ĐỐI THOẠI NĂM ĐỨC TIN – VỀ GIÁO LÝ VÀ NHÂN ĐỨC CỦA TÔN GIÁO

ĐỐI THOẠI NĂM ĐỨC TIN – VỀ GIÁO LÝ VÀ NHÂN ĐỨC CỦA TÔN GIÁO

Tác giả: Lm. Đan Vinh, HHTM

VẤN ĐỀ 17: Tôn giáo chủ trương những giáo thuyết phản tiến bộ, đi ngược  lại quyền lợi của lớp người nghèo khổ. Tôn giáo giảng dạy sự hèn nhát, sự tự khinh, sự ti tiện, sụ sỉ nhục, sự phục tòng… là những tính nết của loài vật (Mega I,6 trang 278).

TRẢ LỜI:

Đây chẳng qua chỉ là những bài bác mang tính chủ quan, thiên kiến và sai lầm như sau:

1. Ki-tô giáo không phản tiến bộ, mà trái lại đã chiếu ánh sáng văn minh cho nhân loại:

Thực vậy, lịch sử các nước văn minh giàu mạnh ngày nay đã cho thấy: hầu như bất cứ ở đâu, khi người ta mở lòng đón nhận đức tin Ki-tô giáo, thì ở đó ánh sáng văn minh cũng ngự trị thay thế cho tình trạng tối tăm lạc hậu kém văn minh. Nhờ Thánh Kinh và giáo lý mới đem lại sự tiến bộ cho nhân loại về các lãnh vực như khoa học, văn hóa, luân lý như sau:

– Tiến bộ về khoa học: những phát minh khoa học, kỹ thuật tân tiến hiện đại hầu hết đều do các nhà bác học là tín đồ Ki-tô giáo cống hiến cho nhân loại. Trong số các khoa học gia thế kỷ 19, có tới 92% có đức tin vào Thiên Chúa là Đấng tạo thành vũ trụ vạn vật. Cũng nhờ ánh sáng đức tin soi dẫn, các vị này đã say mê tìm hiểu những kỳ công của Tạo Hóa và đã khám phá ra những định luật chi phối vũ trụ thiên nhiên, những máy móc phục vụ hạnh phúc con người theo lệnh truyền của Thiên Chúa sáng tạo như sách Sáng Thế đã ghi lại như sau: “Thiên Chúa ban phúc lành cho họ và Thiên Chúa phán với họ: “Hãy sinh sôi nảy nở thật nhiều cho đầy mặt đất, và thống trị mặt đất. Hãy làm bá chủ cá biển, chim trời và mọi giống vật bò trên mặt đất” (St 1,28).

– Tiến bộ về văn hóa: Mỗi khi Tin Mừng loan truyền đến đâu, thì cũng tác động về phong hóa đến đó. Những hủ tục lạc hậu của các dân tộc bán khai như: Tảo hôn, giết người tế thần… đã dần dần bị đào thải khi họ được tiếp xúc với các nhà thừa sai truyền giáo và được học hỏi giáo lý đức tin. Nền văn minh Ki-tô giáo cũng đã cống hiến cho kho tàng nghệ thuật của nhân loại những tác phẩm sáng giá nhất về mọi phương diện: hội họa, điêu khắc, kiến trúc, văn chương, thi phú, âm nhạc… và rất nhiều tác phẩm nghệ thuật thánh của tôn giáo hiện nay vẫn đang được lưu giữ trưng bày tại hầu hết các viện bảo tàng nổi tiêng nhất thế giới như: Vatican, Louvre, Metropolitan, Prado, Smithsonitan…

– Tiến bộ về luân lý: Giáo lý tình thương của Ki-tô giáo đề cao công bằng vị tha bác ái đã ảnh hưởng rất nhiều đến cách ứng xử giữa người với người, đến các chủ nghĩa tốt đẹp trên thế giới, đến các luật pháp quốc gia và các hiến chương tuyên ngôn quốc tế…

Như vậy, có thể nói: hầu như mọi lãnh vực của nền văn minh nhân loại đều bắt nguồn từ người tín hữu hoặc đều chịu ảnh hưởng sâu đậm của giáo thuyết Ki-tô giáo.

2. Giáo lý Ki-tô giáo không những không đi ngược lại quyền lợi của người nghèo, mà trái lại: chính giáo lý này đã mạnh mẽ bênh vực những người xấu số cách hữu hiệu nhất.

Thực vậy, Thánh Kinh Ki-tô giáo là một thông điệp của tình thương. Trong bản Hiến Chương Nước Trời do Đức Giê-su công bố, các người nghèo khổ được Chúa ưu tiên quan tâm và ban ơn cứu độ:

1)Thái độ của Đức Giê-su về vấn đề của cải và sự giàu nghèo:

-Trong Tám Mối Phúc, Đức Giê-su đề cao người nghèo: “Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước Trời là của họ” (Mt 5,3). Tin Mừng Lu-ca đã ghi lại lời Đức Giê-su quyết liệt hơn: “Phúc cho anh em là những kẻ nghèo khó, vì Nước Thiên Chúa là của anh em” (Lc 6,20), và “Khốn cho các ngươi là những kẻ giàu có, vì các ngươi đã được phần an ủi của mình rồi” (Lc 6,24).

-Đức Giê-su đã dạy môn đệ về thái độ phải có đối với của cải tiền bạc như sau: “Những người có của thì khó vào Nước Thiên Chúa biết bao!  Nghe Người nói thế, các môn đệ sững sờ. Nhưng Người lại tiếp: “Các con ơi, vào được Nước Thiên Chúa thật khó biết bao ! Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào Nước Thiên Chúa”. Các ông lại càng sửng sốt hơn nữa và nói với nhau: “Thế thì ai có thể được cứu ?” Đức Giê-su nhìn thẳng vào các ông và nói: “Đối với loài người thì không thể được, nhưng đối với Thiên Chúa thì không phải thế, vì đối với Thiên Chúa mọi sự đều có thể được” (Mc 10,23-27).

-Đức Ma-ri-a trong kinh Ngợi Khen cũng đã ca tụng tình thương cứu độ của Thiên Chúa dành cho người nghèo như sau: “Kẻ đói nghèo Chúa ban của đầy dư, người giàu có lại đuổi về tay trắng” (Lc 1,58).

-Thánh Gia-cô-bê cũng cho biết Chúa sẽ bù đắp những thiệt thòi mà người nghèo phảỉ chịu bằng việc ưu tiên ban đức tin và ơn cứu độ như sau: “Nào Thiên Chúa đã chẳng chọn những kẻ nghèo khó trước mặt người đời, để họ trở nên người giàu đức tin và thừa hưởng vương quốc Người đã hứa cho những ai yêu mến Người hay sao ?” (Gc 2,5).

2) Đức Giê-su cổ võ sự công chính và dạy các môn đệ phải tha thứ:

Cần ăn ở công bình ở đời này, để tránh khỏi phải đền trả ở đời sau: “Thầy bảo thật cho anh biết: Anh sẽ không ra khỏi đó, trước khi trả hết đồng xu cuối cùng” (Mt 5,26).

Cần chu toàn cả hai bổn phận với Thiên Chúa và tha nhân: “Thế thì của Xê-da trả về Xê-da; của Thiên Chúa trả về Thiên Chúa” (Mt 22,21).

-Cần biết quảng đại tha thứ: Trong kinh Lạy Cha, Đức Giê-su dạy môn đệ cầu xin Thiên Chúa tha tội với điều kiện họ phải sẵn sàng tha lỗi cho anh em: “Và tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con”. Người cũng giải thích thêm: “Thật vậy, nếu anh em tha lỗi cho người ta, thì Cha anh em trên trời cũng sẽ tha thứ cho anh em. Nhưng nếu anh em không tha thứ cho người ta, thì Cha anh em cũng sẽ không tha lỗi cho anh em” (Mt 6,12).

3) Đức Giê-su bênh vực quyền lợi của người phụ nữ trong xã hội:

-Phụ nữ được Thiên Chúa dựng nên ngang hàng với nam giới khác với lập trường cho rằng phụ nữ ở bậc thấp hơn nam giới và phải hoàn toàn lệ thuộc vào nam giới: Đức Giê-su nói: “Các ông không đọc thấy điều này sao?: Thuở ban đầu, Đấng Tạo Hóa đã làm ra con người có nam có nữ, và người đã phán: “Vì thế, người ta sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai sẽ thành một xương một thịt”. Như vậy, họ không còn là hai, nhưng chỉ là một xương một thịt. Vậy sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly” (Mt 19,4-6).

-Người cũng rút lại luật cho phép ly hôn trong thời Cựu Ước: Khi ấy, những người biệt phái đến gần vá hỏi thử Chúa Giê-su rằng: Người ta có được phép ly dị vợ mình chăng?” Người đáp: Mô-se đã truyền cho các ông thế nào? Họ thưa: “Mô-sê cho phép làm giấy ly dị và cho ly dị”. Bấy giờ Chúa Giê-su đáp lai: “Chính vì sự cứng lòng của các ông, mà Mô-sê đã viết ra điều luật đó. Nhưng lúc khởi đầu cuộc sáng tạo, Thiên Chúa đã dựng nên một người nam và một người nữ. Vậy sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly” (Mc 10,2-9).

4) Đức Giê-su chống lại những bất công xã hội và đề cao sự khiêm nhường phục vụ cùng sự quảng đại chía sẻ cơm áo cho người nghèo:

-Người nói với các người Pha-ri-sêu tranh giành chỗ ngồi phải biết khiêm tốn khi được mời tham dự liên hoan: “Vì phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên” (Lc 14,11).

-Người cũng yêu thương chàng thanh niên giàu có muốn nên trọn lành và dạy anh ta sự quảng đại chia sẻ: “Anh chỉ thiếu có một điều là hãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi” (Mc 10,21).

5) Đức Giê-su khuyên dạy môn đệ phải có lòng bác ái, thương yêu những người nghèo khổ, khuyết tật, bất hạnh và bị bỏ rơi, vì ý thức rằng phục vụ họ là phục vụ chính Chúa. Sau đây là một số lời Đức Giê-su dạy đức yêu người:

Yêu người như yêu mình: “Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình” (Mt 22,39).

Yêu thương lẫn nhau là dấu hiệu môn đệ thực sự của Chúa: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau. Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 13,34).

