Đàn ông Việt ‘thăng tiến trên bàn nhậu’?

Đàn ông Việt ‘thăng tiến trên bàn nhậu’?

 

                                                                                                     Hà Mi

                                                                                                                           BBCVietnamese.com

Thứ tư, 15 tháng 8, 2012

 Uống bia 

Nhậu sau giờ làm đã trở thành thói quen không thể thiếu của nhiều người tại Việt Nam

Cảnh các quán bia rượu, nhà hàng luôn đông đúc, đặc biệt sau giờ tan tầm ở các thành phố lớn như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh đã trở thành quá quen thuộc với người dân tại Việt Nam.

Tình trạng ăn nhậu đã trở nên rất phổ biến này ban đầu chỉ là một phần của văn hóa ẩm thực, giải trí, thậm chí trở thành thói quen không thể thiếu trong cuộc sống hàng ngày nhưng đang có tác động xã hội sâu rộng.

Việc các ông chồng đi nhậu sau giờ làm đã trở thành điều rất nhiều bà vợ chấp nhận và coi đấy là bình thường. Thậm chí hình ảnh cả gia đình quây quần bên bữa ăn tối mỗi ngày giờ đây trở thành ước mơ của nhiều bà vợ.

Tác động xã hội

Chi phí cho bia rượu, được VnExpress trích thuật từ khảo sát của Viện Chiến lược và Chính sách Y tế, lên tới 1,3 tỷ lít bia và hơn 300 triệu lít rượu mỗi năm, tức là chi tiêu hàng năm lên tới cả nghìn tỷ đồng cho bia rượu.

Đó là chưa kể tới những phí tổn cho bệnh tật từ rượu hay tai nạn giao thông do lái xe sau khi uống rượu.

Lý do cho các cuộc ăn nhậu rất đa dạng, vì công việc làm ăn, tiếp đối tác, ăn mừng sinh nhật, khao lương, đón người mới hay tiễn người cũ.

Ông Hùng, một trí thức, hiện làm giám đốc một công ty sửa chữa tàu biển tại thành phố Hồ Chí Minh, cho BBC hay mỗi lần đi ăn nhậu tiếp khách đối với ông là “cực hình” nhưng “vẫn phải đi vì nó là thủ tục nghiễm nhiên, chứ có quí báu gì đâu, uống vào có khi về đến nhà lại cho ra hết!”.

Chị Thi, vợ một giám đốc công ty cung cấp thiết bị truyền thông, trực thuộc công ty VTC tại Hà Nội cho biết chị và hai con thậm chí rất ngạc nhiên nếu có chiều nào đó thấy chồng về nhà ăn cơm với vợ con mà không đi ăn nhậu.

Điều làm phụ nữ này lo lắng là việc chồng thường lái xe sau mỗi lần đi nhậu sau giờ làm bất kể uống ít uống nhiều.

Một nghệ sĩ ưu tú khá nổi tiếng trong ngành điện ảnh không muốn nêu tên cho biết ông sẽ không bao giờ ra sống ở nước ngoài vì “ở nước ngoài làm gì chuyện hô một tiếng là chỉ chưa đầy một tiếng đồng hồ đã có thể tụ tập cả đám ăn nhậu như thế này!”

Với ông, những buổi ăn nhậu là để xả stress sau một ngày làm việc căng thẳng.

Thị trường mở rộng

Theo một khảo sát nhanh với 5 ngàn phiếu trả lời do tờ báo mạng VnExpress thực hiện và công bố hôm 15/8 thì “số người ra quán để ‘giải quyết công việc’ chỉ chiếm 16%, trong khi gần 40% số người được hỏi nhậu theo kiểu ngẫu hứng, nghĩa là thích thì ra quán, không có mục đích gì cả”.

Tờ báo này cũng viết “Ngoài ra, cứ 10 người thì có gần một người thừa nhận ra quán chỉ để trốn việc nhà”.

Trong khi một khảo sát nhanh khác cũng của VnExpress với hơn 6 ngàn phiếu cho thấy hơn 50% nam giới đi nhậu sau khi tan sở, trong đó 13% ngày nào đi nhậu và 14% trả lời không bao giờ đi nhậu sau giờ làm.

 Uống bia

Tỉ lệ sử dụng rượu bia cao nhất ở nam giới và dân công sở

Một cuộc điều tra trên diện rộng của Viện Chiến lược và Chính sách y tế về tình hình lạm dụng rượu bia tại Việt Nam hồi năm 2006 cho thấy tỷ lệ sử dụng rượu bia cao nhất là ở nam giới và nhóm cán bộ nhà nước, tiếp đến là công nhân trong các doanh nghiệp, người hưu trí và nông dân.

Điều đáng chú ý những người có trình độ học vấn cao có tỷ lệ sử dụng rượu bia cao nhất, tới 63%.

Vẫn theo nghiên cứu này thì mức độ tiêu thụ rượu bia gia tăng trong cả nước là kết quả của nhiều yếu tố, mà chủ yếu là do mức sống tăng, tập quán truyền thống và thêm vào đó là thị trường rượu bia mở rộng.

Hiệp hội sản xuất rượu whisky của Scotland (SWA) cho biết xuất khẩu sang Việt Nam đạt gần một triệu bảng mỗi năm, và Việt Nam được coi là một thị trường mới nổi được ưu tiên cao đối với ngành công nghiệp rượu Whisky.

Tại Việt Nam luôn có tình trạng chuốc rượu hay khích nhau uống để chứng tỏ nam tính với những tiếng hô “trăm phần trăm” và “zô zô” ồn ào để rồi nhiều người gục bên bàn nhậu vì say xỉn.

Có một số phụ nữ cho biết buộc phải tham gia các cuộc nhậu vì làm doanh nghiệp nên không thể không có mặt khi tiếp đối tác làm ăn, hay vì muốn đi theo để “kèm chồng cho chồng đỡ say xỉn” hoặc buộc phải đi theo chồng hay người yêu những khi không thể từ chối.

‘Thăng tiến trên bàn nhậu’?

Nhiều người nước ngoài khi tới Việt Nam làm việc đã không khỏi ngạc nhiên khi được mời uống bia rượu vào bữa trưa – tức vẫn trong giờ làm việc.

Ở Anh chẳng hạn, dân công sở cũng thường có thói quen chiều thứ Sáu tan làm rủ nhau ra quán uống một hai ly bia chừng 1-2 tiếng đồng hồ để thư giãn và họ tin rằng nó tạo cơ hội có quan hệ tốt hơn với đồng nghiệp.

Hiệu vẫn còn những ý kiến khác nhau về “văn hóa nhậu” tại Việt Nam.

Một số cho rằng nếu chỉ uống 1,2 ly để tiếp khách hay giải stress thì có thể chấp nhận được, rồi “nam vô tửu như kỳ vô phong” – đàn ông mà không uống rượu thì không thể hiện nam tính, và chỉ khi uống theo kiểu thách đố đến say xỉn mới thôi thì như thế mới có thể coi là một tệ nạn.

Trong khi một số khác thì lập luận rằng nếu ai cũng biết kiềm chế khi uống và biết dừng khi nên dừng thì đã không có chuyện phải bàn về “văn hóa nhậu”.

Phải chăng lề thói văn hóa của Việt Nam từ xưa theo kiểu “miếng trầu làm đầu câu chuyện” đã dẫn tới “chuyện làm ăn là phải nói trên bàn nhậu, thăng quan tiến chức, lương bổng …cũng trên bàn nhậu” như hiện nay?

Và để thay đổi được “văn hóa nhậu” này có lẽ sẽ là cả một quá trình lâu dài, đòi hỏi có những thay đổi căn bản cách nhìn nhận trong xã hội về giá trị hạnh phúc gia đình, quan điểm về vai trò của người vợ và người chồng ở nhà và trong xã hội, và có thể cần tới cả những quy định hạn chế chi phí cho việc tiếp đãi khách của các công ty.

PHÉP LẠ ĐÊM VỌNG LỄ ĐỨC MẸ HỒN XÁC LÊN TRỜI

PHÉP LẠ ĐÊM VỌNG LỄ ĐỨC MẸ HỒN XÁC LÊN TRỜI
                                                        

                                                                                             14/08/2012

                                                                              nguồn: vietvatican.net

… Câu chuyện xảy ra tại thành phố Milano, miền Bắc nước Ý.

Cách đây đúng 90 năm – tối ngày 14-8-1922 – vào khoảng 11 giờ đêm cô Elvira Mazzoli vẫn còn miệt mài làm việc nơi tòa báo. Vị chủ nhiệm tờ tuần san ”Squilli di Risurrezione – Hồi Chuông Phục Sinh” rời văn phòng lâu lắm rồi, để lại công việc dang dở cho cô thư ký. Cô Elvira phải kết thúc số báo đặc biệt trước nửa đêm để giao cho nhà in. Tờ tuần báo phải lên khuôn ngay đêm nay, để sáng mai, lễ trọng Đức Mẹ MARIA Hồn Xác Lên Trời, tờ báo sẽ được phân phối cho các sạp bán báo.

Lý do chậm trễ trong vội vã là vì vào phút chót, tờ báo nhận tin:
– Đức Trinh Nữ Rất Thánh MARIA được long trọng tuyên phong làm Chủ Tịch Hội Giới Trẻ Phụ Nữ Công Giáo.

Tin quan trọng đáng được thay đổi toàn bộ tờ báo để làm nổi bật vai trò của Vị Nữ Tân Chủ Tịch Thiên Quốc.

