Phương Cách Xóa Nghèo

Phương Cách Xóa Nghèo

Một người nghèo hỏi Đức Phật:


– Tại sao con nghèo như thế? Phật nói:

– Vì con chưa học được cách bố thí cho người khác. Người ấy hỏi:

– Con không có thứ gì cả, thì lấy gì con bố thí.” Đức Phật dạy:

– Cho dù con hoàn toàn không có cái gì, con vẫn có thể thực hiện bố thí 7 thứ


1. Nhan thí – Bố thí nụ cười,

2. Ngôn thí – Bố thí ái ngữ, nói lời hay.


3. Tâm thí – Bố thí tâm hòa ái, lòng biết ơn.


4. Nhãn thí – Bố thí ánh mắt nhìn thẳng hiền từ.

5. Thân thí – Bố thí hành động nhân ái.


6. Tọa thí – Bố thí nhường chỗ cho người cần.


7. Phòng thí – Bố thí lòng bao dung

S.T.

Hoa Trắng -Thơ Thánh Gioan-Phaolô II, Lê Đình Thông dịch -Phạm Đức Huyến-Cẩm Tú-DuyHân & Đổi Cả Thiên Thu Tiếng Mẹ Cười-thơ Trần Trung Đạo-Võ Tá Hân-

Hoa Trắng -Thơ Thánh Gioan-Phaolô II, Lê Đình Thông dịch -Phạm Đức Huyến-Cẩm Tú-DuyHân.

httpv://www.youtube.com/watch?v=2abpHeX_6WA

Đổi Cả Thiên Thu Tiếng Mẹ Cười -thơ Trần Trung Đạo – Võ Tá Hân-

httpv://www.youtube.com/watch?v=QTKNqHRbSqc&list=PLC88148E8B9056B56&index=1

MÔI-SÊ THỤ GIÁO

MÔI-SÊ THỤ GIÁO

Có người đã kể về Môi-sê như sau:

Trước khi được sai đi lãnh đạo cuộc giải phóng dân Do thái khỏi ách nô lệ bên Ai cập, Môi-sê đã đến thụ giáo với một vị thầy nổi tiếng tại vùng núi Ma-đi-an.

Qui luật tối thượng mà vị này buộc Môi-sê phải giữ trong suốt thời gian thụ huấn là tuyệt đối giữ thinh lặng.

Ngày ngày thầy trò cùng ngao du sơn thủy.  Ðứng trước núi non hùng vĩ và bao vẻ đẹp của thiên nhiên, Môi-sê cảm thấy không gì dễ và thích thú cho bằng được ở thinh lặng.

Thế nhưng, một hôm, khi hai thầy trò đang đi dọc theo bờ biển, Môi-sê bỗng thấy một bé trai đang chới với trong nước, và người mẹ kêu la cầu cứu inh ỏi.  Môi-sê không thể giữ im lặng được trước một cảnh tượng như thế.  Ông cất tiếng hỏi thầy:

– Thưa thầy, thầy không làm gì để cứu đứa bé sao?

Nhưng vị thầy làm dấu bảo thinh lặng rồi tiếp tục đi.

Môi-sê bước theo thầy mà lòng không yên chút nào.  Ông cứ suy nghĩ tại sao thầy mình lại nhẫn tâm như thế?  Ði được một đoạn Môi-sê bỗng dừng lại giơ tay chỉ ra biển và nói với thầy:

– Thầy nhìn kìa, cả một chiếc thuyền chở đầy người đang đắm kìa!

Lại một lần nữa Môi-sê được thầy ra lệnh giữ thinh lặng và tiếp tục đi, như thế họ không cần phải quan tâm đến những gì đang xảy ra trước mắt.

Tâm hồn nhạy cảm của Môi-sê càng bối rối thêm nữa.  Ông đưa chuyện ấy thưa với Chúa và muốn biết tại sao thầy mình đã cư xử như vậy.  Chúa đã biện minh cho cử chỉ của thầy như sau:

– Thầy của con hoàn toàn có lý.  Ðứa bé chới với bên bờ biển chỉ là một dàn cảnh để khai mào một cuộc chiến tranh khốc liệt giữa hai dân tộc.  Còn chiếc thuyền đang đắm ngoài khơi là thuyền của một bọn cướp đang chuẩn bị tấn công một ngôi làng ven biển.

Thầy của con đã có lý, để giữ con đứng bên ngoài những hành động tội ác ấy.

******************************************

Tư tưởng và hành động của Thiên Chúa thường không giống với tư tưởng và hành động của con người.

Thánh Kinh kể lại rằng Môi-sê đã được nuôi dưỡng trong triều đình Ai cập, nhưng ông vẫn luôn ý thức được nguồn gốc Do thái của mình.

Một hôm chứng kiến cảnh một người Ai cập hành hạ một người Do thái.  Nhìn chung quanh không thấy có ai, Môi-sê đã ra tay giết chết người Ai cập rồi vùi xác người đó dưới cát.  Ngày hôm sau thấy hai người Do thái đang xâu xé nhau, Môi-sê đến can thiệp.  Nhưng một trong hai người đã đe dọa tố cáo ông về tội giết người Ai cập hôm trước.  Bị bại lộ, Môi-sê đành rời bỏ cung điện và trốn lên núi.

Môi-sê đã tưởng mình hành động đúng.  Ông không biết rằng Chúa đang có một chương trình, một kế hoạch đòi hỏi ông phải suy nghĩ, chờ đợi và kiên nhẫn hơn.

Sống đức tin là một hành trình đi vào kế hoạch của Thiên Chúa.  Qui luật tối thượng của cuộc hành trình ấy chính là thinh lặng.

Thinh lặng trước những ồn ào, dành dật của cuộc sống.  Thinh lặng trước những đam mê sôi sục và những tính toán đê hèn.

Thinh lặng để không ngừng lắng nghe tiếng Chúa trong từng giây phút, từng biến cố của cuộc sống.

R. Veritas

******************************************

Lạy Thiên Chúa, Đấng ưa thích sự thinh lặng, xin dạy chúng con thinh lặng để ở một mình với Ngài, trò chuyện, lắng nghe và thấm nhuần Lời Hằng Sống.

Xin dạy chúng con thinh lặng nơi con mắt, biết nhắm lại trước những vấp váp của tha nhân, biết quay đi trước những dịp tội gây xao xuyến.

Xin dạy chúng con thinh lặng nơi đôi tai,để nghe được tiếng kêu của người nghèo đói, để khép lại trước những mời mọc của ma quỷ.

Xin dạy chúng con thinh lặng nơi miệng lưỡi, để biết ca tụng Chúa và đem lại an vui cho muôn người, tránh cho mọi lời nói gây đau đớn đổ vỡ.

Xin dạy chúng con thinh lặng nơi trí khôn,để mở ra trước sự thật và khép lại trước dối trá.

Cuối cùng xin dạy chúng con thinh lặng nơi quả tim,để tránh xa mọi ích kỷ,thù hằn,ghen ghét,để yêu mến và ước ao Thiên Chúa trên hết mọi sự. Amen!

From: ngocnga_12

 

ĐÂY CHIÊN THIÊN CHÚA

ĐÂY CHIÊN THIÊN CHÚA

TGM Ngô Quang Kiệt

Trong Thánh Lễ, ta đọc Chiên Thiên Chúa nhiều lần.  Có lẽ ít người hiểu được ý nghĩa của cụm từ “Chiên Thiên Chúa”.  Nhưng khi Gioan Baotixita giới thiệu Chúa Giêsu cho dân Do Thái: “Đây là Chiên Thiên Chúa” thì người Do Thái hiểu rõ ý nghĩa của từ ngữ.

Trong Kinh Thánh, chiên được dùng làm biểu tượng cho những người hiền lành, đạo đức.  Trong dụ ngôn về ngày phán xét, Chúa đã tách chiên ra khỏi dê.  Chiên ở bên phải, dê ở bên trái.

Thế nhưng chiên còn có một ý nghĩa sâu xa hơn.  Hằng năm, vào Lễ Vượt Qua của người Do Thái, mỗi gia đình có tục lệ ăn thịt một con chiên.  Phải lựa con chiên non dưới một năm tuổi, tốt đẹp, không tì vết.  Người Do Thái ăn thịt Chiên Vượt Qua, không phải để mừng mùa đông đã qua và mùa xuân vừa mới khởi đầu.  Nhưng là để kỷ niệm ngày Chúa giải phóng họ khỏi ách nô lệ Ai Cập.

Lễ Vượt Qua được cử hành vào đầu mùa xuân.  Người Do Thái nhớ đến con chiên.  Con chiên đã chết cho họ được sống.  Máu chiên đã đưa họ ra khỏi mùa đông tăm tối, tiến vào mùa xuân tươi sáng.  Máu chiên đã giúp giải thoát khỏi ách nô lệ Ai Cập, đưa họ về miền Đất Hứa, sống trong tự do.

Chúa Giêsu đã chịu tử hình vào dịp Lễ Vượt Qua của người Do Thái.  Bữa tiệc ly chính là tiệc Lễ Vượt Qua mà Chúa Giêsu ăn với các môn đệ.  Chịu chết vào dịp Lễ Vượt Qua, Chúa Giêsu chính là con chiên của Thiên Chúa bị sát tế để cứu nhân loại.

