cuộc đời cách mạng của ông. Vai trò thứ nhất là làm quan, trong nhiều vị trí cao cấp của đảng. Vai trò thứ hai là làm chính trị và vai trò thứ ba là làm…thơ. Cả ba vai trò ấy đều có vấn đề, mà đều là vấn đề lớn liên quan tới nhiều người, nhiều thế hệ và nhiều năm sau đó.
Làm quan, Tố Hữu lợi dụng chức quyền đày đọa cả một thế hệ tinh hoa văn học trong phong trào Nhân văn giai phẩm. Đây là một phong trào đòi tự do nghệ thuật và thể hiện quan điểm chính trị của một số văn nghệ sĩ và trí thức sống ở miền Bắc, khởi xướng đầu năm 1955 và kết thúc vào tháng 6 năm 1958.
Là Thứ trưởng Bộ Tuyên truyển khi phong trào Nhân Văn giai phẩm nổi lên, Tố Hữu đã thẳng tay ra lệnh đàn áp, bắt bớ các thành viên của phong trào và cho tới nay người trong cuộc đã vạch trần mọi sự trước dư luận quần chúng. Trần Dần, Phùng Quán, Hữu Loan, Nguyễn Hữu Đang, Lê Đạt, Quang Dũng, Hoàng Cầm, Văn Cao, Phùng Cung…..Ngày nay thành viên Nhân văn giai phẩm được trả lại sự thật và phục hồi danh dự cho họ nhưng Tố Hữu vẫn lặng im như người ngoài cuộc mặc dù nhiều tư liệu cũng như lời chứng của người trong cuộc cho thấy ông ta chủ trì việc bách hại tự do sáng tác của phong trào này.
Làm chính trị, trong vai trò một Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Tố Hữu tham gia thảo luận và ký quyết định “Giá, lương, tiền” vào tháng 9 năm 1985. Quyết định này đã làm Việt Nam rơi vào vòng xoáy của lạm phát có lúc lên đến 770% và người dân oán thán như bị B52 tận diệt. Tố Hữu trở thành trò hề của kinh tế xã hội chủ nghĩa. Một năm sau cơn khủng hoảng, năm 1986, Việt Nam tiến hành đổi mới, Tố Hữu mất uy tín chính trị vì phải chịu trách nhiệm trong những vụ khủng hoảng tiền tệ nên bị miễn nhiệm các chức vụ quản lý, chỉ còn giữ chức danh đại biểu quốc hội.
Làm thơ có lẽ là lĩnh vực tai tiếng nhất của Tố Hữu. Ông được mệnh danh là nhà thơ cách mạng nhưng bỏ xa đồng nghiệp trong lĩnh vực tuyên truyền và nịnh bợ các tay trùm Cộng sản. Nếu những bài thơ đưa Hồ Chí Minh lên tới mây xanh thì người ta còn có thể hiểu được nhưng với Stalin, con ác quỷ của phe Xã hội chủ nghĩa mà Tố Hữu cũng làm những câu thơ tụng ca y ngang hàng với Thượng đế thì người dân không còn khả năng căm phẫn nữa, họ phỉ nhổ và chà đạp lên những từ ngữ trịch thượng mà Tố Hữu đã dày công sáng tác. Những câu thơ như thế này đã và vĩnh viễn là vết nhơ trong dòng thơ hiện đại Việt Nam, kể cả dòng thơ cách mạng:
“Áo Ông trắng giữa mây hồng
Mắt Ông hiền hậu, miệng Ông mỉm cười
Stalin! Stalin!
Yêu biết mấy, nghe con tập nói
Tiếng đầu lòng con gọi Stalin!
….
Thương cha, thương mẹ, thương chồng
Thương mình thương một, thương Ông thương mười”
Bao nhiêu thứ Tố hữu đã làm được lịch sử ghi lại đầy đủ. Chứng nhân trong vụ Nhân văn giai phẩm, gần sáu mươi triệu đồng bào cả nước trong vụ “Giá, lương, tiền” năm 1985 và hàng triệu trẻ con qua nhiều thế hệ học thơ Tố Hữu trong trường chẳng lẽ còn chưa đủ xấu hay sao mà lại bày trò xây dựng khu lưu niệm cho ông ấy?
