TÔI MUỐN CHẾT THAY CHO MỘT NGƯỜI (Cha Maximilian Kolbe)

Chau Nguyen Thi

TÔI MUỐN CHẾT THAY CHO MỘT NGƯỜI

Trong trại tù Đức Quốc Xã ở Ba Lan vào năm 1941, có 3 tù nhân vượt ngục ở khám 14. Karl Fritzsch, tên tổng giám thị trại tù lên tiếng:

– Những tên vượt ngục chưa tìm thấy. 10 người khác phải chết thay. Lần thứ hai sẽ phải là 20 người.

Sau đó y đưa tay chỉ:

– Tên này.

Lập tức Palitsch, cộng sự viên của y ghi số đó vào sổ tử, vì ở trại Oswiecim tù nhân được tiêu biểu bằng con số.

Mặt tái mét, các tù nhân lần lượt bước ra khỏi hàng.

Fritsch tiếp tục chọn:

– Tên này, tên kia, tên kia nữa…

Bây giờ đủ 10 người rồi, 10 tù nhân sẽ chết thay cho những kẻ vượt ngục. Trong số họ, có một người còn trẻ, lúc bước ra khỏi hàng đã thốt ra một câu làm cho những người chung quanh phải chú ý:

– Ôi! Vợ dại con thơ của tôi, từ đây tôi sẽ không được gặp lại bao giờ nữa!

Mười tử tội được lệnh tiến về khám tử, khám số 13. Giữa lúc không ngờ, một người rẽ đám đông đi ra. Mọi người bỡ ngỡ. Có tiếng xì xèo qua các hàng:

Cha Kolbe! Cha Maximilian Kolbe đấy!

Fritsch giật mình, y sờ khẩu súng lục đeo sau lưng, lùi lại một bước đề phòng và hô to:

– Đứng lại! Đồ con lợn Ba Lan!

Cha Kolbe không chuyển động, cha đứng đối diện với y, nét mặt bình tĩnh, đôi môi nhẹ nở nụ cười:

– Tôi muốn chết thay cho 1 trong 10 người này.

Bỡ ngỡ, Fritsch nhìn cha. Con người ấy giờ đây như bị thôi miên trước cái nhìn thấu suốt của cha Kolbe.

Fritsch hỏi:

– Tại sao?

Đấy là câu hỏi tò mò. Trong đầu cha chợt nảy ra một ý nghĩ để nắm lấy thắng lợi. Theo luật tập trung trong trại tù Đức Quốc Xã thì các người già yếu phải thanh toán trước, nên cha trả lời:

– Tôi già yếu, đời tôi vô dụng.

– Mày muốn chết cho ai?

– Cho người có vợ dại con thơ.

Vừa nói, cha vừa chỉ vào trung sĩ Francois Gajowniczek trẻ tuổi.

Trước cử chỉ anh hùng ấy, máu độc ác của Fritsch dịu đi nhường chỗ cho tính tò mò. Y muốn tìm hiểu cha Kolbe:

– Ông là ai?

– Tôi là linh mục Công giáo.

Cha không nói mình là một tu sĩ dòng Phanxicô, hay là vị sáng lập Đạo binh Đức Mẹ mà chỉ nói tôi là linh mục Công giáo. Cha thích danh hiệu đó vì linh mục là môi giới giữa trời và đất, vì linh mục nắm trong tay kho tàng quí báu: Đức tin KiTô, những ai trong lúc nguy nan sau cùng đều cần có linh mục giúp đỡ.

Cha Kolbe chờ đợi. Nét mặt cha tươi vui khác thường. Mặt trời đang lặn dần và tỏa ra màu vàng đỏ. Và cha là nhân vật duy nhất của giờ phút lịch sử ấy.

Sau cùng, Fritsch khàn khàn nói:

– Được, đi với chúng!

Từ giây phút ấy, người ta thấy Fritsch trầm lặng, không nguyền rủa và thóa mạ như trước nữa. Cha Kolbe nhẹ nhàng mấp máy môi cầu nguyện cho những người chịu chết với cha, cho những ai còn sống, nhất là cho Fritsch.

Palitsch cầm sổ lấy bút xóa một số và thay vào bằng con số khác, con số của cha Kolbe: 16.670. Chàng thanh niên mà tên vừa được xóa khỏi sổ tử tù, vui như điên. Anh có cảm tưởng mình vừa được sinh ra lần nữa.

Fritsch ra lệnh đưa cha Kolbe cùng 9 người khác trong hầm ngầm để răn đe việc trốn trại. Sau hai tuần bị bỏ đói bỏ khát, chỉ còn cha Kolbe sống sót. Chiều 14.8.1941, cha Kolbe bị tiêm liều Phenol kết liễu cuộc đời trong trại giam. Thi thể của cha được hỏa táng ngày 15.8.1941, nhằm ngày Lễ Đức Mẹ Lên Trời.

Ngày 10.10.1982, cha Maximilian Kolbe đã được phong Hiển thánh bởi Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, và có sự hiện diện của trung sĩ Francois Gajwniczek, người được cứu sống bởi ngài.

Còn tổng giám thị Karl Fritzsch, để tránh bị trả thù nên đã tự sát ngày 2.5.1945 ở tầng hầm của căn nhà tại số 42 Sächsische Strasse ở Berlin.

Bài và ảnh: BÙI THỊNH (NKYN)

Bao Nguyen Quang ST

Thánh Pancratiô (c. 304), tử đạo trẻ tuổi

Chúc 1 ngày thật mạnh mẽ trong đức Tin, bền vững trong đức Cậy, dồi dào trong đức Mến nhé. Hãy cầu nguyện cho nhau. Hôm nay Giáo Hội mừng kính Thánh Pancratiô (c. 304), tử đạo trẻ tuổi. Mừng bổn mạng đến những  ai chọn ngài làm quan thầy.

Cha Vương,

Thứ 5: 12/05/2022

Thánh Pancratiô là vị tử đạo thời tiên khởi mà chúng ta biết rất ít về ngài. Truyền thuyết nói rằng ngài sinh vào cuối thế kỷ thứ ba và được người chú ở Rôma nuôi dưỡng sau khi cha mẹ mất sớm. Sau đó, hai chú cháu theo Kitô Giáo. Trong thời gian cấm đạo của Hoàng Ðế Diocletian, vì không chịu tế thần nên đã Pancratiô bị chặt đầu năm 304, lúc ấy ngài mới 14 tuổi. Ngài chết vào lúc mới 14 tuổi trong năm 304. Pancras là một thiếu niên rất đẹp trai và khỏe mạnh, luôn thắng các thiếu niên khác trong những trận đô vật. Một hôm Pancratiô thắng một thiếu niên ngoại đạo, người này rất tự phụ tự đắc. Để trả thù, hắn đi tố với hoàng đế rằng Pancratiô là người Công giáo. Thời đó, đạo Công giáo bị luật Rôma cấm đoàn.

    Hoàng đế là bạn thân của cha Pancratiô (người cha này đã qua đời), nên muốn tha cho Pancratiô. Ông cố gắng làm mọi cách cho Pancratiô thay đổi ý . Hoàng đế nói:  Con chỉ cần dâng vài lời cầu nguyện với các thần của ta, và ta sẽ ban cho quyền bính trong đế quốc ta. Tuy Pancratiô sợ chết lắm, nhưng em không thể chối Chúa Giêsu. Pancratiô đáp lại: Nhờ phép rửa tội, tôi đã nên con Thiên Chúa. Tôi không bao giờ từ chối Chúa Giêsu, cho dù có được cả một đế quốc. Thế là Pancratiô đã bị xử tử hình.

