“Nhắc làm chi? Ôi! nhắc làm chi nữa?”

“Nhắc làm chi? Ôi! nhắc làm chi nữa?”

“Em đi rồi, mưa gió suốt trang thơ.”
(dẫn từ thơ Đinh Hùng)

Lc 18: 1-8

Cũng có thể, nhà thơ từng bảo thế. Cũng rất đúng, lời dụ ngôn kể vị chánh-án nói như vậy.

Dụ ngôn hôm nay, thánh-sử Luca ghi lại lời của chánh án từng phán-quyết cũng rất thật. Sự thật ở dụ ngôn vẫn rất thực, ở mọi thời. Thời buổi ấy, lại thấy vị chánh án từng chán ngán cảnh tội nhân cứ đeo bám quấy rầy như dịch tễ, để đòi cho được một phán quyết rất công minh. Ngôn ngữ đời thường đều diễn-tả chuyện đeo bám như dịch-tễ là những quấy rầy/phiền hà, thường khó tránh.

Tiếng Do thái, mô-tả cảnh-tình này lại mang ý-nghĩa của một phiền-hà khiến người trong cuộc thành vô dụng. Phiền hà, là chuyện mà người trong cuộc cứ quấy rầy đòi mãi một chuyện mà chẳng ai muốn dính líu, giải quyết. Sách Isaya ở đoạn 7 câu 13 cũng có lời tương-tự: “Nghe đây, hỡi nhà Đa-vít! Các ngươi làm phiền thiên-hạ chưa đủ sao, mà còn muốn làm phiền cả Thiên Chúa?”

Vấn đề ở đây, là hỏi rằng: đối nghịch động-thái quấy rầy/phiền hà và đeo bám là có ý gì?

Cũng có thể, đối chọi chuyện phiền hà đeo bám, là: chuyện trò thân mật với ai đó, cho đời vui. Và, điều đối chọi giữa “lải nhải” với “quấy rầy” là “chuyện trò thân mật”, rất thật tâm. Đúng thế, hình-thức đổi-trao giữa hai người bằng lời nói, vẫn là chuyện vui/buồn thường ngày ở khắp chốn. Bởi, một khi đã nói năng, nếu không là chuyện trò thân mật, thì chắc phải là động-thái lải nhải, quấy rầy như dịch tễ thôi.

Về chuyện trò thân mật, thánh Bênêđíchtô từng qui-định với anh em Dòng mình, là: bất cứ anh em nào một khi đã tuyên hứa trước mặt Chúa và Bề trên rằng: mình quyết sống ổn định, chuyện trò/trao đổi suốt đời với anh em và tuyệt đối tuân phục đấng lãnh đạo nhà Dòng, cả ba điều này trở thành lời khấn hứa mang cùng ý nghĩa. Là thày dòng sống khắc khổ, là chấp-nhận sống trọn vẹn cuộc sống cộng-đoàn có đổi-trao. Nói như thế, thì: đây không là lời tuyên-khấn giữ thinh lặng suốt đời; và, cũng không là chọn lựa tồi đối với những ai sống đời tu trì bởi cộng-đoàn nhà Dòng đã đồng ý như thế.

Luật dòng Biển Đức viết bằng tiếng La-tinh lại đã thấy có cụm từ “hồi hướng trở về” thay cho chủ trương “chuyện trò trao đổi”, như vừa nói. Thông thường thì, tiếng La-tinh “cổ” rày diễn-tả việc “hồi hướng trở về” như sinh-hoạt quay vòng tròn có đổi thay, theo nghĩa luân-lý hoặc tu-đức. Thế nhưng, bản gốc luật này do chính thánh Bênêđíchtô lập ra, đã nhấn mạnh đến việc cần thiết phải chuyện trò/trao đổi chứ không phải chỉ mỗi “hồi hướng trở về”, với Đạo Chúa.

Với tiếng La-tinh “cổ”, thì: chuyện trò/trao đổi có nghĩa: năng lui tới nơi nào đó, cứ quẩn quanh đến trò chuyện với những người hay đến nơi đó. Tự-vựng này, đi vào tiếng La-tinh của Kitô-hữu trước thời thánh Bênêđíchtô còn sống. Từ-vựng đây, diễn tả lối sống thông thường có quan-hệ mật-thiết với mọi người, và còn hiệp-thông giao dịch với mọi người khác nữa.

Điều này, còn có nghĩa: chung sống với người khác hoặc có liên-hệ mật-thiết với mọi người theo cung-cách không giống với kiểu của mình. Đây, còn là lối sống ít giống với cách sống của mình nhưng giống kiểu của người khác, nhiều hơn. Đây còn là: sự hiện-diện ở nơi nào đó để hoà trộn với người khác theo cung-cách nói năng/chuyện trò rập theo kiểu người khác, chứ không theo ý mình. Nói cho cùng, đây là yếu-tố chính của đồng hành, có tương-tác.

Theo nghĩa này, tốt hơn ta nên chuyện trò/đồng hành với nhau hơn là chỉ “hồi hướng trở về’ với thánh-hội, mà thôi. Bởi, cộng-đoàn Hội thánh ở đâu cũng thế, vẫn luôn đòi hỏi ta chuyện trò/đồng hành hơn chỉ quay trở về, mà thôi. Người tu trì, đồng hành chuyện trò với nhau, vẫn có thể không là nhóm “hồi hướng” quay về chốn cũ mà sinh sống. Họ là người biết chuyện vãn, giao du rất tế-nhị. Xem như thế, thì đồng hành trong chuyện trò mới là chuyện cần thiết cho đời tu.

Kinh thánh viết bằng tiếng Do thái, cũng có cụm-từ chỉ việc “hồi hướng trở về” như tự-vựng “shub” có nghĩa đen, để chỉ sự việc quay đầu trở lại, thôi. Thông thường, từ này là chỉ về cuộc sống quay vòng tròn nhưng lại có nghĩa gốc-gác nói về chuyến trở về sau bao ngày lưu vong/lưu đày chốn đất khách quê người. Việc này, còn có nghĩa: trở về với đất miền được Chúa phú ban cho riêng mình và mình quyết sẽ ở nơi đó mãi, chứ tuyệt nhiên không phải nơi nào khác. Nói theo tính cách linh thiêng có tương-quan, ta đã đi vào chốn “lưu vong/lưu đày” rồi, vẫn cần khám phá chốn miền thực thụ để mình sẽ về lại đó mà sinh sống.

Tân Ước cũng có cụm từ “hồi hướng trở về” tương tự như tự-vựng “epistrophe” ta có thói quen dịch là “hồi hướng”, cũng rất đúng. Thế nhưng, mỗi khi mô tả Chúa, sách Tân Ước của ta thích sử-dụng cụm từ “metanoia”. Lại nữa, ngôn-ngữ của ta cũng lại dịch cụm-từ này thành một “hồi hướng trở về”, giống như thế. Tuy nhiên, “metanoia” thực ra không có nghĩa “trở về” hay “trở lại” theo cung cách mà lâu nay ta vẫn tưởng.

Metanoia là điều được Chúa đòi-hỏi những ai dấn bước theo chân Ngài, phải làm thế. Cụm từ này, thường dịch thành động-thái “đổi mới tâm can”, nhưng không chỉ mỗi thế, mà còn hơn thế nữa. Tiếp-vĩ-ngữ “noia” ở chữ “meta-noia” xuất tự tiếng “nous” của Hy Lạp, mang ý-nghĩa: một hiểu biết thực-chất của những gì xảy đến và diễn biến theo chiều-hướng sâu-sắc. Suy cho kỹ, nếu ta đặt tiếp-đầu-ngữ “meta” ở trước chữ “nous” bên tiếng Hy Lạp, ta sẽ tạo ý-nghĩa: tư-thế của một người không biết được những gì đang diễn-tiến và cũng không tìm ra được ý-nghĩa của nó cho đến khi có ai đó đến giúp cho mình và mời mình học hỏi, lắng nghe cũng như đi vào một chuyện trò, còn tiếp-diễn.

Muốn hiểu “Metanoia” cho đúng, thì không thể gọi đó là cuộc “hồi hướng trở về”, được. Trao đổi với ai, như thế, phải hiểu như động-thái biết lắng-nghe, chuyện trò và cứ thế để hiệp-thông tiến-triển, rồi ra mơi thông-hiểu nhau hai chiều. Trong trao-đổi, luôn có đối-thoại tương-tác hầu tạo dựng bầu khí mới, tức: một giòng chảy xuyên suốt đượm nhiều nghĩa. Tức: bất cứ ai chủ-trương cho đi chính mình mình, trong trao-đổi/đối-thoại là mình tự cho chính mình cho người khác, dù không biết gì về “người khác” ấy, để rồi tìm cách hiểu biết người khác, có khác mình nhiều không, đó mới là đối thoại, đổi-trao.

Đối-thoại đổi trao, là cung-cách nhận thức không biết trước sự việc sẽ diễn-tiến ra sao. Tuy nhiên, lại giáp mặt tạo tình thưong-yêu thoải-mái và an toàn cho ta. Nó đòi cho được một thoải mái thích thú liên tục, không ràng buộc. Bởi, có thoải mái trong đối thoại/đổi trao, con người mới không tìm về những quấy rầy/phiền hà bất cứ ai.

Truyện dụ-ngôn hôm nay, tác giả Tin Mừng nói đến động-thái quấy rầy/phiền hà của bà goá nọ đối với vị thẩm-phán chẳng biết kính sợ Chúa cũng chẳng thiết tha gì chuyện lắng nghe người phàm. Chính đó là xu-hướng quấy rầy/phiền hà không thích-hợp cho một đối-thoại/đổi trao rất thực. Quấy rầy/phiền hà không có chân đứng trong đối thoại/đổi trao. Bởi, nó luôn là rào cản là nói một chiều, chẳng cần nghe ai nói. Là, đòi hỏi mãi không dứt từ một người không biết đến đổi trao, đối thoại. Trong sống đời thực tế, động-thái đối thoại lành mạnh, linh đạo vẫn cần thiết hơn một hồi hướng trở về, mà vẫn thế.

Điều này cũng có thể áp-dụng cho tương-quan ta có với Chúa. Đối đầu quan hệ với Chúa không thể có chuyện quấy rầy phiền hà được, bởi Chúa đã cho tất cả mọi sự từ trước, thế nên ta không cần đòi thêm gì nữa hết. Cũng không cần có cố gắng để “hồi hướng trở về” mà chẳng đổi thay động thái rất đòi và hỏi đủ thứ. Tương quan đối-thoại với Chúa, cũng phải biết là Chúa đã tặng ban cho ta hết mọi thứ ta cần đến.

Giờ đây, ta không cần làm hết sức mình, bằng một “hồi hướng trở về” để khám phá ra Chúa, bởi chính Ngài đã khám phá ra ta từ hồi nào, rồi. Nay, chỉ cần ta đi vào với đối thoại/đổi trao thật mật-thiết với Đấng từng thương yêu ta trước. Chỉ cần ta biết nói lời “cảm tạ” Chúa, tự khắc Ngài sẽ đón chào ta trong vui mừng, thôi.

Bởi, Chúa từng nói với ta là: Ngài rất chán ngán với những người suốt ngày cứ nguyện cầu bằng đường lối quấy rầy/phiền, những là: “Lạy Chúa! Lạy Chúa!” để “hồi hướng trở về” mà lại không có được cuộc chuyện trò thân mật, thoải mái như bạn Đồng Hành, trong yêu thương. Chúa vẫn từng dạy ta hãy có lời khấn-nguyền đi vào chuyện trò mật thiết với Ngài và Ngài đã hứa chẳng khi nào làm phiền ta hết.

Giả như Chúa cũng đầu hàng chúng ta và/hoặc bà goá nọ –như hành xử của vị thẩm phán trong truyện dụ ngôn vừa kể- ta có nghĩ rằng Chúa sẽ làm ít đi chỉ để cho con người “hồi hướng trở về” với Ngài mà thôi, không? Hay, Ngài những muốn ta luôn có cuộc chuyện trò thoải-mái, mật thiết với Ngài? Câu trả lời dành cho mỗi người trong ta, là như thế.

Trong cảm-nhận tính bức thiết của một chuyện trò thoải mái với Chúa, với mọi người, cũng nên ngâm tiếp lời thơ trên, rằng:

“Nhắc làm chi? Ôi! Nhắc làm chi nữa?

Em đi rồi, mưa gió suốt trang thơ.

Mây lìa ngàn, e lệ cánh chim thu.

Con bướm ép thoát hồn mơ giấc ngủ.”

Nhà thơ nay không nhắc làm chi nữa, vì nàng thơ nay đã đi rồi, “mưa gió suốt trang thơ.” Nhưng nhà Đạo, lại cứ nhắc lại những chuyện tương tự truyện dụ ngôn hôm nay ở trình thuật, để còn nhớ. Nhớ, mà chuyện trò thân mật với Chúa, hơn là chỉ đòi và hỏi nơi Chúa đủ mọi điều, chẳng thiết thực.

Lm Nguyễn Đức Vinh Sanh

Mai Tá lược dịch

Chuyện Phiếm đọc trong tuần thứ 31 mùa thuờng niên năm C 03-11-2013

Hãy cứ vui chơi cuộc đời”
Ðừng cuồng điên mơ trăm năm sau
còn đây em ngọt ngào
Ðứng bên ngày yêu dấu
Nhìn mây trôi đang tìm về núi cao
(Trịnh Công Sơn – Hãy Cứ Vui Như Mọi Ngày)

(Mt 5: 12/Rm 12: 15-18)

Nếu bạn và tôi ta lại tưởng rằng: người viết nhạc bản ở đây từng lấy ý/từ thi-ca của nữ sĩ họ Hồ nổi tiếng nọ, e không ổn. Nhưng, nếu lại bảo ý/lời đó cũng tương tự như lời khuyên của sách Diễm Ca ở Cựu Ước, thì xin bạn và xin tôi, ta tiếp tục bàn và luận mang đôi chút “phiếm lọan”, rồi dẫn người đọc vào với Lời vàng của thánh nhân hiền lành, thật cũng nên.

Nên hay không, vẫn cứ xin tôi và xin bạn, ta cứ mạnh dạn mà bàn/mà luận, kệ những lời ca nghe rất quen chỉ để khích lệ những người thấy cuộc đời mình khá buồn chán, chẳng thiết gì kể cả chuyện sống Đạo, hoặc chăm nom cuộc sống cho hạnh đạo, nhiều thú vị.

Với những vị thấy đời mình không còn hứng thú, chí ít là khi cận kề tuổi 7, 8 bó như bầy tôi đây thì có hát trăm ngàn câu như sau, cũng chẳng lay động được nỗi lòng “con quốc quốc” hoặc “cái gia gia”, làm gì cho cam:

“Hãy cứ vui chơi cuộc đời.
Dù ngày mai em như chim bay
Bỏ quên đây một người
Hát bên trời gian dối
dù ta như con đường dài vắng người
Hãy cứ vui chơi cuộc đời
Hãy cứ vui như mọi ngày
Bên trời còn nắng lá trời còn xanh
Phố còn người đông rồi quên rồi quên.”
(Trịnh Công Sơn – bđd)

Giả như người viết nhạc, nay còn sống, hẳn nhiều bạn bè quẩn quanh với cuộc sống như tôi hoặc ai đó, có lẽ cũng sẽ hỏi rằng: có nên hát theo anh, theo em những lời cuối, rất khích lệ một lập trường, như sau:

“Hãy cứ vui như mọi ngày
Dù chiều nay không ai qua đây
hỏi thăm tôi một lời
vẫn yên chờ đêm tới
Lòng ta trăm con hạc gầy vút bay
(Trịnh Công Sơn – bđd)

Dẫn nhập một lời có hơi “bốc” thế rồi, nay bần đạo lại sẽ xin bạn và xin tôi, ta đi vào vấn đề của nhà Đạo, mà cùng với một số các đấng bậc trong Đạo, cứ hỏi rằng: Đạo mình nay có Đấng Chủ Quản ở trên cao tít ấy cũng rất mới mẻ và năng nổ đã tạo được sức sống vui tươi, hấp dẫn cho thánh Hội không? Đã phóng khoáng hơn hay vẫn bảo thủ? Thì, đây là một trong những câu trả lời rất “tương đối”, như sau:

“Chắc chắn với thời gian chúng ta sẽ còn thấy những ưu tiên mới mà Giáo Hội sẽ đưa lên hàng đầu, nhưng về câu hỏi liệu Giáo Hội có thể ‘phóng khoáng’ hay ‘bảo thủ’ hơn thì câu trả lời chắc chắn là Không!

