Câu chuyện đầu xuân: Văn hóa Việt trong vận khí suy vong

Câu chuyện đầu xuân: Văn hóa Việt trong vận khí suy vong

Thụy My

RFI

Đầu năm, khi đất trời vào xuân, cũng là dịp để suy ngẫm lại những vấn đề về văn hóa. RFI đã phỏng vấn tiến sĩ Phạm Chí Dũng, cũng là một nhà văn đồng thời còn là người có nhiều bài viết phê bình về văn học nghệ thuật.

 

Tiến sĩ Phạm Chí Dũng

 

01/02/2014

 

Nghe (11:37)

 

 

 

RFI : Thân chào tiến sĩ Phạm Chí Dũng, rất vui được tiếp chuyện anh nhân dịp xuân về. Trước hết anh có thể cho biết cảm xúc của anh trong bầu không khí đầu năm mới ?

Rất khó tả, nhưng rõ rệt nhất là thiếu hẳn hương sắc mùa xuân. Làm sao có thể vui nổi khi đây là cái Tết thứ ba liên tiếp tôi chứng kiến cảnh tượng hàng vài chục ngàn công nhân ở các khu công nghiệp, khu chế xuất không có đủ tiền mua vé tàu xe về quê ăn Tết. Với họ, đang xảy ra một nét văn hóa rất mới, có thể gọi là “văn hóa tết cấm trại”. Tức phỏng theo một điều lệnh trong quân đội, công nhân ở nguyên trong khu nhà trọ mà không dám bước ra đường vì chẳng có tiền. Mà như vậy thì còn gì là tết?

Không khí đường phố cũng uể oải và bải hoải. Chỉ sát Tết người dân mới có chút tiền để mua sắm, nhưng ở nhiều tụ điểm mai và đào vẫn ế chỏng chơ. Khách hàng đã và đang quay lưng với thị trường như một dạng văn hóa phủ nhận trong kinh doanh.

Đã đến lúc người dân không thể mặc định sắc màu của nền văn hóa dân tộc như những báo cáo tô hồng của chính phủ về nền kinh tế hay những nghị quyết của đảng về đường lối kiên định đi lên chủ nghĩa xã hội đến hết thế kỷ 21. Hiện tại được dẫn dắt bởi quá khứ, và tương lai lại được quyết định bởi những gì trong hiện tại.

Quá khứ đó, chúng ta thấy cái gì? Năm 2013 chứng kiến những trận hôi của vĩ đại chưa từng thấy ở một số địa phương, cuộc tranh cướp bánh sushi trong một nhà hàng ngay tại thủ đô, cho dù không thể cho rằng tất cả những người tranh giành đều đói khát và đất nước cũng chưa đến thời đói kém…

Những hiện tượng xã hội đó đang góp phần triệt tiêu nhanh chóng khẩu hiệu của đảng “xây dựng nền văn hóa tiên tiến và đậm đà bản sắc dân tộc”. Tương tự, điều lạ lùng là trong mấy năm gần đây, chẳng mấy cơ quan tuyên giáo và dân vận còn nhắc tới khẩu hiệu này. Vì sao vậy? Đơn giản là thực tiễn đã trở nên tồi tệ đến mức giới chức đảng lẫn chính quyền không thể cứ mãi tự ru ngủ mình và mị dân xã hội bằng những lý lẽ một chiều đã bị thực tế bào mòn đến tận chân gốc. Dù luôn bị ăn sâu tâm lý thành tích, ít nhất họ cũng phải tự rung động một nỗi xấu hổ tối thiểu nào đó chứ!

RFI : Những giá trị truyền thống của ông cha như « Giấy rách phải giữ lấy lề », « Một câu nhịn chín câu lành »…dường như đã bị thay bằng sự vô cảm, tâm lý mạnh được yếu thua. Ngày nào đọc báo cũng đều thấy những tin được gọi là « cướp, hiếp, giết », người ta sẵn sàng chà đạp lên nhau, thậm chí mạng người có thể bị mất đi vì những lý do rất nhỏ nhặt. Thưa anh, phải chăng đạo đức xã hội đang rơi xuống tận đáy ?

Khi xảy ra cái chết ở thẩm mỹ viện Cát Tường tại Hà Nội vào năm 2013, một quan chức cao cấp ngành y tế đã phải thốt lên rằng đạo đức và y đức đã xuống đến đáy. Nhưng tôi cho là tất cả vẫn chưa phải tồi tệ nhất. Cái tồi nhất nằm ở phía trước, ở thì tương lai đầy sương mù và dưới vực thẳm, mà chế độ này và phần lớn dân chúng vẫn chưa hình dung hết.

Phía trước ấy là một cuộc tha hóa vĩ đại của toàn bộ nền văn hóa. Tuân theo quy luật vật chất quyết định ý thức, kinh tế quyết định văn hóa và bất kỳ khi nào nền kinh tế lao vào hố sâu khủng hoảng, đời sống sẽ trở nên thiếu thốn và đói kém đến mức một bộ phận dân chúng sẵn sàng giết nhau để sinh nhai.

Lịch sử đã chứng minh hết sức cận kề ở một quốc gia đông dân nhất thế giới, chính là Trung Quốc trong thời Cách mạng văn hóa những năm 60 của thế kỷ trước. Khi đó có đến 30 triệu người bị chết không chỉ bởi vô số cuộc thanh trừng, mà còn bởi đất nước này đã rơi vào thảm trạng đói kém đến mức tại một số nơi người dân đã phải ăn nhau để cầm hơi. Đó chính là điều tồi tệ phi nhân tính nhất, mà một nền văn hóa suy đồi đến tận cùng có thể mang lại.

Năm 2013 đã trở nên một đặc tả khá kinh khủng, trên bức tranh khốn quẫn của nền văn hóa đang lao dốc và còn chưa tìm thấy đáy ở Việt Nam. Cùng với cái gọi là nền văn hóa tham nhũng chưa từng thấy ở đất nước này, khắp nơi trong xã hội đã diễn ra cảnh cha con giết nhau, vợ chồng giết nhau, thầy đánh trò và trò giết thầy, nạn cướp của và hiếp dâm nổi lên khắp nơi. Cường hào ác bá cũng hoàn hành tàn lộng và bất chấp đạo lý. Nhưng nghịch lý ghê gớm là kinh tế càng suy thoái, người giàu lại càng giàu. Không biết bao nhiêu quan chức đã ních đầy túi và chỉ còn chờ chực cơ hội biến khỏi tổ quốc nếu xảy ra động loạn…

Rồi một điều tất yếu phải xảy ra là khi luật pháp không còn là mái nhà che chở cho người dân, chính nhân dân đã phải làm thay luật pháp. Nạn tự xử đối với những kẻ trộm chó mèo diễn ra ở Nghệ An, Thanh Hóa, Hà Tĩnh, … Ở Bắc Giang, khi vài người dân bị công an khởi tố bắt giam vì đánh chết cẩu tặc, đã có đến 800 người dân khác đồng ký tên vào một bản tuyên bố cùng nhận tội. Đó là cái gì? Một loại văn hóa phản kháng của người dân đang phát tiết ngay trong lòng chế độ “của dân, do dân và vì dân”.

Tố chất văn hóa phản kháng đó đã dẫn đến làn sóng chống người thi hành công vụ lan rộng một cách đầy tự phát và bạo lực ở nhiều nơi. Không hiếm cảnh thanh niên đi đường và những người dân “săn sóc” một cách đặc biệt đến hành vi của cảnh sát giao thông, bởi lực lượng cảnh sát bị xem là đối tượng tham nhũng nhất quốc gia này càng ngày càng mang ý nghĩa như một mồi lửa châm ngòi cho các cuộc xung đột tự phát và rất khó kềm chế.

RFI : Thưa anh đầu năm thường nói chuyện vui, nhưng bức tranh thực tế xã hội lại quá xám. Những cách hành xử của con người thường từ nền giáo dục mà người đó được hấp thụ. Vậy thì theo anh trách nhiệm của ngành giáo dục đối với nền văn hóa như thế nào ?

Đóng góp không nhỏ vào sự xuống cấp của nền văn hóa là thực trạng lầy lội và ô nhiễm nặng mùi của ngành giáo dục vẫn chưa hề được cải tạo. Tiên đề “Tiên học lễ, hậu học văn” từ ngàn đời nay đã từ lâu bị phần lớn trường học biến thành thảm trạng mà chúng ta nên nhận thức lại là “Tiên học phí, hậu học thêm”. Có lẽ mệnh đề này mới nói lên tất cả cái thực trạng quay quắt đến mức khốn cùng của môi trường giáo dục đào tạo và giới quan chức điều hành ngày nay.