Chúa Giêsu là con chiên hiền lành, không hé môi khi bị đem đi xén lông.  Người khiêm nhường gánh lấy tội lỗi nhân loại.

Bản tiếng Việt dịch là Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian.  Từ ngữ “xóa” là một cách nói văn hoa nhẹ nhàng, nhưng không lột hết ý nghĩa của nguyên ngữ.  Tiếng Hy Lạp dùng từ ‘airein’, tiếng La tinh dùng từ ‘tollit’ có nghĩa là nhận lấy vào mình, gánh lấy, vác lấy.  Có lẽ nên dịch là Chiên Thiên Chúa, Đấng ‘gánh’ lấy tội nhân loại thì đúng hơn.  Xóa là đứng ngoài cuộc.  Đức Giêsu không đứng ngoài cuộc.  Người đã nhập cuộc, gánh lấy thân phận con người, và nhất là gánh lấy tội lỗi của con người.  Chính vì gánh lấy tội lỗi mà Người, Đấng hoàn toàn trong sạch, vô tội đã chịu hạ mình xếp hàng giữa những người tội lỗi xin Gioan rửa tội.  Chính vì gánh lấy tội lỗi nhân loại mà Người lui tới với những người tội lỗi, chuyện trò với họ, ăn uống đồng bàn với họ.  Nhưng nhất là chính vì gánh lấy tội nhân loại mà Người phải chịu chết giữa hai tội phạm, đồng số phận với họ, đồng bản án với họ, như những người trộm cướp.

Người gánh lấy tội của ta để ta được tha thứ.  Người hạ mình xuống để ta được nâng lên.  Người trở nên nghèo hèn để ta được giàu có.  Người làm con loài người để ta được làm con Thiên Chúa.  Người trở nên yếu hèn để ta được nên mạnh mẽ.  Người chịu nhục nhã để ta được vinh quang.  Người nhận lấy thân phận nô lệ để ta được tự do.  Người cam lòng chịu chết để trả lại cho ta sự sống.

Người tín hữu thường được gọi là “Con chiên của Chúa”.  Danh hiệu đó ngầm chứa một lời cầu chúc: Mong cho người tín hữu được xếp vào loại ‘chiên’ trong ngày phán xét.  Được đứng bên hữu Vua Thẩm Phán.  Được vào hưởng vinh quang trong nước Chúa.

Nhưng danh hiệu đó phải chăng cũng gợi lên một ước mong.  Ước mong người tín hữu sống theo gương của Chiên Thiên Chúa.  Ước mong những con chiên con nối gót theo chiên mẹ đầu đàn đi vào con đường hiền lành khiêm nhường.  Ước mong đoàn chiên tự hiến đời mình như một của lễ dâng lên Thiên Chúa.  Và ước mong đoàn chiên gánh lấy số phận của người khác, để yêu thương, đoàn kết, liên đới, chia sẻ với anh em tất cả mọi niềm vui nỗi buồn của họ.

Lạy Chiên Thiên Chúa, Đấng gánh tội con, xin thương xót con.

TGM Ngô Quang Kiệt

From: langthangchieutim

 

 

Hãy tin tưởng Mẹ Maria

Hãy tin tưởng Mẹ Maria

THANH ANH NHÀN

Tôi vốn là một người ngoại giáo, đã trở về với Chúa được hơn 8 năm nay là nhờ hồng ân của Đức Mẹ Maria. Ngày ấy, thằng con trai duy nhất của tôi bị ung thư máu và xuất huyết não nặng, nằm bệnh viện hơn một tháng mà bệnh không thuyên giảm, tình hình ngày một xấu đi. Và cuối cùng các bác sĩ đành bó tay cho về. Lòng tôi quặn đau, ruột gan tơi bời, tôi chết lặng mang con ra xe mà không cầm được nước mắt. Chồng tôi phờ phạc cả người, thẫn thờ như người mất trí…
Ngồi trên xe tôi bỗng để ý trước mặt tôi; một tấm ảnh Đức Mẹ của người Công Giáo, dán trên cửa kính xe với dòng chữ bên dưới tấm ảnh đập vào mắt tôi thật rõ: “Hãy tin tưởng vào Mẹ Maria, bạn sẽ thấy phép lạ là gì.” Sau này tôi được biết, đó là tấm ảnh Đức Mẹ Phù Hộ các Giáo Hữu, Đức Mẹ bế trên tay Chúa Giêsu, đầu Chúa và Mẹ đều đội triều thiên rất đẹp; và lời nói trên là của Thánh Don Bosco, một vị Thánh sống rất đẹp lòng Đức Mẹ.

Như người chết đuối vớ được phao, tôi mừng rỡ nhìn thật sâu thật lâu vào tấm ảnh với một lòng cậy trông, đặt hết tin tưởng vào Mẹ, qua lời người đã viết bên dưới bức ảnh. Tôi thưa với Đức Mẹ: “Thưa Bà, con là người ngoại đạo, con xin bà cứu chữa con của con. Con chỉ có một đứa con trai duy nhất, con con bị bệnh nặng, các bác sĩ đã chê và cho về, con biết chỉ có Bà mới cứu được con con khỏi tay tử thần. Bà ơi, con đặt hết lòng tin tưởng vào Bà, con van xin Bà cứu chữa con của con.”
Lòng tôi thì hết sức van vái, trong khi miệng tôi lẩm nhẩm kêu nài, vừa cầu xin tôi vừa nhìn lên bức ảnh với những dòng nước mắt chảy dài. Con tôi nằm trên tay, thằng bé chưa đầy mười tuổi đầu, mặt xanh nhợt, người mềm như sợi bún, nằm im như một xác chết vô hồn. Nhìn con rồi nhìn người đàn bà bế đứa trẻ trong bức ảnh, tôi nhủ thầm: “Bà ơi! Bà đã từng làm Mẹ, Bà cũng có con, Bà thấu rõ nỗi đau khổ của người mẹ đang cay đắng khổ sở thế nào khi mất đứa con! Xin Bà lấy lòng từ bi thân mẫu cứu sống con tôi. Tôi xin hứa với Bà nếu con tôi sống, gia đình tôi sẽ xin theo Đạo. Và dù chỉ có một đứa con trai duy nhất, tôi cũng xin dâng nó cho các Ngài, để suốt đời nó được phụng sự các Ngài…”
Xe chạy đường dài, mệt mỏi với những đêm thức nuôi con bệnh, tôi mệt mỏi thiếp đi khi lòng trí vẫn mơ màng cầu xin ơn cứu tử… Đang thiu-thiu ngủ mê ngủ mệt, tôi nghe tiếng động trở mình của con tôi, mở mắt ra, tôi thấy tay chân cháu quờ quạng như muốn nói điều gì, mắt nó mở to nhìn tôi thật lâu, rồi tự dưng nó nhoẻn miệng cười. Trời ơi! Thế này là thế nào? Tôi muốn hét lên: Con tôi tỉnh rồi! Ôi tôi mừng quá! Tôi sung sướng quá…
Tôi lặng người líu lưỡi gọi ba nó ngồi trên băng trước. Vội vàng, anh lao người xuống quì cạnh con, gục đầu trên thằng bé, cảm động đến tràn trề nước mắt… Thì ra anh cũng nhìn thấy tấm ảnh và cũng đã có những lời cầu xin tha thiết với Đức Mẹ như tôi. Nhìn con nằm im, gương mặt thoải mái dễ chịu, không tỏ vẻ đau đớn như những ngày trước, tuy cháu còn mệt và chúng tôi hỏi gì cháu cũng chỉ mỉm cười mà không nói. Bác tài xế nghe sự tình cũng xúc động rơi nước mắt đến nỗi bác phải ngừng xe lại, và thầm thĩ cầu nguyện để cảm ơn Bà đã cứu sống con tôi…
Rồi xe chạy một lát về tới nhà. Cháu tỏ ý muốn được ngồi dậy, xuống xe một cách yếu ớt đi vào nhà. Tôi và ba cháu chẳng hiểu sự việc làm sao, nhưng lòng đầy tin tưởng rằng chính Bà trong ảnh đã cứu con mình… Dìu cháu từng bước đi vào nhà mà tôi cứ như người trong mơ…
Về đến nhà, qua một tuần lễ ăn uống nghỉ ngơi lấy sức, cháu đã trở lại bình thường như không có bệnh gì. Tôi không cho cháu uống thêm thuốc bệnh, nhưng có cắt thêm thuốc bổ để cháu mau lại sức.
Sau đó một thời gian, tôi đưa cháu đi kiểm tra lại sức khỏe, qua siêu âm thử máu và làm các xét nghiệm, thì các bác sĩ vô cùng ngạc nhiên, vì không còn phát hiện ra mầm mống một chút gì của căn bệnh nan y này nữa. Họ bảo gia đình tôi: “Đây là một trường hợp hiếm có mà khoa học không thể giải thích được.”
Có một bác sĩ Công Giáo sau khi nghe tôi kể, đã bảo tôi nên đi xin lễ tạ ơn ở một Nhà Thờ nào đó. Và tôi đến đã xin các Cha ở DCCT dâng lễ tạ ơn vì con tôi được khỏi bệnh.
Qua sự việc này, gia đình tôi biết chắc chắn có bàn tay của Đức Mẹ đã thực hiện quyền phép của người, để cứu giúp những ai đặt hết lòng cậy trông, tin tưởng nơi Ngài khi gặp nguy khốn. Bằng chứng là Ngài đã chữa lành con tôi.
Để tỏ lòng cảm tạ ân nhân, tôi xin chủ xe tấm ảnh để hằng ngày được nhìn thấy và cầu nguyện với Ngài. Ông lái xe thật là người tốt, sẵn sàng biếu ngay. Ngoài vợ chồng tôi, ông là người được chứng kiến phép lạ đầu tiên, rồi cũng chính ông sau này đã lo liệu mọi sự, giúp đỡ chúng tôi trở thành người Công Giáo.
Thưa các bạn, suốt từ ngày tôi trở lại đạo Công Giáo đến giờ, tôi thấy mình luôn vui, sống có hy vọng, sống có ích, biết quan tâm giúp đỡ những người chung quanh, thay vì sống thờ-ơ chỉ biết có mình… Tôi cũng cùng sinh hoạt với các bà các chị trong hội đoàn của Giáo Xứ. Ở lối xóm lại biết chia sẻ cho nhau niềm vui nỗi buồn, mỗi tuần cùng đến nhà nhau đọc kinh liên gia. Tôi thấy cuộc sống gia đình chúng tôi rất ý nghĩa, không còn nhàm chán như trước…
Trong gia đình vợ chồng con cái biết yêu thương kính trọng nhau, nhờ được học hỏi để biết cầu nguyện và suy gẫm Lời Chúa. Con trai tôi cũng biết vâng lời cha mẹ, chăm chỉ ngoan ngoãn học hành, lại thường xuyên sinh hoạt Giáo Lý trong Nhà Dòng của các cha Don Bosco. Và được sự đồng ý như lời hứa của tôi với Đức Mẹ, cháu rất ước ao mong mỏi được dâng mình vào Nhà Chúa để lo việc phụng thờ Ngài…
Vâng! Lạy Chúa, cuộc đời còn lại của con xin được là một bài ca cảm tạ hồng ân vì những ơn lành của Chúa và Mẹ đã ban cho gia đình con, và sẽ là suối nguồn hạnh phúc mà Ngài tiếp tục ban cho chúng con mãi-mãi muôn đời. Amen. Amen… Tạ ơn Chúa…