‘Phóng Khoáng’ (Liberal) và ‘Bảo Thủ’ (Conservative) là những ý niệm chính trị mà từ lâu đã không bao giờ phù hợp với quan điểm cuả Giáo Hội.

Tại Mỹ và Châu Âu thì khuynh hướng phóng khoáng có nghiã là ‘phá thai tự do’, ‘hôn nhân đồng tính’, là những hành động mà Giáo Hội chống. Tuy nhiên những chủ trương như ‘giúp đỡ lao động’ để tạo ra ‘công bằng xã hội’, giúp người di cư, ‘cải thiện y tế’ là những việc mà Giáo Hội cổ võ.

Trái lại khuynh hướng bảo thủ cũng có những điều thuận và nghịch với Giáo Hội. ‘Bảo vệ gia đình’, ‘phò sự sống’, ‘bảo vệ luân lý’ là những điều phù hợp với đạo lý cuả Giáo Hội, trái lại những chủ trương như ‘phò thương mại’, ‘chống nghiệp đoàn’, ‘chống di cư’, ‘khai thác thiên nhiên tự do’ là những điều ngược với Giáo Hội.

Vì thế mà chúng ta thấy Giáo Hội hầu như lúc nào cũng có một sự gì để than phiền về một chính quyền, dù là bảo thủ hay phóng khoáng. Thí dụ khi còn là Hồng Y, Đức Thánh Cha đã ‘đụng chạm’ khá nhiều với chính quyền bảo thủ Cristina Fernandez de Kirchner hiện tại cuả Argentina. Bên Brazil, Giáo Hội đang lên tiếng phản đối chính quyền phóng khoáng Dilma Rousseff vì những chính sách phá thai. Còn ở Mỹ thì Giáo Hội đang kiện ra toà chính quyền cuả Obama vì tội ‘hạn chế tự do tôn giáo’.

Cho nên, tuy Giáo Hội dạy phải tuân phục quyền bính dân sự, nhưng với tư cách là ‘thầy dạy luân lý’, Giáo Hội sẽ lên tiếng chống lại mọi sự ác khi nó xảy ra.

Vì không hiểu như vậy cho nên gần đây cả hai phe bảo thủ và phóng khoáng đã đồng thanh lên tiếng ca ngợi những lời tuyên bố cuả Đức Thánh Cha và tự cho là mình đã chiến thắng.” (x. Trần Mạnh Trác, Nguyên nhân những tranh cãi chung quanh các bài phỏng vấn của Đức Giáo Hoàng, www.Vietcatholic.org/News/Html/116521.htm  10/10/2013)

Hỏi chuyện về nhà Đạo, hôm nay, thì cũng chỉ dám hỏi như thế, chứ người hỏi có lẽ cũng đã biết trước câu trả lời sẽ như thế nào, rồi. Hỏi về chuyện Đạo hoặc chuyện đi Đạo và sống đích-thực đời đi Đạo, còn là hỏi giống như cha/cố nhà xứ hỏi “con chiên” như sau:

“Úi chà! Còn gì quý bằng thấy ông đây quay trở về với giáo xứ đi lễ nhà thờ rất đều đặn. Cho cha hỏi một câu hỏi nhỏ, để rút kinh nghiệm mục vụ, có được không?

-Cha cứ tự nhiên như con cái Chúa. Con đây, nay sẵn sà trả lời Cha thôi!

-Thế ông đi nhà thờ trở lại như thế này, có phải là do Cha giảng hay hơn trước rất nhiều, phải thế không?

-Dạ thú thật với cha, là: mỗi lần nghe cha giảng, con cứ phải ra bên ngoài nhà thờ phì phà điếu thuốc cho đỡ thèm, chứ có biết cha giảng hay dở thế nào đâu! Sở dĩ con đi nhà thờ trở lại là do mụ vợ nhà con nó cứ càm ràm hoài, chịu không nổi!” (x. The Catholic Weekly, Parish Pump, 25/8/2013 tr. )

Hỏi về chuyện Đạo, còn là hỏi cha/hỏi cố xem đời đi Đạo: sao dạo này ra như hơi nản, cũng chán ngán, như người giáo dân ở huyện nhà Sydney cũng đã có câu hỏi vào tháng ngày mà Giáo hội quen gọi là “Tháng Mân Côi” về việc lần chuỗi hạt Mân Côi, đâu có gì vui, như sau:

“Thưa cha. Mới đây bọn con cố tạo lại thói quen tốt lành do cha mẹ để lại, là: tập cho con cháu quen đọc kinh tối có lần chuỗi Mân Côi, ngõ hầu hưởng ơn lành Chúa Mẹ ban từ việc này, thì hai đưa con của con, một lên 13 còn đứa kia mới 11, lại cứ bảo: “Đọc kinh lần chuỗi hoài ngán quá mẹ ạ!” Con cố tìm đủ mọi cách mà chẳng sao thuyết phục được bọn con nhỏ ngồi im mà đọc kinh, cho tốt. Thế nên, con viết thư này hỏi xem Cha có cách nào giúp con giải thích cho con của con chhúng hiểu về chuỗi Mân Côi, tốt lành là dường nào? Con kính biết ơn Cha rất nhiều.” (Câu hỏi từ một giáo dân nữ ở Sydney bối rối quá quên đề tên)

Ở đây nữa, khi đã hỏi cha/hỏi cố về chuyện Đạo rồi, thì cha/cố nào mà chẳng tìm cách trả lời/trả vốn để người hỏi được yên tâm. Và hôm nay, câu trả lời (mà không trả vốn) của vị cha/cố ở Sydney, vẫn như sau:

“Kinh nghiệm ở đời cho ta biết: trẻ con, đứa nào cũng nói như nhau khi chúng không muốn làm điều gì do người người lớn áp đặt, chỉ bảo. Thế nên, câu cửa miệng chúng vẫn bảo, là: “chán lắm cơ, mẹ ạ!” Biết bao lần dân con Đạo mình vẫn thường nghe câu cửa miệng của nhiều giáo hữu ở mọi nơi/mọi thời, rằng: Thánh lễ Misa, Đàng Thánh Giá và cả đến chuyện đi thăm ông/bà nội/ngoại hoặc bà con thân thuộc cao tuổi, đều là những việc cũng rất chán!

Rất nhiều chuyện, ta đều nói được như thế. Nhưng trước tiên, không nên và không thể coi Chuỗi Mân Côi, thánh lễ Misa hoặc thăm viếng người già.. là hình thái mang nặng tính cách giải trí, giải khuây được. Bởi các sinh hoạt hoặc sự việc này, chẳng bao giờ mang ý-nghĩa như thế cả. Giả như, ta có đi đến nơi này/chốn nọ để giải khuây đi nữa, thì cũng không thể nói ngay ra rằng: mình thấy nơi ấy, chốn nọ rất ngán ngẫm. Thế nhưng, nếu ta làm việc gì cốt giúp vui người nào hoặc làm việc gì rất có nghĩa hoặc ý tốt, thì cũng chẳng có gì khác biệt nếu đó là chuyện rất chán, nhưng ta lại vẫn làm.

Thế nên, đi thăm người thân thuộc nào mà cho dù mình thấy chán ngán, tức: chỉ muốn chứng tỏ cho họ thấy tình mình thương yêu; và khi ta chọn chủ đề nào đó ở trường học mà không thấy có gì thích thú, nhưng rất cần thiết cho toàn bộ công cuộc giáo dục khiến để ta nên người. Hoặc, công việc rửa chén/bát sau khi ăn và/hoặc ra sân sau làm vườn để vui lòng mẹ/cha là những đấng/những vị từng làm cho mình quá nhiều thứ dù mình không vui thú gì cho cam, nhưng vẫn làm. Cũng thế, trong tương quan mật-thiết với Chúa, ta vẫn làm những việc như đi nhà thờ dự lễ và lần chuỗi Mân Côi đọc kinh dài giờ, không phải để làm cho mình được vui, mà để chứng tỏ rằng: ta cảm kích những điều lành thánh Chúa ban cho ngõ hầu lớn lên trong tình thương yêu của Ngài.

Với chuỗi Mân Côi, chính Đức Mẹ đã yêu cầu/cổ võ ta thường xuyên lẫn chuỗi hạt. Vào lần hiện ra ở Lộ Đức năm 1858, chính Mẹ đã hiện ra với thánh nữ Bernadette trong tay Mẹ có tràng chuỗi và Mẹ đã cùng đọc kinh với thánh-nữ Bernadette ngay khi đó. Ở Fatima năm 1918, vào lần hiện ra đầu tiên ngày 13/5, tay Mẹ cũng cầm tràng hạt và bảo ba vị thánh trẻ hãy năng lần hạt Mân Côi, mỗi ngày. Lần sau, vào tháng 7 năm ấy, Mẹ cũng yêu cầu ba thánh trẻ hãy siêng năng lần chuỗi hạt Mân Côi để cầu nguyện cho hoà bình thế-giới và cho chiến tranh mau chấm dứt. Lần cuối cùng vào ngày 13 tháng Mười năm đó, Mẹ đã làm phép lạ cả thể về mặt trời quay, và cũng chính Mẹ cho biết Mẹ là “Mẹ Mân Côi” và Mẹ còn cho các thánh trẻ thấy ba tấm bảng/thị kiến diễn bày 3 mầu nhiệm “năm sự vui”, “năm sự thương” và “năm sự mừng” ở tràng hạt Mân Côi. Giả như ta chỉ thực thi điều Mẹ dạy để làm vui lòng Người Mẹ trên trời, là Đấng yêu thương ta hết mình và dạy ta làm thế, hẳn là ta vẫn làm thế dù cho việc ấy có chán ngán hay không.

Thế nhưng, lần chuỗi Mân Côi không chỉ làm Mẹ vui lòng mà thôi, nhưng ta còn hưởng được nhiều điều tốt lành do việc ấy đem đến. Trong lúc lẫn chuỗi, nếu ta suy gẫm các mầu nhiệm gợi ý trong đó, ta sẽ hiểu biết Đức Mẹ và Chúa của ta nhiều hơn. Nói cho cùng, thì các mầu nhiệm trong chuỗi Mân Côi để xét đến các sự kiện chính xảy ra trong đời của Chúa, từ lúc Mẹ cưu mang Chúa nơi cung lòng thánh thiện của Mẹ, rồi ngang qua thuở thiếu thời và cuộc đời công khai của Chúa ngang qua việc chịu khổ nhục, hành hạ cho đến chết và rồi Ngài lại đã phục sinh rất quang vinh vui hưởng vinh quang của Ngài cùng với Mẹ Ngài, và là Mẹ của ta.

Chính vì lý do như thế, mà toà thánh La Mã đã có Chỉ dẫn cho các Đức Giám Mục thực thi công cuộc mục vụ qua tông thư “Ecclesiae imago”, trong đó có nói: các Đức Giáo Hoàng đều khuyến khích con dân trong đạo hãy đọc kinh lần Chuỗi Mân Côi không ngừng nghỉ, là vì đó là bản tóm lược trọn vẹn Kinh thánh và đó còn là khuôn mẫu của việc sùng kính vẫn được Hội thánh khuyến khích mà các thánh của ta vẫn thực hiện.

Và, khi đã suy gẫm các mầu nhiệm mà chuỗi Mân Côi chuyển tại, ta sẽ không còn thấy đó là chuyện đáng chán. Trái lại, ta còn thấy việc này khá ngắn ngủi vì chỉ mất độ dăm ba phút để nghiệm suy một mầu nhiệm súc tích là thế. Nhằm biến cho việc suy gẫm này dễ thực hiện hơn, cũng nên tập trung suy-tư về khía cạnh nào đó của mầu nhiệm, coi đó như một nhân đức, bí tích, như chân lý hoặc lòng sùng kính từ đó ta có được.

Khi cùng đọc với con cái trong nhà, cũng nên yêu cầu các cháu xướng kinh và bắt đầu mầu nhiệm trước rồi đề nghị cả nhà sẽ quyết tâm thực thi mầu nhiệm nào đó thành hiện thực. Chẳng hạn như các cháu đề nghị: cả nhà đọc chục kinh này là để cầu nguyện cho hoà bình diễn ra ở Syria chẳng hạn, hoặc cho các trẻ em bị thất lạc vì chiến tranh, các trẻ mồ côi, đau yếu hoặc cho bà con thân thuộc vừa mới qua đời chẳng hạn có như thế các cháu mới thấy có chất xúc tác trong nguyện cầu, đọc kinh vì hiểu nhiều hơn, rõ hơn.

Cuối cùng, ai cũng thế, khi đã yêu thương người nào rồi, sẽ chẳng bao giờ thấy chán/ngán nói đi nói lại mãi chỉ một câu Anh yêu em/ Em yêu anh nhiều lắm. Nói nhiều như thế, cũng đâu bao giờ thấy chán, đâu nhỉ. Cũng thế, khi ta đã suy gẫm về cuộc đời rất đỗi yêu thương của Chúa và Đức Mẹ rồi, chắc chắn sẽ chẳng bao giờ thấy chán ngán hoặc buồn rầu hết. Cuối cùng, vấn đề chỉ là quyết tâm của mỗi người, mà thôi.” (x. Lm John Flader, The Catholic Weekly 13/10/2013, tr. 10)

Trích dẫn ở đây, người người những dẫn và trích cốt để nói lên rằng: Đấng quyền thế ở trên cao từng mang lại nhiều hứng khởi nơi cuộc sống cho cả triệu triệu người trên thế giới như Đức Giáo Hoàng của ta là thế, mà khi đã chấp nhận tham gia cuộc phỏng vấn của báo chí, cũng bị mang tiếng là người tạo “tranh cãi” về cuộc sống của thánh hội, ở trần thế. Nói như thế, có ý bảo rằng: có đặt vấn đề, vấn nạn hay sao đó, vẫn cứ mời bạn và mời tôi, ta cứ hát mãi câu ca rất “đời”, rằng:

Hãy cứ vui như mọi ngày
Nhìn người đi như mây vô danh
Dù chân xưa dặm nghìn
Vẫn như còn thấp thoáng
Dù trong ta đêm thì thầm tiếng buồn.”

(Trịnh Công Sơn – bđd)

Hát rồi hoặc nghe rồi, hãy nhớ lời Đấng Thánh Hiền từng khuyên dân con mọi người ở mọi nơi, rằng:

“Anh em hãy vui mừng hớn hở,

vì phần thưởng dành cho anh em

ở trên trời thật lớn lao.”

(Mt 5: 12)

Và thêm một câu khác, cũng từ “vị thánh của mọi thời” rất muốn vui, rằng:

“Hãy vui với người vui, khóc với người khóc.

Hãy đồng tâm nhất trí với nhau,

đừng tự cao tự đại, nhưng ham thích những gì hèn mọn.

Hãy làm tất cả những gì anh em có thể làm được,

để sống hoà thuận với mọi người.”

(Rm 12: 15-18)

Xem thế thì, hỡi bạn và hỡi tôi, ta chỉ có thể sống mà hát thêm, rằng: Hãy cứ vui như mọi ngày, nhìn người đi như mây vô danh.” Vô danh, hoặc có tên và có tuổi, vẫn là người anh, người chị của tôi/của bạn trong thánh Hội và xã hội, vẫn rất vui.

Xem thế thì, chân lý cuộc đời rõ ràng còn đó lời nhủ: “Hãy vui mừng hớn hở, vì phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao.” Lớn lao, to tát hơn nhiều niềm vui của người đời chỉ lo ăn chơi. Niềm vui đây, còn được diễn tả bằng văn/thơ truyện kể không theo kiểu của nữ sĩ họ Hồ rất mang tiếng, mà là lối kể cũng rất vui rất tâm tình khi kể về “cái chết” mà người người rất chán/ngán:

“Ông Tư bị ung thư và biết chắc không thể sống lâu hơn sáu tháng. Ông bình tĩnh chờ cái chết, và vui vẻ sống những ngày ngắn ngủi còn lại, mà không bi ai, không sợ hãi. Ông muốn sau khi chết, gia đình làm đám tang theo ý riêng của ông.

Nếu có ai biết ông Tư đang cận kề cái chết mà ái ngại cho ông, thì ông cười vui mà an ủi họ – chứ không phải là họ an ủi ông – rằng, nếu tin theo đạo Chúa, thì khi chết được về thiên đàng, ngồi dưới chân Chúa, sung sướng thế sao mà ai cũng sợ chết?