    Ngài đã tỏ ra can đảm biết bao khi bị điệu qua các đường phố như một một tên trọng tội. Ngài đã không hề kêu la khi quân lính đánh đòn, và không hề đổi ý khi nghe dân chúng chế nhạo. Trái lại, Pancratiô đã nghĩ đến Chúa Giêsu đang bị điệu qua các ngả đường Giêrusalem đến nơi Ngài bị đóng đinh. Trước khi Pancratiô bị một lưõi gươm chém đầu, Ngài đọc lời kinh này chứng tỏ sự bình an trong tâm hồn và sức mạnh Ngài có : “Lạy Chúa Giêsu, con cám ơn Chúa về đau khổ con sắp lãnh nhận. Con chấp nhận đau khổ này với lòng hân hoan, vì biết rằng cái chết của con sẽ đưa con về Thiên Đàng để ở với Chúa mãi mãi. Lạy Chúa Giêsu, xin tha thứ những kẻ sắp giết con!”

    Ngài được chôn trong một nghĩa địa mà sau này mang tên của ngài. Thánh Pancratiô được nước Anh đặc biệt sùng kính vì Thánh Augustine ở Canterbury đã dâng hiến một nhà thờ ở đây cho Thánh Pancratius, và thánh tích của ngài được tặng cho vua xứ Northumberland.

    “Chúng sẽ bắt bớ và ngược đãi anh em, nộp anh em cho các hội đường và nhà tù, và chúng sẽ điệu anh em đến trước mặt vua quan vì danh Thầy. Ðó là cơ hội để anh em làm chứng. Hãy nhớ rằng, đừng lo nghĩ cách bào chữa, vì chính Thầy sẽ cho anh em tài ăn nói khôn ngoan khiến tất cả các địch thủ không tài nào chống đối hay bắt bẻ được” (Lc 21:12-15).

Lạy Thánh Pancratiô, xin cầu bầu cho con biết luôn luôn kiên trì trong đức tin.

Thánh Đamien

Thánh Đamien

Chúc bình an đến bạn và gia đình nhé. Hôm nay Giáo Hội Hoa Kỳ mừng kính Thánh Đamien, vị anh hùng của người Hawaii. Mừng bổn mạng đến những ai chọn ngài làm quan thầy.

Cha Vương

Cha Đamien của hòn đảo Molokai, Hawaii, tên là Joseph De Veuster sinh tại Tremelo, Bỉ vào ngày 3 tháng 1 năm 1840. Khi anh của ngài vào tu dòng Thánh Tâm, cha của Ngài chuẩn bị để Ngài nối nghiệp buôn bán của gia đình. Tuy nhiên, Ngài quyết định hiến thân mình cho Chúa. Năm 1859, Ngài vào tu tại một chủng viện ở Louvain và lấy tên là Đamien.

    Năm 1863, anh của Ngài được sai đi truyền đạo ở quần đảo Hawaii nhưng không may bị bệnh rất nặng. Đamien xin bề trên và được phép đi thay cho anh của mình. Ngài đến Honolulu vào ngày 19 tháng 3 năm 1864 và được phong chức linh mục vào ngày 21 tháng 5 năm 1864. Ngài được sai đến Big Island để bắt đầu công việc của một vị linh mục.

    Vào thời gian đó, chính quyền Hawaii quyết định ngăn chặn sự lây lan của bịnh cùi bằng cách trục xuất những người bị nghi ngờ là mắc bệnh cùi tới Kalaupapa trên hòn đảo Molokai – một nơi rất xa xôi và hẻo lánh được bao quanh với núi và biển. Những người bị bỏ rơi này xin được có một bậc tu trì đến để giúp đỡ họ về những nhu cầu tinh thần. Đức Cha Louis Maigret nói cho các cha nghe về vấn đề này và có vài cha xung phong đi trong vòng vài tháng. Cha Đamien là người đầu tiên ra đi vào ngày 10 tháng 5 năm 1873. Với lời xin của Ngài và của những người cùi ở Kalaupapa, Ngài đã ở lại Molokai.

Ngài đã mang những tia hy vọng tới chốn địa ngục đầy thất vọng này. Ngài đã trở thành nguồn an ủi và sự khuyến khích cho đàn chiên của ngài bằng cách trở thành vị bác sĩ cho linh hồn và thể xác của họ không kể sắc tộc và màu da. Ngài đã trở thành tiếng nói của những người câm và xây dựng một cộng đoàn nơi những người cùi tìm ra những lý do mới để sống. Một nơi không luật pháp đã trở thành một nơi thống trị bởi luật yêu thương.

    Sau khi Ngài bị nhiễm bệnh cùi vào năm 1885, cha Đamien đã có thể cảm thông hoàn toàn với những bệnh nhân cùi. Ngài thường nói, “Chúng ta, những người cùi”. Cha Đamien trở thành một chứng nhân tình yêu của Chúa cho mọi người. Sức mạnh của Ngài đến từ Thánh Thể như chính Ngài đã viết: “Chính nơi chân bàn thờ là nơi chúng ta có thể tìm thấy sức mạnh chúng ta cần khi bị bỏ rơi . . .” Chính nơi này Ngài đã tìm ra sức mạnh và sự khuyến khích để phục vụ anh chị em cùi. Vì những tia hy vọng và sự âm thầm phục vụ người là “vị truyền giáo hạnh phúc nhất trên thế gian”, và là một đầy tớ trung thành của Chúa và nhân loại.

    Cha Đamien đã qua đời ngày 15 tháng 4 năm 1889 sau 16 năm sống và phục vụ giữa những bệnh nhân cùi. Xác Ngài đã được chuyển về Bỉ năm 1936 nơi người được chốn cất trong nhà dòng Thánh Tâm tại Louvain. Ngài đã được biết đến khắp thế giới. Năm 1938, quá trình xin phong cho Ngài làm Á Thánh được giới thiệu tại Malines, Bỉ. Đức Giáo Hoàng Phaolô thứ VI đã kí nghị định “anh hùng của sự trinh tiết và thương yêu” vào ngày 7 tháng 7 năm 1977.

    Qua Cha Đamien, Giáo Hội có một tâm gương cho những người tìm được ý nghĩa trong Kinh Thánh và cho những người mong ước đem Tin Mừng của Chúa đến cho người nghèo. Năm 1955, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II phong Cha Đamien làm Á Thánh tại Burssels. Vào ngày 11 tháng 10 năm 2009, Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI phong thánh cho Ngài. Ngày mừng kính thánh Đamien là ngày 10 tháng 5 hằng năm.

    Hai Phép lạ đã được Tòa Thánh công nhận là do lời cầu xin của Chân Phước Damien:

(1) Ngày 13 tháng sáu, 1992, ĐGH Gioan Phaolô II công nhận Phép lạ xẩy ra năm 1895 cho một Nữ tu người Pháp, tên là Simplicia Hue, nằm chờ chết vì bịnh ruột. Nhờ làm tuần 9 ngày cầu xin Cha Damien cứu chữa, nên qua một đêm, liền hết bịnh.