Không khác gì thị trường bất động sản, vài năm gần đây người ta đã phải dùng đến cụm từ “bong bóng đại học” cho sự bùng nổ bội cung của hàng trăm trường đại học tư thục và dân lập từ Bắc chí Nam. Nhưng ngược lại với đà tăng tiến theo cấp số nhân về số lượng các trường đại học, cao đẳng và chương trình “đào tạo 20.000 tiến sĩ’ của nguyên Bộ trưởng Giáo dục Nguyễn Thiện Nhân và đời Bộ trưởng kế vị, chất lượng đào tạo còn lâu mới làm nên một nền văn hóa xứng tầm với Thái Lan. Ít nhất là về tỉ lệ công trình nghiên cứu được công bố trên đầu các tiến sĩ, cùng bài luận văn tả cảnh các cô giáo bỏ nghề và học sinh vùng cao phải bắt chuột ăn thay cơm.

Tình trạng xuống cấp toàn diện của giáo dục và văn hóa cũng khiến cho hiện tượng không có tác phẩm hay trong văn học nghệ thuật trong suốt nhiều năm qua trở nên rất dễ lý giải trong đời sống văn nghệ Việt Nam. Bất chấp các cuộc thi và trao giải thưởng đều đặn hàng năm của các hội đoàn văn học và nghệ thuật nhà nước, vẫn không có lấy vài ba tác phẩm trong lĩnh vực văn học, sân khấu, mỹ thuật, điện ảnh, âm nhạc… ghi dấu ấn cho một tinh thần hồi tâm thành khẩn.

Hầu như tất cả đều nhàn nhạt, nhòa nhạt và luôn đi sau hiện tồn nhức nhối của xã hội ít ra vài thập kỷ. Nhiều nhà văn và nhà viết kịch đủ lòng tự trọng không còn cầm nổi bút, bởi tâm trạng chán chường và thất vọng quá giới hạn cho phép. Chỉ còn một số người viết vì cơm áo gạo tiền, hoặc làm cái gọi là “sáng tạo” vì các đơn đặt hàng và giải thưởng từ Nhà nước. Không thể nói khác hơn, văn học nghệ thuật quốc doanh từ lâu nay đã mang trên mình thiên chức văn hóa cộng sinh.

RFI : Khái niệm « văn hóa cộng sinh » mà anh vừa đề cập, có lẽ không thể loại trừ giới quan chức, vì những lề thói đã ăn sâu vào họ ?

Văn hóa gia đình, văn hóa trường học và văn hóa cộng đồng là ba rường cột của một nền văn hóa. Nhưng một khi cả ba trụ cột ấy đều bị xâm hại một cách trầm kha, thì không còn gì có thể cứu vãn nổi một nền văn hóa chính trị. Nhất là khi nền văn hóa chính trị ấy lại bị ruỗng mục bởi thói vô cảm, vô trách nhiệm và quá đậm đặc tố chất lợi ích nhóm của giới quan chức.

Vì thế, chúng ta có thể coi văn hóa quan chức là thành tố thứ tư gây xâm hại đối với nền văn hóa Việt Nam đương đại, nhưng đặc biệt hơn cả lại là nhân tố cộng sinh ưu tú nhất. Giới quan chức đổ cho 70% doanh nghiệp chủ động đưa hối lộ, nhưng làm sao có thể lý giải sự mâu thuẫn không thể chấp nhận được, giữa tỉ lệ “chỉ có 1% công chức yếu kém” như báo cáo của chính quyền, với con số ít nhất 30% công chức “chủ động nhận hối lộ” trong những kết quả khảo sát về tham nhũng?

Một cuộc khủng hoảng văn hóa đang tăng tiến với gia tốc ngày càng gấp rút. Cuộc khủng hoảng ấy lại biến diễn sang cuộc khủng hoảng niềm tin của người dân đối với xã hội, của công dân đối với đất nước và cuối cùng là của người dân đối với chế độ. Những cuộc điều tra xã hội học đã cho thấy niềm tin của giới trẻ vào đảng và chế độ sa sút khủng khiếp, và trong giới trẻ giờ đây không còn cái gọi là lý tưởng nữa. Nếu có được một cuộc khảo sát độc lập, người ta tin chắc rằng chỉ còn không đầy 10% trong số lớp trẻ tin vào việc “nền văn hóa xã hội chủ nghĩa” có thể tôn tạo cho nền văn hóa dân tộc.

Ngược lại, một chủ nghĩa văn hóa phủ nhận đang hình thành và phát triển rất ghê gớm trong một số khá đông lớp trẻ ở Việt Nam.

RFI : Về « chủ nghĩa văn hóa phủ nhận » như anh nói, theo anh lớp trẻ đang phủ nhận những giá trị gì ?

Phủ nhận những giá trị tinh thần, phủ nhận những giá trị truyền thống, và phủ nhận với chính những thế hệ đi trước. Hiện tượng đó làm chúng ta nhớ lại thế hệ mất mát, nảy sinh ở châu Âu trong vài thập kỷ sau cuộc chiến tranh thế giới lần thứ hai. Cũng là suy thoái kinh tế trầm kha, cũng là cái nhìn về một tương lai mơ hồ, cũng là tâm trạng đầy bất an và dễ nổi loạn.

Nhưng ở Việt Nam, điều nguy hiểm hơn nhiều là cái tương lai như thế còn trở nên vô định bởi một nền chính trị hủ hóa, cố chấp và luôn có nguy cơ gây nên hiệu ứng hạ cánh cứng. Từ đó sẽ sinh đẻ vô số hậu quả trầm luân cho đời sống người dân, đặc biệt là dân nghèo.

Hơn bao giờ hết, đặc thù văn hóa Việt Nam được quyết định bởi nội lực nền kinh tế và kế sinh tồn của mỗi công dân. Trong giai đoạn “cất cánh” từ thời mở cửa kinh tế những năm 1990, chủ nghĩa kiếm tiền và đầu cơ thượng hạng đã phủ trùm lên cả xã hội, để sau đó vào thời kỳ suy thoái từ năm 2008 đến nay, điều được coi là “văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc” cũng bị suy mòn theo lý lịch không mấy trong sáng của đồng tiền.

Phía trước, màu đen khó che giấu của của nền kinh tế đang chờ đón một khoảng trống chân không văn hóa, nơi mà hố sâu bất bình đẳng xã hội sẽ sâu thẳm hơn bao giờ hết. Tâm lý chà đạp lẫn nhau sẽ thổi bùng lên ngọn lửa tranh đấu cực kỳ tàn khốc giữa các giai tầng và trong chính từng giai cấp, để cuối cùng bản thân nền văn hóa bị giẫm đạp đến kiệt sức.

Không thể lạc quan về nền văn hóa Việt trong năm 2014 và cả những năm sau đó, tôi cho rằng sự biến mất của một nền chính trị đương thời còn dễ được chấp nhận hơn rất nhiều, so với những mất mát của một nền văn hóa dân tộc mà người dân nước Việt có thể phải mất đến nửa thế kỷ để phục hồi nó.

Rất nhiều người như tôi vẫn ngày đêm dồn dập thổn thức trong lòng một câu hỏi đích đáng: Ai và những tác nhân nào đã khiến cho nền văn hóa dân tộc suy đồi và suy vong ghê gớm đến thế? Kẻ nào phải chịu trách nhiệm lịch sử về hậu quả lịch sử quá đau đớn ấy?

RFI : Xin chân thành cảm ơn tiến sĩ Phạm Chí Dũng đã dành thì giờ để tâm tình với thính giả RFI Việt ngữ trong những ngày đầu năm về những suy tư liên quan đến nền văn hóa Việt.

 

TS Phạm Chí Dũng bị cấm xuất cảnh đi dự hội thảo nhân quyền tại Genève

TS Phạm Chí Dũng bị cấm xuất cảnh đi dự hội thảo nhân quyền tại Genève

Tiến sĩ Phạm Chí Dũng (trái) và người thân tại phi trường (DR)

Tiến sĩ Phạm Chí Dũng (trái) và người thân tại phi trường (DR)

Thụy My

RFI

Tối nay 01/02/2014 tại sân bay Tân Sơn Nhất khi đang làm thủ tục xuất cảnh đi tham dự hội thảo về nhân quyền tổ chức tại Genève, Thụy Sĩ với tư cách diễn giả theo lời mời của tổ chức UN Watch – một tổ chức phi chính phủ Thụy Sĩ có chức năng giám sát các vấn đề nhân quyền và dân chủ thuộc Liên Hiệp Quốc, tiến sĩ Phạm Chí Dũng đã bị giữ lại và tịch thu hộ chiếu.