Nếu theo đạo Phật, thì khi chết cũng sẽ về Tây Phương Cực Lạc, vĩnh cửu an bình, thì mừng vui chứ sao lại bi ai? Và nếu nói theo đức Đạt Lai Lạt Ma, thì cái xác thân ở trần gian, có thể ví như bộ áo quần ta mang, khi nó đã sờn cũ, xấu xí, rách rưới mục nát rồi, thì nên bỏ đi, mà mang bộ áo quần khác, đại ý nói đi đầu thai kiếp khác, mang thân xác mới hơn.

Ông Tư nói với bạn rằng, thân xác ông bây giờ như cái quần đã mục mông, rách đáy, không còn che được cái muốn che, thì phải bỏ đi, không xài nữa là hơn.

Bởi vậy, ông bình tĩnh đón chờ cái chết cận kề. Khi biết ông bị ung thư sắp chết, thì phút đầu tiên, ông lặng người đi. Nhưng rất mau sau đó, ông nghĩ ra rằng bây giờ chỉ còn hai con đường để lựa chọn.

Một là rầu rĩ bi ai, than thân trách phận, oán thán trời đất, làm cho những ngày ngắn ngủi còn lại trở thành u ám, khổ sở, muộn phiền. Hai là bình tĩnh chấp nhận điều không thể tránh được với thái độ tích cực, lạc quan, vui vẻ. Làm cho những ngày còn lại thành tươi vui, tốt đẹp và ý nghĩa hơn. Khi ra đi sẽ không có chút tiếc thương vướng bận.

Ông chọn con đường sau, nên không buồn bã, không hoang mang, không bi ai. Ông thấy cuộc đời bỗng đáng yêu hơn, đẹp hơn. Ông mở lòng vui vẻ đón nhận từng thời khắc, từng ngày còn lại.

Mỗi sáng dậy, ông ca hát nhạc vui, và nói chuyện khôi hài cùng vợ con. Ông cố làm đẹp lòng mọi người, vì ông nghĩ rằng, sau khi nhắm mắt nằm xuống, thì dù có muốn tử tế với những người thân thương, cũng không còn làm được nữa.

Ông Tư dặn thêm vợ rằng đừng đăng báo, không đăng cáo phó gì cả. Đừng làm rộn, bận trí bà con gần xa, buộc họ phải thăm viếng. Không nên để phiền ai phúng điếu chia buồn. Ông đưa tờ báo cho bà, và nói:


Em nhìn vào mấy cái cáo phó nầy đây, đọc thấy buồn cười : Chúng tôi đau đớn báo tin cho thân bằng quyến thuộc: Ông Nguyễn Văn Mỗ đã được Chúa gọi về vào ngày , tháng, năm, hưởng thọ 82 tuổi… Được Chúa gọi thì phải vui mừng, sung sướng, chứ sao lại đau đớn báo tin ? Về với Chúa là khổ lắm sao? Có đi tù cải tạo đâu mà đau buồn?…”

Và, ông Tư dặn vợ con khi ông chết chỉ nên đưa bài thơ “Khi tôi chết” thay cho cáo phó. Thơ rằng:

Nếu làm biếng, cứ nằm nhà thoải mái
Viếng thăm chi, vài phút có thêm gì ?
Mắt đã nhắm. Lạnh thân. Da bầm tái .
Dẫu bôi son, trát phấn cũng thâm chì.

Tôi đi trước, hẹn gặp nhau ở đó,
Ai thay da mãi mãi sống trăm đời .
Kẻ trước người sau, xếp hàng xuống mộ
Biết đâu là khởi điểm cuộc rong chơi.

Nếu có khóc, khóc cho người còn lại,
Bởi từ nay thiếu vắng nỗi đầy vơi .
Cũng mất mát, dáng hình, lời thân ái
Tựa nương nhau, hụt hẫng giữa đất trời.

Đừng đăng báo, phân ưu lời cáo phó
Chuyện thường tình, phí giấy có ích chi ?
Gởi mua gạo, giúp người nghèo đói khó
Dịu đau buồn những kiếp sống hàn vi,

Trỗi nhạc vui cho người người ý thức,
Cuộc nhân sinh sống chết cũng tương đồng,
Khi nằm xuống, xuôi tay và nhắm mắt
Thì đau buồn hạnh phúc cũng hư không.

Đừng xây mộ, khắc bia ghi tên tuổi
Vài trăm năm hoang vắng, chẳng ai hoài .
Vũ trụ vô cùng, thời gian tiếp nối,
Tỉ tỉ người đã chết tự sơ khai.

Khi tôi chết đừng ma chay đình đám,
Hỏa thiêu tàn, tro xác gởi về quê
Dẫu bốn biển, cũng là nhà, bầu bạn
Trong tôi còn tha thiết chút tình mê.

Thì cũng C, H, O, N kết lại,
Nắm tro xương hài cốt khác nhau gì,
Nhưng đất mẹ chan hòa niềm thân ái,
Cho tôi về, dù cát bụi vô tri.

Đọc xong bài thơ, có người thì mỉm cười, có người vui hản, và nói chuyện oang oang. Họ cho rằng bài thơ đã nói hết ý nguyện của người chết. Người chết không muốn bạn bè buồn rầu, thương tiếc, thì việc chi mà lại làm bộ, gượng gạo tạo ra nét buồn khổ trên mặt.

Vợ con người chết cũng không tỏ vẻ buồn rầu, mà cũng không hớn hở. Không một tiếng khóc lóc, thở than. Nhạc vui vẫn dồn dập phát ra từ máy vang dội. Khi khách đã đến chật nhà, và đúng giờ cử hành tang lễ, bà vợ ông Tư và đứa con trai mang áo quần trắng đứng chắp tay bên bàn thờ, cô con gái đứng bên tấm ảnh ông, cầm máy vi âm nhoẻn miệng cười và nói :

-Thưa các cụ, cô bác chú dì, bà con bạn bè thân thiết xa gần, chúng tôi xin cám ơn quý vị đã có lòng đến viếng tang Ba chúng tôi. Tang lễ nầy làm theo ý nguyện của người quá cố. Không làm tang lễ theo tục lệ bình thường, vì sợ trái với ước vọng cuối cùng của Ba chúng tôi. Chúng tôi xin nhận lấy mọi lời trách móc nếu có từ bà con bạn bè.

Ba chúng tôi đã bình tĩnh và vui vẻ đón cái chết như một sự trở về không tránh được. Trong những ngày cuối của cuộc đời, Ba chúng tôi rất vui, chuẩn bị kỹ cho gia đình và cho chính ông. Ông đã dặn dò chúng tôi, không nên khóc lóc, không nên buồn rầu, vì sự thực không có chi đáng buồn cả. Ông dặn chúng tôi vặn cuốn băng sau đây cho bà con cô bác nghe.

Đọc thơ văn/cáo phó của “Ông Tư” ở trên, hẳn người đọc cũng thấm thía cuộc đời chỉ là thế, có mỗi thế. Mỗi thế thôi, nhưng hãy cứ vui lên nếu ta nhận ra rằng: mọi chuyện ở đời, cần nhất là vui!”. Bởi có vui, ta mới có thể sống và thực hiện mọi nguyện ước, kể cả ước nguyện làm dân con Đức Chúa Trời. ở mọi thời.

Trần Ngọc Mười Hai

Vẫn muốn vui chơi cuộc đời

nay hết thời.

NỢ LÀ MỘT QUÀ TẶNG

 

NỢ LÀ MỘT QUÀ TẶNG

Khi nói tới từ ‘Nợ’, có lẽ, ta vẫn nghĩ tới những món nợ: nợ ngân hàng bao nhiêu tiền, nợ gia đình này gia đình kia bao nhiêu ký thóc-ký gạo, nợ mấy ngày công mấy tháng lương, nợ người này người kia mấy cây vàng… Và có nợ thì phải lo để trả; trả không xong thì đâm lo lắng, buồn phiền, có khi mất ăn mất ngủ, thậm chí còn chạy để “trốn nợ”.  Như vậy, nợ ở đây như là một “gánh nặng” đè trên vai con người.

Đã gánh thì nặng là điều chắc chắn rồi!  Và khi trả được nợ ta như trút được một gánh nặng trên vai! Nhưng cái nợ cứ muốn kết bạn với ta; khổ nỗi ta thì chẳng muốn chút nào!  “Chả nhẽ” suốt cuộc đời này ta phải mang trên vai một “người bạn” mà ta chẳng hề quý, chẳng hề thích sao?  Giả như ta có “quẳng gánh nặng đi để vui sống” thì ta có thực sự vui, thực sự hết gánh nặng không?  Và lúc ấy ta là ai?  Ta không phải là một người trốn nợ sao?  Nếu vậy từ “trách nhiệm” trong cuộc đời còn ý nghĩa gì?

Nếu nợ là một gánh nặng, ngày sống của ta sẽ rất nặng nề, với hàng khối công việc, với những mệt mỏi về thể xác, với những người tôi chẳng hề muốn gặp nhưng vẫn cứ phải đối diện hàng ngày, với những “món quà” dù không muốn cũng phải nhận…

Thế nhưng, dù nợ có là gánh nặng nó cũng giúp ta biết sống trách nhiệm với cuộc đời: trách nhiệm với những điều ta đã làm, tức vay thì phải trả!  Ấy vậy, nếu chỉ dừng lại ở mức độ trách nhiệm với cuộc đời tức phải lo mà trả nợ thôi thì cuộc đời vẫn luôn là một gánh buồn phiền đung đưa trĩu nặng trên vai.

Cuộc đời sẽ bớt nặng, tươi vui và rực nắng hơn khi ta sống tâm tình ‘Nợ là một quà tặng’: Nợ một ánh mắt, một nụ cười; nợ một cái bắt tay, một lòng cảm thông,… nợ bạn bè, cha mẹ, người thân trong những lúc nâng đỡ sẻ chia vui buồn… nợ cái hơi ấm tuổi còn trong nôi…  Có khi là nợ một lời nói nhẹ nhàng, dễ thương và ngọt ngào của một ai đó…  Quả thực, cuộc sống luôn cho ta những món nợ như là những quà tặng.  Nếu ngày nào ta cũng sống với tâm tình “nợ” như là một món quà, là một sự trao tặng ta nhận được từ người yêu thương, chắc hẳn cuộc đời của ta thật đẹp, thật đáng quý và thật nhẹ nhàng!

Ấy vậy mà đi qua một con đường hoa đẹp, chiêm ngắm cảnh bình minh hay hoàng hôn, ngửi mùi hương nhè nhẹ của những cánh hoa vừa mới nở buổi sớm, tản mạn với nhau những câu chuyện đầu năm… có khi nào ta nghĩ mình đang nợ một ai đó ngoài tiền bạc không nhỉ?  Hay có khi nào ta nghĩ mình “nợ cuộc đời từng tia nắng mai” như nhạc sĩ Nguyễn Nhất Huy đã đặt tâm tình “nợ” của ông trên giai điệu bài hát “Vẫn nợ cuộc đời” không?

Vì cuộc đời “có những khi ước mơ chưa đầy mà đã vội vơi đi rồi”, nên nợ không chỉ cho ta thấy trách nhiệm nhưng còn là biết ơn cuộc đời! “Cảm ơn đời mỗi sáng mai thức dậy, ta có thêm một ngày nữa để yêu thương”; và “nếu còn một ngày để sống” tôi sẽ chọn một ngày sống với tâm tình biết ơn đời, “đời cho ta” biết bao điều cao đẹp!  Biết đâu chính khi ta biết ơn đời, ta sẽ có được một thái độ ngạc nhiên.  Ngạc nhiên để khám phá quà tặng cuộc đời.  Ngạc nhiên thấy “nợ” cho ta “liên hệ” gắn bó với cuộc đời, gần gũi với tha nhân!

Nắng Sớm

KIẾP NÀO YÊU CHÚA

KIẾP NÀO YÊU CHÚA

Tôma Đỗ Lộc Sơn

Cách đây 20 năm, gần nhà tôi có anh bạn trẻ, hễ đi làm về là cả xóm đều biết. Bởi vì: “Kiếp nào có yêu nhau, thì xin tìm đến mai sau….”. Bài hát của nhạc sĩ Phạm Duy lại vang lên từ chiếc máy cassette của anh, làm cả xóm phải “thưởng thức”.

Một hôm tôi đến làm quen, vờ thích bài hát này, mượn về nghe và để xem anh chàng này có “Bị” gì không. Rất may, vì anh ta chỉ có một băng nhạc nên nghe đi nghe lại chứ không có vấn đề gì. Tiện thể, tôi cho anh ta “Mượn” cuốn băng Thánh ca do ca sĩ Hoàng Oanh thể hiện (Đã thủ sẵn) đang thịnh hành lúc bấy giờ, ngay hôm đó, cả xóm được nghe nhạc Thánh .

Vài ngày sau, gặp lai anh và anh cho biết:

– Trước đây em chỉ có một cuốn băng nhạc vàng, nên em để nghe cho đỡ buồn, chứ thật ra em không tin những lời bài hát đó, không có kiếp này kiếp kia. Đời người Chúa chỉ cho sống có một lần. Từ hôm có cuốn Thánh ca anh cho mượn, em lại thích nghe nhạc Thánh, em lấy làm tiếc vì phải để hàng xóm nghe những bài hát ủy mị, không có thật .

Quả vậy. Thiên Chúa tạo dựng “Cỗ máy” con người cho mỗi người chỉ một lần trong đời ( Như động cơ máy). Cỗ máy con người này có linh hồn, biết đúng sai, phải trái để tự hoàn thiện bản thân mình. Trong thời gian vận hành, cỗ máy nào hỏng hóc sẽ được đưa về Gara luyện ngục, đại tu cũng chỉ một lần, sau cùng tất cả các cỗ máy được đưa về diện kiến Người Chủ sáng tạo ra mình.

Con người vì lầm lỗi, vì nuối tiếc những gì mình đã làm, những gì mình chưa làm, nên đã bấu víu vào những chuyện vô thường, tưởng tượng ra con đường đi có đoạn nối tiếp, để làm lại những gì mình làm sai, những gì mình chưa làm được.

“ Thầy là đường, là sự thật và là sự sống….”(Ga 14,6). Đó là lời khẳng định của Chúa Giêsu, Đấng đã được Chúa Cha “Người Chủ Sáng Tạo” sai đến để nói cho nhân loại biết được điều này, Ngài còn cho biết thêm “Ta và Cha Ta là một” có nghĩa là lời giáo huấn của Chúa Giêsu là lời của Đấng Sáng Tạo.

Rất tiếc, ngày nay có nhiều người công giáo giơ cao tay lên tuyên xưng là con của Chúa, nhưng không nghe hoặc hoài nghi Lời Chúa truyền dạy, bằng cách là xem bói toán, tin vào vận may số đề, vé số… vv.. Anh bạn trẻ kia khi đã biết và hiểu Lời Chúa, chắc chắn anh ta đã không nghe những bản nhạc vàng này, dù nghe cho đỡ buồn.

Lạy Chúa Giêsu, xin ban thêm ơn đức tin cho chúng con, để chúng con biết nghe và giữ Lời Chúa truyền dạy, không hoang mang những chuyện vô thường, kiếp này kiếp kia, để chúng con vững bước trên con đường tiến về Nhà Chúa. Amen.

Tôma Đỗ Lộc Sơn

Nổ kho thuốc pháo tại Phú Thọ, ít nhất 21 người chết

Nổ kho thuốc pháo tại Phú Thọ, ít nhất 21 người chết

RFA

12.10.2013

no-phu-tho-305.jpg

Ít nhất 21 người chết, hàng trăm người khác bị thương khi kho chứa thuốc pháo tại huyện Thanh Ba, tỉnh Phú Thọ bùng nổ vào lúc 7 giờ 55 phút sáng 12/10.

Screen capture

Ít nhất 21 người chết, hàng trăm người khác bị thương khi kho chứa thuốc pháo tại huyện Thanh Ba, tỉnh Phú Thọ bùng nổ vào lúc 7 giờ 55 phút sáng nay.

Theo tin từ AFP cho biết kho thuốc pháo thuộc sự quản lý của đơn vị Z121 của Bộ quốc phòng cách Hà Nội 120 cây số về hướng Bắc. Vụ nổ xảy ra vượt ngoài sự kiểm soát của lực lượng cứu hỏa cũng như cấp cứu trong nhiều giờ liền.