THANH ANH NHÀN

Hà Nội : Tập hợp tưởng niệm các chiến sĩ hy sinh ở Hoàng Sa

Hà Nội : Tập hợp tưởng niệm các chiến sĩ hy sinh ở Hoàng Sa

Biểu tình tại Hà Nội kỷ niệm 40 năm trận hải chiến Hoàng Sa, 19/01/1974-19/01/2014

Biểu tình tại Hà Nội kỷ niệm 40 năm trận hải chiến Hoàng Sa, 19/01/1974-19/01/2014

REUTERS/Kham

Thanh Phương

RFI

Hôm nay, 19/01/2014, đúng 40 năm trận hải chiến Hoàng Sa, khoảng hơn 100 người, trong đó có hàng chục nhà hoạt động, đã tập hợp tại thủ đô Hà Nội để kỷ niệm 40 năm trận hải chiến Hoàng Sa, tri ân những chiến sĩ Hải quân Việt Nam Cộng Hòa đã hy sinh tại Hoàng Sa, đồng thời phản đối Trung Quốc xâm lược.

Cuộc biểu tình đã diễn ra ở khu vực tượng đài Lý Thái Tổ bất chấp sự ngăn cản của công an. Theo các hình ảnh được đăng trên các trang mạng, những người biểu tình đã mang theo các khẩu hiệu như “Tổ Quốc ghi công – Đời đời nhớ ơn các Anh hùng bảo vệ Hoàng Sa 19/1/1974”, “Đời đời nhớ anh anh hùng Ngụy Văn Thà và đồng đội”, hoặc « Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam ».

Bị công an xua đuổi hoặc phá rối bằng các loa phóng thanh cực lớn, đoàn người biểu tình sau đó đã di chuyển về phía bờ hồ để tiếp tuần hành, trước khi giải tán. Đây là cuộc biểu tình phản đối Trung Quốc đầu tiên trong năm nay.

Trả lời RFI Việt ngữ hôm nay từ Hà Nội, nhà báo độc lập Nguyễn Hữu Vinh mô tả cách thức mà công an phá rối cuộc tập hợp ở Hà Nội và cho biết là những người tham gia tưởng niệm rất phẫn uất trước hành động của công an :

Nhà báo Nguyễn Hữu Vinh

 

19/01/2014

 

Nghe (02:30)

 

 

 

Trận hải chiến Hoàng Sa đã diễn ra từ ngày 17 đến 19/01/1974. Mặc dù các chiến sĩ Hải quân Việt Nam Cộng Hòa đã chiến đấu anh dũng, nhưng do tương quan lực lượng bất lợi, họ đã không thể bảo vệ được quần đảo Hoàng Sa. Tổng cộng 74 chiến sĩ đã hy sinh trong trận này.

Theo ghi nhận của AFP, tuy có nhiều bài nói về kỷ niệm 40 trận hải chiến Hoàng Sa, nhưng báo chí chính thức của Việt Nam không hề loan tin về cuộc tập hợp tưởng niệm hôm nay ở Hà Nội.

 

Các vụ án tham nhũng bộc lộ sự rạn nứt của phe phái chính trị ở VN

Các vụ án tham nhũng bộc lộ sự rạn nứt của phe phái chính trị ở VN

Từ trái: Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng, Tổng bí thư Đảng Nguyễn Phú Trọng, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, và Chủ tịch nước Trương Tấn Sang

Từ trái: Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng, Tổng bí thư Đảng Nguyễn Phú Trọng, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, và Chủ tịch nước Trương Tấn Sang

Marianne Brown

17.01.2014

HÀ NỘI — Trong vài tháng qua Việt Nam đã tiến hành một số phiên tòa để xét xử những vụ án tham nhũng lớn trong khuôn khổ của một chiến dịch chống tham nhũng. Chính phủ nói rằng họ đang dùng những biện pháp trừng phạt nghiêm khắc để ngăn ngừa tệ nạn tham ô. Thông tín viên VOA Marianne Brown tường thuật rằng những người chỉ trích nói những vụ xử này cũng là một phần của cuộc tranh giành quyền lực đang diễn ra trong hàng ngũ lãnh đạo cấp cao.

Tuần trước, nguyên chủ tịch đại công ty hàng hải quốc doanh Vinalines, ông Dương Chí Dũng, đã đưa ra một lời tố cáo gây sốc.

Phát biểu tại phiên tòa xử người em trai ông về tội giúp ông bỏ trốn ra nước ngoài, ông Dũng nói rằng ông đã hối lộ nửa triệu đôla cho Thứ trưởng Bộ Công an Phạm Quý Ngọ để tránh bị truy tố.

Việc phanh phui những vụ hối lộ như vậy là một ưu tiên của chiến dịch chống tham nhũng mà chính phủ đang thực hiện với cường độ mỗi ngày một tăng.

 

Ông Dương Chí Dũng, cựu chủ tịch đại công ty hàng hải quốc doanh Vinalines

Ông Dương Chí Dũng, cựu chủ tịch đại công ty hàng hải quốc doanh Vinalines

Những cuộc điều tra trong thời gian qua đã khiến cho mấy mươi quan chức chính phủ lãnh án tù và một số án tử hình, trong đó có ông Dương Chí Dũng, là người đã bỏ trốn sang Campuchia sau khi Vinalines suýt bị phá sản với khoản nợ khoảng 3 tỉ đôla.

Tiến sĩ Alexander Vuving, một nhà nghiên cứu của Trung tâm Nghiên cứu An ninh Á châu Thái bình dương, cho biết những sự khó khăn của nền kinh tế Việt Nam đã thu hút sự chú ý của nhiều người tới vấn đề quản lý sai trái và hối lộ tại các công ty quốc doanh và Đảng Cộng Sản đương quyền hiểu rõ sự phẫn nộ của công chúng. Ông Vuving nói:

“Họ thật sự muốn làm một số việc để cho người dân trông thấy nhằm khôi phục sự chính danh của chế độ và cứu chế độ thoát khỏi nạn tham ô. Họ đang dùng những phiên tòa xử tham nhũng để ngăn chận những vụ tham nhũng trong tương lai. Họ cũng dùng những phiên tòa này như một công cụ tuyên truyền để phục hồi niềm tin của công chúng.”

Tuy nhiên, một số những người chỉ trích nói rằng chiến dịch thanh trừng này có dính líu nhiều hơn tới một cuộc tranh giành quyền lực trong nội bộ đảng giữa Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng.

Ông Vuving cho rằng Thủ tướng Dũng là người thuộc phe “trục lợi”, những người lợi dụng chức vụ để làm giàu mà không mang lại lợi ích cho xã hội, và chống lại phe này là phe “chống tham nhũng” nằm dưới sự lãnh đạo của ông Trọng, là người đang cầm đầu chiến dịch trấn áp hiện nay. Ông nhận định:

“Tôi tin rằng trong hàng ngũ chóp bu của Đảng Cộng Sản Việt Nam có những người tương đối không bị hoen ố vì tham nhũng, nhưng cũng có những người dính líu hết sức nhiều tới các hành vi tham ô. Vì vậy, trong Bộ Chính trị có cả nước và lửa.”