Giờ đây chỉ còn vỏn vẹn một tiếng đồng hồ để kết thúc bài viết trước khi người thợ in đến nhận bản thảo. Đôi mắt nặng trĩu vì quá mệt, cô Elvira Mazzoli cố gắng đánh máy những hàng cuối cùng:
– Chúng con xin lập lại lời dâng hiến của toàn thể Hội Đoàn cũng như của từng người chúng con cho Đức Trinh Nữ Vô Nhiễm Rất Thánh MARIA. Chúng con xin phó thác cho Mẹ cuộc sống nội tâm và công tác tông đồ của chúng con. Xin Mẹ thanh luyện chúng con. Xin Mẹ ban cho chúng con các nhân đức. Xin Mẹ cầu bầu cho chúng con ơn yêu mến Đức Chúa GIÊSU Con Mẹ. Cùng lúc, xin Mẹ cho chúng con biết làm cho những ai có dịp tiếp xúc với chúng con cũng được tăng thêm lòng kính mến Đức Chúa GIÊSU. Xin Mẹ cho chúng con ngày hôm nay biết sống trọn vẹn tư cách là giới trẻ Công Giáo để chuẩn bị cho mai ngày trở thành người vợ, người mẹ, người nữ tu và Phụ Nữ Công Giáo Tiến Hành.

Vừa đánh máy, cô Elvira Mazzoli như nếm trước niềm vui của toàn thể độc giả cũng như của các Hội Viên Giới Trẻ Phụ Nữ Công Giáo, vào ngày mai, khi mỗi người hân hoan mân mê trong tay tờ tuần báo thân yêu. Nhưng nhất là, vui chừng nào khi biết rằng Đức Nữ Trinh Rất Thánh MARIA trở thành Vị Bảo Trợ Phong Trào Giới Trẻ Phụ Nữ Công Giáo vào chính ngày lễ trọng của Đức Mẹ, 15-8!

Miên man với ý nghĩ này, cô Elvira Mazzoli ngủ thiếp đi lúc nào không hay biết. Trong giấc ngủ, cô làm ngã chiếc đèn dầu đặt trên bàn viết. Dầu chảy lan trên giấy và rơi xuống áo. Cùng với dầu, ngọn lửa theo nhanh bốc cháy. Trong khoảng ngắn, ngọn lửa có thể thiêu rụi căn phòng, biến cô Elvira Mazzoli thành ngọn đuốc sáng và bản thảo tờ Hồi Chuông Phục Sinh tan thành tro bụi!

Thế nhưng, Vị Nữ Bảo Trợ Thiên Quốc của Phong Trào không mảy may cho phép điều này có thể xảy ra. Đức Mẹ MARIA ra tay uy quyền can thiệp. Và Phép Lạ đã xảy ra. Cánh cửa sổ đang đóng kín bỗng bị mở tung. Một luồng gió nhiệm mầu ùa vào, kịp thời thổi tắt ngọn lửa bắt đầu bốc cháy, trước khi ngọn lửa có thể thiêu rụi tất cả người và vật trong phòng.

Nghe tiếng động của cánh cửa sổ bật mở, cô Elvira Mazzoli giật mình tỉnh thức.

Rất nhanh sau đó, cô định trí và hoàn hồn khi thấy mình vừa thoát khỏi bàn tay tử thần trong đường tơ kẽ tóc! Không đợi chờ lâu, cô quỳ gối xuống đất, dâng lời cảm tạ Hiền Mẫu MARIA Thiên Quốc đã gìn giữ mạng sống cô an toàn.

Mấy phút sau có tiếng chuông cửa reo. Đồng hồ cũng điểm 12 tiếng. Đúng nửa đêm. Người thợ in đến lấy bản thảo tờ Hồi Chuông Phục Sinh để cho lên khuôn. Khi cô Elvira Mazzoli trao bản thảo cho người thợ, tay cô vẫn còn run vì xúc động. Người thợ in nhận ra nét lúng túng xúc động của cô thư ký. Ông ân cần hỏi:
– Cô Elvira, cô đang run rẩy! Cô có bị gì không? Cô có muốn tôi đưa cô về nhà không?

Cô Elvira ôn tồn đáp lại:
– Thưa ông Monti, tôi không bị gì hết. Ông đừng lo lắng cho tôi. Tôi chỉ mệt một chút thôi. Nhưng tôi muốn ở lại văn phòng chờ trời sáng. Tôi đã sẵn đề tài cho bài viết của số báo vào tuần tới!

Ông Monti nhã nhặn nói:
– Tùy ý cô! Nhưng cô nên cẩn thận đóng cửa sổ lại, kẻo bị gió độc nguy hiểm.

Nói xong, người thợ in tốt lành cầm bản thảo mang đi.

Còn lại một mình, cô Elvira Mazzoli đến đứng bên cửa sổ ngước mắt chiêm ngắm bầu trời đầy sao. Vừa nhìn trời, cô vừa sốt sắng đọc những lời kinh Kính Mừng MARIA, dâng lên Hiền Mẫu MARIA Thiên Quốc, với trọn tâm tình tri ân thảo hiếu. Sau đó, cô lặng lẽ ngồi vào bàn làm việc. Cô bắt đầu đánh máy bài viết cho số báo tuần tới:
– Câu chuyện phép lạ xảy ra vào một đêm mùa hè, đêm đẹp nhất: đêm vọng lễ Đức Mẹ MARIA Hồn Xác lên Trời ..

ĐỨC TRINH NỮ MARIA HỒN XÁC LÊN TRỜI

Lạy Đức Trinh Nữ MARIA,
Đức Bà Hồn Xác Lên Trời,
nơi Mẹ, trong xác Mẹ và trong hồn Mẹ,
hoàn tất chiến thắng của THIÊN CHÚA trên cái chết.
Mẹ sống trong ánh sáng của Con Mẹ Sống Lại
và Mẹ mở cho chúng con con đường Phục Sinh của Người.
Lạy Đức Bà Hồn Xác Lên Trời,
xin Mẹ canh giữ chúng con
đưa cái nhìn và lòng chúng con
hướng về chân trời của Vương Quốc THIÊN CHÚA,
nơi Tình Yêu Chúa CHA sẽ chiến thắng
mọi bạo lực, mọi biến dạng và mọi sợ hãi.
Xin Mẹ ban cho Giáo Hội của Mẹ đang trên đường lữ thứ,
giữa tăm tối và thử thách,
biết cùng với Mẹ nhìn về Đức Chúa KITÔ
để học biết tái sinh từ THIÊN CHÚA
và để cho hành trình của chúng con được nâng đỡ
bởi niềm hy vọng của cuộc sống mới này
được hứa ban cho chúng con và đang chờ đợi chúng con.
Lạy Đức Trinh Nữ MARIA,
xin làm cho Chúa Thánh Linh có thể đặt
trong xác và hồn chúng con
niềm ước muốn thanh sạch, niềm ước muốn mạnh mẽ
về cuộc sinh ra mới này mà Mẹ từng kinh nghiệm.
Amen.

(”Il Settimanale di Padre Pio”, 7 giorni di formazione e informazione cattolica, n.33, 10+17/8-2003, trang 25).

Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt

Chân dung Mẹ Maria

Chân dung Mẹ Maria

                                                               Lm Jos Tạ duy Tuyền

                                                                                             Sáng 14/08/12

VRNs (14.08.2012) – Đồng Nai – Văn chương Việt Nam thường diễn tả hình ảnh về người mẹ thật mộc mạc chất phác, đơn sơ và giản dị. Người mẹ Việt Nam luôn gắn bó với ruộng rẫy nương dâu, nơi đồng chua nước mặn, ăn mặc giản dị nâu sồng, không phấn sáp xa hoa, mà tâm hồn hiền hòa, đôn hậu. Những bà mẹ sống cuộc đời bình lặng như mặt nước hồ thu, nhưng vẫn giữ tiết kiên trung, cao cả. Chính những bà mẹ ấy đã đem những giọt mồ hôi tưới mát ruộng đồng, làm đẹp cuộc đời và đẹp cả quê hương:

Mẹ Việt Nam không son, không phấn,
Mẹ Việt Nam chân lấm, tay bùn,
Mẹ Việt Nam không mang nhung gấm,
Mẹ Việt Nam mang tấm nâu sồng”.
(Phạm Duy, Trường ca Mẹ Việt Nam)

Hình ảnh của người mẹ Việt Nam thật cao đẹp, công ơn của mẹ đối với con thật bao la. Công ơn ấy đã được khắc ghi sâu đậm vào tâm não của con, bộc phát thành những lời ca, tiếng nhạc hết sức dạt dào:

“Rủi mai này mẹ hiền mất đi, thì con côi…
Như đóa hoa không mặt trời
Như tuổi thơ không nụ cười
Như đời mình không lớn khôn thêm
Như bầu trời thiếu ánh sao đêm.
Mẹ là dòng suối dịu hiền.
Mẹ là bài hát thần tiên,
Là bóng mát trên cao, là mắt sáng trăng sao
Là ánh đuốc trong đêm khi lạc lối.
Mẹ là lọn mía ngọt ngào,
mẹ là nải chuối, buồng cau,
Là tiếng dế đêm thâu, là nắng ấm nương dâu,
Là vốn liếng yêu thương cho cuộc đời”.

Vâng, khi nói về người mẹ trần thế chúng ta thường nói đến công lao trời bể, những hy sinh trải rộng suốt dọc dài cuộc đời của mẹ, thế nhưng, còn người Mẹ thiên quốc thì sao? Xem ra ít ai nhìn thấy những đắng cay mà Mẹ phải chịu trong đời, sau lần thưa xin vâng ấy! Chúng ta quá đề cao ân sủng của Chúa nơi Mẹ mà quên rằng: Mẹ chỉ được ơn phước đó nhờ đời sống luôn nở hoa yêu thương, hoa hy sinh, hoa khiêm nhường, hoa bác ái trong đời sống thường ngày của Mẹ, đến nỗi từ trời cao Thiên Chúa đã nhìn thấy Mẹ “hằng đẹp lòng Thiên Chúa”.