(Trích : bài viết của Cánh Cò viết ở Đài Á Châu Tự Do RFA )
Hài cốt chồng trong trại tù cải tạo – Đoàn Trọng Hiếu
Son H Cao
Dường như đã được sắp xếp, người thiếu phụ lặng lẽ đi theo, tên cán bộ ra lệnh cho chúng tôi đi ra khu nghĩa địa. Đến nơi, hắn bảo chúng tôi đi tìm mộ của Trần Thiên Thọ Hải. Chúng tôi nhớ ra đại úy Hải chết vào đợt những anh em đầu tiên năm 1977, như vậy là nằm ở sâu trong cùng sát chân đồi. Sau gần 15 phút chúng tôi đã tìm được ngôi mộ của anh với tấm bia chỉ nhỏ bằng tờ giấy học trò ghi lờ mờ, còn nắm đất thì chỉ cao hơn mặt đất chừng một tấc. Chúng tôi được lệnh là đào để bốc cốt cho chị mang về trong Nam . Việc đầu tiên là tìm một ít cành khô để đốt một đống lửa sưởi ấm và lấy ánh sáng, chị bắt đầu lấy ra môt bó nhang đốt lên rồi quỳ xuống vái ba lạy. Cầm nguyên bó nhang chị thổn thức khóc và nằm phủ phục lên ngôi mộ. Dưới ánh lửa tôi thấy thiếu phụ còn rất trẻ chỉ khoảng dưới 30, nét mặt xương xương.
Chúng tôi đứng lặng yên tôn trọng nỗi đau của chị, cho đến khi tên cán bộ yêu cầu chúng tôi “khẩn trương” bắt tay vào việc, vì trời đã lâm râm mưa phùn. Chúng tôi dìu chị đứng dậy sang bên cạnh và bắt đầu đào. Chỉ không đầy 20 phút chúng tôi đã đụng lớp ván đã mục, vì khi tù nhân chết thì chỉ được bỏ vào cái quan tài nhỏ vừa khít người được đóng bằng loại gỗ bạch đàn hay bồ đề, một loại cây được trồng để làm giấy, nên rất nhẹ xốp, được xẻ thành từng thanh và đóng hở như cái vạt giường, nên thấy cả xác nằm bên trong và đám tù hình sự khi đi chôn thì chỉ đào sâu khoảng 4 tấc rồi vùi lấp qua loa. Gỡ lớp ván trên mặt, bên trong là bộ quần áo tù đã rữa nát. Tôi đi xách một thùng nước ở dưới ruộng để rửa cho sạch đất, người thiếu phụ cũng đã lấy ra một cái thau nhựa và đổ vào đó một ít rượu. Chúng tôi cẩn thận nhặt từng cái xương rũ cho bớt đất, rửa cho sạch rồi trao cho chị. Chị cầm từng cái rửa trong rượu, rồi bỏ vào cái bịch nylon hai lớp. Chị đưa cho chúng tôi mỗi người một gói thuốc Tam Đảo rồi vừa làm chị vừa tâm sự:
– Giữa năm 79, em có xin phép ra thăm, nhưng khi đến trại thì họ nói là không có anh Hải ở đây, nhưng ít tháng sau thì em được tin anh Hải đã chết từ năm 77, do một chị bạn ra thăm chồng về cho biết.
Như vậy là họ đã dấu nhẹm không báo cho gia đình, mới đây một người mách bảo cho em ra Bộ Nội Vụ ngoài Hà Nội làm đơn xin bốc cốt, sau mấy lần làm đơn cuối cùng họ đã phải cho. Nhưng khi đến đây thì họ chỉ cho làm vào ban đêm và sau khi xong, họ không cho em ở lại nhà tiếp dân qua đêm với lý do là ô uế.
Sau gần một giờ, thấy có thể đã không còn sót cái xương nào, chúng tôi bảo chị để tránh rắc rối chị không nên mặc bộ đồ tang này. Chúng tôi lấy bộ quần áo tang quấn quanh cái bao nylon đựng cốt bỏ vào cái bị cói lớn rồi lấy sợi dây chuối khô khâu miệng lại để không ai nhìn thấy. Trên đường về trại, lúc đến chỗ rẽ, chị lý nhí vừa thổn thức khóc vừa cám ơn rồi dúi vào tay chúng tôi mấy gói thuốc còn lại. Nhìn người thiếu phụ tay xách cái bị cói đựng cốt chồng, lặng lẽ đi trong đêm, trên con đường rừng cô quạnh, khiến chúng tôi vô cùng thương cảm, ngậm ngùi, đứng trông theo.
