“Tiếng đàn piano nửa đêm”

“Tiếng đàn piano nửa đêm”

Câu chuyện dưới đây tôi cũng đã từng được đọc ở đâu đó rồi, và đã quên. Nhưng sáng nay tôi nhận được thư của anh Nguyễn Đại Hoàng gửi câu chuyện này cho tôi, với mấy lời sau:
“Đây là một câu chuyện nên gởi đến cộng đồng. Xã hội mà có nhiều người biết rung động trước cái đẹp, cái khổ đau thì xã hội ấy vẫn còn cơ hội.” Hoàn toàn đồng ý với nhận định của anh NĐH, tôi đăng bài này lên đây để mọi người cùng đọc, và hy vọng câu chuyện sẽ nhắc mọi người nhớ rằng điều làm cho con người là người chính là ở lòng nhân.

—————-
Tiếng đàn Piano nửa đêm
Một người bạn gởi cho tôi câu chuyện này, không rõ tác giả, một câu chuyện thực sự cảm động và hàm chứa nhiều ý nghĩa sâu xa về cuộc sống. Bài viết gần như hoàn chỉnh tôi chỉ sửa một số lỗi chính tả và hiệu chỉnh lại một số đoạn cho rõ nghĩa hơn. Tựa do tôi đặt lại. ( NĐH).

———-Một ngày anh hẹn chị ra quán cà phê trước nhà ga chính của thành phố Bremen. Câu đầu tiên khi gặp anh, chị nói trong sự cáu gắt :

– Ông lại bán xe rồi hay sao mà đi tàu lên đây ?

Anh cúi đầu trả lời lí nhí trong sự hổ thẹn :

– Ừ thì bán rồi, vì cũng không có nhu cầu lắm !

Chị sầm mặt xuống :

– Ông lúc nào cũng vậy, suốt đời không ngóc lên đầu lên được, hẹn tôi ra đây có chuyện gì vậy ?

Khó khăn lắm anh mới có thể nói với chị điều mà anh muốn nhờ chị. Chị cũng khó khăn lắm mới có thể trả lời từ chối anh :

– Nhưng mà gia đình tôi đang yên lành, nếu đưa con bé về e sẽ chẳng còn được bình yên nữa !

Anh năn nỉ, nhưng thật sự là anh rất bối rối :

– Con bé đã đến tuổi dậy thì, anh là đàn ông, không thể gần gũi và dạy dỗ chu đáo cho nó được, anh chưa bao giờ cầu xin em điều gì, chỉ lần này thôi, chỉ nửa năm hay vài ba tháng cũng được, em là phụ nữ em gần nó, em hướng dẫn và khuyên bảo nó trong một thời gian để nó tập làm quen với cuộc sống của một thiếu nữ, sau đó anh lại đón nó về.

Chị thở dài :

-Ông lúc nào cũng mang xui xẻo cho tôi, thôi được rồi, ông về đi, để tôi về bàn lại với chồng tôi đã, có gì tôi sẽ gọi điện thông báo cho ông sau.

Anh nhìn chị với ánh mắt đầy hàm ơn. Anh đứng dậy, đầu cúi xuống như có lỗi tiễn chị ra xe rồi thở dài, lùi lũi bước vào nhà ga đáp tàu trở lại Hamburg.

Anh và chị trước kia là vợ chồng. Họ yêu nhau từ hồi còn học phổ thông. Anh đi lao động xuất khẩu ở Đông Đức. Chị theo học Đại học Sư phạm Hà Nội 1. Ngày bức tường Berlin sụp đổ, anh chạy sang phía Tây Đức. Chị tốt nghiệp đại học và về làm giáo viên cấp 3 huyện Thái Thụy, Thái Bình. Họ vẫn liên lạc và chờ đợi nhau.

Khi đã có giấy tờ cư trú hợp lệ, anh về làm đám cưới với chị, rồi làm thủ tục đón chị sang Đức.

Vừa sang Đức, thấy bạn bè anh ai cũng thành đạt, đa số ai cũng có nhà hàng, hay cửa tiệm buôn bán, chỉ có anh là vẫn còn đi làm phụ bếp thuê cho người ta. Chị trách anh vô dụng. Anh không nói gì, chỉ hơi buồn vì chị không hiểu, để có đủ tiền bạc và điều kiện lo thủ tục cho chị sang được đây, anh đã vất vả tiết kiệm mấy năm trời mới được.

Nên không dám mạo hiểm ra làm ăn

“Đồ cù lần, đồ đàn ông vô dụng…”, đó là câu nói của miệng chị dành cho anh, sau khi anh và chị có bé Hương.

Bé Hương sinh thiếu tháng, phải nuôi lồng kính đến hơn nữa năm mới được về nhà. Khi bác sĩ thông báo cho vợ chồng anh biết bé Hương bị thiểu năng bẩm sinh. Giông tố bắt đầu thực sự nổi lên từ đó. Chị trách anh, đến một đứa con cũng không làm cho ra hồn, thì hỏi làm được gì chứ. Anh ngậm đắng nuốt cay nhận lỗi về mình và dồn hết tình thương cho đứa con gái xấu số.

Bé Hương được 3 tuổi, chị muốn ly dị với anh. Chị nói, ông buông tha cho tôi, sống với ông đời tôi coi như tàn. Anh đồng ý, vì anh biết chị nói đúng. Anh là người chậm chạp, không có chủ kiến và không có chí tiến thân, sống an phận thủ thường. Nếu cứ rằng buộc sẽ làm khổ chị.Bé Hương 3 tuổi mà chưa biết nói. Chị cũng rất thương con, nhưng vì bận bịu làm ăn nên việc chăm sóc con bé hầu hết là do anh làm. Vì vậy mà con bé quấn quít bố hơn mẹ.Biết vậy nên chị cũng rất yên tâm và nhẹ nhõm nhường quyền nuôi dưỡng con bé cho anh khi làm thủ tục ly hôn.Ly dị được gần 1 năm thì chị tái giá. Chị sinh thêm một đứa con trai với người chồng mới.Thành phố Bremen là thành phố nhỏ.

Người Việt ở đó hầu như đều biết nhau. Chị cảm thấy khó chịu khi thỉnh thoảng bắt gặp cha con anh đi mua sắm trên phố. Chị gặp anh và nói với anh điều đó. Anh biết ý chị nên chuyển về Hamburg sinh sống.

Chị không phải là người vô tâm, nên thỉnh thoảng vẫn gửi tiền nuôi dưỡng con cho anh. Trong những dịp năm mới hay Noel, chị cũng có quà riêng cho con bé, nhiều năm, nếu có thời gian, chị còn đến trực tiếp tặng quà cho con bé trước ngày lễ giáng sinh nữa.

Thấm thoát đó mà giờ đây con bé đã sắp trở thành một thiếu nữ. Tuy chị không biết cụ thể thế nào. Nhưng chị biết dù con bé lớn lên trong tật nguyền hẩm hiu, nhưng anh rất thương nó. Chị cũng biết con bé gặp vấn đề trong giao tiếp, phải đi học trường khuyết tật. Nhưng con bé rất ngoan. Anh cũng không phải vất vả vì nó nhiều. Nó bị bệnh thiểu năng, trí tuệ hạn chế, phát âm khó khăn. Tuy vậy nó vẫn biết tự chăm sóc mình trong sinh hoạt cá nhân. Thậm chí nó còn biết giúp anh một số công việc lặt vặt trong nhà.

Chồng chị đã đồng ý cho chị đón con bé về tạm sống với chị vài tháng, với điều kiện trong thời gian con bé về sống chung với vợ chồng chị, anh không được ghé thăm. Chị cũng muốn thế, vì chị cảm thấy hổ thẹn khi phải tiếp xúc với vẻ mặt đần đần dài dại của anh.

Vợ chồng chị đã mua nhà. Nhà rộng, nên con bé được ở riêng một phòng. Chị đã xin cho con bé theo học tạm thời ở một trường khuyết tật ở gần nhà. Con bé tự đi đến trường và tự về được.

Đi học về, nó cứ thui thủi một mình trong phòng. Đứa em trai cùng mẹ của nó, mẹ nó, và bố dượng nó rất ít khi quan tâm đến nó. Niềm vui duy nhất của nó là chờ điện thoại của bố. Nó phát âm không chuẩn và nói rất khó khăn, nên hầu như nó chỉ nghe bố nói chuyện. Bố dặn dò nó rất nhiều và thỉnh thoảng còn hát cho nó nghe.

Em trai nó học thêm Piano, nên nhà mẹ nó có cái đàn Piano rất đẹp để ở phòng khách.

Có lần nó sờ và bấm bấm vài nốt. Mẹ mắng nó không được phá đàn của em. Nên từ đó nó không dám đụng đến nữa. Có hôm anh gọi điện thoại cho nó, nó nghèn nghẹn nói lỏm bỏm,.. đàn..đàn…klavia….con muốn… Anh thở dài và hát cho nó nghe.

Tháng đầu, hầu như ngày nào anh cũng gọi điện thoại cho nó. Rồi thưa dần, thưa dần.

Cho đến một ngày anh không gọi cho nó nữa. Sau một tuần đăng đẳng không nghe anh gọi điện thoại. Con bé bỏ ăn và nằm bẹp ở nhà không đi học. Chị không biết gì cứ mắng nó dở chứng.

Một đêm, chị bỗng bật choàng dậy khi nghe tiếng đàn Piano vang lên. Chị chạy ra phòng khách, thấy con bé đang ngồi đánh đàn say sưa. Nó vừa đánh vừa hát thì thầm trong miệng. Chị cứ há hốc mồm ra kinh ngạc. Chị không thể tưởng tượng nổi là con bé chơi Piano điêu luyện như vậy. Chị chợt nhớ ra, đã có lần anh nói với chị, con bé ở trường khuyết tật có học đàn Piano, cô giáo khen con bé có năng khiếu. Lần đó chị tưởng anh kể chuyện lấy lòng chị nên chị không quan tâm

Chị đến gần sau lưng nó, và lặng lẽ ngắm nhìn nó đánh đàn. Chị cúi xuống và lắng nghe con bé hát thầm thì cái gì.

Chị sởn cả da gà, khi chị nghe con bé hát rõ ràng từng tiếng một, mà lại là hát bằng tiếng Việt hẳn hoi: “…Nhớ những năm xa xưa ngày cha đã già với bao sầu lo…sống với cha êm như làn mây trắng…nhớ đến năm xưa còn bé, đêm đêm về cha hôn chúng con….với tháng năm nhanh tựa gió..ôi cha già đi cha biết không…”.

Chị vòng tay ra trước cổ nó và nhẹ níu, ôm nó vào lòng. Lần đầu tiên chị ôm nó âu yếm như vậy. Chị thấy tay mình âm ấm. Nó ngừng đàn đưa tay lên ôm riết tay mẹ vào lòng ngực. Nó khóc. Chị xoay vai nó lại, nhìn vào khuôn mặt đầm đìa nước mắt của nó. Nó chìa cho chị một tờ giấy giấy khổ A4 đã gần như nhàu nát.

Chị cầm tờ giấy và chăm chú đọc, rồi thở hắt ra nhìn nó hỏi, con biết bố con bị ung thư lâu chưa. Nó chìa bốn ngón tay ra trước mặt mẹ. Chị hỏi, bốn tháng rồi hả. Nó gật đầu.

Chị nhìn chăm chăm vào tờ giấy, và từ từ ngồi thụp xuống nền nhà, rũ rượi thở dài.

Con bé hốt hoảng đến bên mẹ, ôm mẹ vào lòng, vuốt mặt mẹ, rồi vừa ấp úng nói vừa ra hiệu cho mẹ. Đại ý là nó diễn đạt rằng: -” Bố lên ở trên Thiên Đường rồi, mẹ yên tâm, con đã xin vào nội trú ở trường dưới Hamburg, ngày mai con sẽ về dưới đó, con không ở lại đây lâu để làm phiền mẹ và em đâu, con về ở tạm đây là vì bố muốn thế, bố muốn mình ra được nhẹ nhàng và yên tâm là có mẹ ở bên con..”