Sau nhiều cuộc gọi bất thành do điện thoại của tiến sĩ Phạm Chí Dũng bị công an thu giữ, cuối cùng RFI Việt ngữ cũng đã liên lạc được. Tiến sĩ Phạm Chí Dũng cho biết :

Tiến sĩ Phạm Chí Dũng

 

01/02/2014

 

Nghe (02:01)

 

 

 

Như vậy là tôi đã qua khâu gửi hành lý và trình hộ chiếu, nghĩ là mọi chuyện đã tương đối ổn. Nhưng khi đến khâu kiểm tra an ninh thì họ ngần ngại, ngừng một chút. Một người nói là « Máy kẹt rồi ! ». Sau đó mấy nhân viên công an mặc sắc phục tới, đề nghị tôi đi vào một căn phòng riêng để kiểm tra lại, vì theo họ, tên của tôi tương đối phổ thông, trùng với một số người khác.

Nhưng sau đó có một sĩ quan an ninh mặc thường phục của cơ quan PA 81 thuộc Công an thành phố đến, nói với tôi là trường hợp của tôi không được xuất cảnh. Tôi hỏi lý do tại sao, họ nói là việc đi Thụy Sĩ có thể bị lợi dụng bởi những thế lực thù địch, xuyên tạc chống phá Nhà nước Việt Nam. Vì vậy trường hợp tôi đi không có lợi.

Sau đó họ làm biên bản và giữ hộ chiếu của tôi, có ghi lý do là Công an Thành phố Hồ Chí Minh đề nghị, vì tôi là diện bị cấm xuất cảnh. Họ đề nghị tôi đến Cục Quản lý Xuất nhập cảnh của Bộ Công an để nhận lại hộ chiếu.

Nhưng với tôi, thì tôi không cần nhận lại hộ chiếu nữa. Tại vì từ nay trở đi tất cả những việc đi lại của tôi ra nước ngoài sẽ do Nhà nước Việt Nam quyết định, trên căn bản tinh thần nhân quyền của Nhà nước khi tham gia vào Hội đồng Nhân quyền Liên Hiệp Quốc.

Nếu Nhà nước Việt Nam cảm thấy còn muốn giữ một chút hình ảnh nào đó về nhân quyền, thì ít nhất họ phải tôn trọng quyền tự do đi lại, quyền được xuất cảnh của công dân một cách bình thường, một cách tự do như Hiến pháp Việt Nam đã quy định. Còn nếu họ không cần tới điều đó nữa thì tôi cũng đương nhiên không cần tới hộ chiếu.

Và ngày mai tôi sẽ chính thức viết thư khiếu nại tới Thủ tướng Chính phủ và Bộ trưởng Bộ Công an về vụ việc này. Đồng thời sẽ thông tin rộng rãi và sâu sắc tới tổ chức Liên Hiệp Quốc, các tổ chức nhân quyền quốc tế, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ nhân đợt Kiểm điểm Định kỳ Phổ quát (UPR) diễn ra tại Genève, Thụy Sĩ vào ngày 5 tháng Hai sắp tới.

 

Nổ súng gây nhiều thương tích ở Bangkok

Nổ súng gây nhiều thương tích ở Bangkok

Thứ bảy, 1 tháng 2, 2014

Bạo lực ở Bangkok

Vài phút trước khi súng nổ, môt chiếc xe hơi đã bị tấn công.

Ít nhất sáu người đã trúng đạn và bị thương nặng ở thủ đô Bangkok của Thái Lan, trong lúc xảy ra các cuộc đụng độ chống chính phủ ngay trước cuộc bầu cử hôm Chủ Nhật.

Bạo lực bùng phát trong một diễn biến cá biệt giữa những người ủng hộ và phản đối Thủ tướng Yingluck Shinawatra.

Nhiều tiếng súng đã nổ vào lúc những người biểu tình phong tỏa một tòa nhà là nơi lưu trữ các lá phiếu phục vụ bầu cử, trong một nỗ lực nhằm ngăn chặn phân phối các lá phiếu bầu.

Những người phản đối muốn chính phủ phải được thay thế bằng một “Hội đồng nhân dân” không qua bầu cử.

Phe đối lập cũng tuyên bố sẽ tẩy chay cuộc bỏ phiếu hôm Chủ nhật, sự kiện được cho là mang lại khả năng giành thắng lợi cho bà Yingluck.

Những người biểu tình cáo buộc Thủ tướng hoạt động dưới sự kiểm soát của anh trai bà, cựu Thủ tướng Thaksin Shinawatra, người đã bị lật đổ và đang sống lưu vong.

Gài bom nhỏ

“Một số người được cho là bị thương đã nằm lại trên đường, khi hai bên nổ súng giao tranh, buộc các phóng viên và người qua đường phải bỏ chạy tìm nơi trú ẩn”

Vụ nổ súng hôm thứ Bảy xảy ra ở quận Laksi ở Bangkok, thành trì của đảng Pheu Thai của Thủ tướng Thái Lan.

Vụ nổ súng xảy ra sau một diễn biến riêng rẽ đối đầu căng thẳng giữa hai bên chống và ủng hộ chính phủ, theo phóng viên BBC Jonathan Head, ở Bangkok, tường trình.

Một số người được cho là bị thương đã nằm lại trên đường khi hai bên nổ súng giao tranh, buộc các phóng viên và người qua đường phải bỏ chạy tìm nơi trú ẩn, vẫn theo phóng viên của BBC.

Hiện chưa rõ những người bị thương thuộc phe ủng hộ hay hậu thuẫn chính phủ.

Trước khi tấn công, những người biểu tình đã tấn công một chiếc xe và gài một loạt các trái bom loại nhỏ.

Quân đội triển khai

 

Ít nhất 6 người đang được cấp cứu vì bị thương nghiêm trọng sau vụ nổ súng hôm thứ Bảy.

Phong trào đối lập – từng được biết tới với tên gọi phe “áo vàng” – tuyên bố sẽ phá hoại cuộc bầu cử với mức độ càng nhiều càng tốt, bằng cách ngăn chặn các lá phiếu bầu được đưa đến các điểm bỏ phiếu.

Trong khi đó, các nhóm ủng hộ chính phủ – hay phe “áo đỏ ” – đã được lệnh phải giám sát cuộc bỏ phiếu.

Thế nhưng họ không được phép đối đầu với những người biểu tình, vì sợ rằng bạo lực sẽ gây ra thêm nguy hiểm cho cuộc bầu cử.

Quân đội trước đó nói sẽ tăng cường quân số và triển khai tại Bangkok phục vụ cuộc bầu cử vào ngày Chủ nhật.

Khoảng 10.000 cảnh sát cũng sẽ tuần tra các đường phố trong ngày 02 tháng Hai.

Phóng viên của BBC nói hiện chưa thể dự đoán gì về khả năng và kết quả của cuộc bỏ phiếu ngày Chủ Nhật.

Tuy nhiên rõ ràng các hoạt động ngăn chặn bầu cử và đặc biệt là vụ nổ súng gây nhiều thương tích hôm thứ Bảy báo trước cuộc bầu cử ngày Chủ Nhật sẽ khó có thể diễn ra hoàn toàn bình ổn, do nguy cơ bạo lực nóng lên.

Loại thuốc mới có thể biến ung thư chết người thành một bệnh mạn tính

Loại thuốc mới có thể biến ung thư chết người thành một bệnh mạn tính

Ảnh minh họa.

Ảnh minh họa.

29.01.2014

Một loại thuốc mới đang được thí nghiệm, có thể biến một bệnh ung thư gây tử vong thành một căn bệnh mạn tính có thể kiểm soát được như bệnh cao huyết áp. Nếu được chấp thuận để điều trị cho những hình thức bệnh bạch cầu thông thường, loại thuốc này có thể thay thế các liệu pháp hóa trị độc hại.

Bệnh bạch cầu lympho, gọi tắt là CLL, một bệnh ung thư tế bào B của hệ thống miễn nhiễm vốn sản xuất các kháng thể, là những binh sĩ tuyến đầu của cơ thể chống lại vi trùng và các siêu vi xâm nhập cơ thể. Nhưng khi các tế bào B phát triển thành ung thư, chúng tích lũy tại các cơ quan nội tạng của bệnh nhân, trong đó có những hạch bạch cầu, tại nách và háng giúp cơ thể nhận biết và chống lại tình trạng lây nhiễm. Với bệnh bạch cầu lympho, hạch bạch cầu sưng to nhiều lần so với kích cỡ bình thường.

Ông Richard Furman, một nhà khảo cứu ung bướu tại Trường đại học Y khoa Weill Cornell ở New York, nói rằng thuốc idelalisib uống một ngày hai lần khiến ung bướu tan đi. Ông nói:

“Khi tôi nói tan đi, quý vị có thể thấy những hạch thu nhỏ lại trong vòng vài ngày. Thuốc có kết quả mau chóng, thật là tuyệt diệu.”