Bỗng sự uất ức trào lên rồi không nén lại được, tôi thốt lên trong kẽ răng:
– Đ.M. Chúng mày rồi sẽ phải trả giá cho hành động này!
Chúng tôi đi vào theo cửa hông của cổng trại, rồi lặng lẽ đi về phòng. Tên thường trực thi đua đã đứng đợi sẵn để mở cửa.
Đã quá nửa đêm, cái lạnh đã thấm sâu vào người, nằm co quắp dưới lớp chăn mỏng, tôi thầm ái ngại cho số phận của người đàn bà bất hạnh. Chị mang cốt chồng đi giữa đêm trời giá lạnh của vùng rừng núi Việt Bắc, như người vợ, người mẹ Việt Nam đang mang nỗi đau, nỗi bất hạnh của cả một dân tộc đi trong đêm tối bão bùng.
Đoàn Trọng Hiếu
(Hình : Hồt cốt chồng trong tù cải tạo)
CHUYỆN TÌNH – Lm. Mark Link, S.J.
Lm. Mark Link, S.J.
Chủ Ðề: “Thiên Chúa mời gọi chúng ta tìm hiểu về Người, đi vào cuộc tình với Người, và sống hạnh phúc mãi mãi với Người.”
Nhiều năm trước đây có một cuốn phim nổi tiếng tên là Laura. Cuốn phim nói về một thám tử trẻ được giao cho công tác điều tra cái chết của một phụ nữ trẻ đẹp tên là Laura mà một đêm kia, có người đã dùng súng sát hại cô ngay trong căn phòng của cô.
Trong năm ngày tiếp đó, người thám tử trẻ ở suốt trong phòng của Laura để tìm tòi, lục soát đủ mọi thứ của cô: quần áo, sách vở, hình ảnh. Ngay cả đọc thư từ và nhật ký của cô để cố tìm ra manh mối đã dẫn đến cái chết của người phụ nữ này.
Và rồi điều lạ lùng xảy đến. Viên thám tử thực sự bận tâm với Laura. Anh bắt đầu có cảm tình. Anh thấy mình yêu Laura. Anh thấy mình yêu một người đã chết.
Một đêm kia khi đang trong phòng của Laura để tìm tòi, bỗng dưng anh nghe có tiếng chìa khóa lạch cạch ở cửa. Và khi cửa mở, anh không tin nổi ở mắt mình, cô Laura đang đứng ngay đó.
Cô hạch hỏi, “Ông đang làm gì trong phòng của tôi?” Viên thám tử giải thích cho cô những gì đã xảy ra.
Để rút ngắn câu chuyện, trong vài ngày qua cô Laura đã ra ngoại quốc, để lánh xa mọi sự. Trong thời gian đó, cô không nghe phát thanh và cũng chẳng đọc báo. Cô không biết gì về cái chết của chính mình.
Thì ra người phụ nữ bị giết là người đã dùng căn phòng của Laura trong thời gian cô đi vắng.
Cuốn phim kết thúc với cuộc tình của Laura và chàng thám tử, họ lấy nhau và sống hạnh phúc suốt đời.
Cuốn phim gồm ba cảnh.
Cảnh thứ nhất là chàng thám tử tìm tòi căn phòng của Laura, từ đó dẫn đến lòng thương yêu cô này.
Cảnh thứ hai là sự xuất hiện của Laura ở cửa phòng và chàng thám tử nhận ra cô.
Cảnh thứ ba là sự tỏ tình của chàng thám tử và anh kết hôn với Laura.
Ba cảnh này cũng là ba cảnh mà Thiên Chúa đã hoạch định cho mỗi người chúng ta.
Trước hết, Thiên Chúa đã tạo nên chúng ta và đặt chúng ta vào thế giới để tìm hiểu về Người, cũng như chàng thám tử được đặt trong phòng của Laura để tìm hiểu về cô này.