-Yêu người nghèo khổ vị họ là hiện thân của Chúa: Đến ngày tận thế, Chúa Giê-su sẽ tái lâm trong vai trò Vua Thẩm Phán đến phán xét chung mọi người về như sau: Bấy giờ Đức Vua sẽ bảo họ rằng: “Ta bảo thật các ngươi: Mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy” (Mt 25,40).

3. Những điều tôn giáo đề cao như: Khiêm tốn phục vụ tha nhân; Làm chủ các dục vọng xấu và các thói hư; Lấy đức báo oán: đối xử khoan dung nhân hậu với những kẻ thù ghét làm hại mình, để biến thù thành bạn; Can đảm chịu đựng những đau khổ gặp phải trong cuộc sông; Vâng phục quyền bính hợp pháp trong đạo ngoài đời… Tất cả những điều này đêu không phải là những điều tiêu cực, là những tính nết của loài vật… như có người đả kích. Trái lại, đây còn là những nhân đức anh hùng mà những kẻ tầm thường không thể thực hiện được, nhưng chỉ những ai có đức tin mạnh mẽ can đảm, vững tâm bền chí, thánh thiện nhân ái… mới có thể làm được mà thôi.

Còn những người tự cao tự đại, thiếu sự kiên nhẫn chịu đựng, dễ bất mãn nổi loạn do lòng tham lam bất chính thôi thúc… Đó mới thực là những lý thuyết phản tiến bộ, đi ngược  lại quyền lợi của lớp người nghèo khổ, và mới cần được kiềm chế loại trừ.

TÓM LẠI: Ki-tô giáo không những không phản tiến bộ, trái lại đã đem ánh sáng văn minh đến cho nhân loại về mọi phương diện: khoa học,văn hóa, luân lý… Giáo lý Ki-tô giáo dạy không những không đi ngược lại quyền lợi của người nghèo, mà trái lại còn bênh vực lớp người xấu số bất hạnh một cách mạnh mẽ và hữu hiệu nhất. Những điều tôn giáo đề cao như: sự khiêm tốn phục vụ, hãm dẹp các dục vọng thói hư, lấy thiện báo ác, nhẫn nhịn chịu đựng các khó khăn gặp phải, vâng phục quyền bính đạo đời… Tất cả đều đươc mọi người công nhận là tốt và cần được thực hiện. Như vậy, những lời chỉ trích tôn giáo nói trên đều sai lầm, chủ quan và đầy thiên kiến… nên các tín hữu chúng ta không cần phải quan tâm.

PHÚT HỒI TÂM:

LỜI CHÚA:

“Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau. Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. Ở điểm này, mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy: Là anh em có lòng yêu thương nhau” (Ga 13,34-35).

CẦU NGUYỆN:

Lạy Chúa Giê-su. Xin cho mỗi tín hữu chúng con biết giới thiệu khuôn mặt khiêm tốn hiền hòa của Chúa cho tha nhân chua nhận biết Chúa. Xin cho chúng con biết sông yêu thương phục vụ Chúa trong mọi người như lời Chúa dạy, được thánh Phan-xi-cô tóm lại trong kinh Hòa Bình, để chúng con tích cực làm chứng cho Chúa và xứng đáng trở thành môn đệ thức sự của Chúa như lời Chúa dạy hôm nay: “Ở điểm này, mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy: Là anh em có lòng yêu thương nhau” (Ga 13,35).

LM ĐAN VINH – HHTM

Tác giả: Lm. Đan Vinh, HHTM

Human Rights Watch : Các nhóm thánh chiến và đối lập Syria giết gần 200 thường dân

Human Rights Watch : Các nhóm thánh chiến và đối lập Syria giết gần 200 thường dân

Cuộc tấn công vào Lattaquié đã khiến nhiều người thiệt mạng, theo nguồn tin từ giới bảo vệ nhân quyền.

Cuộc tấn công vào Lattaquié đã khiến nhiều người thiệt mạng, theo nguồn tin từ giới bảo vệ nhân quyền.

REUTERS/Handout

RFI

Hôm nay, 11/10/2013, tổ chức bảo vệ nhân quyền Human Rights Watch công bố một bản báo cáo, theo đó, các nhóm thánh chiến và lực lượng nổi dậy, đã giết hại 190 thường dân. Sự vụ xẩy ra tại các khu làng theo hệ phái Hồi giáo alaouite, ở Syria, trong tháng Tám vừa qua.

Trong báo cáo 105 trang, Human Rights Watch – HRW – cho biết đã tiến hành điều tra tại chỗ và phỏng vấn 25 người, kể cả những người sống sót sau vụ quân nổi dậy tấn công vào 10 ngôi làng của người theo hệ phái Hồi giáo Alaouite, ngày 04/08, ở tỉnh Lattaquié, nơi được coi là thành trì của Tổng thống Bachar Al Assad.

Theo HRW, vào ngày đó, có ít nhất 190 thường dân đã bị giết hại, trong số này có 57 phụ nữ, 18 trẻ em, 67 người đã bị hành quyết, mặc dù trong tay họ không có súng ống hoặc tìm cách bỏ chạy. Đối với HRW, đó là những thường dân không có vũ trang, không làm gì để có thể đe dọa hoặc làm cho người ta nghĩ rằng họ là những người chống lại cuộc tấn công.

Vẫn theo HRW, có ít nhất 20 nhóm có vũ trang đã tham gia vào cuộc tấn công và chiếm được 10 ngôi làng của người Hồi giáo Alaouite. Ngày 18/08, quân đội chính phủ Syria đã chiếm lại được các ngôi làng này.

Ngay lập tức, phe đối lập Syria đã lên án các vụ hành quyết thường dân tại 10 ngôi làng. Trong thư ngỏ gửi HRW, Liên minh đối lập Syria đã lên án mọi hành động vi phạm nhân quyền do các tổ chức có vũ trang thực hiện. Liên minh cũng nhắc lại cam kết ton trọng các luật lệ quốc tế liên quan đến nhân quyền

Một người Trung Quốc tự cắt chân vì không đủ tiền trả viện phí

Một người Trung Quốc tự cắt chân vì không đủ tiền trả viện phí

Medical sign

Medical sign

11.10.2013

Truyền thông Trung Quốc cho biết một người đàn ông ở vùng nông thôn đông bắc đã dùng dao cắt trái cây, cưa, và dụng cụ gãi lưng để cắt chân của mình vì không có tiền để trả chi phí y khoa và không muốn tiếp tục đau đớn không chịu nổi.

Theo bản tin báo chí, ông Trịnh Diêm Lương, 47 tuổi, sống ở Bảo Định, chẩn bệnh năm 2012 thấy bị chứng nghẹt tĩnh mạch và các bác sĩ nói rằng tĩnh mạch trong chân phải của  ông đã hỏng hoàn toàn.

Chứng bệnh này làm ông rất đau đớn và các thuốc giảm đau không giúp được gì.

Bản tin nói vì không đủ khả năng trả chi phí điều trị, ông Trịnh Diêm Lương quyết định cắt chân mình khi thấy bắt đầu mưng mủ và biến sang màu đen.

Ông đã mất 4 răng hàm khi cắn xuống vì quá đau trong lúc tự cắt chân.

Viêm nhiễm giờ đây lan sang chân trái, và ông tìm cách tự chữa bằng iốt và gạc.

Ông muốn có một chân giả để có thể tiếp tục nuôi gia đình.

Nguồn: Totonto Sun, The Independent

Cuộc viếng thăm của cụ Phan Bội Châu tới DCCT Huế

Cuộc viếng thăm của cụ Phan Bội Châu tới DCCT Huế

Đăng bởi lúc 9:09 Sáng 10/10/13

VRNs (10.10.2013) – Sài Gòn – Cách đây hơn 70 năm (1936), cụ Phan Bội Châu (1867-1940), đã tới thăm Dòng Chúa Cứu Thế ở Huế. Sau cuộc thăm viếng, cụ có viết một bài di bút và đăng trên báo Vì Chúa của cha Nguyễn Văn Thích (số 3, ngày 2-10-1936). Hôm qua trên bloganhvu có đăng lại bài viết này và giới thiệu là lấy trên facebook của một người quen. Chúng tôi xin phép đăng lại để quý đọc giả biết về cuộc thăm viếng của một danh sĩ, một nhà cách mạng Việt Nam thời Pháp thuộc tới một cơ sở của DCCT.

THAM QUAN TRƯỜNG DÒNG CHÚA CỨU THẾ NGÀY 27-05-1936

…Khi Châu mới vào cửa, lên tới thềm, bấm chuông cửa, sau nửa phút đồng hồ, thì thấy một người học trò ở trong ra, đưa Châu lên phòng trên lầu, Châu vừa vào tới nơi, thời cha H, Ngài liền đứng dậy bắt tay, mời Châu ngồi, trên sắc mặt ra cái vẻ xuân phong hào khí, vừa nghiêm túc vừa ôn tồn, phảng phất như toàn bức tinh thần của nhà tông giáo phát hiện ra trước mặt Châu.

Sau nửa phút đồng hồ ngài với Châu ngồi đối diện, liền nhả lời vàng ngọc mà nói với nhau. Châu rằng: “Cụ lấy tư cách một nhà văn nhân học sĩ, tới viếng trường Dòng này, tôi rất mực hoan nghênh. Bởi vì tư cách nhà văn nhân trái hẳn tư cách nhà chính trị. Của Đức Chúa Trời chẳng bao giờ từ tạ văn nhân, mà lại rất vui lòng cho những bậc văn nhân thưởng thức”.

Tôi trả lời: “Vâng! Tôi vào tham quan nhà này có hai mục đích chính:

Một là: muốn biết tinh thần bác ái của nhà tông giáo.

Hai là: muốn nếm được chân lí, chắc Ngài cũng sẵn lòng chỉ dẫn cho tôi”.

Ngài rằng: “Tốt lắm! Tốt lắm! Nay tôi xin dẫn Cụ đi xem”.

Tôi đáp: “Vâng! Tôi thiên vạn cám ơn. Ngày này thiệt là ngày vinh hạnh của đời tôi”

Đoạn rồi Ngài lấy tư cách của chủ nhân dẫn tôi đi xem khắp ba tầng lầu. Bắt đầu xem ở Cung thánh, đến phòng dạy, phòng ăn, phòng ngủ, đến phòng diễn thuyết, phòng thầy tu. Trong các phòng quy mô rất thanh khiết, vừa chỉnh đốn vừa khang trang.