(2) Phép lạ thứ hai xẩy đến cho một phụ nữ người Hawai’i bị ung thư, tên là Audrey Toguchi. Năm 1997, bà được Bác sĩ Walter Chang cho biết: chứng ung thư tế bào đã lan khắp chân, và phổi. Không thể chửa lành được. Và hồ sơ bệnh trạng được lưu trữ tại”Hawai’i medical Journal, October 2000”.  Toà Thánh đã công nhận là hai phép lạ thật, và cần thiết để ĐGH Benêđitô XVI tuyên bố Chân Phước Damien lên bậc Hiển Thánh.

Thánh Philipphê và thánh Giacôbê

Thánh Philipphê và thánh Giacôbê

Chúc bình an đến bạn và gia đình. Hôm nay 3/5 Giáo Hội mừng kính trọng thể 2 thánh Tông Đồ Philipphê và Giacôbê. Mừng bổn mạng đến những ai chọn các ngài làm quan thầy nhé.

Cha Vương

Thứ 3: 03/05/2022

Thánh Philipphê là người xứ Bethsaida. Ông là một trong những người đầu tiên được Đức Giêsu kêu gọi. Chính ông đã mách cho Nathanael Tin mừng lớn lao này: “Đấng mà sách luật Môsê và các ngôn sứ nói tới, chúng ta đã gặp. Đó là ông Giêsu, người Nazareth”. Thấy bạn mình còn hoài nghi, ông đã giục: “Cứ đến mà xem”. Nathanael sau khi đã gặp Đức Giêsu và nghe Ngài nói thì đã tin. Philipphê đã xuất hiện nhiều lần trong Phúc âm: Lúc Chúa Giêsu làm phép lạ hóa bánh ra nhiều; làm trung gian cho những người ngoại giáo muốn gặp Đức Giêsu. Philipphê cũng là người đã xin Đức Giêsu: “Lạy Ngài, xin chỉ cho chúng con thấy Cha, thế là đủ cho chúng con”. Người ta nghĩ rằng ông đã đem Tin mừng đến cho người Scythen sau ngày lễ Ngũ tuần và chết rất thọ ở Hiérapolis, tại Phrygie.

Còn thánh Giacôbê mà chúng ta mừng kính hôm nay là Giacôbê hậu, con ông Alphê. Gọi là Giacôbê hậu để phân biệt với Giacôbê tiền, là con của ông Dêbêđê. Phân biệt này không mang ý nghĩa gì khác ngoài việc tránh sự nhầm lẫn. Khoa Thánh Kinh còn nghi ngờ không biết có phải Giacôbê hậu này có phải là “anh em của Đức Giêsu” và là tác giả của lá thư Giacôbê hay không? Nhưng Phụng vụ Rôma lại có sự đồng hoá và xác nhận. Trước khi các Tông đồ tản mác mỗi người một nơi, thì họ chỉ định thánh Giacôbê làm Giám mục Giêrusalem. Ngài là linh hồn của cộng đoàn Giêrusalem. Vì ngài đã làm cho nhiều người trở lại với Đức Giêsu nên bị bản án ném đá. Ngài đã chịu tử đạo đang khi quỳ gối cầu nguyện cho tên lý hình đang kết thúc đời Ngài bằng một thanh sắt giáng xuống trên người, trong thời điểm mừng lễ Vượt Qua. (Theo “Tự điển các thánh”, trang 268-269 và trang 159).

Noi gương thánh Philipphê và thánh Giacôbê, bạn có thể trở thành tông đồ của Chúa qua lối sống hằng ngày của mình hôm nay bằng cách làm những việc nhỏ với một con tim chân thành, với một thái độ cởi mở. Đây là một minh chứng hùng hồn và cụ thể nhất cho đức tin của mình đó.

Xin thánh Philipphê và thánh Giacôbê, cầu cho chúng con.

Thánh Giáo Hoàng Pi-ô V (1504-1572)

Thánh Giáo Hoàng Pi-ô V (St. Pope Pius V, 1504-1572),

Thời gian qua mau quá bạn ơi! Mới đây mà đã tới thứ 7 rồi. Trong những ngày qua, Bạn đã làm gì cho Chúa và cho tha nhân? Hôm nay 30/4, xin bạn cầu nguyện cho đất nước và dân tộc Việt Nam ta nhé. Sau 47 năm, tương lai VN rồi sẽ đi về đâu hả? Và hôm nay cũng là ngày Giáo Hội mừng Kính Thánh Giáo Hoàng Pi-ô V, mừng quan thầy đến những ai chọn thánh Pi-ô V làm bổn mạng nhé.

Cha Vương

Thứ 7: 30/04/21

Thánh Giáo Hoàng Pi-ô V (St. Pope Pius V, 1504-1572), đây là vị giáo hoàng mà công việc của ngài là thi hành nghị quyết của Công Ðồng Tridentinô cách đây bốn thế kỷ. Nếu chúng ta nghĩ các giáo hoàng đương thời phải gặp những khó khăn nào trong việc thi hành nghị quyết của Công Ðồng Vatican II, thì Ðức Piô V lại gặp nhiều khó khăn hơn sau công đồng lịch sử đó.

    Antonio Ghisleri sinh ngày 17 tháng 1 năm 1504 trong một gia đình nghèo ở Bosco, Lombardy, nước Ý. Khi rửa tội, ngài có tên Antonio Michael và vì gia đình quá nghèo nên ngài phải đi chăn cừu. Trong dịp gặp gỡ hai tu sĩ dòng Ða Minh, vì thấy sự thông minh cũng như nhân đức của ngài, họ đã xin phép đưa ngài về sống với họ, lúc ấy ngài mới 12 tuổi. Sau một thời gian tu tập, ngài được thụ phong linh mục năm 1528, sau đó được bổ nhiệm làm giáo sư  triết và thần học ở Genoa. Trong mười sáu năm kế đó, Cha Micae đi khắp các cơ sở của nhà dòng để khuyến khích việc tuân giữ  quy luật Dòng cách nghiêm nhặt qua lời nói cũng như hành động của ngài.

    Năm 1555, Cha Michael được tấn phong làm Giám Mục của Nepi và Sutri, và năm 1557, ngài được nâng lên hàng Hồng Y. Năm 1566, Ðức Giáo Hoàng Phaolô IV từ trần và Ðức Hồng Y Micae được chọn làm Giáo Hoàng thứ 225 kế vị thánh Phêrô, lấy tên là Piô V.

    Trong nhiệm kỳ giáo hoàng của ngài, 1566 – 1572, Ðức Piô V phải đối diện với một trách nhiệm thật lớn lao đó là phục hồi một Giáo Hội vụn vỡ và phân tán. Dân Chúa thời ấy bị rúng động bởi sự thối nát của hàng giáo sĩ, bởi Tin Lành Cải Cách, bởi sự đe dọa xâm lăng thường xuyên của người Thổ Nhĩ Kỳ. Năm 1545, vị giáo hoàng tiền nhiệm triệu tập Công Ðồng Tredentinô nhằm cố giải quyết các vấn đề khẩn trương nói trên. Trong vòng 18 năm, các Giáo Phụ thảo luận, lên án, xác nhận và quyết định trong một chuỗi hành động. Và Công Ðồng kết thúc năm 1563.

