Đường nên thánh

Bang Uong

Đường nên thánh

 

Phạm Minh-Tâm

Vào ngày 14-10-2018 sắp tới đây, Hội-thánh Công-giáo hoàn-vũ vui mừng về một tin vui cả-thể. Đó là Đức cố Giáo-hoàng Phao-lô VI được Đức đương kim Giáo-hoàng Phan-xi-cô cử-hành nghi-thức tôn vinh lên bậc hiển thánh. Và trong nỗi hân-hoan này, thiết-tưởng cộng-đồng Dân Chúa Việt-Nam – và toàn thể Hội thánh Chúa Ki-tô – cũng nên chia-sẻ những cảm-nghiệm đức tin về vị Cha Chung được vinh thánh này. Đang lúc người ta nhắc đến hành-trạng của Đức Giáo-hoàng Phao-lô VI với toàn là những việc “để đời”, thì người viết lại cứ quanh-quẩn với câu ngài nói đã thành thời-danh:”Con người thời đại chúng ta thích nghe các chứng nhân hơn là các bậc thầy. Hoặc nếu có nghe các bậc thầy thì vì những vị thầy này là chứng nhân”…Bởi vì đã từ lâu, rất lâu nay, hai chữ “chứng nhân” vẫn là nỗi băn-khoăn, niềm mong đợi và tìm kiếm của cộng-đồng tín-hữu Việt-Nam.

Và quả-thực, trong suốt triều-đại giáo-hoàng của mình, Đức Phao-lô VI đã hành-xử quyền Tông-toà trong các hành-động liên-tục theo ơn-nhưng-không với lòng trách-nhiệm…đã làm việc theo “đấng bậc mình” không chút đơn-sai.

Điều mà người ta nhớ đến Đức Phao-lô VI trước hết và trên hết là ngài đã kế-tục một công-trình nhiều khó-khăn của vị tiền-nhiệm là Thánh Giáo-hoàng Gio-an XXIII, để hoàn-tất Công-đồng Vatican II. Công-đồng này đã mở đầu một kỷ-nguyên quan-trọng trong lịch-sử Hội thánh Công-giáo hoàn-vũ. Bởi vì, mọi văn-kiện của Công-đồng Vatican II đã như một nguồn sáng mới soi rọi lại nhiều vấn-đề trong Hội-thánh như Phụng-vụ, Lời Chúa, Đại-kết, Tự-do tôn-giáo và nhất là định rõ vai trò của Hội thánh trong thế-giới ngày nay…Tất cả không chỉ đòi hỏi một nỗ-lực mà còn là một ý-thức tâm-linh cao-độ khởi đi từ các nhân-đức Tin – Cậy – Mến…

Trong tấn thảm-kịch thông-thường của con người, một thảm-kịch mà ánh sáng càng tăng thì định-mệnh con người lại càng ra đen tối. Bởi thế, nhận-định ấy phải được triển-khai bằng một cuộc đối-thoại với thực-tại thần-linh; nghĩa là tôi bởi đâu mà ra và chắc-chắn tôi sẽ đi về đâu theo ánh sáng của Đức Ki-tô, như cây đèn đặt vào tay cho chúng ta hoàn-thành cuộc vượt qua vĩ-đại… Tôi được chọn làm Giáo-hoàng; sự kiện này chứng-tỏ hai điều: một là sự hèn-mọn của tôi và hai là sự tự-do của Thiên Chúa, một sự tự-do đầy nhân-từ và mạnh-mẽ…(Đỗ Xuân Quế – Suy-tư của Đức Phao-lô VI về sự chết…trang 8).

Công-đồng Vatican II được hình-thành từ nhiều trở-ngại trong quá-khứ. Vào năm 1870, Đức Giáo-hoàng Pi-ô IX triệu-tập Công-đồng Vatican I, tuyên-bố quyền tối-thượng và ơn bất-khả-ngộ của Giáo-hoàng; đồng thời, lên án chủ-trương độc-lập của Giáo-hội Pháp và nhiều vấn-đề quan-trọng khác thuộc Giáo-hội. Song Công-đồng này phải ngưng vào ngày 20-10-1870 và đình-hoãn vô-hạn-định với biến-cố Giáo-phận Rome bị sáp-nhập vào nước Ý. Khi Công-đồng Vatican II được công-bố triệu-tập thì đã có nhiều ý-kiến về tên gọi, vì cho rằng đây chính là sự tiếp nối công-trình của Vatican I, mà phần lớn các vấn-đề đã bị bỏ dở. Vì vậy, vào ngày 07-12-1959, Thánh Giáo-hoàng Gio-an XXIII đã chính-thức dùng tên Công-đồng Vatican II để khai-hội và kéo dài sang đến triều-đại Đức Giáo-hoàng Phao lô VI mới kết-thúc.

Điều đăc-biệt, Công-đồng Vatican II được triệu-tập không theo truyền-thống sẵn có là chỉ triệu-tập công-đồng khi Hội-thánh cần phải công-bố một định-tín hay giải-quyết các khúc-mắc quan-trọng. Trong hoàn-cảnh lúc đó, Giáo-hội không gặp phải biến-cố hay khủng-hoảng nào rõ-rệt cả mà chỉ vì hậu-quả của hai cuộc thế-chiến và sự phát-triển nhanh chóng của khoa-học đã ảnh-hưởng nhiều đến hướng hành-đạo và sống đạo của người Ki-tô hữu, cho nên có nhiều vấn-đề để Công-đồng này cần phải đặt ra, nhất là đặt trọng-tâm vào cách-thế có mặt của Hội-thánh trong thế-giới hiện-đại cùng với sự hiệp-nhất Ki-tô hữu.

Với hướng hàng đầu nhắm vào sứ-vụ truyền-giáo của Giáo-hội, Đức Giáo-hoàng Phao-lô VI đã có cách nhìn cởi mở và chịu đối-thoại với thế-giới bên ngoài như một sự canh-tân cần-thiết. Trước hết là phải kể đến chủ-trương đối-thoại với cộng-sản, với các anh em trong cộng-đồng Ki-tô giáo, với các tôn-giáo khác và ngay cả với những người không có tín-ngưỡng. Ngài cũng bãi-bỏ một số quy-chế trong tổ-chức của Giáo-hội như chuyển sinh-hoạt phụng-vụ từ tiếng La-tinh sang tiếng bản xứ; tổ-chức lại thành-phần nhân-sự trong nhiệm-vụ giữ trật-tự an-ninh của Tòa-thánh; giảm bớt con số cảnh-vệ gốc Thụy Sĩ; bỏ việc dùng vương-miện cũ của giáo-hoàng và các lễ-phục mang sắc-thái vương-giả cao-sang, vì ngài từng khẳng-định rằng…giáo hoàng không phải là một vị vua, nhưng là một giám mục, một mục tử, một nô bộc…Ngài cũng chấm dứt truyền-thống về nghi-thức mỗi khi khai-mạc Năm Thánh thì giáo-hoàng lấy búa đập vào bức tường che Cửa Thánh; ra quyết-định sau Năm Thánh 1975 không cho xây bức tường che Cửa Thánh trong đền thánh Phê-rô nữa.

Tưởng cũng cần mở ngoặc để nhắc đến ở đây một sự-kiện “để đời” nơi Giáo-hội Việt-Nam, thoát-thai từ Tông-hiến Laudis Canticum : vào ngày Lễ Các Thánh, 1-11-1970, Đức Phao-lô VI ban-hành Tông-hiến Laudis Canticum, chính-thức công-bố về việc dùng sách nguyện của Hội-thánh là Các giờ kinh Phụng-vụ…Bài Ca Chúc Tụng Thiên Chúa hằng vang dội muôn đời trên Thiên-quốc, đã được Chúa Giê-su Ki-tô, Vị Thượng-tế của chúng ta đưa vào trần-thế. Bài ca này, Hội-thánh không ngừng tiếp-tục hát lên, qua những hình-thức vô cùng phong-phú với một tấm lòng bền vững trung-kiên”. Và trong Tông-huấn này, có một sứ-điệp gửi đi “…Các Hội Đồng Giám Mục trong mỗi quốc gia có nhiệm vụ phải cho xuất bản sách này bằng tiếng nước mình…” đã là cơ-duyên cho một nhóm giáo-sĩ, linh-mục, tu-sĩ Việt-Nam được thể-hiện khả-năng Chúa cho mà phục-vụ Giáo-hội quê-hương mình. Đó là Nhóm Các Giờ Kinh Phụng-vụ ra đời vào năm 1971, với các thành-viên toàn là linh-mục, tu-sĩ có trình-độ cao về học-thức, về chuyên-môn, về ngoại-ngữ và cổ-ngữ; thậm-chí còn đã từng hay đang là Bề Trên Dòng, là Giám-tỉnh, là giáo sư Đại-chủng-viện…và tính cho đến nay cũng đã cống-hiến rất nhiều cho Giáo-hội Công-giáo Việt-Nam.

Đức Phao-lô VI cũng bỏ truyền-thống lâu đời của các giáo-hoàng vốn không ra khỏi Vatican. Ngài đã thực-hiện hàng loạt các cuộc tông-du qua nhiều miền đất của thế-giới như những cuộc hành-hương và tuy mỗi chuyến đi mang mục-đích khác nhau nhưng tựu-trung cùng trong tâm-tình viếng thăm thế-giới vì lợi ích của con người. Ngài đến Jérusalem, Jordanie, Istambul…để gặp gỡ các thượng-phụ của Chính-thống-giáo Ðông-phương vì muốn cùng anh em ly-giáo hoà-giải bớt những bất-đồng gây phân cách, đã xin lỗi Thượng-phụ Bartholomeo của Constantinople và kết-quả đem lại là đã cùng Thượng-phụ Giáo-chủ Athenagoras của Giáo-hội Chính-thống Constantinople xé bỏ án tuyệt-thông mà cả hai đã gieo vạ lẫn cho nhau từ năm 1054. Ngài đến Hoa-kỳ để đọc diễn văn tại Đại Hội-đồng Liên-hiệp-quốc lên án chiến-tranh và kêu gọi hòa-bình thế-giới. Ngài gặp Giáo-chủ Hồi-giáo trong tinh-thần đối-thoại và Tổng Giám-mục Canterbury của Anh-giáo để giảm bớt sự xa cách từ một quá-khứ ly-khai. Đến Châu Mỹ La-tinh, Ấn-độ, Pakistan, Columbia, Philippine, Uganda, Bồ-đào-nha, Thuỵ-sĩ …và gặp nhiều nguyên-thủ các quốc-gia… cũng không ngoài mục-đích viếng thăm theo tinh-thần phúc âm hóa đời sống và Ki-tô hoá xã-hội. Ki-tô hoá không phải là rửa tội cho người ta vào đạo mà là thể-hiện tinh-thần bác-ái, huynh-đệ như Chúa Ki-tô dạy, là truyền-đạt Giáo-lý của Đức Ki-tô bằng tâm-tình đi tìm hoà-bình và công-lý cho con người. Là lên tiếng bênh-vực cho nhân-quyền, nhất là quyền làm người và quyền sống.

