40 NĂM NHÌN LẠI: NGƯỜI VIỆT TRÊN ĐẤT MỸ

40 NĂM NHÌN LẠI: NGƯỜI VIỆT TRÊN ĐẤT MỸ

Chu Tất Tiến

SỰ HÌNH THÀNH CỘNG ĐỒNG VIỆT NAM

1-Di tản, tị nạn, vượt biên, và định cư

Biến cố năm 1975 tại Việt Nam cũng là một biến cố cho Hoa Kỳ, vì trước và ngay khi miền Nam bị rơi vào tay Cộng Sản, môt làn sóng dân Việt tị nạn chính trị đã đổ ào ạt vào nước Mỹ, làm xáo trộn nhiều sinh hoạt của đất nước này. Những năm đó, có rất ít người Việt đến Mỹ và thường đến theo diện hôn nhân với người Mỹ, và một số nhỏ đi du học rồi ở lại luôn. Theo tài liệu của cơ quan Di Trú và Quốc Tịch Mỹ, thì từ 1950 đến 1974 chỉ có 650 người. Nhưng từ tháng 4 năm 1975, với sự cứu vớt nhân đạo của người Mỹ, hàng triệu người Việt đã đến qua nhiều phương tiện di chuyển. Ngay trong những tháng mùa Xuân 1975, đã có 125,000 người được phi cơ hay tầu thủy của Mỹ đưa sang các trại tạm cư tại Philippines và Guam. Từ các trại tạm cư này, người Việt di tản đã được định cư tại nhiều nơi trên đất Mỹ, đăc biệt là tại California và Texas. Trong đợt di tản này, đa số là những người có học vấn cao, từng giữ những chức vụ quan trọng trong chính quyền miền Nam, hay những người có liên hệ trực tiếp với người Mỹ, nhân viên của Sứ Quán Mỹ hoăc các công ty Mỹ tại Việt Nam.

Sau đợt di tản chính thức do chính phủ Mỹ thực hiện đó, vì hãi sợ chế độ hà khắc của Cộng Sản, người miền Nam đã tự túc rời bỏ quê hương mình bằng các phương tiện tự túc và tự chế. Đa số vượt biên trong những chiếc tầu đánh cá, hoặc dùng các máy chạy dầu “2 block” hoặc “3 block” đầu bạc gắn vào các ghe dài từ 10 đến 15 mét. Những con tầu vượt đại dương này có thể chứa 50 người thoải mái, nhưng cũng có nhiều trường hợp chất đến hơn 100 người nằm xếp như cá hộp trên tầu, không có phương tiện ăn uống hoặc vệ sinh. Nếu không có tầu đánh cá lớn như thế, nhiều người phải vượt biển bằng bè, bằng ghe nhỏ, có gắn “đuôi tôm” hay máy xay nước mía, chạy chậm rì và dễ lật. Có một trường hợp đi biển bằng bốn thùng “phuy”, trước đựng xăng, gắn lại thành môt cái bè đơn sơ cũng ra tới biển và được tầu lớn đón đi. Vì không có sự bảo vệ nào cả, nên những người đi ghe thường bị hải tặc tấn công, hãm hiếp, và bị giết chết dưới những hình thức tàn bạo. Một số khác chết vì đói, bệnh, hoặc tấp thuyền vào những cồn san hô, không có thực phẩm. Theo ước tính của Cao Ủy Liên Hiệp Quốc, dựa trên tỷ lệ số người đến được các trại tị nạn và số người mất trên biển, cùng với sự ước tính những người thân trong gia đình đã vượt biên và bị giết chết, có đến vài trăm ngàn người bị chết trên biển trước khi đến bờ Tự Do. Một số không nhỏ đã bị hãm hiếp hay bị giết chết ngay trên đất liền của Thái Lan và Mã Lai hoặc tại những đảo nhỏ trong vùng Đông Nam Á. Vài trường hợp, người vượt biên được tầu cá Thái Lan đưa vào đất liền để hãm hiếp xong, thì kéo ghe ra xa, rồi đâm tầu cá Thái Lan vào tầu vượt biên, cho chìm. Một số trường hợp khác bị Công An Cộng Sản Việt Nam bắt, và cũng bị hãm hiếp, sau khi công an đã thu hết vàng bạc trong người. Một người mới được thả ra từ tay Công An Cà Mâu cho biết, sau khi Công An đã lột hết tiền bạc dấu trong người vượt biên, đã cho người vượt biên trở lại tầu của mình và đi tiếp, nhưng giữ lại ba cô gái đẹp nhất. Sau đó, thì không ai nghe thấy tin tức gì của ba người bất hạnh đó cả.

Hầu như gia đình nào ở các tỉnh thành lớn miền Nam đều có thân nhân vượt biên. Những năm đầu sau 1975, đa số người vượt biên là những người có phục vụ trong chính quyền cũ, hoặc có liên hệ đến các viên chức, quân sự cũng như dân sự. Họ đã phải rời quê hương để tránh bị tắm máu, bị giết dần mòn trong các trại tù khổ sai được gọi là “Trại Học Tập Cải Tạo”. Vì thế, số người vượt biên vì kinh tế thì rất ít. Nhưng đến khoảng 1978, sau các đợt “đánh tư sản”, đổi tiền, chống người Hoa Kiều ở Viêt Nam, thì số vượt biên tăng dần với các người dân thường, không dính dáng gì đến chế độ cũ. Nhận thấy đây là cơ hội làm giầu, một số nhà cầm quyền Cộng Sản địa phương cho tổ chức các cuộc vượt biên “bán chính thức” để các người Việt gốc Hoa được ra đi, sau khi nộp cho giới cầm quyền ở địa phương nhiều lạng vàng (được gọi là “cây”). Nhiều chuyến tầu lớn ra khơi với năm, sáu trăm người và đã đổ bến Tự Do an toàn, ít bị hải tặc tấn công vì có máy mạnh và đã có đề phòng sẵn. Các cuộc vượt biên này rầm rầm rộ rộ tại các bãi đáp, tưởng như không bao giờ dứt. Nhưng đến khi thấy lấy tiền và vàng quá dễ dàng, lòng tham của công an, bộ đội bùng lên tới cao độ khiến họ tổ chức những cuộc vượt biên giả, để giết người, thu vàng. Bao nhiêu người chết chìm trên sông, khi chưa ra tới biến. Cách thức giết người của Công An thì đơn giản: cho tầu ra giữa dòng sông, đợi đến đêm, thì công an gọi lần lượt từng người bước ra ngoài, nói là chuyển lên tầu lớn, nhưng khi vừa chui ra khỏi mui thì bị đập một cây gỗ có gắn đinh vào đầu, rồi bị đá xuống sông. Sau khi số người chết chìm trên sông tăng lên một cách kinh hoàng, một phụ nữ thoát thân được sang đến Mỹ, thì gửi thư đến tất cả các cơ quan cầm quyền Hà Nội, tố cáo hành vi dã man này ròng rã hai năm, thì Hà Nội mới đánh hơi thấy đây là chuyện lớn, nên bắt đầu thanh trừng nội bộ, xử tử những tay công an tham lam tổ chức vượt biên giả để cướp của, giết người, trong số này có cả Giám Đốc Công An Tỉnh, khiến cho các cuộc vượt biên sau này trở nên khó khăn hơn. Nhưng bất chấp tất cả nguy hiểm, bị công an bắt tù, bị hải tặc hãm hiếp và giết chết, các tầu chở người vượt biên vẫn tiếp tục lên đường, trong số này có nhiều trẻ em, phụ nữ, nông dân, và thợ thuyền. Những người sống sót được cứu vớt đem vào các trại tị nạn tại Thái Lan, Singapore, Mã Lai, Philippine, và Hồng Kông. Từ các trại này, người di tản được đi các quốc gia nào đã cứu vớt họ. Nếu không có người thân nào ở các nước đó, hay nếu được thân nhân bảo lãnh, người tị nạn sẽ được đưa vào Mỹ.

Nói đến trại tị nạn Hồng Kông, người ta không quên một vấn đề đặc biệt: sự phân biệt giữa người tị nạn từ miền Nam và miền Bắc. Khi tin tức về các người tị nạn được sinh sống ở Mỹ và các nước khác lan đến miền Bắc Việt Nam, thì một số dân chúng ở đây cũng tìm cách ra đi, tuy không phải là đối tượng bị theo dõi, và bị bắt. Người vượt biên từ miền Bắc, vì gần với Hồng Kông nên cho tầu đến thẳng nơi đây. Từ đó, nẩy sinh ra sự phân biệt, kình chống giữa hai thành phần, người vượt biên từ miền Nam và người vượt biên từ miền Bắc, trong đó, có một số lớn là “dân đầu gấu”, tức là du đãng Hải Phòng. Với tiếng nói khác nhau, lý tưởng khác nhau, nên xẩy ra nhiều cuộc xung đột tay chân, cả hai bên dàn quân ra đánh nhau, khiến cho cơ quan cứu trợ phải chia ra hai lằn ranh, dân miền Bắc và dân miền Nam. Vì những người vượt biên từ miền Bắc không được Mỹ nhận, nên đa phần họ đã được chở sang Anh và định cư ở đây.

Do hoàn cảnh như trên, đơt người đến Mỹ sau này đã thành một trở ngại lớn cho các nước phương Tây và nhất là Mỹ. Họ không biết nói tiếng ngoại quốc cũng như chẳng có học vấn hay khả năng chuyên môn để thích ứng với môi trường mới. Phải mất nhiều năm, với sự giúp đỡ của chính quyền sở tại, những người đến sau này mới hội nhập được vào cuộc sống mới. Tại Mỹ, vì tính cần cù, chịu khó, và được sự bảo trợ của người bản xứ, nên khoảng 10 năm sau, một số lớn đã có thu nhập cao, đặc biệt là những người quen nghề đi biển đánh cá, tụ tập nhiều ở tiểu bang Louisiana và Texas. Nhiều người di tản đã trở thành triệu phú.

2-Bảo Lãnh và Chương trình H.O.