    Năm 1566, Ðức Piô V lên ngôi giáo hoàng và phải đảm nhận công việc cải cách tức thời do Công Ðồng đưa ra. Ngài ra lệnh thành lập các chủng viện để huấn luyện các linh mục một cách thích hợp. Ngài cho công bố sách lễ mới, kinh nhật tụng mới, sách giáo lý mới và thiết lập quy chế giáo lý cho trẻ em. Ðức Piô cương quyết áp dụng quy luật đối với những lạm dụng trong Giáo Hội. Ngài kiên trì phục vụ người nghèo và người đau yếu qua việc xây cất các bệnh viện, cung cấp thực phẩm cho người nghèo đói và lấy tiền của dùng để tổ chức tiệc tùng cho đức giáo hoàng mà giúp đỡ các người tân tòng nghèo ở Rôma.

    Trong cố gắng cải tổ Giáo Hội và Tòa Thánh Vatican, Ðức Piô gặp sự chống đối mãnh liệt của Nữ Hoàng Elizabeth của Anh và Hoàng Ðế Maximilian II của Rôma. Các khó khăn ở Pháp và Hòa Lan cũng cản trở cho sự hợp nhất  u Châu để chống với Thổ Nhĩ Kỳ. Mãi đến giây phút cuối cùng ngài mới có thể tổ chức được một đạo quân và chiến thắng ở Vịnh Lepanto gần Hy Lạp vào tháng Mười 1571.

    Sự hoạt động không ngừng của Ðức Piô trong việc canh tân Giáo Hội được dựa trên cá tính của ngài là một tu sĩ dòng Ða Minh. Ngài dành nhiều giờ để cầu nguyện với Thiên Chúa, nghiêm nhặt chay tịnh, tự thoái thác những thói quen xa hoa của giáo hoàng thời ấy và trung thành tuân giữ quy luật cũng như tinh thần của Dòng Ða Minh.

    Mấy tháng sau, Ngài qua đời ngày 1 tháng 5 năm 1572 và được mai táng trong nguyện đường San Andrea trong VCTĐ Thánh Phêrô, Vatican City. Ngài được Đức Giáo Hoàng Clement X tôn phong Chân Phước ngày 01 tháng 5 năm 1672 và Đức Giáo Hoàng Clement XI nâng lên hàng hiển thánh ngày 22 tháng 5 năm 1712 và đặt làm quan thầy Bosco Marengo, Ý Đại Lợi. (Nguồn: Người Tín Hữu online)

    Sau đây là những câu nói của ngài:

❦ Tất cả tội lỗi trên thế gian là do đời sống khô khan nguội lạnh của tín hữu công giáo. 

❦ Những gì không thuộc về Thánh giá Chúa Kitô sẽ không làm cho chúng ta được vinh hiển.

❦ Lạy Chúa, xin cho con được chịu đau khổ nhiều hơn nhưng xin cũng thêm sức chịu đựng cho con.

+ Thánh Piô V xin cầu bầu cho chúng con.

Câu nào đánh động bạn nhất?

Thánh Catarina ở Siena, Tiến Sĩ Hội Thánh (1347-1380).

Thánh Catarina ở Siena, Tiến Sĩ Hội Thánh (1347-1380).

Một ngày yêu thương nhiều hơn giận hờn ghen ghét nhé bạn. Hôm nay 29/04 Giáo hội mừng kính thánh Catarina ở Siena, mừng quan thầy đến những ai chọn ngài làm bổn mạng.

Cha Vương

Thánh Catarina ở Siena, Tiến Sĩ Hội Thánh (1347-1380). Tên thật là Catarina Benincasa sinh ngày 25 tháng 3 năm 1347 tại Siena, Tuscany, Ý Đại Lợi và là người con út trong gia đình 25 người con. Ngài là một nữ tu Dòng Đa Minh, một nhà huyền bí nồng nhiệt, một chiến sĩ bảo vệ sự thánh thiện của Giáo Hội Công giáo. Ngài sinh sống trong thế kỷ thứ XIV, một thời kỳ mà Giáo Hội đang gặp phải những khó khăn chia rẽ dường như khó mà hàn gắn được.

Ngay từ khi bảy tuổi, cô đã dâng hiến tâm hồn cho Ðức Kitô. Khi lớn lên cô bày tỏ ý muốn đi tu, nhưng gia đình lại muốn cô kết hôn. Ðể nói lên ý chí quyết liệt của mình, cô đã cắt tóc và sau cùng, với sự đồng ý của cha mẹ, Catarina gia nhập tổ chức Mantellate, là hội phụ nữ có liên hệ đến Dòng Ða Minh, họ mặc áo dòng nhưng sống ở nhà, phục vụ người nghèo và người đau yếu. Cô sống ẩn dật trong một căn phòng nhỏ tại gia đình ở Siena. Trong vòng hai năm liên tiếp cô không bao giờ rời phòng, trừ khi đi xem lễ và xưng tội, và cũng không nói chuyện với một ai ngoại trừ cha giải tội. Trong thời gian này, Catarina tập luyện tinh thần qua lối sống khắc khổ. Sau đó, cô tự phá vỡ đời sống cô độc và bắt đầu hăng say chia sẻ công việc trong nhà, săn sóc người bệnh và giúp đỡ người nghèo. Tuy nhiên cô vẫn dành thời giờ trong thinh lặng và chiêm niệm. Dần dà, người ta nhận thấy dường như Thánh Catarina đọc được tâm hồn của họ và dân chúng thuộc đủ mọi thành phần – giầu và nghèo, tu sĩ và giáo dân, thợ thuyền và lính tráng – bắt đầu tuôn đến với ngài để được khuyên bảo. Từ đó một tổ chức tông đồ giáo dân được thành hình. Các lá thư của ngài, hầu hết là các lời khuyên bảo tinh thần và khuyến khích các người mến mộ, ngày càng được công chúng đón nhận. Ngài có ảnh hưởng rất lớn vì sự thánh thiện hiển nhiên. Tất cả công việc ngài thi hành đều được thúc đẩy bởi ngọn lửa tình yêu. Cuộc sống của ngài luôn ẩn náu trong những vết thương của Chúa Kitô bị đóng đinh. Ngài cảm nhận trong thâm sâu của con tim và trong đức tin của ngài, những thảm họa của Giáo Hội và của xã hội ngài đang sống, vẫn còn tiếp tục đóng đinh Chúa Kitô. Ngài đã làm trung gian để đem lại hòa bình giữa các đô thị và giữa các phe nhóm thù nghịch.

Một vài tuần trước khi chết, ngài đang cầu nguyện trước một bức khảm ở Ðền Thánh Phêrô, ngài trông thấy con thuyền của Thánh Phêrô như rời khỏi bức khảm và đậu trên vai của ngài. Con thuyền xô ngài ngã quỵ và người ta phải khiêng ngài về nhà. Ngài hầu như bất toại cho đến khi từ trần ngày 29 tháng 4 năm 1380, lúc ấy mới ba mươi ba tuổi. Ngài được Ðức Giáo Hoàng Pius II phong thánh năm 1461, và được coi là một trong những vị thần nghiệm và văn sĩ linh đạo của Giáo Hội. Vào ngày 04 tháng 10 năm 1970, Ðức Giáo Hoàng Phaolô VI tuyên xưng ngài là Tiến Sĩ Hội Thánh. Ngài là người phụ nữ thứ hai (sau Thánh Têrêsa ở Avila) được vinh dự này. (Tóm lược từ nguồn: Nhóm Tinh Thần)

Sau đây là những câu nói của ngài (Nguồn: hddmvn):

❦ Phạm tội là con người, nhưng ngoan cố trong tội là ma quỷ.