Ủy-ban “Công lý và Hòa bình” của Giáo-hội đã được lập năm 1967. Tiếp đến là Thông-điệp Sự Sống Con Người (Humanae Vitae) ban-hành vào ngày 25-7-1968, xác-nhận lại quan-điểm của Giáo-hội Công-giáo không chấp-nhận các phương-pháp ngừa thai nhân-tạo như ngài đã từng tuyên-bố… là chuyên-gia về nhân-loại, chúng tôi tôn trọng con người…Vào năm 1971, để cổ-võ việc đấu-tranh cho quyền-lợi các nước nghèo, Đức Phao-lô VI công-bố Thông-điệp “Phát triển các Dân tộc” …

Tóm lại, với thời-gian tại vị không lâu nhưng Đức Phao-lô VI đã làm việc trong sự mẫn-cán tuyệt-vời của một mục-tử yêu thương đoàn chiên; của người tự nhận mình là…chuyên-gia về nhân-loại nên đã không bỏ sót một khía cạnh nào thuộc đời sống con người…cho đến cuối đời …Nhưng bây giờ trong buổi hoàng-hôn sáng tỏ này cộng thêm với ánh sáng cuối cùng của buổi chiều, điềm tiên báo hừng đông muôn thuở, một tư-tưởng khác làm tôi bận trí, đó là nỗi lo-lắng phải làm sao lợi-dụng giờ thứ mười một, là sự vội-vàng phải làm một cái gì quan-trọng trước khi quá muộn. Làm thế nào để sửa lại những gì mình đã làm không tốt; làm thế nào để lấy lại thời-gian đã mất; làm thế nào để nắm được điều cần duy nhất trong giai-đoạn cuối cùng còn được chọn này… Con theo Chúa và con thấy rằng con không thể lẻn ra khỏi sân khấu cuộc đời này. Có hàng ngàn mối dây ràng-buộc con với cộng-đồng nhân-loại, với Hội-thánh. Những mối dây này tự chúng sẽ tan đi, nhưng con không thể quên được những người có liên hệ với con, chờ đợi con làm một vài bổn-phận cuối cùng…( Đỗ Xuân Quế. Suy-niệm của Đức Phao-lô VI về sự chết…trang 10…13)

Giờ đây, trong tâm-tình tín-thác nơi ơn vô-ngộ của Hội thánh và của những định-tín khi người đại-diện Thánh Phê-rô công-bố trên toà, xin Chân-phước Phao-lô VI sắp được nâng lên hàng Hiển-thánh, cầu-bầu cho dân-tộc Việt-Nam chúng con đủ sức mạnh thắng vượt cơn khốn-khó. Cho mọi anh em trong Hội thánh Công-giáo Việt-Nam chúng con và những người đang trong trách-nhiệm lãnh-đạo Chúa giao, biết theo được gương sống đạo và làm việc theo lương-tâm ki-tô hữu của ngài; xin cho tất cả những ai chỉ vì muốn cầu-an, sống vô-cảm, chối bỏ trách-nhiệm liên-đới với xã-hội, với anh em đồng-bào mà đã vô-tình hay cố ý lý-luận rằng khi nói đến việc đấu-tranh cho quyền-lợi người nghèo, cho người bị đàn-áp bất-công, đòi nhân-quyền, đòi tự-do tôn-giáo, đi tìm công-lý và hoà-bình…như ngài đã từng dấn-thân tìm kiếm là những việc phạm đến chính-trị. A-men

Các Nhà Truyền Giáo thời đại. (phần 2)

  Các Nhà Truyền Giáo thời đại. (Phần 2)

Phan Sinh Trần 

1)Cha Pallu truyền giáo tại Ni-giê-ria Phi Châu

Một đặc điểm ở một số các vùng truyền giáo Phi Châu, Trung Đông, là sự hiểm nguy cho tính mạng của Nhà Truyền Giáo, nhất là ở những nơi đạo Chúa bị cấm cách, thù ghét hay bị cho là dị biệt với Hồi Giáo. Chỉ tính riêng tại nước Ni-giê-ria trong vòng chưa trọn năm 2018, đã có trên 6000 Ki Tô hữu bị dân quân vũ trang giết hại đa phần là phụ nữ, người già và trẻ em, trong số tử đạo có các linh mục và tu sĩ. Vào một cuối tuần của tháng 6, 2018 có 238 người theo đạo Chúa bị tàn sát ở tiểu bang cao nguyên, Ni-giê-ria. (https://www.express.co.uk/news/world/981611/christian-persecution-christianity-nigeria).

…Vào ngay thời điểm này, cha Pierluigi Maccalli thuộc dòng “Truyền Giáo Phi Châu” công tác mục vụ ở Ni-giê-ria vẫn còn đang bị mất tích. Vụ bắt cóc xảy ra vào đêm 19 tháng 9, 2018 ở vùng sát với biên giới gần nước Bur-kina Faso.

Phải, sẽ đến giờ mà ai giết các ngươi sẽ tưởng thế là tôn thờ Thiên Chúa. (Gioan 16:2)

Năm Ngoái, thông tấn xã CNA và đài TV EWTN tường thuật lại câu chuyện Cha Maurizio Pallu, 63 tuổi, linh mục Ý Đại Lợi, đi truyền giáo ở nước Ni-giê-ria, bị bọn tội phạm gồm tám tên trang bị vũ khí súng ống, chúng chận đường khi đoàn đang di chuyển trên đường từ Calabar tới thành phố Benin vùng cực nam của Ni-giê-ria, chúng cướp và bắt cóc Cha Pallu và hai thành viên của đoàn tông đồ “Con Đường Tân Dự Tòng” truyền giáo cùng đi trong xe vào ngày 12 tháng 10, năm 2017.

Trong lúc bị bách hại, Cha Pallu lúc đầu cũng hoang mang lo sợ khi nghĩ đến sinh mạng đang treo lơ lửng và cảm thấy mình chưa sẵn sàng để chết, Cha kể:

–  Tôi thưa với Chúa, con chưa đền đủ tội của con, nếu Chúa muốn con chết thì xin cho con được ơn và Thần Khí sức mạnh để chết như một người Ki tô hữu và dâng hiến đời sống mình (cầu chuộc) cho những người này vốn dĩ đã giết con.

Dẫu vậy, Cha nhớ lại những nhu cầu khác và đệ đạt với Chúa:

–  Xin Chúa cứu lấy sinh mạng con và con xin hứa rằng con sẽ tiếp tục công bố Tin Mừng với sự nhiệt thành gia tăng gấp đôi.

Trong tình huống nguy nan, Cha có thể chứng nghiệm sức mạnh của lời cầu nguyện qua kinh Mân Côi thể hiện rõ dần trong thời gian năm ngày bị bắt giũ. Vào lúc Ngài chỉ còn giữ được một cỗ tràng hạt, bởi vì bọn bắt cóc đã cướp đi thánh giá nhỏ bằng vàng và khi bị bắt bất ngờ, Cha đã không mang theo mình Kinh Thánh hay sách kinh Nhật Tụng :

–  Tôi chỉ có tràng chuỗi này, và bọn họ đã thấy tôi liên tục cầu kinh Mân Côi thành tiếng nho nhỏ. Tôi bảo họ rằng “Tôi cầu cho các anh nữa”, thế rồi … tôi thấy được sức mạnh của sự cầu nguyện, cho dù tôi là một người có đức tin nhỏ bé, tôi chỉ làm điều mà tôi có thể làm được nhưng đâu phải chỉ có lời nguyện của tôi mà còn có sự hỗ trợ nguyện xin của cả Hội Thánh Toàn Cầu cho sự vụ này.

Dần dần, Cha bắt đầu tạo được mối liên hệ với thủ lĩnh của bọn cướp, và có dịp nói chuyện với bọn họ. Cha kể:

–  Tôi có thể bảo anh ta rằng tôi coi anh như là một huynh đệ của mình và tôi đang cầu nguyện cho mấy người anh em. Điều tôi lưu ý được đó là, anh ta đã thay đổi dần trong cách nói và thái độ khi đối xử với chúng tôi, mấy ngày sau này, hễ tôi nhẹ nhàng nói với anh “tôi đang cầu nguyện cho anh”, đáp lại, bằng một giọng thành thực “Được, Cha hãy cầu nguyện cho tôi”.

Cha Pallu kết luận:

–  Tôi được sự can thiệp đặc biệt của Mẹ đồng trinh Maria, nhất là ơn của Đức Mẹ Fatima bởi vì cách Ngài hóa giải kế hoạch hãm hại, âm mưu đe dọa của thế lực sự dữ thật là hiển nhiên (qua việc hoán cải tâm hồn của thủ lĩnh băng cướp).

Cuối cùng, bọn cướp thả cho ba người được ra đi.

Cha Pallu là linh mục chứng nhân Tin Mừng tại Ni-giê-ria trong suốt ba năm qua, Cha bị bắt cóc lần này là lần thứ hai, trước đó Cha bị giữ vào ngày 13, tháng 10, năm 2016. Tuy nhiên ở lần đầu bị nạn, Ngài được thả ra chỉ sau một tiếng rưỡi đồng hồ bị nhóm vũ trang giam giữ. Tốt nghiệp cử nhân sử học, cha được ơn gọi đi tu làm linh mục triều, tiếp theo ơn gọi của Chúa tiếp tục dẫn đưa Cha vào con đường loan báo Tin Mừng cho muôn dân. Cuộc đời của Cha đã trải qua 11 năm đi truyền giáo tại nhiều nước khác nhau.

Khi vị linh mục vốn xuất xứ từ Giáo Phận Rô Ma quay trở lại Ý Đại Lợi vào ngày 18, tháng 10, 2017 rồi sau đó được triều kiến Đức Thánh Cha Phan xi cô, nghe chuyện bắt cóc và được thả, người vui vẻ dịu dàng hỏi Cha Pallu “Thế rồi, khi nào con lại quay về (chốn xưa)?”