Chị cũng ôm nó vào lòng, vỗ vỗ vào vai nó và nói, con gái ngoan của mẹ, ngày mai nếu mẹ sắp xếp được công việc, mẹ sẽ đưa con về Hamburg….
————-
Đoạn kết :

Tôi nghe người ta kể chuyện lại chuyện đó, khi đi dự một cuộc biểu diễn nghệ thuật của học sinh khuyết tật và khiếm thị. Khi thấy em gái đệm đàn piano cho dàn đồng ca, cứ khăng khăng đòi phải đàn và hát bài hát “Người Cha Yêu Dấu” bằng tiếng Việt trước, sau đó mới chịu đệm đàn cho dàn đồng ca tiếng Đức. Quá kinh ngạc nên tôi cứ gạn hỏi mãi người trong ban tổ chức. Cuối cùng họ đã kể cho tôi nghe câu chuyện như vậy.

——————————————————————————————–

Lời phụ của Nguyễn Đại Hoàng : Câu chuyện đơn giản, không nhiều tình tiết, đã lấy đi nước mắt của nhiều người đọc. Tôi hình dung được cảnh người cha Việt Nam gầy ốm bệnh tật và đứa con gái tật nguyền tội nghiệp của anh trên đất khách quê người. Tôi như thấy được hình ảnh đứa con gái tưởng nhớ người cha – mà em biết đã mất rồi – qua tiếng đàn Piano. Tôi biết tiếng đàn ấy đau đớn biết bao. Tôi nghe được cả lời ca nghẹn ngào của em Nhớ những năm xa xưa ngày cha đã già với bao sầu lo…sống với cha êm như làn mây trắng…nhớ đến năm xưa còn bé,đêm đêm về cha hôn chúng con….với tháng năm nhanh tựa gió..ôi cha già đi cha biết không…”. Em bé Việt Nam ở phương trời xa lạ kia ơi em thật là vĩ đại ! Tôi hãnh diện vì em biết bao !

NGUYỄN ĐẠI HOÀNG 3/2013

Hai Người Bạn.

Hai Người Bạn.

..1 bên ở Mỹ, 1 bên ở VN..

30 ThángTư Và Chuyện Hai Người Bạn

(04/30/2013)

Tác giả : ThaiNC

Bài số 3883-13-29283vb3043013

Tác giả đã nhận giải Danh Dự Viết Về Nước Mỹ năm thứ XII, 2012.

Ông tên thật là Nguyễn Cao Thái, sinh năm 1959 tại Huế, vào Saigon 1968, vượt biển đến Mỹ 1979, hiện định cư tại San Jose, CA.

Sau đây là hai bài viết mới: Viết ngắn cho Tháng Tư, và một truyện ngắn.

Bài I. Hàng Triệu Người Buồn

28 tháng Tư…
Ngày này 38 năm trước, tôi là cậu bé 16 tuổi đang ôm khẩu súng Carbin cổ lỗ sĩ trong một phiên gác Nhân Dân Tự Vệ.
Trời mưa. Sấm và chớp. Nhóm của tôi toán ba người đang rút vào nhà một người quen trú mưa chờ dứt phiên gác, và vô tình cùng gia đình họ ngồi nghe tường thuật trực tiếp toàn bộ buổi bàn giao chức vụ TổngThống lịch sử.
“Đây là phóng viên Hệ Thống Truyền Thanh VN, quí thính giả đang theo dõi trực tiếp truyền thanh lễ trao nhiệm chức tổng thống VNCH giữa ông Trần Văn Hương và cựu đại tướng Dương Văn Minh…
“Thưa quí thính giả vào lúc này bên ngoài Dinh Dộc Lập chúng tôi nhận thấy trời đã bắt đầu mưa nhỏ và Saigon đang trải qua một buổi chiều u ám như hoàn cảnh hiện tại của đất nước…”
Đó là nguyên văn câu tường thuật của người phóng viên trong buổi lễ. Giọng nói đầy xúc cảm của người phóng viên đã in sâu trong đầu tôi suốt bao nhiêu năm dài.
Chính câu nói đó chỉ trong mấy giây thôi, đã thay đổi tôi từ một cậu bé học trò vô tư hồn nhiên thành một… cậu bé khác. Tôi vẫn là một cậu bé, nhưng đã biết suy tư. Tôi bỗng nhận ra tôi là ai. Tôi bỗng nhận ra hai chữ “đất nước” của người phóng viên vừa nhắc đến đó chính là “đất nưóc” hiện tại của tôi đang sống, đang thở. Cái “đất nước” đã nuôi tôi khôn lớn, cho tôi những tháng ngày tươi đẹp của tuổi ấu thơ, đã dạy cho tôi bao điều hay lẽ phải trong trường lớp…
Nhưng cái “đất nước” đó của tôi nó đang hấp hối…
“Thưa quí thính giả vào lúc này bên ngoài Dinh Dộc Lập chúng tôi nhận thấy trời đã bắt đầu mưa nhỏ và Saigon đang trải qua một buổi chiều u ám như hoàn cảnh hiện tại của đất nước…”
Ôi, tôi vừa nhận ra “đất nước” của tôi, tiếc thay nó chỉ sống đưọc có đôi ngày nữa mà thôi.

Nhà tôi ngay mặt tiền đường Trương Minh Giảng. Quận 3.
Bây giờ thì họ gọi là đường Lê Văn Sĩ. Trước đó, có thời tên là đường Nguyễn Văn Trỗi.
Đây là một trong ba con đường chính dẫn đến phi trường Tân Sơn Nhất của Sài gòn. Từ nhà tôi, mấy ngày nay đã có thể dễ dàng trông thấy những cụm khói bốc lên từ phía phi trường cùng những tiếng nổ ì ầm vọng lại…

Sáng ngày 30.
Bỗng nhiên vắng lặng một cách lạ lùng. Không có tiếng súng. Không bóng người trên đường phố.
Khoảng 8 giờ sáng từng tốp nhỏ những người lính Cộng Hoà từ phía phi trường đi bộ lên. Không đội hình. Không súng ống. Một số không cả ba lô hành trang nào cả. Những người lính đi mà hình như không biết đang đi đâu. Họ chỉ đi…
Một tốp lính khoảng chừng 10 người dừng lại trước nhà tôi. Những người lính rất trẻ. Họ bắt đầu cởi áo lính …
Nhà tôi lúc đó có một người anh họ con ông bác, là Trung úy bộ binh, từ Phan Thiết dẫn được vợ con chạy kịp về SàiGòn mấy ngày trước, tỵ nạn trong nhà.
Anh ấy và ba tôi nói chuyện gì một lúc, tôi thấy hai người gom một mớ quần áo và tiền. Xong, anh tôi ôm mớ quần áo và tiền đó mở cửa bước ra trao lại cho những người lính này. Anh tôi bắt tay vài người, vỗ vai an ủi vài người lính khác… Họ có nói với nhau vài lời nhưng tôi không nghe rõ. Trước khi trở lại vào nhà, anh móc túi lấy gói thuốc trao lại cho một người lính trong đó.

Vài tiếng sau, một đoàn lính khác từ phía phi trường đi bộ lên.
Rất đông.
Họ đi ngay hàng thẳng lối, nép sát dưới những mái hiên. Đội hình kỷ luật. Ba lô súng ống đầy đủ.
Và im lặng.
Toán bộ đội chính quy Cộng Sản Bắc Việt đầu tiên tiến vào Sài Gòn từ ngả phi trường.
Thành phố tôi ở chính thức đổi chủ,
… và đổi tên.

*
Cuối năm 2004, khi nhắc đến cuộc chiến tranh đã lùi xa gần ba mươi năm, cựu Thủ tướng của nước Việt Nam Xã Hội Chủ Nghĩa Võ Văn Kiệt phát biểu: “Nhiều sự kiện khi nhắc lại, có hàng triệu người vui mà cũng có hàng triệu người buồn”.
Bây giờ, đã thêm gần mười năm nữa trôi qua.
Bạn ở trong số hàng triệu người vui, và vẫn còn vui thì cứ vui.
Bạn vẫn còn say men chiến thắng thì cứ tiếp tục “liên hoan” chiến thắng.
Tôi ở trong số hàng triệu người buồn kia… chất chồng theo năm tháng.
*
Sau đây là một truyện ngắn sau 30 tháng Tư

Bài 2 .HAI NGƯỜI BẠN

Suốt những năm trung học, Hào và Hữu là hai thằng bạn nối khố, cặp bài trùng. Họ thân nhau ngay từ ngày đầu tiên ngồi cạnh nhau, và bao giờ cũng sát cánh suốt bảy năm trời mài ghế nhà trường.
Sau khi cùng đỗ Tú Tài tốt nghiệp trung học, Hào ghi danh vào Luật Khoa như dự định. Tưởng bạn sẽ theo mình, hay ít ra cũng tiếp tục đường học vấn, nhưng không, Hữu cho biết hắn sẽ xin vào Hải Quân, thực hiện mộng hải hồ. Hào ngạc nhiên khi nghe hắn nói.

Tương lai, gia đình, và bè bạn không đủ cầm chân hắn.

Hữu cho biết hắn đã suy nghĩ kỹ.

Hải Quân là nơi thích hợp nhất, vừa đáp lại lời kêu gọi của núi sông, vừa là dịp cho hắn được đi khắp miền quê hương gấm vóc.
Năm đầu ở Luật Khoa buồn nản.

Hào cảm thấy thiếu vắng tình bạn thân thiết.

Hữu ra đi biền biệt, thỉnh thoảng chỉ gửi cho Hào một tấm thiệp nhỏ, cho biết từng địa danh hắn đã đi qua… Anh cảm thấy phục bạn mình hơn bao giờ. Hắn đã dám dấn thân nam nhi chi chí, còn anh vẫn mỗi ngày cắp sách đến trường, sống yên vui trong sự che chở của bao người cùng trang lứa, đang từng ngày đối diện với quân thù.
Mặc cảm hèn yếu theo đuổi Hào ngày mỗi lớn.

Khi anh có ý định ra đi như Hữu, thì Mai xuất hiện trong cuộc đời chàng. Những ánh mắt gặp nhau trong giảng đường, những ly nuớc dừa tươi của con đường Duy Tân cây dài bóng mát đã mang đến cho Hào một luồng gió mới.

Buổi hò hẹn hò trong thư viện, từng vòng tay ôm, nụ hôn vội vàng, đã cầm chân Hào trở lại. Anh tạm quên ý hướng ra đi, tạm quên Hữu để phiêu lưu trong tình yêu đầu đời.

Hữu trở lại Sàigòn lần đầu tiên sau một năm trời xa vắng, đến tìm Hào tại trường. Hắn thay đổi hẳn, mái tóc cắt ngắn, da đen sạm, khỏe mạnh trong bộ quân phục màu xanh nước biển.

Chỉ có ánh mắt tinh nghịch và phong cách cởi mở là không thay đổi.

Một lần nữa Hào lại cảm thấy mình nhỏ đi trước bạn.

Không để anh suy nghĩ lâu hơn, Hữu vỗ vai Hào thân mật:
-Đi mày, ra làm vài chai băm ba với tau rồi nói chuyện sau.
Hào vui vẻ theo Hữu ra khỏi trường, quên luôn giờ hẹn với Mai ở thư viện. …
Đơn vị Hữu đang đóng ở Vũng Tàu nên hắn về Sàigòn đều đặn hơn.

Gặp Hào, hắn nói là phép, thỉnh thoảng lại mỉm cười bí mật: tao “dù” về chơi. Hào giới thiệu Mai với Hữu.

Nhưng những cuộc đi chơi tay ba không mấy thú vị.

Hào nhận thấy bạn mình không được vui vẻ cởi mở như trước nữa.

Có thể hắn thấy sự hiện diện của Mai chia xẻ tình thân của Hào.