Đoạn rồi Ngài cùng vị giảng sư đưa tôi lên sân lộ thiên ở tầng trên, sân này là một chốn thường làm rất thanh cao, rộng rãi, tô bằng xi măng nhuốm sắc vàng, vừa khoan khoái vừa bình thản tưởng như những lúc trăng trong gió mát, mây tạnh trời quang, mà đặt chân vào trên sân này, thời in như đứng vào trong bức kính đồng. Tứ bề nước biếc non xanh, thảy ánh vào trong đôi cặp mắt, cảnh Tiên cõi Phật, e chẳng gì tốt hơn! Nhưng tiếc quá, lúc đó đương khi sau mùa hạ, mặt trời còn nép nấp ở trong đám mây mù, khiến cho kém bớt mấy phần hứng vị.

Ở trong lúc tham quan các phòng, mà khiến cho tôi được phần lợi ích riêng, là khi vào xem tàng thư viện. Trong viện đủ các thứ sách: sách chữ Tây, sách chữ Tàu, sách chữ Nam, thứ sách gì cũng có, mà người quản lí ở trong viện, lại là người tôi đã có duyên tương thức một lần, là ông cố G, cữu biệt trùng phùng cảm tình sâu đậm. Ông cho tôi mượn hai bản sách, bổ thêm óc chân lí cho tôi rất nhiều, tôi cám ơn về phần riêng ông nhiều lắm.

Kể từ khi bắt đầu vào nhà, cho đến lúc thăm bàn thờ Đức Mẹ, được thấy các việc trong ngoài, phúc con mắt của Phan Bội Châu, thật quá chừng đội ơn Chúa.

Ấy là đại lược đầu đuôi ở trong cuộc tham quan trường Dòng Cứu Thế. Về mặt hình thức thì biểu hiện ra những quy mô khoan bình thanh nhã, mà nhất là về mặt tinh thần, biểu hiện ra cái thái độ hòa bình nhân ái. Vì thế bắt buộc tôi phát sinh ra mấy mối cảm tưởng sau đây:

Mối cảm tưởng rằng thứ nhất là thấy trường Công Giáo trọng tinh thần mà không trọng vật chất, trọng thành ý mà không trọng hư văn. Bởi vì khi cha H, Ngài tiếp tôi vẫn dùng bằng lễ tân chủ, nhưng thuốc không, trà không, mà bánh rượu cũng không, nhất thiết những hình thức giả toàn là không ráo. Nhưng mà ở trong đôi tròng con mắt, biểu hiện ra cái vẻ rất nhân từ, mà quý hóa nhất lại là những nụ cười rất tự nhiên hòa nhã, những tiếng nói rất chân thành, thật thà.

Sách Nho có câu rằng: “Bất thành tắc vô tật, cố quân tử thành chi vi quý“, nghĩa là: Hễ việc gì không ý chân thật, thời có việc ấy mặc dầu cũng in như không. Cho nên những bậc quân tử rất quý trọng ở đạo thành.

Mối cảm tưởng thứ hai là rõ được đạo thờ Trời ở trong Công Giáo rất phù hợp với chân lí trong đạo Nho xưa.

Sách xưa có câu rằng: “Tế như tại, tế thần như thần tại“, nghĩa là hễ tế lễ Trời hay tế Thần, phải thường thường nhất tâm thành kính, như có Trời có Thần ở bên mình vậy. Chẳng một phút đồng hồ nào, mà quên lững Trời với Thần thế mới là tế.

Nay tôi được cung chiêm bàn thờ thánh ở trong trường nhà Dòng. Thấy nghiêm túc quá mà chẳng thấy phiền vãn, thấy cung kính mà chẳng thấy lễ vật. Ngọn đèn cây nến, biểu hiện ra cái vẻ quang minh, xem lễ đọc kinh, tỏ ra cái tính hòa mục, ngoài bấy nhiêu hình thức, chẳng thấy gì là mùi tục. Thế chẳng phải là tế như tại hay sao? Thật ta nên cảm phục.

Ấy là hai mối cảm tưởng như trên kia, chính vì một giờ đồng hồ tham quan nhà trường Cứu Thế.

(Báo Vì Chúa số 3, ngày 2-10-1936)

TRẢ LỜI VỀ “CÂU CHUYỆN TÔN GIÁO”

LTS: Tháng trước đây có người trong Giáo đồ mời cụ Sào Nam chơi nhà trường Cứu Thế. Sau đó Cụ có viết một bài, tỏ lời khen ngợi tôn chỉ đức Giáo Chủ…. Nhân đó, có tiếng truyền nhau rằng cụ Sào gần đây theo Giáo. Nhiều người viết thư lại bản báo hỏi. Bản báo kể lại với Cụ. Cụ đã viết trả lời như sau:

Đối với tôn chỉ các Giáo, như “Chúng sinh bình đẳng”, và “Kiêm ái chúng sinh”, chuyên một mục đích “Xả thân cứu thế” như đạo Chúa, đạo Phật, khi nào Cụ cũng tôn kính quý chuộng. Chính hồi Cụ Đông độ đã có nhiều bạn giáo đồ là đồng chí.

Vậy đối với tôn giáo, vẫn tôn kính các giáo lí hợp với nhân đạo đó, chứ không phải mê tín đem hương hoa cầu nguyện hay là tin cái thuyết “xuất thế” như ai đã tưởng.

(Tiếng Dân ngày 31-12-1936)

Theo Phan Bội Châu Toàn Tập – Tập 7 Văn xuôi 1925-1940 – Trang 504-507

http://bloganhvu.blogspot.com/

Căn tính truyền giáo của Hội Thánh trong kinh nghiệm của sứ vụ Jarai

Căn tính truyền giáo của Hội Thánh trong kinh nghiệm của sứ vụ Jarai

Đăng bởi lúc 2:27 Sáng 11/10/13

VRNs (11.10.2013) – Gia Lai – 1- Trong những ngày tháng cuối cùng của Năm Đức Tin này, chúng ta hãy đọc lại một vài đoạn liên quan đến Truyền Giáo của Công Đồng Vatican II (bản dịch của Giáo Hoàng Học Viện Piô X) như ý nguyện của Hội Thánh qua Tự Sắc “Cánh Cửa Đức Tin” của Đức Bênêđiktô XVI.

Ad Gentes (Sắc Lệnh về hoạt động Truyền Giáo của Hội Thánh),

Chương I, 6:

“Ðược gọi chung là “việc truyền giáo” tất cả những công cuộc đặc biệt giúp đỡ các nhà rao giảng Phúc Âm của Giáo Hội 14* đang đi khắp thế gian để thực hiện chức vụ rao giảng Phúc Âm, và “trồng” Giáo Hội vào các dân tộc, cũng như những nhóm người chưa tin Chúa Kitô; những công cuộc này được hoàn thành nhờ hoạt động truyền giáo, và phần nhiều được thực hiện trong những địa hạt nhất định mà Tòa Thánh đã công nhận. Mục đích riêng của hoạt động truyền giáo này là rao giảng Phúc Âm (evangelizatio) và trồng Giáo Hội vào các dân tộc hay những nhóm người mà Giáo Hội còn chưa bén rễ 34. Như thế, do hạt giống lời Chúa (bản dịch chính thức bằng tiếng Pháp: nées de la Parole de Dieu), các Giáo Ðoàn địa phương một khi đã được thiết lập đầy đủ khắp nơi trên thế giới, phải lớn lên, và, một khi thực sự tự mình có đủ sức sống và trưởng thành, nghĩa là đã được thiết lập Hàng Giáo Phẩm riêng, phải hiệp nhất với dân trung thành; đồng thời có những phương tiện hầu như tương ứng để sống đầy đủ đời sống Kitô giáo, các Giáo Ðoàn đó phải góp phần vào lợi ích của toàn thể Giáo Hội. Phương tiện chính để gieo trồng các Giáo Ðoàn này là việc rao giảng Phúc Âm của Chúa Giêsu Kitô; chính vì vậy mà Chúa đã sai các môn đệ đi khắp thế gian rao giảng Phúc Âm, để sau khi con người đã được tái sinh do lời Thiên Chúa (coi 1Phêrô 1,23) sẽ nhờ phép Rửa mà gia nhập Giáo Hội, một Giáo Hội, với tư cách là thân xác của Ngôi Lời nhập thể, được nuôi dưỡng và sống động bằng lời Chúa và bánh thánh thể (coi Cv 2,42).”

Lumen Gentium – Hiến Chế về Hội Thánh – chương 2 số 17:

17. Tính cách truyền giáo của Giáo Hội. Như Chúa Cha sai Người thế nào, Chúa Con cũng sai các Tông Ðồ như vậy (x. Gio 20,21) khi Người phán: “Vậy các con hãy đi dạy dỗ muôn dân, thanh tẩy họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần, hãy dạy dỗ họ vâng giữ mọi điều Thầy đã truyền cho các con. Và đây Thầy sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,19-20). Lệnh ấy, lệnh mà Chúa Kitô long trọng truyền rao giảng chân lý cứu rỗi, Giáo Hội đã nhận lãnh từ các Tông Ðồ để chu toàn khắp cõi đất (x. CvTđ 1,8). Vì thế, Giáo Hội xem lời sau đây của Thánh Tông Ðồ như lời của mình: “Khốn thân tôi nếu tôi không rao giảng Phúc Âm” (1Cor 9,16), và vì thế Giáo Hội không ngừng gửi sứ giả Phúc Âm cho đến khi các Giáo Hội trẻ được trưởng thành hoàn toàn và tự mình tiếp tục việc rao giảng Phúc Âm (opus evangelizandi). Chúa Thánh Thần thúc đẩy Giáo Hội cộng tác với Ngài để hoàn tất trọn vẹn kế hoạch của Thiên Chúa là Ðấng đã đặt Chúa Kitô làm nguyên lý cứu độ cho cả thế giới. Bằng việc rao giảng Phúc Âm, Giáo Hội sửa soạn cho người nghe đón nhận và tuyên xưng đức tin, và chuẩn bị cho họ lãnh phép Thánh Tẩy, đưa họ ra khỏi cảnh nô lệ của sự lầm lạc, tháp nhập họ vào thân thể Chúa Kitô, hầu nhờ đức ái, họ tăng triển mãi trong Người cho đến khi đạt tới viên mãn. Thực ra, những gì (bản tiếng Pháp: germes de bien) thiện hảo trong tâm hồn và tư tưởng của loài người, hoặc trong nghi lễ và văn hóa riêng của các dân tộc, hoạt động của Giáo Hội không nhằm tiêu diệt chúng, nhưng lành mạnh hóa, nâng cao và hoàn thành chúng, hầu làm vinh danh Thiên Chúa, đánh bại ma quỉ và mưu cầu hạnh phúc cho con người. Mỗi môn đệ Chúa Kitô đều có bổn phận góp phần truyền bá đức tin 21. Tuy bất cứ ai cũng có thể ban phép Thánh Tẩy cho những kẻ tin, nhưng chỉ có linh mục mới hoàn tất, xây dựng Nhiệm Thể bằng hy lễ tạ ơn, làm trọn lời Thiên Chúa đã phán qua miệng tiên tri: “Từ đông sang tây, Danh Ta sẽ được lừng lẫy khắp muôn dân; khắp nơi đều sát tế và dâng lễ vật thanh sạch kính Danh Ta” (Mal 1,11) 22. Như thế Giáo Hội vừa cầu nguyện vừa hoạt động để toàn thể vũ trụ biến thành Dân Thiên Chúa, Thân Thể Chúa Kitô và Ðền Thờ Chúa Thánh Thần, và trong Chúa Kitô là thủ lãnh muôn loài, mọi danh dự và vinh quang được dâng lên Chúa Cha Ðấng Tạo Thành vũ trụ. (Bản dịch của Giáo Hoàng Học Viện Pio X).