Ma Quỷ không chịu thua khi nhìn thấy cánh đồng truyền giáo của Chúa có thành quả đang nở rộ ở Ni-giê-ria, chúng gieo rắc chia rẽ và thù hận, có các nhóm Hồi Giáo quá khích như Boko Haram truy bức, bắt cóc và giết hại Tín Hữu Thiên Chúa Giáo. Tuy nhiên, càng bách hại, Đạo Chúa lại càng phát triển, hạt giống tử đạo nảy sinh muôn vàn hoa trái phúc âm, lúa chín đầy đồng với hàng triệu người Ni-giê-ria đón nhận đức tin mới. Trong vòng chưa tới mười năm, từ 2001 tới năm 2010, con số tín hữu gia tăng thêm hơn tám phần trăm, từ 40% lên đến 48.3%. Hiện nay, Thiên Chúa Giáo trở thành đạo có nhiều người tin theo nhất, khoảng 89 triệu Ki Tô hữu, người Công Giáo chiếm khoảng một phần tư trong số đó.

Khi được nhà báo hỏi về sự quay trở lại quốc gia cũ đang đắm chìm trong bạo lực có là một điều dại dột? Cha Pallu trả lời rằng ngài không sợ âm mưu của Quỷ, bọn chúng vốn đã bị đánh thua, bị bại trận nhờ vào cái chết và sự sống lại của Chúa Giê Su Ki Tô:

– Ở nước Ni-giê-ria, bây giờ là thời kỳ hồng ân. Quỷ phải rất sợ hãi vì chúng bị sổng mất nhiều linh hồn quay về với Chúa nên chúng quay ra tấn công đoàn hai lần qua việc bắt cóc. Tôi muốn dẫn chứng lời của Thánh Giáo Hoàng Gioan Phao lô II, “Lục địa Phi Châu là tương lai của Giáo Hôi”

Xin Chúa Mẹ thương đến dân tộc Ni-giê-ria đang phải gồng mình trong bách hại và bạo lực khi họ muốn vươn lên đón nhận Tin Mừng và ôm ấp hy vọng rạng ngời của Đức Tin.

2Tín Hữu Yun truyền đạo ỏ Hồ Nam, Trung Quốc.     

 Ở các quốc gia theo chủ nghĩa Cộng Sản, vấn đề bách hại tôn giáo còn khốc liệt hơn gấp nhiều lần so với các quốc gia Hồi Giáo. Năm 1970 phái đoàn dân biểu quốc hội Hoa Kỳ qua thăm Trung Hoa Cộng Sản, khi họ trở về đã cho biết “Không còn một người tín hữu Ki Tô nào sót lại ở Trung Cộng”, trước đó, từ năm 1958 chính Giang Thanh vợ của Mao Trạch Đông thủ lĩnh Cách Mạng Văn Hóa tuyên bố: “ Ki Tô Giáo ở Trung Hoa đã bị khai tử, nhốt vào bảo tàng lịch sử. Nó chết rồi và bị chôn vùi”. Các nhà thờ không thuộc giáo hội quốc doanh đều bị đóng cửa (Phong trào tam tự ái quốc do chính quyền thiết lập năm 1957), linh mục, giám mục, mục sư Tin Lành chân chính bị giết hại hoặc giam cầm cho chết dần mòn trong các trại cải tạo, sách Kinh Thánh bị đốt và cấm đọc.

Làm sao Chúa có thể đem ánh sáng Tin Mừng đến cho dân tộc Trung Hoa đáng thương?                   

Chúa có bỏ rơi con chiên cho đàn sõi vô thần hùng mạnh, dữ dằn chăng?                                            

Chúa Thánh Thần sẽ sáng tạo cách thế nào để loan báo Tin Mừng tại Trung Quốc?

Chúa có nhiều cách rất phong phú và tài tình để cứu đàn chiên và làm cho Trung Hoa trong tương lại, rồi mai đây, lại trở thành một nước có nhiều người Tin Chúa nhất trên địa cầu, một tiêu biểu là câu chuyện của Anh Yun, người Hà Nam, Trung Quốc, trong vùng nông thôn nghèo đói, nhà tranh vách đất u tối và dột nát, nơi đó, cả làng đều bỏ Đạo, các em nhỏ không biết Chúa là ai. Trong tự chuyện, anh Yun kể lại như sau:

–  Vào năm 1974, khi Cách Mạng văn hóa còn đang hoành hành, cha tôi bị bệnh ung thư phổi, ung thư lan xuống bao tử. Bệnh rất nặng, làm cho không thở được. Bác sĩ nói với mẹ của tôi, “không còn hy vọng chữa trị gì cho ông chồng bà, hãy đem về nhà lo chuẩn bị đám tang”. Gia đình làm nông rất nghèo, đem Cha về nhà, chúng tôi vẫn dồn hết sức lực cho việc chạy chữa, không còn tài sản nào có thể đem bán, năm anh em Yun phải đi ăn xin hàng xóm để sống sót qua ngày. Họ chạy tìm mọi nguồn lực, mời thày cúng, làm đủ cách mà bệnh tình của người Cha tiếp tục nặng, mẹ của Yun lo lắng, sợ hãi quá phát rồ dại, bà định tự tử. Một đêm nọ, vừa mơ mơ màng màng thiếp ngủ, chợt bà nghe rõ, có tiếng nói dịu dàng, thương cảm cất lên “Chúa Giê Su yêu con”. Nghe xong, bà liền vùng dậy, choàng tỉnh, nhận ra hoàn cảnh của mình với Chúa, bà quỳ gối xuống sàn đất và bắt đầu nhỏ nước mắt ăn năn khóc cho tội lỗi của mình, giống như cảm nhận của một người con hoang đàng muốn quay về nhà, bà cảm thấy muốn trở lại nhận Chúa làm Thượng Đế, đấng trên hết của mình. Rồi bà gọi hết mọi người trong nhà đến để cầu nguyện với Chúa, bà bảo họ “Chúa Giê Su là hy vọng duy nhất cho Bố các con”, khi được bà kể lại những gì đã xảy ra cho Mẹ, tất cả chúng tôi phó thác đời sống mình cho Chúa, rồi chúng tôi đặt tay lên mình Cha và cả đêm hôm đó, chúng tôi vừa khóc vừa nói lải nhải một câu cầu xin “Chúa Giê Su, chữa cho Cha. Chúa Giê Su, chữa cho Cha”. Tảng sáng hôm đó, Cha cảm thấy đỡ hơn nhiều, lần đầu tiên sau nhiều tháng, ông muốn ăn. Chỉ trong vòng một tuần lễ, ông được hoàn toàn bình phục, chẳng thấy còn một dấu vết nào của bệnh ung thư và sống khỏe mạnh. Cả nhà của tôi quay về làm con Chúa và bắt đầu muốn chia xẻ niềm vui về Chúa.

Thế là công cuộc làm chứng về Chúa và phục hồi Đạo bắt đầu trong ngôi làng bỏ Chúa của Yun, anh kể:

– Cha Mẹ tôi rất biết ơn Chúa về những gì mà Ngài đã làm cho Cha, đến độ họ muốn chia sẻ tin tốt lành này cho hết mọi người dân làng ngay lập tức, họ có kế hoạch cho con nít trong nhà lén đi mời thân thuộc và bạn hữu đến nhà của chúng tôi. Ai cũng đinh ninh được mời đến tẩm liệm cho Cha vừa qua đời, nào có ngờ, đến nhà, họ được Cha tôi ra tận cửa vui vẻ, khỏe mạnh đón chào, mời vào trong nhà. Sau khi mọi người tề tựu đông đủ, Cha Mẹ tôi đóng cửa, cài then, che rèm của sổ và kể cho mọi người hiện diện về phép lạ nhiệm mầu của Chúa đã làm cho gia đình. Rồi, tất cả thân hữu đều quỳ xuống xin tiếp nhận Chúa là chủ của đời mình. Mẹ tôi dù là một người thất học, không biết đọc, biết viết nhưng lại là người đầu tiên thuyết giảng về Chúa cho dân làng. Nhớ lõm bõm câu Kinh Thánh nào thì nói ra rồi kêu gọi chúng tôi luôn chú tâm, quy hướng mọi sự vào Chúa Giê Su.

Một hội thánh tư gia thuộc loại tiên khởi đã ra đời, các hội thánh tư gia khác thuộc Giáo Hội chui ở Trung Quốc có thể đã bắt đầu tương tự như trường hợp nêu trên, qua cách làm sáng tạo, diệu kỳ của Chúa Thánh Thần.

– Tôi hay hỏi Mẹ của tôi, “Chúa Giê Su là ai?” Bà trả lời, “Chúa Giê Su là con Thiên Chúa đấng đã chết trên thập giá đền thay mọi tội lỗi và bệnh tật của chúng ta. Ngài ghi lại tất cả sự giảng dậy trong Kinh Thánh”. Kể từ ngày đó, tôi khao khát được đọc Kinh Thánh, nhưng mà cả làng không ai biết mặt mũi cuốn Kinh Thánh như thế nào. Điều khó khăn là làm sao có Kinh Thánh để biết về Chúa Giê Su trong khi trên phạm vi toàn quốc, tất cả Kinh Thánh đều bị đốt và bị cấm đọc, nếu có ai đọc Kinh Thánh mà bị bắt quả tang, họ sẽ bị đánh đập tàn tệ và sẽ bị tra khảo công khai ở giữa dân làng.

Không sợ hãi, cậu nông dân Yun, 16 tuổi, học lực mới đến trình độ lớp ba trường làng, ngày đêm ăn chay, cầu nguyện kêu nài xin Chúa ban cho một cuốn Kinh Thánh, anh khẩn khoản đến mức quên ăn, quên ngủ, sau mấy tháng cầu nguyện Chúa thúc giục một cụ già được thị kiến, dù cụ ở rất xa làng của Yun và chưa hề quen biết, cụ liền đào cuốn Kinh Thánh đã chôn dưới mặt đất, nằm trong một cái lon, dấu diếm đã nhiều năm, moi sách lên và lặn lội đến làng của Yun, gõ cửa đúng ngay căn nhà Yun đang ở và trao cho anh quyển sách. Kể từ sau sự huyền nhiệm xảy ra đó, Yun biết rằng Lời ghi trong Kinh Thánh chính là Lời Chúa nói với anh. Anh không rời xa quyển sách thánh, lúc ngủ anh đặt sách trên ngực, lúc đi cầy cấy anh buộc sách vào trong người. Hàng ngày từ sáng sớm tới chiều tối Yun say sưa ngấu nghiến đọc quyển Kinh Thánh. Anh cố gắng học thuộc lòng mỗi ngày một chương sách Tân Ước, sau 28 ngày, anh thuộc lòng sách thánh Mát Thêu, tiếp tục học thuộc sách Công Vụ Tông Đồ. Khi đọc đến đoạn Công Vụ Tông Đồ chương 1, câu 8:

“…nhưng các ngươi sẽ chịu lấy quyền lực Thánh thần đến trên các ngươi. Và các ngươi sẽ là chứng tá của ta ở Yêrusalem, trong toàn cõi Yuđê và Samari, và cho đến mút cùng cõi đất”.