❦ Đối với các linh hồn hoàn thiện mọi nơi đều là nguyện đường.

❦ Ta [Thiên Chúa] thương yêu con nhiều hơn con có thể yêu thương bản thân con, và ta ân cần chăm sóc cho con cả ngàn lần hơn con có thể chăm sóc bản thân con.

❦ Con người được tạo dựng nên do tình yêu, để con người sống cho tình yêu.

Câu nào đánh động bạn nhất?

Xin thánh Catarina thành Siena cầu bầu cho chúng con.

From: Đỗ Dzũng

Thánh Phê-rô Channel (1803-1841), linh mục, tử đạo

Thánh Phê-rô Channel (1803-1841), linh mục, tử đạo

Chúc bình an đến bạn và gia đình, hôm nay Giáo hội mừng kính Thánh Phê-rô Channel (1803-1841), linh mục, tử đạo. Lượt qua vài dòng tiểu sử của ngài, uớc mong bạn hãy noi gương ngài để sống mạnh mẽ trong đức tin nhé.

Cha Vương

Thứ 5: 28/04/2022

Bất cứ ai từng làm việc trong cô độc, và cần phải thích ứng tối đa và rất ít cơ hội thành công, đều tìm thấy một tinh thần tương tự  nơi Thánh Phêrô Chanel.

Thánh Phêrô Chanel sinh ở Cuet năm 1803 trong giáo phận Belley, nước Pháp. Khi là học sinh tiểu học, ngài đã được thầy giáo chú ý vì sự thông minh và đạo đức. Khi gia nhập đại chủng viện, ngài được sự thương mến và quý trọng của các giáo sư cũng như đồng bạn. Khi là linh mục trẻ, ngài làm hồi sinh một giáo xứ trong khu “tồi tệ” của thành phố chỉ sau ba năm hoạt động. Tuy nhiên ngài vẫn muốn trở thành nhà truyền giáo, do đó lúc 28 tuổi ngài gia nhập Dòng Ðức Mẹ Maristes, là tu hội chú trọng đến công việc truyền giáo ở trong và ngoài nước. Nhưng, trái với điều mong ước, ngài lại được chỉ định công việc dạy học ở đại chủng viện Belley trong vòng năm năm kế đó, và ngài thi hành nhiệm vụ ấy với tất cả nhiệt thành.

Vào năm 1836, nhà dòng được giao cho vùng New Hebrides ở Thái Bình Dương để truyền giáo, và Cha Phêrô thật vui sướng được bổ nhiệm là bề trên của nhóm truyền giáo, tuy nhỏ nhưng hăng say rao giảng Ðức Tin cho dân cư trên đảo.

Sau mười tháng lênh đênh trên biển, họ đã cập bến và tách ra làm hai nhóm, và nhóm của Cha Phêrô thì đến Ðảo Futuna với hai người phụ tá là một thầy dòng và một giáo dân người Anh. Khi ấy dân cư trên đảo còn trong tình trạng bán khai mà lệnh cấm ăn thịt người chỉ vừa mới được ban hành. Lúc đầu các vị truyền giáo được người bản xứ và tù trưởng Niuliki tiếp đón niềm nở. Tuy nhiên, khi các ngài càng ngày càng sành sõi tiếng địa phương và càng được dân chúng tin tưởng thì ông tù trưởng cảm thấy ghen tức và lo sợ; ông nhận thấy việc chấp nhận đức tin Công Giáo sẽ đưa đến sự bãi bỏ một số đặc quyền mà ông đang được hưởng, với tư cách của một thượng tế và vừa là người cầm quyền. Sau cùng, khi chính con trai ông bày tỏ lòng ước ao muốn được rửa tội, sự căm thù của ông bùng nổ và ông sai các chiến sĩ của ông đi bắt vị trưởng nhóm truyền giáo. Do đó, ngày 28 tháng Tư 1841, Cha Phêrô bị bắt và bị đánh đập cho đến chết bởi những người mà ngài muốn cứu vớt linh hồn họ.

Chỉ trong vòng hai năm sau cái chết của ngài, mọi người trên đảo đều theo đạo Công Giáo và vẫn trung thành với đức tin ấy cho đến ngày nay. Cha Phêrô Chanel là vị tử đạo đầu tiên ở Ðại Dương Châu và là quan thầy của châu này. Đức Giáo Hoàng Pius XII đã tôn phong Cha lên hàng hiển thánh tử đạo ngày 12 tháng 6 năm 1954.

LỜI BÀN: Chịu đau khổ vì Ðức Kitô có nghĩa sự đau khổ vì muốn trở nên giống như Ðức Kitô. Thường thường chúng ta bị chống đối là vì hậu quả của sự ích kỷ và thiếu khôn ngoan. Chúng ta không phải là người tử đạo khi bị “bạc đãi” bởi những người đã đối xử với chúng ta y như chúng ta đối xử với họ. Một vị tử đạo Kitô Giáo là người, giống như Ðức Kitô, chỉ đơn giản làm chứng cho tình yêu Thiên Chúa, và sống thật với chính mình.

LỜI TRÍCH: “Không ai là vị tử đạo chỉ vì một quyết định, không ai là vị tử đạo vì một ý kiến; chính đức tin tạo nên vị tử đạo” (Ðức Hồng Y Newman, Bài Diễn Văn cho Các Giáo Ðoàn Hỗn Hợp) (Nguồn: Người Tín Hữu online)

From: Đỗ Dzũng

 Thánh Mác-cô

 Thánh Mác-cô

Chúc bạn và gia đình ngày Thứ 2 đầu tuần tràn đầy sức mạnh và ơn sủng của Chúa. Hôm nay Giáo Hội mừng kính thánh Mác-cô, mừng bổn mạng đến những ai chọn ngài làm quan thầy nhé.

Cha Vương

Thứ 2: 25/04/2022

Thánh Mác-cô là cháu của thánh Bác-na-ba. Người đã đi theo thánh tông đồ Phao-lô trong hành trình truyền giáo lần thứ nhất, và theo đến tận Rô-ma. Người cũng là môn đệ của thánh Phê-rô và là thông ngôn của thánh Phê-rô, đã soạn lời giảng của thánh Phê-rô thành sách Tin Mừng. Truyền thống cho rằng người đã sáng lập giáo đoàn A-lê-xan-ri-a. (Nguồn: Kinh Phụng Vụ)

Những gì chúng ta biết về Thánh Mác-cô thì trực tiếp từ Tân Ước. Ngài thường được coi là nhân vật Mác-cô trong Tông Ðồ Công Vụ 12:12 (Khi Phêrô thoát khỏi ngục và đến nhà mẹ của Máccô).