Thứ đến, Thiên Chúa, qua con người của Đức Giêsu Kitô, đã đi vào thế gian để được nhận biết bởi chúng ta, cũng như Laura đi vào căn phòng và được nhận biết bởi chàng thám tử.
Sau cùng, Thiên Chúa hoạch định để chúng ta đi vào cuộc tình với Người và sống hạnh phúc mãi mãi với Người, cũng như chàng thám tử đã yêu Laura và sống hạnh phúc bên cô.
Cảnh phim Laura và cảnh hoạch định của Thiên Chúa giúp chúng ta quý trọng hơn bài Phúc Âm hôm nay mà nó cũng phản ảnh một cảnh có ba phần.
Trước hết, Thiên Chúa đã đặt dân được chọn của Người trong Cựu Ước để tìm hiểu về Người.
Thứ hai, vào đúng thời đúng buổi, chính Thiên Chúa đã xuất hiện ở cửa ngõ lịch sử trong con người Đức Giêsu Kitô.
Sau cùng, những ai nhận Đức Giêsu là Chúa thì sẽ nghe tiếng Người, theo Người và được lãnh nhận sự sống đời đời từ Người.
Đây là điều Chúa Giêsu muốn nói trong bài phúc âm hôm nay, khi Người nói về những ai nhận biết Người:
”Chiên ta thì nghe tiếng ta; và chúng theo ta. Ta ban cho chúng sự sống đời đời.” Vì “Chúa Cha và ta là một.”
Hãy xem thử chúng ta áp dụng điều này vào cuộc sống như thế nào. Trước hết, hãy nhớ lại chàng thám tử trong cuốn phim và anh ta đã khảo sát thật kỹ lưỡng mọi thứ trong phòng cô Laura. Không có ngõ ngách nào mà không được tìm kiếm để anh biết mọi sự về cô ta.
Kết quả là anh yêu cô nàng, dù chưa bao giờ gặp mặt.
Đó cũng là điều chúng ta phải thi hành trong thế giới. Chúng ta phải nghiên cứu mọi sự. Và qua sự nghiên cứu thế giới và những bí ẩn cũng như sự mỹ miều của nó, và ngay cả những đau khổ, chúng ta phải đi vào cuộc tình với Thiên Chúa, mặc dù chúng ta chưa bao giờ diện đối diện với Người.
Thứ đến, chúng ta cũng phải nghiên cứu mọi thứ về Đức Giêsu Kitô. Chúng ta phải học hỏi mọi thứ về Người nếu có thể. Vì trong Đức Giêsu chúng ta gặp gỡ Thiên Chúa diện đối diện, cũng như viên thám tử gặp gỡ Laura diện đối diện ở ngưỡng cửa căn phòng.
Chúa Giêsu nói, “Ai thấy ta là thấy Chúa Cha” (Gioan 14:9).
Sau cùng, chúng ta phải cố gắng tận tụy cuộc đời cho Chúa Giêsu, lãnh nhận sự sống đời đời nơi Người, và sống hạnh phúc mãi mãi với Người, cũng như chàng thám tử tận tụy cuộc đời cho Laura, kết hôn với cô, và sống hạnh phúc mãi mãi bên cô.
Nói cách khác, bài Phúc Âm hôm nay mời gọi chúng ta tìm hiểu về Thiên Chúa qua những gì Người đã tạo nên trong vũ trụ. Đó là những mấu chốt để chúng ta biết về Thiên Chúa, cũng như quần áo sách vở của cô Laura là các mấu chốt để chàng thám tử biết cô ta như thế nào.
Bài Phúc Âm hôm nay cũng mời gọi chúng ta tìm hiểu về Chúa Giêsu Kitô, đi vào cuộc tình với Người, theo Người, và sống hạnh phúc mãi mãi với Người, cũng như chàng thám tử yêu cô Laura, kết hôn với cô, và sống hạnh phúc bên cô.
Hãy kết thúc với lời cầu nguyện:
Lạy Thiên Chúa là Cha chúng con,
Ngài đã dựng nên chúng con và ban sự sống cho chúng con.
Ngài đã đặt chúng con trong thế giới mỹ miều và đầy bí ẩn này
để tìm tòi, nghiên cứu và hiểu biết về Ngài.