2- Làm rõ một vài từ

VIỆC TRUYỀN GIÁO: Từ chính thức của HT là MISSIO do bởi động từ MITTERE có nghĩa là gửi đi, sai đi. Ý nghĩa này được nói rõ trong chính bản văn Công Đồng: “Như Chúa Cha sai Người thế nào, Chúa Con cũng sai các Tông Ðồ như vậy (x. Gio 20,21)… vì thế Giáo Hội không ngừng gửi sứ giả Phúc Âm.” Việt Nam quen dùng từ TRUYỀN GIÁO (thiếu ý “được sai”, “được gửi đi” rất căn bản trong căn tính thừa sai của HT). Có người nói là SỨ MẠNG và SỨ VỤ. Từ sau Công đồng Vatican II, Thánh Bộ Truyền Bá Đức Tin (Congregatio pro Propaganda Fidei) được đổi là Thánh Bộ Phúc Âm Hóa (Congregatio Evangelisationis): Không còn “truyền bá” như trong ý “truyền giáo” của Việt Nam, mà là “phúc âm hóa”.

PHÚC ÂM HÓA – dịch từ EVANGELIZATIO. EVANGELIUM trước đây chúng ta gọi là PHÚC ÂM, nay chúng ta quen gọi là TIN MỪNG. Muốn có một động từ Việt cho EVANGELIUM, chúng ta bắt buộc phải dùng từ PHÚC ÂM HÓA (hán việt), không dùng được từ TIN MỪNG HÓA (vì lẫn cả hán cả việt). Trong bản văn trên, khi gặp từ EVANGELIZATIO, dịch giả đã dịch là rao giảng Phúc Âm. Rõ ràng dịch như thế là chưa lột hết ý của EVANGELIZATIO. Vậy ta có thể đồng ý chăng EVANGELIZATIO là làm cho tất cả thành PHÚC ÂM, thành TIN MỪNG? Và chúng ta cũng hãy khẳng định ngay với nhau: TIN MỪNG hay PHÚC ÂM là CHÍNH CHÚA YÊSU KITÔ.

3- Những yếu tố làm thành căn tính truyền giáo (thừa sai – nature missionnaire – missionary nature) của Hội Thánh qua hai bản văn trên đây: HẠT GIỐNG LỜI CHÚA – KẾ HOẠCH CỦA THIÊN CHÚA – PHÚC ÂM và PHÚC ÂM HÓA – CẦU NGUYỆN – CHÚA THÁNH THẦN – GIÁO ĐOÀN – GIÁO HỘI – TRỒNG GIÁO ĐOÀN, TRỒNG GIÁO HỘI SỐNG BẰNG LỜI CHÚA và THÁNH THỂ, TRƯỞNG THÀNH VÀ TIẾP TỤC PHÚC ÂM HÓA VỚI HỘI NHẬP VĂN HÓA.

4- SỨ VỤ JRAI

Từ 1969 đến 1988: Chia sẻ cuộc sống làm Jrai với Jrai. Học sống, học làm, học nói… với Jrai. Giai đoạn Nazareth. Theo Yêsu Nazareth.

Từ 1988 đến 2005: Khi người Jrai xin nhập Đạo, chúng tôi chỉ có cuốn Tân Ước Jrai. Chúng tôi cùng người Jrai đọc và cầu nguyện theo Lời Chúa (Xin thể hiện cho tôi theo như Lời của Ngài). Lời Chúa được coi như Bí Tích – Lc 11, 9-13. Tiêu chuẩn để nhận ra lòng tin của người dự tòng là khi họ bắt đầu biết cầu nguyện (như Ông Kpă Hui-Ama Bloach, Bà Yă Nay H’Pip, Con Ama Tit…). Đánh máy một câu Lời Chúa cho mỗi ngày: trong gia đình ai biết đọc thì đọc cho mọi người cầu nguyện theo. Dần dần lập những nhóm cấu nguyện trong các làng. Nên di chuyển từ nhà này qua nhà khác. Đặc biệt chú ý tới những gia đình có người đau yếu, già cả, gặp khó khăn… Lời Chúa – Cầu Nguyện – Làm Chứng (về ơn ban). Mỗi tuần có một ngày cho nam giới, một ngày cho nữ giới, một ngày cho giới trẻ, một ngày cho những người phục vụ Lời, qui tụ về Nhà Trung Tâm, đọc Lời Chúa – Cầu Nguyện – Làm Chứng (về ơn ban). Lời Chúa lan tràn. Lời cầu nguyện lan tràn. Ơn Chúa lan tràn. Nhiều người trở lại. Người ta kêu anh chị em dự tòng Như Plei Tao Klah), tân tòng (như Plei Buch Sor) đi loan báo Lời Chúa và cầu nguyện. Một sứ vụ cầu nguyện (ĐTC Phanxicô: Đi vào sứ vụ bằng hai đầu gối). Một sứ vụ như thế phù hợp với những người hèn mọn. – Và đối với dự tòng là đọc theo Kêrygma – Lời Khởi Giảng – KẾ HOẠCH CỦA THIÊN CHÚA. Vị giảng thuyết của Nhà Giáo Hoàng, Cha Raniero Cantalamessa, trong bài giảng thứ nhất Mùa Vọng, thứ sáu 07.12.12, tại Vatican trước sự hiện diện của Đức Bênêđictô XVI và giáo triều Rôma:

“Thời đầu HT, có sự phân biệt giữa kêrygma (khởi giảng) và điđakhê (huấn giáo). Trong kêrygma, mà Phaolô cũng gọi là « Tin Mừng »,  có liên quan đến hoạt động của TCh trong Đức Kitô Yêsu, đến mầu nhiệm vượt qua chết sống lại, diễn đạt bằng những mệnh đề ngắn về đức tin, như mệnh đề trong lời lẽ của Phêrô vào ngày Ngũ Tuần : «Các ông đã thủ tiêu Ngài bằng cách đóng đinh Ngài vào thập giá, Thiên Chúa đã cho Ngài chỗi dậy và tôn Ngài làm Chúa» (coi Cv 2, 23-36), hay câu : «Nếu bạn tuyên xưng nơi miệng bạn : Đức Yêsu là Chúa và nếu bạn tin trong lòng bạn : Thiên Chúa đã cho Ngài chỗi dậy từ cõi chết, bạn  được cứu » (Rm 10,9).”

“Điđakhê, trái lại, chỉ giáo huấn ban cho những người đã đón nhận đức tin, sự triển khai, đào tạo toàn diện của tín hữu. Người ta xác tín (nhất là Thánh Phaolô) rằng đức tin đích thật, chỉ xuất hiện với kêrygma. Kêrygma không phải chỉ là tóm kết của đức tin hay là một phần của đức tin, nhưng là mầm giống từ đó xuất hiện mọi thứ còn lại. Bốn tin mừng cũng được viết ra sau, chính là để quảng diễn kêrygma…. Và ngày hôm nay, chính chúng ta – trước tiên là các giám mục, các nhà giảng thuyết, các giáo lý viên – phải làm nổi bật cái tính cách « đặc biệt » của kêrygma như là thời điểm nẩy mầm của đức tin.” Tất cả Tân Ước được viết theo khuôn mẫu Kêrygma. Tất cả Phụng Vụ và các Bí Tích của Hội Thánh được xây dựng theo khuôn mẫu Kêrygma. Đỉnh điểm mà đón nhận và tuyên xưng Đức Kitô là Chúa để Ngài đổ tràn Thần Khí cho (Cv 2, 32-36), để Chúa Thánh Thần thánh hóa (thần hóa, linh hóa) để làm con của Cha (Gal 4, 6), “sống bởi Thần Khí, thì cũng theo Thần Khí mà tiến bước” (Gal 5,25). Thần Khí luôn luôn làm chứng và lôi kéo chúng ta làm chứng với Ngài (Ga 15, 26-27). Ngài luôn xuất phát như trong ngày Hiện Xuống. Ngài là linh hồn của Hội Thánh Thừa Sai.

“Đừng sợ hãi để cho Chúa Thánh Thần hướng dẫn và rộng mở con tim cho các sự mới mẻ của Thiên Chúa”. Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói như trên với hơn 250.000 thành viên các phong trào, và hội đoàn giáo dân trong thánh lễ cử hành lúc 10 giờ rưỡi sáng 19 tháng 5, là lễ Chúa Nhật lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống.

Đức Thánh Cha nêu bật ba yếu tố gắn liền với hoạt động của Chúa Thánh Thần: đó là sự mới mẻ, hòa hợp và sứ mệnh rao truyền Tin Mừng. Ngài nói:

Sự mới mẻ ở đây không phải là vấn đề phải có cái mới, không phải là việc tìm kiếm cái mới để vượt thắng sự nhàm chán, như thường xảy ra trong thời đại chúng ta. Sự mới mẻ mà Thiên Chúa mang đến trong đời ta là điều gì đó thật sự mang lại sự viên mãn, niềm vui đích thực, sự thanh thản đúng nghĩa, bởi vì Thiên Chúa yêu thương chúng ta và chỉ muốn thiện ích cho chúng ta.