Yun kể:

– Đây là khoảnh khắc quyết định của đời tôi, tôi ước ao hiểu được Lời Chúa có ý nghĩa gì và tôi cầu nguyện “Con cần quyền năng của Chúa Thánh Thần. Con muốn làm chứng cho Chúa”. Sau khi cầu xin thần khí Chúa, tôi được Chúa ban ơn, có một niềm vui chan hòa trong lòng, tình yêu Chúa bao phủ tràn ngập tâm hồn tôi, tôi bật lên lời ca ngợi Chúa dù trước đó tôi không biết hát hò gì. Sau này, tôi ghi lại lời những bát hát và cho đến hôm nay các bài này vẫn còn được lan truyền, được hát lên trong các nhà thờ.

Chúa ban cho anh Yun phép rửa trong Chúa Thánh Thần, rồi Ngài sắp xếp cho anh Yun, dù mới có mười sáu tuổi, đi từ làng này sang làng khác, kết hợp với một vài người địa phương, hàng đêm lén lút quy tụ bà con dân làng lại, rồi anh đọc thuộc lòng cho nghe về Sách Tin Mừng Mát Thêu, hát thánh ca trong đêm nhóm cầu nguyện đầu, qua đêm kế tiếp anh cũng làm như vậy với phần đọc thuộc lòng Sách Công Vụ Tông Đồ, có những lần buổi nhóm say sưa kéo dài thời gian đến gần như suốt đêm. Đã có sức mạnh của Lời Chúa và vinh quang Chúa trong buổi hát ca ngợi vì mỗi lần như vậy, Chúa dục lòng, hàng tá người quỳ xuống, họ thống hối ăn năn tội lỗi và xin được trọn đời sống theo ý Chúa. Có thật nhiều dân trong các làng tin yêu Chúa, tuy nhiên càng có nhiều người tin Chúa thì chính quyền càng gia tăng theo dõi, bắt bớ. Họ cần tìm cho ra ai là người truyền bá “mê tín dị đoan” vì trước đây không hề có lấy một người theo đạo Chúa. Anh Yun bị bắt lần đầu tiên vào năm mười bẩy tuổi, sau đó là những năm tháng tù đầy, vượt ngục, chạy trốn, bị Công An rượt đuổi xảy ra liên tiếp ở các nơi anh đến truyền đạo, anh cũng không dám quay về nhà vì luôn có công an rình rập ở nhà.

Chúa an ủi anh rất nhiều, càng bị khốn khó công việc truyền bá Tin Mừng Chúa càng phát triển, lúc ban đầu từ năm 1978 đến 1989 đa số người theo Chúa là nông dân, nhưng về sau kể từ năm 1989, có nhiều học sinh, sinh viên và công chức tin nhận Chúa. Bob Fu, thủ lãnh sinh viên phong trào dân chủ Thiên An Môn sau này lưu vong và sống ở Texas Hoa Kỳ cho biết, chỉ tính riêng tại đại học Bắc Kinh, (nơi quy tụ những sinh viên ưu tú, taì giỏi hạng nhất Trung Quốc) vào thời kỳ 1989 đã có 18 nhóm Kinh Thánh cầu nguyện của sinh viên, sinh hoạt hàng tuần.

             Yavê là ánh sáng và sức tế độ cho tôi, nào tôi phải sợ ai?

            Yavê làm đồn trú cho kiếp sinh tôi, nào tôi phải khiếp vì ai? (Thánh vịnh 27:1)

 Anh Yun đi khắp nơi, anh tổ chức rất nhiều buổi nhóm sốt sắng ở nhiều tỉnh thành: An Huy,Hà Nam, thủ phủ Trịnh Châu, Chiết Giang, Thiểm Tây nơi có cố đô Thiên An, Cát Lâm … , theo ơn Chúa soi dẫn, anh bí mật huấn luyện cho các thanh niên trẻ về Kinh Thánh, trại huấn luyện là các hang động trên núi cao, trại viên học thuộc lòng một chương Kinh Thánh Tân Ước mỗi ngày.

Chúa rộng ban ơn đổi mới đời sống cho nhiều người biết tin nhận Ngài. Qua các buổi nhóm Ca Ngợi và Cầu Nguyện, Chúa chữa lành nhiều bệnh tật, người què được bước đi, người điếc được nghe rõ, người mù được sáng mắt, người bị quỉ ám được giải thoát, có cả những cán bộ cao tuổi Đảng, họ được Chúa ban ơn đổi mới, họ quyết định từ bỏ Đảng Cộng Sản để đi làm chứng về Chúa. Trong giai đoạn bùng cháy ơn Chúa Thánh Thần, đi đến đâu, anh Yun cũng gặp được đám đông có khi lên đến hai ngàn người (ở Tỉnh An Huy) khao khát tìm kiếm Chúa, họ ái mộ anh như một đại diện của Chúa và vây quanh, họ bao vây mong đụng chạm vào y phục của anh vì tin rằng Chúa sẽ ban ơn cho họ qua vị đại diện là Yun. Càng tiến sâu trong tình yêu Chúa, gia đình Yun càng bị bách hại nặng nề hơn. Yun vào tù, trốn tù nhiều lần, mỗi lần bị bắt lại, anh chịu đựng sự tra tấn nhiều cách khủng khiếp hơn trước, hình phạt bao gồm, cùm khóa chân tay và đánh nhừ tử, đau đớn như chết đi sống lại nhiều lần, dùng roi điện cường độ mạnh nhất chích vào lưỡi, bắt bò lặn chìm qua hầm phân lớn của cả trại tù nơi có hàng triệu giòi bọ lúc nhúc, đâm kim tiêm, loại có đường kính lớn nhất vào kẽ mười móng tay, kẽ mười móng chân làm ra các cơn đau chấn động, nghiền buốt tận óc tủy cho đến lúc ngất xỉu, ném ra ngoài trời lạnh, đá dập phổi, đánh bể xương cả hai chân, cho tù hình sự ném anh vào cầu tiêu, tiểu tiện lên người và đánh hội đồng…  Ngay cả những lần bị bắt ở trong tù anh cũng cảm hóa được nhiều tù nhân hình sự rất hung dữ quay về với Chúa, trong số phải kể cả hai tù ăng ten, gián điệp có nhiệm vụ bí mật báo cáo thái độ của anh cho Công An Trung Quốc, anh làm chứng và giúp một số cán bộ cai tù được nhận biết tình yêu của Chúa, cũng giống như sự sai đi cho thánh hồng y Nguyễn văn Thuận vào trại tù ở Việt Nam, Chúa có ý định rất rõ ràng khi gởi  các môn đệ xuất xắc nhất “đi làm mục vụ trong nhà tù Cộng Sản”, kết quả là có nhiều linh hồn lên đến con số trăm được ơn Chúa, nhóm người mà Chúa muốn cứu nhất đã được ơn quay về làm con cái Chúa, chương trình của Chúa thật tuyệt diệu! 

Một vài hình ảnh có tính tham khảo về các trại tù ở Trung Quốc:

             Một vài cách điều tra dùng nhục hình tiêu biểu trong nhà tù Trung Quốc:

                                                                                                                                            Trong một trại tù nọ anh rất thích trò chuyện với linh mục Công Giáo tên là Yu bị án mười năm lao động khổ sai vì trung thành với Chúa và Đức Thánh Cha. Về sau khi ra tù, Cha Yu đã đến thăm gia đình anh Yun và trở thành một người bạn của cả gia đình anh.  

Trong lần tù tội cuối cùng, năm 1997, ở độ tuổi 39, anh bị gởi tới nhà tù tăng cường an ninh tối đa, trại tù số một, thành phố Trịnh Châu. Trong lich sử nhà tù này, chưa hề tù nhân nào có thể vượt ngục, quả thực điều này đúng, vì việc đầu tiên là cán bộ công an tỉnh và cán bộ an ninh trung ương trong nhiều ngày thay nhau đánh dập xương cả hai chân từ đầu gối đến bàn chân để anh không thể trốn tù, đau đớn quá đỗi không còn sức chịu đựng, anh xin Chúa cứu mình qua cơn thử thách. Chúa giải thoát anh một cách hy hữu cũng như Thánh Phê rô xưa, trong khoảnh khác, Chúa giúp cho chân anh lành mạnh, không còn đau đớn, có thể đứng lên tự mặc quần áo, đi được, không cần người khiêng vác trên lưng nữa, trong lúc anh đang cầu nguyện, Chúa cho anh thị kiến với hình ảnh thoát được về nhà rồi có chị ở bên cạnh chăm sóc vết thương chân, anh mạnh dạn phó linh hồn cho Chúa vì biết rằng, anh có thể bị bắn chết ngay tại mỗi trạm canh cổng của trại giam, anh can đảm ra đi, bước qua 4 lần cửa được canh gác nghiêm nhặt bên trong, bên ngoài, từ lầu 3 xuống tầng trệt, cán bộ  lính canh, đứng nhìn trừng trừng mà không thấy anh bước qua, vượt hành lang, vào sân trại vào lúc hơn 8 giờ sáng khi có đông lính canh, cán bộ, cai tù đi lại làm việc mà không ai nhìn thấy anh kể cả lính vũ trang trên tháp canh gần cổng chánh, giống như một người vô hình anh bước qua cổng chánh ra đường và đi taxi đến nhà một giáo dân an toàn, sau đó, Chúa làm một cơn mưa bão kéo mây đen đặc, tối mờ nhờ đó, anh có thể đạp xe đến một điểm trốn an toàn chờ vượt biên qua nước Đức. Chúa Thánh Thần phối hợp nhịp nhàng với thị kiến cho Chị Yun biết anh sẽ thoát ngục, thị kiến cho một giáo dân chủ nhà tiếp nhận anh và cho anh ẩn núp, thị kiến cho mưa bão tối đen xóa hết dấu vết để đoàn quân công an, bộ đội đi lùng sục khắp thành phố, họ dùng nhiều đàn chó thám thính mà không ngửi thấy dấu vết của người tù trốn trại. Chúa tiếp tục giúp anh qua phi trường Bắc Kinh, phi trường Frankfurt với hộ chiếu của người khác mà không bị bắt lại và trả về nhà tù. Cho tới hôm nay, tài liệu điều tra về cuộc vượt ngục của chính quyền Cộng Sản đã kết luận, “đương sự vượt ngục mà không có sự đồng lõa của người trong trại giam”.                             

Vượt thoát khỏi Trung Quốc năm 1997, đang cư ngụ ở nước Đức, cho đến ngày hôm nay, Anh Yun đang tiếp tục đi khắp nơi trên thế giới, nhất là ở Hoa Kỳ để làm chứng cho Chúa, trên mạng Youtube có ghi lại các buổi làm chứng ở các nhà thờ.