Những người đến Mỹ trước, sau khi nhận được thẻ xanh, thì bắt đầu lo bảo lãnh để đưa thân nhân qua. Tuy biết rằng những người sang Mỹ theo diện bảo lãnh thì không được trợ cấp về ý tế hay tài chánh, nhưng những đơn xin bảo lãnh cứ tăng dần, và số người Việt trên đất Mỹ bắt đầu đông đảo. Người trước hướng dẫn người sau rồi tụ họp thành nhiều trung tâm Việt Nam lớn với những điều kiện sinh hoạt giống như ở Việt Nam. Thực phẩm Việt Nam bắt đầu xuất hiện đầy dẫy trong các chợ Việt với đa số chủ nhân là người Việt gốc Hoa, chỉ có một số ít là do người Việt làm chủ. Các tiệm ăn, bán trang phục và các văn phòng dịch vụ, tiện nghi khác cũng mọc lên như nấm.

Đến đầu năm 1990, chương trình H.O. bắt đầu được thực hiện để đưa những quân nhân và viên chức hành chánh từng đi tù Cộng Sản đến Mỹ một cách chính thức với gia đình. Danh xưng H.O. này, thật ra, đã bị hiểu nhầm. Chính phủ Mỹ đã cho từng đợt người di tản dưới số hiệu từ A, B, C. Đến chữ H, thì vào đúng lúc dành cho những người từng ở tù cải tạo, và đợt đầu tiên là H.0 tức là H.Zero. Rồi H.01, H.02, H.03…Vì không hiểu ý nghĩa của danh xưng này, nên một số người diễn giải là: Human Organization, Humantarian Organization.. rồi dần dần biến thành H.Ô. Những người đến nước Mỹ dưới diện H.O này, được trợ cấp trong 2 năm, rồi phải tự tìm cách hội nhập vào đời sống mới. Vì đã từng là cấp chỉ huy quân sự hoặc dân sự, nên các đợt H.O sau này đều nhanh nhẹn thích hợp ngay với quê hương thứ hai này. Chỉ sau 5,7 năm, cùng với những người đi trước, số người Việt đi theo diện H.O. đã thành công trên nhiều lãnh vực, do chính bản thân hay từ con cái, thuộc thế hệ thứ 2. Nhận thấy rằng, mình là người đến sau, không thể cạnh tranh với người đến trước, nếu không có học vấn. Do đó, các bậc cha mẹ đã hết sức khuyến khích con cái đi học ngay. Vì thế, đa số thế hệ thứ hai tốt nghiệp từ các trường chuyên môn như Y Khoa, Dược Khoa, Nha Khoa, Tài Chánh, Thương Mại. Có gia đình có đến 10 y sĩ, vừa dâu vừa rể, vừa con ruột, là Bác Sỹ Y Khoa, Dược Sĩ, hay Nha Sĩ. Một số lớn có thế hệ thứ hai toàn là Kỹ Sư, Cử Nhân.

Theo thống kê năm 2010, kể cả những người con Lai Mỹ được sang Hoa Kỳ, có 1,548,449 người Việt trên đất Mỹ, hoặc 1,737,433 người Việt hòa nhập với các quốc tịch khác qua hôn nhân, tạo thành một khối Á Châu đứng hàng thứ tư trong toàn khối người Á Châu gốc Mỹ. Người Việt được phân phối (1) như sau:

– California: 581,946

– Texas: 210,913

– Washington: 66,575

– Florida: 58,470

– Virginia: 53,529

– Georgia: 45,263

– Massachusetts: 42,915

– Pennsylvania: 39,008

– New York: 28,764

– Louisiana: 28,350

Trên đây là những con số có tính cách khái quát. Thực tế, người Việt di chuyển và đổi chỗ ở nhiều lần qua nhiều tiểu bang để tìm nơi có công ăn, việc làm thích hợp. Thực tế cho thấy, người Việt đổ dồn về California vì khí hậu ở đây ấm áp, ít lụt và không có bão mạnh, chỉ có động đất, nhưng với lý luận, “Trời kêu ai, người nấy dạ”, họ chấp nhận động đất như là môt phần trong sinh hoạt, không có gì đáng lo ngại. Đến năm 2010, đã có 183,766 người ở Quận Cam, miền Nam California. Tập trung nhiều nhất là vùng Westminster, nơi đây được đặt tên chính thức là Little Saigon. Bên cạnh đó, là các thành phố đầy người Việt Nam như Garden Grove và Santa Ana. Miền Bắc California, với San Jose là nơi tập trung nhiều người Việt di tản nhất, sau đó mới đến những thành phố xa như Sacramento, Monterey..

Về việc nhập tịch, người Việt cũng là thành phần nhận được quốc tịch Mỹ nhiều nhất và nhanh nhất so với một số sắc dân khác. Theo American Community Survey năm 2006, 72% người Việt sinh ở nước ngoài trở thành công dân, cộng với 36% sinh tại Mỹ, làm cho số người được Việt được nhận quốc tịch Mỹ là 82%.

SỰ PHÁT TRIỂN

1- Tín ngưỡng và lập trường chính trị.

Về tín ngưỡng, đa số theo đạo Thiên Chúa gồm Công Giáo và Tin Lành. Người theo Công Giáo nhiều nhất. So với 6% người theo Công Giáo khi còn ở trong nước, họ đã nâng tổng số người Việt Công Giáo là 23% của toàn thể người Mỹ gốc Việt. Sau khi đã ổn định đời sống vật chất, người Việt bắt đầu nghĩ đến việc tham gia vào dòng chính, qua các sinh hoạt chính trị như ghi tên gia nhập Đảng. Vì một số người có sự hiểu lầm là Đảng Cộng Hòa thế nào cũng phải ủng hộ người thuộc Việt Nam Cộng Hòa, nên đã gia nhập Đảng Cộng Hòa. Một số người còn tin rằng Đảng Cộng Hòa thế nào cũng giúp người Việt tị nạn đánh lại Cộng Sản. Họ đã không hiểu rằng, đảng nào cũng vì quyền lợi của đất nước Hoa Kỳ mà thay đổi chính sách. Không có đảng nào thương yêu người Việt cách riêng cũng như không có Đảng nào ghét bỏ người Việt. Vì vậy, thực tế cho thấy có 29% theo Cộng Hòa, trong khi chỉ có 22% theo Dân Chủ. Riêng tại Orange County, California, vì số người định cư ở đây đa phần là người thuộc chế độ Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam nên có 55% ghi danh theo Cộng Hòa và 22% theo Dân Chủ. Theo National Asian American Survey, năm 2004 có 72% bỏ phiếu cho George Bush, trong khi có 28% bỏ cho John Kerry. Năm 2008, có tới 2/3 dân Việt bỏ phiếu cho John Mccain. Tuy nhiên, số người trẻ thuộc thế hệ thứ 2 lại ưa đảng Dân Chủ. Trong kỳ bầu cử năm 2008, có tới 60% người trẻ bỏ phiếu cho Barack Obama.

Trong sinh hoạt chính trị nước Mỹ, cộng đồng người Mỹ gốc Việt tỏ ra ồn ào nhất với rất nhiều cuộc biểu tình, mít tinh chống Cộng. Vụ Trần Trường nổ ra tai miền Nam California, lôi kéo tới hơn 22,000 lượt người tham gia biểu tình mỗi đêm trong suốt gần 1 tháng. Hầu như tối nào cũng có biểu tình. Cờ vàng rực trời California. Âm thanh của nhạc khí và tiếng ca chống Cộng vang động cả một góc trời. Trong khi biểu dương khí thế chống Cộng mạnh mẽ như thế, thì người Việt cũng âm thầm tham gia ứng cử vào các chức vụ chính quyền. Khởi đầu là ông Tony Lâm, một người làm thương mại, ứng cử mà không có đối thủ người Việt nên được bầu làm Nghị viên thành phố Westminster với đa số phiếu từ người Mỹ gốc Việt. Sau đó, đến Luật Sư Trần Thái Văn cũng dành được một ghế trong Quốc Hội California một cách vẻ vang. Rồi đến Janet Nguyễn, mới đầu đắc cử nghị viên thành phố Garden Grove, sau vươn lên, đắc cử Giám Sát Viên Quận Cam, chi phối ảnh hưởng của mấy tỉnh miền Nam. Trong lần tranh cử này Janet Nguyễn chỉ thắng đối thủ là Luật Sư Nguyễn Quang Trung có 3 phiếu.

Sự tham dự đông đảo vào dòng chính làm cho người Mỹ sở tại quan tâm đến cộng đồng Việt nhiều hơn trước, nhất là sau khi thành phố có 3 nghị viên là người Mỹ gốc Việt: Tạ Đức Trí, Andy Quách, và Diệp văn Trường. Bên thành phố Garden Grove, Luât Sư Dina Nguyễn tại vị trí Nghị Viên được mấy nhiệm kỳ rồi. Dựa vào sức mạnh của các vị trí chính trị, Trần Thái Văn, Tạ đức Trí, Andy Quách đã tạo được một kỳ tích đáng kể: Làm luật cấm không cho Cộng Sản Viêt Nam được đi qua thành phố, và quyết định cho phép tôn vinh lá cờ vàng ba sọc đỏ của Việt Nam Cộng Hòa được treo chính thức trước thềm sảnh thành phố và các địa điểm công cộng khác, mà không cho treo cờ của Cộng Sản Việt Nam. Từ chiến dịch phát động khởi đi từ Westminster, California, cho tới nay, đã có 13 Tiểu Bang, 7 Quận hạt và 85 thành phố chấp nhận lá cờ Việt Nam Cộng Hòa là đại diện chính thức của nước Việt Nam.