Cũng có thể hắn thấy lẻ loi. Hào biết bạn mình đang trống vắng.

Đời sống quân ngủ với thời gian ít ỏi đã không cho hắn những cơ hội gặp gỡ. Anh đem cảm nghĩ mình bàn lại với Mai, nhờ nàng giúp đỡ*.
Như dự định, lần sau đó khi Hữu về Sàigòn, Mai đã đến với một người con gái khác, Vân, cô em họ của nàng để giới thiệu với Hữu. Họ tổ chức một cuộc picnic tại Thủ Đức. Buổi đi chơi xa có lẽ mang lại kết quả tốt.

Hào và Mai cố ý tách ra để hai người được tự do. Vân thật hiền và ít nói. Nàng chỉ chăm chú nghe và hưởng ứng những chuyện Hữu kể về những chuyền đi biển và phong tục đặc biệt từng địa phương hắn ghé qua.
Qua mấy lần gặp gỡ, thấy bạn không có dấu hiệu gì tiến triển, Hào hỏi thẳng cảm nghĩ của Hữu về Vân.
-Vân ? Đẹp và dễ thương ghê.
-Vậy mày…. thấy sao?
Hắn tỉnh bơ:
-Tao nhận Vân làm em gái rồi.
Hào sững sờ:
Ban đầu chàng tưởng bạn mình giở trò “em gái hậu phương” để tô điểm cho cuộc tình. Nhưng anh lầm. Hữu thật tình coi Vân như em.

Hào buồn bã kể lại cho Mai và nhờ nàng kiếm giùm…một người khác. .
Cơ hội thứ hai không thể đến. Hữu được lệnh nhổ neo ra một vùng nào đó ở miền Trung. Hắn nói lần này ra đi sẽ rất lâu, chưa biết khi nào trở về.

Hào, Mai và Vân lặng lẽ tiển đưa Hữu rời bến.
Đó là lần cuối cùng hai người gặp nhau.

Đất nước sụp đổ đã kéo hàng vạn người ra biển vượt thoát, trong đó có Hào.

Anh ra đi bất ngờ như tiếng gọi của định mệnh.

Từng khối người chen chúc trên con tàu già nua từ từ rời cảng Sàigòn.

Hào phóng mình bơi theo và leo lên như một mãnh lực huyền bí nào đó đã khiến anh quên tất cả.

*
Sàigòn 1980


Anh thân mến,
Chỉ còn vài tiếng nữa là bắt đầu một năm mới.

Pháo đang nổ báo hiệu cho tất cả mọi người, già cũng như trẻ, trai hay gái, tư sản hay vô sản…đều được thăng thưởng thêm một tuổi.

Có lẽ đây là điều công bằng nhất của thượng đế.

Giữa giây phút thiêng liêng của đất trời này, Mai lại nhớ anh.
Anh ơi, Mai mới ra Bắc thăm ba. Mẹ lại đau nặng và yếu quá nên năm nay Mai đi thay. Mai đáp tàu lửa ở Sàigòn đến một vùng hẻo lánh thuộc Cao Bắc Lạng gần biên giới Tàu. Cả đi lẫn về mất gần một tháng.

Nghĩ lại Mai còn rùng mình thấy sợ. Nếu không có anh Hữu chắc Mai chết mất. Cũng tức cười, anh Hữu vừa ra khỏi tù thì lại đi thăm tù.

Ba anh ấy cùng giam một chỗ với ba Mai nên tụi Mai đi chung.

Lần đầu tiên trong đời Mai đi xa như vậy, và có đi mới biết được thế nào là thân gái dặm trường. Mai chỉ còn nhớ khi tàu ra tới Huế là kiệt lực, không biết gì nữa. Mọi việc anh Hữu lo liệu hết.

Mai ngất xỉu nhiều lần, mỗi lần tỉnh lại thấy gói quà cho ba vẫn còn bên cạnh mới yên tâm, rồi lại thiếp đi. Hình như sau khi xuống sân ga Cao Bằng, tụi Mai đã đi xe hàng, đi xe, đi bộ…và có lúc anh Hữu phải cỏng Mai nữa.

Tội nghiệp anh ấy, ôm hai gói đồ trong tay lại còn đèo Mai trên lưng.

Vậy mà anh vẫn cố gắng theo kịp mọi người vào trại ở trên đồi.

Mỗi khi nghĩ lại cảnh đó Mai chỉ muốn khóc.

Cuối cùng rồi Mai cũng đưa được gói quà đến tận tay ba.

Rồi lại đi bộ, đi ghe, đi tàu về lại Sàigòn …vừa kịp đón Tết.
Không biết mình còn phải chờ bao lâu nữa mới gặp lại nhau?

Anh Hữu bảo nếu em muốn, anh ấy có thể tìm đường giùm.

Người ta đi nhiều lắm anh ơi! Mỗi ngày lại thấy vắng bóng một người quen làm Mai nóng ruột quá. Làm sao bây giờ? Ba vẫn còn tù tội, mẹ đau yếu, lũ em nheo nhóc…cả nhà chỉ còn trông chờ vào Mai.

Mai đã cố gắng hết sức và mỏi mệt lắm rồi! Nếu ba về, chắc sẽ có nhiều hy vọng hơn, nhưng biết đến khi nào?
Kìa, pháo nổ lớn, nhiều lắm! Giao thừa rồi!

Mẹ Mai đang cúng ông bà, riêng Mai nhớ anh muốn khóc đây.

Chờ Mai nhé, viết thư cho Mai nhiều hơn nghe anh.
Chúc anh một năm mới như ý.
Mai.

Hào gấp lá thư lại, thở dài. Anh đọc mãi câu cuối “…chờ Mai nhé” mà tưởng như tiếng nàng vang vọng bên tai. Mai ơi, năm sáu năm rồi anh vẫn chờ, nhưng liệu chúng ta sẽ còn chịu đựng được bao lâu nữa?
Ngẩng đầu lên, chàng nhìn lại Vân, người con gái đã ở cạnh chàng gần hai năm qua.
Ngày gặp Vân thật bất ngờ khi hội nhà thờ địa phương nhờ chàng giúp đỡ phiên dịch cho hai chị em Việt Nam mới được bảo lảnh qua. Nhìn cô gái co ro trong cái lạnh của xứ người, chàng ngờ ngợ nhưng không dám nhận. Chỉ khi Vân ngạc nhiên hỏi “Anh…Hào hả?” chàng mới reo lên mừng rỡ và ôm chầm lấy Vân. Trong một giây, Hào quên mọi người chung quanh, quên Vân là con gái, quên luôn người mới qua chưa quen lối thân mật kiểu Mỹ mà chàng ít nhiều bị ảnh hưởng. Trước mắt chàng không phảI là Vân nữa, mà là những gì chàng bỏ lại sau lưng từ tháng tư năm ấy, là Sàigòn, là em gái chàng, là Mai, là … tất cả.
Sau khi lo liệu xong mọi việc cho chị em Vân, đời sống của Hào bỗng nhiên khởi sắc. Mỗi tuần Vân đã đến. Căn phòng độc thân bề bộn được chăm sóc gọn ghẽ. Nhà bếp từ lâu vắng lạnh được hâm nóng với những món ăn quen thuộc mà Vân khéo léo chắp nối từ những gia vị của Tàu, Đại Hàn… Hào có cảm tưởng như mình đang sống trong cảnh Bích Câu Kỳ Ngộ mà chàng đã học trong một giờ Việt Văn năm xưa.
Nhưng không hẳn. Tú Uyên đã xé bức tranh và cưới Giáng Kiều làm vợ. Còn Hào và Vân vẫn còn một khoảng cách ở giữa: Mai. Đã có những lúc Hào muốn quên tất cả để xây dựng hiện tại và tiến tới hạnh phúc tương lai thì những lá thư của Mai từ quê nhà kéo anh trở lại. Những kỷ niệm êm đềm, những lời hẹn ước đằm thắm còn văng vẳng. Hình ảnh cô sinh viên Luật trẻ trung tươi thắm, theo dòng đời đổi thay đã thành một cô chợ trời lam lũ.
Mai, anh vẫn yêu em nhưng anh không là thánh nhân. Làm sao anh có thể sống mãi với một bóng hình trừu tượng? Nơi đó dù sao em cũng còn một quê hương để yêu, để ghét. Dù sao em cũng còn tình thương của gia đình, bạn bè thân thuộc. Anh ở đây nào có gì ngoài một tấm thân cô độc?
Hào nhìn Vân. Cả năm trời gần gũi mà tình thân không qua một cái nắm tay. Sự quan hệ gắng gượng giữa hai người ngày càng làm Hào bứt rứt.
-Anh ăn đi, cơm nguội hết rồi. ..Tiếng Vân nhắc nhở cắt đứt gìòng tư tưởng. Chàng nâng chén và bắt gặp Vân đang nhìn mình âu yếm. Hào cảm thấy bồi hồi xao xuyến, chỉ muốn bỏ chén xuống, ôm lấy tấm thân nhỏ nhắn kia, xiết mạnh và hôn lên đôi mắt dịu hiền, nói tiếng cám ơn.
-Em tốt với anh quá?
Vân cúi đầu thật lâu, và nói dối với chính mình:
-Em… săn sóc anh giùm cho chị Mai mà.
Hào muốn nổ tung ra như xác pháo. Nếu anh có thể xẻ mình làm hai. Một nửa ở lại chờ Mai, nửa kia giao cho Vân, đáp đền duyên tri ngộ.