Thực vậy, Mẹ hằng đẹp lòng Chúa qua cung lòng thanh khiết không vấn vương tội lỗi, rất xứng đáng nên cung điện cho Con Chúa Trời ngự trị

 Mẹ hằng đẹp lòng Thiên Chúa khi Mẹ từ bỏ con đường riêng của mình để thưa xin vâng cho ý Chúa được thực hiện.

Mẹ hằng đẹp lòng Chúa khi Mẹ vội vã băng đồi lội suối, thăm viếng và phục vụ bà chị họ, sinh con trong lúc tuổi già.

Mẹ hằng đẹp lòng Thiên Chúa khi tiếp tục xin vâng trong mọi hoàn cảnh thiếu thốn cùng cực nhất: sinh con trong nghèo khó, chốn chạy qua Ai Cập, trở về Nagiaret với đôi tay tần tảo may vá thêu thùa.

Mẹ hằng đẹp lòng Chúa khi Mẹ đồng công thưa xin vâng với thánh ý Chúa Cha qua cái chết Cứu độ của Chúa Giê-su con Mẹ.

Vâng, Mẹ Maria với tư cách là người mẹ trần thế, mẹ cũng trải qua những gian truân, vất vả để nuôi con khôn lớn như bao bà mẹ khác. Mẹ Maria cũng trải qua những tháng ngày tần tảo một nắng hai sương để gồng gánh gia đình đi qua những thăng trầm của dòng đời. Mẹ Maria còn đau khổ hơn bao bà mẹ khác vì con của Mẹ luôn phải đối đấu với nghi nan và nhất là không ai khổ bằng Mẹ, một người mẹ đau khổ phải ôm thân xác tả tơi, bất động của con yêu quý vào lòng với nỗi niềm xót xa, mà cha ông ta diễn tả rằng: “Lá vàng còn ở trên cây lá xanh rụng xuống trời chăng hỡi trời?”.

Hôm nay chúng ta chiêm ngắm Mẹ được Chúa đưa cả hồn và xác về trời. Đây là phần thưởng mà Thiên Chúa đã tặng ban cho Mẹ sau một  đời nỗ lực sống theo thánh ý Chúa. Đây là vinh quang mà Mẹ nhận lãnh sau hành trình dương thế luôn lắng nghe và thực thi thánh ý Chúa.

Mừng Mẹ về trời cũng là dịp nhắc nhở chúng ta hãy noi gương bắt chước Mẹ trên con đường tìm kiếm và thực thi ý Chúa. Mừng Mẹ về trời để giúp chúng ta hiểu rằng những khốn khó, gian truân đời này chẳng là gì so với hạnh phúc vĩnh cửu trên quê trời.

Lạy Mẹ Maria, Mẹ là người có phúc vì Mẹ luôn tin tưởng vào Thiên Chúa và sống cho thánh ý Chúa. Xin Mẹ giúp chúng con cũng tìm được cõi phúc như Mẹ khi buông mình trong sự tín thác vào Thiên Chúa quan phòng và mau mắn thi hành thánh ý Chúa với trọn niềm mến yêu. Amen

Lm Jos Tạ duy Tuyền

 

Đức Mẹ đã được vinh danh tại Thế Vận Hội Luân Đôn 2012

Đức Mẹ đã được vinh danh tại Thế Vận Hội Luân Đôn 2012

                                                                          Nguyễn Long Thao

                                                                                                         8/11/2012


 

London, England, 10/08/ 2012. –

 Những ai có dịp theo dõi chương trình truyền hình của hệ thống NBC tại Hoa Kỳ vào ngày 10 tháng 8 năm 2012 đều thấy cảnh nữ lực sĩ người Ethiopia, Meseret Defar, đã biểu lộ đức tin của mình ngay sau giây phút vượt qua lằn ranh cuối để chiếm huy chương vàng trong cuộc thi chạy 5000m tại Thế Vận Hội Mùa Hè 2012 tại Luân Đôn.

Khi được biết mình thắng huy chương vàng trong cuộc tranh tài Thế Vận Hội, các lực sĩ thường biểu lộ xúc động của mình bằng cách ôm mặt khóc. 

Nhưng nữ lực sĩ Meseret Defar đã biểu lộ cách khác. Nàng lấy hình Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp để sẵn trong áo chạy đua, úp lên mặt mình, hôn hình Đức Mẹ. Nàng khóc với Đức Mẹ và thành khẩn cảm ơn Mẹ. Nàng đã đưa hình Đức Mẹ cho các ống kính truyền hình ghi hình Đức Mẹ như một cử chỉ vinh danh Mẹ Hằng Cứu Giúp

Nữ lực sĩ Meseret Defar là người Kitô Giáo, nàng đã phó thác cuộc tranh tài của mình vào quyền năng của Chúa. Khi Uỷ Ban Thế Vận Hội giới thiệu về nàng, ống kính truyền hình cho thấy nàng đeo ảnh Thánh Giá và trước khi chạy đua, nàng đã làm dấu Thánh Giá và thầm thĩ cầu nguyện.

Trước khi cuộc đua, nhà bình luận thể thao của hệ thống truyền hình NBC cho biết 3 vận động viên người Kenya và 2 tay đua khác người Ethiopia, nhất là cô Tirunesh Dibaba là đối thủ sừng sỏ nhất có nhiều cơ hội thắng huy chương vàng.Tuy nhiên, Cô Defar đã đoạt huy chương vàng trong cuộc chay đua 5000m với thành tích 15 phút 04 giây 24 sao (15:04:24). Huy chương Bạc về tay cô Vivian Cheruiyot người Kenya và huy chương đồng về tay cô Dibaba, người Ethiopia.

Tưởng cũng nên nói thêm về thành tích chạy đua của cô Defar: Cô đã hai lần vô địch thế giới trong môn chay đua 3000m. Ở cự ly 5000m, tại Hy Lạp năm 2004 cô đoạt huy chương vàng và ở Bắc Kinh năm 2008 cô đoạt huy chương đồng.

Vào năm 2006, ở cự ly 5000m, cô đã phá kỷ lục thế giới với thời lượng 14 phút 24 giây 53 sao

Nguyễn Long Thao

Thánh Maximilian Mary Kolbe

Thánh Maximilian Mary Kolbe
(1894-1941)

14 Tháng Tám

 

Không hiểu tương lai của con sẽ ra sao!” Ðó là câu mà nhiều cha mẹ từng than thở với đứa con hay đau yếu. Nhưng với Thánh Maximilian Mary Kolbe thì khác. Ngay từ nhỏ, khi được cha mẹ hỏi, ngài trả lời, “Con tha thiết cầu xin với Ðức Mẹ để biết tương lai của con. Và Ðức Mẹ đã hiện ra, tay cầm hai triều thiên, một mầu trắng, một mầu đỏ. Ðức Mẹ hỏi con có muốn nhận các triều thiên ấy không — mầu trắng là sự thanh khiết, mầu đỏ là sự tử đạo. Con trả lời, ‘Con muốn cả hai.’ Ðức Mẹ mỉm cười và biến mất.” Sau biến cố đó, cuộc đời của Maximilian Kolbe không còn giống như trước.

Ngài gia nhập tiểu chủng viện của các cha Phanxicô ở Lwow, Ba Lan, gần nơi sinh trưởng, và lúc ấy mới 16 tuổi. Mặc dù sau này ngài đậu bằng tiến sĩ về triết học và thần học, nhưng ngài rất yêu thích khoa học, có lần ngài phác họa cả một phi thuyền không gian.

Sau khi thụ phong linh mục lúc 24 tuổi, ngài nhận thấy sự thờ ơ tôn giáo là căn bệnh nguy hiểm vào thời ấy. Nhiệm vụ của ngài là phải chiến đấu chống với căn bệnh này. Ngài sáng lập tổ chức Ðạo Binh của Ðức Vô Nhiễm mà mục đích là chống lại sự dữ qua đời sống tốt lành, siêng năng cầu nguyện, làm việc và chịu đau khổ. Ngài phát hành tờ Hiệp Sĩ của Ðức Vô Nhiễm, được đặt dưới sự phù hộ của Ðức Maria để rao giảng Phúc Âm cho mọi dân tộc. Ðể thực hiện công việc ấn loát, ngài thành lập “Thành Phố của Ðức Vô Nhiễm” – Niepolalanow — mà trong đó có đến 700 tu sĩ Phanxicô làm việc. Sau này, ngài thành lập một thành phố khác ở Nagasaki, Nhật Bản. Cả tổ chức Ðạo Binh và tờ nguyệt san có đến 1 triệu hội viên cũng như độc giả. Tình yêu Thiên Chúa của ngài được thể hiện hằng ngày qua sự sùng kính Ðức Maria.

Năm 1939, Ðức Quốc Xã xâm lăng Ba Lan. Thành phố Niepolalanow bị dội bom. Cha Kolbe và các tu sĩ Phanxicô bị bắt, nhưng sau đó chưa đầy ba tháng, tất cả được trả tự do, vào đúng ngày lễ Ðức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội.

Vào năm 1941, ngài bị bắt một lần nữa. Mục đích của Ðức Quốc Xã là thanh lọc những phần tử tuyển chọn, là các vị lãnh đạo. Cuộc đời Cha Kolbe kết thúc trong trại tập trung Auschwitz.

Vào ngày 31 tháng Bảy 1941, có một tù nhân trốn thoát. Sĩ quan chỉ huy trại bắt 10 người khác phải chết thay. Hắn khoái trá bước dọc theo dãy tù nhân đang run sợ chờ đợi sự chỉ định của hắn như tiếng gọi của tử thần. “Tên này.” “Tên kia.” Có những tiếng thở phào thoát nạn. Cũng có tiếng nức nở tuyệt vọng.

Trong khi 10 người xấu số lê bước về hầm bỏ đói, bỗng dưng tù nhân số 16670 bước ra khỏi hàng.