Tại Houston, Texas, theo gương miền Nam California, Dân Biểu Hubert Võ cũng được đắc cử vẻ vang. Tại Houston, người Việt đầu tiên được bầu làm Nghị Viên thành phố: Luật Sư Hoàng Duy Hùng. Người Việt ở Texas lấy làm hãnh diện về việc này. Tuy nhiên, niềm hãnh diện của người Việt không kéo dài, vì Nghị Viên Hoàng Duy Hùng, sau khi đắc cử, lại thay đổi lập trường chống Cộng, để thiên về khuynh hướng hòa hợp, hòa giải với Cộng Sản Việt Nam. Cùng với Thị trưởng Houston, ông thu xếp một cuộc nói chuyện với Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Việt Nam Nguyễn Thanh Sơn và dàn xếp buổi đối thoại giữa thứ trưởng Nguyễn Thanh Sơn với cộng đồng người Việt tại Hoa Kỳ năm 2013, rồi sau đó theo lời mời của Nguyễn Thanh Sơn, ông chính thức về Việt Nam bàn thảo việc hòa hợp, hòa giải, nhưng không thành công. Ngược lại, ông còn bị cộng đồng chống đối một cách tích cực khiến ông thất cử trước Richard Nguyễn,một nhân vật ít được cộng đồng biết đến. Còn ở Louisiana, Luật Sư Cao Quang Ánh, thuộc đảng Cộng Hòa được đắc cử vào chức vụ Dân Biểu Liên Bang, nhưng chỉ được một nhiệm kỳ và phải nhường lại cho người địa phương, Cedric Richmond thuộc Dân Chủ, vì đại đa số dân ở đây là người theo đảng Dân Chủ. Sau khi bất ngờ bị Cao Quang Ánh, một đảng viên Công Hòa thắng thế, đảng Dân Chủ dồn hết sức mạnh lại và đánh bật Cộng Hòa ra khỏi chức vụ này.

Hiện nay, năm 2014, trên nước Mỹ, có hai viên Thị Trưởng người Mỹ gốc Việt tại miền Nam California: Thị Trưởng Tạ Đức Trí, thành phố Westminster và Thị Trưởng Michael Võ, thành phố Fountain Valley. Ông Tạ Đức Trí, nguyên Chủ Tịch Tổng Hội Sinh Viên Miền Nam California, đắc cử vẻ vang chức Thị Trưởng qua một cuộc bầu cử sôi động, còn ông Michael Võ, một chuyên viên về Bảo Hiểm, và là chủ môt trường dậy lái xe, đã được hội đồng thành phố chọn, không qua thể thức bầu cử công khai. Với thành phố Garden Grove, Luật Sư Nguyễn Quốc Lân đang đảm nhiệm chức vụ Chủ Tịch Hội Đồng Quản Trị Giáo Dục, điều hành gần 100 trường trung học và tiểu học trong khu vực. Miền Bắc California, có nghị viên Madison Nguyễn, đắc cử trong sự phân rẽ của người Việt tị nạn. Nhiều cuộc biểu tình chống Nghị Viên này khi bà chống lại các đề nghị đặt tên “Little Saigon” cho khu phố Việt Nam tai San Jose. Tại Texas, Luật Sư Hoàng Duy Hùng, môt người từng tranh đấu cho Dân Chủ tại Việt Nam, cũng đắc cử Nghị Viên dựa trên lá phiếu của cộng đồng tị nạn, nhưng sau khi đắc cử, ông đã có những hành động làm mất lòng đồng hương, như về Việt Nam, tạo cây cầu nối kết liên lạc giữa Việt Nam Cộng Sản và Texas, và tuyên bố nhiều điều tạo cơn phẫn nộ giữa cộng đồng, gây nên nhiều cuộc biểu tình chống đối, nên sau khi hết nhiệm kỳ, ông đã không được đồng hương bỏ phiếu cho ông nữa. Một nhân vật ít được nhắc đến trên báo chí nhưng cũng là môt tiêu biểu cho người Việt thành công: Nghị viên thành phố Haltom: Trương Minh Ẩn.

2-Thành Tựu

Sau hơn 15 năm định cư tại xứ Mỹ, người Việt đã chứng tỏ rằng, với sự cần cù và ý chí tiến thủ, sẽ vượt lên ngang tầm với những cộng đồng khác đến nước Mỹ từ trước cả trăm năm. Một số nhân vật tiêu biểu đã làm rạng danh người Việt:

– Tiến Sĩ Nguyễn Văn Hạnh, Nguyên Tổng Giám Đốc Định Cư và Tị Nạn, chức vụ cao nhất của người Mỹ gốc Việt trong hệ thống hành chánh. Ông cũng từng là Phụ Tá Thống Đốc Tiểu Bang California.

– Bà Mary Chi, người Việt Nam đầu tiên được bổ nhậm vào một chức vụ khá quan trọng trong chính quyền: Phó Tổng Giám Đốc Định Cư và Tị Nạn.

– Quách Nhứt Danh, Dược Sĩ, cùng với Triệu Phát, là những người khai phá Little Saigon ở Quận Cam, California. Hai triệu phú này, hiện nay, làm chủ đa số các văn phòng thương mại, dịch vụ tại Little Saigon. Trung Tâm Phúc Lộc Thọ với gần 200 cửa hàng đã mang lại cho khu vực Thủ Đô Tị Nạn này một sinh hoạt linh động, nhất là vào dịp Tết. Số khách đến thăm Chợ Tết ở đây có thể lên đến vài chục ngàn lượt người.

– Trần Đình Trường, Chủ nhân khách sạn lớn tại New York, người luôn hào hiệp mời tất cả những đồng hương đi biểu tình hay tham dự các cuộc diễn hành tại New York đến ngụ tại khách sạn của ông miễn phí.

– Kỹ Sư Trung Dũng, bán sản phẩm của anh: OnDisplay cho Vignette Corporation vào năm 2000 với giá 1 tỷ 800 triệu.

– Châu Nguyễn, xướng ngôn viên Truyền Hình, người Việt đầu tiên nhận giải Regional Emmy Award.

– Lệ Lý Hayslip, tác giả cuốn “Khi Trời và Đất thay ngôi”, sau đã được chuyển thành phim “Trời và Đất” (Heaven and Earth) bởi Oliver Stone.

– John Quốc Dương là Giám Đốc Cơ Quan Châu Á Thái Bình Dương, chuyên cố vấn cho Tổng Thống về những vấn đề thuộc châu Á.

– Stephanie Trọng, Tổng Biên Tập tờ báo Jane Magazine.

– Huỳnh Công Út, tự Nick Ut, nhiếp ảnh gia, người Việt đầu tiên đoạt giải Pulitzer và giải Báo Chí Thế Giới.

– Mina Nguyễn – Deputy Assistant Secretary cho Business Affairs và là Public Liaison tại Bộ Tài Chánh.

– Phi Hành Gia, Tiến Sĩ Eugene H. Trinh – người Việt đầu tiên vào không gian.

– Tiến Sĩ Nguyễn Tiến Hưng, nguyên Bộ Trưởng Kế Hoạch Việt Nam Cộng Hòa, Giáo Sư tại Howard University.

– Tiến Sĩ Giáo Sư Nguyễn Xuân Vinh, Giáo Sư về Kỹ Sư Không Gian, University of Michigan, người Việt đầu tiên nhận giải Dirk Brouwer

– Khoa Học Gia Dương Nguyệt Ánh, người lãnh đạo toán Kỹ Sư và Khoa Học Gia chế tạo ra Bom Áp Nhiệt dùng trong trận chiến Afghanistan.

– Trịnh Xuân Thuận – author,

– Võ Đình Tuấn, nhà sáng tạo, giáo sư và Giám Đốc Fitzpatrick Institute về Photonics của Duke University

– Nguyễn Hữu Xương, giáo sư Sinh Học, University of California, người khai thác việc nghiên cứu về bệnh Aids, sáng tạo ra X-ray Multiwire Area Detector –

– Tiến sĩ Nguyễn Định, nghiên cứu hỏa tiễn chống hỏa tiễn. Trưởng công trình nghiên cứu chế tạo loại vũ khí mới mang tên Free Electron Laser (FEL)

– Sinh viên gốc Việt 22 tuổi tên Kevin Lương, sinh viên năm cuối khoa Vô tuyến và Viễn thông. Cùng một nhóm bạn chế tạo ra hệ thống liên lạc với Vệ Tinh một cách hoàn hảo.

– Nhiều Bác Sĩ Mỹ gốc Việt được vinh danh vì những nghiên cứu y khoa đặc sắc hoặc vì tài năng hiếm có. Một Giáo Sư Y Khoa UCLA, khi mất, cả trường treo cờ rũ. Việc treo cờ rũ này chỉ được thực hiện với các vị Hiệu Trưởng hay Hiệu Phó của trường Đại Học. Một số lớn các Bác Sĩ Việt Nam đã được bổ nhậm làm Trưởng Khoa trong các bệnh viện lớn, hay Giáo Sư Chính Thức của các trường Đại Học Y Khoa. Bác Sĩ Giáo Sư Lương Vinh Quốc Khanh, Chủ Tịch Cơ Quan Nghiên Cứu Y Khoa Việt Mỹ (Vietnamese-American Medical Research Foundation) ở Nam California, thành viên của 7 Viện Y Khoa Hoa Kỳ, là người được Quốc Hội Hoa Kỳ tuyên dương và ghi vào hồ sơ Quốc Hội (Record of The United States House of Representatives) về những thành tích đặc biệt của ông. Thượng Viện California cũng tặng ông một bản Vinh danh về sự nghiên cứu thâm sâu của Bác Sĩ Giáo Sư Y Khoa Lương Vinh Quốc Khanh. Ông là “người ngoài” (outsider) duy nhất được mời làm Editor cho Tập San Y Khoa của Hoàng Gia Anh là một cơ quan cổ kính và bảo thủ qua nhiều thế kỷ.