Liệu pháp tiêu chuẩn cho bệnh bạch cầu lympho CLL là Rituxan, một loại thuốc tiêm truyền dịch tiêu diệt các tế bào B có bệnh, nhưng chỉ được một thời gian rồi bệnh tái phát. Ông Furman nói rằng, với nhiều vòng hóa trị, bệnh bạch cầu cuối cùng trở thành kháng thuốc Rituxan và bệnh nhân không đáp ứng với liệu pháp nữa. Bệnh ung thư này trở thành loại bệnh gây tử vong.

Nhóm khảo cứu do ông Furman dẫn đầu đã so sánh một liều phối hợp gồm idelalisib và Rituxan, với Rituxan và viên thuốc giả trong một nhóm gồm 220 bệnh nhân bệnh bạch cầu trên khắp thế giới, trong đó có 19 trung tâm y khoa tại Hoa Kỳ và 5 trung tâm tại các nước khác.

Trong suốt sáu tháng khảo cứu, 13 phần trăm những người chỉ dùng Rituxan có phản ứng với liệu pháp so với 81 phần trăm nhóm sử dụng liệu pháp phối hợp với Idelalisib.

Và 92 phần trăm các tham dự viên trong nhóm đó vẫn còn sống một năm sau khi cuộc khảo cứu bắt đầu, so với 80 phần trăm trong nhóm chỉ sử dụng Rituxan.

Sự khác biệt trở nên đáng kể đến nỗi cuộc khảo cứu đã phải ngưng sớm để tất cả các bệnh nhân có thể nhận được Idelalisib.Ông Furman cho biết:

“Với một loại thuốc như idelalisib, có thể sử dụng liều lượng cao và cực kỳ hữu hiệu, hy vọng của tôi là có thể làm cho CLL trở thành một bệnh mạn tính, một thứ hơi giống như huyết áp cao mà bệnh nhân chỉ uống mỗi ngày một viên là có thể kiểm soát được.”

Công ty điều chế thuốc idelalisib đã yêu cầu các nhà điều tiết Hoa Kỳ chấp thuận loại thuốc này trong vòng sáu tháng để thuốc có thể được sử dụng nhằm điều trị cho các bệnh nhân bạch cầu mạn tính. Bài báo về idelalisib được đăng trong tạp chí The New England Journal of Medicine.

Nữ sinh Việt và con đường tới Đại học Harvard

Nữ sinh Việt và con đường tới Đại học Harvard

Tường Vân trong ngày tốt nghiệp trung học.

Tường Vân trong ngày tốt nghiệp trung học.

VOA Tiếng Việt

29.01.2014

Lê Tường Vân đã từ chối 6 trường đại học hàng đầu của Mỹ để tới theo học tại ngôi trường lâu đời nhất Hoa Kỳ.

Vân cho biết, ngoài Harvard, cô còn nộp đơn vào 6 trường hàng đầu khác của Mỹ như Princeton, Yale hay Stanford, và cô được nhận vào học tất cả các trường này với học bổng toàn phần.

Sau đó, cô cân nhắc giữa Princeton và Harvard, và sau khi tới thăm hai nơi này, cô quyết định chọn đại học từng đạo tạo 8 tổng thống Mỹ.

Lý giải về lựa chọn của mình, cô gái tuổi đôi mươi nói rằng cô chọn Harvard vì môi trường học vấn, và đặc biệt, Boston, nơi đại học này tọa lạc, là thành phố khá thân thiện với sinh viên cũng như có nhiều cơ hội thực tập và làm việc.

” Nhưng có một bài học tôi rút ra được khi học ở Harvard, đó là không so sánh mình với người khác, và luôn nghĩ về điều mình có thể đạt được, về con đường riêng của mình, những mục tiêu riêng của mình để hướng tới nhưng đồng thời cũng phải hiểu rõ bản thân mình, những hạn chế của mình để khắc phục. Ta không nên so sánh vì luôn luôn có những người tài giỏi hơn mình.

Lê Ngọc Tường Vân nói.”

Vân kể với VOA Việt Ngữ về một bài học sau khi kết thúc kỳ đầu tiên tại Harvard: “Không chỉ riêng tôi, mà mọi người ở Harvard đều luôn hết sức bận rộn. Trong năm đầu tiên, đôi khi tôi cũng cảm thấy căng thẳng lắm vì xung quanh mình toàn những bạn có thành tích học tập đáng nể. Tôi cũng cảm thấy bị áp lực phải cố gắng nhiều hơn nữa. Mọi người ở đây ai cũng vậy”.

Cô nói tiếp: “Nhưng có một bài học tôi rút ra được khi học ở Harvard, đó là không so sánh mình với người khác, và luôn nghĩ về điều mình có thể đạt được, về con đường riêng của mình, những mục tiêu riêng của mình để hướng tới nhưng đồng thời cũng phải hiểu rõ bản thân mình, những hạn chế của mình để khắc phục. Ta không nên so sánh vì luôn luôn có những người tài giỏi hơn mình”.

Cô gái nhỏ bé tới Mỹ du học cùng với anh trai sau khi học xong lớp 6 tại TP Huế.

Vượt qua những khó khăn ban đầu về ngôn ngữ, suốt những năm học cấp hai và cấp ba, Vân đã giành được nhiều giải thưởng, trong đó có bằng khen của Tổng thống Hoa Kỳ về thành tích học tập xuất sắc.

Ngoài việc học, Tường Vân cũng tham gia một loạt các hoạt động xã hội, thiện nguyện. Vừa qua, cô đã tới Trung Quốc để giúp đỡ trẻ em tại một trại trẻ mồ côi trong hai tuần nhân dịp nghỉ đông ở Harvard.

Khi được hỏi nếu có cơ hội đưa ra lời khuyên với những học sinh Việt Nam muốn nộp đơn vào các trường đại học nổi tiếng nước Mỹ như Harvard, Vân nói: “Hãy tận dụng mọi cơ hội mà bạn có. Học vấn là điều quan trọng nhất nhưng các hoạt động ngoại khóa cũng là cơ hội học tập rất tốt mà ta cần phải nắm bắt. Khi tôi học trung học, tôi học được nhiều từ các hoạt động động ngoại khóa hơn là các giờ học trên lớp. Các kỹ năng thực tế, kỹ năng lãnh đạo là những thứ rất quan trọng cho công việc trong tương lai”.

” Tôi nghĩ nhiều học sinh Việt Nam học rất giỏi, tôi không bao giờ nghi ngờ về điều đó. Điều bất lợi đối với học sinh Việt Nam là họ không tích cực tham gia vào các hoạt động ngoại khóa và các hoạt động vì cộng đồng. Tôi nghĩ đó là những yếu tố rất quan trọng khi các trường đại học xét hồ sơ xin học của các ứng viên.

Lê Ngọc Tường Vân nói thêm.”

Cô nói thêm: “Tôi nghĩ nhiều học sinh Việt Nam học rất giỏi, tôi không bao giờ nghi ngờ về điều đó. Điều bất lợi đối với học sinh Việt Nam là họ không tích cực tham gia vào các hoạt động ngoại khóa và các hoạt động vì cộng đồng. Tôi nghĩ đó là những yếu tố rất quan trọng khi các trường đại học xét hồ sơ xin học của các ứng viên”.

Ngoài việc học ở lớp, khi còn học cấp hai và cấp ba, Vân còn tham gia các cuộc thi khác nhau về toán cũng như viết luận, và đã giành nhiều giải thưởng.

Hiện cha mẹ của cô vẫn ở Việt Nam, và khi được hỏi về khả năng trở về nước làm việc, cô nói: “Tôi không hoàn toàn chắc chắn là tôi sẽ trở về Việt Nam sau khi học xong hay không, nhưng đó hoàn toàn là một khả năng. Tôi dự tính sẽ tới làm việc ở châu Á, có thể là Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc hay Việt Nam. Tôi muốn làm việc cho các tổ chức hay các công ty của Mỹ có chi nhánh tại Việt Nam”.

Truyền thông ở Việt Nam đã đưa tin về thành tích học tập của Tường Vân, và có tờ báo còn coi cô là một trong những người ‘làm rạng danh đất Việt’.

Website của nhiều đoàn thanh niên ở Việt Nam coi cô gái này là một tấm gương cho các đoàn viên khác.

Trang web của đoàn thanh niên tỉnh Quảng Ngãi viết rằng Vân là một trong các ‘trí tuệ Việt đấm chuông xứ người’ và đã ‘khẳng định thương hiệu Việt’.