Một viên chức quân đội nói với hãng tin AFP có 21 người chết đã được xác nhận và 98 người khác bị thương, đa số bị bỏng vì lửa. Khoảng hơn 2.000 người dân sống gần khu vực đã phải di tản tránh lửa và các tai biến khác. Tất cả đều chạy về hướng Việt Trì, cách xa khu vực gần 40 cây số.

Theo các báo trong nước ghi nhận vụ nổ xảy ra trong khi có hơn 300 nhân công đang làm việc do đó số thương vong rất lớn. Nguyên nhân vụ nổ chưa được xác minh và các toán cứu hộ vẫn đang chờ cứu hỏa dập tắt lửa để tìm thêm thi thể nạn nhân.

Theo nhân chứng cho biết ngọn lửa bùng cao cách xa hiện trường hơn 15 cây số vẫn nhìn thấy. Tiếng nổ làm rung chuyển một khu vực chu vi hơn 10 cấy số và người dân rất hoảng loạn chạy trốn nhưng không được hướng dẫn phương hướng.

Hàng đoàn xe gắn máy kẹt cứng trên các con đường khiến xe cứu thương không thề làm việc. Bệnh viện huyện Thanh Ba đã quá tải và nạn nhân phải nằm chờ mang đi Việt Trì cấp cứu.

Đến 3 giờ chiều hôm nay theo thông tin từ bệnh viện đa khoa thị xã Phú Thọ đã có 200 ca cấp cứu từ biến cố này. Nhà máy Z121 thuộc Tổng cục Công Nghiệp Quốc phòng là nơi duy nhất sản xuất pháo hoa cho cả nước trong các dịp lễ lớn.

Năm 2010 một vụ nổ thuốc pháo tại sân vận động Mỹ Đình trong dịp lễ Ngàn năm Thăng Long đã khiến 4 người chết trong đó có ba người ngoại quốc.

Vụ nổ xảy ra ngay lúc lễ quốc tang đại tướng Võ Nguyên Giáp bắt đầu tại Hà Nội vào lúc 7 giờ 30 sáng hôm nay.

30 ĐIỀU GỢI Ý GIÚP XÉT MÌNH

30 ĐIỀU GỢI Ý GIÚP XÉT MÌNH

01. Chấp sự tầm thường của mình và không tìm cách vượt qua.

02. Sống không mục đích, buông trôi, thiếu cố gắng.

03. Ở lì trong tình trạng ấu trĩ về tri thức và tinh thần.

04. Bốc đồng, làm theo hứng, thiếu bàn hỏi, suy nghĩ, cầu nguyện.

05. Nhiều tham vọng nhưng lại không nhằm phục vụ tha nhân.

06. Thiếu can đảm để bênh vực chân lý và công lý.

07. Hạ mình khúm núm trước kẻ giàu có và quyền lực.

08. Bao giờ cũng tự cho là mình có lý.

09. Lo cho thân xác quá mức trong khi lại bê trễ phần linh hồn.

10. Yêu tha nhân một cách ích kỷ, chỉ đòi về mà không cho đi.

11. Không thiết gì đến việc thăng tiến tha nhân trong xã hội.

12. Biếng nhác, không làm việc mà vẫn hái ra tiền một cách dễ dàng.

13. Đòi hỏi trẻ em và người khác những điều mình không dám làm.

14. Không phát triển các khả năng tự nhiên để phục vụ.

15. Bo bo thành kiến, kỳ thị chủng tộc và giai cấp.

16. Phí phạm thời giờ và của cải của mình cũng như của người khác.

17. Thiếu tinh thần trọng của chung.

18. Không tỏ lòng xót thương người nghèo khó, bơ vơ tất bạt.

19. Dửng dưng vô cảm trước một đám tang.

0. Không bao giờ xin lỗi ai sau khi đã làm mích lòng họ.

21. Chẳng bao giờ biết lắng nghe người khác.

22. Không nhìn ra ưu điểm nơi người khác, chỉ dán mắt vào sở đắc của mình.

23. Hà tiện nụ cười và ánh mắt cảm thông.

24. Không yêu quý sinh vật, cỏ cây thiên nhiên là tạo vật của Chúa ban.

25. Không góp phần vào việc tông đồ, thừa sai rao giảng Tin Mừng.

26. Ngồi chờ phép lạ mà không tìm gặp Chúa trong các dấu chỉ thời đại.

27. Chỉ biết xin ơn này ơn nọ mà không biết cảm tạ ngợi khen Chúa.

28. Sống gian trá, giả hình, đeo mặt nạ, chỉ là Ki-tô hữu trên danh nghĩa.

29. Không để tâm trau dồi, trao đổi, học hỏi các kiến thức tôn giáo.

30. Thờ ơ, không chịu cầu nguyện trò chuyện với Chúa bao giờ.

Theo gợi ý của các Linh Mục SNAVET và LEBRET

Lời Hay Ý Đẹp

Lời Hay Ý Đẹp

“Trăm năm trước thì ta chưa gặp
Trăm năm sau biết gặp lại không!
Cuộc đời sắc sắc không không
Thôi thì hãy sống hết lòng với nhau”
(Sưu Tầm)

“Thinking is easy, acting is difficult, and to put one’s thoughts into action is the most difficult thing in the world.”
-Johann Wolfgang von Goethe-

CÂN NHẮC TRƯỚC KHI NÓI VỀ MỘT NGƯỜI KHÁC

CÂN NHẮC TRƯỚC KHI NÓI VỀ MỘT NGƯỜI KHÁC

Cung Nhật Thành lược dịch

Trong xã hội cổ đại Hy Lạp, Socrates (469 – 399 B.C.) thường được xem là một triết gia có kiến thức rộng rãi vì ông rất tự tin và khéo léo về sự hiểu biết của mình. Một hôm có thân hữu đến gặp nhà học giả nổi tiếng và nói với ông như sau:
– Tôi vừa nghe chuyện về một nguời bạn của ông, Socrates, tôi kể cho ông nghe nhé?
Socrates trả lời ngay:
– Khoan, khoan đã, tôi không muốn nghe gì hết trước khi ông vui lòng trả lời câu hỏi ngắn , tôi gọi nó là cuộc trắc nghiệm “Ba lần cân nhắc”…
– Ba Lần cân nhắc?
Socrates tiếp tục:
– Đúng vậy. Trước khi ông nói chuyện về người bạn của tôi cho tôi nghe, tốt nhất là tôi hỏi trước… Đầu tiên là cân nhắc Sự Thật, những gì mà ông sắp nói cho tôi nghe có đúng hay không?
– Không đâu, thật sự là tôi chỉ mới nghe người ta nói thôi và….
– Được rồi, như thế ông không biết chắc là chuyện sắp nói đúng hay sai. Thôi mình sang phần hai với sự cân nhắc về Tốt và Xấu. Tôi tin là những gì ông sắp nói về bạn tôi đều tốt đẹp cả…có đúng không nào…
– Ngược lại chỉ toàn xấu….
Socrates ngắt lời ngay ….”Ông muốn nói với tôi là bạn tôi có những chuyện không tốt nhưng ông lại không biết chắc chắn là chuyện ấy đúng hay sai phải không…. Thôi thì mình sang phần chót, cân nhắc về Lợi Ích của câu chuyện. Chuyện ông sắp nói về bạn tôi cho tôi nghe liệu có ích lợi gì cho tôi không ”……
– Không, không chắc đâu tôi nghĩ không ….
Socrates lắc đầu và kết luận:
– Nếu chuyện ông sắp nói cho tôi nghe về bạn tôi không đúng, không tốt và cũng chẳng ích lợi gì cho tôi hết….. Vậy ông nói với tôi làm gì cho phí thì giờ của cả hai?

Chuyện vui này cho chúng ta thấy tại sao Socrates có tiếng là học giả thông minh và khôn ngoan nhất trong cổ sử Hy Lạp. Socrates cũng nói cuộc sống là cần thiết nhưng cần thiết hơn nữa là phải sống như thế nào… và cuộc đời sẽ tốt đẹp hơn nếu chúng ta cố gắng sống tốt hơn với mọi người.

SƯU TẦM

Trung Quốc bắt giữ hai công dân Mỹ tại tỉnh Chiết Giang

Trung Quốc bắt giữ hai công dân Mỹ tại tỉnh Chiết Giang

Tiến sĩ vật lý Devra Marcus (G), luật sư Kody Kness (T) và vợ nhà ly khai Chu Ngu Phu (Zhu Yufu), trước nhà tù số 4 tỉnh Chiết Giang, Trung Quốc, ngày 12/10/2013

Tiến sĩ vật lý Devra Marcus (G), luật sư Kody Kness (T) và vợ nhà ly khai Chu Ngu Phu (Zhu Yufu), trước nhà tù số 4 tỉnh Chiết Giang, Trung Quốc, ngày 12/10/2013

(Ảnh: China Aid)

Trọng Nghĩa

RFI

Theo tổ chức bảo vệ nhân quyền China Aid, trụ sở tại Mỹ, vào hôm nay, 13/10/2013, chính quyền tỉnh Chiết Giang (miền đông Trung Quốc) đã bắt giữ hai công dân Mỹ khi họ tìm cách tiếp xúc với một nhà ly khai hiện bị cầm tù.

Nữ bác sĩ Devra Marcus, hành nghề tại Washington cùng người bạn đồng hành tên Kness Kody đã đến nhà tù tỉnh Chiết Giang để xin được gặp ông Chu Ngu Phu (Zhu Yufu) một nhà đấu tranh bảo vệ nhân quyền đang thọ án tù tại đây. Không những không được gặp tù nhân này, mà cả hai người khách Mỹ đều bị chính quyền nhà tù câu lưu.

Nhà ly khai Chu Ngu Phu đã bị kết án 7 năm tù vào tháng 02/2012 vì đã viết một bài thơ bị cáo buộc là mang nội dung « phản nghịch » khi kêu gọi người dân Trung Quốc tập hợp lại với nhau để tiếng nói của mình được lắng nghe. Nhân vật này đã bị buộc vào tội danh « kích động lật đổ » chính quyền.

Theo hãng tin Pháp AFP, bài thơ của ông Chu Người Phu có đoạn tạm dịch như sau : « Đã đến lúc hỡi người dân Trung Quốc ! Quảng trường là của mọi người… Đã đến lúc bạn dùng đôi chân để đến quảng trường biểu thị sự lựa chọn của mình ».

Lời bài thơ rõ ràng gợi lên Quảng trường Thiên An Môn tại Bắc Kinh, trung tâm của các cuộc biểu tình rầm rộ đòi dân chủ trong hai tháng 05 và 06/1989, vốn đã bị đàn áp đẫm máu và hiện đôi khi vẫn là nơi thực hiện các hành động phản đối riêng lẻ.

Về hai công dân Mỹ bị bắt, trong một thông báo công bố trước khi khởi hành, nữ bác sĩ Marcus đã công khai cho biết hai mục tiêu chuyến thăm Trung Quốc đầu tiên của bà : Nghiên cứu hội họa và khám bệnh cho ông Chu Ngu Phu.

Theo bà Marcus, bà đã nhận được thông tin theo đó ông Chu Ngu Phu, 60 tuổi, không được ăn uống và chăm sóc thuốc men đầy đủ và nhiều lần bị bất tỉnh. Bà viết : « Dựa trên thông tin đó tôi sợ rằng ông Chu Ngu Phu có thể bị chết do thiếu chăm sóc y tế và điều trị ».

Chính quyền Hoa Kỳ đã từng lên tiếng kêu gọi Bắc Kinh trả tự do cho nhà ly khai này cũng như tất cả các tù nhân khác bị kết án tù chỉ vì đã bày tỏ chính kiến ​​một cách ôn hòa.

G20 kêu gọi Mỹ khẩn cấp giải quyết khủng hoảng ngân sách

G20 kêu gọi Mỹ khẩn cấp giải quyết khủng hoảng ngân sách

Tổng Giám đốc Quỹ Tiền tệ Quốc tế - IMF - Christine Lagarde, trong cuộc họp báo, tại Washington, 10/10/2013

Tổng Giám đốc Quỹ Tiền tệ Quốc tế – IMF – Christine Lagarde, trong cuộc họp báo, tại Washington, 10/10/2013

REUTERS

RFI

Cuộc họp toàn thể của Quỹ Tiền tệ Quốc tế và Ngân hàng Thế giới, ngày hôm qua, 11/10/2013, ở Washington, đã kêu gọi chính quyền Mỹ khẩn trương hành động, giải quyết cuộc khủng hoảng ngân sách.

Từ Washington, thông tín viên RFI Jean Louis Pourtet tường trình:

« Trong những cuộc họp kiểu như thế này, Hoa Kỳ thường có thói quen dạy dỗ các nước khác hơn là bị nhắc nhở. Thế nhưng, năm nay, Washington bị phê phán vì nhiều lý do khác nhau. Trong thông cáo, nhóm G20 tài chính đã đề nghị Hoa Kỳ « khẩn cấp hành động để giải quyết những bấp bênh về ngân sách trong ngắn hạn ». Tình trạng tê liệt ngân sách và mối đe dọa mất khả năng thanh toán của cường quốc số một 1 kinh tế làm cho cộng đồng tài chính quốc tế lo ngại.

Một lo lắng khác : Sắp sửa đến thời điểm chấm dứt chính sách kích thích hào phóng của Cục Dự trữ Liên bang, bơm 80 tỷ đô la mỗi tháng cho nền kinh tế. Giới đầu tư trước đây đã rút vốn ra khỏi các nước đang trỗi dậy, sẽ bị mất đi một nguồn tài chính quan trọng. Kể từ sau thông báo của ông Ben Kernanke vào mùa xuân vừa qua, các nước Châu Phi phải trả lãi cao hơn khi đi vay.

Trong thông cáo của mình, các Ngân hàng Trung ương của các nước Châu Phi lo ngại việc chấm dứt hỗ trợ tiền tệ, đã cảnh báo nguy cơ « làm trật đường ray » tiến trình phục hồi tăng trưởng trên thế giới. Hoa Kỳ còn bị nhóm G20 chỉ trích về việc chưa thông qua kế hoạch cải cách Quỹ Tiền tệ Quốc tế cho phép các nước đang trỗi dậy có trọng lượng hơn trong định chế này.

Về điểm phê phán thứ nhất, vào lúc cuộc khủng hoảng ngân sách bước sang ngày thứ 12, Nhà Trắng và đảng Cộng Hòa vẫn chưa đạt được một thỏa thuận. Tuy nhiên, dường như, cả hai bên tỏ quyết tâm tìm kiếm một thỏa hiệp để thoát ra khỏi tình trạng bế tắc. Song kết quả đạt được rất khiêm tốn : Từ 48 giờ qua, hai bên vẫn đang thương thuyết với nhau.

Tối Thứ Năm, Tổng thống Barack Obama đã tiếp các phái đoàn Thượng nghị sĩ và dân biểu của đảng Cộng Hòa. Nhiều người trong số họ bắt đầu thực sự lo ngại về tác động chính trị của cuộc khủng hoảng đối với đảng Cộng Hòa, bị coi là phải chịu trách nhiệm về tình trạng bế tắc hiện nay, theo như nhìn nhận của 60% dân Mỹ qua các cuộc thăm dò dư luận.

Hôm qua, Tổng thống Obama và Chủ tịch Hạ viện John Boehner đã nói chuyện với nhau qua điện thoại. Chủ tịch Hạ viện (thuộc đảng Cộng Hòa) đề xuất cho phép nâng mức trần của nợ công cho đến ngày 22/11/2013, nhưng không chấp nhận cho mở lại các cơ quan chính quyền Liên bang trừ phi đạt được thỏa thuận giảm một số chi phí công. Còn các Thượng nghị sĩ của đảng Cộng Hòa thì đề nghị nâng mức trần nợ từ nay đến đầu năm tới, chấm dứt việc đóng cửa các cơ quan chính quyền, đổi lại, thuế đánh vào một số thiết bị y tế sẽ bị xóa bỏ.

Chắc chắn là đề xuất của Thượng viện phù hợp với mong muốn của Tổng thống hơn, nhưng trong cả hai trường hợp, đảng Cộng Hòa đều đưa ra điều kiện khi bỏ phiếu chấp thuận giải quyết vấn đề nợ và ngân sách. Thế nhưng, Tổng thống Mỹ vẫn tuyên bố rằng ông chỉ bắt đầu đàm phán khi các dân biểu không được đưa ra các điều kiện tiên quyết để bỏ phiếu thông qua việc nâng mức trần nợ và cho mở cửa trở lại toàn bộ các cơ quan Liên bang.