Chiến dịch chống tham nhũng đã truy tố một số quan chức và thương gia nổi tiếng và có liên hệ mật thiết với Thủ tướng Dũng.

Giáo sư Carl A. Thayer

Giáo sư Carl A. Thayer

Giáo sư Carl Thayer của Đại học New South Wales ở Australia cho rằng điều này cho thấy chiến dịch hiện nay dính líu tới sự hiềm khích chính trị nhiều hơn là tới mục tiêu cải thiện công tác điều hành việc nước. Giáo sư Thayer nhận định:

“Việc bài trừ tham nhũng thật ra là nhắm tới ông thủ tướng vì ông ấy chịu trách nhiệm và những người tay chân cùng với bạn bè của ông ấy chính là những người được hưởng lợi từ những vụ tham nhũng.”

Tuy những phiên tòa xử tội tham nhũng đã được giới truyền thông tường thuật cặn kẽ, nhưng có ít dấu hiệu cho thấy việc này làm cho người dân tin là chính phủ thật sự muốn diệt trừ tham nhũng.

Ông Jairo Acuca-Alfaro, Cố vấn chính sách về cải cách hành chánh công và chống tham nhũng của Chương trình Phát triển Liên hiệp quốc tại Việt Nam, nói rằng để làm cho dân chúng tin tưởng, giới hữu trách cần phải thay đổi cách hành xử của các quan chức cấp thấp, những người tiếp xúc hàng ngày với dân chúng. Ông nói:

“Tất cả những vụ án đang được bàn tới là những việc xa vời đối với người dân bình thường. Điều mà người dân Việt Nam mong muốn là có một guồng máy hành chánh trong sạch, không có tệ nạn lạm quyền, không có thái độ thiếu tôn trọng người dân. Để thực hiện được mục tiêu, có một số việc phải làm để giải quyết vấn đề tưởng lệ, để các quan chức chính phủ bàn thảo công khai và minh bạch về những sự tưởng lệ đó, về những gì họ sẽ nhận được từ khu vực công và sau đó họ sẽ chỉnh đốn công việc.”

Nhà hoạt động chống tham nhũng Lê Hiền Đức (giữa) trong một cuộc biểu tình chống Trung Quốc ở Hà Nội

Nhà hoạt động chống tham nhũng Lê Hiền Đức (giữa) trong một cuộc biểu tình chống Trung Quốc ở Hà Nội
Bà Lê Hiền Đức, 82 tuổi, là một người tranh đấu chống tham nhũng nổi tiếng. Mỗi ngày bà nhận được hàng chục lá thư của những người xin giúp đỡ từ khắp nơi trong nước. Bà cho biết bà đang theo dõi sát vụ án Vinalines. Bà nói:

“Về luật thì tôi không biết là tội gì thì tử hình, tội gì thì 20 năm tù, 15 năm tù. Về luật thì tôi không nắm, tôi không quan tâm. Nhưng mà, tôi thì tôi nghĩ rằng làm hại cho đất nước không thể được.

Bà Đức nói thêm rằng không nên để cho những vụ án này che mờ mục tiêu lớn hơn là bài trừ tham nhũng tận gốc rễ.

Thắng hay thua ta được gì trong những lần vợ chồng tranh cãi?!

Thắng hay thua ta được gì trong những lần vợ chồng tranh cãi?!

Trần Mỹ Duyệt

Trong đời sống hôn nhân, vợ chồng bất hòa, lời qua tiếng lại, giận hờn là chuyện thường tình xảy ra. Nguyên nhân đến từ sự kết hợp giữa hai con người, giữa hai khối óc, và giữa hai trái tim. Nếu có những đồng cảm, thì cũng có những bất đồng. Nếu có những hiểu nhau, thì cũng có những lúc vợ chồng hiểu lầm nhau. Nhưng câu hỏi mà rất ít người muốn nghĩ tới mỗi khi có chuyện xẩy ra đưa đến tranh cãi, đó là “thắng hay thua ta được gì trong khi đã là vợ chồng?”

Kinh nghiệm thường ngày khi đối diện với những trường hợp vợ chồng tranh cãi nhau, thường là cả hai đều muốn dành phần thắng về mình. Cho mình là đúng, là phải và người chồng hay người vợ là sai, là trái. Cũng có những trường hợp mặc dù biết là mình sai, nhưng do tự ái, không muốn mất mặt với chồng hoặc vợ nên vẫn cố gắng ngụy biện những lý lẽ để được phần thắng. Những trường hợp như vậy gọi là “cãi cối”, là “ngang”, là “gàn”.

Cố gắng dành phần thắng cho mình. Đó là một trong những yếu tố khiến cho rất nhiều cuộc tranh cãi khởi đi từ những chuyện nhỏ mọn, không đâu nhưng cuối cùng đã dẫn đến những hậu quả thật tồi tệ: Vợ chồng bất hòa, giận hờn, có khi trở thành thù ghét nhau. Vì một khi cái tôi của mình bị xúc phạm, thì không ai muốn nhường nhịn, và không ai muốn mình bị coi thường, bị chà đạp. Cái tôi lúc đó cần được bảo vệ bằng bất cứ giá nào để nó không thể bị thua kém ai, mặc dù trên thực tế lúc bình thường cái tôi đó không là gì. Từ ngữ thông thường gọi là khi “tự ái bị va chạm!”.

Để dành cho được phần thắng, để ăn thua đủ với nhau, bước đầu tiên là vận động tư tưởng, ngôn ngữ, và cách diễn tả cốt sao trấn át được, đè bẹp được đối phương. Vợ chồng không ai nghe ai mà chỉ có người nói. Lúc đầu chỉ là lời qua tiếng lại nhỏ đủ hai người nghe, những từ từ tiến đến to tiếng, lấn át tiếng nói của nhau. Khi lời nói bắt đầu vượt tầm kiểm soát của lý trí, cũng là lúc nói cho thỏa những gì đang nung nấu trong tâm hồn, mà không cần biết người mình đang nói với có nghe, có hiểu và có đón nhận những tiếng nói, những gì mình muốn diễn tả hay không? Nhưng đón nhận làm sao được khi mà người kia cũng đang lên giọng, đang gào thét, lấn át và muốn mình phải im tiếng!

Bước kế tiếp là làm tổn thương tình cảm, sự tin tưởng, lòng kính trọng của nhau. Lúc này cuộc tranh cãi không dừng lại ở việc xử dụng ngôn ngữ mà còn dẫn đến những hành động tay chân – hành động ngược đãi nhau. Đây là hậu quả tai hại nhất, tồi tệ nhất của một cuộc cãi vã.

Dù trong khi cãi nhau chỉ có người nói mà không có người nghe, và mặc dù trong hai vợ chồng, ai cũng nghĩ rằng mình nói hay, nói đúng và nói có lý lẽ. Nhưng một điều mà ít ai để ý đến, đó là mục đích của các cuộc tranh cãi ấy cũng như hậu quả của nó. Cãi để làm gì? Và được thì được gì? Cũng như thua thì mất gì?!

Cãi để chứng tỏ mình đúng và có lý. Sau một hồi cãi nhau, cả vợ cũng như chồng, ai cũng cho rằng mình thắng, người khác thua, nhưng thực tế thì cả hai đều là những kẻ thua cuộc. Thua thì nhiều mà thắng chẳng bao nhiêu!

Thông thường nếu có thắng thì cũng chỉ là cái thắng của “tự ái” để vỗ về cái tôi của mình. Thắng vì tự ái được ve vuốt. Thắng vì cái tôi được chồng hoặc vợ biết đến. Nhưng thua thì sao? Thua trong những cuộc cãi vã giữa hai vợ chồng thì hậu quả rất nhiều.

– Sứt mẻ tình cảm: Sự sứt mẻ tình cảm luôn xẩy ra cho cả người thắng và kẻ thua. Nó đòi hỏi một thời gian ngắn hay dài tùy vào mức độ, lời lẽ, hoặc hành động xúc phạm đến nhau trong lúc tranh cãi để phục hồi. Nếu sự sứt mẻ này không được hàn gắn sớm, nó sẽ trở nên cay đắng và đẩy xa mối liên hệ vợ chồng, đem đến giận hờn, tránh mặt nhau.

– Tự ái bị tổn thương: Dĩ nhiên, sau những màn chửi bới, chê bai nhau, người thua cuộc sẽ nhận ra điều này là mình đã làm cho tự ái của người mình yêu bị tổn thương bằng chính tự ái của mình. Không ai dù là vợ hay chồng lại cảm thấy vui khi chồng mình, vợ mình dùng những lời lẽ cay đắng, thiếu tế nhị và hành động lỗ mãng xúc phạm đến mình. Tình yêu dành cho vợ, cho chồng càng nồng nàn, càng mạnh mẽ, càng tha thiết bao nhiêu thì khi bị người yêu xúc phạm, nó càng trở thành vết thương sâu đậm cần thời gian dài để băng bó, hàn gắn.