– Thành công trong Quân Đội Hoa Kỳ:

Hiện nay có 13 vị Đại Tá Hải Quân người Mỹ gốc Việt: Lê Bá Hùng, Dương Ngạn Hữu, Đỗ H Thủy, Trần Quốc Bảo, Phạm Tùng Xuân, Thiện Douglas, Doan William Ray II, Huynh Thanh T, Lac Tri H, Nguyen Mark Minh Duy, Tran Jim T, Liebig Tina Tran, Duong Thanh X. Trong số này, có Đại Tá Lê Bá Hùng, là người gốc Việt đầu tiên giữ chức vụ Hạm trưởng của một chiến hạm Hải quân Hoa Kỳ. Những Đại Tá này, trong tương lai, sẽ được vinh thăng cấp Phó Đề Đốc, tương đương với cấp Tướng trong Bộ Binh. HQ Đại tá Dương Hữu Ngạn, Chỉ huy trướng Phi đoàn 116, trang bị phi cơ E-2 Hawkeye Radar tiền thám Carrier Airborne Early Warning Squadron 116. Ngoài các vị Đại Tá, còn rung Tá Tuyên uý Linh mục Đặng Văn Chín, Tuyên uý trưởng, Bộ chỉ huy yễm trợ tiếp vận Hài quân Hoa Kỳ tại Brahan, nguyên Trung uý Hải Quân VNCH. Trung tá Bác sĩ Hòang Ngọc Tuấn, nguyên Y sĩ trưởng trên Chiến hạm yễm trợ thuỷ bộ USS Peleliu LHA-5, hiện là hiện là Y sỉ trưởng tại Căn cứ Thuỷ quân lục chiến – Camp Penleton, San Diego.

Về Bộ Binh và Không Quân, người Mỹ gốc Việt cũng mang lại niềm hãnh diện lớn lao cho toàn thể dân tộc Việt Nam:

– Chuẩn tướng Lương Xuân Việt, Đại Tá Hùng Cao thuộc Bộ Binh.

– Đại tá Bác sĩ Không quân Huỳnh Trần Mylene, Giám đốc chương trình Y khoa Quốc tế Không quân Hoa Kỳ – Director of The Air Force International Specialist Program.

– Đại Tá Nguyễn Mạnh Hùng, Lực lượng duyên phòng, được giao trọng trách điều tra về vụ dàn khoan Deepwater Hirizon bị chìm làm tràn dầu vùng vịnh năm 2010.

– Trung Tá Thomas Nguyen, Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 2, Trung đoàn 44, Lữ đoàn 108 Phòng không Lục quân, giúp huấn luyện và phát triễn Quân đội A Phú Hản.

– Trung tá Không quân Nhat Thomas Tran, thuộc Không đoàn viễn chinh 438 (438 Air Expeditionary Wing), giúp huấn luyện và phát triễn Không lực A Phú Hản.

– Đại tá Bác sĩ Không quân Paul Đoàn nguyên là Chỉ huy trưởng các Liên đoàn 332, 379 và 435 Quân y Không quân Viễn chinh, được thăng cấp Đại tá năm 2009. Hiện nay là Chỉ huy trưởng Personnel Reliability Program Quân y, Bộ tư lệnh Không quân Hoa Kỳ. Đại tá Paul Doan là một trong những Đại tá gốc Việt Xuất sắc, có thể được chọn thăng cấp Chuẩn Tướng Quân y Không quân.

Về Nha Khoa, có Nữ Hải Quân Đại Tá Nha sĩ Trần Ngọc Nhung, gia nhập ngành Nha khoa Hái quân Hoa Kỳ năm 1989 trước khi hoàn tất văn bằng Bác sì Nha khoa năm 1990. Được thăng cấp Thiếu tá năm 1996, Trung tá năm 2003, Đại tá năm 2009.

Hiện nay Đại tá Nhung đang phuc vụ tại Denbn Naval Dental Center Camp Pendleton, CA. Cùng làm việc với Đại Tá Nhung là Đại tá Nha sĩ Thu Phan Getka.

Nhưng có lẽ nhân vật đặc biệt nhất được báo chí Mỹ ca ngợi lạ lùng là Thiếu tá Elizabeth Phạm, người phụ nữ đầu tiên lái chiến đấu cơ F-18D Hornet của Quân chủng Thuỷ Quân Lục Chiến Hoa Kỳ, là một loại phi cơ có động cơ đôi “supersonic”, được chế tạo để thi hành cả hai nhiệm vụ Xung Kích và Tấn Công (Fighter/Attack), bay tới vận tốc Mach 1.8 (1,190 mph hoặc 1,915 km/h ở độ cao 40,000 ft hoặc 12,190 m). Chiếc phi cơ này có thể mang nhiều loại bom và hỏa tiễn, kể cả “không đối không” và “không đối địa”, hỗ trợ bằng đại bác 20mm M61 Vulcan. Với số vũ khí khủng khiếp đó, từ khi được chế tạo đến nay, chưa có phi công nữ nào được chấp thuận cho điều khiển, trừ Thiếu Tá Elizabeth Phạm.

Những cấp dưới như Thiếu Tá, Đại Úy, chuyên viên Việt nam thì nhiều, không kể hết. Có những Luật Sư tình nguyện vào quân đội với cấp bậc Đại Úy hoặc Thiếu tá. Ngược lại, có những Đại Úy, sau khi giải ngũ, thì đi học Luật.

Hải Quân Thiếu tá Luật sư Phan Thanh Chinh Christopher, ngành Quân pháp Hải quân Hoa Kỳ – United States Navy Judge Advocate General’s Corps, Hội trưởng Quân nhân người Mỹ gốc Việt – VAAFA,hiện nay là Nghị Viên thành phố Garden Grove, California, đồng thời là Phụ Tá Biện Lý Quận Cam

– Thể Thao và Giải Trí:

Những thể tháo gia sau đây đã làm rạng danh người Việt hải ngoại trên đất Mỹ;

– Cung Lê (Lê Cung) sinh 1972, từng là Sanshou Kickboxer, hạng Trung Nặng, tại Ultimate Fighting Championship. Anh đã chiếm giải quốc tế, với 16-0, nghĩa là anh thắng cả 16 trận, không thua trận nào. Sau này anh đổi sang Mixed Martial Arts, đánh đủ kiểu. Trong trận đấu với Shamrock, đương kim vô địch Mixed Martial Arts, anh đã hạ Shamrock để chiếm giải vô địch Strikeforce Middle Weight Champion.

– Nam Phan-vô địch hạng lông đấu giải trong lồng MMA. Có nhiều trận thắng chỉ trong 18 giây đầu tiên. Điều đặc biệt, cũng như Cung Lê, anh luôn thủ trong người lá cờ Vàng Ba Xọc Đỏ trong người, để khi vừa thắng giải, anh bung lá cờ ra lồng lộng.

Ngoài ra còn những thể tháo gia khác cũng từng làm dư luận Mỹ chấn động:

– Amy Tran – hockey player.

– Catherine Mai Lan Fox – đoạt 2 huy chương vàng về bơi lội tại Olympic

– Danny Graves – cầu thủ football MLB

– Dat Nguyen – cầu thủ football NFL, huấn luyện viên đội Dallas Cowboys

– Howard Bạch, giải quốc tế về Cầu Lông.

– Jim Parque – Năm 1996, người nhặt banh bằng tay trái trong giải dã cầu tại Olympic và đã đoạt giải huy chương đồng tại Atlanta.

– Lee Nguyen, ngôi sao bóng đá.

– Văn Hóa, Văn Nghệ:

Sinh hoạt văn hóa, văn nghệ của người Việt hải ngoại có phần rầm rộ. Hàng năm, vào dịp Tết ta, tại các thành phố đông người Việt cư ngụ đều có Hội Chợ Tết, lớn hay nhỏ, tùy số dân Việt cư ngụ tại đó. Nhưng có lẽ, chỉ tại miền Nam California, Hội Chợ Tết do Tổng Hội Sinh Viên tổ chức là hội chợ lớn nhất cho người Viêt tại Hoa Kỳ với hàng trăm ngàn lượt người tham dự. Các chương trình vui Tết được giới trẻ sinh viên dàn dựng được mọi người yêu thích, từ thi Thả Thơ, đến hát Quan Họ, hát nhạc dân ca. Ngay tại trung tâm, luôn luôn có thiết trí Đền Vua Hùng với các quan, lính trang phục cổ xưa là công trình hấp dẫn không những cho người Việt mà còn cho những người ngoại quốc đến tìm hiểu về văn hóa Việt. Những nghi thức cúng, chầu được lặp lại với hàng trăm sinh viên, học sinh trẻ khiến cho người ngoại quốc rất khâm phục. Điều làm cho cộng đồng đến với Hội Chợ Tết Sinh Viên nhiều là vì mục tiêu của Hội Chợ: Chia xẻ tiền lời với các hội đoàn, đoàn thể Quốc Gia. Mỗi năm, số tiền tặng lại cho cộng đồng lên đến gần $100,000,00.

Bên cạnh sinh hoạt hội chợ Tết, còn lễ giỗ Tổ Hùng Vương hàng năm, đã cuốn hút hàng ngàn người thuộc hai thế hệ đến dự. Tuy chưa có một ngôi đền thờ Tổ nào xứng đáng trên đất Mỹ, nhưng những buổi lễ giỗ Tổ Hùng Vương đã làm cho người Mỹ và các dân tộc khác cảm phục với tinh thần duy trì truyền thống và bảo vệ văn hóa Dân Tộc.