Tuy nhiên, dưới áp lực của người dân, ngày càng tỏ thái độ bất bình, cả hai đảng Cộng Hòa và Dân Chủ đều đang cố gắng hơn để tìm kiếm lối thoái ra khỏi khủng hoảng ».

1,2 tỉ người trên thế giới sống trong cảnh cùng cực

1,2 tỉ người trên thế giới sống trong cảnh cùng cực

Chủ tịch Ngân hàng Thế giới Kim Yong Kim nói chuyện tại một cuộc họp báo

Chủ tịch Ngân hàng Thế giới Kim Yong Kim nói chuyện tại một cuộc họp báo

11.10.2013

Ngân hàng Thế giới, WB, nói mặc dù tốc độ xóa nghèo diễn ra nhanh chưa từng thấy trong những thập niên gần đây, song 1,2 tỉ người “vẫn chìm sâu trong cảnh cùng cực” trong năm 2010. Ngân hàng công bố bản báo cáo “Tình trạng người ngèo” hôm thứ năm để mở khai mạc cuộc họp hàng năm của Ngân hàng và Quỹ Tiền tệ Quốc tế IMF.

Giám đốc Ngân hàng Thế giới Jim Yong Kim cho biết ngân hàng có 2 mục tiêu chính – chấm dứt tình trạng nghèo khó cùng cực trước năm 2030 và thúc đẩy sự thịnh vượng chung ở các nước đang phát triển. Điều đó có nghĩa là cải thiện tăng trưởng kinh tế và bình đẳng cho nhóm 40% dân số từ dưới lên của một nước đang phát triển. Ông nói:

“Đạt được những mục tiêu này đã trở thành mục tiêu chính cho tổ chức của chúng ta. Tuần này Hội đồng quản trị Ngân hàng Thế giới sẽ xem xét một kế hoạch chi tiết cho việc chuyển đổi hoạt động, cấu trúc và văn hóa của chúng ta để có thể đạt được những mục tiêu. Đây là chiến lược đầu tiên tập hợp tất cả những tổ chức thuộc Nhóm Ngân hàng Thế giới dưới một khuôn khổ duy nhất để gặt hái kết quả.”

Tuần này, ngân hàng đã đặt một mục tiêu tạm thời mới, nhằm giảm tình trạng nghèo khó cùng cực xuống còn 9% trước năm 2020.

Báo cáo nói xóa bỏ nghèo khó cùng cực trong khoảng thời gian của một thế hệ là một “thách thức to lớn,” đòi hỏi phải có “sự hiểu biết thấu đáo về tình trạng của người nghèo.” Ông Kim nói:

“Chinh phục nạn nghèo đói là chuyện to lớn so với năng lực của chúng ta rất nhiều. Một phong trào toàn cầu, đang phát triển đã lớn mạnh khi các nhà lãnh đạo chính phủ, các tổ chức quốc tế và xã hội dân sự đoàn kết xung quanh mục tiêu trọng yếu này. Chiến lược của chúng ta là táo bạo vì thách thức rất to lớn. Hơn một tỉ người sống trong nghèo khó cùng cực, thu nhập 1,25 đô la một ngày hoặc ít hơn. Chúng ta phải hành động với sự cấp bách và lòng quyết tâm. Trong báo cáo “Tình trạng người nghèo”, chúng ta nhận thấy rằng 400 triệu người cực kỳ nghèo khó của thế giới trong năm 2010 là trẻ em.”

Ông nói người nghèo không thể chờ đợi tiến bộ từ từ xuất hiện mà họ cần được giúp đỡ ngay bây giờ:

“Khi nhìn lại hơn 30 năm qua, chúng ta thấy tiến bộ vượt bậc trong công tác xóa đói giảm nghèo. Theo báo cáo, ít hơn 700 triệu người sống trong cảnh nghèo khó cùng cực, ngay cả khi dân số thế giới tăng thêm 2,5 tỉ người. Ở những nơi như Ấn Độ và Trung Quốc, hàng trăm triệu người đã thoát khỏi cảnh nghèo khó cùng cực trong giai đoạn này. Tuy nhiên, trong số 35 nước nghèo nhất, 100 triệu người nghèo vẫn còn cực kỳ nghèo khó. Nhiều người sống trong nghèo khó cùng cực từ  hơn 30 năm qua.”

Báo cáo “Tình trạng người nghèo” nói 26 trong số 35 nước có thu nhập thấp trên thế giới là ở châu Phi.

Bác sĩ Kim cho biết nhiều người nghèo không được tiếp cận với nước sạch và điều kiện vệ sinh:

“Những người cực nghèo vẫn sống dưới mức 1,25 đô la một ngày như cách đây 30 năm. Và để thoát khỏi cảnh nghèo, những người nghèo ở nông thôn sẽ phải tăng thu nhập của họ nhanh hơn nhiều so với phần còn lại của các nước đang phát triển. Chiến lược của chúng ta sẽ giúp các nước nhận trợ giúp giải quyết vấn đề lớn nhất của họ, đó là tạo công ăn việc làm, chống biến đổi khí hậu, là những việc gây thiệt hại rất nhiều đối với người nghèo trên thế giới.  Ngoài ra, chúng ta cũng cần giúp họ đối mặt với các vấn đề bất ổn và xung đột.”

Báo cáo cho biết dù số lượng người nghèo phái nam và phái nữ bằng nhau, tình trạng nghèo khó vẫn còn chênh lệch về mặt giới tính. Người nữ trong độ tuổi từ 15 đến 30 có khoảng một năm ít học hơn những người nam nghèo cùng nhóm tuổi.

Giám đốc Ngân hàng Thế giới nói thêm, nếu các mục tiêu giảm nghèo được đáp ứng, cần phải có sự hỗ trợ vốn mạnh mẽ cho Hiệp hội Phát triển quốc tế, gọi tắt là IDA. IDA cung cấp các khoản vay cho các chương trình cải thiện tăng trưởng kinh tế và điều kiện sống. Ông Kim cho biết:

“Với sự hỗ trợ vốn mạnh mẽ, chúng tôi dự định sẽ tăng nguồn kinh phí của IDA cho những nước bất ổn và bị ảnh hưởng bởi xung đột đến mức 50 phần trăm trong ba năm tới. Chương trình của chúng ta cho các cuộc họp thường niên năm nay cho thấy ngân hàng tập trung vào nhiều  thách thức về phát triển quan trọng, chẳng hạn như biến đổi khí hậu, tiếp cận tài chính, năng lượng, vai trò của khu vực tư nhân và bình đẳng giới tính.”

Trong một tin tức có liên quan, IMF thông báo rằng các nước thành viên đã cam kết tài trợ cho Quỹ Giảm nghèo và Tăng trưởng.

Quỹ này giúp IMF cho các quốc gia có thu nhập thấp vay với lãi suất bằng không. Nguồn tài trợ cho Quỹ đến từ gần 4 tỉ đôla lợi nhuận do bán 403 tấn vàng dự trữ.

Mùa thu cuộc tình

Mùa thu cuộc tình

Tiểu Tử

Bữa ăn trưa đó của ông Năm thật giản dị : một trái cà tô-mát không dầu không dấm và một miếng thịt bò nhỏ bằng bàn tay nướng trên vỉ sắt không muối không bơ. Quá giản dị ! Nhứt là hôm nay thứ bảy, không phải đi làm. Nghĩa là có dư dả thì giờ để làm một món gì đó cho có vẻ một bữa ăn cuối tuần. Cho nó khác với ngày thường ăn vội ăn vàng cái gì cũng được. Thật quá giản dị ! Nhứt là ông Năm sống một mình, không bị phiền toái bởi những chuyện vụn vặt lỉnh-kỉnh phải làm vào cuối tuần của người có gia đình. Ở Paris này mà sống một mình như ông Năm thì thời gian không biết phải làm gì cho hết chớ đừng nói không có thì giờ để làm một bữa ăn cho tươm tất vào trưa thứ bảy.

Nói rằng ông Năm không biết làm bếp cũng không đúng. Hồi xưa, hồi còn ở bên nhà, thật tình ông Năm không biết chiên một cái trứng gà. Ông chỉ biết đi làm ngày hai buổi, còn việc bếp núc có bà Năm lo hết. Bây giờ thì khác. Ông cũng biết nấu vài món thông thường và lâu lâu cũng biết ” làm ” một nồi phở để đãi đôi ba ông bạn già  cùng lứa tuổi và cùng thân phận lưu vong…

Như bình thường thì trưa thứ bảy, ông hay thả xuống khu 13 la-cà ở nhà sách Khai Trí một lúc rồi sang qua mấy cửa hàng nho nhỏ trên lầu Paris Stores để coi có gì lạ không. Sau đó, ông mới tấp vô tiệm phở để ăn trưa, có khi một mình,nhưng thường thì với một vài người bạn gặp nhau ngoài phố. Ở khu 13 vào trưa thứ bảy, không gặp người này cũng gặp người nọ, bởi vì ai cũng đến đó để mua đồ, nói là ” đi chợ Tàu ” chớ thật ra là để tìm lại một chút gì hơi hướm của quê hương : những  khuôn mặt gần gũi (gặp ai cũng thấy quen quen !), những món hàng còn giữ nguyên nét cũ  (đòn chả lụa vẫn phải có màu xanh của lá, con vịt quay vẫn phải đỏ ao màu mật…) và những cái tên chỉ cần đọc lên là đủ để gợi nhớ…

Hồi sáng này, ông Năm cũng đã đóng bộ để đi khu 13. Trời đã sang thu, nhưng nắng còn thật ấm. Cây marronnier nhà hàng xóm nằm ngay dưới cửa sổ nhà ông Năm đã trở màu vàng. “Chắc lá đã rụng đầy”, ông Năm nghĩ vậy khi đứng thắt cravate gần khung cửa sổ. Chỗ ông cư ngụ là một studio nhỏ ở lầu ba khu nhà cũ nằm sâu phía sau nhà thờ Sacré Coeur. Cây marronnier che hết phía dưới thành ra từ cửa sổ nhà ông Năm nhìn thẳng ra chỉ thấy bức tường cao của khu nhà đối diện chắn ngang, chừa phía trên bầu trời bị đóng khung hình chữ nhựt bởi hai dẫy nhà dài. Trên nền trời đó, tuốt phía xa, là nóc nhà thờ với cây thánh giá. Thành ra, thế giới bên ngoài nhìn từ phòng ông Năm chỉ còn lại vỏn vẹn có cây thánh giá để cái nhìn còn có một điểm tựa ! Ông Năm theo đạo Phật, nhưng từ ngày dọn về đây – năm sáu năm gì rồi – cứ nhìn cây thánh giá riết mà ông có cảm tưởng như mình đã thành con chiên của Chúa ! Nhiều khi ông thấy cây thánh giá thật là sinh động. Ông không hay rằng niềm suy tư của ông đã gởi trên đó từ lâu…

Có lần, trong thư gởi về Việt Nam cho bà Năm, ông viết : “Anh thừơng nhìn cây thánh giá đứng cao vòi vọi một mình trên kia mà tự hỏi không biết anh và cây thánh giá, ai cô đơn hơn ai ? Nhưng cây thánh giá hãy còn giang tay ngạo-nghễ chớ anh thì từ lâu rồi anh đã buông tay đầu hàng số mệnh ! Tuy nhiên, ở đây anh còn có cây thánh giá trứơc mắt để hứơng về đó mà cầu nguyện, chớ ở bên nhà giờ đây muốn cầu nguyện em phải hứơng về đâu hả em ? Anh bỗng ứa nứơc mắt thương em vô cùng… Ở ngay trong lòng quê hương mà thiếu thốn đủ thứ, đến nỗi điểm tựa cho niềm tin mà còn không có thì em sống ra sao, em hả ?” Đối với ông Năm, cây thánh giá trên chót nhà thờ Sacré Coeur mặc nhiên đã trở thành một vật gì thật gần gũi, thật trần gian, thật ngừơi, và là động cơ khơi nguồn kỷ niệm…

Hồi xưa, ông làm việc cho Air France ở Sàigòn. Đời sống rất thoải mái, nhưng hai vợ chồng lại không có con. Chạy thầy chạy thuốc mãi rồi mới biết tại vì tử cung của bà Năm nằm lệch. Điều này làm bà Năm khóc hết nứơc mắt. Tuy nhiên, hồi đó còn trẻ nên cũng dễ nguôi, hai vợ chồng chẳng quan tâm cho lắm. Lần hồi, tuổi đời chồng chất, sự không có con đã trở thành một vấn đề cho hai vợ chồng. Mặc dù ông Năm không bao giờ nhắc đến chuyện đó, bà Năm vẫn khơi ra để nhận lỗi về mình. Mặc cảm đó làm cho bà lúc nào cũng ân hận, áy náy. Rồi cái gì hư, cái gì trật, cái gì bậy ở trong nhà dù là do lỗi những ngừơi giúp việc, bà cũng nhận hết. Ông Năm phải mất một thời gian dài để giải thích, khuyên lơn, an ủi bà Năm mới lấy lại đựơc quân bình. Có hôm, trong lúc hai vợ chồng đi dạo trên bãi biển Vũng Tàu, nhìn thấy mấy gia đình đông con đùa giỡn vui vẻ, bà Năm chợt thở dài than : “Nếu không phải tại em thì bây giờ hai đứa mình đâu có bơ vơ như vầy !”. Ông Năm choàng tay ôm vai vợ xoay ngừơi lại để nhìn sâu vào mắt : “Em à! Mình không có con, nhưng mình còn có nhau. Đó là Trời thương lắm rồi, em còn đòi hỏi gì nữa ? Thử tưởng tượng một ngày nào đó không còn có nhau nữa thì sao ?”. Bà Năm gật gật đầu nhưng chẳng bao giờ tưởng tượng đến “cái ngày không còn có nhau” đó.

Vậy mà cái ngày đó đã đến cho ông bà Năm. Hai năm sau ngày mất nước, trong chuyến vượt biên ở Cà Mau, ông Năm đi thoát, bà Năm bị bắt lại với một số người không may khác ! Ông Năm sang Pháp, làm việc lại cho hãng Air France. Bà Năm nằm tù hết mấy tháng. Được thả ra thì nhà cửa đã bị tịch thu, đành về quê ở Gò Công làm công nhân cho nhà máy xay lúa của gia đình mà trong đợt đánh tư sản đầu tiên, Nhà Nước đã tịch thu để biến thành hợp tác xã. Từ đó, là những chuỗi dài thương nhớ, là những lo âu dằn vặt, là những lá thư nhiều ẩn nghĩa cho đúng “văn phạm Nhà Nước”. Còn chuyện vượt biên lần nữa là chuyện mà bà Năm không bao giờ dám nghĩ đến ! Bên này, ông Năm chạy mãi rồi cũng được nhập cảnh gởi về, nhưng phía bà Năm thì gặp quá nhiều khó khăn trong hồ sơ xin xuất cảnh, cứ bị kéo dài, kéo dài bằng những chầu chực, bằng những lời hứa hẹn suông và bằng mấy lần bị lường gạt… Để cuối cùng, mấy năm sau, mới biết là hồ sơ đã bị bác từ lâu ! Tin đó đến với ông Năm bằng tờ giấy tập học trò vàng như giấy súc mà trên đó bà Năm chỉ còn đủ sức viết có mấy hàng… Vậy là vĩnh viễn không còn có nhau nữa ! Ông Năm mất tinh thần hết một thời gian dài. Sau đó, dọn về khu phố này tình cờ cửa sổ mở về hướng nhà thờ Sacré Coeur, để mỗi sáng trước khi đi làm ông nhìn cây thánh giá một lúc, giống như một tín đồ ngoan đạo…

Khi ông Năm mặc xong quần áo thì trời cũng đã gần trưa. Đốt điếu thuốc để lên môi, ông đóng cửa bước chậm rãi xuống cầu thang, giống như đo từng nấc thang một ! Thật ra, tại tánh ông Năm vốn đã trầm thêm tuổi đã gần sáu mươi bắt ông phải cẩn thận khi bước lên bước xuống. Ngoài ra, có gì phải vội phải gấp khi mà chẳng có ai đợi ai chờ ? Đi khu 13 vào trưa thứ bảy đã thành một thói quen, chẳng có gì phải náo nức. Bỗng nhiên, ông Năm nhận thấy cuộc đời mình sao thật vô vị. Giống như tờ giấy trắng mênh mông trải dài, thẳng băng, chẳng có một dòng mực, chẳng có một đốm màu, cũng chẳng có một vết hoen ố. Hình ảnh đó làm cho ông Năm dừng lại ở giữa cầu thang, ngẩn ngơ một lúc như vừa khám phá ra một điều gì quá rõ-rệt nằm ngay trước mắt mà sao lâu nay ông không nhận thấy ! “Mình đi làm đều đặn. Mỗi tuần xuống khu 13 cũng đều đặn vào trưa thứ bảy. Mỗi tối thứ hai đi ciné một lần vì giá vé hạ. Đêm nào cũng coi télé vào 8 giờ tối để theo dõi tin tức, rồi đọc sách đọc báo đến 11 giờ rưỡi là tắt đèn ngủ. Đều đặn. Đều đặn. Đến như cái cầu thang này, mình cũng đều đặn trèo xuống trèo lên đến nỗi biết nó có bốn mươi tám nấc ! Vậy rồi thôi ! Rồi cứ như vậy cho tới về hưu,tới chết !”. Ông Năm hít hơi thuốc thật sâu để thở khói ra thật dài. Ông làm mấy lần như vậy, giống như đang tìm một đáp số ! Rồi ông vỗ nhẹ bàn tay lên thành lan can gỗ, tự nhủ “Thôi ! Đừng nghĩ tới nữa” Ông tiếp tục bước xuống, nhưng bây giờ sao thấy bước chân nặng hơn hồi nãy nhiều…

Khi đi qua trước phòng gác-dang, có tiếng gọi :

– Ông Georges ! Ông Georges !