*

Sàigòn 1982.
Hào thân mến,


Cám ơn thùng quà của mày đã cho tao một mùa Giáng Sinh êm đẹp. Đừng cười bạn hiền. Tao biết tiếng cám ơn giữa tao và mày quả hơi thừa thải. Nhưng nếu không như thế, tao biết lý do nào để viết thư này? Mấy lần cầm bút rồi lại buông! Có nhiều điều muốn nói với mày quá, mà sao cứ ngập ngừng. Thôi thì cũng đành nói hết một lần.
Ba tao mất rồi, trước Noel khoảng ba tháng. Khi tao ra tới nơi, chỉ còn nấm mồ hoang lạnh của ông dướI hai gốc chuối. Tao ở đó một ngày trời, không biết làm gì hơn là đọc kinh cầu nguyện cho ông. Chẳng hiểu sao đời tao gặp nhiều bất hạnh. Năm 75 khi mày ra đi thì tao mang thân tù tội. Vừa ra tù thì mẹ mất. Bây giờ người thân cuối cùng cũng bỏ ra đi. Tự nhiên tao trở thành một thằng không cha mẹ, không luôn cả thân bằng quyến thuộc. Bạn bè cũ đã từng thằng giã biệt. Bà con tao hầu hết ở ngoài Bắc và cũng không liên lạc. Hết cả rồi! Tao đã có ý định tìm đường qua đó với mày. Sàigòn không có gì cho tao lưu luyến, nếu không vì hoàn cảnh của Mai.
Cuộc sống bên này chắc mày đã biết, qua báo chí, qua thư của Mai. Nhưng Hào ạ, mày không thể tưởng tượng được hoàn cảnh sự thực qua những giòng chữ đó đâu! Mai đã thôi bán chợ trời. Tụi nó bố ráp, kiểm kê, tịch thu… và cho Mai đi cải tạo thương nghiệp 7 ngày, nhẹ thôi mà. Bây giờ Mai dọn một hàng trà đá và thuốc lá lẻ ở bến xe miền đông, gắng gượng qua ngày. Bác gái không làm gì được nữa, chỉ chăm sóc nhà cửa, đau yếu luôn. Tao từ ngày về vẫn chiếc xích lô độ nhật. Một thân một mình dầu sao vẫn dễ chịu hơn. Mỗi sáng, tao tạt ngang qua nhà phụ Mai chở đồ ra bến xe, rồi tà tà kiếm khách. Bữa nào khấm khá thì ghé làm vài ly bia quốc doanh… tối lại đến bến xe giúp Mai dọn về. Cứ thế mỗi ngày mà sống. Thỉnh thoảng ở lại dùng cơm tối với nhà Mai, tìm lại chút hơi ấm gia đình. Bác gái làm tao nhớ mẹ ray rứt.
Hào ạ, tao có lỗi với mày nếu tao yêu Mai không? Thời gian qua tao vẫn cố giúp đỡ Mai giùm mày và hằng đêm vẫn cầu nguyện cho hai người sớm gặp lại. Nhưng Chúa ở cao quá, hay có quá nhiều người cầu nguyện nên chưa tới phiên tao. Mai không thể ra đi trong hoàn cảnh này. Bác trai hầu như tuyệt vọng. Càng ngày tao càng cảm thấy số phận tao và Mai có gì ràng buộc lẫn nhau. Từ những lần tiếp tế đồ cho hai ông cụ. Những lần Mai hớt hải lo buồn khi bị đổi tiền ,gia đình bị kiểm kê tài sản. Người con gái yếu ớt cần một sự chở che, an ủi bên cạnh mà mày nào biết. Mày làm sao tưởng tượng được cô sinh viên tươi tắn ngày nào, nay đã héo hon, mòn mõi, mỗi chiều ngồi trước xe, ôm lấy từng cái ly, từng gói thuốc, bảo vệ di sản cuối cùng của nàng. Hào ơi, trái tim tao cũng không phải bằng đá. Ngày xưa, tình yêu của mày và Mai được tô thắm bằng những buổi chiều công viên, bằng vị ngọt của nước dừa. Hôm nay tình yêu của tao và Mai chỉ là những lon gạo đong, chan hòa những giọt nước mắt.
Tao biết mày vẫn chưa quên Mai và cố gắng đợi chờ. Tình đầu bao giờ cũng đẹp nhưng không có nghĩa là nó sẽ thành. Dù mày không nói nhưng tao cũng đoán Vân và mày đã yêu nhau rồi, chỉ có Mai là chút vấn vương còn sót lại. Đã đến lúc mình không thể chối bỏ sự thực. Bắt đầu già hết rồi Hào. Mình không thể ôm kỷ niệm mà sống, và để tuổi xuân của Mai và Vân phai tàn theo thời gian. Kỷ niệm dù đẹp cũng chỉ là dĩ vãng, hãy nên nhìn vào thực tại và vươn lên nắm lấy tương lai. Vân là em gái tao, mày nhớ chứ? Và tao sẽ rất vui mừng nếu có thằng em… là mày.
Những gì cần nói, tao đã nói hết, mong mày hiểu. Dù sao đi nữa tao cũng đợi thơ mày trước khi làm bất cứ chuyện gì. Chúc mày những ngày tháng đẹp.
Hữu .

Hào lặng lẽ châm điếu thuốc và đọc lại lá thư dài của Hữu. Có phải đây là kết cuộc tốt đẹp nhất cho bốn người? Tâm trạng và lời lẽ của Hữu trong thư cũng giống như những gì Hào đang nghĩ và định viết cho Mai. Không ai có thể sống mãi với kỷ niệm mà quên đi hạnh phúc trước mắt. Chàng không thể để cho Vân chờ đợi lâu hơn, mà ngay cả chính chàng cũng không thể chịu đựng được nữa những ngày dài cô độc. Vân ở đây, vẫn mỗi ngày săn sóc chàng với cả trời thương mến, tại sao chàng cứ để một bóng hình khác che khuất con tim?
Và Hữu, cuối cùng rồi hắn cũng tìm được tình yêu, cho dù là tình yêu của từng lon gạo đong chan hòa những giọt nước mắt như hắn nói. Hắn nào có lỗi gì đâu? Hào cảm thấy thông cảm và thương bạn hơn bao giờ hết. Tại sao số phận cứ dành cho anh những ưu đãi, bình yên, rồi trừ lại bằng những mất mát bất hạnh cho Hữu? Dù sao Hào cũng cảm thấy yên tâm và an ủi vi Hữu là người sẽ đưa Mai đi nốt quãng đời còn lại.

*

Đám cưới của Hào và Vân, Hữu gửi mừng một bức cưa lộng rất công phu do chính tay hắn làm lấy. Những miếng gỗ thông mịn màng do chính Hữu cưa và tỉ mỉ ghép lại theo hình con tem đám cướI Việt Nam ngày trước. Trong thư hắn viết: “Quà cưới của mày cho tao và Mai hậu hĩ quá, làm tao không biết gởi gì cho Vân và mày nữa. Bên đó đầy đủ tất cả, đành gởi tạm cái này gọi là…”
Hào cảm động trước chân tình của bạn. Hắn và chàng là đôi bạn thân nhưng từ lâu Hào biết, trong thâm tâm, Hữu hơn mình về mọi phương diện. Rời ghế nhà trường hắn đã biết chọn cho mình một lý tưởng để noi theo. Ngày bại trận, với phương tiện vượt thoát trong tay, hắn can đảm chọn ở lại để mong thấy quê hương thanh bình. Vỡ mộng, cái giá phải trả là mấy năm cải tạo, hắn vẫn chịu đựng, phấn đấu để sống còn và đùm bọc cho Mai.
Trước đó, trong thiệp cưới của Mai và Hữu gởi cho Hào và Vân, Mai kèm một bức thư ngắn: “… Mai cám ơn anh đã thông cảm cho hoàn cảnh của chúng ta. Từ nay mọi chuyện anh Hữu sẽ viết thư cho anh. Tâm hồn Mai bây giờ đã bình yên, không còn cuống quít với kỷ niệm xưa cũ nữa. Mai cảm thấy tin tưởng hơn vào cuộc sống mới, và vẫn kính trọng anh là một người bạn thân thiết nhất của đời Mai. Vân là một người hoàn toàn, anh phải đối xử tốt với nó và đừng chần chờ nữa”

*
Nhưng dòng đời không bao giờ trôi suông sẻ. Bên kia bờ đại dương, Hữu và Mai đang sống những ngày hạnh phúc. Đứa con đầu lòng của họ đã được ba tuổi. Ngày Mai khai hoa nở nhụy, Hữu đánh điện tín sang, phong cho Hào-Vân làm cha mẹ đỡ đầu đứa bé. Hào cũng vui mừng không kém. Trong giờ phút thiêng liêng được lên chức “bố” hắn vẫn nhớ đến chàng. Thư từ qua lại đều đặn hơn giữa bốn người.
Niềm sung sướng hãnh diện về đứa con Hữu và Mai làm Vân lo lắng suy nghĩ. Đã mấy năm chung sống, hai người ân ái mặn nồng như bất cứ cặp vợ chồng nào hạnh phúc nhất trên đời, vẫn không thấy có triệu chứng gì Vân sẽ cho Hào một đứa con.
Nỗi lo lắng của Vân ngày một lớn dù Hào có an ủi và không mấy quan tâm. Anh vẫn quan niệm, con cái là do trời cho, khi có là… tự nhiên sẽ có.
Nhưng Vân lại không nghĩ như vậy. Nàng bắt đầu dò hỏi, tìm tòi qua sách báo, tìm ra những phương pháp và yêu cầu Hào áp dụng khi hai người gần gũi. Thậm chí nàng còn đi lễ chùa để cầu khẩn (mặc dù đây chỉ có chùa…Nhật Bản). Nghĩa là Vân đã cố gắng hết sức, từ khoa học hiện đại cho đến mê tín dị đoan. Vẫn không thấy kết quả.
Bác sĩ cho hay Vân không thể có con. Đám mây đen đầu tiên xuất hiện trong cuộc sống hai người. Cả mấy tuần Vân chẳng thiết ăn uống, chỉ nằm khóc cho số phận. Hào không biết làm cách nào để an ủi vợ. Chàng hiểu nỗi mong ước có con của Vân lớn đến chừng nào. Đến khi giải pháp xin một đứa con nuôi của Hào mới làm Vân nguôi ngoai.
Họ thực hiện ngay ý định. Những cú phone, thư từ và các thủ tục khác lần lượt qua Hội Cha Mẹ Nuôi, qua Cao Ủy Tị Nạn… đã mang bé Hạnh về với gia đình chàng. Vân và Hào được Cao Ủy cho hay, Hạnh là một số ít người còn sống sót trong chuyến tàu vượt biên bị hải tặc tấn công. Cha mẹ đều vùi thây dưới biển cả. Cô bé sống trong trại không thân nhân, không rõ gốc tích, và đang chuẩn bị được đưa sang Thụy Sĩ nhờ những bàn tay nhân ái. Hai người cảm thấy thương mến ngay đứa bé mồ côi tội nghiệp, và quyết định mang bé về với gia đình.
Sự hiện diện của bé Hạnh đã mang lại gia đình Hào nguồn sống mới. Vân như hồi sinh. Ngày đón đứa bé tại phi trường, Hào và Vân đã nắm chặt tay nhau trong niềm thông cảm sâu xa. Cuộc đời cũng không đến nỗi bất công cho lắm. Tại đây, gần mười năm trước hai người đã gặp lại nhau, vượt qua bao thử thách. Nay cũng nơi này, đang mang về cho họ một đứa con từ bên kia bờ biển xa xôi.
Vân đã chuẩn bị đầy đủ tất cả. Một căn phòng riêng cho con, áo ấm, giầy vớ, búp bê…không thiếu món gì. Nàng dạy cho bé Hạnh kêu chàng là “ba”, gọi nàng là “mẹ”. Mỗi ngày đi làm về, Hào sung sướng khi thấy hai mẹ con quấn quít bên nhau.
Tuy sống trong tình thương yêu của Vân và Hào, hai người thỉnh thoảng bắt gặp bé Hạnh một mình tư lự trong phòng. Bé có một cuốn sổ tay mang theo trong người, hàng ngày vẫn mở ra coi rồi lại buồn thiu muốn khóc, nhưng mỗi khi thấy vợ chồng chàng, nó lại dấu đi. Vân tò mò muốn xem, cuối cùng lại thôi. Hai người đều tin đó là kỷ vật còn lại của cha mẹ ruột nó. Họ phải tôn trọng người đã khuất cũng như sự riêng tư của con. Ngày tháng còn dài để tìm hiểu bé.
….

Hôm nay tại sao bé Hạnh lại đưa cho Vân coi cuốn sổ tay có tấm hình?
Tấm hình tuy đã nhòe vài chỗ nhưng vẫn rõ ràng một gia đình gồm hai vợ chồng và một đứa con, bé Hạnh.
Hai người ở phía sau, chình là Hữu và Mai.
Hào và Vân run rẩy nhìn sửng tấm hình như không thể tin được sự thật.
Chỉ một thời gian không thư từ, Hào đâu ngờ họ đã vượt biên để đi đến một kết quả bi thảm!
Nước mắt chảy dài trên má. Hào đau đớn không thể thốt ra tiếng nấc… Chàng như nghe thấy tiếng sóng biển rì rào lẫn tiếng cười man rợ của loài dã thú.
Có tiếng la hét cầu cứu!
Tiếng phụ nữ!
Tiếng của Mai…
Hào như thấy Hữu thân yếu thế cô vẫn cố xông lại mong cứu người vợ yêu dấu đang dẫy dụa trong bàn tay của loài thú dữ.
Một nhát búa!
Hai nhát búa!
Máu loang lổ!
Một cái đẩy tay tàn bạo đưa người sĩ quan Hải Quân trẻ tuổi năm xưa về với biển khơi. Chuyến hải trình cuối cùng! Hào lại thấy Mai trong phút tuyệt vọng khốn cùng, thoát khỏi bàn tay dã nhân, lao mình xuống dòng nước. Nàng lấy tay che vết thương trên đầu chồng và cùng nhau chìm xuống biển sâu.