Về văn nghệ, ngay từ những năm sau 1975, trung tâm băng nhạc Thúy Nga Paris đã được hình thành để trình diễn những ca khúc quê hương, với các chủ đề đặc sắc như Vượt Biên, Saigon Huế Hà Nội, và các ca khúc về lính. Băng nhạc Thúy Nga được yêu chuộng trên khắp thế giới cho đến khi Thúy Nga Paris làm chủ đề “Mẹ” thì bị đồng hương phản đối bởi vì trong đó, có những nhạc cảnh có tính cách bôi lọ danh dự Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa. Trong vài bản nhạc, đạo diễn đã cho chiếu cảnh trực thăng miền Nam thả hỏa tiễn, bắn phá dân chúng đang chạy trốn chiến tranh, ngoài ra, còn hình tượng chim bồ câu đỏ gợi cho người tị nạn nhớ lại lá cờ máu của Cộng Sản. Khi cuộc biểu tình trước cửa tiệm Thúy Nga Paris tại Bolsa lên đến cao điểm, chủ nhân lúc đó của trung tâm băng nhạc này, ông Tô Văn Lai, đã phải lên tiếng xin lỗi đồng hương và cho sửa lại những đoạn xúc phạm đến tinh thần chống Cộng của người Việt hải ngoại.Vì lòng khoan dung và hay quên, nên sau đó, người Việt vẫn tiếp tục tìm đến các buổi trình diễn văn nghệ Thúy Nga rất đông, dù giá vé khá cao. Nhưng đến thập niên 2000, giá trị của băng Thúy Nga có phần giảm thiểu, không còn mang những chủ đề giá trị nữa, mà chỉ thuần túy là băng nhạc giải trí tầm thường với những bản nhạc và hình thức ca múa cũng tầm thường, trong khi trang phục của các diễn viên càng ngày càng thiếu kín đáo. Khán giả từ từ bỏ rơi băng Thúy Nga nhất là sau này, khi Trung tâm băng nhạc Thúy Nga âm thầm đổi chủ cho các chủ nhân là các đại gia ở Việt Nam. Một Youtube từ Việt Nam, (không rõ thành phố nào), phát năm 2014, cho thấy hình ảnh của một dinh thự nguy nga mới được xây dựng với cổng chào lớn đề chữ “Thúy Nga Paris”, và bên trong, một nhà hội cũng có bảng hiệu: “Paris By Night”, và cuối cùng là hình hai vợ chồng trẻ, chủ nhân của ngôi biệt thự đó.

Ngược lại, bên cạnh đó, trung tâm băng nhạc Asia vẫn luôn duy trì tinh thần chống Cộng cao độ với các băng thuần túy về quân đội, về quê hương. Tuy thành phần ca, nhạc sĩ của Asia đa phần là giới trẻ và không nổi tiếng như các ca sĩ bên Thúy Nga, nhưng công đồng vẫn luôn yêu thích vì lập trường chính trị dứt khoát này. Hợp tác với trung tâm Asia từ những ngày đầu, có Nhạc Sĩ, Ca Sĩ Việt Dũng, một thiên tài âm nhạc có tâm hồn yêu nước cao độ và nghệ sĩ Nam Lộc cùng với Leyna Nguyễn, xướng ngôn viên của đài truyền hình Mỹ, đã đem lại cho đồng hương những cảm tình đặc biệt, không thay đổi.

Ngoài ra, còn có Trung Tâm Băng Nhạc Vân Sơn và một số trung tâm khác không nổi tiếng, chuyên trình diễn loại nhạc thu hút giới khán giả bình dân. Những loại băng nhạc này không đạt được tầm cỡ như Thúy Nga Paris hay Asia nhưng cũng là những nét chấm phá đặc biệt của người Việt hải ngoại.

-Báo chí, truyền thanh, truyền hình.

Sinh hoạt báo chí của người Việt trên đất Mỹ khá rầm rộ. Những năm mới di tản, hai tờ báo tuần đầu tiên bằng tiếng Việt trên đất Mỹ là Hồn Việt và Thời Báo. Sau đó, môt loạt báo khác ra đời: Văn Nghệ Tiền Phong, Tay Phải, Vì Dân, Mai, Mới, Saigon Nhỏ…Tờ Người Việt ở California, mới đầu ra 1 tuần 1 lần, sau tăng lên thành Nhật Báo, ra hằng ngày. Tờ nhật báo đi tiếp theo là tờ Việt Báo Kinh Tế, và Viễn Đông, tổng cộng có 3 tờ báo hằng ngày, đều ở California, chiếm một số độc giả khá lớn. Mỗi tờ có từ 10,000 đến 15,000 số. Từ những năm sau, với số người đến Mỹ trong các đợt 1979, rồi 1990, rất đông đảo, nhiều báo tuần, báo tháng (nguyệt san) thi nhau ra đời, trong số đó có tờ Thế Giới Mới ở Texas có số lượng độc giả đông đảo.

Hiện nay, hầu hết các báo đều phổ biến trên Internet, nếu tính cả các báo vừa điện tử vừa báo giấy, người Việt trên đất Mỹ đã ra rất nhiều báo:

Báo Cali Today, Saigon Nhỏ, Sóng Biển, Trẻ Online, Cánh Én, Chân Lý, Chính Luận, Chúa Cứu Thế, Công Giáo Việt Nam, Dân Việt Dallas, Dân Việt Houston, Diễn đàn Thế Kỷ, Hải Ngoại Phiến Đàm, Mạch Sống, Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa, Lên Đường, Ngày Nay, Người Việt Boston, Saigon Times, Việt Dallas, Viêt Tribune, Việt Vùng Vinh, Việt Nam Human Rights, Tiểu Thuyết Tuần San…

Bên cạnh những tờ báo này, còn nhiều tờ báo không có phẩm chất cao. Có những báo chỉ chuyên đăng quảng cáo và các tin nhảm, mà đồng hương gọi là báo “lá cải” hay “báo chợ”, nghĩa là in xong, thì đem đến các chợ, vất ở dưới đất, tặng không cho người đi chợ. Năm 2000 trở đi, hầu như ở Tiểu Bang nào có người Việt nhiều là có báo tuần. Điều đáng nói là có nhiều chủ báo không hề học qua một chương trình làm báo nào, cũng như không từng có kinh nghiệm làm báo, nên thiếu tư cách đạo đức báo chí. Có báo chỉ lấy chuyện chửi bới, mạ lị người khác hoặc tung tin vịt để câu khách. Có những tờ báo viết sai văn phạm be bét, hình ảnh tục tĩu. Rồi báo nọ chửi báo kia, dành độc giả với văn phong hạ cấp, chụp mũ linh tinh, khiến cho đồng hương mất phương hướng, không còn biết tin ai nữa. Nhiều người nhặt báo về để gói hàng hay để nhồi nhét vào các thùng quà gửi về Viêt Nam. Nhưng theo luật đào thải, những tờ báo lá cải, nội dung kém cỏi, từ từ tàn đi. Cùng thời gian ấy, lợi dụng sự Tự Do của nước chủ nhà, một vài tờ báo bắt đầu tuyên truyền cho Cộng Sản. Tờ Việt Weekly ở thành phố Garden Grove, Quận Cam, mới đầu còn chủ trương chuyên viết “scandal” của đồng hương, gợi sự tò mò của người Việt để lấy độc giả nhưng dần dần đã lộ bộ mặt thật là quảng cáo cho Cộng Sản với những bài phỏng vấn Chủ Tịch nước, Thủ Tướng, Bộ Trưởng, Lãnh Sự Cộng Sản, rồi công khai vinh danh những hoạt động của Cộng Sản ở nước Mỹ. Nổi giận với việc phản bội cộng đồng này, hàng loạt các cuộc biểu tình đã diễn ra trước nơi làm báo Việt Weekly. Các tổ chức chống Công lên đài phát thanh, viết thông cáo trên báo chí, yêu cầu đồng hương không mua và không phổ biến báo Việt Weekly nữa. Từ đó, tờ báo này chìm dần, rồi biến mất trên thị trường. Nhưng không chịu thất bại, tờ báo Việt Cộng Việt Weekly này chuyển sang làm truyền hình trên Net: Phố Bolsa Tivi, chỉ chiếu những chương trình lăng nhăng, ghi chép lại các lần phái đoàn Việt Weekly về Việt Nam, liên lạc với giới chức Cộng Sản. Môt cây viết nhảm trong băng đảng này, Nguyễn Phương Hùng, đã quỳ xuống đất, khóc lóc, năn nỉ Cộng Sản xin tha tội. Các khúc phim này được đưa lên Youtube làm đồng bào phẫn nộ vô cùng.

Về sinh hoat Radio cũng nở rộ tại nhiều tiểu bang. Hầu như mỗi tiểu bang cũng có vài đài phát thanh. Cũng như sinh hoạt báo chí, nhiều đài phát thanh kém phẩm chất, chỉ chuyên phê phán cộng đồng, chụp mũ, và chửi bới lẫn nhau. Vì trình độ làm đài phát thanh kém cỏi, nên các đài lôm côm như thế này không tồn tại lâu. Hiện nay, ở California, chỉ có đài Little Saigon, lâu đời nhất, phát thanh mỗi ngày 14 tiếng, là quảng bá rộng nhất và được tin tưởng nhất vì nhiều chương trình rất trí thức, có nội dung tốt, và chống Cộng rất khoa học. Đài Little Saigon có cơ sở thứ hai ở San Jose, với nữ danh ca Mai Hân đảm trách được rất nhiều người yêu mến. Được đánh giá cao thứ hai là đài Radio Bolsa do ca, nhạc sĩ Việt Dũng và Minh Phượng điều khiển, phát sóng 6 tiếng một ngày, cũng có các tiết mục chính trị cũng như giải trí sôi nổi. Thứ ba là đài Saigon Radio Hải ngoại phát mỗi ngày từ 5 tiếng đồng hồ, được nhiều người theo dõi với chương trình giải đáp thắc mắc về gia đình và xã hội. Ở Dallas, Texas, đài Saigon Viêt Nam cũng phát triển khá lớn, đặc biệt là có chương trình Từ Cánh Đồng Mây do một cựu phi công, nghệ sĩ Phan Đình Minh, chủ trương, chuyên nói chuyện với Dân Oan ở Việt Nam, được phát sóng đi Houston, Dallas và các vùng phụ cận, và được đồng hương yêu mến vì tính chất chống Cộng rất khoa học và trí thức của đài.