Đảng vinh quang, tài tình: Thứ tôn giáo xuống cấp

Đảng vinh quang, tài tình: Thứ tôn giáo xuống cấp

Fri, 01/31/2014  nguyenhuuvinh

RFA

Ngày đầu xuân Nhâm Ngọ, trên mọi nẻo đường đất nước, nhan nhản đâu đâu ta cũng gặp câu khẩu hiệu: “Đảng Cộng sản Việt Nam quang vinh muôn năm”. Đọc   qua, người ta cứ ngỡ rằng Đảng ta” được ca tụng tận mây xanh, vinh quang thật và vĩ đại thật!

Nhưng, thực chất, ngẫm kỹ thì câu khẩu hiệu này là phản động.

Nhất là nhìn vào cuộc sống người dân qua tết này, không khí tết đã cho thấy đó là sự mỉa mai.

Còn nhìn vào thực tế tấm lòng người dân người ta thấy đó là sự hài hước.

Lấp liếm và phản động

Điều lệ Đảng CSVN ghi như sau: “Mục đích của Đảng là xây dựng nước Việt Nam độc lập, dân chủ, giàu mạnh, xã hội công bằng, văn minh, không còn người bóc lột người, thực hiện thành công chủ nghĩa xã hội và cuối cùng là chủ nghĩa cộng sản…” Chủ nghĩa Mác – Lênin khẳng định khi thế giới tiến đến Chủ nghĩa Cộng sản thì lúc đó “của cải tuôn ra dào dạt, mọi người làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu” (Theo Chủ nghĩa Mác – Lênin). Khi đó xã hội hoàn thiện không còn đảng phái, giai cấp, thậm chí nhà nước cũng tiêu vong.

Vậy thì khi đến CNCS – hẳn nhiên không còn giai cấp, đảng phái và nhà nước cũng phải bị triệt tiêu. Vì thế, câu khẩu hiệu “Đảng Cộng sản Việt Nam muôn năm” chính là câu khẩu hiệu phản động nhất, đứng trên quan điểm CN Mác – Lênin.

Vậy mà luôn luôn mọi nơi, mọi lúc, hễ có điều kiện là câu khẩu hiệu nói trên được bưng ra mời chào. Phải chăng, thói nói một đằng làm một nẻo cũng bắt đầu nhiễm từ câu khẩu hiệu này trở đi?

Vinh quang, tài tình!

Chỉ mới mấy chục năm, chưa dài lắm, mà “Đảng ta” đã tự bộc lộ một sự èo uột, một sắc thái xám xịt thiếu sức sống. Đặc biệt với sự tụt dốc thê thảm về đạo đức, bản chất của đảng được bộc lộ ra ngoài hoàn toàn “khách quan, biện chứng” dù đã cố tình che giấu bằng mọi cách, kể cả che giấu bằng nhà tù và… súng.

Điều đó không phải do “thế lực thù địch” hoặc kẻ thù của đảng nói ra, nó được chính các cán bộ lãnh đạo đảng tự thú nhận bằng cách này hay cách khác. Qua từng thời kỳ, qua chính những phát biểu của lãnh đạo đảng và người dân nói về Đảng, điều không thể không nhận thấy rõ ràng bản chất của Đảng ngày càng lộ rõ và vì vậy người dân càng xa lánh, đảng mất thiêng.

Ngay từ Cương lĩnh đầu tiên của Đảng  tháng 10/1930 đã ghi: “Đảng phải chuẩn bị cho quần chúng về “con đường võ trang bạo động” và “phải tuân theo khuôn phép nhà binh” đánh đổ chính phủ địch nhân, giành chính quyền”. Như vậy, đường lối của Đảng ngay từ đầu đã khẳng định con đường bạo lực và “cướp chính quyền”. Và việc đó đã xảy ra năm 1945, Đảng đã cướp được chính quyền về tay mình.

Dường như, khi men chiến thắng đang rừng rực trong mình, Đảng không hề giấu diếm bản chất của mình qua việc sử dụng các ngôn từ để biểu thị bản chất, mục đích của hành động. Trong các sách vở, tài liệu, Đảng ngang nhiên tuyên truyền việc “Cướp chính quyền” về tay mình bằng võ trang bạo động.

Thế rồi khi cầm quyền, Đảng tha hồ tung hô, được tung hô và tự tung hô cũng như buộc tất cả phải tung hô sự vinh quang, về đạo đức, về sự tuyệt vời của Đảng.

Nào là “…phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa trí tuệ của nhân loại, nắm vững quy luật khách quan, xu thế thời đại và thực tiễn của đất nước để đề ra Cương lĩnh chính trị, đường lối cách mạng đúng đắn, phù hợp với nguyện vọng của nhân dân” (Điều lệ Đảng).

Rồi thì “Đảng ta là đạo đức, là văn minh”. (Hồ Chí Minh)

Những cái mà Đảng tự nhận là “sai lầm” thực chất là hàng loạt tội ác, nhưng chỉ cần “nhận lỗi” thế là xong, Đảng lại tiếp tục vĩ đại, tiếp tục là đạo đức, văn minh. Về việc “nhận lỗi”, chúng tôi đã có bài viết “Khi người Cộng sản nhận lỗi” để đề cập đến vấn đề đó.

Biệt tài đổ lỗi của “đảng ta” luôn được phát huy trong mọi hoàn cảnh, điều kiện. Ngay từ xưa, người dân Việt Nam đã có lý khi đúc kết kinh nghiệm tuyên truyền của Đảng như sau: “Mất mùa là bởi thiên tai. Được mùa là bởi thiên tài Đảng ta”. Có lẽ chừng đó đã nói lên bản chất tranh công, đổ lỗi và không dám chịu trách nhiệm của “đảng ta”. Nhưng, điều đó cũng không cứu vãn nổi sự tụt dốc thảm hại về sự tín nhiệm vào đảng.

Như vậy, một đảng được vũ trang bằng lý thuyết vô thần, bạo lực, thực thi bằng dối trá, liệu đó có là sự vinh quang?

Một điều thường xuyên được nhai đi nhai lại là “Công lao của đảng lãnh đạo đất nước đứng lên chống thực dân Pháp và Đế quốc Mỹ”(?) Thử xem?

Hẳn nhiên, khi đất nước chúng ta đánh đuổi thực dân, không chỉ có một Đảng CS, ở đó còn có các đảng phái khác. Dù nhiều người cho rằng, Đảng Dân Chủ và Đảng Xã Hội là hai con bài do Đảng CS giật dây lãnh đạo. Cũng rất có thể xảy ra trong thực tế. Tuy nhiên, về danh chính ngôn thuận, Đảng CS chưa dám đủ bản lĩnh thừa nhận việc hai cái đảng cá cảnh kia chỉ để làm những gì Đảng CS điều khiển. Ngay cả cái tên Đảng CS, khi đó đảng còn chưa dám danh chính, ngôn thuận.

Còn, cái gọi là “Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước” liệu có đúng là cuộc chiến cứu nước hay không khi mà chính Lê Duẩn nói rằng: “Ta đánh Mỹ là đánh cả cho Liên Xô, đánh cho Trung Quốc”.

Vậy có gì là vinh quang, khi đảng đã tự nguyện trở thành người lính đánh thuê cho các ohe phái cộng sản khác nhau trên thế giới?

Nhận diện sự vinh quang, tài tình

Đi từ miền Bắc về miền Trung Tết này, không ai không thấy được một điều nổi bật: Không khí đón tết, mừng xuân năm nay quả thật trầm lắng và u uất. Hàng loạt các doanh nghiệp báo tử. Nơi nơi, câu cửa miệng của mọi người dân là làm ăn khó khăn, nạn thất nghiệp trầm trọng, nặng nề. Đời sống kinh tế của đất nước được thể hiện trên gương mặt hốt hoảng, ngơ ngác của những người tiêu dùng. Giá cả tăng chóng mặt, bất chấp đời sống người dân ra sao.

Suốt dọc chiều dài đất nước, điều người dân cầm chắc là sẽ tăng lên đều đều nhịp bước hoặc phi mã bất chấp quy luật và ý muốn, đó không phải là chất lượng cuộc sống người dân, mà đó là giá cả, là tai nạn, là trộm cướp… Đồng hành với chính sách cướp đoạt đất đai, một số lượng dân oan cứ tăng không ngừng và ngày càng đông đúc.

Một cái Tết đến không nằm trong sự háo hức, mong đợi của người dân Việt Nam. Nó chỉ nằm trong những miệng lưỡi ngợi ca đầy tính chất mị dân ồn ào, trống rỗng.

Tất cả những điều đó, đã dội những gáo nước lạnh ngắt và bẩn thỉu vào sự “sáng suốt và tài tình”.

Thế nhưng, dường như để trêu ngươi mọi người dân cho đến lúc nhận đủ sự chán chường của họ, những khẩu hiệu vẫn cứ nhan nhản khắp mọi nẻo đường trong những ngày đón xuân.