*
Hào đón lấy bé Hạnh từ tay Vân. Đứa con của Hữu và Mai đây. Nó đã từ ngàn dặm tìm đến gia đình chàng mà chàng nào biết. Có phải hồn thiêng của hai người bạn đã đưa đứa con mồ côi của họ về cho vợ chồng chàng nuôi dưỡng?
Hữu và Mai ơi, các bạn hãy yên tâm nhắm mắt. Đây là đứa con của chúng ta. Tôi sẽ thương yêu, đùm bọc nó cho đến khi nên người.
Bé Hạnh nằm yên trong lòng. Nó cũng đang khóc và cảm nhận sự thương yêu vô cùng của cha mẹ.
Ngoài kia, trên bầu trời xanh, trong áng mây chiều lờ lững như đang có Hữu và Mai đứng đó đón nhận lời khấn nguyện của Hào.

Họ mỉm cười mãn nguyện, và nương theo làn gió bay về chốn thiên đàng./.

ThaiNC

Rủ Nhau Nhậu Tưng Bừng

Rủ Nhau Nhậu Tưng Bừng

(05/15/2013)

Tác giả : Cô Tư Sài Gòn

Vietbao.com

Đất nước đang tới những ngã rẽ kỳ dị: người ta cứ rủ nhau nhậu tưng bừng. Không chỉ dân nhậu, nam và nữ nhậu, mà cả quan chức nhậu… mà khi quan nhậu là bắt dân phải chi tiền.

Nhậu nhiều tới mức mờ mắt, không mấy ai chịu thấy chuyện Biển Đông đang bị tàu Trung Quốc vét cá, Hải quân TQ lấn chiếm biển đảo, và các hãng dầu quốc doanh TQ đang cắm mũi khoan tìm đầu trên biển Việt Nam.

Nhậu nhiều tới mức không mấy ai còn nhớ tới một thời của ngàì Trần Hưng Đạo với lời Hịch Tướng Sĩ:

“…Nay các ngươi trông thấy chủ nhục mà không biết lo, trông thấy quốc-sỉ mà không biết thẹn, thân làm tướng phải hầu giặc, mà không biết tức, tai nghe nhạc để hiến ngụy sứ, mà không biết căm; hoặc lấy việc chọi gà làm vui-đùa, hoặc lấy việc đánh bạc làm tiêu-khiển, hoặc vui thú về vườn ruộng, hoặc quyến-luyến về vợ con, hoặc nghĩ về lợi riêng mà quên việc nước, hoặc ham về săn-bắn mà quên việc binh, hoặc thích rượu ngon, hoặc mê tiếng hát. Nếu có giặc đến, thì cựa gà trống sao cho đâm thủng được áo-giáp; mẹo cờ-bạc sao cho dùng nổi được quân-mưu; dẫu rằng ruộng lắm vườn nhiều, thân ấy nghìn vàng khôn chuộc; vả lại vợ bìu con díu, nước này trăm sự nghĩ sao; tiền-của đâu mà mua cho được đầu giặc; chó săn ấy thì địch sao nổi quân thù; chén rượu ngon không làm được cho giặc say chết, tiếng hát hay không làm được cho giặc điếc tai…”

Báo Pháp Luật TP kể chuyện ở Cam Ranh, “Chịu hết xiết vì liên tục bị một trung tá CSGT mời đến… hốt cú chót trong các tiệc nhậu, doanh nghiệp làm đơn “tố”…”

Bản tin nói, vào ngày 12-5, ông TNK, Giám đốc một doanh nghiệp kinh doanh vận tải tại Ba Ngòi, TP Cam Ranh (Khánh Hòa), cho biết: Ông đã gửi đơn “tố” Trung tá Hồ Lưu Luyến, Trạm phó Trạm CSGT Cam Ranh (thuộc Phòng CSGT Công an Khánh Hòa), thường xuyên bắt ông trả tiền các độ nhậu tiếp khách của ông Luyến.

Bnả tin ghi rằng:

“Theo ông K., doanh nghiệp của ông có hơn 10 đầu xe tải chạy đường dài nên ông rất “biết điều” với lực lượng CSGT, đặc biệt là với Trung tá Luyến. “Vì tôi luôn tỏ ra “biết điều” nên ông Luyến hay mời tôi nhậu nhưng thực chất là gọi tôi đến để trả tiền cho các độ nhậu của ông ấy. Mỗi lần thấy tên ông Luyến hiện lên trong điện thoại là tôi phải chuẩn bị tiền đến một quán nhậu nào đó để trả, riết thành quen. Những lần tính tiền nhậu cho ông Luyến trước đây khi thì 2 triệu đồng, lúc 5 triệu đồng, cùng lắm là 5 triệu đồng tôi chấp nhận được. Tuy nhiên, ngày 10-1-2013, tôi “xanh mặt” với cái hóa đơn hơn 13,3 triệu đồng cho chầu nhậu tiếp khách của ông Luyến” – ông K. nói.”

Thế nhưng, khi bị ép trả tiền nhậu nhiều quá, và nặng quá, vào ngày 16-1-2013, ông K. mới làm đơn trình bày toàn bộ vụ việc gửi đến trưởng Phòng CSGT Công an tỉnh Khánh Hòa.

Bi hài là, theo báo Pháp Luật TP: “Được biết sau khi nhận đơn, Phòng CSGT và Thanh tra Công an tỉnh Khánh Hòa đã cử cán bộ đi xác minh. Công an đã gặp ông K., gặp chủ quán nhậu để tìm hiểu sự việc. “Tuy nhiên, sau khi họ đến gặp và tôi xác nhận mình là người làm đơn thì từ đó đến nay tôi không nhận được thông tin phản hồi nào từ công an về vụ việc này” – ông K. cho biết.”

Nghĩa là im luôn. Phải chăng vì các quan thanh tra cũng đang rủ nhau nhậu tiếp?

Chén rượu ngon không làm cho giặc say chết. Trước tiên là chết dân Việt, khi cứ phải trả tiền cho sếp. Và kế tiếp là đang đẩy cả nước tới cơ nguy rơi vào vòng Bắc thuộc mới vậy.

BÌNH AN CỦA CHÚA

BÌNH AN CỦA CHÚA (BÀI NÓI CHUYỆN VỚI CÁC NỮ TU DÒNG KÍN – CARMEL PHÚ CƯỜNG)

Tác giả: Lm JB Nguyễn Minh Hùng

nguồn:conggiaovietnam.net

Chúa Giêsu, trong nhà tiệc ly, trước khi chia tay các môn đệ của Người để vào thụ nạn, đã phán: “Thầy để lại bình an cho các con, Thầy ban BÌNH AN CỦA THẦY cho các con. Thầy ban cho các con không như thế gian ban tặng” (Ga 14,27). Bình an của Chúa là hồng ân mà không ai trong chúng ta không cần đến. Vậy, chúng ta hãy cùng suy tư về ơn bình an của Chúa khởi đi từ những cảm nghiệm nơi chính bản thân mình.

I. CẢM NHẬN BÌNH AN CỦA CHÚA.

Thật lòng mà nói với nhau, nhiều khi chúng ta đã than thân trách phận. Gặp một chút phiền toái, tự nhiên chúng ta bực dọc. Thấy mình kém tài hơn người khác, chúng ta không vui. Thấy mình thua thiệt người xung quanh điều gì, bản thân thất vọng về mình. Thấy người này người nọ làm được chuyện này chuyện kia to tác, ta đễ bi quan cho mình…

Bởi không chấp nhận bản thân, cuộc sống chúng ta nhiều lúc không hạnh phúc. Không hạnh phúc, không phải Chúa keo kiệt hạnh phúc với ta, nhưng chỉ do ta vô ơn với hạnh phúc Chúa ban. Vì yêu mình cách sai trái, yêu mình bằng cái nhìn bi quan, ta không nhận ra nơi mình, nơi cuộc đời mình có quá nhiều thứ để cảm tạ Chúa, để yêu Chúa, để yêu con người. Không nhìn thấy hồng ân của Chúa trên chính sự sống của mình, ta dễ cắng đắng với bản thân. Không nhận ra hạnh phúc, thì cũng không có hạnh phúc. Không có hạnh phúc, cuộc sống luôn vắng nụ cười, chỉ toàn cau có, gắt gỏng…

Tôi từng đọc Thánh vịnh 77: “Phải chăng Chúa ruồng bỏ đến muôn đời, chẳng bao giờ còn dủ lòng thương đoái? Tình yêu Chúa phải chăng nay cạn hẳn, và thánh ngôn chấm dứt đời đời? Hay Thiên Chúa đã quên thương xót, vì giận hờn mà khép kín từ tâm?” (Tv 77, 8-10), mà quay quắt, mà xót xa cho bản thân. Lời Thánh vịnh, lẽ ra phải là lời cầu nguyện trong đức tin, trong lòng mến, thì tôi đã từng biến nó thành lời than thở, dù vẫn cầu nguyện, nhưng hình như cầu nguyện trong cay đắng.

Bản thân chúng ta có thánh thiện không, không ai dám chắc. Chỉ Chúa biết. Nhưng hình như Chúa đã xoay cái nhìn của tôi về hướng tích cực hơn. Nhờ những người đau khổ mà tôi phục vụ, cho tôi thay đổi cái nhìn, từ ngày ấy, tôi nhận ra bình an của Chúa ban cho mình tràn ngập. Tôi thấy mình hạnh phúc. Cuộc sống của mình trải đầy thảm đỏ, vậy mà nhiều lần mình còn tủi phận, muộn phiền.

Cũng phải cám ơn các chị em, mỗi khi các chị em nói rằng, con sẽ đồng hành với cha, con cầu nguyện cho giáo xứ…, các chị em đã giúp tôi biết suy nghĩ tích cực hơn, biết hướng về người khác hơn, biết đặt mình nơi người khác hơn.

Mỗi khi các chị em quỳ xuống xin tôi ban phép lành của Chúa, là mỗi lần tôi phải giật mình, tự hỏi, chính tôi đã có phép lành của Chúa nơi bản thân mình chưa? Ai có phép lành của Chúa, người đó sẽ có bình an nội tâm sâu thẳm. Nhìn lại mình, thấy còn nhiều vướng bận quá. Hình như đó là dấu hiệu mình chưa có bình an của Chúa. Vậy rồi tôi lại cầu nguyện, lại phải ăn năn tội, lại suy tư nhiều hơn về những gì mình đã sống, đã thể hiện… Mong bình an của Chúa phủ đầy trên tôi. Mong bình an của Chúa lọt vào tận hồn tôi. Bởi nếu không, tôi chỉ là cái máy, chứ không phải là người ban bình an của Chúa đúng nghĩa. Vì nếu một linh mục không có bình an, thì làm sao có thể trao ban bình an cho ai khác?

Như ánh nắng trải rộng, chiếu soi mọi nơi. Nhưng ta đóng chặt cửa nhà, ánh nắng không thể lọt vào nhà. Bình an của Chúa là ánh nắng rộng rải ban phát. Bình an của Chúa luôn tưới gội chan chứa. Bình an của Chúa luôn có sẵn và chảy tràn trề. Nhưng như cánh cửa nhà đóng kín, lòng ta cũng đóng kín bởi còn đó nhiều tham vọng, còn nhiều nhen nhúm của thói hư tật xấu, còn nhiều những mầm mống của tột lỗi…, do vậy, bình an của Chúa không thể lọt vào hồn ta. Bình an của Chúa đã có sẵn nhưng lòng ta không đủ điều kiện đón nhận. Vì thế, mãi mãi, ta vẫn đứng ngoài ơn bình an của Chúa. Cũng chính vì thế, đau khổ trong ta vẫn hoài đau khổ, mà không hề cảm nếm một chút ngọt ngào nào. Tội nghiệp biết bao nhiêu cho người giàu có mà không biết mình giàu có, không hề được hưởng nhờ sự giàu có của mình…

Vậy ta cần khám phá bình an của Chúa từng ngày. Có như thế, ta sẽ thầy mình sống vui hơn, thanh thản hơn.