Về truyền hình, từ trước thập niên 2000, có những chương trình ngắn trung bình một tiếng đồng hồ, như đài của Họa Sĩ Lương Văn Tỷ và một đài của Mỹ, nhưng do bà Nam Trân điều hành. Đến đầu thập niên 2000, đài phát hình đầu tiên liên quốc gia SBTN (Saigon Broadcasting Television Network) 24 giờ mỗi ngày, là bạn đồng hành với trung tâm Asia, đột nhiên ra đời, làm thay đổi nhiều sinh hoạt cộng đồng. Mặc dù phải trả một lệ phí xem đài hơn $30.00 một tháng, đồng hương Việt vẫn ghi danh để xem vì ngoài mục tin tức cập nhật mỗi 12 tiếng, còn chiếu phim Tầu, phim Việt Nam, và các tiết mục văn nghệ và chính trị khác. Trong năm đầu tiên, đài SBTN đã phải vất vả giữ làn sóng của mình vì có ít người chịu trả tiền cho việc xem truyền hình nhất là phải chuyển qua hệ Cable. Nhưng chỉ sau một năm, đài đã đổi sang hệ thống Direct TV, với sự trợ giúp của hệ thống Viet Satelline chuyên giúp nối mạng cho khác hàng, đài đã vươn lên mạnh mẽ. Năm đầu, chỉ có khoảng 700 người ghi danh, đến năm thứ ba, đã có hơn 70,000 khách hàng tại Mỹ và Canada.

Tiếp đến là đài cũng 24 giờ và phát xuyên quốc gia là đài VHN do Nghệ sĩ Quốc Thái và một chủ nhân rất trẻ, Bruce Trần điều hành. Đài VHN cũng có nhiều chương trình giá trị, được khán giả nhiều tiểu bang trả tiền để theo dõi, nhưng vì một “scandal” giữa Quốc Thái và Bruce Trần, hai bên đưa nhau ra tòa, kiện đòi chủ quyền, nên khán giả cũng chán nản và bỏ bớt. Nhận thấy đây là cơ hội để phát triển ngành truyền hình toàn quốc, một số chủ nhân của đài phát thanh Little Saigon Radio đã thành lập ra đài Truyền Hình Hồn Việt, phát sóng trên 50 tiểu bang. Dần dần, đến những năm 2010, liên tiếp nhiều đài truyền hình phát hình trên băng tần địa phương, 24 giờ mỗi ngày mà miễn phí thi nhau mọc lên, khiến cho sinh hoạt báo chí và truyền thanh bị mất đi rất nhiều độc giả và thính giả. Nhiều tờ báo phải đóng cửa. Các nhật báo bị giảm số trang. Đài phát thanh Little Saigon Radio, trước phát sóng 24 giờ một ngày, sau giảm xuống chỉ còn 14 tiếng một ngày.

Qua đến phương diện sách truyện, các tác phẩm đủ loại từ văn chương, triết học, chính trị, thơ đến xem bói cũng liên tục được phát hành. Tuy nhiên, vì thời gian rảnh rỗi ở Mỹ cũng hiếm, và vì có nhiều điều phải giải quyết theo thời hạn ấn định, nên số độc giả đọc sách không nhiều. Nhiều nhà văn, nhà thơ, vốn dĩ mang cái nghiệp “viết lách” nên vẫn cố gắng in sách, bất chấp kết quả không khá về tài chánh. Có nhiều người mang nợ vì in sách. Những buổi giới thiệu sách, mà người ta hay nói sai là “Ra Mắt Sách” thường ít người đến dự, trừ một hai cuốn đặc biệt liên hệ đến chính sử, như cuốn “Khi đồng minh tháo chạy” của nguyên Bộ Trưởng kế Hoạch Nguyễn Tiến Hưng, tổ chức tại miền Nam California, có trên 300 người tham dự và cổ võ nồng nhiệt. Còn lại đa số các cuốn khác đều nhận số phận hẩm hiu, có lần giới thiệu sách chỉ có tối đa là 20 người. Thảng hoặc mới có tác giả được đồng hương quý mến, thì số người tham dự là khoảng trên 200, như hai cuốn “Chuyện Tình Lá Me” và “Ngày Tận Thế”. nhưng số sách bán được thì đôi khi chỉ đủ chi phí cho việc in sách và tổ chức giới thiệu sách mà thôi.

Một điều rất hãnh diện cho cộng đồng Viêt là các trường học Việt Ngữ được mở nhiều nơi, tại các Chùa, và Nhà Thờ Công Giáo, lúc nào cũng đầy học sinh, từ mấy cháu bé mới học vỡ lòng đến các thanh niên Nam, Nữ muốn học tiếng quê cha đát tổ để hiểu biết hơn về lịch sử nước nhà. Các chương trình dậy Việt Ngữ này được đồng hương tán thành nồng nhiệt, vì đã giúp cho hai thế hệ 1 và 2 được đối thoại với nhau, không như trước đây, khi thế hệ thứ 2 ra đời, chuyên nói tiếng Mỹ, và bỏ nói tiếng Việt với gia đình, bố mẹ, và ông bà, khiến cho việc cảm thông giữa cha mẹ và con cái bị bế tắc.

– Võ Thuật.

Sau một thời gian ổn định việc làm, việc học chữ, nhiều Huấn Luyện Viên Võ Thuật đã cố gắng mở các lớp dậy võ để truyền bá tinh hoa của võ thuật cho các thế hệ sau để tự vệ cũng như để tạo môt tinh thần tráng kiện cho các thanh niên nam nữ. Các môn thịnh hành nhất là Karate, Tae Kwon Do, Hapkido, Judo, Vô Vi Nam và nhiều môn phái võ dân tộc khác, nhưng có lẽ môn võ thành công nhất với nhiều võ sinh nhất, cũng như mở trường sớm nhất là Aikido do Giáo Sư Đặng Thông Phong làm Giám Đốc. Giáo Sư Đặng Thông Phong cũng là một trong lớp người tiền phong, tạo tiếng vang quốc tế về võ thuật Việt Nam. Ông là người Việt duy nhất được bầu vào “Hall Of Fame” của International Martial Arts Association, có giá trị tương đương như một Hàn Lâm Viện Võ Thuật Quốc Tế. Hiện nay, ông đại diện cho Liên Đoàn Aikido Tensinkai, và vẫn được mời đi biểu diễn, dậy võ cho các đại võ sư quốc tế.

Tại miền Nam California, với sự tập hợp đông đảo các chưởng môn nhân, các đại võ sư, và các võ sư khác đến từ Việt Nam qua các đợt di tản, đinh cư và tị nạn, đã thành lập được một tổ chức lấy tên là “Tổng Hội Phát Triển Võ Thuật Viêt Nam Thế Giới.” Tổng hội có nhiều sinh hoat nóng trên các địa bàn, tổ chức Biểu Diễn, Văn Nghệ đón Xuân hay Tất Niên.. Một điều hãnh diện cho dân tộc là môn phái Vô Vi Nam, đặc biệt của Việt Nam, đã được quốc tế chú ý và cho thi đấu cỡ quốc tế. Thường là các môn sinh Vô Vi Nam đều thắng giải vô địch. Niềm hãnh diện lớn nhất của người Việt hải ngoại là hai nhà vô địch Cung Lê và Nam Phan.

Cung Lê cư ngụ tại San Jose, California. Anh là người Việt Nam nổi tiếng nhất trên thế giới với 3 lần đoạt giải Quốc Tế Wushu, Vô địch thanh niên California, Vô Địch nhiều giải quốc gia, 3 lần vô địch Kickboxing, Vô địch Strikeforce hạng trung nặng. Ngoài ra, Cung Lê còn đóng phim tình báo, hoạt động. Tên tuổi Cung Lê được thấy trong tất cả các tạp chí về Võ Thuật Hoa Kỳ. Điều đặc biệt là Cung Lê luôn mặc quần đấu có mang cờ Việt Nam Cộng Hòa.

Nam Phan, 135 lbs, từng vô địch hạng nhẹ, cư trú tại Quận Cam, California. Anh đã thắng 18 trận Knock Out, so với 12 lần thua điểm, có những trận anh thắng nội trong 18 giây đầu tiên. Cũng như Cung Lê, mỗi lần thắng, anh đều phất cờ Việt Nam Cộng Hòa trên võ đài.

Hai nhân vật võ thuật này đã đem lại cho dân Việt Nam những niềm hãnh diện lớn lao.

3-NHỮNG ĐIỂM YẾU CẦN THAY ĐÔI

Như tất cả những sắc dân khác đã sinh sống tại nước Mỹ cả trăm năm trước, người Việt di tản hay định cư đều vấp phải môt vấn nạn tâm lý gây ra bởi sự va chạm văn hóa. Từ một xứ sở Việt Nam với nhiều phong tục, tập quán Á Đông, sang một xứ sở Mỹ Châu có những phong tục, tập quán hoàn toàn khác lạ, người Việt đã mất đi sự tự tin và phần lớn lòng tự trọng sẵn có, để cố gắng hòa nhập vào thế giới mới. Những người có trí thức, hiểu biết cao thì biết lựa những điều hay của thiên hạ làm của mình, và từ đó, tiến lên việc hội nhập một cách thoải mái. Trái lại, với người thiếu sự học hỏi về quy luật xã hội, thì trở thành một trong hai giai cấp mới: Giai cấp xấu, lợi dụng những dễ dãi của xã hội mới mà làm bậy; giai cấp nhút nhát, luôn co mình vào trong vỏ ốc của mình, mặc cho đời đưa đẩy, lúc nào cũng sợ hãi sự va chạm văn hóa. Nhiều trường hợp thương tâm đã xẩy ra chỉ vì không hiểu biết quy luật xã hội của nơi mình định cư. Thí dụ như có nhiều vị ông, bà, cha, mẹ bị tù vì tội “sexual harassment” hay “child abuse” chỉ vì thương con, cháu quá mà hôn hít bộ phận sinh dục của trẻ nhỏ, hoặc vì cạo gió cho con, để cho cô giáo thấy mà gọi cảnh sát. Một người mới qua, khi quét dọn garage, đã bồng đứa bé, bỏ trong một cái thùng giấy để tiện làm việc. Người hàng xóm Mỹ trông thấy, gọi ngay 911. Bà mẹ bị cảnh sát phóng tới, thẩm vấn và định nhốt bà mẹ này, nếu không có người thông dịch đúng lúc.