“Tôi muốn thế chỗ cho ông kia. Ông ấy có gia đình, vợ con.”

Cả một sự im lặng nặng nề. Tên chỉ huy sững sờ, đây là lần đầu tiên trong đời hắn phải đối diện với một sự can đảm khôn cùng.

“Mày là ai?”

“Là một linh mục.” Không cần xưng danh tính cũng không cần nêu công trạng.

Và Cha Kolbe được thế chỗ cho Trung Sĩ Francis Gajowniczek.

Trong “hầm tử thần” tất cả bị lột trần truồng và bị bỏ đói để chết dần mòn trong tăm tối. Nhưng thay vì tiếng rên xiết, người ta nghe các tù nhân hát thánh ca. Vào ngày lễ Ðức Mẹ Hồn Xác Lên Trời (15 tháng Tám) chỉ còn bốn tù nhân sống sót. Tên cai tù chấm dứt cuộc đời Cha Kolbe bằng một mũi thuốc độc chích vào cánh tay. Sau đó thân xác của ngài bị thiêu đốt cũng như bao người khác.

Cha được Ðức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II phong thánh năm 1981.

Lời Bàn

Cái chết của Cha Kolbe không phải là một hành động anh hùng bất chợt, bốc đồng vào giây phút cuối. Cả cuộc đời ngài đã chuẩn bị cho giây phút đó. Sự thánh thiện của ngài được thể hiện qua niềm khát khao muốn hoán cải cả thế giới mà động lực là tình yêu của ngài dành cho Ðức Mẹ Vô Nhiễm.

Lời Trích

“Hãy can đảm lên các con. Các con không thấy chúng ta đang trên đường thi hành sứ vụ hay sao? Chúng ta phải trả một giá quá rẻ. Thật may mắn biết chừng nào! Ðiều bây giờ chúng ta phải làm là chú tâm cầu nguyện để chiếm đoạt càng nhiều linh hồn càng tốt. Và sau đó, chúng ta sẽ thưa với Ðức Trinh Nữ là chúng ta rất mãn nguyện để ngài muốn làm gì với chúng ta tùy ý” (Lời Thánh Maximilian Mary Kolbe trong lần bị bắt đầu tiên).

Mẹ Maria Hồn Xác Lên Trời

**~* Mẹ Maria Hồn Xác Lên Trời *~**
                                                          (Thơ và Nhạc của Tuyết Mai)
Mẹ nhân loại của chúng con ơi! Quả tuyệt diệu thay!
Quả nhân đức tuyệt vời của Mẹ thay!
Quả Mẹ đáng được Thiên Chúa Cha,
Tác tạo và yêu thương cách riêng,
Quả Mẹ đáng được Thiên Chúa Cha,
Chọn làm Mẹ của Thiên Chúa Con Giêsu,
Là Chúa Con duy nhất của Đức Chúa Cha,
Đấng muôn đời quyền năng của trên Trời và dưới đất.

Không ngày Lễ Nào của Mẹ lại quan trọng cho bằng,
Hạnh phúc cho bằng Mẹ được Thiên Chúa đón Mẹ trở về,
Một Nơi mà Mẹ sẽ muôn đời được ở cạnh Ba Ngôi Thiên Chúa.
Mẹ sẽ muôn đời không xa cách Chúa Con Giêsu của Mẹ nữa!
Mẹ sẽ muôn đời được ấm áp bên tình yêu vô cùng và vô tận, Của Ba Ngôi Thiên Chúa.

Mẹ Maria của chúng con ơi!
Chúng con là con cái Mẹ trên khắp cùng trái đất,
Hết thảy chúng con muốn được cùng chung vui với Mẹ,
Trong ngày vui trọng đại của Mẹ.
Vì Mẹ được Thiên Chúa tưởng thưởng,
Vì hết thảy trên Trời, Từ Ba Ngôi Thiên Chúa,
Toàn thể các đạo binh, Các tổng lãnh Thiên Thần,
Triều Thần, Quản Thần,
Các Thánh Nam Nữ,
Cùng tất cả anh chị em chúng con trên Trời.
Đang nôn nao trông chờ để được chào đón Mẹ.

Mẹ có nghe tiếng chúng con đang cùng hợp dâng lên Mẹ
Những ca khúc vui tươi,
Những vũ điệu nhẹ nhàng, và
Những Lời Kinh có giai âm điệu trầm bổng,
Cùng khí cụ nhịp nhàng hòa theo tiếng hát xướng
Của chúng con không!?

Chúng con là con cái Mẹ cùng khắp nơi trên địa cầu!
Xin được dâng lên Mẹ tất cả tấm chân tình,
Của những đứa con đau yếu đang rất cần đến Mẹ,
Vì chúng con có mỗi một Mẹ,
Vì thiếu vắng Mẹ chúng con biết bám víu vào ai!?
Vì thiếu vắng Mẹ chúng con biết cậy nhờ ai!?
Vì thiếu vắng Mẹ chúng con biết nương nhờ ai đây!?

Mẹ ơi! Hãy luôn thương hãy ghé mắt đến chúng con Mẹ nhé!
Không bao giờ chúng con có thể sống thiếu Mẹ được đâu!
Bởi không có Mẹ chúng con sẽ không có người dậy dỗ.
Bởi không có Mẹ chúng con sẽ cấu xé lẫn nhau.
Bởi không có Mẹ chúng con sẽ vô cùng có cơ nguy.
Bước vào con đường của nguy hiểm của chết chóc.

Bởi chúng con như đàn gà con khờ dại,
Thiếu vắng Mẹ chúng con sẽ tan tác lạc mất Mẹ ơi!
Xin Mẹ đừng bỏ chúng con đi lâu Mẹ nhé!
Nếu có thể được, Mẹ xin phép Chúa cho được trở về,
Cùng chung sống với chúng con.
Hay ít nhất thỉnh thoảng hãy về lại thăm chúng con.
Vì chúng con chưa được trưởng thành!?
Vì chúng con đã quen sống trong hư hỏng,
Trong sự ỷ lại vì luôn có Mẹ bên cạnh.
Nay Chúa gọi Mẹ về Trời chúng con cũng buồn lắm Mẹ ơi!

Biết khi nào chúng con mới được đoàn tụ lại với Mẹ được đây!?
Để hưởng mọi phúc vinh và sự sống muôn đời!?
Biết đến khi nào. … biết đến khi nào!??

Mẹ Maria ơi!
Chúng con luôn là những đứa con yếu đuối,
Trong ngày Trọng Đại và vui vẻ của Mẹ,
Chúa ban cho Mẹ Hồn Xác được Lên Trời.
Chúng con chẳng có gì đáng để dâng lên Mẹ!?
Ngoài tấm lòng chân thật và tâm hồn rách nát của chúng con.
Để Mẹ hiểu rằng chúng con luôn cần đến Mẹ.
Dẫu biết rằng bây giờ Mẹ không còn ở với chúng con nữa!
Chẳng phải bằng xương bằng thịt,
Nhưng mắt Mẹ vẫn mãi dõi trông chừng chúng con.
Nhất là những đứa con có nhu cầu.
Nhất là những đứa con không cha không mẹ,
Tật nguyền khốn khổ, thiếu thốn tình thương, suốt cả một đời.
Là những đứa con sống lạc loài giữa chợ đời,
Thiếu thốn đủ mọi thứ mọi điều.
Lại còn bị xã hội khi dể, coi rẻ, và đuổi xua.

Chúng con toàn thể con cái nhân loại của Mẹ!
Chúc Mẹ Maria mãi mãi luôn luôn tuyệt vời,
Trong tình yêu hải hà của Ba Ngôi Thiên Chúa.
Để Mẹ luôn được Chúa thương.
Để Mẹ cùng xin với Chúa cho tất cả chúng con,
Cũng được thứ tự về Trời,
Cùng được hưởng cuộc sống hạnh phúc miên viễn
Muôn đời bên Mẹ, Mẹ ơi!. Amen.

** Xin bấm vào mã số dưới đây để hát theo:

     http://www.youtube.com/watch?v=1bY2LtsyP9M

*** Để cảm tạ, ngợi khen, và tôn vinh Thiên Chúa là Cha chung của tất cả chúng ta, tôi chân thành mời anh chị em hãy dùng những bài hát của tôi đem đến những phương trời xa để làm Sáng Danh Thiên Chúa.