– Thiếu trưởng thành tâm lý: Hậu quả rõ ràng nhất, và làm khó chịu đối với người phối ngẫu là thái độ và cung cách sống thiếu trưởng thành về mặt tâm lý của vợ hay chồng mỗi khi tranh cãi. Trong những lúc tranh cãi như vậy, người ta dễ đánh mất thái độ trưởng thành là không làm chủ được mình, làm chủ được tính nóng nảy, giận hờn của mình. Không phải chỉ trong những cách cư xử với nhau hằng ngày, mà ngay cả khi có những bất đồng, điều cần thiết nhất là thái độ bình tĩnh và hiểu biết.

– Sa sút niềm tự tin: Càng nóng giận bao nhiêu, càng dễ nói năng hồ đồ, lời lẽ và hành động thiếu kiểm soát bấy nhiêu. Càng nóng giận bao nhiều thì càng làm mất đi sự tự tin ở chính mình bấy nhiêu. Thái độ trưởng thành tâm lý đưa đến sự tự tin, cái nhìn và cách phán đoán khách quan ở con người mình. Người hay cãi vã, tranh luận chứng tỏ khả năng làm chủ được những ngoại cảnh, khả năng tự kiểm soát nơi mình yếu kém.

– Mất dần sự tin tưởng và kính trọng: Mất dần sự tin tưởng và kính trọng là một trong những hậu quả theo sau những lần tranh cãi. Người chồng hay vợ sẽ tạo nên ấn tưởng xấu về mình, về người phối ngẫu của mình. Sự tin tưởng và kính trọng là một phần trong những yếu tố xây dựng tình yêu, đặc biệt đối với tâm lý của phụ nữ.

– Lu mờ tình yêu:  Nhưng hậu quả tai hại nhất của tranh cãi, chửi bới nhau là làm cho tình yêu vợ chồng ngày càng trở nên lu mờ. Hình ảnh dễ thương của người vợ, người chồng sẽ trở nên mờ nhạt trước con mắt người phối ngẫu. Thay vào đó là hình ảnh tiêu cực, hình ảnh xấu của người chồng hoặc người vợ. Tình yêu sẽ mất dần vẻ hấp dẫn, thu hút, và nóng bỏng và thay vào đó bằng thái độ hững hờ, lạnh nhạt và đôi khi vô cảm.

Trong đời sống thường ngày vợ chồng rất khó tránh khỏi những va chạm, hiểu lầm có khả năng đưa tới tranh cãi, hoặc lớn tiếng. Và cũng trong đời thường, ít cặp vợ chồng nào lại có thể luôn luôn hòa hợp, luôn luôn làm hài lòng nhau, nhất là không bao giờ có những bất hòa ít là trong cung cách sống và trong lời nói. Tuy nhiên, sự trưởng thành tâm lý cũng cho biết rằng, con người vẫn có thể tránh được hay giảm thiểu những bất đồng trong đời sống vợ chồng khi tự làm chủ được mình, làm chủ được những gì đang xẩy ra quanh mình. Có nhiều trường hợp sau những tranh cãi, giận hờn thì cả hai mới nhận ra nguyên nhân chính của cuộc tranh cãi ấy chỉ là một sự hiểu lầm, điều mà cả hai có thể tránh được nếu như chỉ một trong hai người biết bình tĩnh và tự chủ. Napoléon đã nói một câu rất chí lý về tinh thần tự chủ, kiểm soát bản thân: “Thắng một vạn quân không bằng thắng chính mình”.

Tóm lại, câu hỏi luôn cần thiết được đặt ra cho mỗi lần vợ chồng có chuyện hiểu lầm, bất hòa đưa đến tranh cãi, đó là cãi thắng thì được gì, và cãi thua thì mất gì? Vợ chồng tìm gì sau những lần tranh cãi như thế, vì ngoài việc tự ái được ve vãn, vuốt ve, phần thưởng cho người thắng trong những lần cãi vã sẽ chẳng có gì là cao cả, vẻ vang. Ngược lại, hậu quả tai hại của những lần tranh cãi như thế là đánh mất sự bình an của tâm hồn, gây xáo trộn trong gia đình và tiếp đến là tình yêu vợ chồng bị sứt mẻ.

Hãy thay thế thời gian cãi vã bằng những giây phút vợ chồng tâm sự và chia sẻ chân tình. Hãy thay thế sự nóng giận, bực tức bằng thái độ bình tĩnh, tự chủ, vì: “Giận mất khôn!” Và hãy dùng những lời lẽ âu yếm, tích cực để nói với nhau như đã từng nói lúc vợ chồng hòa thuận, cảm thông thay vì những lời cay đắng làm chua xót lòng nhau.  Người xưa thật chí lý khi nói: “Một nhịn chín lành!”.

(Bài viết đã được đăng trên Việt Tide số phát hành ngày 11 tháng 10 năm 2013)

Người Tù Binh Trở Về

Người Tù Binh Trở Về

Thanh Vân phóng tác theo “Le retour du prisonnier” của André Maurois

tubinh

Sau đây là một câu chuyện có thật. Chuyện xảy ra vào mùa xuân 1945, trong một thành phố của nước Pháp tạm gọi là Chardeuil, mà vì những lý do ngoài ý muốn ,chúng tôi không thể nêu tên thật ra được.

Câu chuyện bắt đầu từ trên một chuyến xe lửa chở những người tù Pháp từ Đức trở về. Họ ngồi từng nhóm 12 người một trong những toa tàu chỉ để dành cho mười người mà thôi. Vì vậy, họ phải ngồi thật sát vào nhau, nhưng chẳng ai để ý hay tỏ dấu phiền hà gì về chuyện đó cả. Mọi người, tuy đã kiệt sức vì những năm tháng tù đày và chuyến hành trình quá dài, vẫn thấy lòng nôn nao hạnh phúc vì họ biết rằng, sau năm năm vắng nhà , họ đã về lại được Quê Hương, sẽ được nhìn lại mái nhà yêu dấu và nhất là sẽ được gặp lại gia đình.

Hình như trong đầu óc của mọi người, hình ảnh nổi bật nhất là hình ảnh người đàn bà, người vợ thương yêu mà họ đã phải xa vắng mấy lâu nay. Mặc dù phần đông đều nghĩ về vợ mình với tất cả lòng thương nhớ , nhiều người vẩn không giấu nổi sự lo lắng, bồn chồn. Không hiểu người vợ có còn như xưa , vẩn trung thành hay đã thay đổi ? Vợ họ đã chứng kiến những gì , đã làm gì trong thời gian họ vắng nhà ? Không hiểu sự cô đơn kéo dài có làm cho họ sờn lòng và phản bội lại người chồng đang bị cầm tù ở một nước khác hay không ? Những người tù đã có con thì còn cảm thấy yên bụng , dù sao vợ họ vẩn còn phải chăm sóc con cái và không thể sống buông thả , tự do quá được. Những đứa con là những sợi giây ràng buộc giúp họ thoát khỏi sự cô đơn và cám dỗ trong những ngày xa nhau.

Trong góc trái của toa xe, một người đàn ông cao lớn nhưng gầy ốm ngồi thật yên lặng, đôi mắt ông sáng ngời trong khuôn mặt căng thẳng vì chờ đợi và suy tư. Đó là ông Renaud Leymarie, quê quán ở Chardeuil thuộc miền Nam nước Pháp. Con tàu vẫn chạy đều trong đêm tối , tiếng còi tàu cùng tiếng bánh xe nghiến trên đường sắt càng làm cho lòng người ly hương đang trở về thêm bồn chồn, háo hức. Người đàn ông chợt nói với người bạm đồng hành ngồi sát bên ông ta :

-Anh đã có vợ chưa hở anh Saturnin ?

-Tôi đã có vợ hai năm trước chiến tranh và đã có hai con . Vợ tôi tên Marthe! Anh muốn xem hình nàng không ?

Saturnin là một người đàn ông nhỏ bé và vui tính. Anh ta rút từ trong chiếc ví cũ ra một tấm hình đã bị rách vài nơi.

-Vợ anh đẹp quá! Leymarie nói. Anh có lo lắng gì trong lần trở về này không ?

-Lo lắng ? Tôi điên lên vì mừng thì có! Tại sao lại lo lắng ?

-Tại vợ anh đẹp, vợ anh lại ở nhà một mình và ngoài đời có thật nhiều đàn ông.

-Anh làm tôi buồn cười quá! Không có một người đàn ông nào khác trong đời vợ tôi cả! Chúng tôi đã từng sống thật hạnh phúc bên nhau. . . Anh có muốn xem những bức thơ vợ tôi viết cho tôi suốt trong năm năm nay hay không ?

-Thơ từ chẳng chứng minh được gì cả. Tôi cũng vậy, tôi đã nhận được thật nhiều những lá thơ thật đẹp, thật nồng nàn . Vậy mà sao lòng tôi vẫn cảm thấy lo lắng ?

-Bộ anh không tin tưởng ở vợ của anh hay sao ?

-Có chứ!. . .! Lúc đầu mới xa nhau , tôi không tin ai bằng tin vợ tôi cả. Chúng tôi đã ở với nhau sáu năm và trong thời gian đó , chưa có một đám mây nào có thể làm vẩn đục được hạnh phúc của chúng tôi. . .