Đề cập tới sự hòa hợp là hoa trái hoạt động của Chúa Thánh Thần Đức Thánh Cha nói:

Bề ngoài xem ra Chúa Thánh Thần tạo ra sự mất trật tự trong Giáo Hội, bởi vì Người đem tới sự khác biệt các đặc sủng, các ơn; nhưng dưới hoạt động của Người tất cả điều này, trái lại, là nguồn mạch to lớn cho sự phong phú, vì Chúa Thánh Thần là Thần Khí của hiệp nhất; sự hiệp nhất không có nghĩa là sự đồng nhất, nhưng dẫn đưa tất cả tới sự hài hòa. Trong Giáo Hội Chúa Thánh Thần tạo ra sự hài hòa.

Điểm sau cùng là sứ mệnh rao truyền Tin Mừng. Đức Thánh Cha nói:

“Chúa Thánh Thần thúc đẩy chúng ta mở cửa để ra ngoài, để loan báo và làm chứng cho cuộc sống mới của Tin Mừng, để thông truyền niềm vui của đức tin, của cuộc gặp gỡ với Chúa Kitô. Chúa Thánh Thần là linh hồn của sứ mệnh loan báo Tin Mừng. Điều đã xảy ra tại Giêrusalem cách đây 2000 năm không phải là một sự kiện xa xăm với chúng ta, nhưng là một sự kiện ảnh hưởng tới chúng ta, và là một kinh nghiệm sống động trong chúng ta”.

Đức Thánh Cha đã cảm ơn các tất cả các phong trào, cộng đoàn, đoàn thể, hiệp hội. Ngài nói: “Anh chị em là một ân sủng, và là sự phong phú cho Giáo Hội. Chính anh chị em là sự giầu có của Giáo Hội.”

Cũng trong những ngày ấy, có người hỏi Đức Thánh Cha:

HT mời gọi chúng con vào «tân phúc âm hóa». Con nghĩ rằng tất cả chúng ta ở đây đều nghiệm thấy mạnh mẽ thách đố ở ngay trung tâm những trải nghiệm của chúng ta. Vì thế, thưa Đức Thánh Cha, con xin ĐTC giúp con và giúp tất cả chúng con hiểu và sống thách đố này của thời đại chúng ta. Theo ĐTC, điều gì là quan trọng nhất mà chúng con phải nhìn vào để tiến hành phần vụ mà chúng con được kêu gọi thực thi? Câu trả lời của ĐTC Phanxicô:

Cha sẽ chỉ nói ba từ.

Từ thứ nhất là Yêsu. Điều gì quan trọng nhất ? Đó là Yêsu. Nếu chúng ta dựa vào tổ chức, vào những điều khác, những điều tốt lành, mà không có Yêsu, chúng ta chẳng tiến lên được, chẳng đi tới đâu. Yêsu là quan trọng nhất. Bây giờ, Cha muốn trách chúng con một tí, nhưng một cách huynh đệ, giữa chúng ta với nhau. Anh chị em đã hô lên trong quảng trường : « Phanxicô, Phanxicô, ĐGH Phanxicô ». Nhưng Yêsu, Ngài đâu rồi ? Cha muốn chúng con kêu lên : « Yêsu, Yêsu là Chúa, và Ngài thực sự ở giữa chúng ta ». Từ giờ, không « Phanxicô » nữa, nhưng là « Yêsu » !

Từ thứ hai là: Cầu nguyện. Nhìn vào khuôn mặt của ĐCT, nhưng nhất là, và điều này liên hệ với điều Cha đã nói trước, nghiệm thấy được Chúa nhìn mình. Chúa nhìn chúng ta, Ngài nhìn chúng ta trước. Đó là điều mà Cha nghiệm thấy khi ở trước sagrario (Nhà Tạm) khi Cha đi cầu nguyện, buổi tối, trước Chúa. Vài lần Cha có thiếp ngủ chút ít ; thật sự, vì mệt nhọc suốt ngày, bạn cũng thiếp ngủ chút chút. Nhưng Ngài thì Ngài hiểu Cha. Cha cảm thấy cả một niềm an ủi khi Cha nghĩ là Ngài nhìn Cha. Chúng ta nghĩ là chúng ta phải cầu nguyện, nói, nói, nói… Không ! Bạn hãy để cho Chúa nhìn bạn. Khi Ngài nhìn bạn, Ngài ban cho bạn sức mạnh và giúp bạn làm chứng về Ngài – bởi vì vấn đề là chứng từ đức tin, phải không ? Trước là « Yêsu », rồi « cầu nguyện » – chúng ta cảm thấy ĐCT nắm lấy tay chúng ta. Cha nhấn mạnh tầm quan trọng của việc này là : để cho Ngài dẫn đưa ta. Đây là điều quan trong hơn bất cứ tính toán nào. Chúng ta là những người loan báo Tin Mừng đích thực khi chúng ta để cho Ngài dẫn ta. Chúng ta hãy nghĩ tới Phêrô ; có lẽ ngài đã ngủ trưa, sau bữa ăn, và ngài có một thị kiến, thị kiến về tấm khăn với mọi thứ sinh vật, và ngài đã nghe Chúa Yêsu nói điều gì đó mà ngài không hiểu. Lúc đó, có nhiều người không phải là do thái đến tìm ngài để đến một căn nhà, và ngài đã thấy CTT ở đó. Phêrô đã để cho Chúa Yêsu dẫn để đi tới việc phúc âm hóa đầu tiên cho Muôn Dân, không phải là người Do Thái : đó là một điều không thể tưởng được vào thời đó (coi Cv 10, 9-33). Và tất cả lịch sử là như thế, tất cả lịch sử ! Để cho Yêsu dẫn. Ngài đích thật là lãnh đạo, vị lãnh đạo của chúng ta, là Yêsu.

Và từ thứ ba, làm chứng. Yêsu, cầu nguyện – cầu nguyện: để cho Chúa dẫn dắt – và tiếp đến là làm chứng. Nhưng Cha muôn thêm. Để cho Chúa Yêsu dẫn dắt đưa ta tới những bất ngờ của Chúa Yêsu. Người ta có thể nghĩ rằng phúc âm hóa, là chúng ta phải lên chương trình xung quanh một cái bàn, nghĩ rằng phải có những chiến lược, phải có những dự án. Điều quan trọng là Yêsu và để cho Ngài dẫn dắt. Sau đó chúng ta có thể soạn những chiến lược, nhưng đó là thứ yếu.

Cuối cùng là, làm chứng. Thông truyền đức tin chỉ có thể thực hiện bằng làm chứng và đó là yêu mến. Chứ không phải bằng những ý tưởng của chúng ta, nhưng là bằng tin mừng được sống trong hiện sinh của chúng ta và mà CTT làm cho sống trong chúng ta. Đó như là hiệp lực giữa chúng ta và CTT, và điều đó dẫn tới việc làm chứng. Như Đức GP II và Bênêđictô XVI đã nói, thế giới ngày nay rất cần tới những chứng nhân. Chứ không nhất thiết là những vị thầy, nhưng là những chứng nhân. ACE đừng có nói nhiều quá, nhưng hãy nói bằng tất cả cuộc sống của ACE : sống gắn kết, đúng rồi, một đời đời sống gắn kết! Một đời sống gắn kết ở chỗ sống đạo Kitô như là một sự gặp gỡ với Chúa Yêsu dẫn ta đến với tha nhân, chứ không phải sống như một hiện tượng xã hội. Về mặt xã hội, chúng ta là như thế, chúng ta là những kitô hữu, khép lại trên chính mình. Không, không phải như thế ! Mà là làm chứng !

Giuse Trần Sĩ Tín, CSsR

Cầu Nguyện Là Hơi Thở Của Linh Hồn

Cầu Nguyện Là Hơi Thở Của Linh Hồn

Posted on 09/10/2013 by danchuahiepthong

Thời Cách Mạng Pháp 1789, những người xây dựng chế độ mới muốn đánh đổ tất cả những gì mà họ gọi là tàng tích của mê tín dị đoan. Họ hỏi những người nông dân có muốn từ bỏ tôn giáo của họ không. Một người dân quê mùa chất phác đã trả lời như sau: “Bao giờ các ông làm cho sao trời rơi xuống thì chúng tôi sẽ thôi cầu nguyện”.

Tự đáy tâm hồn mình, con người luôn luôn khát khao và đi tìm Thiên Chúa. Cầu nguyện, dưới hình thức này hay hình thức khác, là hơi thở của tâm hồn. Người ta có thể trói buộc tay chân con người, người ta có thể khóa chặt miệng lưỡi con người, nhưng không ai có thể ngăn cản con người cầu nguyện.

Cầu nguyện là nhựa sống của tâm hồn. Con người có thể chết dần trong thân xác vì bệnh tật, đau đớn hay bị hành hung, nhưng chính sự cầu nguyện nối kết tâm hồn con người với Thiên Chúa và đem lại cho con người sức sống vượt lên trên mọi thử thách và chết chóc.

Trích: Lẽ Sống

Bí quyết giúp con cháu sống Đức Tin Công Giáo

Bí quyết giúp con cháu sống Đức Tin Công Giáo

Posted on 09/10/2013

Bài nói chuyện của cha Nguyễn Uy Sĩ trong “Đêm Gia Đình” hằng tháng do Gia Đình Nazareth tổ chức tại Trung Tâm Công Giáo Giáo phận Orange County.

Mở đầu bài nói chuyện cha cho biết cha sẽ “nói thẳng, nói thật” dựa vào thực tế đời sống…Con cháu chúng ta sống giữa sự pha trộn của hai nền văn hóa khác biệt nhau: Cha mẹ sống theo văn hóa Việt, con cháu lớn lên, đi học sống theo văn hóa Mỹ. Sự tác động qua lại của hai nền văn hóa này rất phức tạp gây nhiều khó khăn trong đời sống gia đình, đặc biệt là đời sống đức tin. Cha đề nghị 7 cách thức đễ giúp con cháu chúng ta sống đức tin Công Giáo tốt hơn.

1. Hãy tạo những kỷ niệm đẹp, đáng nhớ về Đức Tin Công Giáo

Kỷ niệm đẹp về ngày rước lễ lần đầu chẳng hạn, hay những lúc gia đình quây quần ấm cúng đọc kinh tối, những lần đưa đón con đi học giáo lý về lúc trời mưa gió…mẹ con rủ nhau đi ăn phở cho ấm hoặc cả nhà cùng cầu nguyện chung với nhau trước những biến cố quan trọng của gia đình…Khi nhớ lại những kỷ niệm đẹp này sẽ giúp con cháu giữ đức tin sống động hơn.