Tôn giáo tự hoại, Đảng xuống cấp!

Người ta cho rằng: Chủ Nghĩa Mác – Lenin cũng là một thứ tôn giáo, ở đó có đầy đủ Giáo lý, Giáo sỹ, Giáo phẩm và các tín hữu… Mặc dù trên cơ sở lý thuyết, thứ tôn giáo này không tin vào thần thánh, tâm linh, thứ mà nó đưa lên vừa là tôn thờ, vừa là phương tiện đó là Bạo lực và dối trá. Các cơ sở Đảng cộng sản, cũng chính là các cơ sở tôn giáo của giáo phái do Mác – Lênin sáng lập này.

Điều khác biệt các giáo phái và các tôn giáo khác là thứ tôn giáo này được lan truyền bằng súng đạn và máu. Mục đích là tiêu diệt hoàn toàn các giáo phái, các tín ngưỡng khác để cả hành tinh chỉ duy nhất một tôn giáo Mác – Lenin. Đó là con đường nhuốm đầy máu nhân loại mỗi nơi nó đi qua. Tín đồ của thứ tôn giáo này, là những tín đồ bắt buộc, họ không được có một lựa chọn nào khác ngoài sự phục tùng thứ tôn giáo này.

Thế nhưng, thay vì tồn tại hàng ngàn năm như các tôn giáo chân chính khác, thứ tôn giáo của máu và súng này đã nhanh chóng lụi tàn trên thế giới. Kể từ khi hình thành cho đến ngày sụp đổ ngay tại nơi sinh ra nó chỉ hơn 70 năm. Trên thế giới, chỉ còn lại vài ba chiếc vòi bạch tuộc của nó tự biến dạng để tồn tại một cách lỳ lợm mà nói theo cách của “Đảng ta” – một bộ phận của thứ tôn giáo này – là “vận dụng sáng tạo vào hoành cảnh thực tế”.

Cũng theo quy luật đào thải đó, “Đảng ta” dần dần bộc lộ những điểm yếu chết người mà không thể nào khắc phục: Độc trị dẫn đến độc tài và xã hội tha hóa dẫn đến suy vong.

Hà Nội, ngày 31/1/2014

J.B Nguyễn Hữu Vinh

 

Những lời chúc Tết hay nhất ý nghĩa nhất

Những lời chúc Tết hay nhất ý nghĩa nhất

Đong cho đầy hạnh phúc. Gói cho trọn lộc tài.

Giữ cho mãi an khang. Thắt cho chặt phú quý.

Cùng chúc nhau như ý. Hứng cho tròn an khang.

Chúc năm mới bình an. Cả nhà đều sung túc.

Công thức nấu món ăn ngày Tết :

1. Lấy 12 tháng trong năm đem rửa sạch mùi cay đắng, ghen tị, thù oán …rồi để ráo nước
2. Tuần tự cắt mỗi tháng ra 28, 30 hay 31 phần.
3. Trộn đều với: – Một chút tin yêu – Một chút kiên nhẫn – Một chút can đảm – Một chút cố gắng
– Một chút hy vọng – Một chút chung thủy
4. Ướp thêm gia vị: lạc quan, tự tin và hài hước
5. Ðem ngâm một lát trong dung dịch “Những điều tâm niệm của mình”
6. Vớt ra, xay nhỏ, đổ tất cả vào “Nồi yêu thương” và nấu với lửa “Vui mừng”
7. Ðem ra ăn với “Nụ cười” trong chén “Bao dung”

và sẽ có

MỘT NĂM MỚI ÐẦY YÊU THƯƠNG VÀ HẠNH PHÚC .

S.T.

từ Nguyễn Kim Bằng gởi

Đối thoại trong chương trình cứu độ

Đối thoại trong chương trình cứu độ

chuacuuthe.com

images (2)

VRNs (30.01.2014) – Sài Gòn-

Nhân loại có kinh nghiệm về một cuộc “đối thoại” với loài ranh ma xảo quyệt, một cuộc nói chuyện không chỉ vô ích nhưng còn mang theo hệ lụy cả nhân loại phải chết, chỉ vì một phía nói chuyện không tôn trọng sự thật và đầy mưu mô xảo quyệt (Stk.3, 1–7). Trong bóng tối của sự chết đè nặng trên nhân loại, Thiên Chúa thực hiện chương trình cứu độ để giải thoát con người ra khỏi sự chết muôn đời.

Nếu “người đàn bà” năm xưa đã ngây thơ, chân thật và thiếu khôn ngoan thì Thiên Chúa lại tuyển lựa được một “người đàn bà” khác là “Tòa khôn ngoan“ của nhân loại, Bà đã đối thoại với Thiên Chúa để chấp nhận cho Thiên Chúa thực hiện chương trình cứu độ nhân loại qua sự dâng hiến chính cuộc đời của Bà.

“Bà Elisabét có thai được sáu tháng, thì Thiên Chúa sai sứ thần Gáprien đến một thành miền Galilê, gọi là Nadarét, gặp một trinh nữ đã đính hôn với một người tên là Giuse, thuộc nhà Ðavít. Trinh nữ ấy tên là Maria.

Sứ thần vào nhà trinh nữ và nói: “Mừng vui lên, hỡi Ðấng đầy ân sủng, Ðức Chúa ở cùng bà. Nghe lời ấy, bà rất bối rối, và tự hỏi lời chào như vậy có nghĩa gì.

Sứ thần liền nói: “Thưa bà Maria, xin đừng sợ, vì bà đẹp lòng Thiên Chúa. Và này đây bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, và đặt tên là Giêsu. Người sẽ nên cao cả, và sẽ được gọi là Con Ðấng Tối Cao. Ðức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Ðavít, tổ tiên Người. Người sẽ trị vì nhà Giacóp đến muôn đời, và triều đại của Người sẽ vô cùng vô tận.”

Bà Maria thưa với sứ thần: “Việc ấy sẽ xảy ra cách nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng!”

Sứ thần đáp: “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Ðấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà, vì thế, người con sinh ra sẽ là thánh, và được gọi là Con Thiên Chúa.  Kìa bà Êlisabét, người họ hàng với bà, tuy già rồi, mà cũng đang cưu mang một người con trai: bà ấy vẫn bị mang tiếng là hiếm hoi, mà nay đã có thai được sáu tháng. Vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được.

Bấy giờ bà Maria nói: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói”. Rồi sứ thần từ biệt ra đi.”

(Lc. 1, 26 – 38)

Cuộc đối thoại giữa Đức Maria và Sứ thần của Thiên Chúa đã diễn ra trong tình trạng thật tuyệt mỹ, kết quả của cuộc đối thoại là chương trình cứu độ của Thiên Chúa được thực hiện, mang lại ơn cứu thoát cho cả nhân loại.

Chúng ta nhận thấy: Cả hai, phía Thiên Chúa và phía Đức Maria,

–      Cả hai đếu có sự thật, sự thật về thân phận con người và sự thật về tình thương và quyền năng của Thiên Chúa. Đức Maria không ngần ngại bộc bạch về giới hạn của con người, Thiên Chúa không ngần ngại đoan quyết về quyền năng và tình thương của Ngài.

–         Cả hai đều tôn trọng sự thật và tôn trọng tư do lẫn nhau. Thiên Chúa ngỏ lời và Đức Maria hoàn toàn tự do quyết định.

–         Trong đối thoại, cả hai đều nói sự thật, không một chút lọc lừa, không gian manh xảo quyệt, không sắp đặt gài bẫy, không đầy đưa phỉnh phờ.

Trong đối thoại cả hai đều hướng về sự thiện, đều nhắm đến sự tốt lành và hạnh phúc cho nhân loại, “vì các linh hồn”.

–         Trong đối thoại cả hai đều rất khiêm tốn, Thiên Chúa thật khiêm tốn nhẹ nhàng ngỏ lời, Đức Maria thật khiêm tốn bày tỏ, và cuối cùng để Chúa thực hiện theo ý Chúa.

Năm mới mở ra một giai đoạn mới, chúng ta sẽ vẫn tiếp tục đối thoại với con người, đối thoại với người nghèo, đối thoại với xã hội, đối thoại với các tôn giáo bạn, đối thoại các nên văn hóa mới, … Sẽ không có kết quả của sự loan truyền đức tin nếu không có cung cách đối thoại như cuôc đối thoại của Đức Maria với Sứ thần của Thiên Chúa. Người Kitô hữu cần phải tỉnh táo. Kinh Thánh ngoài gía trị là chính lời của Thiên Chúa, Kinh Thánh còn là một bản đúc kết kinh nghiệm của nhân loại về lịch sử của nhân loại. Nhân loại đã có kinh nghiệm, bài học về kinh nghiệm không phải là bài học tầm thường, người khôn ngoan hãy trân trọng học hỏi.