Cuốn tự truyện “Người của Thiên Đàng – The Heavenly Man” của anh Yun và Paul Hattaway phát hành ở nước Anh vào năm 2002, tiếp tục được in lại nhiều lần, được các nhà xuất bản Âu, Á phiên dịch, phát hành với gần 50 ngôn ngữ trong đó có cả tiếng Mông Cổ, Mã lai, Thái và tiếng Việt. Sách đã được bán ra trên một triệu cuốn, được độc giả khắp thế giới tìm đọc, Bạn có thể tìm mua bản Anh ngữ ở mạng Amazon, để biết thêm về các điều kỳ diệu khác Chúa đã làm trên cuộc đời của anh Yun kể cả cuộc tuyệt thực nhịn ăn uống kéo dài 72 ngày trong tù mà không chết, thông thường thân thể con người chỉ cần nhịn uống nước uống ba, bốn ngày là sinh lực kiệt quệ, ngưng thở. https://www.amazon.com/Heavenly-Man-Remarkable-Chinese-Christian/dp/082546207X

        Vâng, Người đã thử thách chúng tôi, lạy Chúa.

      Người thí luyện chúng tôi như bạc luyện lò,

      Người đã xô chúng tôi sa tròng sa lưới, để cho lận đận thúc luôn bên sườn.

            Người để đứa phàm nhân cỡi ngựa đi trên đầu chúng tôi,

           chúng tôi phải ngang qua lửa cùng nước.

      Nhưng rồi Người lại cho qua khỏi, thở ra khoan khoái

      Tôi sẽ tiến vào nhà Người với lễ toàn thiêu,

      với Người, tôi sẽ trọn lời khấn dâng… (Thánh Vịnh 66: 10-13)

Kết: Cám ơn Chúa đã ban cho Giáo Hội các nhà truyền giáo thời đại với đức tin mạnh mẽ, hy sinh không tiếc mạng sống, có phong cách độc đáo như ở Trung Quốc. 

Xin Chúa thương đến các con cái Chúa ở các nước chìm đắm trong chủ nghĩa Cộng Sản  

Con người chỉ vĩ đại khi cầu nguyện

Con người chỉ vĩ đại khi cầu nguyện

Federic Ozanam, nhà hoạt động xã hội nổi tiếng của Giáo Hội Pháp vào cuối thế kỷ 19 đã trải qua một cơn khủng hoảng Đức Tin trầm trọng lúc còn là một sinh viên đại học.

Một hôm, để tìm một chút thanh thản cho tâm hồn, anh bước vào một ngôi thánh đường cổ ở Paris  Đứng cuối Nhà Thờ, anh nhìn thấy một bóng đen đang quỳ cầu nguyện cách sốt sắng ở dãy ghế đầu. Đến gần, chàng sinh viên mới nhận ra người đang cầu nguyện ấy không ai khác hơn là nhà bác học Ampère.

Anh đứng lặng lẽ một lúc để theo dõi cử chỉ của nhà bác học. Và khi vừa đứng lên ra khỏi giáo đường, người sinh viên đã theo gót ông về cho đến phòng làm việc của ông.

Thấy chàng thanh niên đang đứng trước cửa phòng với dáng vẻ rụt rè, nhà bác học liền lên tiếng hỏi: “Anh bạn trẻ, anh cần gì đó? Tôi có thể giúp anh giải một bài toán vật lý nào không?”

Chàng thanh niên đáp một cách nhỏ nhẹ: “Thưa Thầy, con là một sinh viên khoa văn chương. Con dốt khoa học lắm, xin phép Thầy cho con hỏi một vấn đề liên quan đến Đức Tin!”

Nhà bác học mỉm cười cách khiêm tốn: “Anh lầm rồi, Đức Tin là môn yếu nhất của tôi. Nhưng nếu được giúp anh điều gì, tôi cũng cảm thấy hân hạnh lắm?”

Chàng sinh viên liền hỏi: “Thưa Thầy, có thể vừa là một bác học vĩ đại, vừa là một tín hữu cầu nguyện bình thường không?” Nhà bác học ngỡ ngàng trước câu hỏi của người sinh viên, và với đôi môi run rẩy đầy cảm xúc, ông trả lời:

“Con ơi, chúng ta chỉ vĩ đại khi chúng ta cầu nguyện mà thôi!”

&   &   &

Louis Pasteur – Nhà bác học thiên tài – Một tâm hồn khiêm tốn và cầu nguyện

Trên tuyến xe lửa đi về Paris, có một thanh niên trẻ ngồi cạnh một cụ già. Chỉ ít phút sau khi đoàn tàu chuyển bánh, cụ rút trong túi áo ra một cỗ tràng hạt và chìm đắm trong cầu nguyện. Người sinh viên quan sát cử chỉ của cụ già với vẻ bực bội.

Sau một hồi lâu, xem chừng không thể chịu nổi, anh ta mạnh dạn lên tiếng: “Thưa Ông, Ông vẫn còn tin vào những chuyện nhảm nhí thế à?”

Cụ già thản nhiên trả lời: “Đúng vậy, tôi vẫn tin. Còn cậu, cậu không tin sao?” Người thanh niên xấc xược trả lời: “Lúc nhỏ tôi có tin, nhưng bây giờ làm sao tôi có thể tin vào những chuyện nhảm nhí ấy được, bởi vì khoa học đã mở mắt cho tôi. Ông cứ tin tôi đi và hãy học hỏi những khám phá mới của khoa học, rồi Ông sẽ thấy rằng những gì Ông tin từ trước đến nay đều là những chuyện nhảm nhí hết.”

Cụ già nhỏ nhẹ hỏi người sinh viên: “Cậu vừa nói về những khám phá mới của khoa học, liệu cậu có thể giúp tôi hiểu được chúng không?” Người sinh viên nhanh nhẩu trả lời: “Ông cứ cho tôi địa chỉ, tôi sẽ gởi sách vở đến cho ông, rồi ông sẽ say mê đi vào thế giới phong phú của khoa học cho mà xem.”
 
Cụ già từ từ rút ra trong túi ra một tấm danh thiếp và trao cho người sinh viên. Đọc qua tấm danh thiếp, người sinh viên bỗng xấu hổ đến tái mặt và lặng lẽ rời sang toa khác. Bởi vì trên tấm danh thiếp ấy có ghi: Louis Pasteur, viện nghiên cứu khoa học Paris

From: ngocnga_12 & NguyenNThu

Đời tôi sa mạc, ôi sa mạc,

Suy Tư Chúa nhật thứ 26 thường niên năm B 30/9/2018

(Mc 9: 38-43, 45, 47-48)

Khi ấy, ông Gioan nói với Đức Giêsu:

Thưa Thầy, chúng con thấy có người lấy danh Thầy mà trừ quỷ. Chúng con đã cố ngăn cản, vì người ấy không theo chúng ta.” Đức Giê-su bảo: “Đừng ngăn cản người ta, vì không ai lấy danh nghĩa Thầy mà làm phép lạ, rồi ngay sau đó lại có thể nói xấu về Thầy. Quả thật, ai không chống lại chúng ta là ủng hộ chúng ta.

Ai cho anh em uống một chén nước vì lẽ anh em thuộc về Đấng Ki-tô, thì Thầy bảo thật anh em, người đó sẽ không mất phần thưởng đâu.

Ai làm cớ cho một trong những kẻ bé mọn đang tin đây phải sa ngã, thì thà buộc cối đá lớn vào cổ nó mà ném xuống biển còn hơn. Nếu tay anh làm cớ cho anh sa ngã, thì chặt nó đi; thà cụt một tay mà được vào cõi sống còn hơn là có đủ hai tay mà phải sa hoả ngục, phải vào lửa không hề tắt. Nếu chân anh làm cớ cho anh sa ngã, thì chặt nó đi; thà cụt một chân mà được vào cõi sống còn hơn là có đủ hai chân mà bị ném vào hoả ngục. Nếu mắt anh làm cớ cho anh sa ngã, thì móc nó đi; thà chột mắt mà được vào Nước Thiên Chúa còn hơn là có đủ hai mắt mà bị ném vào hoả ngục, nơi giòi bọ không hề chết và lửa không hề tắt.”

&   &   &

 “Đời tôi sa mạc, ôi sa mạc,”

“Hoa hết thơm rồi, rượu hết say”

(dẫn từ thơ Nguyễn Bính)

 Mai Tá lược dịch.

Mới có thế, mà sao nhà thơ đã than đời sa mạc, những gió lộng? Rất nhiều thời, nhà Đạo mình nào đã sầu bi chỉ một đời như các thánh hằng khẳng định ở bài đọc, rất hôm nay.

Bài đọc 1 hôm nay, sách Dân Số kể về trường hợp người khách lạ có nhắc đến Giavê Thiên Chúa, nhưng lại không thuộc giống giòng Do thái Chúa đã chọn. Cũng vậy, trình thuật thánh Máccô nay kể về đồ đệ phản đối Thày về người khách lạ không cùng nhóm môn đồ của Chúa, nhưng vẫn thành công kình chống ác thần, để khi hỏi Thày chuyện này, đã được biết:“Ai không chống ta là ủng hộ ta.”(Mc 9: 9-10)

Nhờ có Tin Mừng, ta mới biết Chúa là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống. Và, ta tin Hội-thánh là chốn miền qua đó ta lĩnh nhận Lời Ngài, cả đến bí tích và cuộc sống của Chúa nữa. Tuy nhiên, những ai không gia nhập Hội thánh hoặc không tin vào Hội thánh, sẽ ra sao? Ơn cứu độ có sẻ san cho người ngoài thánh hội không? Ai không biết đến Tin Mừng vì thất học, hoặc vì sống ở vùng xa xôi hẻo lánh, và những người tuy nắm rõ mọi sự nhưng không tin vào Hội rất thánh thì sao? Họ, có được cứu độ không?

            Thánh Âu Tinh xưa có nói: “Ta biết Hội thánh Chúa hiện thời ở đâu, nhưng lại không rõ nơi nào Hội thánh không hiện diện. Trên tàu ông Nô-ê có nhiều thú vật xin tị nạn, có loài chẳng thể nào thích nghi được với lối sống ở trên tàu, nhưng vẫn được cứu. Nơi giòng chảy bên mạn tàu, mọi loài cá đều sống rất tốt, tuy không tị nạn trên tàu Nô-ê và vẫn sống ngoài kế hoạch của Chúa khi Ngài dựng vũ trụ.”