Với bản thân, bây giờ, khi đọc lời Thánh vịnh 77, tôi không còn thấy lời Thánh vịnh như chỉ nói về mình cách cắng đắng nữa. Nhưng nhờ lời Thánh vịnh, tôi đặt mình vào những đau khổ của từng anh chị em mà cầu nguyện cho họ, mà yêu thương họ, và phục vụ họ cách nhiệt tâm hơn… Tôi biết ơn quá đỗi những người đau khổ mà tôi phục vụ. Chính họ đã tặng tôi niềm vui. Chính họ cho tôi thấy bình an của Chúa. Chính họ giúp tôi vui sống, vui tin yêu, vui đón nhận, vui thi hành trách vụ trong thánh chức của mình từng ngày. Anh chị em đau khổ mà tôi đang phục vụ là ân nhân của tôi.

II. BÌNH AN CỦA CHÚA NƠI CÁC CHỊ EM.

Bình an của Chúa không ở ngoài tầm tay chúng ta, nhưng đang cư ngụ nơi tâm hồn mình. Nếu bớt nhìn vào mình theo nghĩa chỉ có mình là độc chiếm, là trên, là nhất, chúng ta sẽ vui với khả năng Chúa ban, dù khả năng đó nhiều hay ít, lớn hay nhỏ… Nếu bớt một chút ích kỷ cho bản thân, bớt một chút tính toán vụ lợi tư riêng, chúng ta sẽ thấy ơn bình an của Chúa tuôn đổ trên bản thân mình còn nhiều hơn, còn lớn hơn những gì ta có thể tưởng nghĩ.

Tôi thấy nơi ngôi nhà này có bình an. Có thể bên trong lòng từng người, bên trong nội bộ của đời sống chung của cộng đoàn, tôi không thể hiểu hết. Nhưng với những con người mà ngày nào cũng đến gần Chúa, cũng đều phủ phục trước Thánh Thể Chúa, cũng suy niệm Lời Chúa, và đặt việc chiêm niệm lên hàng đầu, trở thành linh đạo riêng mình, như một đặc sủng đặc thù, thì không thể nói rằng không có bình an của Chúa.

Bằng chứng, nhiều người nói: Các Soeurs dễ thương quá. Các Soeurs vui tính quá. Các Soeurs hồn nhiên quá… Các chị em đừng vội cười. Phải có bình an của Chúa, mới có thể toát ra cái chất dễ thương, vui tính, hồn nhiên ấy. Đừng từ chối lời khen ngợi của người khác, nhưng hãy thật lòng đón nhận.

Một mặt, ta phải chân nhận rằng, bình an ấy là một phần của ơn Chúa, nhưng cũng có một phần do nỗ lực của ta, dù ít, dù nhiều. Hãy cảm tạ Chúa, vì Chúa ban cho ta ơn bình an của Chúa, để người khác có thể thấy được, và khen ngợi.

Mặt khác, nếu thấy mình chưa xứng đáng trước lời ngợi khen, ta hãy cố gắng mà sống cho xứng đáng hơn. Hãy biến mình thành dụng cụ mang bình an của Chúa đến cho tha nhân. Hãy cầu nguyện cho chính chúng ta, để từng người trong chúng ta thực sự cảm nếm bình an của Chúa.

Dĩ nhiên, mỗi người trong chúng ta, đã bước vào con đường luyện tập nên thánh, lúc nào cũng phải chiến đấu để giằn lấy sự thánh thiện của Chúa. Có lúc ta cảm thấy mệt mỏi. Có lúc thử thách như quá sức chịu đựng của mình. Có lúc như mình đang rơi vào vực thẳm do bị hiểu lầm, bị cám dỗ bỏ cuộc, bị chối từ, bị xúc phạm… Nhưng hãy tin rằng, Chúa luôn nâng đỡ ta. Người không bỏ rơi những ai Người tuyển chọn. Hãy tin vững chắc, tin một cách đinh ninh: Không bao giờ Chúa xô chúng ta ra khỏi ơn bình an của Chúa. Ngược lại, nếu có lúc ta dại khờ, đánh mất bình an của Chúa, không những Chúa không bỏ rơi, mà Người còn ôm ấp, chở che đem ta về với sự bình an như người chủ cố đi tìm cho được con chiên chạy xa bầy, tìm được, ông vác lên vai đem về vậy (x. Lc 15, 4-7).

Chiêm ngưỡng thánh giá Chúa Kitô nơi những anh chị em đau khổ, giúp ta sống tinh thần phó thác. Ai càng phó thác, sẽ càng nhận được ơn bình an của Chúa. Chúng ta tự hỏi, tại sao kẻ không còn gì đáng sống, không còn gì để mà đam mê cuộc sống, lại cứ sống, cứ muốn vươn lên giành lấy sự sống? Còn ta, được Chúa ban quá nhiều, sao lại cứ bi quan, cứ sống như chẳng nhận từ Chúa hồng ân nào? Càng quay quắt với chính mình bao nhiêu, ta càng chứng tỏ mình vô ơn với hồng ân Chúa bấy nhiêu. Ta phải tự tra vần mình. Tự tra vấn để trong bất kỳ biến cố đau thương nào, ta cũng sẽ yêu mến chính hồng ân Chúa ban và yêu mến chính sự sống là hồng ân quý giá nhất trong đời làm người của mình, mà trân, mà quý, mà nâng, mà niu nó. Hãy nhớ lời Chúa Kitô: “Hãy ngắm xem hoa huệ ngoài đồng mọc lên thế nào mà rút ra bài học: chúng không làm lụng, không kéo sợi; thế mà, Thầy bảo cho anh em biết: ngay cả vua Salômôn, dù vinh hoa tột bậc, cũng không mặc đẹp bằng một bông hoa ấy. Vậy nếu hoa cỏ ngoài đồng, nay còn, mai đã quẳng vào lò, mà Thiên Chúa còn mặc đẹp cho như thế, thì huống hồ là anh em… Cha anh em trên trời thừa biết anh em cần tất cả những thứ đó. Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho” (Mt 6, 27-30. 32-33). Lời dạy đó giúp ta phó thác vào Chúa, để Chúa định liệu và quang phòng tất cả nơi ta theo thánh ý Chúa. Một khi đã ngã mình vào tay Chúa trong phó thác, bình an của Chúa sẽ theo ta mãi mãi.

Hãy nhớ, Chúa Kitô không hủy bỏ thánh giá nơi cuộc đời con người, nhưng Người cùng với con người vác thánh giá. Con Thiên Chúa không xóa bỏ đau khổ gậm nhấm con người, nhưng Người lại ban cho họ sức mạnh để vượt lên những đau khổ. Chúng ta sẽ có thánh giá. Và chúng ta cũng sẽ luôn có Chúa nơi cuộc đời mình. Chỉ cần ta phó thác vào Chúa để đón lấy bình an của Chúa là đủ.

Vậy, chúng ta hãy cảm tạ Chúa, vì Chúa luôn chăm sóc ta. Và bình an của Chúa, Chúa vẫn ban tràn đầy trên từng người chúng ta:

“Lạy Đức Chúa là Vua, con xin cảm tạ Ngài, ca ngợi Ngài là Thiên Chúa, Đấng cứu độ con. Con cảm tạ danh Ngài.

Nhờ uy danh cao cả, và chiếu theo lòng lân tuất vô biên của Ngài, Ngài đã giải thoát con khỏi những kẻ rình cắn xé con, chực nuốt trửng, khỏi tay những kẻ tìm hại mạng sống con, khỏi bao khốn quẫn con hứng chịu.

Ngài đã đoái nghe lời con cầu khẩn, vì đã cứu con khỏi diệt vong, và giải thoát con khỏi thời tai hoạ. Bởi thế, con xin cảm tạ và ca ngợi Ngài, và xin chúc tụng danh Đức Chúa” (Hc 51, 1.3.11-12).

Thứ hai ngày 13.5.2013

Lm. JB NGUYỄN MINH HÙNG

Dân chủ hóa Trung Quốc là “không thể tránh khỏi”

Dân chủ hóa Trung Quốc là “không thể tránh khỏi”

 

Thụy My

Nhà ly khai Trung Quốc đang tị nạn tại Mỹ, luật gia khiếm thị Trần Quang Thành ngày 14/05/2013 tại một diễn đàn nhân quyền đã nhận định rằng việc dân chủ hóa đất nước là “không thể tránh khỏi”, nhưng quá trình này là do chính người dân Trung Quốc thực hiện chứ không phải từ bên ngoài.

Nhà ly khai nổi tiếng tuyên bố trong khuôn khổ Oslo Freedom Forum, một diễn đàn thường niên của các nhà đấu tranh cho nhân quyền: “Trung Quốc sẽ thay đổi, điều này là không thể tránh khỏi và trên thực tế đã bắt đầu”. Tuy vậy, trong bài diễn văn viết bằng chữ Braille dành cho người khiếm thị, luật gia Trần Quang Thành nói thêm : “Chúng tôi không thể chờ đợi dân chủ, tự do và bình đẳng từ bên ngoài đến”.

Năm nay 41 tuổi, ông Trần Quang Thành đã nổi tiếng khắp thế giới nhờ cuộc đấu tranh chống những lạm dụng của chính sách mỗi gia đình chỉ có một con. Bị kết án bốn năm tù và sau đó bị quản thúc tại gia, ông đã đào thoát được khỏi làng và trú ẩn tại đại sứ quán Mỹ tại Bắc Kinh gây ra cuộc khủng hoảng ngoại giao giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc. Cuối cùng ông cũng được phép đi New York và đang sống ở đó cùng với gia đình.

Tại Oslo, luật gia Trần Quang Thành cũng nêu ra việc thân nhân của ông bị trấn áp, để trả thù cho các hoạt động chính trị của ông, và một lần nữa lên án Bắc Kinh không tôn trọng lời hứa đảm bảo an toàn cho gia đình ông. Nhưng ông cũng hoan nghênh chuyển biến tập thể của người dân Trung Quốc, mà theo ông được biểu hiện qua hơn 200.000 vụ nổi dậy mỗi năm, và việc huy động được các nhóm tranh đấu qua internet.

Luật gia Trần Quang Thành nhận định: “Không có gì phải e ngại một chế độ rệu rã đã đánh mất đi nền tảng luân lý, đạo đức và pháp luật. Ý tưởng cho rằng các giá trị của xã hội dân sự về mặt nhân quyền không thế thích ứng với Trung Quốc hoàn toàn là một sự huyễn hoặc do chế độ độc đoán tuyên truyền”.

Sau khi lên nắm quyền vào tháng Ba, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình đã tuyên bố muốn “tiếp tục chiến đấu cho chủ nghĩa xã hội mang màu sắc Trung Quốc và để thực hiện giấc mơ đại phục hưng Trung Hoa”.