Nhưng thường thì chúng con lại đi ngược.
Sự mỹ miều của đời sống đã khiến chúng con xa cách Ngài,
thay vì lôi kéo chúng con đến Ngài.
Nhưng Chúa đã không bỏ rơi chúng con.
Ngài gọi chúng con, Ngài la hét vào tai chúng con;
Ngài phá vỡ sự câm điếc của chúng con.
Ngài loé sáng trước mặt chúng con, Ngài lấy đi sự đui mù của chúng con.
Và bỗng dưng, chúng con bắt đầu nghe được tiếng Chúa
trong mọi cảnh tượng và trong mọi tiếng hát.
Chúng con bắt đầu thấy ánh sáng của Ngài
trong mọi ngôi sao và mọi bông hoa.
Và rồi cái ngày không thể nào quên được đã đến,
khi chúng con nghe tiếng Ngài
và thấy sự hiện diện của Ngài trong Đức Giêsu, Con Ngài.
Xin giúp chúng con lắng nghe Chúa Giêsu, đi theo Người,
và lãnh nhận sự sống đời đời từ Người.
Xin giúp chúng con chu toàn kế hoạch của Chúa dành cho chúng con
và sống hạnh phúc mãi mãi bên Chúa.
Lm. Mark Link, S.J.
From: Langthangchieutim
NGHỊ QUYÊT 68
Đảng áp đặt kinh tế quốc doanh làm chủ đạo là ngược tự nhiên. Cho nên, cái cần là ra nghị quyết bãi bỏ cái ngược tự nhiên của chính mình.
Sẵn thì thẳng thắn nhìn nhận trách nhiệm và xin lỗi nhân dân vì đã đưa lý thuyết phản động của Mac Lenin vào nền kinh tế Việt Nam, làm triệt tiêu hết mọi động lực phát triển, kéo đất nước tụt hậu hàng nửa thế kỷ qua.
Đồng thời, hứa hẹn bảo đảm sẽ thể chế hóa luật pháp theo hướng tôn trọng nền kinh tế thị trường, trong đó có kinh tế tư nhân. Nghiêm cấm công an “trấn lột” nền kinh tế ấy dưới mọi hình thức, chứ không phải khi thấy ai đó lớn mạnh, vỗ béo rồi trấn lột như những nạn nhân Vua Lốp, Minh Phụng một thời.
Còn kinh tế tư nhân vốn không cấm thì nó đã tự nhiên vận hành, không cần phải nghị quyết “cởi trói” gì cả. Cái cần “cởi trói” là nhận thức của đảng cho đúng, cho kịp với tri thức của xã hội văn minh loài người.
Cứ ngược đời mới chịu!
Có ông chú đang sống trên Dalat đã từng nói ” Đảng Cộng Sản như người dẫn đường không biết sử dụng bản đồ, đưa cả dân tộc rơi xuống hết hố này đến hố khác. Đến khi lóp ngóp trèo lên được miệng hố thì lại hô vang “Thắng lợi”. Cứ như thế, đảng đi từ “thắng lợi” này đến “thắng lợi” khác”.
NHỮNG KẺ PHẢN TRẮC – Đỗ Duy Ngọc
Đỗ Duy Ngọc
Thuở hàn vi, tôi có một người bạn cùng đồng cam cộng khổ một thời gian. Có một thời tôi và người ấy sống bằng bánh mì từ thiện xin được ở trung tâm từ thiện Caritas của Công giáo. Sau 1975, bạn tôi trở thành cán bộ lãnh đạo của chế độ mới với một chức vụ khá to. Anh bạn này từ chối quá khứ và không công nhận mình có thời kỳ sống bằng bánh mì từ thiện. Tôi gọi anh này là kẻ phản trắc.
Trên báo chí và mạng xã hội mấy năm trước, tôi đọc được một câu chuyện kể một ông Tiến sĩ đang là lãnh đạo một cơ quan nhà nước. Một lần nọ, anh trở về trường nơi anh đã từng học thời trung học họp mặt nhân ngày kỷ niệm của trường. Anh ta đứng giữa sân khấu và nói to lên rằng:” Trong hội trường này ai đã từng là thầy giáo của tôi, đề nghị giơ tay”. Tôi cũng gọi anh Tiến sĩ này là kẻ phản trắc.