Y Tá Của Chúa,

Tuyết Mai

LỜI NGUYỆN CỦA MỘT THANH NIÊN BỊ SIDA

LỜI NGUYỆN CỦA MỘT THANH NIÊN BỊ SIDA
Một thanh niên 28 tuổi, mắc bệnh SIDA, sống trong tuyệt vọng. Từ ánh mắt cảm thông thương yêu của một người bạn, chàng trai bất hạnh ấy đã biến đổi. Xin mọi người đừng nghĩ SIDA là “Chiếc roi trừng phạt” của Thiên Chúa, nên cũng thôi, đừng “trừng phạt” nhau bằng sự khinh miệt và thái độ xa lánh ghê tởm… Dưới đây là lời tự bạch, cũng là một lời cầu nguyện chân thành của anh với Thiên Chúa…

“Hôm nay, ngày 11 tháng 8, tôi cảm thấy trong người tương đối khỏe. Bỗng nhiên tôi quên rằng mình đã mắc căn bệnh SIDA quái ác. Ngồi trên sân thượng, tôi cảm nhận giây phút này, trong ánh mặt trời ấm áp. Chắc không phải vì đời tôi sắp đến kỳ hạn kết thúc mà tôi mới thấm thía thế nào là một cuộc sống bình thường đơn sơ. Tôi vẫn tỉnh táo, hiểu ra những con người đáng yêu và cuộc sống đời thường dung dị. Tôi chợt nghĩ, phải chi mọi người biết được giây phút kết thúc đời mình, chắc thế giới này sẽ sống trong tình huynh đệ thắm thiết…

Số phận tôi đã bị SIDA kết án, nhưng tôi không cho rằng Thiên Chúa đã trừng phạt tôi. Tôi tin Thiên Chúa là Tình Yêu, và Người không hề muốn những nỗi khổ đau bất hạnh lan tràn trên mặt đất này. Nếu có ai đó lớn tiếng bảo rằng SIDA là chiếc roi Thiên Chúa dùng để trừng phạt những kẻ hư đốn, thì họ đã lầm to ! Chẳng lẽ họ lại có thể quên rằng Đức Giê-su đã từng được rao giảng là một vị Thiên Chúa Tình Yêu, Người không thể lại đi ủng hộ mọi sự khổ đau đang xẩy đến cho loài người. Những kiểu diễn tả sự đau khổ là chiếc roi trừng phạt chỉ có thể đánh lừa những ai kém lòng tin vào Thiên Chúa ! Xin hãy rao giảng về một Đức Giê-su, Đấng yêu thương, an ủi, vỗ về…

Tôi vốn không phải là một Ki-tô hữu, nên tôi chưa từng bao giờ tin Thiên Chúa. Thế rồi, nhờ một người bạn, tôi đã gặp được Chúa. Bắt đầu từ một ánh mắt nhìn tôi, và tôi đã tin vào Chúa. Không phải vì sợ chết mà tôi đã tiến lại gần Chúa đâu. Tôi không biết Người có chữa lành bệnh tật cho tôi hay không, tôi không xin điều đó. Tôi chỉ xin Người hãy cứ làm cho tôi biết cảm nhận những ngày sống đơn sơ bình thường như hôm nay. Và tôi cũng xin Người đồng hành với tôi trong những nỗi đau đớn tột cùng tôi đã và đang gánh chịu, cho tôi nhận ra sự hiện diện của Người…

“Lạy Chúa, con tin Chúa cũng đau khổ

Khi thấy những gì đang diễn ra trong thế giới này,

Một thế giới mà Chúa đã tạo dựng với biết bao yêu thương.

Phần con, không biết Chúa có thể tha thứ

Cho cuộc đời xấu xa của con,

Một cuộc đời trộm cắp và nghiện ngập ma túy hay không ?!?

Nhưng con tin, tin rằng: Chúa là Tình Yêu, là sự tha thứ khoan dung”

LÒNG TIN

 

                                    LÒNG TIN

                                                                                               Đaminh Nguyễn Ngọc Hiên

http://translate.google.com/translate?hl=en&sl=vi&tl=en&u=http%3A%2F%2Fkeditim.net

       Thứ bảy, ngày 7 tháng 7 năm 2012, một ngày nắng đẹp như bao ngày thứ bảy khác…

       Tôi đang lúi húi trong phòng áo Nhà thờ, có ba người hớt hơ hớt hải đến gặp tôi, nhìn hai người phụ nữ với một cháu gái khoảng chừng 14 tuổi, tôi đoán chừng có việc chi hệ trọng đây. Chị trẻ tuổi hơn rụt rè lên tiếng :

-Thưa Cha, tụi con muốn gặp Cha để trình bày một việc…

Tôi vội vàng đính chính:

-Thưa chị, chị nhầm rồi, tôi chỉ là người giúp việc trông coi Nhà thờ ở đây thôi, các chị có điều gì xin trình bày, tôi sẽ nói thưa lại với Cha vì các Ngài không có ở đây.

       Nhìn nét mặt vừa lo lắng vừa xa lạ của ba người, tôi mời họ ngồi vào bàn nước cạnh mái hiên Nhà thờ và họ kể câu chuyện như sau:

-Thưa chú, tụi con là người không có đạo, chị đây là Phật tử, vừa rồi con của con bị một thanh niên tên là Hiếu 17 tuổi, chết nhập vào nó- chị nói và chỉ vào bé gái. Cháu đưa nó đi khắp nơi để chạy chữa nhưng không hiệu quả, có người mách bảo đưa đến đài Đức Mẹ, chúng con vội vàng đưa cháu đi và Đức Mẹ đã chữa lành cho cháu, hồn anh thanh niên kia đã xuất khỏi con của cháu, trước khi ra khỏi anh ta cho biết anh là người Công giáo, linh hồn còn mắc tội nên chưa được siêu thoát, anh ta nhờ mọi người cầu nguyện cho anh ta…con nhờ chú nói với Cha xin Chúa tha thứ cho anh ta…

       Nói xong chị này xin một phong bì và bỏ tiền vào xin lễ rồi đưa cho tôi, tôi hỏi anh ấy có nói tên Thánh là gì không? Chị ta trả lời con sợ quá nên không dám hỏi gì,với lại con không phải là người trong đạo nên không biết.

       Tôi quay sang hỏi cháu gái, cháu có biết việc này như thế nào kể cho bác nghe, cháu lắc đầu và nói:con không biết gì hết, con bị bất tỉnh không biết bao lâu, sau đó tỉnh lại thấy mình đang đứng ở đài Đức Mẹ…tôi hỏi thêm cháu tên gì? học lớp mấy, trường nào?cháu trả lời rất mạch lạc.

       Tôi nhận giúp chị chiếc phong bì để chiều nay chuyển cho Cha dâng Thánh lễ cầu cho một linh hồn không biết tên Thánh, chỉ biết tên là Hiếu.

      Câu chuyện còn dài nhưng tôi tạm dừng ở đây,chợt nhớ trong tuần qua rất nhiều bài Phúc Âm nói về “Lòng tin”,nhất là lòng tin của viên Đại đội trưởng,của người đàn bà bị băng huyết…cả sự trừ quỷ của Chúa Giêsu…được Linh mục chia sẻ thật thấm thía…

      Rồi tôi ngẫm lại, nhiều người tin Chúa tin Mẹ nhưng không biết chạy đến cùng Mẹ, trái lại nhiều người bên ngoại kể tôi nghe hằng ngày, họ được ban ơn của ĐứcMẹ, của Thánh cả Giuse vì họ biết chạy đến kêu cầu với lòng xác tín chân thành xuất phát từ trong lòng họ…và họ vẫn thường lui tới với một bó hoa tươi, một nén hương tạ ơn bằng cách của họ.

     Còn những người Công giáo thì sao? Có người hỏi tôi: “Đài Đức Mẹ, đài Ông Thánh nào linh nhất để họ đến cầu xin”.Tôi chỉ cho họ:” Đấy! tại Giáo họ Giuse có cả hai nơi linh thiêng sao chị không không đến?”chợt nghĩ câu tục ngữ:” Bụt nhà không thiêng”…thiêng hay không do lòng tin được tín thác, bởi lẽ chúng ta chỉ có một Chúa, một Mẹ mà thôi.

     Thánh lễ chiều thứ bảy hôm nay sao thật ấm lòng khi nghe Cha chủ tế dâng lời cầu nguyện cho một linh hồn chỉ có tên thật ngoài đời, do một người ngoại đạo xin, tôi tự xét lại lòng mình, có mấy lúc mình nhớ đến các linh hồn của người thân mình, trừ ngày giỗ để xin lễ cho họ.Tối nay tôi sẽ đọc kinh cầu cho các linh hồn…

                                                                                  Đaminh Nguyễn Ngọc Hiên

                                                            

Kỷ niệm chuyến đi “Chương Trình Y Tế Cho Việt Nam”

Kỷ niệm chuyến đi “Chương Trình Y Tế Cho Việt Nam”

                                                                                             Nguyên Vũ

 

WGPSG — Medical Aid For Vietnam là Chương Trình Y Tế Cho Việt Nam được thành lập năm 1994, khởi đầu cho những chuyến hành trình y tế từ thiện tại Việt Nam với số tiền, dụng cụ y tế và thuốc men quyên góp từ chính bàn tay và tâm huyết của những bác sĩ và thiện nguyện viên tham gia trong chương trình.  

Trong những năm đầu, đoàn chỉ tổ chức về Việt Nam mỗi năm một lần, nhưng từ năm 2000 với số thiện nguyện viên ngày càng gia tăng thì cứ mỗi 8 tháng là đoàn lại quy tụ các thiện nguyện viên khắp nơi trên thế giới cùng nhau về Việt Nam để khám chữa bệnh, phát thuốc, phát mắt kính, khám răng và phát quà cho những người dân nghèo tại các vùng hẻo lánh xa xôi. 

Ngoài việc khám chữa bệnh, đoàn còn có chương trình mổ tim cho các em từ 16 tuổi trở xuống, mổ mắt cườm cho người già, hỗ trợ cho các phòng phát thuốc từ thiện tại các làng xã nghèo, và trợ giúp việc chữa trị cho những bệnh nhân nghèo. 

Để tham gia chương trình năm nay, mỗi thiện nguyên viên đã tự mua vé máy bay từ nơi họ ở về Việt Nam và mỗi người cũng đóng góp 1.200 – 1.300 USD để lo cho các phương tiện đi lại và ăn ở trong suốt thời gian làm việc 2 tuần tại Việt Nam. Riêng số tiền Medical Aid For Vietnam quyên góp từ những tấm lòng hảo tâm đều được dành trong công tác y tế và chữa trị cho người nghèo. 

93 thiện nguyện viên từ các nơi như Canada, Mỹ, Hồng Kong, Việt Nam bao gồm bác sĩ, nha sĩ, y tá, dược sĩ, sinh viên và thông dịch viên… đã có mặt tại Sài Gòn để bắt đầu cho chương trình y tế từ thiện từ ngày 8 đến ngày 21 tháng 7 năm 2012.  