Angelina Jolie cắt ngực phòng ung thư

Angelina Jolie cắt ngực phòng ung thư
Thứ ba, 14 tháng 5, 2013

nguồn:BBC

Angelina Jolie hy vọng câu chuyện của cô sẽ giúp ích cho các phụ nữ khác
Ngôi sao điện ảnh Hollywood Angelina Jolie đã phải trải qua đợt phẫu thuật nhằm giảm nguy cơ bị ung thư vú.
Người mẹ 37 tuổi của sáu đứa con giải thích trên New York Times lý do khiến cô phải phẫu thuật.
Cô nói các bác sỹ tiên liệu cô có 87% nguy cơ mắc ung thư vú và 50% nguy cơ mắc ung thư tử cung.
“Tôi quyết định là mình cần phải chủ động nhằm giảm thiểu các nguy cơ tới mức tối đa,” cô viết.
Cô nói tiến trình phẫu thuật được bắt đầu hồi tháng Hai và hoàn tất vào cuối tháng Tư.
Giảm nguy cơ
Trong một bài viết có tên Sự lựa chọn y tế của tôi (My Medical Choice), Angelina Jolie nói mẹ cô đã phải chiến đấu với bệnh ung thư trong gần một thập niên và qua đời khi mới 56 tuổi.
Cô nói cô đã chia sẻ với các con rằng căn bệnh tương tự sẽ không cướp cô ra khỏi cuộc đời của các con, “nhưng thực tế là tôi mang một gene ‘bị lỗi’, BRCA1, là loại gene khiên tôi có nguy cơ mắc ung thư vú và ung thư tử cung rất cao”.
là tôi mang một gene ‘bị lỗi’, BRCA1, là loại gene khiên tôi có nguy cơ
mắc ung thư vú và ung thư tử cung rất cao”.
Angelina Jolie và Brad Pitt có chung với nhau ba con ruột và ba con nuôi
Cô nói một khi nhận thức được vấn đề, cô đã quyết định trải qua chín tuần phẫu thuật phức tạp, cắt bỏ cả hai bên ngực.
Nguy cơ mắc ung thư vú của cô nay giảm từ 87% xuống dưới 5%, cô nói.
Cô ca ngợi người tình Brat Pitt về tình yêu và sự ủng hộ của anh dành cho cô trong toàn bộ quá trình điều trị, và nói cô được đảm bảo rằng các con cô không cảm thấy có gì “khiến chúng cảm thấy khó chịu”.
“Tôi cảm thấy mình được tiếp thêm sức mạnh khi đưa ra một lựa chọn mạnh mẽ, một lựa chọn không hề làm giảm bớt sự nữ tính của mình,” cô nói.
“Với những phụ nữ nào đọc tin này, tôi hy vọng là nó sẽ giúp bạn hiểu rằng bạn có những lựa chọn.”
Nữ diễn viên và đạo diễn này từ lâu nay cũng là một người ủng hộ các hoạt động nhân đạo. Cô hiện đang là đặc phái viên của Liên hợp quốc.
Trong thời gian có đợt phẫu thuật cắt bỏ hai bên ngực, cô đã tới thăm Cộng hòa Dân chủ Congo cùng Ngoại trưởng Anh William Hague và tham dự hội nghị thượng đỉnh các ngoại trưởng G8 tại london, nhằm nâng cao nhận thức chung về bạo lực tình dục trong các cuộc xung đột.
Cô cũng hỗ trợ việc ra mắt một quỹ thiện nguyện nhằm giúp đỡ việc học hành của các bé gái, là quỹ do nữ sinh Malala Yousafzai người Pakistan, người bị Taliban bắn hồi tháng Mười năm ngoái, thành lập.
Cô Jolie có ba người con ruột và ba người con nuôi cùng với Brad Pitt.

CHO VÀ NHẬN


CHO VÀ NHẬN
( Hình ảnh Yahoo)

http://lh6.ggpht.com/-L9AFidrFS54/UYSBoCZRZCI/AAAAAAAApN4/PaL6LIb1R0E/s1600-h/old%2520pair%2520of%2520shoes%255B3%255D.jpg
Một hôm, một sinh viên trẻ có dịp  dạo chơi cùng giáo sư của mình. Vị giáo sư này vẫn thường được các sinh viên gọi thân mật là “người bạn của sinh viên” vì sự thân thiện và tốt bụng của ông đối với họ.
Trên đường đi, hai người chợt thấy một đôi giày cũ nằm ở giữa đường. Họ cho rằng đó là đôi giày của một nông dân nghèo làm việc ở  cánh đồng gần bên, và  người ấy đang chuẩn bị kết thúc ngày làm việc của mình.
Anh sinh viên quay sang nói với vị giáo sư: “Chúng ta hãy thử trêu chọc người nông dân xem sao. Em sẽ giấu đôi giày của ông ta rồi thầy và em cùng trốn vào sau những bụi cây kia để xem thái độ ông ta ra sao khi thấy bị mất giày.”
Vị giáo sư ngăn lại: “Này, anh bạn trẻ, chúng ta đừng bao giờ đem những người nghèo ra mà trêu chọc để mua vui cho bản thân. Nhưng em là một sinh viên khá giả, em có thể tìm cho mình một niềm vui lớn hơn nhiều nhờ vào người nông dân này đấy. Em hãv đặt một đồng tiền vào trong mỗi chiếc giày và chờ xem phản ứng ông ta ra sao.”
Người sinh viên làm như lời vị giáo sư chỉ dẫn, sau đó cả hai cùng trốn vào sau bụi cây gần đó.
Chẳng mấy chốc người nông dân đã xong việc và băng qua cánh đồng đến nơi đặt giày và áo khoác của mình. Vừa mặc áo khoác vừa xỏ chân vào một chiếc giày, bác nông dân bỗng cảm thấy có vật gì cứng cứng bên trong. Ông ta rút chân ra, cầm gìầy lên xem thì đó là một đồng tiền.

http://lh5.ggpht.com/-VIPIaE_fBWs/UYSBpNfsp0I/AAAAAAAApOI/_SVAhYOP7Zo/s1600-h/A%2520COIN%255B4%255D.jpg

Sự kinh ngạc bàng hoàng hiện rõ trên gương mặt ông. Ông ta chăm chú nhìn đồng tiền, lật hai mặt đồng tiền qua lại và ngắm nhìn thật kỹ. Rồi ông nhìn khắp xung quanh nhưng chẳng thấy ai. Lúc bấy giờ ông bỏ đồng tiền vào túi, và tiếp tục xỏ chân vào chiếc giày kia. Sự ngạc nhiên của ông dường như được nhân lên gấp bội, khi ông tìm thấy đồng tiền thứ hai bên trong chiếc giày. Với cảm xúc tràn ngập trong lòng, người nông dân quì xuống, ngước mặt lên trời và đọc to lời cảm tạ chân thành của mình. Ông bày tỏ sự cảm tạ đối với bàn tay vô hình nhưng hào phóng đã đem lại một món quà đúng lúc, cứu giúp gia đình ông khỏi cảnh túng quẫn người vợ bệnh tật không ai chăm sóc và đàn con đang thiếu ăn.
Anh sinh viên lặng người đi vì xúc động, nước mắt giàn giụa. Vị giáo sư lên tiếng: “Bây giờ em có cảm thấy vui hơn lúc trước nếu như em đem ông ta ra làm trò đùa không?” Người thanh niên trả lời: “Giáo sư đã dạy cho em một bài học mà em sẽ không bao giờ quên. Đến bây giờ em mới hiểu được ý nghĩa thật sự của câu nói mà trước đây em không hiểu: “Cho đi là hạnh phúc hơn nhận về”.

CÁM ƠN CUỘC SỐNG

http://lh3.ggpht.com/-PpCq3sfqOgk/UYSBp2vDIVI/AAAAAAAApOY/UOhkX5AIKDE/s1600-h/A%2520%2520HOMELESS%255B3%255D.jpg

*Nếu bạn thấy đêm nay khó ngủ – Cứ nghĩ đến những kẻ không nhà chẳng nệm ấm chăn êm.
*Nếu bạn gặp một ngày tồi tệ nơi làm việc – Hãy nghĩ đến những người đã mấy tháng nay không tìm được việc làm.
*Nếu bạn chán nản vì mối quan hệ xấu đi – Hãy nghĩ tới những kẻ không bao giờ biết hương vị của thương yêu và được người yêu thương lại.
*Nếu bạn buồn phiền vì thêm một cuối tuần vô vị trôi qua – Hãy nghĩ tới những người phụ nữ quẫn bách, quần quật cả ngày, suốt tuần không nghĩ, chỉ mong kiếm được chút tiền còm nuôi mấy miệng ăn.
*Nếu bạn hỏng xe dọc đường, phải cuốc bộ vài dặm mới tìm ra được người giúp đở – Hãy nghĩ tới những ai liệt cả đôi chân, luôn khao khát được bước đi như bạn.

http://lh6.ggpht.com/-67sG5C73CIw/UYSBquHHS6I/AAAAAAAApOo/A135HJZ5Z4c/s1600-h/tomb%2520of%2520a%2520%2520young%2520girl%255B3%255D.jpg


*Nếu bạn cảm thây đời mình bị mất mát và băn khoăn về ý nghĩa kiếp người – Xin bạn hãy biết ơn cuộc sống vì có nhiều người đã không được sống hết tuổi trẻ của mình để có những trải nghiệm như bạn.
*Nếu bạn cảm thấy mình là nạn nhân của những ai hay cay nghiệt, dốt nát, nhỏ nhen, nghi kỵ – Hãy nhớ rằng việc đời có khi còn tệ hại hơn thế rất nhiều.

*Nếu bạn quyết định chuyển những lời này đến một người bạn yêu mến, có thể bạn giúp cho ai đó một ngày thanh thản nhẹ nhàng./.

Tại sao người Công giáo cầu nguyện với các Thánh ?

Tại sao người Công giáo cầu nguyện với các Thánh ?

Cũng như các Kitô hữu, người Công giáo tin có sự sống đời sau, nhưng học cũng tin rằng mối quan hệ của chúng ta với các Kitô hữu khác không chấm dứt vì sự chết. Người Công giáo cầu nguyện với các thánh là nhận thức sự hiệp thông này.

*  Người Công giáo có tin là các thánh nên được tôn kính?

*  Tại sao người Công giáo cầu nguyện với các thánh?

*  Có khác nhau giữa cầu nguyện và tôn thờ?

Trả lời:

1. Hiệp thông với các thánh.

Cũng như các Kitô hữu khác, người Công giáo tin có sự sống sau sự chết. Họ sống tốt và chết trong niềm tin vào Đức Kitô sẽ được chia sẻ sự phục sinh của Ngài, như Kinh thánh đã cho chúng ta biết.
Khi sống với nhau trên trái đất với cương vị Kitô hữu, chúng ta cùng hiệp thông hoặc liên kết với nhau. Nhưng sự hiệp thông đó không chấm dứt cả khi chúng ta chết. Chúng ta tin rằng mọi Kitô hữu trên trời, chư thánh, vẫn hiệp thông với chúng ta còn trên dương thế. Như vậy, khi chúng ta xin bạn bè hoặc gia đình cầu nguyện cho chúng ta, chúng ta cũng có thể đến gần một vị thánh bằng lời cầu nguyện.

2. Sự khác nhau giữa cầu nguyện và tôn thờ.

Thật sai lầm khi nhiều Kitô hữu cho rằng người Công giáo không nên cầu nguyện với các thánh, chỉ nên cầu nguyện trực tiếp với Thiên Chúa. Một số người Công giáo phản ứng với cách phê bình này và tranh luận rằng chúng ta không cầu nguyện với các thánh mà cùng các thánh cầu nguyện.
Tuy nhiên, cả hai nhóm đều lẫn lộn với cầu nguyện và tôn thờ. Tôn thờ thực sự (ngược với sự sùng kính hoặc tôn kính) chỉ thuộc về Thiên Chúa, và chúng ta không bao giờ tôn thờ con người hoặc bất kỳ một thụ tạo nào mà chỉ tôn thờ Thiên Chúa. Nhưng khi sự tôn thờ có dạng cầu nguyện, như trong Thánh lễ và các nghi thức phụng vụ khác của giáo hội, không phải tất cả mọi lời cầu nguyện là sự tôn thờ. Khi chúng ta cầu nguyện với các thánh, chúng ta chỉ xin các ngài giúp đỡ chúng ta, bằng cách cầu nguyện với Thiên Chúa thay chúng ta, hoặc tạ ơn các ngài đã nguyện giúp cầu thay.

TRẦM THIÊN THU

(Chuyển ngữ từ Catholicism.about.com)

ĐỨC GIOAN PHAOLÔ II VÀ SỰ KIỆN PHATIMA

ĐỨC GIOAN PHAOLÔ II VÀ SỰ KIỆN PHATIMA

Tác giả: Lm JB Nguyễn Minh Hùng

Trong cuộc đời làm giáo hoàng của mình, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II cho thấy, ngài có một mối liên hệ mật thiết với sự kiện Phatima. Nhân dịp chuẩn bị mừng lễ Đức Mẹ Phatima, chúng ta dành một thoáng nhìn lại vài sự kiện nổi cộm liên quan đến Đức Mẹ Phatima, để từ đó, chúng ta nhận ra tình yêu của Mẹ Thiên Chúa, không chỉ nơi Đức Gioan Phaolô II mà còn trên cuộc đời từng người chúng ta.