Lm. Vĩnh Sang, dcct.

30 Tết (30/01/2014)

Thằng Ăn Cắp

Thằng Ăn Cắp

Những người làm việc công mà đòi trả ơn, làm việc thiện chỉ do tư lợi, làm việc nước cốt vì quyền hành địa vị… thảy đều không hiểu chuyện nầy!!

Cảnh chỉ có ở Việt Nam thời nay.

( Ảnh trên: Nhục hình tội phạm của xả hội Việt  Nam, hiện nay )

(Năm 12 tuổi, tôi đọc ở đâu đó một truyện cổ tích Ấn Ðộ. Truyện rất ngắn, ít tình tiết, kể về một thằng ăn cắp. Hồi đó tôi không hiểu ý nghĩa. Ðem hỏi cha tôi thì người chỉ nói: “Lớn lên con sẽ hiểu. Người nào không có lòng công chính, không là người chân thật thì cũng không hiểu.”
Thường bọn móc túi nơi đám đông, quân đào tường, khoét vách nhà người ta để trộm tiền bạc, đồ đạc… là những vật cụ thể, hữu hình, thì chúng bị gọi là kẻ cắp. Ðiều đó dễ hiểu. Còn lòng danh dự, sự công chính, lương tâm là những thứ trừu tượng, những ý niệm, thảy đều có thể bị ăn trộm hay sao?

Ở một làng bên xứ Ấn Độ, có một thương gia nghèo. Ðời sống khó khăn, nạn cường hào ác bá quá đỗi lộng hành khiến bác ta sống không nổi, phải bỏ đi một xứ xa sinh sống. Sống nơi đất khách quê người lâu ngày, lòng riêng vẫn tủi. Lại thêm tuổi đà xế bóng, tính ganh đua, lòng ham muốn cũng mỏi mòn. Một hôm chạnh nhớ cố hương, bác quyết định trở về. Bán hết tài sản lấy tiền mua vàng, gói vào một túi vải giấu trong túi hành lý khoác vai, bác lên đường về quê hương.

Trong vùng quê người thương gia, giữa một cánh đồng, dân trong vùng xây một ngôi chùa nhỏ để các nông phu buổi trưa ghé vào lễ Phật và nghỉ ngơi. Một cây bồ đề lâu năm che bóng rợp xuống một sân nhỏ lát gạch, một cái giếng khơi, nước mát và trong vắt, cũng là nơi cho khách bộ hành ghé chân nghỉ ngơi, giải khát, hoặc đôi khi ngủ qua đêm trong chùa. Chùa không có người coi. Phật tử trong chùa đều là nông dân. Lúc rảnh việc thì tự ý tới làm công quả quét tước, dọn dẹp, chăm sóc cho đám cây cỏ sân chùa lúc nào cũng hương khói quanh năm.

Sau nhiều ngày lặn lội đường xa, người thương gia về gần đến làng cũ. Trời đã xế trưa, nắng gắt. Ði ngang qua chùa, bác ghé vào nghỉ chân dưới gốc bồ đề. Ra giếng nước giải khát, rửa ráy sạch sẽ xong, bác vào chùa lễ Phật. Trong chùa vắng lặng. Bác thắp hương quỳ trước bàn thờ Phật. Ngước nhìn lên, nét mặt đức Thế Tôn vẫn trầm mặc như xưa nay, hơn mười năm qua không có gì thay đổi. Cảnh vật như đứng ngoài thời gian. Lễ xong, người thương gia rời chùa. Thấy bóng chiều đã ngả, đường về còn khá xa, bác liền rảo bước, bỏ quên túi hành lý trong chùa.

Buổi chiều hôm đó, một nông dân nghèo khổ trở về làng sau một ngày làm việc ngoài đồng. Ngang qua chùa, ngày nào cũng vậy, bác ghé vào lễ Phật trước khi trở về nhà. Lễ xong, bác trông thấy một túi vải to để gần bàn thờ. Bác ta nghĩ thầm: Không biết túi vải của ai đi lễ đã bỏ quên. Nhỡ có người tham tâm lấy mất thì tội nghiệp cho người mất của. Âu là cứ mang về nhà rồi viết bảng thông báo để trả lại cho người ta.

Về đến nhà, bác nông dân gọi vợ con ra, trỏ vào túi vải, nói:
– Ðây là vật người ta bỏ quên trong chùa. Nay mình cứ tạm kiểm kê rõ ràng, đầy đủ, mai mốt có người đến nhận đúng thì trả lại cho người ta.

Giở ra xem, thấy có gói vàng to, người nông dân nghiêm giọng dặn vợ con:
– Vàng của người ta là một vật rất nguy hiểm. Nó làm nảy lòng tham. Mọi điều bất chính, bất lương, mọi sự đau khổ cũng từ đó phát sinh. Mẹ con mày chớ có dúng tay vào mà khốn!
Bác cất cẩn thận bỏ túi vải vào rương, khóa lại.

Người thương gia rảo bước về gần đến làng, nhìn xa xa ráng chiều êm ả, những làn khói bếp vương vấn trên rặng tre quen thuộc. Cảnh xưa vẫn còn trong trí bác so với nay như không có gì thay đổi sau hơn mười năm xa cách.

Vừa đến cổng làng, người thương gia mới sực nhớ đã bỏ quên túi hành lý ở chùa. Lo sợ, hốt hoảng, bác vội quay lại con đường cũ, vừa chạy vừa kêu:
– Khổ thân tôi! Thế là tôi mất hết cả sản nghiệp dành dụm từ hơn mười năm nay! Bao nhiêu công lao trôi sông trôi biển cả rồi! Khổ thân tôi chưa!

Người đi đường ai thấy cũng ngạc nhiên.
Tới chùa thì cảnh vẫn vắng tanh, bên trong chỉ có một cụ già đang lễ Phật. Người thương gia vội túm lấy cụ già, hốt hoảng hỏi:
– Túi đồ của tôi đâu? Vàng của tôi đâu?

Cụ già ngạc nhiên:
– Túi đồ nào của bác? Vàng nào của bác?
– Thì cái túi hành lý tôi để quên hồi xế trưa trong chùa này!

Cụ già vẫn bình thản:
– Quả thật lão không thấy túi đồ của bác. Lão đã sống thanh đạm cả đời, nỡ nào trong chốc lát vứt bỏ lương tâm mà tham của người. Bác cứ bình tĩnh. Của mất, có duyên thì còn có ngày lấy lại, vô duyên thì của cầm trong tay cũng mất. Túi đồ của bác đã thất lạc, bác lại mất luôn cả cái tâm công chính, đỗ vấy cho người là cớ làm sao? Gần đây có một xóm làng, buổi chiều nông dân thường lễ Phật trước khi về nhà. Bác thử tới đó hỏi xem. Thói thường, thấy vàng là tối mặt lại. Nhưng cũng còn tùy. Cũng còn có nhiều người tốt.

Người thương gia nghe ra, nhận thấy mình vô lý, bèn xin lỗi cụ già rồi theo lời chỉ dẫn, tiếp tục đi tìm. Tới làng, ông ta hỏi nhiều người mà không ai biết. Nghĩ rằng sản nghiệp dành dụm trong mười năm của mình nay phút chốc như chiếc lá vàng rơi theo gió đưa, biết đâu là bờ bến mà tìm! Ðành phó mặc cho bước chân tình cờ may rủi. Khi tới cuối làng, giữa vườn cây cối um tùm có một căn nhà lá nhỏ tồi tàn. Trước cửa treo một tấm bảng đen, với hàng chữ trắng viết to: “Tôi có nhặt được một túi vải bỏ quên trong chùa. Ai là chủ xin tới nhận lại.”

Người thương gia mừng quýnh đập cửa, gặp anh nông dân ra mở hỏi:
– Bác là chủ túi đồ bỏ quên trong chùa?
– Vâng, chính tôi. Tôi đã để quên trong chùa hồi xế trưa nay. Xin cho tôi nhận lại.
– Nếu đó là của bác thì bác phải nói xem túi đồ của bác như thế nào? Trong đựng những gì?

Người thương gia trả lời:
– Ðó là túi vải, trong đựng một ít lương khô đi đường.
Người nông phu nói:
– Thế thì không phải túi đồ của bác.
– Thú thật với bác, cũng còn một số vàng trong một gói vải khác màu đỏ.

Người nông phu nghe tả đúng các đồ vật và số lượng vàng đựng trong túi vải, biết chắc người tới hỏi là chủ nhân bèn mở rương ra, nói với người thương gia:
– Quả thật đó là túi đồ của bác. Xin mời vào nhận.