Phao-lô và Bác-na-ba  muốn đưa Mác-cô đi trong chuyến truyền giáo đầu tiên, nhưng vì một vài lý do nào đó, Mác-cô đã ở lại Giêrusalem một mình. Trong cuộc hành trình thứ hai, Phaolô lại từ chối không muốn đem theo Mác-cô, bất kể sự nài nỉ của Bác-na-ba, điều đó chứng tỏ Mác-cô đã làm phật lòng Phao-lô. Sau này, Phao-lô yêu cầu Mác-cô đến thăm ngài khi ở trong ngục, điều đó cho thấy sự bất hòa giữa hai người không còn nữa.

Là Phúc Âm đầu tiên và ngắn nhất trong bốn Phúc Âm, Mác-cô nhấn mạnh đến việc Ðức Giêsu bị loài người tẩy chay trong khi chính Người là Thiên Chúa. Phúc Âm Thánh Mác-cô có lẽ được viết cho Dân Ngoại tòng giáo ở Rô-ma—sau cái chết của Thánh Phê-rô và Phao-lô khoảng giữa thập niên 60 và 70.

Cũng như các thánh sử khác, Mác-cô không phải là một trong 12 tông đồ. Chúng ta không rõ ngài có biết Ðức Kitô một cách cá biệt hay không. Một số sử gia cho rằng vị thánh sử này đã nói đến chính ngài trong đoạn Ðức Kitô bị bắt ở Giệtsimani: “Bấy giờ một người trẻ đi theo Người chỉ khoác vỏn vẹn một tấm vải gai. Họ túm lấy anh, nhưng anh tuột tấm vải lại, bỏ chạy trần truồng” (Máccô 14:51-52).

Tương truyền thì Mac-cô thành lập Giáo Hội Alexandria (Ai Cập) và chịu tử đạo tại đó năm 68 (bị kéo lê trên đường đá cho đến chết). Thánh tích của ngài được đưa về Venice năm 815. Thành phố Venice, nổi tiếng với quảng trường San Marco, một vương cung thánh đường vĩ đại ở đây được cho là nơi chôn cất thánh nhân. Thánh Mác-cô là quan thầy của thành phố Venice và còn là quan thầy của những người làm nghề gương và các lục sự.

Dấu hiệu của Thánh Mác-cô là con sư tử có cánh, do bởi đoạn Mác-cô diễn tả Gio-an Tẩy Giả như một “tiếng kêu trong hoang địa” (Máccô 1:3), mà các nghệ nhân so sánh tiếng kêu ấy như tiếng sư tử gầm. Ðôi cánh của sư tử là bởi áp dụng thị kiến của Êgiêkien về bốn con vật có cánh cho các thánh sử.

LỜI BÀN: Cuộc đời Thánh Mác-cô đã hoàn tất những gì mà mọi Kitô Hữu được mời gọi để thi hành: rao truyền Tin Mừng cứu độ cho mọi người. Ðặc biệt, phương cách của Thánh Mác-cô là qua sự viết văn. Những người khác có thể loan truyền Tin Mừng qua âm nhạc, nghệ thuật sân khấu, thi văn hay giáo dục con em ngay trong gia đình.

LỜI TRÍCH: Hầu hết những gì Thánh Mác-cô viết đều có đề cập đến trong các Phúc Âm khác — chỉ trừ bốn đoạn. Sau đây là một đoạn: “… Chuyện nước trời cũng tựa như chuyện một người vãi hạt giống xuống đất. Ðêm hay ngày, người ấy có ngủ hay thức, thì hạt giống vẫn nẩy mầm và mọc lên, bằng cách nào, thì người ấy không biết. Ðất tự động sinh ra hoa màu: trước hết cây lúa mọc lên, rồi trổ đòng đòng, và sau cùng thành bông lúa nặng trĩu hạt. Lúa vừa chín, người ấy đem liềm hái ra gặt, vì đã đến mùa” (Máccô 4:26-29). (Nguồn: Người Tín Hữu)

From: Đỗ Dzũng

Thánh Gioan La San (1651 – 1719)

Thánh Gioan La San (1651 – 1719).
07/04/2022 Thánh Gioan La San (1651 – 1719).

Cố gắng chu toàn những gì được coi là thánh ý Thiên Chúa, đó là cuộc đời của Thánh Gioan La San.

Năm 1950, Ðức Giáo Hoàng Piô XII đặt người làm quan thầy của các bậc mô phạm vì nỗ lực của người trong việc giáo dục. Là một người trẻ của thế kỷ 17, Gioan có tất cả mọi sự: năng khiếu học thuật, đẹp trai, gia đình quyền quý giầu có và được giáo dục tử tế. Nhưng khi mới 11 tuổi, người xuống tóc đi tu làm linh mục, và sau đó được chịu chức vào năm 27 tuổi. Dường như một cuộc đời dễ dàng với phẩm trật cao trọng trong Giáo Hội đang sẵn sàng chờ đón người. Nhưng Thiên Chúa đã có những chương trình khác cho Cha Gioan, mà dần dà mới được tỏ lộ trong những năm sau đó.

Trong một cơ hội gặp gỡ ông Nyel ở Raven, người cảm thấy muốn thiết lập một trường học dành cho các em trai nhà nghèo ở Raven, là nơi người đang sinh sống. Mặc dù công việc lúc đầu thật ghê tởm đối với người, nhưng sau đó, càng ngày người càng say mê hoạt động cho các thiếu niên nghèo túng.

Tin rằng đây là sứ vụ mà Thiên Chúa đã trao phó, Cha Gioan hết lòng lao mình vào công việc, bỏ nhà, bỏ gia đình, bỏ cả chức vụ kinh sĩ ở Rheims, bán hết tài sản để trở nên giống như các người nghèo mà người đã tận hiến cuộc đời để phục vụ họ.

Cuộc đời còn lại của Cha Gioan là sống sát với tu hội mà người đã thành lập, Các Thầy Trường Công Giáo (Sư Huynh La San). Tu hội này phát triển mau chóng và thành công trong việc giáo dục các nam thiếu niên của gia đình nghèo với phương pháp sư phạm mà Cha Gioan đề ra, đó là sự dạy dỗ cả lớp thay vì chỉ bảo cá nhân, và dùng tiếng bản xứ thay vì tiếng Latinh. Ðồng thời tu hội cũng còn mở trường huấn luyện các giáo chức và thiết lập trường nội trú cho các thiếu niên ngỗ nghịch của các gia đình giầu có.

Yếu tố năng động đằng sau các nỗ lực này là mong muốn các thiếu niên trở nên một Kitô Hữu tốt lành.

Mặc dù rất thành công, Cha Gioan cũng không thoát khỏi những thử thách, đó là sự đau lòng khi các sư huynh bỏ dòng …

Tượng tại Nhà thờ Saint Jean-Baptiste de La Salle, Paris, Pháp

https://www.wikiwand.com/vi/Gioan_La_San

From: ThuNNguyen

Lễ trọng thể kính Thánh Giuse (19/03)

Lễ trọng thể kính Thánh Giuse (19/03)

Mến chúc bình an đến bạn và gia đình, hôm nay 19/03 Giáo hội mừng lễ trọng thể kính Thánh Giuse, bạn Đức Trinh Nữ Maria. Mừng bổn mạng đến những ai chọn ngài làm quan thầy nhé.