Trong chiến tranh, một anh bộ đội bị thương, lạc đơn vị, được người dân nuôi trong hầm, chăm sóc vết thương, lo lắng bữa ăn, áo mặc suốt thời gian dài. Sau 75, anh trở thành một cán bộ lãnh đạo bắt đầu từ địa phương nơi anh đã từng được cưu mang, sau đó về trung ương nhận một chức vụ khá cao. Suốt mấy chục năm nay, anh chưa bao giờ ghé lại thăm căn hầm xưa và những người đã tửng cứu giúp, cưu mang anh trong thời kỳ chiến tranh. Tôi cũng gọi đó là kẻ phản trắc.
Cũng cùng một trường hợp như trên, nhưng anh cán bộ đó có lần về nơi cũ trong một chuyến công tác tiền hô hậu ủng, cả đoàn xe hộ tống. Anh cán bộ lãnh đạo đến ngồi trong uỷ ban tỉnh và nói với lãnh đạo tỉnh kêu người đã từng nuôi giấu anh trong lúc hiểm nguy thời chiến tranh dến gặp anh ở văn phòng uỷ ban. Tôi cũng xem anh này là kẻ phản trắc.
Năm 1968, trong cuộc tấn công Mậu Thân vào Sài Gòn, Ba của người bạn tôi ở Bảy Hiền cũng đã từng cứu một anh bộ đội miền Bắc. Băng bó vết thương cho anh, nuôi dưỡng anh một thời gian dài. Cũng vì hành động đó, ba của bạn tôi phải đi tù. Sau 1975, trong chiến dịch đánh tư sản, ba của người bạn tôi là chủ một nhà máy dệt ở Bảy Hiền cũng bị tịch thu tài sản. Người ra lệnh và trực tiếp tiếp quản nhà máy cũng chính là anh chàng bộ đội kia. Tôi gọi đấy là kẻ phản trắc.
Những người lãnh đạo thành phố này một thời đã cướp đất của dân Thủ Thiêm, đẩy dân vào cảnh màn trời chiếu đất, trở thành những kẻ không nhà. Họ xoá sạch ngôi nhà thân thiết của dân, họ đẩy dân vào chỗ chết, họ đã khiến nhiều người dân uất ức mà chết. Họ gây phẫn nộ trong dân bằng những việc dối lừa. Họ làm giàu trên nỗi khổ đau của dân. Khi mọi chuyện vỡ lở, họ tránh mặt, cho người khác đứng ra hứa hẹn, xin lỗi dân một cách vô cảm, kéo dài thời gian để hòng trốn tội. Tôi gọi lũ người ấy là bọn phản trắc.
Chùa chiền bây giờ được xây to, tượng Phật nào cũng lớn, sân chùa nào cũng la liệt Bồ Tát. Thầy tu nào cũng đi xe hơi sang trọng, ăn uống bỗ dưỡng, toàn dùng thiết bị đắt tiền. Mượn hào quang của Phật, mượn kinh kệ loè người, mượn của chùa để làm điều phi pháp, mượn áo Tăng để lừa bịp. Tôi gọi đó là lũ thầy chùa phản trắc.
Bà bạn hàng xóm của tôi thời tôi ở đường Trần Quang Diệu là một bà chủ khá giàu thời đó. Bà không có con nên nuôi một cô con nuôi. Bà thương cô như con ruột. Cho ăn học đàng hoàng đến nơi đến chốn, sống trên nhung lụa. Sau 75, bà cho tiền vàng cho cô ấy vượt biên, sau đó định cư ở Mỹ. Bà chuyển tiền cho cô ấy làm ăn buôn bán, trở thành người giàu có ở xứ người. Bà qua Mỹ, cô ta gởi bà vào nhà của người già không thân nhân, chẳng bao giờ thăm hỏi. Buồn quá, bà về lại Việt Nam rồi qua đời trong cô đơn, hàng xóm bỏ bà vào một quan tài từ thiện rẻ tiền và thiêu, tro rải đâu không biết. Cô ta cũng đã về ở Việt Nam nhưng lấy cớ tour du lịch đã đăng ký, cô ta không viếng thăm, chẳng thắp được cây nhang cho bà cụ, cũng không quấn được vành khăn tang. Tôi gọi cô này là người phản trắc.