I. BÍ MẬT PHATIMA.

Trước hết, ngày 26.6.2000, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II quyết định công khai hóa phần thứ ba (bí mật thứ ba) của sứ điệp Phatima – mà Đức Mẹ đã trao cho ba trẻ từ năm 1917 – bằng cách ủy quyền cho đức hồng y Joseph Ratzinger, Tổng trưởng Thánh Bộ Giáo lý Đức tin (sau này là giáo hoàng Bênêđictô XVI), công bố và giải thích cho toàn thể Hội Thánh (bí mật thứ nhất: mạc khải về hỏa ngục, bí mật thứ hai: mạc khải về chiến tranh thế giới lần II, đã được Đức Thánh Cha Piô XII công bố ngày 13.5.1942).

Nguyên văn bản dịch về bí mật thứ ba Fatima, do chính chị Lucia (một trong ba thị nhân nhìn thấy Đức Mẹ Phatima năm 1917) viết ngày 3 tháng 1 năm 1944 như sau:

“Con viết ra trong sự vâng lời Ngài, lạy Thiên Chúa của con, Ngài ra lệnh cho con làm việc nầy qua Ðức Giám Mục của giáo phận Leiria, và qua Ðức Maria, Mẹ Chúa và là Mẹ của con.

Sau hai phần (bí mật Fatima I và II ) mà con đã nói ra, chúng con đã nhìn thấy phía bên trái của Ðức Mẹ, và hơi cao hơn một chút, một Thiên Thần cầm một gươm lửa nơi tay trái; gươm nầy chớp sáng và chiếu ra những tia lửa dường như thể muốn đốt rụi thế giới; nhưng những tia lửa nầy bị tắt đi, khi gặp phải ánh sáng phát ra từ tay phải của Ðức Mẹ chỉ về phía Thiên Thần; Tay mặt của vị Thiên Thần chỉ vào trái đất, và vị Thiên Thần nói lớn: Ðền tội, Ðền tội, Ðền tội! Và chúng con đã nhìn thấy trong một ánh sáng bao la là Thiên Chúa: “một cái gì giống như thể người ta xuất hiện trong tấm gương khi họ đi ngang qua nó” một vị Giám Mục mặc Áo trắng, “chúng con có cảm giác như thể đó chính là Ðức Thánh Cha”. Nhiều vị giám mục khác nữa, những Linh Mục, những tu sĩ nam nữ, đang leo lên một núi dốc cao, trên chóp núi nầy có một cây Thập Giá lớn có thân sần sùi, giống như thể bằng cây sồi có vỏ cứng; trước khi lên đến nơi, Ðức Thánh Cha đi ngang qua một thành phố lớn phân nửa đã bị tàn phá và phân nửa bị rung động, Ðức Thánh Cha bước đi run rẩy, chịu đau đớn và sầu muộn, Ngài cầu nguyện cho những linh hồn của các người chết mà ngài gặp trên đường; khi lên đến chóp núi, quỳ gối phủ phục dưới chân Thập Giá lớn, ngài bị giết bởi một toán lính cầm súng bắn vào ngài và phóng các mủi tên vào ngài; và cũng bằng cách thức như vậy, hết người nầy đến người khác, các Giám Mục, linh mục, tu sĩ nam nữ và nhiều giáo dân thuộc hàng ngủ và địa vị khác nhau, cũng lần lượt bị giết chết nơi đó. Bên dưới hai cánh của Thập Giá, có hai Thiên Thần, mỗi vị cầm nơi tay một bình thủy tinh, trong đó các vị hứng máu của những người tử đạo, và dùng máu nầy rảy lên các linh hồn đang tiến lên gần Thiên Chúa”.

Đức Gioan Phaolô II tin rằng, mạc khải thứ ba của bí mật Phatima liên quan đến chính bản thân ngài. Đó là lời tiên tri của Đức Mẹ dành cho Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II: Hình ảnh vị “Giám mục áo trắng” chịu đau khổ và run rẫy, rồi bị bắn khi đang cố gắng tiến về phía thánh giá Chúa Kitô, đó là hình ảnh ngài bị giết vào ngày 31.5.1981.

II. TIN VÀO ĐỨC MẸ PHATIMA.

Trong cuộc bị mưu sát ngày 31.5.1981 tại Quảng trường thánh Phêrô, dù bị bắn đến bốn phát súng 9mm, và hai phát súng trúng thẳng vào người Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, nhưng Đức Thánh Cha không chết, Người bị thương nặng và đổ gục xuống giữa cả một rừng người đang được người tiếp kiến.

Chính kẻ bắn vào Đức Thánh Cha cũng hết sức ngạc nhiên, anh ta không thể hiểu được vì sao Đức Thánh Cha không chết. Sự kiện lạ thường ngoài sức tưởng tượng này, đã xảy ra đúng vào ngày kính nhớ Đức Mẹ hiện ra lần đầu tiên với ba trẻ ở Phatima, khiến Đức Thánh Cha nghĩ ngay đến Người Mẹ trên trời dấu yêu. Đức Thánh Cha kết luận: “Một người bắn, nhưng một người khác hướng dẫn đường đạn”. Và Đức Thánh Cha thêm: “Đức Mẹ Maria đã cứu sống tôi”.

Do sự kiện trên, đúng một năm sau ngày bị ám sát, Đức Thánh Cha đã hành hương đến Phatima để tạ ơn Đức Mẹ. Cũng vì thế, kể từ năm 2002, Đức Thánh Cha công bố ngày 13.5 hàng năm trở thành ngày lễ kính Đức Mẹ Phatima.

Cuộc đời của vị Giáo Hoàng thời danh Gioan Phaolô II, là một cuộc đời gắn kết mật thiết với Đức Nữ Trinh Maria, để cùng với Mẹ, tiến về Chúa Giêsu Kitô, con Mẹ. Bởi đó, nhìn vào cuộc đời của Đức Thánh Cha, ta không sợ sai lầm khi khẳng định: Người là vị Giáo Hoàng của Đức Mẹ, của riêng Đức Mẹ. Người đã làm tất cả mọi điều có thể để dâng kính Đức Maria, từ huy hiệu Giám mục, sau đó là huy hiệu Giáo Hoàng có khắc chữ “M”, chữ cái đầu của thánh danh Đức Mẹ, rồi khẩu hiệu Giám mục và Giáo Hoàng “Totus Tuus”, để nói lên lòng mong mỏi được Đức Mẹ cùng đồng hành, và phó thác cho Đức Mẹ đời mục tử của mình, đến sự kiện biểu lộ lòng biết ơn Đức Trinh Nữ, khi đặt lên chiếc triều thiên của tượng Đức Mẹ tại đền thánh Phatima ngày 13.5.1982, viên đạn lấy ra từ thân thể sau khi bị ám sát hụt, như một lời khẳng định với thế giới: Đức Mẹ đã che chở người thoát chết.

Càng tiến xa hơn nữa trong nghĩa cử tỏ lộ lòng yêu mến Nữ Vương Phatima, đó là cuộc hành hương cảm tạ tại đền thánh Phatima ngày 13.5.2000. Dịp này, Đức Thánh Cha còn nâng hai trẻ có liên quan trong sự kiện Phatima đã qua đời là Phanxicô và Giacinta lên bậc chân phước. Hành động phong chân phước những vị thánh trẻ này còn quan trọng hơn bất cứ lời khẳng định nào: Đức Mẹ đã thực sự hiện ra tại Phatima mà các thánh trẻ ấy là những thị nhân tỏ tường của Đức Mẹ, nay được vinh danh tren bàn thờ Hội Thánh.

Cũng trong ngày này, Đức Thánh Cha đã đặt dưới chân tượng Đức Mẹ Phatima chiếc nhẫn Giám mục quý giá do đức cố hồng y Stefan Wyszynski, Tổng giám mục thành Kracow dâng tặng lúc người được bầu làm Giáo hoàng ngày 16.10.1979. Như vậy, một lần nữa, Đức Thánh Cha tái khẳng định: Chính Đức Trinh Nữ Maria mới là người làm chủ triều đại giáo hoàng của người. Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II là người con thật hiếu thảo, thật hoàn hảo, thật xứng đáng với tình yêu của Mẹ trên trời, Đấng mà người chọn làm bổn mạng trong suốt quảng đời làm mục tử, nhất là trong 26 năm rưỡi trên chức vị giáo hoàng.

Bằng những biểu lộ đức tin vào sự kiện Phatima, Đức Thánh Cha còn cho thấy tình thương cao cả của Đức Mẹ dành cho đoàn con trần thế. Bởi năm 1917 là năm mà chiến tranh thế giới lần thứ nhất (1914-1918), bước vào giai đoạn đỉnh điểm khốc liệt. Những cuộc tàn phá, đau khổ, chết chóc, tù đày… diễn ra khắp nơi. Sự viếng thăm của Đức Mẹ tại Phatima nói lên hết tất cả tình yêu của Mẹ Thiên Quốc đối với đoàn con trần thế đang lâm cảnh tối tăm, u uất, đớn đau là cả một niềm yên ủi, một ơn ban bình an, một sức mạnh lớn giúp đoàn con vượt thử thách.

III. KẾT LUẬN.

Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II là tấm gương cho chúng ta về lòng yêu mến Đức Mẹ. Suốt đời, ngài đã sống và hoạt động vì danh Chúa để làm người con thảo hiếu của Đức Mẹ. Đức Thánh Cha muốn hiến dâng mình hoàn toàn cho Đức Mẹ. Khẩu hiệu Giám mục, và sau đó trở thành khẩu hiệu Giáo hoàng của ngài: Totus Tuus! (Tất cả con thuộc về Mẹ!) đã nói lên tất cả niềm tín thác và lòng yêu mến của ngài với Đức Mẹ. Ngài đã để cho Đức Mẹ lèo lái, dẫn dắt cuộc đời và sứ vụ của ngài. Ngài nhìn thấy thành quả mà Đức Mẹ thực hiện nơi tâm hồn chìm đắm trong cầu nguyện và suy tư của ngài. Ngài không rời xa Đức Mẹ. Ngài để cho Đức Mẹ chủ động trong công tác cai quảng Hội Thánh, để dù vui hay buồn, thành công hay thất bại, ngài có niềm an ủi thiêng liêng lớn lao từ người Mẹ trời cao diệu ngọt và ấm áp ấy.

Chúng ta hãy theo gương Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II mà yêu mến và hết lòng tin tưởng nơi Đức Mẹ. Hãy vững tin rằng, bất cứ ai phó mình cho Đức Mẹ, kẻ ấy không bao giờ thất vọng. Đức Mẹ là nguồn an ủi khi ta gặp phải thương đau. Đức Mẹ là chỗ dự vững chắc trên con đường trần giang gập ghềnh. Đức Mẹ là ánh sáng khi đời ta bị bao vây bởi sự tăm tối của thù ghét, bạo lực. Đức Mẹ là chỗ dựa khi ta rã rời, mệt mỏi. Đức Mẹ sẽ làm cho ta thêm tin vào Chúa, thêm hy vọng vào tình yêu của Chúa, khi đời ta phủ đầy nghi nan, thất vọng. Đức Mẹ sẽ dạy ta trên hành trình làm người, để suốt cuộc đời làm người, ta biết chọn lựa những gì hợp thánh ý Chúa. Đức Mẹ sẽ dẫn dắt ta đi, để không khi nào ta trật đường, sai phạm, và mất lòng Chúa…

Chúng ta hãy sống với Đức Mẹ từng phút giây đời ta, để mãi mãi ta không bao giờ mồ côi, nhưng luôn có Đức Mẹ là nhà bảo trợ, là chủ bàu cử cho ta trước tòa Chúa.

Có Đức Mẹ ta không còn sợ gì. Có Đức Mẹ ta sẽ chiến thắng mọi kẻ thù nơi trần thế. Có Đức Mẹ, Người sẽ là sức mạnh không hề lay chuyển của ta…

Lm. JB NGUYỄN MINH HÙNG