Cha Vương

Thứ 7: 19/03/2022h

Thánh Giuse Bạn Ðức Trinh Nữ Maria, Phúc Âm đã ca ngợi Thánh Giuse là người “công chính”. Ý nghĩa của chữ “công chính” rất sâu xa. Khi Phúc âm nói Thiên Chúa “công chính hóa” người nào, điều đó có nghĩa Thiên Chúa, là Ðấng cực thánh và “chính trực”, biến đổi người đó bằng cách cho họ được chia sẻ sự thánh thiện của Thiên Chúa, và bởi đó họ đáng được Thiên Chúa yêu mến. Khi nói Thánh Giuse “công chính”, Phúc Âm muốn nói rằng ngài hoàn toàn mở lòng cho tất cả những gì Thiên Chúa muốn làm cho ngài. Ngài trở nên thánh thiện vì tự mở lòng cho Thiên Chúa. Với những gì còn lại chúng ta dễ phỏng đoán. Hãy suy nghĩ về tình yêu mà ngài đã theo đuổi và dành được con tim của Ðức Maria, và sự sâu xa của tình yêu mà hai người đã chia sẻ cho nhau trong cuộc hôn nhân. Khi Thánh Giuse quyết định từ bỏ Ðức Maria khi thấy người có thai, điều này không trái với sự thánh thiện của Thánh Giuse. Phúc Âm có ghi lại một chữ quan trọng là ngài dự định thi hành việc này “cách âm thầm” vì ngài là “một người chính trực, nhưng không muốn tố giác bà để bị xấu hổ” (Mátthêu 1:19). Người công chính thì đơn sơ, vui vẻ, hết lòng vâng lời Thiên Chúa – khi kết hôn với Ðức Maria, khi đặt tên cho Hài Nhi Giêsu, khi săn sóc gia thất ở Ai Cập, khi đem gia thất về lại Nagiarét, khi sống âm thầm trong bao năm trường với đức tin và dũng cảm. Vì Thánh Giuse không xuất hiện trong cuộc đời rao giảng công khai của Ðức Giêsu, nhiều sử gia tin rằng có lẽ Thánh Giuse đã từ trần trước khi Ðức Giêsu khởi đầu sứ vụ rao giảng.

Thánh Giuse là quan thầy của những người hấp hối, vì người ta cho rằng khi ngài từ trần có Ðức Giêsu và Ðức Maria ở bên cạnh, đó là điều mà tất cả chúng ta đều mong ước khi từ giã cõi đời.

Thánh Giuse còn là quan thầy của Giáo Hội hoàn vũ, của các người làm cha, các thợ mộc, và vấn đề công bằng xã hội. (Nguồn:  ns Người Tín Hữu online)

Kinh khấn Thánh Giuse Bảo trợ những vụ khó khăn

Lạy Thánh Giuse, xưa nay không ai kêu cầu Cha mà vô hiệu, Cha có thần thế trước mặt Đức Chúa Trời, đến nỗi người ta có thể nói rằng: “Trên trời, Thánh Giuse truyền lệnh hơn là van xin.” Lạy Cha hiền, xin cầu bầu cùng Chúa Giêsu cho chúng con. Khi ở thế gian này, Cha đã từng là Cha Nuôi và là vị bảo hộ trung thành của Chúa Con chí thánh, nay xin Cha bào chữa cho chúng con bên tòa Chúa. Chúng con trao phó cho Cha vụ khó khăn này (kể ra…). Xin Cha giải gỡ giúp chúng con, để thêm một vinh quang mới vào bao nhiêu vinh quang sẵn có của Cha. Lạy Thánh Giuse nhân từ, chúng con tin tưởng – vâng, chúng con tin tưởng, Cha có thể chấp nhận lời nguyện của chúng con, và giải thoát chúng con khỏi những khổ cực u sầu mà chúng con đang gặp phải. Hơn nữa, chúng con vững lòng trông cậy, Cha không bỏ qua điều gì giúp ích cho những người sầu khổ kêu cầu Cha, chúng con sấp mình dưới chân Cha, tha thiết nài xin Cha đoái thương đến những than van khóc lóc của chúng con. Xin Cha lấy tình thương như áo choàng che phủ chúng con, và chúc lành cho chúng con – Amen.

Chân Phước Angela Salawa (1881 – 1922)

Ngày 12 Tháng 3

Chân Phước Angela Salawa
(1881 – 1922)

Angela phục vụ Ðức Kitô và những người bé mọn của Ðức Kitô với tất cả sức mạnh của ngài.

Sinh ở Siepraw, gần Kraków, Ba Lan, ngài là người con thứ 11 của ông bà Bartlomiej và Ewa Salawa. Vào năm 1897, ngài đến Kraków để sống với người chị Têrêsa. Trong Thế Chiến I, ngài giúp đỡ các tù nhân chiến tranh bất kể quốc tịch hay tôn giáo. Ngài thích nghiền ngẫm các văn bản của Thánh Têrêsa Avila và Thánh Gioan Thánh Giá.

Cũng trong thời chiến, ngài đã hết mình chăm sóc các thương binh của Thế Chiến I. Sau năm 1918, vì lý do sức khoẻ ngài phải chấm dứt công việc tông đồ này. Trong nhật ký, ngài tâm sự với Ðức Kitô, “Con muốn Chúa được kính mến nhiều cũng như khi Chúa bị khinh miệt.” Ở chỗ khác, ngài viết, “Lạy Chúa, con sống bởi thánh ý Chúa. Chết hay sống là tùy thuộc ý Chúa muốn; xin gìn giữ con vì Chúa có thể làm điều ấy.

Trong lễ phong chân phước năm 1991 ở Kraków, Ðức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II nói: “Chính trong thành phố này mà ngài đã hoạt động, đã chịu đau khổ và đã nên thánh. Trong khi sống theo tinh thần của Thánh Phanxicô, ngài vẫn đáp ứng một cách phi thường với tác động của Chúa Thánh Thần” (Báo L’Observatore Romano, tập 34, số 4, 1991)

Lời Bàn

Ðừng bao giờ lầm tưởng sự khiêm hạ với thiếu tự tin, thiếu ý chí và không có hướng đi. Chân Phước Angela đã đem Tin Mừng và sự giúp đỡ vật chất cho một số người “bé mọn” của Ðức Kitô. Sự hy sinh này phải khích động chúng ta hành động tương tự.

Lời Trích

Cha Henri de Lubac, dòng Tên, đã viết: “Các Kitô Hữu tốt lành nhất và đầy sức sống nhất thì không thể tìm thấy trong những người khôn ngoan hay tài giỏi, người trí thức hay có đầu óc chính trị, hoặc những người có địa vị xã hội. Bởi đó, những gì họ nói thì không được báo chí để ý đến; những gì họ làm thì công chúng không ai biết. Ðời sống của họ ẩn khuất dưới con mắt thế gian, và nếu họ có được chút gì nổi tiếng, điều đó thường xảy đến cách muộn màng, và rất ngoại lệ, và luôn luôn kèm theo nguy cơ bị bóp méo” (The Splendor of the Church [Sự Huy Hoàng của Giáo Hội], trang 187).

Trích từ NguoiTinHuu.com

Thánh Polycarp, Giám mục tử đạo (c. 69-155)

Thánh Polycarp, Giám mục tử đạo (c. 69-155)

Thứ 4 rồi bạn ơn, chỉ còn đúng 1 tuần nữa là đến ngày Thứ 4 Lễ Tro, chuẩn bị tâm hồn từ từ đi nhé. Hôm nay Giáo Hội mừng kính Thánh Polycarp, Giám mục tử đạo (c. 69-155). Mừng quan thầy đến ai chọn ngài làm bổn mạng hôm nay.