-Vậy tại sao bây giờ. . . ?

-Đó chỉ là chuyện thường tình thôi ông bạn ạ! . . . Tôi là một người không khi nào tin tưởng được vào hạnh phúc của chính mình. . . Tôi lúc nào cũng nhủ thầm rằng Hélène, vợ tôi, quá đẹp, quá tuyệt vời, quá thông minh đối với một người như tôi. Nàng là một người có kiến thức rộng và hình như chuyện gì có bàn tay nàng nhúng vào đều thành công tốt đẹp cả. Nàng cầm khúc vải, khúc vải biến ngay thành cái áo thật đẹp, nàng trang hoàng một túp lều , nó sẽ biến thành một thiên đàng nơi hạ giới. . . . Vì vậy, trong lúc chiến tranh , có thật nhiều người đàn ông đã đến thành phố này ẩn náu. . . Và trong những người đó, có biết bao nhiêu người hơn tôi trên tất cả mọi phương diện. . . Lại còn những người ngoại quốc , những người lính đồng minh. . . Họ tất nhiên đã phải để ý đến ngay người đàn bà đẹp nhất thành phố. . .

-Rồi có làm sao đâu ?. . . nếu vợ anh vẫn yêu anh ?

-Anh bạn nói rất đúng ! Nhưng anh thử đặt địa vị của anh vào địa vị của nàng. Năm năm sống cô đơn, thêm nữa, thành phố này đâu phải là thành phố của nàng. Tôi yêu nàng, cưới nàng và nàng về đây ở với tôi mà thôi! Nàng không có gia đình hay anh em bà con gì cả. Sự cám dỗ, vì vậy, sẽ mãnh liệt vô cùng. . .

-Anh làm tôi buồn cười! Đầu óc anh thật lộn xộn. . . Vả lại, nếu có chuyện gì xảy ra đi nữa thì có chi quan trọng đâu một khi nàng đã quên, đã bỏ hết tất cả khi anh trở về ? Anh biết không, nếu có ai nói với tôi chuyện gì về Marthe , vợ tôi, tôi sẽ nói ngay “Đừng nói gì thêm nữa. . . . Người đàn bà ấy là vợ tôi và khi đó chiến tranh đang xảy ra , bây giờ hòa bình đã trở lại. . . Chúng tôi đang khởi sự lại từ đầu. . . “!

-Tôi không thể nào làm như anh được! Leymarie trả lời. Nếu khi về đến nhà mà tôi biết có chuyện gì đã xảy ra trong thời gian tôi đi vắng, dù bất cứ chuyện gì. . .

-Thì anh sẽ làm gì ? Bóp cổ vợ chăng ? Giết vợ à ? Bộ anh đã khùng chưa ?

-Không, tôi sẽ chẳng làm cái gì cả! Tôi cũng sẽ chẳng trách móc một lời. Nhưng tôi sẽ biến khỏi thành phố ngay!Tôi sẽ đi làm lại cuộc đời ở một nơi thật xa , với một tên họ khác. Tôi sẽ để lại tiền bạc , nhà cửa cho nàng. . . Tôi chẳng cần gì . Có lẻ tôi hơi ngu ngốc. Nhưng tánh tôi như vậy, một là có tất cả , hai là chẳng có chút gì. . .

Một hồi còi tàu rú lên. . . Tiếng bánh xe nghiến trên đường sắt . . . Tàu đã vào sân ga.Hai người đàn ông chợt trở nên im lặng.

****************

images (4)

Ông thị trưởng của thành phố Chardeuil cũng là ông giáo của trường học duy nhất trong thành phố. Đó là một người đàn ông thật tốt bụng, cẩn thận, thích giúp đở những người chung quanh. Khi ông ta nhận được giấy của bộ quốc phòng thông báo ngày 20 tháng Giêng sẽ là ngày mà Renaud Leymarie trở về Chardeuil trong chuyến tàu lửa đi về miền Tây Nam , ông đã đến báo tin ngay cho vợ ông này biết. Ông gặp vợ của Renaud đang săn sóc khu vườn nhỏ. Đó là khu vườn đẹp nhất thành phố với những bụi hồng đủ màu sắc trồng dọc theo hàng rào và hai cây hồng leo màu đỏ thẫm bao bọc hai bên khung cửa ra vào.

Ông thị trưởng nói với nàng:

-Tôi biết bà không thuộc thành phần những bà vợ mà tôi phải báo trước ngày trở về của chồng để họ khỏi bị những bất ngờ không được tốt đẹp. . . Tôi cần phải nói thêm rằng , nếu như bà cho phép, tôi phải xác nhận là sự kín đáo , đoan trang của bà đã làm cho cả thành phố này khâm phục. . . Ngay đối với cả những người đàn bà ngồi lê đôi mách , chỉ thích đi tìm hoặc bịa đặt những chuyện xấu xa của những người đàn bà khác để bươi móc, dè bỉu, họ cũng không thể nào tìm được sự gì để có thể nói xấu bà. . .

-Thưa ông thị trưởng, nói vậy chứ rồi người ta cũng sẽ tìm ra được một chuyện gì để chê trách tôi. . . Nàng tươi cười trả lời.

– Tôi cũng đã từng có ý nghĩ như vậy, nhưng thật tình, bà đã hoàn toàn chinh phục được tất cả mọi người. Nhưng tôi đến đây không phải vì chuyện đó, tôi chỉ đến đây để báo tin mừng cho bà mà thôi. . . và tôi cũng muốn chia vui với bà luôn thể. Tôi nghĩ chắc bà cũng muốn sữa soạn một cái gì thật đặc biệt cho ngày trở về của ông nhà.

– Thưa ông thị trưởng, ông đã có ý nghĩ không sai lầm , ý kiến của ông thật tuyệt vời . Tôi sẽ sữa soạn cho ngày trở về của Renaud biến thành một ngày thật khó quên, một ngày mà tôi đã chờ đợi từ bao nhiêu năm qua. . . Nó phải thật đẹp, thật hoàn toàn hạnh phúc . . . Ông nói ngày 20 phải không ? Ông có biết giờ nào thì tàu đến ?

-Điện tín chỉ có ghi vắn tắt “Xe lửa sẽ rời Paris vào lúc 23 giờ. . . “Những chuyến tàu đêm thường đi rất chậm.Tàu sẽ ngừng ở sân ga của tỉnh Thiviers , như vậy ông nhà phải đi bộ chừng 4 cây số mới về tới Chardeuil. Tôi nghĩ ông sẽ về nhà vào khoảng giữa trưa.

– Tôi hứa chắc với ông là chồng tôi sẽ có một buổi ăn trưa ngon lành cho bỏ những ngày thiếu thốn trong tù. Tôi chỉ  xin ông thị trưởng hiểu cho rằng tôi không thể nào mời ông đến dùng cơm trưa với chúng tôi ngày hôm đó được. Nhưng tôi rất cảm ơn và xúc động trước sự quan tâm và những lời khen ngợi của ông đã dành cho tôi.

– Tất cả mọi người trong thành phố này đều một lòng yêu thương, kính phục bà, bà Leymarie ạ. Dù thành phố này không phải là nơi sinh trưởng của bà , nhưng dân chúng ở đây đã nhìn nhận bà là người của họ. Và bà đã chứng tỏ đã không phụ lòng tin yêu của mọi người.
Sáng ngày 20, Hélène Leymarie thức giấc từ sáu giờ sáng. Đúng ra, suốt đêm nàng không hề chợp mắt. Từ tối hôm trước, nàng đã dọn dẹp, lau chùi nhà cửa từ trong ra ngoài , nàng lau cửa kính cho thật trong, nàng thay tất cả màn cửa bằng những tấm màn màu hồng tươi đẹp. Nàng đến tiệm làm đầu để sửa sang lại mái tóc mà đã từ năm năm nay nàng không buồn chăm sóc. Suốt đêm nàng đã bọc mái tóc lại bằng một cái lưới mỏng cho tóc khỏi mất nếp , và sau cùng, với tất cả niềm yêu thương chôn giấu từ mấy lâu nay , nàng đã chọn một chiếc áo bằng lụa mà nàng chưa bao giờ mặc trong thời gian sống cô đơn một mình. Nàng đã phân vân không biết sẽ mặc chiếc áo nào đây? Ngày xưa Renaud thích nhất chiếc áo xanh điểm những bông hoa trắng nhỏ xíu , chàng nói khi mặc chiếc áo đó nàng trông tươi mát như một mảnh trời vào ngày đầu Xuân. Nàng đã ướm thử chiếc áo xong thở dài cổi ra vì thất vọng. Chiếc áo đã trở thành quá rộng trên thân thể gầy yếu vì thiếu dinh dưỡng của nàng. Năm năm xa chồng, nàng đã sống quá thiếu thốn và khắc khổ. Thôi nàng đành phải mặc chiếc áo lụa đen mà nàng đã tự tay cắt, may lấy vậy. Dù sao nó vẩn còn mới , nàng chưa mặc đến lần nào. Với một cái thắt lưng và chiếc cổ màu thật tươi, chiếc áo đã trở nên trang nhả và vui mắt.