Đoàn đã có buổi họp mặt và dâng Thánh lễ tại Trung tâm Mục vụ Giáo Phận Sài Gòn chiều ngày 8 tháng 7 năm 2012 và cùng chia sẻ bữa cơm tối tại nhà hàng Hương Biển. Sáng ngày 9 tháng 7 đoàn chia thành ba nhóm và tỏa đi làm việc tại các vùng miền khác nhau:

 

 

 

 

Nhóm 1 – Delta Team:  Khoảng 9 giờ sáng, 35 thiện nguyện viên trong nhóm đã hăng hái khuân vác hành lý, dụng cụ và thuốc men chất đầy trên xe buýt khởi hành đi Rạch Giá.  

Vẫy tay tạm biệt Sài Gòn, nhóm để lại sau lưng mình những con đường đầy nghịt xe cộ và ầm ĩ tiếng còi, vượt qua các sông rạch cùng những đám ruộng lúa xanh mượt mà để trực chỉ Miền Tây hướng đến vùng Rạch Giá, Cần Thơ và Long Xuyên.  Dù thời tiết mưa nắng bất thường, nhóm cũng đã phục vụ 4.888 bệnh nhân (khám chữa mắt 700 bệnh nhân, chữa răng 840 người, và khám tổng quát 3.348 người). Trong những ngày đầu làm việc, các thiện nguyện viện (dù đa số không biết Tiếng Việt) cũng đã học thuộc và hát vang bài ca “Anh em dô ta” để vượt qua cái mệt mỏi do thay đổi múi giờ và những cơn mưa bất chợt của Miền Tây. 

Nhóm 2 – Highland Central Team: Trên chuyến bay khởi hành lúc 14g20 đi Pleiku, 34 thiện nguyện viên nhóm Cao Nguyên đã sẵn sàng và hăng hái cho chuyến hành trình y tế tại vùng cao.

Khí hậu ôn hoà vùng cao nguyên đêm mưa ngày nắng đã giúp cho các thiện nguyện viên cảm thấy dễ chịu trong những ngày phục vụ anh chị em dân tộc Bana tại các thôn Kon Drei và Măng La (KonTum), thôn Plei Chuet và H’ra (Pleiku).  Sau 1 tuần làm việc tại vùng cao nguyên, nhóm đã hạ sơn tiến về vùng biển Nha Trang.  

Tại Nha Trang, nhóm đã làm việc 2 ngày tại Khánh Vĩnh, sau đó dành 1 ngày đi thăm và tặng quà cho 130 trẻ mồ côi tại Chùa Lộc Thọ, Khánh Hoà và 60 em khuyết tật tại Cơ sở Chăm sóc Giáo dục trẻ khuyết tật Hoàng Diệu. Nhóm đã phục vụ 3.889 bệnh nhân (mắt 843, răng 555, tổng quát 2.491) và tặng rất nhiều thuốc men cho hai cơ sở y tế từ thiện địa phương. 

Nhóm 3 – Northern Stars Team: Cái nóng oi bức của thành phố Vinh đã chào đón 24 thiện nguyện viên của Nhóm Miền Bắc vừa đáp chuyến bay 13g50 từ Sài Gòn đến Vinh để phục vụ tại giáo xứ Trung Song và giáo xứ Bình Thuận.  

Sau 3 ngày làm việc liên tục không ngơi tay, nhóm đã thấm mệt và đuối sức vì những cơn nóng cao độ. Một số thành viên vì sức khoẻ đã không tiếp tục tham gia được, nhưng những thiện nguyện viên còn lại vẫn hăng say lên đường đi Lạng Sơn, một tỉnh vùng núi phía Đông Bắc của Hà Nội, giáp biên giới Trung Quốc. Mỗi ngày nhóm đã lặn lội hàng trăm cây số, vượt qua những con đường núi ngoằn nghèo, gồ ghề để tới các buôn làng hẻo lánh tại xã Bằng Mạc và xã Y Tịch, huyện Chi Lăng, phục vụ cho người dân nghèo hiếm khi được gặp bác sĩ. Nhóm đã phục vụ 3.600 bệnh nhân (mắt 650, răng 710, tổng quát 2.240) và tặng 2.800 phần quà (mỗi phần quà trị giá 100.000đ). 

Tổng cộng trong hai tuần làm việc ở Việt Nam đoàn đã khám 12.377 bệnh nhân (mắt 2.193 , răng 2.105, tổng quát 8.079), và tặng khoảng 8.000 phần quà cho người nghèo (400-500 phần cho mỗi nơi các nhóm đến làm việc), mỗi phần quà trị giá 100.000 VND. 

Sau những ngày làm việc, ngày 19 tháng 7, cả 3 nhóm đã tập trung về Nha Trang để gặp mặt tổng kết và nghỉ ngơi. Mọi người cùng chung vui trong bữa cơm tối với những tiết mục văn nghệ là các bài ca và điệu múa mà mỗi nhóm đã học hỏi được nơi mình đến phục vụ. 

Ngày 20/7 đoàn chia tay Nha Trang về Sài Gòn và các thiện nguyện viên đã lần lượt giã từ Việt Nam trở về xứ sở và công việc thường ngày của mình.  

Trong những ngày làm việc tại Việt Nam mặc dù phải đương đầu với cái nóng 40 độ C ở Vinh, hay những cơn mưa dầm ở Miền Tây và rào cản về ngôn ngữ ở Tây Nguyên (vì đa phần những anh em đồng bào ở đây không biết tiếng Kinh nên khi khám bệnh ở đây đoàn cần tới 2 thông dịch viên, từ tiếng đồng bào sang tiếng Kinh và từ tiếng Kinh sang tiếng Anh), mỗi thiện nguyện viên trong đoàn đều cảm nhận được niềm vui và hạnh phúc vì đã được đi đến những nơi mà bình thường họ sẽ không đến, được phục vụ và giúp đỡ những người kém may mắn hơn mình, nhất là được kết tình thân hữu với các thiện nguyện viên đến từ khắp các phương trời. Khó ai có thể quên được những bài Thánh Vịnh cùng những bài hát được ca vang trên xe buýt lúc đi đường, những lời cầu nguyện cho nhau và cho tha nhân, đặc biệt là những câu chuyện vui dí dỏm khiến mọi người cười vang, ai ai cũng thấy đoạn đường dài đã được rút ngắn lại. Tất cả đều là những trải nghiệm ý nghĩa khó quên và là hành trang tô điểm cho cuộc đời.

Nguồn: Maria Thanh Mai gởi

THÁNH ÐA-MINH , LINH MỤC

THÁNH ÐA-MINH , LINH MỤC

 

                                                                       Ngày 08/8

                                                             Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT

Mỗi vị thánh đều có những nét đặc biệt trong cuộc sống làm người, trong cuộc sống dấn thân theo Chúa Kitô.

  • Thánh Phanxicô khó khăn sống một cuộc đời nghèo tột cùng để làm chứng cho Chúa Kitô.
  • Thánh Anphongsô rao giảng Tin Mừng cho những linh hồn bơ vơ tất bạt.
  • Còn thánh Ðaminh , Giáo Hội tôn kính hôm nay ngoài những nhân đức tuyệt hảo là trở nên giống Chúa Kitô, thánh nhân còn lừng danh là một vị thánh của kinh mân côi. 

Thánh Ðaminh được sinh ra trong một gia đình quí tộc. Cuộc đời của ngài có nhiều triển vọng sẽ trở nên một người có công danh, có địa vị trong xã hội.   

Thánh nhân mở mắt chào đời tại Tây Ban Nha vào năm 1170.  Ảnh hưởng mẹ là  Joanna d’Aza, xuất thân từ gia đình cao quý là người rất đạo đức nên thánh nhân, ngay từ nhỏ dù gia đình giầu sang phú quí, ăn uống dư thừa, ngài đã có lòng đạo đức và sốt sắng hãm mình để sống kết hợp với Chúa Giêsu trong sa mạc.  Ngài có đức tính cương trực, khẳng khái, thích làm việc có lớp lang, khoa học, hệ thống.  Thánh nhân luôn chú tâm đến việc trau dồi kiến thức, văn hóa chuẩn bị cho bước đường tương lai.  Con đường Chúa dẫn dắt Ðaminh quả thực diệu kỳ.

Ngài thụ phong linh mục triều để coi xứ, rồi lên chức kinh sĩ, kinh sĩ có bổn phận chuyên lo đọc kinh thay cho toàn giáo phận, nhất là thay cho các linh mục hoạt động.  Chúa đưa Ðaminh hết nẻo đường này tới nẻo đường khác, Ngài như nghe được tiếng gọi từ đáy thâm sâu tâm hồn: ra đi truyền giáo cho các bộ lạc bên nước Nga.  Nhưng ý Chúa nhiệm mầu, Ðức Giáo Hoàng Innocentê III lại sai ngài tới miền Toulouse, nước Pháp, nơi đang có nhiều làn sống ly giáo, lạc giáo xâm lấn, phá phách, lung lạc đức tin của nhiều người Kitô hữu, nhất là nhóm Albigensê. 

Cũng nên biết từ thế kỷ XI đến thế kỷ XIV, nhóm Albigensê đã rất thành công trong việc thuyết phục người khác theo họ.  Vào thời đại mà giáo-hội Công-giáo miền nam nước Pháp bị tục hóa, khi các giám mục xa cách dân chúng, ăn mặc sang trọng, đi trên xe tứ mã, sống đời xa hoa, thì triết lý của Albigensê, dựa theo tinh thần lạc giáo Manikêu, quả là hấp dẫn với một số người.  Gọi họ là Albigensê vì nhóm này khởi nguồn từ một thành phố miền nam Pháp tên là Albi.  Họ chủ trương nơi con người có hai thái cực : – tốt do Chúa tạo nên, – xấu do Satan chiếm đoạt.  Để loại trừ Satan, con người cần diệt dục, không nên lấy vợ, lấy chồng, không ăn thịt, cá và chỉ ăn rau cỏ.  Cuộc sống càng đơn sơ, càng trở về với thiên nhiên càng tốt.  Trong khi các giám mục địa phương, linh mục Công-giáo ăn mặc sang trọng, thì giáo sĩ nhóm Albigensê ăn vận đơn sơ, đi chân không, mặc quần áo đơn giản.  Do đó, họ có một bề ngoài gần gũi với đức khó nghèo của Thánh Kinh hơn.  