Georges cũng là tên của ông Năm. Người Pháp phát âm Năm thành Nam, nghe lơ lớ chói lỗ tai, nên ông lấy đại tên Georges cho dễ gọi dễ kêu. Bà gác-dang bước ra trao cho ông một điện tín, nói :

– Vừa mới tới. Tôi định lên nhà đưa cho ông thì ông xuống đây.

Ông Năm run tay mở bức điện tín. Giòng chữ ngắn ngủn hiện lên nhảy múa : “Đã có xuất cảnh. Lo vé máy bay cho em. Mai”. Điếu thuốc trên môi bỗng rơi xuống đất. Ông Năm có cảm giác như mình đang lên cơn sốt. Ông đọc lại điện tín một lần nữa, hai tay phải gồng cứng lại mới kềm được tờ giấy đứng yên căng thẳng dưới mắt. Ông nói cho mình nghe : “Đúng rồi ! Bả được xuất cảnh rồi !”. Bà gác-dang nghiêng đầu lo lắng :

– Có sao không ? Có chuyện gì không ? Ông Georges ?

Tiếng bà ta lôi ông Năm về thực tại. Ông nhìn bà ta, mỉm cười, rồi nắm lấy tay bà ta lắc mạnh :

– Cám ơn bà ! Cám ơn bà nhiều ! Tôi thật không biết nói gì cho phải. Bà thật tốt bụng ! Quá tốt bụng ! Cám ơn ! Cám ơn !

Giọng ông thật thành khẩn, làm như chính bà đã cho giấy xuất cảnh ! Bà ta không hiểu gì cả, vừa ngạc nhiên vừa buồn cười trước thái độ của ông Năm. Bà ấp úng “Nhưng mà… Nhưng mà…” trong lúc ông Năm buông bà ra để chạy lên cầu thang. Nữa chừng, sực nhớ ra, ông dừng lại nghiêng người nói vói xuống :

– Điện tín của vợ tôi ở Việt Nam. Bả nói bả sẽ qua đây ở với tôi ! Cám ơn ! Cám ơn nhiều !

Rồi ông phóng lên cầu thang, nhảy hai bậc một, nhanh như sóc, nhẹ như hưu. Làm như ông mới có hai mươi tuổi !

Vào phòng, ông ngã người lên giường, thở hổn hển. Cái tuổi hai mươi bất thần tìm lại chỉ đủ giúp ông trèo hết bốn mươi tám nấc thang thôi ! Một lúc sau, ông cầm điện tín lên, đọc lại một lần nữa. Thật rõ ràng mà ! Đây nè, hàng chữ không bỏ dấu “Da co xuat canh. Lo ve may bay cho em. Mai” Đọc là hiểu ngay ! Còn Mai là tên của bả rồi, chớ còn ai vô đây nữa ! Cái tên dễ thương mà mình đã thương từ mấy chục năm, không còn lộn với ai được. Vậy là chỉ còn có vé máy bay nữa là xong. Ông nhỏm người lên nhìn tấm lịch tháng treo gần đó để thấy rằng mình bỗng quên mất hôm nay là thứ bảy ! Vậy phải đợi thứ hai mới vào sở lo vụ này được. Ông lại nằm xuống. Dễ thôi ! Nhờ thằng Durand đánh cái télex là xong ngay. Ờ… nhưng mình cũng phải gởi cái điện tín về cho bả mừng. Tội nghiệp ! Không biết ai chạy lo cho bả cái xuất cảnh, chớ bả thì lo khỉ gì được với cái tánh hiền khô và nhát hít của bả. Nghĩ đến đó, ông Năm bỗng thấy thương vợ vô cùng. Cái người đàn bà hiền khô và nhát hít đó đã về làm vợ ông từ hơn ba mươi năm, trước sau như một, theo chồng như một cái bóng. Ngoài chuyện không có con, chẳng thấy bao giờ bà làm bận tâm ông. Con nhà giàu ở Gò Công, học ở Marie Curie, vậy mà cô gái có cái tên Trần thị Lệ Mai đó đã có một quan niệm sống thật cổ điển, thật Á đông. Và khi trở thành bà Trần văn Năm, luôn luôn bà đối xử với bên chồng thật vuông tròn và xem việc nội trợ như một thiên chức ! Hồi xưa, bạn bè vẫn nói là “thằng Năm trúng số độc đắc” hoặc “đẻ bọc điều mới có người vợ như vậy”. Ông thì nghĩ rằng tại vợ mình hiền khô và nhát hít nên chẳng dám làm phiền ai bao giờ. Có lẽ nhờ vậy mà ai cũng thương… Ông lại nhỏm dậy nhìn tấm lịch. Trên đó ông có ghi bằng marker đỏ con số 10 to bằng nửa bàn tay ở gốc trái. Vậy mà cũng đã mười năm xa nhau ! Mỗi năm mua lịch, mình ngồi nắn nót viết con số lên đó giống như người tù bị lưu đày ghi số năm mà mình biệt xứ. Có khác là người tù còn biết ngày được thả chớ còn mình thì mù tịt. Đã tưởng vĩnh viễn sống một mình rồi… chết cũng một mình trên đất lưu vong này, nào ngờ Trời còn thương mình nhiều quá !

Ông ngồi hẳn dậy đốt điếu thuốc, khói thuốc thật thơm thật ngọt. Vậy mà cũng đã mười năm xa nhau ! Mười năm… lâu lắm chớ ! Vậy mà sao vẫn thấy còn thương còn nhớ. Lạ quá ! Có phải như vậy người ta gọi là chung thủy hay không ! Rồi ông nhìn quanh. Nhà cửa thiệt là lượm thượm, phải dọn dẹp laị coi cho nó được một chút. Vậy là ông đứng lên đẩy ghế, đẩy bàn, quên mất là mình còn mặc bộ đồ lớn để đi khu 13 và làm như bà Năm sắp qua tới bây giờ ! Vừa làm vừa nói một mình, lâu lâu ông ngừng lại hít một hơi thuốc thật sảng khoái. Hai cái fauteuils này cho sát vào tường, kê gần nhau để cùng ngồi coi télé. Cái télé nằm đó được rồi. Cái bàn ăn nhích qua một chút để có chỗ kéo cái nệm dưới gầm giường ra. Bả trên giường, mình dưới đất, tạm ổn trong khi chờ đợi kiếm nhà khác rộng hơn. Cái tủ búp-phê đẩy tới một chút là nằm ngang với bàn ăn. Mẹ nó ! Coi vậy mà cũng nặng ớn ! Ông đứng lên thở hổn hển, nhìn quanh. Bây giờ coi có nét rồi đó. À ! Cái màn cửa sổ, phải tháo xuống đem giặt, cho nó “sáng” ra mới được. Rồi ông vào buồng tắm thay đồ. Đồ đạc ở đây thì sạch sẽ rồi, khỏi lo. À ! Còn cái tủ quần áo ở bên phòng ngoài nữa. Phải thu gọn lại cho có chỗ để bả để quần áo chớ ! Ông bỗng phì cười. Làm như mình sắp cưới vợ vậy ! Mà thiệt ! Sau mười năm xa cách, gặp lại nhau cũng giống như cưới nhau lần nữa chớ gì ! Ông soi gương chải lại tóc. Tóc mình mới có mấy sợi bạc thôi. Mặt mũi hãy còn “nét” lắm, ai mà nói mình sắp sáu mươi ? Cô dâu qua đây thấy chú rể như vầy là nhìn… rớt con mắt ! Ông Năm bỗng nghe lòng vui rộn rã, giống như tâm trạng ngày xưa, thuở còn trẻ, lúc sửa soạn đi đến nơi hẹn với người con gái tên Trần thị Lệ Mai…

…Vậy là trưa thứ bảy này ông Năm không thấy đói ! Tuy vậy, cũng phải “bỏ bụng” một cái gì,vì thói quen hơn là vì nhu cầu. Ông mở tủ lạnh lấy một trái cà tô-mát và một miếng thịt bò. Cà xắt khoanh, không dầu không dấm, thịt nướng trần trên vỉ sắt không muối không bơ. Làm cho “lấy có” và ăn cũng cho “lấy có”. Bởi vì tâm hồn ông đang mãi phiêu bồng ở đâu đâu xa lắm, hình như là ở Gò Công quê vợ, ở Gia Định quê mình, ở những ngày đầu “hai đứa gặp nhau” (Tiếng nói của tình yêu là một chuỗi dài im lặng !),ở rạp hát bóng Đại Nam là nơi “hai đứa hẹn hò” (Dù trời mưa anh cũng tới. Em nghe không ?), ở Đà Lạt ít lâu sau đó. Chao ôi ! Đẹp quá ! Dễ thương quá ! Tình yêu là cái gì mà sao mãi mãi vẫn còn nguyên, như mới hôm qua hôm kia…

-oOo-

Ông Năm lái xe lên phi trường Charles de Gaulle lần này là lần thứ hai. Hồi sáng, đã lên đó một lần, đợi cả tiếng đồng hồ để được thông báo là chuyến bay Air France từ Thái Lan qua sẽ đến trễ gần tám tiếng. Nhờ là nhân viên của hãng nên ông Năm được biết là máy bay bị trục trặc kỹ thuật ở Karachi. Trở về sở làm, ông ngồi đứng không yên, lâu lâu cứ nhìn đồng hồ. Bạn bè trong sở thấy vậy thương hại, mỗi người một câu an ủi trấn an. Có người ngồi lại gợi chuyện tán dóc cho ông đỡ thấy sốt ruột. Có người đặt tay lên vai ông bóp mạnh :

– Georges ! Đợi chờ nhau mười năm mà mày còn chịu nỗi huống gì chỉ có mấy tiếng đồng hồ nữa thôi. Can đảm lên chớ !

Vậy rồi thời gian cũng qua, chiều cũng xuống, để ông Năm lái xe đi phi trường, lòng náo nức xôn xao trong sự đợi chờ kỳ diệu.

Vào phi trường, ông gắn thẻ nhân viên lên ngực áo rồi đến quầy Air France hỏi thăm. Mô phật ! Lần này máy bay sẽ đến đúng giờ. Hai cô tiếp viên trong quầy không quen ông Năm nhưng thấy đeo thẻ Air France, nên cũng hỏi đẩy đưa :

– Ông chờ đón bạn à ?

Ông mỉm cười, vừa bước đi vừa trả lời :

– Không ! Tôi đón nhà tôi. Chào hai cô.

Phi trường giờ này nhiều chuyến bay cùng đến một lúc nên người đi kẻ lại tấp nập. Ông Năm ngồi uống cà phê, hút thuốc, nhìn thiên hạ. Ông thấy ai cũng dễ thương hết ! Ông muốn họ uống với ông một tách cà phê, hút với ông một điếu thuốc lá. Cà phê expresso thật ngon. Khói thuốc Dunhill thật ngọt. Tâm hồn ông Năm được trải rộng mênh mông…

Lại nghĩ đến bà Năm. Bả  điệu” lắm ! Lúc nào cũng sạch sẽ gọn ghẽ. Tóc lúc nào cũng chải gọn về phía sau rồi cuốn thành một vòng kẹp lại phía trên ót, thành ra khuôn mặt trái soan và cái cổ tròn lúc nào nhìn cũng rõ nét. Còn về quần áo thì bả chẳng bao giờ mặc loại có màu sắc sặc sỡ loè loẹt, luôn luôn hoặc đen hoặc xanh đậm và nếu có bông thì cũng phải tiệp màu với nền vải và hình dáng phải nhã nhặn, nho nhỏ tương xứng với tầm vóc của bả. Hà ! Bả hiền khô và nhát hít vậy mà về vấn đề ăn mặc bả khó dàng trời ! Người ta nói bả có “gout”. Mình cũng nghĩ như vậy, nhưng nếu bả không có thân hình đều đặn cân đối thì không biết cái “gout” để vào đâu cho nó nổi ! Ông hít một hơi thuốc dài sảng khoái. Hồi đó sao mà mình mê bả quá, nhứt là đôi bàn tay có ngón thon dài sang trọng và cặp mắt đen to như mắt đầm làm cho cái nhìn của bả lúc nào cũng có vẻ như ngạc nhiên. Điều lạ là sau này khi đã đứng tuổi, bả vẫn còn giữ nguyên đường nét thời con gái. Thành ra lắm khi nhìn bả, mình muốn trêu chọc bằng câu “Gái không con mà nom cũng mòn con mắt”, nhưng vì sợ bả buồn nên mình nín thinh luôn !

Ông Năm ngừng suy tư trên hình ảnh đẹp của bà vợ, mỉm cười vu vơ. Lại hút thuốc, lại nhìn thiên hạ. Hớp cà phê cuối cùng đã nguội ngắt mà sao vẫn còn thấy ngon lạ lùng. Bỗng ông bật cười. Sau bảy mươi lăm, sống với Việt Cộng mà bả vẫn tiếp tục “điệu” như thường ! Trong lúc người ta lôi quần áo cũ rách ra bận  và để mặt mũi tóc tai lôi thôi lếch thếch cho có “tác phong cách mạng” thì bả vẫn gọn ghẽ sạch sẽ như thường, vẫn chút đỉnh má hồng, chút đỉnh son, vẫn quần dài áo ngắn tươm tất, mặc dù phải đạp xe đi làm công nhân ở tổ may thêu xa bảy tám cây số. Mình hay trêu chọc bả bằng câu nói của Việt Cộng “Song chân lý ấy vẫn không bao giờ thay đổi”, bả cười không nói. Vậy mà có hôm, bả trả lời bằng một câu… xanh dờn : “Đàn bà phải biết tự trọng. Làm như mấy bà cách mạng tóc tai xủ xộp, quần áo xốc xếch rộng rinh hoặc ngắn ngủn như mặt đồ khín, em làm không được”…

Có tiếng nhạc chuông dìu dặt, tiếp theo là giọng bổng trầm của cô tiếp viên thông báo chuyến bay Air France số AF 199 đến từ Thái Lan đã đáp xuống sân bay. Ông Năm đứng lên trả tiền, xong đi vào phía trong qua ngã văn phòng trực của hãng. Ông nghe lòng vừa náo nức vừa hồi hộp giống như ngày xưa khi đứng chờ xem kết quả thi tú tài ! Ông ra đón tận cổng vào. Có hai chuyến bay đến từ hai nơi khác nhau nhưng đổ hành khách xuống cùng một lúc, nên sân bay đầy người. Giữa cái lao xao lộn xộn đó, ông Năm nghểnh cổ tìm vợ trong luồng người thoát ra từ cổng F, cổng của chuyến bay Air France.