Đọc trên báo thấy tin con giết cha vì tranh chấp đất đai, cháu giết bà vì không xin được tiền đánh bạc, con giết mẹ vì mẹ không cho tiền hút chích, vợ giết chồng để dễ dàng đến với tình nhân. Lũ người đó cũng là lũ phản trắc.
Theo từ điển thì phản trắc là loại người tráo trở, không thể tin được, không thể hợp tác được, là loại người luôn rắp tâm làm phản. Đồng nghĩa với phản phúc. Thời nay, loại người phản trắc ấy đầy dẫy khắp nơi, chỗ nào cũng có. Ở đâu mà lắm thế? Sao xã hội bây giờ toàn lũ phản trắc ấy?
Thế bây giờ có còn người tốt không? Còn chứ. Sao mà không có được. Thế họ đi đâu hết rồi? Họ đang ở đâu hết rồi? Họ đang cô đơn, họ đang lạc lõng. Họ đang ở trong lớp người cùng quẫn đang bị dồn vào chân tường. Họ phản kháng yếu ớt vì chẳng có quyền lực mà cũng chẳng có vũ khí. Một xã hội vắng bóng người tốt, đó là biểu hiện của sự thất bại của một chế độ.
24.10.2018
ĐODUYNGOC
Cóp từ FB Dan Dao
“VÌ ĐÂU TA KHỔ?”
– Con người ta vì đâu lại chất chứa quá nhiều những muộn phiền khổ não?
Con người ta sống vì sao luôn cảm thấy muộn phiền, khổ não? Điều mấu chốt ở đây dường như nằm ở chính cái tâm cố chấp không muốn buông bỏ của mình…
Buông bỏ một chút gánh nặng trong tư tưởng, buông bỏ một chút được mất vật chất, khiến cho hết thảy thuận theo tự nhiên, thì lòng sẽ nhận được thản nhiên và tự tại.
– Con người sở dĩ phiền não chính là bởi vì trí nhớ “quá tốt”:
Hết thảy những gì nên nhớ, không nên nhớ đều lưu lại trong tâm trí của mình. Chúng ta thường xuyên nhớ kỹ những sự tình nên quên đi và quên mất những gì nên nhớ.
Người xưa thường nói: “Người ngốc là người đáng yêu!”
Sở dĩ người ngốc đáng yêu là bởi họ quên mất những sự tình không vui, những lời chế giễu cười nhạo của người đời dành cho họ, quên những ân oán trong cuộc đời, quên công danh lợi lộc trong thế tục, quên hết thảy thế giới này. Họ sống trong thế giới của mình mà vui cười, khoái hoạt.
Nhưng có nhiều người thà rằng khiến mình không vui chứ không muốn làm người ngốc. Nếu có thể nhớ kỹ việc cần nhớ, quên bỏ điều cần quên, mỗi ngày lại bắt đầu một ngày mới thì sẽ tốt biết bao!
– Con người sở dĩ thống khổ chính là bởi vì họ truy cầu quá nhiều:
Đời người không thể việc gì cũng thuận theo ý mình, cho nên đừng thường xuyên nghĩ rằng mình thống khổ. Kỳ thực, trên thế giới này còn rất nhiều người khổ hơn mình.
Người thông minh hiểu rõ rằng, trong cuộc sống có những ước mơ là xa vời mãi mãi không thành hiện thực được, có một số vấn đề vĩnh viễn không có câu trả lời, có một số chuyện vĩnh viễn không có kết thúc, có một số người xa lạ mãi mãi vẫn chẳng thể làm thân.
Thống khổ thực sự cũng không phải bởi người khác đem đến cho mình, mà chính là bởi sự tu dưỡng của bản thân chưa đủ, không có khả năng chấp nhận. Có những việc rất đơn giản nhưng bị con người làm phức tạp lên, rồi người ta lại cảm thấy khổ.
Hãy học cách buông bỏ, buông bỏ một chút gánh nặng trong tư tưởng, suy nghĩ, thản nhiên đối mặt, khiến cho hết thảy thuận theo tự nhiên, có như vậy bạn mới sống được thản nhiên và tự tại.