Người thương gia nhận đủ số vàng, lòng vui khôn tả. Bác thấy cảnh nhà người nông dân nghèo nàn mà lại không có lòng tham, để tỏ lòng biết ơn, bác chia đôi số vàng gói vào một miếng vải đưa cho người nông dân. Bác nói:
– Vàng của tôi tưởng đã mất, may sao lại gặp tấm lòng quý của bác. Tôi xin biếu bác một nửa để tỏ lòng thành thật biết ơn.

Người nông dân ngạc nhiên:
– Trả lại món vật không phải của mình chỉ là một việc bình thường, có ơn gì mà được đền?
– Bác đã làm một điều thiện. Ðược đền ơn là đúng lẽ.

Làm việc thiện là nghĩa vụ tự nhiên. Đạo lý xưa nay vẫn dạy như vậy. Đó không phải là cái cớ để đòi hay nhận tiền thưởng. Cũng như lòng yêu dân tộc, yêu tổ quốc không phải là cái cớ để được trả công. Vàng của bác do công sức làm ra thì bác hưởng. Tôi có góp công lao gì vào đó mà chia phần? Thôi, xin bác hãy để tôi được sống yên vui trong cái nghèo của tôi hơn là sống giàu có nhờ vào của cải người khác. Như thế cũng là một cách ăn cắp.

Người thương gia không còn lý lẽ gì để nói thêm bèn khoác hành lý lên vai, bất thần vất gói vải đựng nửa số vàng lên bàn rồi bỏ chạy. Ý định của ông ta là bắt buộc bác nông dân phải nhận sự đền ơn, nhưng bác vội nhặt gói vàng rồi đuổi theo, miệng hô hoán:
– Bớ người ta, thằng ăn cắp! Bắt lấy thằng ăn cắp.

Dân trong làng nghe tiếng hô hoán liền đuổi theo bắt được người thương gia dẫn trở lại trước mặt bác nông dân, hỏi:
– Hắn đã ăn cắp vật gì của bác?
Hắn định ăn cắp cái tâm công chính và chân thật mà tôi có được từ ngày tôi học Phật!

Những người làm việc công mà đòi trả ơn, làm việc thiện chỉ do tư lợi, làm việc nước cốt vì quyền hành địa vị… thảy đều không hiểu chuyện nầy!!

Lính Thuỷ Sưu tầm

Con gái tài phiệt cầu xin cha

Con gái tài phiệt cầu xin cha

Thứ tư, 29 tháng 1, 2014

Cô Gigi Chao (phải) đã cưới người tình đồng tính của mình hồi 2012 tại Pháp

Con gái của một nhà tài phiệt Hong Kong trong một lá thư ngỏ đã kêu gọi cha mình hãy chấp nhận cô là người đồng tính, sau khi ông đề nghị chi hàng triệu đôla để kiếm chồng cho con.

Cô Gigi Chao nói ông Cecil Chao hãy chấp nhận bạn tình của cô và “đối xử với cô ấy như một con người bình thường, có nhân phẩm”.

Cô Chao, 33 tuổi, đã cưới người bạn tình lâu năm Sean Eav tại Pháp hồi 2012, cũng nhấn mạnh: “Có nhiều người đàn ông tốt trên đời, nhưng có điều họ không phải là để dành cho tôi.”

Hồi tuần trước, ông Chao được cho là đã tăng gấp đôi lời đề nghị của mình lên 65 triệu đôla.

Hong Kong không công nhận hôn nhân đồng giới, tuy việc quan hệ đồng tính đã không còn bị coi là tội phạm kể từ 1991.

Ông Chao, một nhà tài phiệt chuyên về bất động sản và vận tải biển, người chưa từng kết hôn, nói với BBC hồi năm ngoái rằng con gái ông cần “một người chồng tốt”.

“Sự thực là họ không hiểu rằng con sẽ luôn tha thứ cho cha về việc đã có suy nghĩ như vậy, bởi con biết cha cho rằng cha đang làm mọi thứ tốt nhất cho con.”

Khi đó ông nói lời đề nghị trao tiền cho người đàn ông theo đuổi con gái mình đã khiến ông nhận được nhiều hồi âm từ các chàng trai tiềm năng.

Lá thư của cô Chao, một nữ doanh nhân và là một gương mặt nổi tiếng trong giới thượng lưu, được đăng tải trên ít nhất hai tờ báo Hong Kong.

Trong thư, cô nói cô lấy làm tiếc là mọi người đã nói “những điều thiếu tế nhị” về cha cô.

“Sự thực là họ không hiểu rằng con sẽ luôn tha thứ cho cha về việc đã có suy nghĩ như vậy, bởi con biết cha cho rằng cha đang làm mọi thứ tốt nhất cho con,” cô viết.

“Là con gái của cha, con không muốn gì hơn là khiến cho cha hạnh phúc. Nhưng trong các mối quan hệ, những mong muốn của cha về con và thực tế con là người thế nào lại không kết gắn gì với nhau.”

Cô nói thêm rằng cô không trông đợi cha và bạn tình của mình “trở thành những người bạn tốt”.

Nhưng cô nói “với con, sẽ đáng giá như cả thế giới này nếu cha không kinh sợ cô ấy đến vậy, và đối xử với cô ấy như một con người bình thường, có nhân phẩm”.

“Con xin lỗi vì đã khiến cha hiểu lầm rằng con rơi vào mối quan hệ đồng tính chỉ bởi ở Hong Kong không có đủ những người đàn ông tốt, xứng đáng,” cô viết thêm.

Cô Chao kết thư bằng dòng chữ: “Con gái đầy kiên nhẫn của cha.”

 

CHIẾC ÁO RÁCH

CHIẾC ÁO RÁCH

Một linh sư Ấn giáo rất hài lòng về sự tiến bộ của người đệ tử. Nhận thấy anh ta không cần sự dìu dắt của mình nữa, nên ông bỏ mặc anh trong túp lều tranh rách nát bên cạnh bờ sông. Một hôm buổi sáng, khi thức dậy, người đệ tử xuống dòng sông thanh tẩy theo đúng nghi thức, rồi giặt chiếc áo rách của mình. Đó là tài sản duy nhất của anh.

Ngày kia, anh nhận ra chiếc áo của mình phơi ở bờ sông đã bị chuột cắn rách tả tơi. Anh đành phải vào làng xin một chiếc áo khác. Cái áo này cũng bị chuột gặm nát như tương. Anh mới xin về một con mèo. Lần này, anh khỏi phải lo chuột quấy phá. Nhưng không xin áo thì phải xin cơm bánh .Ngày ngày phải vác bị đi khất thực, người đệ tử cảm thấy mình như một gánh nặng cho dân làng. Vì thế, anh tìm cách tậu cho bằng được một con bò để lấy vốn làm ăn. Nhưng có bò thì cũng phải có cỏ cho bò ăn. Những ngày đầu, anh còn tự mình cắt cỏ. Về lâu về dài, anh đành phải thuê người cắt cỏ vì không có thì giờ cầu nguyện. Bò càng ngày càng sinh sản ra nhiều, người cắt cỏ cũng phải gia tăng.

Chẳng mấy chốc, mảnh đất xung quanh túp lều của anh đã trở thành nông trại. Con người đã một thời muốn bỏ tất cả mọi sự để trở thành một tu sĩ, nay nghiễm nhiên làm một chủ nông trại giàu có. Có tiền, có mọi sự, nên anh cũng muốn có người chia sẻ công việc của anh. Anh đành phải cưới vợ.

Khi vị linh sư có dịp về thăm ngôi làng cũ, ông ngạc nhiên vô cùng vì túp lều nghèo nàn bên bờ sông nay đã là cả một cơ nghiệp. Ông hỏi người đệ tử:

-Thế này nghĩa là gì hở con?

Người đệ tử mới trả lời:

– Có lẽ thầy không tin. Nhưng tất cả cơ nghiệp này hiện hữu cũng chỉ vì con đã không làm cách nào để giữ được chiếc áo rách!

***

Cám dỗ nào cũng ngọt ngào như mật lôi kéo bầy ong, như hương hoa cuốn hút đàn bướm. Có nhiều thứ săn đuổi chúng ta trong cuộc sống lắm! Bao lâu còn mang bản tính con người, bấy lâu người ta còn thích hưởng thụ, dễ dãi, thoải mái. Con người chỉ có thể thắng vượt cơn cám dỗ khi họ tự biết chính mình. Con người chỉ thực sự khôn ngoan khi biết mình mang thân phận yếu hèn tội lỗi. Người đệ tử của vị linh sự Ấn Giáo ngày càng rời xa nếp sống tu hành vì chính anh chưa một lần nhìn lại bản thân. Có nhìn lại bản thân con người mới thấy mình cần phải hoán cải, canh tân.

Thiên Phúc