Một giáo sư piano, vì quen đứng đàng sau, ôm vai học trò, mà bị cha mẹ thưa ra tòa, bị án tù vài năm. Quen vỗ mông con nít cũng bị nhốt. Gặp trẻ em ngoài công viên, giơ tay bẹo má làm quen cũng bị tù. Đi chợ trời mua đồ, để túi đồ tòng teng đụng chạm vào mông một phụ nữ, bị cảnh sát cho ticket! Lái xe quá chậm trên đường có giới hạn 45 mile, cũng bị phạt. Đi bộ băng qua đường không ở trong lằn vạch, bị phạt $50.00. Mở máy nhạc lớn trong khu apartment, bị đuổi…

Trong khi đó, nhiều kẻ xấu đã lợi dụng kẽ hở của các chương trình trợ cấp của chính phủ mà làm giầu:

– Nhận Medical, trợ cấp Housing, và trợ cấp tiền mặt cho gia đình nghèo rồi đi làm tiền mặt, làm giầu, rồi mua nhà hàng, làm chủ chợ, trong khi vẫn nhận trợ cấp chính phủ. Dùng Medical mua thuốc trụ sinh để đổi lấy tiền mặt của các chủ Pharmacy gian lận. Dùng Food Stamp đi mua đồ xa xỉ. Có người giả “điên” để được tiền bệnh, tiền mặt, và medical. Vào khoảng 1995, một vụ đổ bể trong một tiểu bang miền Bắc về Medical và Cash support làm xấu hổ cho cộng đông nhiều nhất, đó là vụ một cặp vợ chồng lãnh tiền trợ cấp đều đặn nhưng lại làm chủ một nhà hàng lớn ngoài phố, và sống trong một biệt thự to lớn. Khi bị bắt còng tay đưa ra khỏi cồng, người chồng trung niên còn nhe răng cười với các ký giả chụp hình.

– Giới Luật Sư cũng gây nên nhiều chuyện tai tiếng như chế ra các vụ đụng xe giả mạo để lấy tiền bồi thường. Tai nạn nhỏ biến thành tai nạn lớn. Lừa gạt đồng hương qua những vụ kiện, khai khống tiền giờ cho những việc chẳng bao giờ thực hiện. Nếu thấy thân chủ nhà quê, nhà mùa, thì phán loạn để thân chủ “tẩu hỏa nhập ma” mà trả tiền cho những dịch vụ dỏm. Chỉ viết một lá thư đòi tiền nợ trong 5, 7 phút, mà tính cả vài ngàn đôla. Luật sư vô luật pháp thường có liên lạc với các Bác Sĩ Chỉnh Xương để nhận “kich back”, khi Bác Sĩ Chỉnh Xương tạo ra hồ sơ giả mạo, làm tiền các hãng bảo hiểm.

– Về tài chánh cũng có rất nhiều mánh khóe để gạt đông hương. Năm 1990, tại Thủ Đô Tị Nạn, một công ty có tên là Continental tổ chức gom tiền của các cụ già ham lợi, qua chương trình có lãi 10% một tháng, sau đó thì bốc hơi, làm các cụ già cay đắng, không thể báo cảnh sát được vì nếu báo cảnh sát thì lại mất tiền trợ cấp vì làm sai pháp luật khi lấy tiền già để đầu tư. Ngoài ra, còn nhiều chương trình Kim Tự Tháp (Pyramid Scheme hay Ponzi) do người Việt tạo ra để giật tiền đồng hương. Chương trình này đặt tên theo Charles Ponzi, vào năm 1920, đã tổ chức lừa gạt cả triệu người Mỹ, thu vào hàng trăm triệu đô la vào thời điểm đó. Từ việc bán máy lọc nước, bán dao, bán đồ Make-up, đến bán chứng khoán giả (fraud multifunded) và bán bảo hiểm nhân thọ dỏm (fake life insurance), các tổ chức này đã lừa gạt cả chục ngàn người Việt, thu tiền của họ rồi bốc hơi, không để lại dấu vết gì. Một số chuyên viên thuế vụ cũng tìm cách trốn thuế giùm cho thân chủ để nhận hoa hồng. Khi bị đổ bể, người làm thuế bị phạt $250,000 và tù 6 tháng. Người muốn trốn thuế thì bị phạt cả triệu đô.

– Về Sở Xã Hội, nhiều cán sự hống hách với thân chủ đến xin trợ cấp và chỉ tìm cớ để đóng hồ sơ trợ cấp của họ, để đạt chỉ tiêu của Sở là càng ít người xin tiền, càng có lợi cho Sở.

– Trong giới Y Khoa, có một thiểu số bác sĩ, nha sĩ, dược sĩ vô lương tâm, cứ ghi bừa bãi số người đến khám bệnh để lấy tiền Medical, có bác sĩ khai tới hơn 100 bệnh nhân một ngày! Không khám bệnh, cũng ghi vào hồ sơ là khám bệnh để lấy tiền chính phủ. Không chụp phổi, siêu âm, thử máu.. cũng ghi vào biên bản. Một bác sĩ thẩm mỹ cũng ở California khuyến khích thân chủ đi làm đẹp bằng tiền Medical,rồi biến hóa thành trị bệnh kinh niên. Có bác sĩ chứng nhận bệnh tâm thần cho người khỏe mạnh để lấy tiền hoa hồng. Dược sĩ bất lương thì quảng cáo khuyến dụ các thân chủ mang “toa” lại để cho quà hay tiền mặt. Mỗi một “toa” được $10.00. Chủ dược phòng làm toa trụ sinh giả mạo, để mang thuốc về Việt Nam bán lấy lời gấp 10. Có chủ dược phòng bán thuốc “control” tức là các loại thuốc gây nghiện, có chất morphin cho kẻ nghiện xì-ke. Một dược sĩ ở San Diego bị phạt tù và bị đóng cửa tiệm vì tình trạng dơ bẩn trong tiệm, dán, chuột chạy tứ tung, thuốc để vô tổ chức. Nha sĩ chữa răng chỉ “cleaning tooth” mà tính là mổ răng, chữa lợi. Không cần mổ lợi, cũng khuyến cáo là “cần mổ lợi, nếu không thì hư toàn bộ răng”, rồi đẩy qua bạn bè mổ giả, để nhận tiền “kick back”. Vì thế, giới y, nha, dược sĩ làm giầu chỉ trong vài năm, mua biệt thự, du thuyền đắt giá. Nhưng “thiên bất dung gian”, riêng ở California đã có những lần 50 vị Bác sĩ bị bắt một lượt, 20 tiệm thuốc tây bị đóng cửa, dược sĩ bị mất bằng. Bên nha sĩ thì kín đáo hơn, ít bị mất bằng và ở tù, chỉ phải bồi thường tiền gian lận đến cả Triệu đô la.Những vụ bê bối này, khi được tung ra trên diễn đàn quần chúng, làm cho cộng đồng cảm thấy xấu hổ khi gặp người Mỹ hoặc các sắc dân thiểu số khác. Nói chung, trong các giới trí thức, được xã hội kính trọng, thành phần nào cũng có người tốt và người xấu. Chỉ khi Luật Pháp trừng trị thì những kẻ mê tiền bất lương mới chịu ngưng hành động vi phạm luật pháp

– Về các cơ sở dịch vụ, nhà hàng cũng không phém phần xấu. Thợ sửa xe thì “vẽ” chuyện để chém đẹp bà con. Thợ điện, thợ ống nước, xây cất nhà cửa.. đa số đều vẽ hươu vẽ vượn để móc tùi đồng hương. Có nhiều trường hợp, chủ thầu xây cất nhận tiền xây nhà xong là trốn mất. Có người sửa dở dang rồi bỏ chạy. Cơ sở bán vé máy bay thì đưa vé giả. Bán bảo hiểm giả. Khi nhận tiền đóng góp cho hậu sự thì nói số tiền lớn, khi chi trả cho thân nhân người chết thì cắt xén…Việc gì cũng có thể giả, có thể lừa gạt nhau. Cho nên, với những người Việt ở lâu năm trên đất Mỹ thường e dè hoặc rất thận trọng khi liên lạc với các dịch vụ do người Việt làm chủ.

– Dần dần, các tội ác do người Việt gây ra cũng xuất hiện trên các phương tiện truyền thông. Các băng đảng trộm cướp, giết người đã hình thành. Nổi tiếng dữ dội nhất là băng “Born to Kill” do một số thanh thiếu niên xa gia đình thành lập, để thanh toán băng đảng khác hầu chiếm độc quyền buôn bán ma túy, rồi bắn giết lẫn nhau giành chức đảng trưởng. Một vụ cưỡng hiếp tập thể gái vị thành niên đã đưa 4 thanh niên lên ghế điện, vài vụ bắt cóc, tống tiền, một vụ bắt con tin trong chợ do 2 anh em ruột chủ trương, lôi kéo thêm hai người nữa, đã làm dư luận cả thế giới xôn xao. Vài vụ đòi tiền “bảo kê” nổ lớn. Rồi “sexual harassment”, cướp cạn, giết người, bắn chết người rồi tự tử… cứ lần lượt xẩy ra, làm cho một số người Mỹ đã sẵn kỳ thị lại còn kỳ thị thêm với người Việt Nam.

– Từ khi mạng lưới Internet được phổ biến với những người Việt Nam, thì một hiện tượng vô cùng xấu xa đã xẩy ra, là một số người lợi dụng quyền Tự Do Tư Tưởng, Tự Do Phát Biểu của nước Mỹ mà viết lên mạng tất cả những gì mình nghĩ đến, không cần biết những điều đó có đụng chạm và làm hại đến danh dự của ai. Dần dần, Email biến thành một bãi rác cho kẻ xấu tha hồ vung vãi những điều kinh dị, bẩn thỉu, để bôi lọ lẫn nhau, chụp mũ cho nhau… Tuy những điều bôi lọ đó không làm ảnh hưởng đến sinh hoạt thường ngày của người bị chụp mũ, nhất là với những người công chính, nhưng cũng khiến cho họ bực bội, tức giận, hoặc trả đòn bằng những lời lẽ bẩn thỉu hơn, hoặc chán nản, xa lánh cộng đồng, không muốn phục vụ hay cộng tác với các công tác của cộng đồng nữa.. Từ đó, công cuộc đấu tranh giành Tự Do cho Việt Nam dần dần thiếu hiệu quả.