Nếu không tạo được những kỷ niệm đẹp thì ít ra đừng tạo ra những ấn tượng xấu trong đời sống đức tin như la rầy quát mắng ép con đọc kinh tối dài lê thê “vừa đọc, vừa ngủ” khiến mỗi lần nhớ tới là chúng thấy “ớn”!

Đôi khi đối với giới trẻ tham dự thánh lễ là tham dự một hình thức “lập đi lập lại” đến nhàm chán, rất “boring”! (có lần tôi nghe một cha giảng tỉnh tâm tiết lộ ngay cả các cha, có cha cũng không thích dâng lễ mỗi ngày!?). Trong khi cha mẹ lại cho đó là một cách sống đạo sốt sắng, nhiều khi “nghiện” đi lễ, không đi không được Nhưng chúng ta không có quyền áp đặt bắt chúng phải giống ta, chỉ còn có cách là dùng tình cảm để thuyết phục chúng. Hãy ân cần giải thích cho trẻ hiểu: “Chúa thương và ban ơn cho con rất nhiều.( bao nhiêu người khác không có).

Bây giờ mỗi tuần Chúa chỉ xin con một giờ dự lễ để thờ phượng, cám ơn Chúa, chẳng lẽ con hẹp hòi mà lại nở từ chối không cho Chúa 1 giờ sao”? Nói chuyện tình cảm thì trẻ dễ “thông” hơn là ép buộc.

Thỉnh thoảng cha mẹ cũng nên khéo léo “thưởng” con khi trẻ dự lể sốt sắng, giỏi trong nhà thờ…làm trẻ vui khi được khuyến khích sẽ dễ tiến bộ hơn!

2. Hãy Cho phép con lý luận về mọi vấn đề kể cả về Đức Tin

Văn hóa Việt Nam không cho phép đặt vấn đề hay thắc mắc đối với cha mẹ, thầy cô. Đó là hỗn láo, là vô lễ! Mọi việc “bảo sao, nghe vậy” hoặc “Đặt đâu, ngồi đó” vì “con cãi cha mẹ trăm đường con hư” (Có ông bố “lăng nhăng” bị con bắt gặp, bèn đặt vấn đề thì bố cho là hỗn láo, mất dạy “chuyện của người lớn, chúng bây là con cái không được phép xía vào”!?).

Văn hóa Mỹ cho phép đặt vấn đề đối với mọi việc, có thắc mắc nhiều, trẻ mới có cơ hội mở mang kiến thức và hiểu rõ vấn đề. Nếu trẻ có thắc mắc chính đáng cần phải được trả lời đàng hoàng chứ không dùng lối “cả vú lấp miệng em”! Nếu trẻ thắc mắc về đức tin, đừng “bịt miệng” trẻ mà cứ ôn tồn giải thích cho chúng hiểu, nếu có “bí” thì tìm hỏi cha hay các soeur. Do đó đề nghị ông bà cha mẹ tham dự học các lớp thánh kinh để thông suốt và khỏi bị “bí”.

3. “Ngọt như đường cát, mát như đường phèn”

Lời nói của ông bà xưa vẫn rất đúng: “Nói ngọt, lọt tới xương” dù với văn hóa Việt Nam hay Mỹ, nhưng rất tiếc là ông bà cha mẹ Việt Nam lại thích lối “rầy la đe nẹt” con cháu để ép chúng vào khuôn khổ đạo đức như ý mình muốn, làm chúng có ấn tượng xấu với đời sống đức tin. Chúng ta đã quên mất câu “Nhập gia tùy tục”!

Muốn đạt kết quả tốt chúng ta nên dùng lời ngon ngọt, khuyến khích, khen thưởng sẽ hiệu quả hơn. Thánh Don Bosco cho biết “Một muổng mật ong bắt được nhiều ruồi, hơn một thùng phuy dấm”. Chúng ta phải rành “tâm lý”, ở đời ai chả thích khen, người lớn cũng thích mà trẻ thì lại thích hơn. Cha mẹ thầy cô giáo Mỹ hở ra một tí là khen tíu tít : “Good job” “Excellent”…(Tôi nhớ lúc còn đi dạy nhà trường in ra sẳn cho các cô giáo một trang giấy với cả vài chục cách khen, để cô giáo linh động áp dụng hằng ngày mà khen đủ cách cho học trò vui ).

Trong khi cha mẹ Việt Nam thì ngược lại, hở ra một tí là la rầy, bắt bẽ… “kẻo nó hư”! thành ra trẻ không cảm thấy thích thú khi thi hành những yêu cầu của cha mẹ, nhất là những việc thuộc đời sống đức tin. Nếu muốn sửa dạy, chúng ta cũng nhớ khen trước rồi mới sửa sau thì trẻ sẽ dễ tiếp thu hơn!

4. Cùng phục vụ xã hội, đi làm từ thiện với con cháu…

Khi chúng ta làm những việc từ thiện, bác ái, giúp đỡ người nghèo là chúng ta đang sống đức tin, thực hiện điều răn quan trọng chúa đã truyền dạy là “Chúng con hãy yêu thương nhau”. Chúng ta hãy rủ con cháu cùng tham gia, cộng tác với chúng ta trong các việc làm bác ái này, đừng âm thầm làm một mình! Đó là cách chúng ta giúp chúng phát triễn lòng thương người vốn là truyền thống tốt đẹp của người Việt Nam:

Thuơng người như thể thương thân” hoặc “Thấy ai hoạn nạn thì thương

“Thương người và giúp đở người họan nạn” là điều tốt mà cả hai nền văn hóa Mỹ – Việt đều có. Trẻ con Mỹ cũng rất thương người. Rủ con cháu cùng đóng góp tiền giúp nạn nhân bảo lụt (“của ít lòng nhiều”) cùng đi phát thức ăn cho người vô gia cư…Nếu có dịp đưa chúng về Việt Nam thăm các trại nuôi trẻ mồ côi, người già neo đơn…để chúng ý thức hơn hoàn cảnh tốt đẹp mà Chúa đã ban cho chúng hiện nay.

Ngoài ra cùng đi làm việc từ thiện là cách phát triển tốt đẹp sợi dây thân ái gắn bó với nhau trong gia đình theo chiều hướng tốt đẹp nhất mà chắc chắn Chúa sẽ hài lòng và chúc phúc cho gia đình chúng ta!

5. Đừng phản ứng gắt gao khi con cháu bỏ lễ Chúa nhật…

Đức tin là mối tương quan giữa Chúa và con người. Mối tương quan nào cũng có lúc trầm, lúc bỗng, lúc gần gũi, lúc xa cách. Khi thấy con cháu lớn lên đi học xa, đi làm xa rồi bỏ lễ Chúa nhật, chúng ta đừng hốt hoảng phản ứng gắt gao, nhất là các bà mẹ đừng vật vả than khóc, thất vọng ê chề : “Lạy Chúa chúng bỏ nhà thờ, bỏ đạo mất linh hồn..”! Than khóc, u sầu không giải quyết được gì! Càng làm chúng xa cách chúng ta thêm! Chúng ta phải phản ứng trầm tỉnh, nhắc nhỡ nhẹ nhàng. Cầu nguyện cho chúng, nhắc nhỡ chúng cầu nguyện trước những sự việc quan trọng (thi cử, kiếm việc…) để Chúa ban ơn.

Nếu đã làm hết cách rồi mà không có kết quả thì cũng không nên áy náy, buồn phiền, hãy “phó thác cho Chúa” vì chúng đã lớn khôn rồi!. Chúng ta đã làm hết bổn phận của mình, phần còn lại giao cho Chúa lo liệu, rồi an tâm tin tưởng vào sự quan phòng của Chúa trong mọi sự!

6. Hãy nhớ con cháu luôn quan sát cha mẹ…

Cha mẹ có thói quen hay xem thường con cháu còn nhỏ không biết gì!Thực ra chúng rất khôn và quan sát chúng ta một cách tinh tế! Chúng biết hết nhưng không nói ra, khi có dịp ngồi lại với nhau chúng luôn phê bình cha mẹ là “giả hình” vì cha mẹ đi nhà thờ đọc kinh sốt sắng, giảng dạy cho chúng những điều hay lẻ phải, nhưng khi chúng quan sát trong đời sống hằng ngày, chúng thấy cha mẹ lại làm ngược lại: nói xấu bạn bè, chê bai người này, phê bình người nọ, nói dối tối đa khi cần để có nhiều quyền lợi, đôi khi còn xúi chúng nói dối theo, không tôn trọng lẽ công bằng…mà vẫn sống vô tư như mình chẳng có lỗi gì!

Nhiều cha mẹ nếu thành khẩn nghiêm túc xét lại bản thân chắc sẽ giật mình vì chúng ta đã làm gương xấu cho con cháu! “Trăm nghe không bằng một thấy”, chúng ta hãy giảng dạy bằng đời sống và hành động theo phúc âm, chắc chắn sẽ có tác dụng giáo dục đức tin tốt hơn bằng lời nói suông! Đối với giới trẻ trắng đen phải rõ ràng minh bạch, chúng không thích kiểu “nói một đàng, làm một nẻo” hay mỉa mai hơn khi sửa lại câu nói để đời của Tổng Thống Nguyễn văn Thiệu mà vẫn thấy chí lý:

“Đừng nghe những gì cha mẹ nói, mà hãy nhìn kỹ những gì cha mẹ làm”!

Đức Tân Giáo Hoàng Phanxicô cũng vừa đưa ra lời kêu gọi giáo dân đừng sống giả dối, mà hãy sống thành thật với Chúa và với mọi người!

7. Cầu nguyện với Chúa cho con cháu

+ Để thánh ý Chúa được thực thi trên đời sống con cháu

chứ không phải để ý con được thực hiện trên nó. Có cha mẹ, con muốn đi tu nhưng không cho vì tiếc! Có cha mẹ ép con phải học bác sĩ dù nó không thích! Cách đây vài năm ở vùng Graden Grove có một vụ án mạng con trai bóp cổ mẹ chết, chỉ vì bà mẹ cương quyết bắt con phải học bác sĩ dù con không muốn!. Thực ra ngành nghề nào cũng tốt, quan trọng là nhân cách tốt, chứ học ra bác sĩ mà bất nhân, bất lương (lừa gạt bệnh nhân, gian lận Medical…) thì xấu hổ lắm!

+ Ăn chay, hãm mình, hy sinh để cầu nguyện cho con cháu

Trước đây tôi vẫn nghĩ đó là truyền thống bên đạo Phật, họ ăn chay để cầu nguyện và cám ơn khi xin được ơn! Đây là một truyền thống tốt đẹp, chắc các bà mẹ nghe cha nói từ nay sẽ lo ăn chay hãm mình nhiều hơn để cầu nguyện cho con cháu.