Ông nhìn từng khuôn mặt, từng người. Ông nhìn, ông chớp mắt để nhìn cho rõ hơn. Những gương mặt Á đông phờ phạc. Những gương mặt Á đông hốc hác. Những gương mặt Á đông xanh xao. Ông nhìn, ông chờm tới, nhích tới để nhìn. Bả dễ nhìn lắm. Lúc nào cũng sạch sẽ gọn ghẽ. Lúc nào cũng điệu. Trong đám đông, bả nổi hơn người ta nhờ nước da trắng hồng của gương mặt trái soan và đôi mắt lớn, cho nên dễ nhận ra lắm. Không phải bà này. Bà này già quá cũng không phải. Bà này coi ngờ ngợ nhưng đi chung với bầy con nít, không phải bả. Ông nhón chân lên để cái nhìn được đưa ra xa thì tai thoáng nghe hình như có tiếng người gọi nhỏ : “Ông Năm !” Ông vẫn tiếp tục nhìn từng người, từng khuôn mặt. Lại có tiếng người gọi nhỏ, lần này tiếng gọi lạc đi : “Ông Năm…”

Nghe rõ có tiếng ai gọi mình, ông nhìn lại. Ngay phía trước, đứng cách ông chỉ mấy bước, người gọi ông là một bà già tóc muối tiêu hớt bom bê ngắn như mấy bà Tàu Chợ Lớn, mặc áo len nâu rộng thùng thình, ống tay dài phủ mất hai bàn tay đang xách mỗi bên một túi vải. Chỉ mới nhìn tới đó thôi, linh tánh bắt ông nhìn lại gương mặt : khuôn mặt gầy xạm nắng với những nếp nhăn trăng trắng ở khoé môi và đuôi mắt. Ngần đó thứ giống như miếng cau khô, chỉ trừ có hai con mắt là sinh động, là mở to như có vẻ ngạc nhiên, là nói lên, là nhắc nhở, là… là… Trời ơi ! Là vợ tôi đây mà ! Ông Năm nghẹn ngào bước tới, hai tay đưa về phía bà già và chỉ còn đủ sức gọi có một tiếng : “Mai !” Ông ôm lấy vợ mắt nhắm nghiền đau đớn. Tội nghiệp ! Người vợ chỉ dám gọi chồng bằng hai tiếng “Ông Năm” như người xa lạ, và chỉ dám gọi có hai lần. Và khi chồng nhìn ra mình, ôm chầm lấy mình, người vợ đó chỉ còn nói được bằng nước mắt !

Ông Năm buông vợ ra để nhìn lại lần nữa. Ông nghe nghẹn lời và nghẹn cả lòng. Ông chỉ còn nói được bằng hai bàn tay… Hai bàn tay vuốt làn tóc bạc bây giờ sao quá thẳng quá ngắn. Hai bàn tay ôm lấy khuôn mặt bây giờ sao không lấp đầy hai lòng bàn tay. Hai bàn tay đặt xuống bờ vai bóp nhẹ. Dưới lớp áo len, ông cảm rõ nét gầy của bờ vai bây giờ. Bây giờ… Hồi đó… Từ trong sâu thẳm của lòng ông, nỗi đau khổ tột cùng bỗng bật lên thành tiếng, một thứ tiếng nói lệch lạc méo mó vì uất nghẹn : “Sao vầy nè ?”. Rồi, không kềm chế nổi nữa, không cần giữ gìn ý tứ gì nữa, trong cái rừng người xào xạc đó, ông ôm lấy vợ, ngửa mặt lên trời thét lên một cách thống thiết : “Sao vầy nè… Trời ?”. Tiếng “Trời” nặng trĩu thoát ra từ lòng ngực ông như tất cả sinh lực trong người được trút ra hết… Rồi ông ôm lấy vợ, nước mắt ràn rụa. Bà Năm cũng khóc nhưng vẫn không buông rời hai cái túi vải. Hơn mười năm sống với Việt Cộng, đã trở thành một bản năng : nắm chặt, giữ chặt những gì còn thuộc về mình, những gì mà “tụi nó” chưa kịp chiếm lấy, cướp lấy !

Một lúc lâu sau, phải một lúc lâu sau, ông Năm mới lấy lại bình tĩnh. Ông nói :

– Thôi mình về đi em !

Tiếng “em” thật tự nhiên, thật nhẹ nhàng. Tiếng “em” mà đã mười năm, bà không còn nghe thấy ! Bà cắn môi để kềm xúc động, nhìn chồng mà đuôi mắt nheo lại mỉm cười. Bà nghe một cái gì mát rượi đang len vào lòng, một cái gì đã làm rơi mất từ hơn mười năm, bây giờ mới tìm gặp lại. Mãi đến bây giờ, ông Năm mới thấy trong đôi mắt vợ, nét cũ ngày xưa : to tròn như mắt đầm, trồng đen lay láy. Đôi mắt đó đang nhìn ông, cái nhìn ngời lên như muốn nói thật nhiều… Ông cúi xuống định xách hai túi vải. Bà Năm lắc đầu :

– Để em xách !

Tiếng “em  cũng thật tự nhiên thật nhẹ nhàng. Giọng nói thật dịu dàng, trong trẻo. Làm như nước mắt đã tẩy sạch dấu vết của mười năm…

Ông vói tay cầm lấy quai túi :

– Để anh xách cho.

Bà Năm vừa bước đi, vừa nói, tay vẫn nắm chặt hai túi vải :

– Không sao. Em xách được. Ở bển, em gánh lúa mỗi ngày cho nhà máy, có sao đâu.

Ông Năm bỗng nghe lòng quặn thắt. Thì ra “tụi nó” đày đọa bả đến nước đó ! Bả tội gì ? Tội gì ? Tội vượt biên ? Thì đã ở tù trên ba tháng rồi còn gì nữa ? Vậy tội gì ? Ông Năm nghiến cái câm thù trong răng để đừng chửi đổng, nhưng rồi ông cũng bật ra : “Quân khốn nạn !”

-oOo-

Về đến nhà thì trời đã xâm xẩm tối. Lần này thì chính ông Năm xách hai túi vải, đi trước dẫn đường, lòng vui như mở hội. Đến chân cầu thang, ông nói :

– Ở từng lầu ba lận. Em leo nổi không ?

Bà Năm trả lời, giọng vẫn trong trẻo :

– Gì không nổi ? Bây giờ em làm cái gì cũng nổi hết.

Rồi bà bước lên cầu thang, bước đều đặn. Ông Năm theo sau, nhìn dáng dấp nhỏ thó với mái tóc bạc hớt bom-bê cao ông bỗng thương vợ vô cùng. Mười năm… Mái tóc huyền mà ngày xưa hay kéo sát về phía sau để cuốn tròn kẹp gọn một vòng trên ót… bây giờ chỉ còn là như vầy ! Cái cổ tròn dẫn xuống bờ vai thon thon của hồi đó… bây giờ gầy nhom như vầy ! Mười năm… Chắc bả phải khổ ghê lắm, phải chịu đựng ghê lắm mới ra nông nỗi này ! Tội nghiệp ! Người đàn bà hiền khô và nhát hít đó chưa làm phiền lụy ai bao giờ, vậy mà Việt Cộng vẫn moi ra một cái cớ nào đó để hành hạ. Và như vậy suốt mười năm. Lam lũ quá nên bả già trước tuổi, chớ bả cũng còn giữ được cái nhìn, giọng nói và tâm hồn… những thứ mà Việt Cộng không cưỡng chiếm được !

Vào nhà, ông Năm bật đèn lên, bà Năm nhìn quanh mỉm cười, không nói. Ông Năm đặt hai túi lên bàn ăn, rồi cũng nhìn quanh :

– Nhà của anh đó. Nhỏ như cái lỗ mũi. Tạm một thời gian rồi mình sẽ kiếm nhà khác rộng hơn.

Bà Năm dịu dàng :

– Như vầy cũng được. Có hai đứa mà gì…

Bỗng nhiên hai người nhìn nhau. Tiếng “hai đứa” nhắc cho họ nhớ tới hoàn cảnh bây giờ, một hoàn cảnh mà từ lúc gặp lại nhau bao nhiêu thống hận dập dồn đã làm họ quên đi : bây giờ “hai đứa” vẫn còn có nhau, thật sự còn có nhau. Rồi sẽ không còn gì chia cách. Rồi sẽ đi bên nhau, đi hết đoạn đường còn lại, một đoạn đường không còn bao nhiêu xa… Bởi vì họ biết : họ đang bước vào mùa thu của cuộc đời… Cho nên họ nhìn nhau mà yêu thương dâng đầy trong mắt.

Bà Năm bước lại cửa sổ. Ngoài xa trên nền trời trắng đục, hiện lên thật rõ cây thánh giá và nóc nhà thờ Sacré Coeur. Bà Năm hỏi :

– Cây thánh giá này đây ?

Câu hỏi trống không nhưng hai người cùng hiểu : cây thánh giá mà ông Năm viết đi viết lại không biết bao nhiêu lần trong thư gởi về Việt Nam. Ông bước lại khoác vai vợ, gật gật đầu. Hai người yên lặng nhìn cây thánh giá như đang tạ ơn, giống như đang rước lễ, giống như cô dâu chú rể sau khi được kết hợp thành vợ chồng… Thời gian bỗng như dừng lại, để hình ảnh trở thành bất diệt, nói lên cái cao cả của tình yêu, cái huyền diệu của niềm tin… những thứ mà Việt Cộng muốn xoá bỏ để biến con người thành gỗ đá.

Một lúc lâu sao, bà Năm như sực tỉnh :

– Để em soạn đồ ra.

Rồi bà bước lại bàn mở hai túi vải. Ông Năm đốt điếu thuốc, khói thuốc lâng lâng nhẹ. Ông ngồi cạnh giường nhìn vợ soạn đồ bằng đôi bàn tay xạm nắng với những đường gân nổi lên ngoằn ngoèo. Đôi bàn tay đã từng có ngón tay thon dài khéo léo từ đường kim mũi chỉ… bây giờ là như vậy ! Ông thấy thương vợ vô cùng.

Bà Năm soạn đồ ra để trên bàn : vài bộ quần áo, mấy cái khăn lông, một cái mền nhỏ…

Vừa làm bà vừa nói :

– Có bao nhiêu, em đem theo hết. Nói là đi chánh thức chớ không biết lúc nào tụi nó bắt mình lại. Có nhiều người lên máy bay rồi mà còn bị lôi xuống, không biết vì cớ gì. Rồi khi được thả ra là trắng tay.

Bà lấy trong túi ra một khuôn hình, trao cho ông Năm :

– Em đem hình ông già bà già qua để lâu lâu mình thắp một cây nhang.

Ông Năm nhìn hình cha mẹ, lòng bồi hồi xúc động. Hình này, hồi đó, để trên bàn thờ nhà cũ. Nhà bị tịch thu, không hiểu bả làm sao lấy được để mang qua đây ? Ông đứng lên nhìn quanh, rồi treo khuôn hình lên cây đinh trên tường đối diện.

Có tiếng bà Năm nói :

– Em có đem qua cho anh chai rượu nếp than nữa. Nhớ hồi đó anh ưa lắm.

Ông quay lại, cầm chai lên mở nút. Chưa đặt miệng chai lên mũi mà mùi rượu ngọt ngào thơm phức tỏa ra thật nồng nàn. Ông hít một hơi dài, đóng nút lại, rồi nhìn chai rượu mà ứa nước mắt. Nỗi nhớ quê hương nằm sâu trong tìm thức, bây giờ, mùi rượu nếp than, màu rượu nếp than đã làm bật dậy, vô cùng mãnh liệt. Ông tưởng chừng như vừa hưởi thấy mùi thơm quê hương. Có mùi ngọt ngọt của lúa chín, có mùi nồng nồng của rơm của rạ, có mùi hăng hăng của đống un đốt cạnh chuồng trâu chuồng bò… Ông tưởng chừng như đang giữ trong tay một mảnh trời quen thuộc. Ở đó có màu tím lờn lợt của hoa bằng lăng, có màu tím nâu nâu của vỏ măng cụt, có màu tím học trò của trái mồng tơi, và những tà áo tím phất phơ theo gió qua cầu, với những chiều tím quê ngoại, đứng ngẩn ngơ bên sông Vàm Cỏ khi tuổi vừa mới lớn… Chao ơi ! Ngần đó thứ, tưởng quên nhưng vẫn nhớ. Ngần đó thứ bây giờ xa thật xa. Xa, không phải vì cách biệt, mà xa vì không còn thuộc về mình nữa !

Ông Năm cầm chai lắc lắc, bột nếp than tím ngát dợn lên trong lòng chai. Ông mở nút rót thẳng vào miệng một hớp. Chất rượu béo ngậy ngọt ngào cay cay nhắc ông nhớ những quán nhậu ở Hóc Môn, những món thịt rừng ở Biên Hoà, những con cá mú sửa kho tộ ở Vũng Tàu bãi sau bãi trước… Ông ngậm lấy hớp rượu để nghe rõ chất rượu đang thấm vào nướu răn, đang thấm vào các thớ thịt cổ, đang thấm lên nóc giọng, đang nồng lên mũi. Ôi ! Mùi vị quê hương là đây… ông không cầm được nước mắt !

Bà Năm vẫn âm thầm soạn đồ đạc. Bà hiểu ông Năm lắm và nghe thương chồng vô cùng. Tội nghiệp ! Mười năm xa quê hương…

Ông Năm vào phòng tắm rửa mặt rồi ra chỉ chỗ cho vợ xếp quần áo. Xong ông bảo :

– Anh đã làm sẵn mấy món ăn cho hai đứa. Để anh đem ra hâm. Em đặt bàn đi. Đồ đạc trong tủ búp-phê đó.

Bà Năm nghi ngờ :

– Anh mà làm bếp cái nỗi gì ? Mua ở tiệm thì có.

Ông Năm cười sảng khoái :

– Em lầm rồi ! Bây giờ, anh làm cái gì cũng được hết. Nấu bếp, giặt đồ, làm ménage … đủ thứ. Rồi em coi ! À… đặt bàn em nhớ để một dĩa sâu cho món súp légume và một dĩa trẹt cho món gà nấu rượu, nghe !

Bà Năm mỉm cười, thấy chồng sung sướng mà lòng cũng thênh thang trải rộng.

Một lúc sau, hai vợ chồng ngồi vào bàn ăn. Trên bàn cũng có hai cây nến. Cũng khăn trải bàn trắng phau, cũng khăn ăn màu xám lợt, cũng dĩa trắng chạy chỉ vàng, cũng nĩa dao cáng gỗ có nét vẽ cong cong nhè nhẹ. Và không quên hai ly rượu có chân, đựng chút rượu nếp than có màu tím đậm đà và hương thơm mời mọc.

Ông vui vẻ :

– Như vầy mới đúng là nuit de noces chứ, phải không em ?

Bà Năm nhìn chồng không nói, nhưng vành tai bỗng đỏ bừng. Bà nói lảng :

– Súp ngon chớ ! Anh học nấu ở đâu vậy ?

Ông để ngón tay trỏ lên môi, vẻ bí mật :

– Hùm… Không nói đâu ! Ông Tiên người Tàu chuyên nấu đồ Tây chỉ đó, dặn anh đừng nói cho ai biết !

Rồi cả hai cùng cười vì hình ảnh ngộ nghĩnh đó, cái cười hồn nhiên tìm lại sau mười năm xa nhau…

Bữa ăn kéo dài bằng những chuyện kể cho nhau nghe, nhớ đâu kể đó, không mạch lạc đầu đuôi, bởi vì trong thời gian mười năm có biết bao nhiêu sự việc đã xảy ra để mà nhớ cặn kẽ cái nào sau cái nào trước ! Dọn dẹp xong thì trời đã khuya. Hai vợ chồng chia nhau, bà nằm trên giường, ông nằm trên nệm dưới đất.

Tắt đèn đã lâu mà hai người vẫn còn trằn trọc. Làm như còn thèm nói chuyện với nhau nữa ! Bóng tối dầy đặc vây quanh. Không khí trong nhà êm êm mát mát. Mùi rượu nếp than và mùi thuốc lá Dunhill còn phản phất thơm thơm. Bỗng bà Năm nghe một bàn tay của chồng đặt lên mình mình. Toàn thân bà run lên nhè nhẹ. Hơi thở của bà bỗng trở nên phập phồng. Một cảm giác dường như thật cũ, mà cũng dường như thật mới, dìu dịu ngây ngây… Bà không biết nữa ! Rồi, không tự chủ được, bà cầm bàn tay chồng áp lên má, lên mũi, lên môi. Bàn tay này tưởng đã vĩnh viễn không còn nhìn thấy, cầm lấy. Da thịt này tưởng đã vĩnh viễn không còn đụng chạm sờ mó được. Mười năm… Mười năm… Nước mắt bỗng chảy dài xuống hai bên tai, bà Năm thốt lên nho nhỏ : “Mình !”. Chỉ có một âm đơn độc, nhưng sao tiếng “mình” nói lên thật nhiều, diễn tả thật nhiều. Tiếng “mình” mà mười năm nay ông Năm không còn nghe. Tiếng “mình” gợi lên tình nghĩa vợ chồng, nỗi niềm chia xẻ. Tiếng “mình” cũng là tiếng nói của yêu đương, của hài hoà sum họp. Và tiếng “mình” ở đây, trong hoàn cảnh này, sao nghe thật mời mọc dâng hiến… Người đàn bà mười năm khổ hận đó, vợ ông, cần được yêu thương thật nhiều để bù lại. Tiếng “mình” gọi nhỏ trong đêm bỗng nghe tiếp nối… Bồi hồi xúc động, ông Năm chồm lên ôm xóc lấy vợ, hôn tràn lên tóc, lên má, lên môi. Ông nghe trong tay, run lên như đang cơn sốt, thân xác gầy còm của vợ. Và tai ông còn nghe những tiếng “mình” đứt quãng ú ớ như tiếng nói trong chiêm bao…

Cuộc tình của tuổi vào thu âm thầm như lá rụng bên ngoài nhưng cũng nồng nàn ngọt lịm như hớp rượu nếp than cùng chia nhau khi nãy. Có mùa chớm thu nào mà không thấy còn sót lại vài tia nắng hạ ?