Điều quan trọng hơn cả là về tín lý họ chối bỏ BA Ngôi Thiên Chúa.  Miền nam Pháp, Ý và Tây ban nha bị ảnh hưởng rất mạnh của nhóm này.  Ngài ý thức, công việc rao giảng Tin Mừng và khuyên nhủ các người lạc giáo trở về với Giáo Hội không phải là việc một sớm một chiều có thực hiện được.  Nhưng nó đòi hỏi lời nói phải đi đôi với cuộc sống.  Thánh Ðaminh đã lập Dòng Ðaminh. Ngài cảm nghiệm sâu xa lời của Chúa : “Hãy sống hiền lành và khiêm nhượng”.  Thánh nhân đã thúc giục các anh em của mình hăng say truyền bá Tin Mừng và sống khó nghèo như các môn đệ của thánh Phanxicô khó khăn.

Vào năm 1216,  Ðức thánh Cha Honoriô III đã chấp thuận và châu phê luật Dòng của Ngài.  Thánh Ðaminh đã luôn xác tín lời giảng dậy và cuộc sống theo 3 lời khuyên của Tin Mừng chính là linh hồn của mọi hoạt động, mọi công việc loan báo Tin Mừng.  Thánh nhân chỉ được sống vỏn vẹn có 5 năm để chu toàn sứ mệnh của Ðấng sáng lập Dòng. 

Cuộc đời tại thế của thánh nhân là gương sáng tuyệt vời để nhiều người noi theo, bắt chước.  Một trong những nét đẹp trong cuộc đời của thánh Ðaminh là hy sinh và cầu nguyện.  Thánh nhân đã nêu cao một đời sống hiến thân trọn vẹn cho Chúa.  Ngài đã rảo quanh nhiều nước trên thế giới như Pháp, Ý và Tây Ban Nha để nhờ ơn Chúa giúp đưa vô số những người lạc giáo trở về với Giáo Hội.   Ðể làm được công việc đó, thánh Ðaminh đã thành lập Dòng nữ Ðaminh với tôn chỉ sống tuyệt đối theo 3 lời khuyên Phúc Âm, đồng thời loan truyền lòng tôn sùng Ðức Mẹ và truyền bá tràng chuỗi mân côi.  Thánh Ðaminh đã bám chặt lấy Ðức Mẹ vì Ngài hiểu Mẹ Maria ở đâu, Chúa Giêsu cũng ở đó.  Kinh Mân-côi là sợi dây xuyên suốt để các tu sĩ nam và nữ Dòng Ðaminh bền dỗ trong ơn gọi tận hiến của mình.  Thánh nhân đã truyền bá lòng sùng kính Ðức trinh nữ Maria và khuyên siêng năng lần hạt mân côi.   Biết bao nhiêu người đã gặp được Chúa, ăn năn trở lại, sám hối nhờ tôn kính Ðức Mẹ và nhờ việc siêng năng lần hạt mân côi .

Ngày 6/8/1221,thánh nhân qua đời tại Bologne nước Ý.  Năm 1234, Ðức Thánh Cha    Grêgoriô IX tôn phong Ðaminh lên bậc hiển thánh.

Cuộc đời của thánh Ðaminh không dài lắm từ 1170-1221, thánh nhân đã để lại gương sáng tuyệt vời về đời sống dựa theo Tin Mừng và ngài đã loan truyền cách rất thành công lòng tôn sùng Ðức Trinh Nữ Maria và khuyến khích, thúc giục mọi người năng lần chuỗi Mân-côi vì tràng Chuỗi Mân-côi là khí giới của sự an bình, là giây bền đỗ cho con người .

 Xin thánh Ðaminh cầu thay nguyện giúp cho chúng con để chúng con luôn tin tưởng vào Chúa.

Xin cho chúng con luôn biết tôn sùng Ðức Mẹ và siêng năng lần chuỗi Mân-côi để ơn bền đỗ được bảo toàn.

Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT

Bánh Từ Trời

Bánh Từ Trời

(CN 19 TN, Năm B)

                                                                                 Tuyết Mai

Thời của Chúa Giêsu giảng dậy mọi người là chính mình là Bánh là Của Ăn cho tất cả mọi người, ai ăn Ngài thì sẽ được sống muôn đời, thì trách sao không ai có thể hiểu được Ý của Ngài?.   Chúa còn sống nhăn răn ra đó mà bảo rằng Mình là Của Ăn, tôi thiết nghĩ các tông đồ của Ngài cũng không sao hiểu được Ý của Ngài nữa là …?.   Ngay như chúng ta đây chỉ đọc Lời Chúa mà không được giảng dậy thì không khéo cũng có thể thành lạc ý cũng nên, như bao nhiêu người theo đạo Tin Lành, họ đã bẻ cong bẻ quẹo Lời và Ý Chúa để chọc ghẹo ai theo đạo Công Giáo, là vậy!.

Chứ ngay như bây giờ cũng còn rất nhiều người trên thế giới vẫn không thể hiểu Ý và Lời Chúa nói.   Rất khùng khi Chúa Giêsu nói Ngài là Bánh Hằng Sống; ai ăn Ngài sẽ sống muôn đời? Vì trong miếng bánh tròn trắng tinh tuyền kia, có dấu gì hay bằng chứng gì để minh chứng rằng Chúa Giêsu hiện diện trong đó và thực sự ở trong đó?.   Nhưng vì chúng ta được Chúa Thánh Thần mạc khải cho biết Ngài Giêsu chính là sức sống của ta, nuôi linh hồn sống đời của ta.   Vì Ngài Giêsu chính là là nguồn dũng lực của ta, cho ta sức mạnh chống trả ba thù.   Vì chính Ngài là hy vọng của ta, luôn hướng chúng ta về Trời, Nơi mà có Sự Sống Vĩnh Hằng.   Và vì chỉ có Ngài mới có thể Cứu Độ chúng ta để chúng ta cũng biết chết cho tội lỗi của mình.   Cùng được vác Thánh Giá theo Ngài, chịu chết, và cũng được Phục Sinh để Chúa thay đổi hoàn toàn cách sống trong ta, trong con người mới, và đã thật sự đổi mới nhờ Chúa Thánh Thần.

Thật sự Lời của Chúa nói có cao xa quá! Chẳng mấy ai hiểu nổi, nếu không được giảng dậy rõ ràng bởi Chúa Thánh Thần.   Ai đời có ai ăn thịt người bao giờ mà Chúa lại bảo con người ai ăn thịt của Ngài thì sẽ được sống muôn đời?.   Nhưng Chúa không bao giờ xét đoán trí thông minh của chúng ta, Chúa chỉ cần tấm lòng thành, tin tưởng, và bám sát vào Chúa và chỉ một mình Chúa mà thôi!.   Y như con cái ngây thơ của chúng ta vậy, trí thông minh của chúng có là bao, chỉ cần thả lỏng chúng một giây thì chúng đã bị dụ và bị dắt đi mất tiêu rồi, thưa có phải?.   Thì hà huống gì Chúa không hiểu rằng con người rất mê đắm thú trần gian hay sao???.

Chúa chẳng những dậy dỗ con cái Rửa Tội rồi của Chúa, nhưng Chúa cũng còn đi khắp mọi nơi để giảng dậy cho con cái ngoài đàn của Ngài nữa.   Trải qua dòng lịch sử thì có phải con cái ngoài đạo thường có lòng Tin vững mạnh hơn con cái có đạo gốc hay không?.   Bụt nhà không thiêng là thế?.   Lời Chúa thì từ xưa đến nay không bao giờ thay đổi.   Bánh Hằng Sống của Ngài cũng bao nhiêu thời đại nuôi dưỡng biết bao nhiêu linh hồn con cái của Ngài, được đảm bảo có cuộc sống muôn đời, dù thời gian có qua đi, hay dù trái đất này tương lai sẽ không còn, vì có thể chúng sẽ bị nổ tung ra từng mảnh vụn?.   Nhưng một chấm một phết cũng vẫn còn y nguyên dấu mực.  

Nguyện xin Thiên Chúa Ba Ngôi toàn năng, luôn giúp chúng con biết dành thời giờ để sống gần với Chúa, và Rước Mình Máu Thánh Chúa, để được Chúa dưỡng nuôi cách dư đầy.   Từ tâm hồn, đến thể xác, và cuộc sống tâm linh luôn được lành mạnh và được Chúa dưỡng nuôi cách nhưng không.   Ban cho chúng con có được Bình An của Chúa để chúng con có thời giờ mà nghĩ đến người khác.   Những người mà vì tình cảnh đã không được sống trong may mắn trong no đủ.   Những người mà cả đời họ đã sống trong lầm lạc trong sa đọa vì ánh đèn mầu giả tạo của quỷ ma chúng giăng mắc.

Xin Thiên Chúa mở rộng mắt tâm linh của chúng con ra để chúng con được sống ngày một nên giống Chúa hơn.   Từ con mắt nhìn biết thương cảm, đến trái tim biết đập những nhịp điệu yêu thương.   Từ đôi môi biết nở chào cho đời nụ cười, hai bàn tay biết mở rộng và xoa dịu nhiều người.   Từ lời nói ngọt ngào để cho mọi người được cảm thấy ấm áp và đầy ắp tình người.   Từ đôi chân biết tìm đến những vùng xa vùng sâu nơi rất được cần chúng ta đến ….