Thật sự thì, Chúa yêu thương hết mọi loài, không trừ một ai. Chẳng ai bị rơi rớt sống bên ngoài con tim của Ngài hết. Chúa muốn mọi loài đều được cứu. Chính Ngài đã cho đi chính mình Ngài ngõ hầu mọi loài đều ở vào danh sách những kẻ được cứu độ. Và, Thần Khí Ngài vẫn quanh quẩn ở với mọi người, chứ không chỉ những người có chân trong Hội thánh, mà thôi.

Công Đồng Vatican 2 dạy ta biết tôn trọng tự do của mọi người. Và, ta được khuyên dạy hãy thương yêu hết mọi người; bởi, có thể họ cũng sẽ là những người giúp ta đến với Chúa, rất mai sau. Nói như thế, không có nghĩa bảo: tôn giáo nào cũng như tôn giáo nào. Tức, cũng ngang bằng và giống nhau. Nhưng, Hội thánh Chúa, mới là đường chính dẫn đến Chúa, tức con đường Chúa tặng ban ơn lành cứu rỗi để ta san sẻ cho mọi dân.

Thiên Chúa không ngừng tỏ cho biết Ngài là Đấng Toàn Năng Toàn Thiện với mọi loài. Riêng loài người, được thụ hưởng cái-gọi-là “Nhân chi sơ tính bản thiện” từ Đức Chúa, nên đó còn là bằng chứng nói lên việc Chúa là Đấng đối xử tốt với mọi người, mọi loài. Người Samaritanô nhân hậu khi xưa dám cứu giúp người bị nạn bên đuờng, là ví dụ cụ thể, để ta nhận ra lòng nhân lành của Đức Chúa, nơi mọi người. Và, Chúa thực hiện “tính bản thiện” cho con người còn là bằng cứ chứng minh cho mọi người thấy Ngài vẫn hiện diện nơi con người ở thế gian.

Trình thuật hôm nay, rõ ràng mô tả Chúa không nói: “Ai không cộng tác với ta là chống ta”, nhưng Ngài bảo: “Ai không chống ta tức ở với ta.” Vế đầu là chuyện mơ hồ, hoang tưởng. Vế sau, vượt thắng sự thờ ơ, ơ hờ và hãi sợ mọi người khác. Vì hãi sợ nên con người mới để nó xâm nhập đầu óc mình, để rồi mới lật ngược lập trường sống cá thể để cương quyết sống hài hoà với hết mọi người, bất kể người đó là ai? Sống thế nào? Họ có tử tế, dễ thương không? Và, việc cuối cùng dành cho mọi người là: mình có chọn sự hoang tưởng hoặc cải biến chính mình cách chín chắn, yêu thương không? Đó là phương cách giúp ta trở nên giống con trẻ, như Tin Mừng hằng khích lệ.

Tuy thế, có người vẫn hỏi: là gì đi nữa, sống hoang tưởng hay có cải biến là sống ra sao, suốt một ngày? Cái đó còn tuỳ. Tuỳ người đi Đạo. Nhưng, câu trả lời có lẽ sẽ là: phải sống giản đơn, thuần thành, hiện thực. Không bận tâm đến những gì trừu tượng, đôi khi cũng lại hoang tưởng. Đừng cho rằng: cuộc sống là của chính mình, cho mình chứ không cho ai khác. Đừng mang trong người chỉ mỗi ảnh hình về chính mình hoặc về cung cách do mình tạo ra, cho cuộc sống. Đừng coi đó như hình thức “linh đạo” do mình sáng tạo, để mà sống.

Đã nhiều lần, người đi Đạo cũng đã nghe biết về thế giới cổ xưa có nền văn hoá Kitô-giáo, vẫn rất đẹp. Nhưng, đó không phải là con người mình. Cũng có người đi Đạo khác lại nghĩ rằng sự khôn ngoan nơi con người lan toả khắp mọi nơi; nó xâm nhập vào ảnh hình, ngẫu tượng, hình hài của những thời điểm rất khác biệt. Có người cứ liên tưởng về thế giới của thiền hành, không vọng tưởng, chẳng suy tư. Họ chỉ coi trọng tương quan với người khác, quyết xây dựng một thế giới khác thường, đặc biệt thôi.

Có người lại lập ra cho mình cung cách sống rất khác thường để rồi sủng ái, mến mộ đến độ nó trở thành hữu thể, rất dị biệt. Cũng chẳng nên phẩm bình tư duy và cung cách sống của bất cứ ai. Chẳng nên đặt khung hình để nhốt mình ở đó, mà sinh sống. Bởi tất cả vẫn ra như mù mờ, mới mẻ, đáng ta kinh ngạc. Đôi lúc có hơi nghiêm túc, nữa. Thế nên, cũng đừng quá nghiêm khắc với chính mình đến độ tự dẫn mình vào chốn tối mù, khó khăn, hoang tưởng. Nói như trình thuật thánh Máccô là nhủ rằng: hãy trở nên như con trẻ; hoặc như lông măng bay bổng qua hơi thở của Thiên Chúa.       

Khi biết rằng mình cũng lệ thuộc vào người khác. Cũng lĩnh nhận rất nhiều thứ, từ người khác, nên hãy cảm tạ họ. Và, hãy chỉ sống đời giản đơn như họ đang sống. Hãy vui hưởng cuộc sống giản đơn, như mọi người. Dù đôi lúc, mình cũng chẳng tin vào điều người nói về những điều họ tin tưởng. Trái lại, hãy cứ sống đơn sơ kiểu con trẻ, như hiện tại. Và, đừng bao giờ đặt nặng chuyện người khác có tin hay không vào mọi điều. Bởi khi sống đời giản đơn, rồi cũng sẽ nhận ra rằng có khi tính nghiêm nghị đến chết người cũng ảnh hưởng lên cuộc đời của chính mình. Dù, tính nghiêm túc ấy là do người của Hội thánh mang đến.

Sống nghiêm túc như người của Hội thánh, chưa hẳn là trở nên như con trẻ, theo đúng nghĩa. Bởi thế nên, cũng đừng rập khuôn đeo đuổi thuyết lý hoặc linh đạo kiểu “trẻ con”. Cũng đừng tìm cách sống ấu trĩ. Bởi, chẳng có ai cần phải làm như thế mới gọi là sống giản đơn. Tuy nhiên, nơi phần thâm sâu của mỗi người, vẫn còn đó tính “trẻ con”, rất ích kỷ. Thế nên, có lẽ cũng đừng tìm hiểu xem phần thâm sâu bên trong người mình là gì. Trong đời người, vẫn có người từng làm những chuyện như thế.

Có điều lạ, là: cả đến những người luôn tìm cách quan-trọng hoá, bi-đát-hoá mọi vấn đề trong đời, nhưng lại quên đi mỗi chuyện vui sống đời giản đơn với mọi người. Có sống giản đơn, mới thấy mọi chuyện trong đời đâu có gì cần phải ầm ĩ, bi đát đến như thế.  Chính vì vậy, cũng nên cười khẩy vào tất cả mọi sự, mọi chuyện tưởng chừng như ghê gớm ở trong đời.

Điều đưa ta trở về với sự thể biến cải khỏi sự vu vơ, mơ hồ, hoang tưởng ta đang suy và tưởng. Một sự thực rất dễ thấy, là: đừng quá ưu tư tạo cho mình tình huống “rối beng” để rồi không thể trở nên như con trẻ dám cười khẩy vào mọi sự. Trong lúc người lớn cứ tìm cách giáo dục con trẻ biết cách sống, thì trẻ con lại tìm cách tỏ cho người lớn biết cách để cười. Cười với hết mọi chuyện. Giả như, người người cứ ăn mặc quần áo với sắc mầu loè loẹt, không xứng hợp với tuổi tác, hoặc con người mình mà lại coi đó là chuyện tốt lành, há đó không phải là chuyện tiếu lâm chay/mặn quá đáng sao?

Trong kiếm tìm sự giản đơn để sống, cũng nên ngâm thêm lời thơ trên, rằng:

            “Đời tôi sa mạc, ôi sa mạc!

            Hoa hết thơm rồi, rượu hết say.

            Trăm sầu nghìn tủi, mình tôi chịu.

            Ba bốn năm rồi, nmăm sáu năm.”

            (Nguyễn Bính – Hoa Với Rượu)

Hoa rượu đời người, đâu sa mạc? Sa mạc đời, chỉ nơi người cứ đi tìm sự/vật rất khó để sống, có thế thôi. Hãy sống giản đơn như con trẻ, rồi sẽ vui vầy một đời, như Chúa dạy. Ngài dạy, ở nơi Tin Mừng rải khắp muôn nơi. Rất mọi thời.  

 Lm Kevin OShea DCCT biên soạn –

Mai Tá lược dịch.

Nếu, nếu một ngày không có em

Chuyện Phiếm đọc trong tuần 26 Thường niên năm B 30-9-2018

 “Nếu, nếu một ngày không có em”
Thì niềm cô đơn dài như năm tháng
Như mùa thu chết như lá thu rơi.”

(Khánh Băng – Nếu Một Ngày)

(1Côrinthô 13: 3-8)

Trần Ngọc Mười Hai

 Cứ coi là thế đi. Một ngày mà không có Em hoặc có Anh, thì ngày ấy sẽ chẳng là gì hết. Huống hồ, là tình yêu. Một ngày như thế, há nào như “mùa thu chết” hoặc cũng chỉ như ”lá thu rơithôiLá thu rơi ngày ấy, như tác giả nhạc bản “nếu một ngày” lại diễn tả thêm chữ “nếu” đầy tiếc nuối, mà rằng:

“Nếu, nếu ngày ấy mình đừng quen nhau
Thì ngày nay có đâu buồn đau
Những khi mình xa nhau có đâu buồn đau

Nhớ, nhớ một chiều em đến thăm
Ngoài trời mưa trời mưa không dứt
Con đường trơn ướt em đến thăm tôi
Nhớ, nhớ ngày ấy mình cầm tay nhau
Nhìn hạt mưa ướt mi
Ngày sau sẽ không còn mưa rơi, sẽ không còn mưa rơi

Thôi kỷ niệm ấy xin trả cho người
Vì ngày mai tôi sẽ xa rời kỷ niệm, đành xa rời mãi.
Trên, trên con đường sóng gió ra đi.
Vì làm trai tôi đành lỗi hẹn.
Những niềm tin sẽ không xa rời, sẽ không xa rời.

Nếu, nếu một ngày không có tôi.
Thì người yêu ơi đừng quên tôi nhé.
Xin đừng giận dỗi, xin hiểu cho tôi.
Nếu, nếu ngày ấy mình đừng yêu nhau
Thì ngày nay có đâu buồn đau
Những khi mình xa nhau có đâu buồn đau.”