Cha Vương

Thánh Polycarp là môn đệ của Thánh Gioan Tông Ðồ và là bạn của Thánh Ignatiô ở Antioch, Thánh Polycarp, Giám Mục của Smyrna (bây giờ là Izmir, Thổ Nhĩ Kỳ), là một vị lãnh đạo đáng kính của Kitô Giáo trong tiền bán thế kỷ thứ hai. Tuy nhiên các vị lãnh đạo Giáo Hội thuộc thế hệ thứ hai đã gặp những thử thách mà thế hệ trước không đề cập đến. Họ phải làm gì khi thế hệ chứng nhân thứ nhất ấy không còn nữa? Lời dạy dỗ xác thực của Chúa Giêsu phải truyền lại như thế nào? Phải trả lời thế nào với các câu hỏi chưa từng có? Khi các tông đồ không còn ở trần thế nữa, các lạc thuyết bắt đầu xuất hiện ngụy trang chính giáo, sự bách hại lại mạnh mẽ và bắt đầu xuất hiện các tranh chấp về vấn đề phụng vụ mà Ðức Giêsu không bao giờ nói đến.

Polycarp, một người thánh thiện và là giám mục của Smyrna, chỉ thấy có một câu trả lời – trung thành với đời sống Ðức Giêsu và bắt chước đời sống ấy. Thánh Ignatiô nói với Thánh Polycarp “tinh thần của anh đặt nền móng nơi Thiên Chúa như trên một tảng đá không thể nào lay chuyển nổi.” Khi đối diện với lạc giáo, ngài có “bộ mặt bộc trực” đến nỗi Thánh Ignatiô phải thán phục cũng như ngài đã bắt chước cách Ðức Giêsu trả lời người Pharisêu. Marcion, người lãnh đạo lạc thuyết nhị nguyên (Marcion chủ trương có hai Chúa. Một Chúa trong Cựu Ước thì khác với Chúa của Tân Ước, và Ðức Giêsu là Con của Thiên Chúa trong Tân Ước.) khi đối chất với Polycarp đã yêu cầu ngài thừa nhận họ, “Polycarp, hãy thừa nhận chúng tôi.” Polycarp trả lời, “Tôi thừa nhận ngài, phải, tôi thừa nhận ngài là đứa con của Satan.” Trái lại khi đối diện với các bất đồng của Kitô Hữu, ngài lại rất khoan dung và tôn trọng. Một trong những tương tranh thời ấy là việc cử hành lễ Phục Sinh. Ðông Phương, là xuất xứ của Thánh Polycarp, cử hành mầu nhiệm Vượt Qua như sự Thương Khó của Ðức Kitô tiếp theo sau bằng một Thánh Lễ vào ngày kế tiếp. Tây Phương cử hành lễ Phục Sinh vào ngày Chúa Nhật sau tuần lễ Vượt Qua. Khi Thánh Polycarp đến Rôma để thảo luận về vấn đề này với Ðức Giáo Hoàng Anicetus, họ bất đồng ý kiến. Nhưng các ngài cũng không thấy sự khác biệt trong đức tin Kitô Giáo. Và Ðức Anicetus đã yêu cầu Thánh Polycarp cử hành Thánh Lễ ngay trong nhà nguyện của đức giáo hoàng.

Thánh Polycarp đối diện với sự bách hại cũng như Ðức Kitô đã làm. Chính giáo đoàn của ngài phải thán phục ngài vì đã theo sát “gương phúc âm” – không tìm cách để tử đạo như một số người đã làm, nhưng trốn tránh sự bách hại cho đến khi thánh ý Chúa được thể hiện như Ðức Giêsu Kitô đã làm. Họ coi đó là “một dấu chỉ tình yêu nói lên sự khao khát không muốn chỉ cứu chuộc có một mình, nhưng còn cứu chuộc tất cả anh chị em Kitô Hữu.” Trong thời kỳ đẫm máu tử đạo của người Kitô trong đấu trường, dân chúng trở nên điên cuồng đòi hỏi phải tìm bắt Thánh Polycarp, vì ngài nổi tiếng thánh thiện. Thánh Polycarp thật điềm tĩnh nhưng giáo dân thúc giục ngài đi trốn trong một nông trại gần thành phố. Quân lính tìm ra ngài sau khi tra khảo hai đứa bé. Ngài thết đãi họ ăn và xin họ để ngài cầu nguyện trước khi điệu về đấu trường. Thấy đức tin vững vàng không lay chuyển của Thánh Polycarp, quan thống đốc ra lệnh thiêu sống, và khi quân lính châm lửa, nhiều người chứng kể lại họ được nhìn thấy một phép lạ. Lửa cháy thành một vòng cung chung quanh thánh nhân, bao bọc ngài như các cánh buồm, và thay vì bị đốt cháy, ngài lại rực sáng như vàng đang chảy trong lò lửa. Khi quân lính thấy ngài không hề hấn gì, chúng đã lấy dao đâm ngài. Máu ngài chảy ra đã dập tắt ngọn lửa. Quan thống đốc ra lệnh đốt xác thánh nhân mà không để giáo dân lấy xác, vì ông sợ họ sẽ thờ Thánh Polycarp mà không thờ tà thần của người Rôma. “Chứng từ” tử đạo của Thánh Polycarp là chứng từ được ghi nhận một cách xác thực về sự tử đạo của người Kitô ngay từ thuở ban đầu. Ngài chết vào khoảng năm 155. Trong nhiều lá thư của Thánh Polycarp, chỉ còn một lá ngài viết cho Giáo Hội Philippi, Macedonia là còn giữ được cho đến ngày nay.

Lời Bàn: Thánh Polycarp được công nhận là vị lãnh đạo Kitô Giáo bởi tất cả Kitô Hữu thuộc Giáo Hội Tiểu Á – một thành trì đức tin vững mạnh và trung thành với Ðức Giêsu Kitô. Sức mạnh của ngài là bởi tín thác vào Thiên Chúa, ngay cả khi các biến động của đời sống mâu thuẫn với sự tin tưởng này. Sống giữa những người ngoại giáo và dưới chế độ đàn áp một tôn giáo mới, ngài đã chăn dẫn đàn chiên của ngài. Cũng như vị Mục Tử Tốt Lành, ngài đã hy sinh mạng sống vì đàn chiên và gìn giữ họ khỏi bị bách hại thêm nữa. Sự tín thác vào Thiên Chúa của ngài được tóm lược trong câu nói trước khi chết: “Lạy Cha? Con ca tụng Ngài, vì đã giúp con xứng đáng cho đến ngày giờ này?” (Sổ Tử Ðạo, Chương 14).

Lời Trích: “Hãy vững vàng trong cách ăn ở và noi gương Chúa, ‘trung kiên trong đức tin, yêu thương anh chị em, đoàn kết trong chân lý,’ giúp đỡ lẫn nhau với sự dịu dàng của Chúa, đừng khinh miệt một ai” (Thánh Polycarp, Thư Gửi Tín Hữu Philippi). (Nguồn: Người Tín Hữu)

From: Đỗ Dzũng