Có phải tất cả những gì chúng ta có và đang là, đều được Chúa mời gọi để Cho Đi.   Càng cho đi chúng ta lại càng được nhận …. Như hũ bột không bao giờ vơi và rượu trong bình sẽ không bao giờ cạn?.   Rất mong lắm thay!!!.   Amen.  

** Xin bấm vào mã số dưới đây để hát theo:

     http://www.youtube.com/watch?v=r5IedqhL7dU

     (Mình Và Máu Thánh Chúa Kitô)

  

Y Tá Của Chúa,

Tuyết Mai

08-09-12

Lời Chứng Của Cô Gái Khiếm Thị Vũ Thủy

Lời Chứng Của Cô Gái Khiếm Thị Vũ Thủy

15/10/2011                                         nguồn: Thanhlinh.net

ĐI TÌM HẠNH PHÚC

Nếu một lúc nào đó, bạn thử lấy một mảnh vải đen che mắt mình và thử làm việc trong bóng tối khoảng một tiếng đồng hồ. Lúc đó bạn sẽ biết cuộc sống của người mù là khó khăn như thế nào. Nhưng chưa hết đâu, bởi lẽ bạn chỉ có một tiếng đồng hồ thôi. Những người mù phải đối diện với bóng tối cả một đời, với sự thiếu thốn vật chất lẫn tinh thần và với những nỗi phiền muộn do sự phân biệt đối xử của những người đồng loại. Nói thế, nhưng không phải là tuyệt vọng, chúng tôi có thể học tập, lao động , ca hát, chơi thể thao, làm thơ.. như bao nhiêu người khác, nếu như xã hội đừng quên chúng tôi cũng có cảm xúc, cũng có ước muốn, cũng có những sở thích và có nhân quyền. Chúng tôi có thể sống vui tươi, vô tư như các bạn khi chúng tôi không bị cô lập (nghĩa là xin mọi người chung quanh đừng nghĩ rằng chúng tôi là người ngoài hành tinh và gạt chúng tôi ra khỏi những công việc bình thường.) Khả năng chúng tôi có nhưng còn cần sự giúp đỡ của các bạn để phát huy nó. Không nhìn thấy nhưng chúng tôi có thể cảm nhận được thế giới xung quanh bằng những giác quan còn lại.

Một điều đáng buồn là chỉ thiểu số người khiếm thị sống lạc quan. Đa phần còn lại thường sống trong lặng lẽ và cô độc vì hoàn cảnh gia đình, điều kiện sinh sống và sự tự ty mặc cảm. Họ có vẻ như đang chôn mình trong nấm mồ tăm tối. Vả lại, thường là cái nghèo đi đôi với người mù. Có một bạn nữ trong khi tâm sự với tôi đã thốt lên rằng : “cuộc đời của tôi khốn nạn, giấc ngủ của tôi cũng khốn nạn nốt!” Có người trách móc: “Tại sao cha mẹ tôi lại sinh ra tôi để tôi phải sống trong bóng tối khốn cùng này?” …

Tôi thì may mắn hơn đã trải qua cuộc sống như một người bình thường trong mười mấy năm. Lúc tôi mới trở thành một người mù, tôi đã có những ngày tháng ảm đạm và dài đằng đẵng. Điều mà trước đây tôi không hề trải qua vì tôi vốn là một cô gái rất tinh nghịch và náo nhiệt. Khi đó, tôi chỉ còn biết cầu nguyện với Chúa xin cho con biết con phải làm gì để không trở thành người vô dụng. Và Người đã hành động khi những cơn bệnh trầm trọng của tôi bỗng nhiên lui dần. Tôi bắt đầu đi học chữ nổi, học sử dụng computer, học cách đi đứng sinh hoạt như người mù. tôi bắt đầu tiếp cận với những người mù có vẻ buồn bã, khắc khoải, thầm lặng. Tôi khuyến khích họ tâm sự, và lắng nghe tất cả những nỗi bực dọc, những nỗi buồn chán, tuyệt vọng… Giải thích cho họ về những điều rất đơn giản đến không thể ngờ nhưng lại là một khái niệm trừu tượng đối với những người mù bẩm sinh.  Có những ngày tôi phải liên lạc điện thoại suốt mấy tiếng đồng hồ để ngăn cản một người bạn trong cơn tuyệt vọng muốn nhảy lầu. Rồi tôi viết chữ nổi, đọc băng cát xét để dạy người bạn này học tập cho quên đi những khắc khoải . Thỉnh thoảng tôi đi thăm người khuyết tật vận động ở vùng sâu, vùng xa và những mái ấm, nhà mở của người khuyết tật trong thành phố…. Tất cả những công việc đó thật là nhỏ bé. Tôi đã cho những người bạn của tôi chỉ là một ly nước lã, nhưng hiệu quả thật là bất ngờ. Đôi khi, người bạn trước đây đã cho rằng cuộc đời cô ta thật khốn nạn, nói với tôi rằng: “Nhờ những lời khuyên của chị, bây giờ em cảm thấy cuộc đời em thật là có ý nghĩa.” Một người bạn sau khi nghe tôi đọc bài thơ: “Cô gái mù với ly cà phê trắng” qua đài phát thanh đã gọi điện thoại cho tôi nói rằng anh ta đang sống thật vô vị và rất ngạc nhiên khi thấy một người mù lại có vẻ tự tin yêu đời như trong bài thơ đó. tôi cho anh ta bí quyết của tôi là học tập và làm tất cả những gì mình có thể. Bây giờ anh ta đã trở thành một người mù khá bận rộn và công nhận rằng: “Trước đây một năm tôi không biết cười, nhưng bây giờ tôi có thể cười được rồi….”

Tôi cảm thấy thật là hạnh phúc và mong cho những người bạn của mình luôn được vui vẻ mãi . Vậy là khi tôi nghĩ rằng tôi cho họ lời an ủi và sự cảm thông thì chính là họ đã đem đến cho tôi hạnh phúc. Và cứ thế những phiền muộn trăn trở của tôi đã biến mất nhường chỗ cho con người trước đây của tôi. Hầu như tôi quên mình là người mù, không gian quanh tôi rộn rã tiếng cười. Tuy thế, mỗi khi gặp một hoàn cảnh xấu số nào đó, tôi lại cảm thấy đau lòng và tôi lại rơi vào tâm trạng phiền muộn, lúc đó tôi liền chạy đến Chúa để tìm nguồn ủi an. Cây Thập Giá vẫn còn đó, nó là biểu trưng của sự chiến thắng đau khổ. Tôi chợt hiểu ra rằng không có đau khổ thì không có hạnh phúc. Đó là một cặp phạm trù luôn tồn tại bên nhau.

Trong chúng ta chắc không ít người đã từng băn khoăn với câu hỏi: “Tại sao Chúa lại để cho người ta phải chiụ những sự đau khổ; khi mà Chúa có thể giơ tay chữa lành tất cả những nỗi đau khổ đó?” Tôi cũng đã từng băn khoăn như thế. Và tôi đã tìm được câu trả lời sau những đau đớn về thể xác lẫn tinh thần. Tôi bị mù do biến chứng của bệnh tiểu đường. Một căn bệnh nan y mà tôi đã mắc phải khi mới 17 tuổi với rất nhiều biến chứng như viêm đa thần kinh, viêm xương chậu và thoái hóa cột sống. Có nhiều đêm cơn đau quằn quại và khó chiụ triền miên tưởng chừng như không thể nào chịu đựng được. Những lúc ấy, bác sĩ và người thân của tôi chẳng giúp gì được cho tôi. Nước mắt cứ tự trào ra. Tôi chỉ biết bám vào một câu Kinh thánh: “Hãy đến với Ta! Hỡi những ai khó nhọc và gánh nặng. Ta sẽ bổ sức cho các ngươi…” Tôi nghĩ về sự đau khổ của Chúa Giê Su trên Thập tự, và thường là tôi thiếp đi qua khỏi cơn đau. Những lúc ấy, tôi thường nghĩ đến những bệnh nhân đang trải qua cơn đau quằn quại của bệnh ung thư, những bệnh nhân tâm thần sống như một động vật và những người liệt giường từ nhiều năm. Tôi cảm thấy cơn đau của tôi thật là bé nhỏ so với họ. Và những cơn đau của tôi hầu như không còn nữa. Tôi bắt đầu hiểu ra rằng, Chúa để trong thế gian có những sự đau khổ của loài người, cũng như chính sự đau khổ của Chúa là để làm gương cho ta sống vươn lên, vượt qua những thử thách của ta và ý thức được thân phận hèn mọn của con người .

Sau tất cả những cảm nhận ấy tôi hiểu ra rằng hạnh phúc chỉ có được khi ta biết chia sẻ và quan tâm đến người chung quanh ta. Tôi nghĩ rằng ai cũng có những nỗi khó khăn, khắc khoải, khổ đau của riêng mình, chúng chỉ khác nhau về góc độ; vậy, ta còn chần chờ gì mà không đi tìm hạnh phúc ở chung quanh ta ?

Các bạn sẽ tìm thấy chung quanh bạn đang có những người còn đau khổ hơn mình, nhất là những người khuyết tật như chúng tôi. Họ ở đó chờ một lời an ủi, một cuộc thăm viếng, một sự cảm thông. Và đó chính là lúc bạn nhận ra cặp mắt đau đáu của Chúa Giê su trên Thập giá.

Phần tôi, Chúa đã ban cho tôi quá nhiều, Chúa mới chỉ lấy lại ở tôi một đôi mắt. Giờ đây tôi tin rằng Chúa đang làm những điều tốt đẹp cho tôi. Tôi xin sẵn sàng chấp nhận Thập Giá Chúa trao cho mình.

Tôi thật sự cảm ơn các bạn đã chia sẻ với tôi những kinh nghiệm sống này, chúc các bạn luôn vui vẻ và yêu đời.