+ Luôn nói với con cháu là mình đang cầu nguyện cho nó

Phần này tôi có kinh nghiệm vì tôi vẫn thường nói với con tôi “Mẹ cầu nguyện cho con mỗi ngày”, chúng nghe lơ là như không để vào lổ tai, nhưng khi chúng gặp khó khăn trong đời sống, hay trước những sự việc gì quan trọng là chúng nhớ gọi và dặn dò tôi “Mẹ nhớ cầu nguyện nhiều cho con nghen”! Như vậy là trong tiềm thức chúng vẫn tin vào lời cầu nguyện, vẫn tin vào Chúa…

Buổi nói chuyện được kết thúc bằng bài hát “Bao La tình Chúa” với sự hợp ca của tất cả mọi người để cùng thấm thía:

“Hồng ân chúa như mưa, như mưa
Rơi xuống đời con miên man, miên man
Nâng đỡ tình con trong tay, trong tay vòng tay thương mến

Đời có Chúa êm trôi, êm trôi, Chúa dắt dìu con luôn luôn không thôi
Có Chúa cùng đi con không đơn côi! Ôi tình tuyệt vời”!

Phượng Vũ

Dòng suối ân tình

Dòng suối ân tình

(Lc 17, 15)


Thiên Phúc


Trong một chuyến bay từ Rôma về Nữu ước, Đức Tổng Giám Mục Fulton Sheen chăm chú nhìn cô tiếp viên hàng không đang đi lại phục vụ quí khách. Thấy cử chỉ lạ của Đức Tổng, cô tiếp viên mạnh dạn đến gần và hỏi:

– Thưa Đức cha, có chuyện gì mà Đức Cha lại nhìn con như thế?

Vị Tổng Giám Mục nhoẻn miệng cười đáp:

– Vì đôi mắt của con rất đẹp!

– Vậy con phải làm gì để cám ơn Chúa đây?

– Con ạ! Chúa đã lấy tất cả sắc đẹp của từng người phong trong trại cùi Di Linh mà đem tặng cho con. Vậy con hãy đến đó chăm sóc cho họ mà đền đáp ơn Chúa.

Quả thật, chỉ ít lâu sau người ta đã thấy người phụ nữ xinh đẹp này ngày đêm tận tuỵ băng bó những vết thương lở loét cho các bệnh nhân phong, tại trại cùi Di Linh dưới lớp áo dòng nữ tu.
***
Phong cùi là một bệnh nan y khó trị, ai cũng ghê tởm và run sợ nếu mắc phải bệnh này. Vào thời Chúa Giêsu nó còn khoác vào người bệnh nỗi nhục nhã trong tâm hồn, vì người ta cho rằng họ là những người bị Thiên Chúa phạt. Những người mắc bệnh cùi bị ruồng bỏ, bị coi là nhơ nhớp, phải sống cách ly trong một làng cùi xa mọi người, xa cả người thân. Phải mặc áo rách, để đầu trần, lấy áo che miệng và phải hô lên rằng mình có bệnh truyền nhiễm và nhơ nhớp để cho người lành biết mà tránh xa (x. Lv 13, 1-44).
Thế mà, trong bài Tin Mừng hôm nay kể lại chỉ một lời Chúa Giêsu phán ra thì vết thương của thể xác và nỗi đau trong tâm hồn bao năm đè nặng bỗng tan biến hết. Căn bệnh quái ác mà họ cứ tưởng phải gánh chịu suốt cả cuộc đời, nỗi ô nhục mà họ cứ tưởng sẽ vĩnh viễn theo họ sang bên kia thế giới, thì nay đã được hoàn toàn tẩy xoá. Chỉ nhờ quyền năng và lòng thương xót của Thiên Chúa mà họ như đã chết nay được hồi sinh, niềm vui rộn rã như vỡ oà trong tim.

Trớ trêu thay trong mười người được hưởng ơn chữa lành vô cùng lớn lao ấy, chỉ có một người biết dâng lời tạ ơn, mà người ấy lại là người Samari ngoại đạo. Còn những người vẫn tự hào là dân Thiên Chúa, dân riêng Chúa chọn lại sống vô ơn.

Chúa Giêsu phải thốt lên lời quở trách: “Không phải cả mười người được sạch cả sao? Thế thì chín người kia đâu? Sao không thấy họ trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại bang này?” (Lc 17, 17-18). Sở dĩ Chúa Giêsu xem trọng lòng biết ơn cũng là vì ích lợi của kẻ được ơn mà thôi. Người Samari trở lại tạ ơn Thiên Chúa đã ban cho anh ơn phần xác, thì Người lại ban thêm cho anh ơn phần hồn là củng cố niềm tin và xác định tư cách tôn giáo của anh. Người nói: “Đứng dậy về đi! Lòng tin của anh đã cứu chữa anh” (Lc 17, 19). Như thế, cám ơn lại là cơ hội để nhận được thêm ơn.

Cuộc sống là một chuỗi những ân huệ nối tiếp theo nhau. Những ân huệ này đan xen với những ân huệ khác. Có những ơn do nơi Thiên Chúa, và cũng có những ơn đến từ con người. Vậy nếu cuộc sống là lãnh nhận thì người ta sẽ như thế nào nếu không hề biết nói hai tiếng cám ơn, hoặc chẳng bao giờ bày tỏ tấm lòng tri ân! Thú vật còn biết vẫy đuôi cám ơn khi ném cho nó cục xương, còn người vô ơn khi nhận được ân huệ chỉ biết trố mắt nhìn và câm lặng.

Một đứa trẻ mới bập bẹ tập nói trong một gia đình có giáo dục, thì tiếng “cám ơn” luôn nằm sẵn trên bờ môi. Một người có nhân cách thực sự là một người có lòng biết ơn. Một người luôn thể hiện lòng biết ơn mới đích thực là con người. Lòng biết ơn là nét cao đẹp nhất của con người. Biết ơn là nhận ra thân phận bất toàn của mình. Biết ơn là ý thức về tình liên đới với người khác. Biết ơn là thể hiện niềm tin vào Thiên Chúa yêu thương và quan phòng. Vì thế, lòng biết ơn chính là bông hoa rực rỡ, điểm tô cho cuộc sống con người. Một tiếng nói “cám ơn” với tất cả chân thành, một cử chỉ biết ơn sâu xa sẽ làm cho chúng ta nên người hơn, và thể hiện niềm tin sâu sắc hơn.

Cả cuộc sống của Chúa Giêsu là một “bài ca tạ ơn”. Người tạ ơn Cha trước khi cho Ladarô sống lại, trước khi làm phép lạ hoá bánh và cá ra nhiều, trước khi lập phép Thánh thể. Người không chỉ là mẫu mực về lòng biết ơn mà còn dạy chúng ta thể hiện lòng biết ơn ấy: “Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy”. Kể từ đó, mỗi thánh lễ mà Giáo Hội cử hành được gọi là Thánh lễ Tạ ơn.

Thánh Phaolô luôn dâng lời tạ ơn lên Chúa: “Tôi hằng cảm tạ Thiên Chúa của tôi vì anh em, về ân huệ Người đã ban cho anh em nơi Đức Kitô” (1 Cr 1, 4). Ngài cám ơn tất cả những ai giúp ngài trong công việc mục vụ: “Quà anh em tặng cho tôi đó, chúng khác nào hương thơm, lễ vật đẹp lòng Thiên Chúa và được Người chấp nhận” (Pl 4, 10). Như vậy, câu ngạn ngữ Anh nói rất chí lý: “Cho người có lòng biết ơn chính là cho vay”.

***

Lạy Chúa, suốt cuộc đời chúng con ngụp lặn trong đại dương ân huệ của Chúa, suốt đời chúng con được tắm mát trong dòng suối ân tình của anh em.

Xin cho chúng con luôn biết sống có tình nghĩa. luôn thế kiện lòng biết ơn, luôn quí trọng những hồng ân mà Chúa đã thương ban, và những gì mà anh em đã làm cho đời chúng con thêm tươi đẹp và hạnh phúc hơn. Amen.

Têrêsa  Ngọc Nga

Hạnh phúc trường cửu

Hạnh phúc trường cửu

Tháng Mười 6, 2013 by Trần Đình Hoành

Chào các bạn,


Tìm kiếm thì không yên ổn. Nếu bạn tìm một chiếc chìa khóa bị mất chẳng hạn, bạn chẳng thể ngồi yên một chỗ, hay nằm ngủ, để tìm. Bạn phải tìm kiếm khắp nơi, lục tung tóe khắp chỗ, để tìm.

Cho nên, bạn không thể có được giác ngộ nếu bạn tìm giác ngộ, vì tìm kiếm là tung tóe mà giác ngộ là tĩnh lặng, an lạc, Niết bàn, hạnh phúc trường cửu.

Đừng nhầm lẫn hạnh phúc trường cửu với sướng vui chốc lát. Ví dụ: yêu là sướng vui. Nhưng mất người yêu là đau khổ. Cho nên yêu không phải là hạnh phúc trường cửu.

Nhưng một trái tim giác ngộ thì có bình an và hạnh phúc trường cửu, vì trái tim giác ngộ đã biết cách làm cho mình tĩnh lặng và an lạc vĩnh viễn, không còn những xung động tạo nên những nhồi dập nhức nhối trong lòng.

Hạnh phúc trường cửu là khả năng của trái tim của bạn luôn luôn tĩnh lặng trước mọi sự vật, mọi sự kiện, mọi con người, mọi biến chuyển, mọi thay đổi, mọi hoàn cảnh… An lạc nội tâm không lệ thuộc vào điều gì cả, ngoại trừ khả năng của bạn giữ trái tim luôn tĩnh lặng. Ồ, mà đã đến mức đó rồi thì bạn không cần giữ trái tim tĩnh lặng–trái tim bạn đã biết cách để luôn tĩnh lặng.

An lạc nội tâm là không bám vào “tôi”, không bám vào “tôi là”, không bám vào “cái của tôi, cái tôi thích, cái tôi không thích”—tức là vô ngã.

“Không bám vào” không có nghĩa là “không sờ đến”. “Không bám vào” có nghĩa là “có sờ đến thì cũng không bị dính mắc”: có tiền cũng không dính mắc vào tiền, có danh cũng không dính mắc vào danh, có quyền lực cũng không dính mắc vào quyền lực… Có cũng được, không có cũng được, chẳng màng có với không. Đó là “không bám vào”. Đó là vô chấp.