Trước khi làm buổi ăn trưa,nàng cố nhớ lại. . . Ngày xưa chồng nàng thường thích ăn món nào nhất ? Nhưng nước Pháp vào năm 1945 thật thiếu thốn đủ thứ. . . Một chiếc bánh chocolat ? Đúng rồi, chồng nàng vẩn thích nhất món đó! Nhưng nhà lại không có chocolat! May mà nàng còn có vài quả trứng gà tươi nhờ mấy con gà nàng nuôi ở sân sau. Chồng nàng vẩn thường khen chưa ai chiên trứng ngon bằng nàng. Ồ ,chàng cũng thích nhất khoai chiên và thịt bò. . . nhưng ở thành phố này không có hàng thịt. Nàng quyết định làm thịt bớt một con gà vậy . Nàng nghe nói ở thành phố bên cạnh có một cửa tiệm bán chocolat. Nàng sẽ qua bên đó mua, như vậy, sau năm năm gian khổ, ít nhất trong bửa cơm đầu tiên ở nhà Renaud sẽ có một món ăn mà chàng đã từng ưa thích.

Hélène nghĩ thầm “nếu mình đi vào lúc tám hay chín giờ ,mình sẽ có mặt ở nhà để đón chàng .Mình sẽ sửa soạn tất cả trước khi đi,như vậy khi về mình chỉ cần nấu mấy món ăn là xong”.

Mặc dù thật xúc động và nôn nao,nhưng lòng nàng chan chứa hạnh phúc. Sáng nay trời thật đẹp. Chưa bao giờ , trong thung lủng này, mặt trời buổi sáng lại rực rở như hôm nay. Nàng vừa sắp dọn bàn ăn vừa hát khe khẻ. . .

. . . Ô . . . chiếc khăn trải bàn có những ô vuông trắng đỏ này, hai vợ chồng nàng đã ăn bửa cơm đầu tiên với nhau. . . những chiếc đĩa bằng sứ màu hồng nhạt với những chiếc lá phong nhỏ xíu màu đỏ sẩm, chàng vẩn khen là ngộ nghĩnh . . . và nhất là hoa. . . Renaud vẩn thích có hoa trên bàn ăn , chàng đã từng khen nàng có tài cắm hoa . Hélène để một bình hoa nhiều màu trên bàn, hoa cúc trắng , hoa cẩm chướng và hoa hồng đỏ chen nhau làm thành một bình hoa đẹp mắt.

Trước khi lên xe đạp rời nhà , nàng nhìn lại căn phòng ăn qua tấm màn cửa . Tất cả thật hoàn toàn! Sau bao nhiêu gian khổ, Renaud sẽ ngạc nhiên và thích thú. . . Từ cửa sổ, nàng tự ngắm mình trong chiếc gương lớn được gắn trên bức tường chính của phòng ăn. Nàng thấy mình hơi gầy nhưng thật trắng, thật trẻ , và. . . dĩ nhiên tràn ngập yêu thương. Nàng cảm thấy bồi hồi , náo nức như lần đầu tiên được chàng ngỏ ý. Thân hình nàng như tan đi vì hạnh phúc.

“Thôi,nàng tự bảo thầm,bây giờ thì nhất định phải đi. Mấy giờ rồi nhỉ ? Trời , đã chín giờ rồi . . . Mấy cái công việc vặt vãnh này cũng làm mình mất thì giờ quá nhiều, nhiều hơn mình dự liệu. . . Ông thị trưởng nói mấy giờ thì Renaud về tới nhà nhỉ ? Ồ, vào khoảng giữa trưa. . . mình sẽ có mặt ở nhà trước giờ đó. . . “.

***

Căn nhà nhỏ của Renaud nằm khuất trên một con đường vắng của thành phố, vì vậy không ai nhìn thấy một người lính gầy yếu với đôi mắt ngời sáng và dáng điệu hấp tấp bước vào khu vườn. Cửa vườn đóng lại, người lính đứng im lặng một hồi thật lâu, chàng như mê đi vì hạnh phúc , như bị chói lòa vì ánh nắng rực rở ban mai, như say sưa vì cảnh đẹp của hoa lá. Chàng đứng lặng người lắng nghe tiếng rì rào của loài ong đang bay đi kiếm mật. . . Rồi chàng cất tiếng kêu khe khẻ:

-Hélène. . . !

Không có tiếng trả lời ,chàng lại kêu lên lần nữa:

-Hélène! Hélène!

Lo sợ vì sự im lặng vẫn bao trùm căn nhà nhỏ,chàng tiến lại phía cửa sổ và nhìn vào trong nhà, chàng nhìn thấy bàn ăn đã đặt sẵn cho hai người , bình hoa, chai rượu. . .

Renaud cảm thấy trời đất như quay cuồng ,chàng phải dưạ lưng vào tường cho khỏi ngã:

“Trời,lạy Chúa! Nàng không ở một mình!” chàng lẩm bẩm. . .

***

Một giờ sau, khi Hélène trở về , bà láng giềng gọi giật nàng lại:

-Tôi đã nhìn thấy chồng bà. Ông cắm đầu chạy thật nhanh trên đường . Tôi có gọi nhưng ông không thèm nhìn lại.

-Chồng tôi bỏ chạy! Mà về hướng nào bà biết không ?

-Về hướng Thiviers. . .

Hélène lên xe đạp gấp rút đến nhà ông thị trưởng:

-Thưa ông tôi sợ quá! Chồng tôi dưới một bề ngoài cứng rắn và khắc khổ là một người rất nhậy cảm và ghen tuông. . . Anh ấy đã nhìn thấy bàn ăn sữa soạn cho hai người . . . Anh không thể hiểu là tôi chờ đón anh ấy. Làm sao tìm ra ngay anh ấy bây giờ ? Phải tìm ra ngay anh ấy ông ơi! Anh có thể bỏ đi luôn lắm đó, mà . . . tôi thì. . . tôi quá yêu chàng!

Ông thị trưởng nhờ một người đạp xe ra ngay Thiviers, nhưng Renaud đã biến mất. Hélène đã thức suốt đêm ngời cạnh bàn ăn, trên đó bình hoa đã bắt đầu héo úa. Mùa Xuân đã về nhưng sao khí hậu quá oi bức, nặng nề. Màn đêm đã xuống từ lâu, người thiếu phụ chợt cảm thấy nghẹn ngào, tuyệt vọng. . . Nàng chẳng ăn uống gì. Một ngày. . . một tuần . . . rồi một năm đã trôi qua.

Từ cái ngày đau thương đó , Hélène không còn nghe ai nhắc nhở đến tên chồng. . . Lại một mùa Xuân nữa trở về trên thành phố Chardeuil , nhưng căn nhà nhỏ vẩn im lìm trong khu vườn đầy hoa hồng đang khoe sắc , đàn ong vẩn rì rào trong nắng ấm nhưng Hélène đã mất hẳn nụ cười. Ngày ngày nàng vẩn ngồi bên song cửa sổ nhìn ra con đường nhỏ chạy qua nhà nàng . . . và cố lắng nghe tiếng bước chân trở về của người chồng mà nàng vẩn hoài mong, thương nhớ. . .

Trong nhà , chiếc bàn ăn vẩn được phủ bằng chiếc khăn carô trắng đỏ, bình hoa tươi vẩn được thay hoa mổi ngày , người thiếu phụ vẩn mỏi mòn chờ đợi. . . Kỹ niệm còn đây sao người đi xa không thấy trở về ?

Tôi viết lên câu chuyện này để, nếu Renaud Leymarie có đọc được, hãy về lại cùng nàng. Đã sáu mùa Xuân anh đi xa, đã sáu mùa Xuân Hélène đợi chờ . Năm vừa qua là năm buồn tủi nhất của nàng . Nếu đọc được, hãy trở về nghe Renaud , hãy cho Hélène, người vợ trung thành và yêu thương chồng nhất , một mùa Xuân thật sự. Nàng chưa và sẽ không bao giờ hết yêu thương anh nên nàng vẩn chờ đợi. . . Ngày trở về của anh, dù có mong manh như nắng lụa, vẫn là niềm hy vọng duy nhất giữ nàng lại trên cuộc đời này….

Thanh Vân

‘Chiêu thức về nhân quyền của Hà Nội’

‘Chiêu thức về nhân quyền của Hà Nội’

Vũ Quí Hạo Nhiên

Viết cho BBC từ Little Saigon, California

Thứ bảy, 18 tháng 1, 2014

Wikileaks

Điện văn của Tòa đại sứ Mỹ tiết lộ ‘mánh khóe’ của VN, theo Wikileaks.

Bảy tổ chức tranh đấu Việt Nam đang trên đường tới Geneva để cố gắng truyền đạt thông tin về tình trạng nhân quyền tại Việt Nam tới các nước và các tổ chức quốc tế, nhân dịp sự kiện UPR hay Kiểm điểm Định kỳ Phổ quát.

UPR, viết tắt của Universal Period Review, là kỳ kiểm điểm diễn ra 4 năm một lần để Hội đồng Nhân quyền Liên hiệp quốc kiểm điểm tình trạng nhân quyền của các nước. Tất cả các nước hội viên LHQ đều phải qua UPR.