(Khánh Băng – bđd) 

“Có đâu buồn đau”, lại cũng giống như trường-hợp của đấng bậc vị vọng nọ ở trời Tây, rất Nam Mỹ, từng thổ lộ về chuyện riêng tư của “ngài”, rằng:

Ngài linh mục người Brazil, Lm Antoine Teixeira đã có thư gửi Đức Phanxicô những lời sau đây: 

15 Tháng Chín, 2018

Kính gửi Đức Giáo hoàng Phanxicô,

Quả thật, ngài có lỗi! 

Đức Thánh cha có lỗi vì là một con người và không phải là một thiên thần! Đức Thánh Cha có lỗi vì khiêm tốn chấp nhận rằng mình đã sai lầm và cầu xin sự tha thứ cho chính mình và cho cả chúng con nữa. Trong khi điều này đối với nhiều người lại không thể chấp nhận được. 

Đức Thánh Cha có lỗi bởi vì ngài không muốn làm một vị thẩm phán, một con người của luật lệ, nhưng là một mẫu gương và nhân chứng của lòng thương xót. 

Đức Thánh Cha có lỗi vì đã từ bỏ truyền thống sống trong cung điện và chọn cuộc sống như những người bình thường.

 Đức Thánh Cha có lỗi vì đã khước từ sự xa hoa của [Vương cung Thánh đường] Thánh Gioan Latêranô và ưa thích viếng thăm sự nghèo khổ nơi những nhà tù, trại trẻ mồ côi, bệnh viện, vv. 

Đức Thánh Cha thật có lỗi! Đức Thánh cha ngừng hôn những đôi chân thơm tho của các vị hồng y, nhưng lại hôn bàn chân “bẩn thỉu” của những phạm nhân, phụ nữ, bệnh nhân, những tín đồ thuộc các tôn giáo khác, và những người “khác biệt”! 

Đức Thánh Cha đáng bị lên án vì đã mở cửa đón nhận những người tị nạn, và bởi trước những vấn đề đau buồn cần được giải đáp, ngài chỉ trả lời một cách đơn giản: “Tôi là ai mà dám phán xét?”

 Đức Thánh Cha đáng bị đày đọa vì thừa nhận sự yếu đuối của mình bằng cách xin chúng con cầu nguyện cho ngài, trong khi nhiều người yêu cầu Đức Thánh Cha phải giáo điều, bất khoan dung, và quan liêu.

 Kính thưa Đức Thánh Cha, ngài bị quy kết cho thật nhiều thứ tội, như “những phường phản bội,” “hạng bị dứt phép thông công,” và “kẻ lai căng,” những người nhờ Đức Thánh Cha đã tái khám phá khuôn mặt xinh đẹp của Chúa Kitô đầy dịu dàng và thương xót. 

Đức Thánh Cha có lỗi vì đã chỉ ra bản chất thực của sự việc và không ngừng nhắc nhở các giám mục rằng họ không phải là những mục tử ở sân bay, nhưng phải mang lấy “mùi chiên của họ.” 

Đức Thánh Cha có lỗi vì đã xé toạc những trang sử bất khoan dung và thứ luân lý khô khan, tàn nhẫn, và ban tặng chúng con vẻ đẹp của lòng từ bi, nhân hậu và sự chân thành.

Đức Thánh Cha có lỗi vì đã mở mắt chúng con, những người [tự cho mình] thông minh và lý lẽ, nhất là con mắt của trái tim. 

Đức Thánh Cha có lỗi vì muốn mang lấy thập giá của Giáo Hội thay vì mua vui cho những ánh mắt, bàng quan trước những nỗi đau và nước mắt của nhân loại thời đại chúng ta. 

Đức Thánh Cha có lỗi vì không chịu đựng những tội ác ghê tởm nhân danh Thiên Chúa và những người rao giảng về Chúa nhưng lại sống đối địch với Ngài. 

Đức Thánh Cha có lỗi vì do lòng thương xót, dám tìm kiếm sự thật và công lý, thay vì thinh lặng, giấu giếm, giảm thiểu hoặc bỏ qua.

 Đức Thánh Cha có lỗi vì không muốn một Giáo Hội của đặc quyền, lợi ích, và vinh quang, và dạy cho chúng con sức mạnh của việc phục vụ, sự giàu có của việc rửa chân, và sự vĩ đại của tinh thần đơn sơ. 

Đức Giáo hoàng Phanxicô, hãy để người ta đổ lỗi cho ngài những “tội ác” này. Đức Thánh Cha biết rằng bên cạnh ngài là vô số những anh chị em nam nữ không phải là thiên thần như ngài, nhưng là những người yếu đuối, những tội nhân, những người hy vọng Chúa Kitô gìn giữ chúng ta và cho chúng ta.

 Đức Thánh Cha nên nhớ rằng có một làn sóng rất lớn của những tâm hồn luôn cầu nguyện cho Ngài mọi giây phút; vì Đức Thánh Cha, họ sẵn sàng mạo hiểm cả mạng sống mình. Họ bước theo Đức Thánh Cha như đoàn chiên tin tưởng vào mục tử của họ.

 Chính Đức Kitô đã ủy thác nơi Đức Thánh Cha sứ mệnh chèo lái “con thuyền” Hội Thánh. Ngài sẽ ban thêm sức mạnh cho Đức Thánh Cha theo đuổi con đường “tội lỗi” này, con đường đã được thực hiện thật tốt trên thế giới và trong Giáo Hội.

 Kính thưa Đức Thánh Cha, cảm ơn ngài đã trở nên “tội lỗi” để làm cho Hội Thánh nên xinh đẹp như mong ước của Chúa Giêsu.” (Lm. GB. Cao Xuân Hưng, Gp. Vinh biên dịch từ bản tiếng Anh, Nguồn: http://www.cbcplaiko.org/2018/09/13/from-a-priest-in-brazil-to-the-pope/)

Chuyện đời thường hoặc riêng tư nhà Đạo của một linh mục, cũng na ná hơi bị giống chuyện của người ngoài, ở đời thường. Nói na ná, là bởi nó chỉ giống đôi chút khía cạnh nào đó, rất nho nhỏ. Na ná, như câu truyện kể cũng rất nhẹ như bên dưới:

“Truyện rằng:

 Anh nọ có lần được dịp nói khoác:

–Tôi được thấy có nhiều cái lạ lắm, nhưng lạ nhất là có một chiếc thuyền, dài không lấy gì mà đo cho xiết, có người thuở hai mươi tuổi đứng ở đằng mũi bắt đầu đi ra đằng lái, đi đến giữa cột buồm thì đã già, râu tóc bạc phơ, cứ thế đi, đến chết vẫn chưa tới lái. Trong làng cũng có một anh nói khoác nổi tiếng, nghe vậy liền kể ngay một câu chuyện:

 –Như thế đã lấy gì làm lạ! Tôi đi rừng thấy có một cây cao ghê gớm. Có một con chim đậu trên cành cây ấy, đánh rơi một hạt đa. Hạt đa rơi xuống lưng chừng gặp mưa, gặp bụi rồi nảy mầm, đâm rễ thành cây đa. Cây đa lớn lên, sinh hoa, kết quả, hạt đa ở cây đa đó lại rơi vãi ra, đâm chồi, nẩy lộc thành nhiều cây đa con, đa con cũng như cây đa mẹ lớn lên, sinh hoa kết quả, lại nẩy ra hàng đàn cây đa cháu. Cứ thế mãi cho đến khi rơi tới đất thì đã bảy đời tất cả.

Anh đi xa về, nghe thế gân cổ lên cãi:

 –Làm gì có cây cao thế! Chả ai tin được.

Anh kia cười ranh mãnh:

–Ấy không có cây cao như thế thì lấy đâu ra gỗ mà đóng chiếc thuyền của anh? (Truyện kể rút từ điện thư vi tính, mới đây thôi.)

Truyện vui vi tính, thật ra, nhiều lúc cũng chẳng ăn nhập đề tài được bàn luận hoặc kể lể. Thế nhưng, đã gọi là truyện kể để minh-họa đề tài mình đang nói hoặc sắp nói, thì “giữa hai hàng chữ” vẫn có ý-tưởng sao đó, có thể xảy ra ngay ở đây vào một lúc, giống thế thôi. Thật ra thì, có kể truyện vui, cũng chỉ cốt để đề tài triết-lý/thần-học được dễ chịu khi người kể cứ bỏ thì giờ ra mà tìm kiếm.

Thế đó, còn là tâm-trạng của bần đạo bầy tôi đây, hôm nay, những muốn đề-cập đến một thứ phiếm luận đạo đời, rất khô khan, thôi. Kể rồi, nay mời bạn/mời tôi, ta trở về với  ca-từ nhạc-bản làm nền ở trên mà đi vào đoạn kết, cho bớt phiền. Ca-từ lại cứ hát những lời rằng:

“Nếu, nếu một ngày không có tôi
Thì người yêu ơi đừng quên tôi nhé
Xin đừng giận dỗi, xin hiểu cho tôi

Nếu, nếu ngày ấy mình đừng yêu nhau
Thì ngày nay có đâu buồn đau
Những khi mình xa nhau có đâu buồn đau.”

(Khánh Băng – bđd)

“Một ngày, không có tôi”, và cả những người anh, người chị ở thế-trần này, lại sẽ giống như tình-huống rất đạo/đời, mà thôi. Tình-huống những một ngày như thế ấy, còn là và vẫn là những tình và huống rất căn-cơ như lời lẽ bậc thánh hiền từng thổ-lộ hôm trước, nay ta nghe lại mà rằng:

“Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp ra mà bố thí,

hay nộp cả thân xác mình để chịu thiêu đốt,

mà không có tình mến thương,

thì cũng chẳng ích lợi gì cho tôi.

Thương yêu, mến mộ luôn nhẫn nhục, hiền hậu,

không ghen tương,

không vênh vang,

không tự đắc,

không làm điều bất chính,

không tìm tư lợi,

không nóng giận,

không nuôi hận thù,

không mừng khi thấy sự gian ác,

nhưng vui khi thấy điều chân thật. 

Thương yêu, mến mộ tha thứ tất cả,

tin tưởng tất cả,

hy vọng tất cả,

chịu đựng tất cả.

Thương yêu, mến mộ như thế

không bao giờ lại mất đi.”

(1Côrinthô 13: 3-8)

“Không thể mất được”, đó là lời quả quyết như “đinh đóng cột”. Thứ quả quyết mà cả tôi lẫn bạn, cũng như mọi người vẫn cứ đưa ra cho mọi người biết, để còn tin. Và, khi đã tin rồi, sẽ không còn gì để thắc mắc nữa.