Vô ngã thì vô chấp.

Vô ngã, vô chấp, thì tĩnh lặng và an lạc. Đó là hạnh phúc vĩnh cửu.

Đó là cái nền bạn đứng bên trên để chinh phục thế giới.

Chúc các bạn luôn hạnh phúc.

Mến,

TÂM LÝ ĐÁM ĐÔNG

TÂM LÝ ĐÁM ĐÔNG

Có một hiện tượng phổ biến trong xã hội hôm nay mà người ta gọi là “tâm lý đám đông”, “sống theo phong trào”.  Do hiện tượng này, việc đánh giá một hành động hay một lời nói không còn dựa trên những chuẩn mực đạo đức của truyền thống hay của các tôn giáo, nhưng dựa theo đám đông.  Một hành động tự nó là xấu, nhưng có nhiều người làm, thì tự nhiên nó bớt xấu đi, thậm chí hành động đó được coi là bình thường.  Và, một khi được coi là bình thường, thì không cần phải áy náy hay bận tâm về “tính luân lý” của hành động đó nữa.  Cách đây vài chục năm, việc một cặp vợ chồng bỏ nhau là điều hổ nhục cho hai dòng họ, vì thế mà cha mẹ đôi bên tìm đủ mọi cách để hàn gắn những rạn nứt, vừa để bảo vệ hạnh phúc gia đình, vừa giữ thể diện với những người xung quanh.  Ngày nay, tình trạng ly hôn ngày càng nhiều, nên nhiều bậc cha mẹ và các bạn trẻ dựa vào “tâm lý đám đông” để lập luận: “Ôi giào, xung quanh ta có đầy người làm thế”.  Và như thế, một việc tự nó là không bình thường đã trở nên bình thường vì có nhiều người làm như vậy.  Có thể kể đến lối suy nghĩ tương tự về nạn phá thai, nghiện ngập, trộm cắp hay nhiều loại hình tệ nạn khác.

Báo chí tuần qua thu hút nhiều quan tâm của độc giả khi đưa những thông tin về một sự kiện có liên quan đến ngành y.  Tại bệnh viện đa khoa Hoài Đức (Hà Nội), có một số dược sĩ vì lòng tham đã “nhân bản” những kết quả xét nghiệm, xào xáo nhằm trục lợi từ quỹ bảo hiểm.  Chị Hoàng Thị Nguyệt, công tác tại Khoa Xét nghiệm Bệnh viện đa khoa Hoài Đức và hai đồng nghiệp đã không chấp nhận việc làm trái lương tâm đó, nên đã can đảm tố cáo hành vi gian lận.  Điều ngạc nhiên là sau khi chị Nguyệt phát đơn tố cáo thì chị bị đuổi việc và bị tố cáo ngược lại.  Cấp trên đã can thiệp, chị Nguyệt và hai người đồng nghiệp được trả lại danh dự, nhưng trong một khung cảnh bất bình thường, theo kiểu “mặt cười miệng mếu”.  “Sáng 16-8-2013, lãnh đạo Sở Y tế Hà Nội đã tổ chức khen thưởng cho chị Hoàng Thị Nguyệt và hai người có đơn tố cáo sai phạm xảy ra tại Bệnh viện Đa khoa Hoài Đức.  Nhiều ý kiến cho rằng buổi lễ chỉ diễn ra trong vòng 30 phút sơ sài, buồn tẻ, hình thức, đặc biệt mức thưởng 320.000 đồng cho một người là quá ít, thậm chí là “xúc phạm người tố cáo tiêu cực” (VnExpress ngày 19-8-2013).

Qua sự kiện này, chúng ta thấy rõ ảnh hưởng của tâm lý đám đông.  Vâng, chị Nguyệt và hai người đồng nghiệp là những người lương thiện, đáng khen, nhưng đối với phần lớn tập thể cán bộ nhân viên của bệnh viện Hoài Đức, thì chị không có chỗ ở đây, vì chị không nghĩ như họ, không đồng quan điểm với họ.  Trong khi một số đông toa rập với nhau để làm những điều khuất tất nhằm trục lợi, thì chị suy nghĩ và hành động ngược lại.  Chị không hành động giống như đám đông, như tập thể.  Chị giống như một cung đàn rất hay nhưng lạc điệu giữa một mớ âm thanh hỗn tạp nhằm phục vụ lợi ích một số cá nhân đang muốn vơ vét cho đầy túi tham.  Vì thế, trong cơ quan này, không có chỗ cho chị.  Tố cáo người làm sai là việc tốt, nhưng trong bối cảnh xã hội mà xem ra ở đâu cũng sai như thế, thì việc tố cáo lại coi là không bình thường và khó chấp nhận.  Vì thế mà những người phụ nữ này đã buồn bã kết luận: “đấu tranh” thì “tránh đâu”.

Trong thông điệp đầu tiên của mình, Đức Thánh Cha Phanxicô đã viết: “Ngày nay, chân lý thường bị giảm xuống thành sự xác thực chủ quan của mỗi người, chỉ có giá trị cho cuộc sống cá nhân” (Lumen Fidei, số 34). Tâm lý đám đông cũng đang ảnh hưởng tai hại đến đời sống đức tin và luân lý.  Đức tin bị coi là một hành vi cá nhân, tùy chủ quan nhận định của mỗi người.  Khá nhiều bạn trẻ lơ là với việc sống đạo vì họ lập luận xung quanh mình có nhiều người cũng thế.  Nhiều bạn trẻ đua theo phong trào sống thử, phá thai, vì nghĩ rằng đó là một lối sống của xã hội mới, xã hội hiện đại và nhất là vì có rất nhiều người cùng quan điểm với họ.  Họ đã đánh mất cảm thức về tội, không còn áy náy lương tâm khi phạm tội.  Họ lợi dụng danh nghĩa tự do để làm bất cứ điều gì họ muốn.  Họ giống như người đã trót vấy bùn đen, tiếp tục nhấn chìm vì nghĩ đàng nào cũng đã nhiễm bùn rồi.  Kết quả là những cuộc đời không có tương lai, trở thành gánh nặng đè lên vai người thân.  Cũng cần nhắc đến trách nhiệm của những bậc phụ huynh trước tâm lý đám đông.  Có những người cha người mẹ không quan tâm đến đời sống đức tin cũng như đạo đức xã hội của con cái mình.  Không ít người đã chép miệng thanh minh “thời thế bây giờ nó như vậy”.

Chúng ta không để dòng nước “thời thế” lôi cuốn.  Con người thụ động để cho dòng đời lôi cuốn sẽ tự biến mình thành một khúc gỗ trôi sông.  Chỉ có con người có bản lĩnh mới dám can đảm lội ngược dòng, “tâm bất biến giữa cuộc đời vạn biến”.

“Hãy chiến đấu qua cửa hẹp mà vào (Nước Trời)” (Lc 13,24).  Chúa Giêsu đề nghị với chúng ta một giải pháp, một con đường để đạt tới hạnh phúc.  Tâm lý đám đông bao giờ cũng tạo ra những con đường dễ dãi, hấp dẫn đối với mọi người.  Thời nào cũng thế, người ta có khuynh hướng lảng tránh những hy sinh, khước từ những cố gắng.  Và khi tìm những điều dễ dãi để đáp ứng những nhu cầu của bản năng, người ta tìm ra đủ mọi thứ lập luận bảo vệ cho hành động và lối sống của mình.  “Bước qua cửa hẹp” còn có nghĩa là đi qua cửa có tên là Giêsu, vì chính Người tuyên bố: “Tôi là cửa, ai qua tôi mà vào thì sẽ được cứu” (Ga 10,9).  Đi qua cửa Giêsu tức là nhận làm môn sinh và nỗ lực thụ giáo với Người.

Hạnh phúc Nước Trời là kết quả của những cố gắng của cá nhân mỗi người chứ không phải là dựa vào đám đông.  Thánh Phaolô khuyên giáo dân Philipphê “Anh em hãy biết kính giới và run sợ mà gia công lo việc cứu rỗi chính mình” (Pl 2,12).  Giữa cuộc đời đầy biến động chao đảo này, người Kitô hữu được mời gọi can đảm sống theo sự thật, noi gương Đức Giêsu, Đấng đã đến để chiếu rọi ánh sáng vào cuộc đời tối tăm, là vị Chứng Nhân trung thành, Đấng yêu mến chúng ta và lấy máu mình rửa sạch tội lỗi chúng ta (x. Kh 1,5-8). Sự chọn lựa ý muốn của Chúa Cha đã khiến Người phải trả giá là khổ hình thập tự, nhưng Người đã đón nhận trong sự vâng phục và trung thành để qua đó, vinh quang Chúa Cha được thể hiện qua biến cố đau thương này.

Đại uý James Mulligan là một tù binh Hoa Kỳ bị bắt và cầm tù năm 1966 tại trại giam Hỏa Lò (Hà Nội).  Trong tối tăm của ngục tù, anh vẫn vững vàng cậy trông.  Mỗi ngày, anh đều lần hạt Mân côi và cầu nguyện với Chúa: “Lạy Chúa, xin cho con sức mạnh và lòng kiên quyết vững vàng.  Chẳng có ai hay biết ngoài một mình con với Chúa, nhưng chỉ cần như vậy mà thôi.  Chúa đã chịu khổ hình vì niềm tin của Chúa, còn con đây cũng đang chịu khổ hình vì niềm tin của con.  Đúng vẫn là đúng cho dù không ai đúng cả; còn sai vẫn là sai cho dù mọi người đều sai hết” (trích trong bài thuyết trình của tiến sĩ Charles Rice, nhân ngày lễ ra trường của sinh viên đại học Notre-Dame, Hoa Kỳ, tháng 5-2010.  Bài thuyết trình có tựa đề: Thiên Chúa không hề chết, Ngài cũng chẳng mỏi mệt).

“Có thì nói có, không thì nói không, thêm thắt điều gì là do ác quỷ (Mt 5,37), một điều tưởng chừng như rất đơn giản mà trong thực tế không dễ dàng thực hiện, bởi lẽ chúng ta có khuynh hướng sống theo đám đông, “gió chiều nào che chiều đó”.  Vì thế mà nhiều khi ta đánh mất chính mình, và cũng vì thế mà cái ác, cái xấu vẫn đang tồn tại trong cuộc sống chúng ta.

GM Giuse Vũ Văn Thiên

From: langthangchieutim