-oOo-

Tôi muốn câu chuyện này chấm dứt ở đây cho cuộc tình được đẹp như bài thơ, được vuông tròn như trong tiểu thuyết. Nhưng trên thật tế không phải như vậy. Bởi vì…

…Một tháng sau đó, bà Năm ngã bịnh, phải vào nằm nhà thương. Bà bị ung thư phổi, ở thời kỳ chót. Bà đã giấu ông Năm, lâu nay, bây giờ bà mới cho biết : hồi còn ở Việt Nam, nhờ khám thấy ung thư nên bà mới xin được chiếu khán xuất cảnh. “Nhà nước Cách Mạng vốn khoan hồng nhân đạo, nên cho phép chị sang thăm chồng đấy ! Chớ chị không nằm trong diện được cứu xét nào cả. Rõ chưa ?”. Gã cán bộ trao giấy phép cho bà Năm, mà nói như thật ! Tụi nó dư biết rằng có giữ bà lại cũng chỉ tốn gạo tốn khoai thêm vài tháng nữa và là một miệng ăn phi sản xuất, chẳng lợi lộc gì cho “nhân dân”. Thà tống đi gấp để khỏi phải chôn thêm một người, chật đất !

Ông Năm đã ngồi bên giường vợ suốt thời gian cuối cùng. Ông đã cầm bàn tay còn mang tỳ vết của mưòi năm gian khổ. Ông đã ôm gương mặt phong trần chưa kịp đổi hồng sau mấy tuần sống đầy hạnh phúc. Và cuối cùng, ông đã chải lại mái tóc bạc chưa kịp dài để được cuốn tròn kẹp lên sau ót, như ngày xưa…

Ông đã gục lên thân xác gầy khô, khóc với tất cả nước mắt còn lại.

Mùa thu đó, lá rụng thật nhiều…

Tiểu Tử

ĐỐI THOẠI NĂM ĐỨC TIN – VỀ GIÁO LÝ VÀ NHÂN ĐỨC CỦA TÔN GIÁO

ĐỐI THOẠI NĂM ĐỨC TIN – VỀ GIÁO LÝ VÀ NHÂN ĐỨC CỦA TÔN GIÁO

Tác giả: Lm. Đan Vinh, HHTM

VẤN ĐỀ 17: Tôn giáo chủ trương những giáo thuyết phản tiến bộ, đi ngược  lại quyền lợi của lớp người nghèo khổ. Tôn giáo giảng dạy sự hèn nhát, sự tự khinh, sự ti tiện, sụ sỉ nhục, sự phục tòng… là những tính nết của loài vật (Mega I,6 trang 278).

TRẢ LỜI:

Đây chẳng qua chỉ là những bài bác mang tính chủ quan, thiên kiến và sai lầm như sau:

1. Ki-tô giáo không phản tiến bộ, mà trái lại đã chiếu ánh sáng văn minh cho nhân loại:

Thực vậy, lịch sử các nước văn minh giàu mạnh ngày nay đã cho thấy: hầu như bất cứ ở đâu, khi người ta mở lòng đón nhận đức tin Ki-tô giáo, thì ở đó ánh sáng văn minh cũng ngự trị thay thế cho tình trạng tối tăm lạc hậu kém văn minh. Nhờ Thánh Kinh và giáo lý mới đem lại sự tiến bộ cho nhân loại về các lãnh vực như khoa học, văn hóa, luân lý như sau:

– Tiến bộ về khoa học: những phát minh khoa học, kỹ thuật tân tiến hiện đại hầu hết đều do các nhà bác học là tín đồ Ki-tô giáo cống hiến cho nhân loại. Trong số các khoa học gia thế kỷ 19, có tới 92% có đức tin vào Thiên Chúa là Đấng tạo thành vũ trụ vạn vật. Cũng nhờ ánh sáng đức tin soi dẫn, các vị này đã say mê tìm hiểu những kỳ công của Tạo Hóa và đã khám phá ra những định luật chi phối vũ trụ thiên nhiên, những máy móc phục vụ hạnh phúc con người theo lệnh truyền của Thiên Chúa sáng tạo như sách Sáng Thế đã ghi lại như sau: “Thiên Chúa ban phúc lành cho họ và Thiên Chúa phán với họ: “Hãy sinh sôi nảy nở thật nhiều cho đầy mặt đất, và thống trị mặt đất. Hãy làm bá chủ cá biển, chim trời và mọi giống vật bò trên mặt đất” (St 1,28).

– Tiến bộ về văn hóa: Mỗi khi Tin Mừng loan truyền đến đâu, thì cũng tác động về phong hóa đến đó. Những hủ tục lạc hậu của các dân tộc bán khai như: Tảo hôn, giết người tế thần… đã dần dần bị đào thải khi họ được tiếp xúc với các nhà thừa sai truyền giáo và được học hỏi giáo lý đức tin. Nền văn minh Ki-tô giáo cũng đã cống hiến cho kho tàng nghệ thuật của nhân loại những tác phẩm sáng giá nhất về mọi phương diện: hội họa, điêu khắc, kiến trúc, văn chương, thi phú, âm nhạc… và rất nhiều tác phẩm nghệ thuật thánh của tôn giáo hiện nay vẫn đang được lưu giữ trưng bày tại hầu hết các viện bảo tàng nổi tiêng nhất thế giới như: Vatican, Louvre, Metropolitan, Prado, Smithsonitan…

– Tiến bộ về luân lý: Giáo lý tình thương của Ki-tô giáo đề cao công bằng vị tha bác ái đã ảnh hưởng rất nhiều đến cách ứng xử giữa người với người, đến các chủ nghĩa tốt đẹp trên thế giới, đến các luật pháp quốc gia và các hiến chương tuyên ngôn quốc tế…

Như vậy, có thể nói: hầu như mọi lãnh vực của nền văn minh nhân loại đều bắt nguồn từ người tín hữu hoặc đều chịu ảnh hưởng sâu đậm của giáo thuyết Ki-tô giáo.

2. Giáo lý Ki-tô giáo không những không đi ngược lại quyền lợi của người nghèo, mà trái lại: chính giáo lý này đã mạnh mẽ bênh vực những người xấu số cách hữu hiệu nhất.

Thực vậy, Thánh Kinh Ki-tô giáo là một thông điệp của tình thương. Trong bản Hiến Chương Nước Trời do Đức Giê-su công bố, các người nghèo khổ được Chúa ưu tiên quan tâm và ban ơn cứu độ:

1)Thái độ của Đức Giê-su về vấn đề của cải và sự giàu nghèo:

-Trong Tám Mối Phúc, Đức Giê-su đề cao người nghèo: “Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước Trời là của họ” (Mt 5,3). Tin Mừng Lu-ca đã ghi lại lời Đức Giê-su quyết liệt hơn: “Phúc cho anh em là những kẻ nghèo khó, vì Nước Thiên Chúa là của anh em” (Lc 6,20), và “Khốn cho các ngươi là những kẻ giàu có, vì các ngươi đã được phần an ủi của mình rồi” (Lc 6,24).

-Đức Giê-su đã dạy môn đệ về thái độ phải có đối với của cải tiền bạc như sau: “Những người có của thì khó vào Nước Thiên Chúa biết bao!  Nghe Người nói thế, các môn đệ sững sờ. Nhưng Người lại tiếp: “Các con ơi, vào được Nước Thiên Chúa thật khó biết bao ! Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào Nước Thiên Chúa”. Các ông lại càng sửng sốt hơn nữa và nói với nhau: “Thế thì ai có thể được cứu ?” Đức Giê-su nhìn thẳng vào các ông và nói: “Đối với loài người thì không thể được, nhưng đối với Thiên Chúa thì không phải thế, vì đối với Thiên Chúa mọi sự đều có thể được” (Mc 10,23-27).

-Đức Ma-ri-a trong kinh Ngợi Khen cũng đã ca tụng tình thương cứu độ của Thiên Chúa dành cho người nghèo như sau: “Kẻ đói nghèo Chúa ban của đầy dư, người giàu có lại đuổi về tay trắng” (Lc 1,58).

-Thánh Gia-cô-bê cũng cho biết Chúa sẽ bù đắp những thiệt thòi mà người nghèo phảỉ chịu bằng việc ưu tiên ban đức tin và ơn cứu độ như sau: “Nào Thiên Chúa đã chẳng chọn những kẻ nghèo khó trước mặt người đời, để họ trở nên người giàu đức tin và thừa hưởng vương quốc Người đã hứa cho những ai yêu mến Người hay sao ?” (Gc 2,5).

2) Đức Giê-su cổ võ sự công chính và dạy các môn đệ phải tha thứ:

Cần ăn ở công bình ở đời này, để tránh khỏi phải đền trả ở đời sau: “Thầy bảo thật cho anh biết: Anh sẽ không ra khỏi đó, trước khi trả hết đồng xu cuối cùng” (Mt 5,26).

Cần chu toàn cả hai bổn phận với Thiên Chúa và tha nhân: “Thế thì của Xê-da trả về Xê-da; của Thiên Chúa trả về Thiên Chúa” (Mt 22,21).

-Cần biết quảng đại tha thứ: Trong kinh Lạy Cha, Đức Giê-su dạy môn đệ cầu xin Thiên Chúa tha tội với điều kiện họ phải sẵn sàng tha lỗi cho anh em: “Và tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con”. Người cũng giải thích thêm: “Thật vậy, nếu anh em tha lỗi cho người ta, thì Cha anh em trên trời cũng sẽ tha thứ cho anh em. Nhưng nếu anh em không tha thứ cho người ta, thì Cha anh em cũng sẽ không tha lỗi cho anh em” (Mt 6,12).

3) Đức Giê-su bênh vực quyền lợi của người phụ nữ trong xã hội:

-Phụ nữ được Thiên Chúa dựng nên ngang hàng với nam giới khác với lập trường cho rằng phụ nữ ở bậc thấp hơn nam giới và phải hoàn toàn lệ thuộc vào nam giới: Đức Giê-su nói: “Các ông không đọc thấy điều này sao?: Thuở ban đầu, Đấng Tạo Hóa đã làm ra con người có nam có nữ, và người đã phán: “Vì thế, người ta sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai sẽ thành một xương một thịt”. Như vậy, họ không còn là hai, nhưng chỉ là một xương một thịt. Vậy sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly” (Mt 19,4-6).

-Người cũng rút lại luật cho phép ly hôn trong thời Cựu Ước: Khi ấy, những người biệt phái đến gần vá hỏi thử Chúa Giê-su rằng: Người ta có được phép ly dị vợ mình chăng?” Người đáp: Mô-se đã truyền cho các ông thế nào? Họ thưa: “Mô-sê cho phép làm giấy ly dị và cho ly dị”. Bấy giờ Chúa Giê-su đáp lai: “Chính vì sự cứng lòng của các ông, mà Mô-sê đã viết ra điều luật đó. Nhưng lúc khởi đầu cuộc sáng tạo, Thiên Chúa đã dựng nên một người nam và một người nữ. Vậy sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly” (Mc 10,2-9).

4) Đức Giê-su chống lại những bất công xã hội và đề cao sự khiêm nhường phục vụ cùng sự quảng đại chía sẻ cơm áo cho người nghèo:

-Người nói với các người Pha-ri-sêu tranh giành chỗ ngồi phải biết khiêm tốn khi được mời tham dự liên hoan: “Vì phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên” (Lc 14,11).

-Người cũng yêu thương chàng thanh niên giàu có muốn nên trọn lành và dạy anh ta sự quảng đại chia sẻ: “Anh chỉ thiếu có một điều là hãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi” (Mc 10,21).

5) Đức Giê-su khuyên dạy môn đệ phải có lòng bác ái, thương yêu những người nghèo khổ, khuyết tật, bất hạnh và bị bỏ rơi, vì ý thức rằng phục vụ họ là phục vụ chính Chúa. Sau đây là một số lời Đức Giê-su dạy đức yêu người:

Yêu người như yêu mình: “Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình” (Mt 22,39).

Yêu thương lẫn nhau là dấu hiệu môn đệ thực sự của Chúa: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau. Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 13,34).

-Yêu người nghèo khổ vị họ là hiện thân của Chúa: Đến ngày tận thế, Chúa Giê-su sẽ tái lâm trong vai trò Vua Thẩm Phán đến phán xét chung mọi người về như sau: Bấy giờ Đức Vua sẽ bảo họ rằng: “Ta bảo thật các ngươi: Mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy” (Mt 25,40).

3. Những điều tôn giáo đề cao như: Khiêm tốn phục vụ tha nhân; Làm chủ các dục vọng xấu và các thói hư; Lấy đức báo oán: đối xử khoan dung nhân hậu với những kẻ thù ghét làm hại mình, để biến thù thành bạn; Can đảm chịu đựng những đau khổ gặp phải trong cuộc sông; Vâng phục quyền bính hợp pháp trong đạo ngoài đời… Tất cả những điều này đêu không phải là những điều tiêu cực, là những tính nết của loài vật… như có người đả kích. Trái lại, đây còn là những nhân đức anh hùng mà những kẻ tầm thường không thể thực hiện được, nhưng chỉ những ai có đức tin mạnh mẽ can đảm, vững tâm bền chí, thánh thiện nhân ái… mới có thể làm được mà thôi.

Còn những người tự cao tự đại, thiếu sự kiên nhẫn chịu đựng, dễ bất mãn nổi loạn do lòng tham lam bất chính thôi thúc… Đó mới thực là những lý thuyết phản tiến bộ, đi ngược  lại quyền lợi của lớp người nghèo khổ, và mới cần được kiềm chế loại trừ.

TÓM LẠI: Ki-tô giáo không những không phản tiến bộ, trái lại đã đem ánh sáng văn minh đến cho nhân loại về mọi phương diện: khoa học,văn hóa, luân lý… Giáo lý Ki-tô giáo dạy không những không đi ngược lại quyền lợi của người nghèo, mà trái lại còn bênh vực lớp người xấu số bất hạnh một cách mạnh mẽ và hữu hiệu nhất. Những điều tôn giáo đề cao như: sự khiêm tốn phục vụ, hãm dẹp các dục vọng thói hư, lấy thiện báo ác, nhẫn nhịn chịu đựng các khó khăn gặp phải, vâng phục quyền bính đạo đời… Tất cả đều đươc mọi người công nhận là tốt và cần được thực hiện. Như vậy, những lời chỉ trích tôn giáo nói trên đều sai lầm, chủ quan và đầy thiên kiến… nên các tín hữu chúng ta không cần phải quan tâm.

PHÚT HỒI TÂM:

LỜI CHÚA:

“Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau. Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. Ở điểm này, mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy: Là anh em có lòng yêu thương nhau” (Ga 13,34-35).

CẦU NGUYỆN:

Lạy Chúa Giê-su. Xin cho mỗi tín hữu chúng con biết giới thiệu khuôn mặt khiêm tốn hiền hòa của Chúa cho tha nhân chua nhận biết Chúa. Xin cho chúng con biết sông yêu thương phục vụ Chúa trong mọi người như lời Chúa dạy, được thánh Phan-xi-cô tóm lại trong kinh Hòa Bình, để chúng con tích cực làm chứng cho Chúa và xứng đáng trở thành môn đệ thức sự của Chúa như lời Chúa dạy hôm nay: “Ở điểm này, mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy: Là anh em có lòng yêu thương nhau” (Ga 13,35).

LM ĐAN VINH – HHTM

Tác giả: Lm. Đan Vinh, HHTM