Các tổ chức người Việt Nam đang trên đường tới Geneva để tổ chức một Ngày Việt Nam bên lề buổi điều trần UPR, nhưng ngay cả cuộc họp này cũng chỉ là một phần của cả quá trình UPR.

Về phần tài liệu, UPR dưa trên 3 tài liệu chính, theo trang web Hội đồng Nhân quyền: Báo cáo của nước đang được kiểm điểm; báo cáo của Cao ủy Nhân quyền LHQ; và báo cáo do Văn phòng Cao ủy thu thập từ các nguồn thứ ba như các NGO.

Về phần điều trần, các nước sẽ cùng góp ý về tình trạng nhân quyền trong một phiên họp kéo dài 3 tiếng rưỡi, dưới sự chủ tọa của một nhóm 3 nước được gọi là ‘troika.’ Đây là buổi điều trần dự trù diễn ra tại Geneva ngày 5 tháng 2 tới đây để thảo luận về Việt Nam.

“Trước hết là có bản báo cáo tình hình nhân quyền của Việt Nam trong vòng 4 năm qua, trong đó sẽ chia ra 4 phần, có thể nhiều hơn, đó là sự vi phạm tự do ngôn luận, sự vi phạm tự do tôn giáo, sự vi phạm về tự do lập hội, biểu tình, và một phần nữa là sự bắt giữ tùy tiện và hành xử tàn bạo, thô bạo với tù nhân”

Nhà báo tự do Đoan Trang

Báo cáo phi chính phủ

Việc góp tài liệu, một bản báo cáo đứng tên chung các tổ chức Việt Nam như VOICE, Con Đường Việt Nam, Dân Làm Báo, cùng với tổ chức Freedom House, đã được nộp cho Cao ủy Nhân quyền.

Blogger Đoan Trang, một tác giả chính của báo cáo này, nói ‘tài liệu thì không thiếu.’ Cô cho biết chi biết:

‘Trước hết là có bản báo cáo tình hình nhân quyền của Việt Nam trong vòng 4 năm qua, trong đó sẽ chia ra 4 phần, có thể nhiều hơn, đó là sự vi phạm tự do ngôn luận, sự vi phạm tự do tôn giáo, sự vi phạm về tự do lập hội, biểu tình, và một phần nữa là sự bắt giữ tùy tiện và hành xử tàn bạo, thô bạo với tù nhân.’

Ngoài ra, cô nói thêm, ‘có rất nhiều báo cáo khác đi kèm báo cáo chính đó, ví dụ báo cáo của riêng năm 2013 có rất nhiều những vụ vi phạm nhân quyền, như các bloggers bị ném mắm tôm trong Ngày Quốc tế Nhân quyền.’

Cha mẹ các tù nhân chính trị

Một nhóm cha mẹ các tù nhân chính trị ở VN ra nước ngoài năm nay để dự điều trần và vận động cho con cái.

Đó là phần tài liệu. Nhưng còn phần điều trần thì sao?

Tài liệu mật của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ, bị Wikileaks tiết lộ, cho thấy những điều mà Phó Đại sứ Mỹ Virginia E. Palmer tại Hà Nội gọi là ‘chiêu thức’ (nguyên văn ‘manipulation’) của Việt Nam để làm lệch lạc kết quả UPR, mà người cầm đầu chính là ông Phạm Bình Minh, khi đó là Thứ trưởng Ngoại giao và nay là Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao.

‘Chiêu thức’ năm 2009

Năm 2009 là lần đầu tiên Hội đồng Nhân quyền thực hiện UPR đối với Việt Nam, và năm nay là lần thứ nhì. Trong vòng UPR năm 2009, Canada là một trong 3 nước ‘troika’ (cùng với Nhật và Burkina Faso). Một nhân vật chính trong phái đoán Canada là Tham tán Chính trị Robert Burley thuộc Đại sứ quán Canada ở Hà Nội.

Tham tán chính trị của Mỹ đã gặp ông Burley, và báo cáo về cuộc gặp gỡ này đã được ghi lại trong tài liệu của Phó Đại sứ Palmer bị Wikileaks tiết lộ. Bản điện văn gởi về Bộ Ngoại giao đề ngày 5-6-2009 và được Wikileaks đánh số ký hiệu 09HANOI520.

Tham tán Burley miêu tả mức độ vận động của đoàn Việt Nam là ‘xưa nay chưa từng thấy.’ Mức độ vận động của Việt Nam lên tới mức một số nước khiếu nại với Ban Thư Ký của Hội đồng Nhân quyền.

“Tham tán Burley miêu tả mức độ vận động của đoàn Việt Nam là ‘xưa nay chưa từng thấy.’ Mức độ vận động của Việt Nam lên tới mức một số nước khiếu nại với Ban Thư Ký của Hội đồng Nhân quyền”

Burley cho phía Mỹ biết, phái đoàn Việt Nam vì biết thời gian có hạn, nên cố tình mời thật nhiều các quốc gia thân thiện để điều trần, át đi các nước khác.

Việt Nam còn cố tình thuyết phục thay đổi báo cáo cuối cùng; họ chọn mẫu báo cáo mà những đề nghị nào Việt Nam đồng ý thì được liệt kê hai lần, trong khi những đề nghị nào Việt Nam không đồng ý thì rút bớt lại.

Điều này bóp méo con số và giúp Thứ trưởng Minh trong cuộc họp báo về UPR nhấn mạnh được là ‘Việt Nam chấp nhận 93 trong 123 đề nghị được đưa ra và chỉ bác bỏ 20 đề nghị (trong đó có 4 là của Hoa Kỳ).’

‘Sắp xếp điều trần’

Việt Nam biết trước là chỉ có thời gian cho 60 nước điều trần.

Vì vậy, một phái đoàn hùng hậu được Việt Nam đưa tới, mà theo chính Thứ trưởng Minh nói là có tới 29 người, gồm ‘22 người đến từ Hà Nội và từ 11 bộ khác nhau.’

‘Bốn tiếng trước giờ họp bắt đầu, Việt Nam đã cho người tháp tùng từng quốc gia thân thiện với họ như Zimbabwe, Venezuela, Lào, Cuba, Trung Quốc, Miến Điện, Nga, Iran, Syria, Belarus và các nước khác, đứng xếp hàng để điều trần.’

Ngoài ra, ‘phái đoàn Việt Nam còn cho người đứng ngay bên cạnh hàng, để đánh dấu danh sách các nước mà, Burley đoán, đã đồng ý sẽ điều trần có lợi cho Việt Nam.’

Ông Phạm Bình Minh

Điện văn của sứ quán Hoa Kỳ nói ông Phạm Bình Minh có vai trò tích cực trong các động thái vận động.

Phía Việt Nam tiếp tục nhét phe mình vào buổi điều trần cho tới phút chót.

‘Khi hàng kéo dài tới khoảng 45 nước, đoàn Việt Nam bắt đầu thúc đẩy hết sức để các nước còn lại trong danh sách của họ nằm trong số 60 nước.’

‘Gây thêm áp lực’

Không chỉ làm lệch lạc buổi điều trần tại Geneva, Việt Nam còn gây áp lực lên ngoại giao đoàn tại Hà Nội để gây ảnh hưởng.

Việt Nam vận động và thuyết phục các nước giảm nhẹ lời lẽ trong các đề nghị cải thiện nhân quyền.

‘Một số nước đồng ý (Burley nhắc tới Úc và Thụy Sĩ), trong khi một số nước khác (Canada và Hoa Kỳ) thì không.’

Bộ Ngoại giao triệu tập Đại sứ Thụy Điển hai lần, vì nước này đặt câu hỏi hóc búa cho đoàn Việt Nam.

Những phái đoàn nào chỉ trích nhân quyền ở Việt Nam, như New Zealand, Phần Lan, Canada, thì Thứ trưởng Minh gọi họ là không ‘khách quan.’

Hiệu ứng ngược

“Mức độ tự biện hộ của Việt Nam cho thấy (ít nhất) Bộ Ngoại giao quan tâm tới những gì các nước khác nói về lối hành xử nhân quyền của Việt Nam”

Phó Đại sứ Mỹ Palmer

Nhưng không phải mọi chuyện đều được như ý của Việt Nam.

Chính vì chọn loại mẫu báo cáo làm nhân đôi số đề nghị Việt Nam đồng ý, mà lần đầu tiên danh tánh cụ thể các tù nhân lương tâm được đưa vào báo cáo.

Việt Nam đã khiếu nại với Ban Thư ký của Hội đồng Nhân quyền.

Thế nhưng cuối cùng thì chính vì Việt Nam đã chọn loại mẫu báo cáo này, nên tên của Linh mục Nguyễn Văn Lý và hai luật sư Nguyễn Văn Đài và Lê Thị Công Nhân được đưa vào báo cáo cuối cùng, một việc làm ít thấy trong một báo cáo UPR.

Tuy rằng áp lực và mánh khóe ngoại giao giúp Việt Nam có được một báo cáo UPR vừa ý hơn đối với họ, Phó Đại sứ Palmer ghi nhận là khi Việt Nam dồn rất nhiều nỗ lực vào việc này thì ‘Mức độ tự biện hộ của Việt Nam cho thấy (ít nhất) Bộ Ngoại giao quan tâm tới những gì các nước khác nói về lối hành xử nhân quyền của Việt Nam.’