Cũng từ Email và Internet, điều thất bại lớn liên quan đến tư tưởng của người Việt ở Mỹ: Sự mất đoàn kết.

Từ những năm đầu định cư, người Việt ở khắp nơi trên nước Mỹ đều mong muốn có một tổ chức đại diện chính thức cho người Việt hải ngoại, và đã cố gắng thành lập các tổ chức Cộng Đồng, cũng như các tổ chức ái hữu, từ ái hữu đồng hương, đến ái hữu quân đội, ái hữu học đường… Mỗi khi có một tổ chức ra đời, người Việt đều xôn xao chờ đợi một thay đổi đáng kể trong sinh hoạt cộng đồng, hầu đại diện cho người Việt di tản mà đối phó với Cộng Sản, giải cứu dân tộc và đất nước ra khỏi bàn tay kìm kẹp của đảng Cộng. Tuy nhiên, một hiện tượng lạ lùng đã xẩy ra trong hầu hết các hội đoàn, ban đại diện cộng đồng: đó là sự chia rẽ, tranh dành chức chưởng một cách kiên quyết. Trừ các hội Ái Hữu Sinh Viên là những hội gồm các thanh niên nam nữ trẻ trung, đầy nhiệt huyết và có trí thức cao, thì hầu như không có trục trặc gì, còn tất cả các tổ chức khác đều vấp phải vấn nạn chia rẽ trầm trọng. Từ hội ái hữu học sinh như Chu Văn An, Trưng Vương, Gia Long, Lê Văn Duyệt, Petrus Ký, và các hội ái hữu các trường tỉnh, đến hội ái hữu quân, binh chủng, đến các tổ chức Cộng Đồng hay Tôn Giáo đều trải qua những giai đoạn phân rẽ làm hai, hay làm ba. Những người chia rẽ lợi dụng sự phát triển của Email và Internet như một phương tiện để hạ đối phương. Lời đầu thì nhẹ, lời hai thì nặng hơn, dần dần, các tổ chức có cùng tôn chỉ đâm ra chống đối nhau cực kỳ hung bạo còn hơn đánh Cộng Sản nữa. Các chiến dịch chụp mũ, mạ lị được tung ra trên Email, báo chí, truyền thanh, và thư rơi. Đôi khi căng thẳng đến nỗi có những cuộc biểu tình chống đối lẫn nhau trước một cơ sở cộng đồng, kéo dài liên lỉ hàng tháng trời. Tại San Jose, California, có thời gian, nhóm A biểu tình liên tuc cả tháng trời trước trụ sở của nhóm B làm xáo trộn sinh hoạt của cả thành phố.. Cả hai bên đều phất cờ vàng, đều có những câu châm ngôn chống Cộng, nhưng mục tiêu thì khác nhau, người đóng vai Chủ Tịch khác nhau. Bên nào cũng coi mình là chính nghĩa. Từ đó, không từ một phương tiện nào, thủ đoạn nào để tung ra tấn công đối phương, có khi còn hăng say hơn là chống Cộng Sản khiến cho những cuộc thảo luận tại tư gia cũng phải giảm thiểu tiếng nói, biến thành sầm xì, như trong những phim Gián điệp. Ai cũng sợ bị cho lên mạng mà phỉ báng. Đáng buồn hơn nữa là tiếp theo các chiến dịch chụp mũ đối phương là chiến dịch thưa kiện. Nhiều tổ chức cộng đồng đưa nhau ra trước Tòa Án để đòi được minh định ai là chính danh, ai là kẻ khủng bố cộng đồng. Nhiều vụ kiện thưa đã đem lại cho cộng đồng những nỗi đau buồn, xấu hổ, vì cả hai bên đều chứng tỏ mình là chính danh, nhưng thực tế, cả hai bên đều là những người hám danh, hám lợi, quên cả danh dự dân tộc. Vài vụ chụp mũ đã được Tòa Án dành cho những bản án nặng nề: Vụ Duy Sinh Nguyễn Đức Phúc Khôi, chủ tờ báo Việt Nam Tự Do ở California, bị tòa phạt 16 triệu đô la vì tội mạ lị một cá nhân liên tục trong nhiều năm tháng dài. Vài vụ khác cũng bị phạt từ $200,000,00 đến $1,000,000.00. Tuy nhiên, các bản án phạt nặng nề như thế cũng chưa ngăn chặn được nạn người Việt chụp mũ lẫn nhau. Cho đến thời điểm hiện tại, năm 2014, trên mạng Internet, vẫn còn những bài viết mạ lị tục tĩu, chửi bới rất vô giáo dục, làm cho bất cứ ai đọc đến cũng phải đỏ mặt, tức giận.

Nói chuyện với một số thương gia về các hoạt động không lành mạnh của người Việt, ai cũng biết vụ Mặt Trận. Được thành công sớm, giới thương gia vẫn có lòng hướng về đất nước và mỗi khi có lời kêu gọi đóng góp cho Việt Nam, họ sẵn sàng đóng góp tối đa. Nhưng rồi vì bị lừa gạt vài lần, họ đã lơ là với công cuộc chống Cộng. Chẳng hạn như việc đóng góp cho nhóm Mặt Trận Hoàng Cơ Minh. Số tiền đóng góp này khá lớn, nhưng không ai được biết tổng số là bao nhiêu, chỉ biết là sau một thời gian hoạt động, nhiều tin động trời loan ra là có sự tranh chấp những số tiền lên đến bạc triệu. Một vài người từng gia nhập Mặt Trận đã tách ra và làm đơn kiện những người còn lại, làm mất lòng tin của người hải ngoại vào những chiến dịch đấu tranh chống Cộng. Lúc phong trào còn thịnh hành, mỗi sáng cuối tuần, có những người cầm hộp tiền đứng gần chợ, gần chỗ người Việt hay tụ họp mà xin tiền đóng góp, và rất ít người từ chối, bỏ vào hộp $5, $10…Có người góp cả $100.000 cho Mặt Trận. Và rồi, sau những kiện cáo, tố cáo đích danh nhau trên báo chí, truyền thanh, với con số nhiều triệu đô la các sinh hoạt cộng đồng đi vào chỗ tách ra nhỏ lẻ, không còn mấy người tin nhau, không có một Mặt Trận, Tổ Chức nào có thể nắm được đa số cả. Tổ chức nào mạnh nhất cũng chỉ được một, hai trăm người là tối đa. Dĩ nhiên, các cuộc gây quỹ chính đáng cũng bị giới hạn bởi các cặp mắt nghi ngờ. Đoàn kết giữa các cộng đông hay trong các hoạt động chống Cộng bị tan vỡ.

Ngoài ra, một điều thường xẩy ra mà ai cũng nghe được từ tất cả các người Việt trên đất Mỹ, là chuyện khuynh hướng về quê cưới vợ càng ngày càng nhiều, càng công khai, lộ liễu. Việt Kiều trên 70 cũng có thể lấy được vợ 25, 30.. chấp nhận chênh lệc tuổi tác cả ba thế hệ. Điều này đã hủy diệt đi di sản Văn Hóa Việt Nam từ bao thế kỷ nay là “tôn sư, trọng đạo”, rất nguy hiểm cho tinh thần của giới trẻ, đồng thời gây ra bao cảnh cười ra nước mắt hoặc tang thương.

Nhưng điều làm cho những người Việt yêu nước Việt lo ngại nhất chính là sự gửi tiền về Việt Nam ồ ạt. Hàng năm, người Việt đổ tiền về quê từ 7,8 tỉ đô la, đủ để cho dân nghèo không phải đi làm trong cả năm mà vẫn sống sung túc. Nhưng, thực tế, đa số tiền khổng lồ này lại lọt vào túi của các đảng viên Cộng Sản, còn người nghèo chỉ hưởng những số tiền lẻ mà thôi. Các đảng viên cao cấp của Đảng, đứng làm chủ các cơ quan chuyển tiền, nhân cơ hội rửa tiền hợp pháp, lấy tiền ăn cướp của dân giữ trong các Ngân Hàng Việt Nam, trao lại cho dân qua việc người thân ở Mỹ gửi quà về, rồi lại nhận tiền của Việt Kiều ở Mỹ để mở các trương mục lớn, dành cho quan chức Cộng Sản mở thương vụ ở Mỹ, mua nhà bằng tiền mặt, và dành cho việc tạo “bãi đáp an toàn” cho cốt cán Cộng Sản môt khi mà chế độ sụp đổ. Với số tiền hàng tỷ đô la giữ trên đất Mỹ, mai kia, khi chế độ Công Sản không còn tồn tại thì họ tha hồ sống ung dung trong nước Mỹ với số tiền ăn cướp của nhân dân, cho đến mãn đời con, cháu. Cũng với số tiền này, khi chế độ độc tài chưa sụp, thì các đảng viên Công sản dễ dàng mua chuộc các người Việt ham tiền mà quên cội nguồn, đánh phá, chia rẽ cộng đồng tan nát làm cho không ai đoàn kết với ai được.

Tóm lại, sinh hoạt của Người Việt Trên Đất Mỹ rất đa dạng. Song song với những thành tựu làm rạng danh dân tộc Việt, cũng không thiếu những thái độ, hành vi, cư xử kém văn minh. Mong rằng, với sự hiểu biết của lớp trẻ thuộc thế hệ thứ hai, dần dần, những tên tuổi Việt Nam sẽ càng ngày càng làm cho thế giới nể phục mà quên đi những thất bại, kém cỏi do sự va chạm văn hóa lúc đầu mới sang định cư mang lại. Hy vọng trong tương lai, khi thế hệ Một trên đất Mỹ đã quá tuổi hưu trí và yên nghỉ đâu đó, thì thế hệ thứ hai, với những tư tưởng trẻ trung phát triển trong một môi trường Dân Chủ và Khoa Học, sẽ đem lại những giá trị mới cho danh dự Người Việt Trên Đất Mỹ.

Được xem 1 lần, bởi 1 Bạn Đọc trong ngày hôm nay