– Con người sở dĩ không vui vẻ, khoái hoạt chính là bởi vì họ toan tính quá nhiều:
Không phải chúng ta nắm giữ được quá ít mà là chúng ta tính toán quá nhiều. Đừng nhìn người khác sống hạnh phúc mà cảm thấy mình bị mất mát và áp lực. Kỳ thực những thứ mà bạn nhìn thấy chỉ là biểu hiện bề ngoài, còn bên trong chỉ mỗi người tự biết .
Dục vọng và ham muốn của con người thì vô cùng nhiều, nhiều không kể hết, ai cũng truy cầu cuộc sống cao sang, mong muốn bản thân có mọi thứ, đạt được mục tiêu của mình. Nếu đạt được rồi thì nhất thời cảm thấy vui vẻ, nếu không đạt được thì thống khổ cả đời.
Trên thế gian, không có thứ gì là hoàn mỹ, nhưng ít ai biết được rằng, không hoàn mỹ mới là một dạng đẹp đẽ. Chỉ có không ngừng vượt qua những thất bại, bạn mới cảm nhận được niềm vui trong cuộc đời.
– Con người sở dĩ không biết đủ chính là bởi vì họ truy cầu quá nhiều hư vinh:
Người xưa thường nói: “Người biết đủ thường vui”, nhưng mấy ai đạt được cảnh giới này? Không phải con người đạt được quá ít mà là mong muốn của con người quá nhiều nên mới thường xuyên thấy chưa đủ. Trời đất rộng lớn có đủ những thứ kỳ lạ, có quá nhiều thứ hấp dẫn, mê đắm lòng người, chúng ta khó có thể không động tâm, khó có thể không ham muốn, khó có thể ngừng ảo tưởng.
Đứng trước những điều say mê hấp dẫn ấy, có bao nhiêu người bị cuốn đi? Có bao nhiêu người không bị lạc đường? Biết đủ mới có thể kìm hãm được dục vọng của bản thân, đứng vững trên đường đời!
– Con người sở dĩ không hạnh phúc là bởi vì họ không có lòng thỏa mãn:
Mỗi người có cảm giác và mong cầu hạnh phúc khác nhau. Người nào nếu dễ dàng cảm thấy thỏa mãn thì dễ dàng tìm kiếm được hạnh phúc. Người xưa từng có câu: “Hạnh phúc giống như một tòa kim tự tháp, có rất nhiều tầng, càng lên cao thì hạnh phúc càng ít, đạt được hạnh phúc lại càng khó. Càng ở tầng dưới thì càng dễ đạt được hạnh phúc.”
– Hạnh phúc không ở đâu xa:
Kỳ thực, hạnh phúc là một loại mong mỏi, một loại cảm nhận của tâm hồn. Chỉ cần chúng ta dụng tâm phát hiện, dụng tâm cảm thụ, thì sẽ phát hiện ra hạnh phúc đang ở ngay bên cạnh mình.
Chẳng qua những hạnh phúc ấy đã bị chúng ta xem nhẹ mà thôi.
– Con người sở dĩ mệt mỏi chính là bởi vì họ nghĩ quá nhiều:
Thân thể mệt mỏi không đáng sợ bằng tâm hồn mệt mỏi. Sống trong đời thường, ai ai cũng không tránh khỏi việc bị phiền muộn do bản thân mình hay liên lụy từ người khác. Tuy nhiên, có người sẽ chọn cách xem nhẹ, nhanh chóng quên đi để tận hưởng cuộc sống, nhưng có người lại chấp trước vào đó, suy nghĩ ngày này qua ngày khác khiến tâm mệt mỏi. Hãy suy nghĩ ít đi để sống thoái mái hơn.
“Hiểu rõ nhất về bản thân vĩnh viễn chỉ có bản thân mình. Cuộc sống không thể lúc nào cũng thuận buồm xuôi gió, vui vẻ cũng là sống qua một ngày, phiền muộn cũng là sống qua một ngày, vậy vì sao không để bản thân sống từng ngày vui vẻ?”
VietBF@sưu tập
VIETBF Diễn Đàn Hay Nhất Của Người Việt Nam