Thế đó, là lời thề của tôi và của bạn, của hất mọi người trong tương-quan đằm thắm rất yêu thương. Như thói thường cuộc đời người, xưa nay vẫn hoàn thế.

Thế đó, còn là ước hẹn của muôn người. Trên đường đời. 

Trần Ngọc Mười Hai  

Và những ước hẹn

Có tự bao giờ

Và bây giờ.

CẦU NGUYỆN – HƠI THỞ CỦA ĐỜI SỐNG KITÔ HỮU

CẦU NGUYỆN – HƠI THỞ CỦA ĐỜI SỐNG KITÔ HỮU

 Cuộc sống luôn đặt con người vào những suy tư bất tận về ý nghĩa cuộc đời và các mối tương quan.  Những tâm tư sâu thẳm của con người, những vấn nạn gai góc cuộc đời, những trăn trở bế tắc về cuộc sống thường đưa đẩy người ta đến một hành vi đặc thù, điều mà người ta quen gọi là “cầu nguyện”.  Phải chăng cầu nguyện giúp họ giải quyết được tất cả những gì người ta cần?  Một tác giả thiêng liêng sau những trải nghiệm của mình về đời sống nội tâm đã phải thừa nhận rằng “Cầu nguyện là nhịp cầu nối kết cuộc sống vô thức với cuộc sống ý thức.  Cầu nguyện liên kết tâm trí ta với tâm hồn ta, ý chí với những đam mê của ta, khối óc với cái bụng ta.”[1]  Quả thế, cầu nguyện thực sự đưa ta đến một cảnh vực sâu xa hơn, là sống tương quan với Thượng Đế.  Kitô giáo mang trong mình mạc khải tuyệt hảo về cầu nguyện: sống tương quan thiết thân với Thiên Chúa.

Người ta thật khó có thể tìm ra một tôn giáo nào mà cầu nguyện không đóng một vai trò gì trong đời sống của họ.  Cầu nguyện được coi là mối dây liên kết giữa họ và Đấng Siêu Việt mà họ đang hướng tới.  Đối với người Kitô hữu, đời sống cầu nguyện được ví như hơi thở của cuộc sống hay là dòng máu chuyển lưu trong cơ thể.  Cầu nguyện là cách thế để hiện thực hoá tất cả chân lý đức tin đầy phong phú mà họ được lãnh nhận.  Sống trong tâm tình cầu nguyện là sống mật thiết với Thiên Chúa và được lớn lên trong tương quan với Người.  Vì thế, cầu nguyện không chỉ dừng lại ở nơi mình nhưng còn trải rộng mình ra với mọi chiều kích, mọi mối tương quan của cuộc sống.  Tương quan cốt yếu là với Thiên Chúa, Đấng đã thông chia cho con người tất cả và mời gọi họ đi vào mầu nhiệm của chính Người.  Dĩ nhiên, tác giả thiêng liêng đã dẫn trên đây không dừng lại ở khía cạnh tâm lý đơn thuần của con người, dẫu rằng đời sống con người nói chung và tinh thần của con người nói riêng gắn liền với niềm tin tôn giáo.  Quả thế: “Cầu nguyện là cách để cho Thần Khí trao ban sự sống xuyên thấu mọi ngóc ngách của hữu thể ta.  Cầu nguyện là công cụ Thiên Chúa dùng để làm cho ta nên toàn diện, hợp nhất và bình an.”  Như vậy, vai trò cầu nguyện là điều không còn bàn cãi.

“Địa hạt” của đời sống cầu nguyện là gì?  Đây là những câu hỏi thường nảy sinh trong những người đi vào đời sống cầu nguyện.  Lẽ thường, người ta đến với Thiên Chúa để nài xin những điều thuộc nhu cầu hiện tại của mình.  Nhưng vấn đề đặt ra là có hay không việc chúng ta đã quá thực dụng trong đời sống cầu nguyện?  Ít nhiều điều này gây nên bối rối khi ta đến với Thiên Chúa.  Dĩ nhiên, những điều rất thiết yếu đối với cuộc sống của họ là phần nào nói lên sự cậy dựa vào Thiên Chúa.  Nhưng nếu bản chất cầu nguyện là một sự thông truyền bản tính của Thiên Chúa cho ta, thì hành vi cầu nguyện cũng phải xuất phát từ chính con tim khát khao Ngài để trở nên giống Ngài.  Và vì thế, khi đi vào tương quan với Chúa trong cầu nguyện, những điều mà ta ao ước cũng nên thiện hảo hơn vì nhu cầu của ta liên kết với sự lôi cuốn của Người.  Vươn lên cùng Thiên Chúa trong cầu nguyện giúp kéo ta ra khỏi những bận tâm về chính mình, khuyến khích ta rời bỏ vùng đất quen thuộc, thách thức ta bước vào một thế giới mới, thế giới không thể bị gồm tóm trong những ranh giới nhỏ bé của tâm trí và tâm hồn ta.  Vì vậy, cầu nguyện, một mặt, là một cuộc phiêu lưu trong Thế giới của Thiên Chúa rộng lớn bát ngát vô tận, đầy thú vị và mới mẻ đang chờ đợi ta khám phá.  Chính trong sự kết hợp thâm sâu với Người, ta không chỉ được mạc khải để biết thêm về Thiên Chúa nhưng về chính mình nữa.  Mặc khác, bước vào một vùng đất rộng hơn với những trải nghiệm mới có nghĩa là đi vào mối tương quan sâu xa với Thiên Chúa với con người mới.  Khi đấy, việc cầu nguyện của ta cũng trở nên phong phú và dồi dào hơn.  Như vậy, “địa hạt” của cầu nguyện hay giới hạn của việc cầu xin không còn dừng lại ở những nhu cầu riêng ta nữa, nhưng trải rộng ra mọi chiều kích, mọi mối tương quan và mọi nhu cầu thiết thực khác.  “Địa hạt” của đời sống cầu nguyện sẽ là không biên giới.

Ở lại trong Đức Giêsu, đó là tất cả ý nghĩa của việc cầu nguyện (x. Ga 15).  Khẳng định này khởi đi từ kinh nghiệm kết hợp mật thiết với con người Đức Giêsu và cầu xin Người với bản tính Thiên Chúa hiện diện.  Lời cầu nguyện đích thực bao giờ cũng ôm trọn thế giới này chứ không phải chỉ nơi ta đang sống.  Quả vậy, hàng ngày chúng ta đối diện với biết bao những vấn đề mang tính nhân sinh mà thường là những nan đề (khủng bố, bất công…).  Tuy nhiên, chúng sẽ trở nên vô cùng nặng nề nếu như ta chỉ tìm sự an toàn cho mình mà không để cho Đức Kitô đi vào trong đó.  Cơ sở của điều này chính là sự nhập thể và nhập thế của Đức Giêsu – Con Thiên Chúa một cách trọn vẹn.  Người đã trải qua kiếp sống nhân sinh với những quy luật của một con người vì thế, Người đồng cảm với từng người và với những ưu tư trong cuộc sống.  Như vậy, cầu nguyện là kết hợp đời sống của mình với đời sống và giáo huấn của Đức Giêsu, chính là việc đi vào tương quan mật thiết với Thiên Chúa là Cha.  Vì Đức Giêsu một mặt mạc khải cho ta về Cha, mặt khác, Người chia sẻ cho ta kinh nghiệm gặp gỡ và sống tương quan với Người.

Kiếp sống làm người không ai có thể đứng ngoài kinh nghiệm về những ưu tư và trăn trở của cuộc sống hàng ngày trong các mối liên hệ của đời sống.  Sống tương quan với Thiên Chúa trong cầu nguyện có thể không làm giảm đi những khó nhọc thể xác và những vấn nạn của cuộc đời.  Tuy nhiên, sức mạnh vạn năng của cầu nguyện chính là được kết hợp với Thiên Chúa ngang qua tất cả những biến cố, biến những đau khổ và vấn nạn ấy trở nên những trải nghiệm có ý nghĩa trong cuộc đời.  Cầu nguyện giúp ta đi vào những biến cố với tâm thế của lòng cậy trông và tín thác vào Thiên Chúa Quan Phòng, Đấng luôn yêu thương và chăm sóc từng người.  “Địa hạt” của Người không phải giới hạn chỉ trong sự hạn hẹp của những nhu cầu trước mắt, nhưng đi xa hơn; Ngài mời gọi con người kết hiệp với Ngài trong vinh quang thực sự và bình an vĩnh cửu.  Cuộc sống của con người sẽ phong nhiêu là điều mà cầu nguyện (một đời sống thân thiết với Chúa) sẽ hứa hẹn.  Hãy cầu nguyện với cả con người mình, xuất phát từ trái tim chân thành, cởi mở… điều kỳ diệu của cuộc sống sẽ đến.

Joseph Trần Ngọc Huynh S.J

[1] Henry M.Nouwen.

From Langthangchieutim

NẾU

Nga Nguyễn shared a post.
Image may contain: 1 person, sitting
TÌNH YÊU – ÁNH SÁNG VÀ SỰ THẬT

NẾU

Nếu Chúa không ban cho con của cải,
xin hãy cho con lòng trông cậy.

Nếu Chúa không cho con thành công,
xin hãy cho con ý chí mạnh mẽ để tiếp nhận thất bại.

Nếu Chúa không cho con sức khoẻ,
xin hãy cho con ân sủng Đức Tin.

Nếu con có làm ai tổn thuơng,
xin ban cho con sức mạnh để xin lỗi họ.

Nếu có ai làm cho con tổn thuơng,
xin cho con lòng độ luợng và sức mạnh để tha lỗi cho họ.

Martin Pistorius, một thanh niên bị hôn mê trong 12 năm đã được hồi phục nhờ niềm tin vào Chúa, nghị lực bản thân và tình yêu thương gia đình

Martin Pistorius, một thanh niên bị hôn mê trong 12 năm đã được hồi phục nhờ niềm tin vào Chúa, nghị lực bản thân và tình yêu thương gia đình

Martin Pistouris, người Nam Phi, 43 tuổi, đã chịu một hội chứng đóng băng trong suốt 12 năm. Phần lớn thời gian anh có ý thức, nhưng không có khả năng giao tiếp. Anh kể lại một chứng từ đau xót mà anh đã trải qua trong suốt những năm đau khổ này.

Martin Pistouris, người Nam Phi, 43 tuổi, đã chịu một hội chứng đóng băng trong suốt 12 năm. Phần lớn thời gian anh có ý thức, nhưng không có khả năng giao tiếp. Anh kể lại một chứng từ đau xót mà anh đã trải qua trong suốt những năm đau khổ này: được nhìn thấy, được nghe, được yêu.

Tình yêu đã cứu sống Martin Pistorius

Lúc 12 tuổi Martin bắt đầu thường xuyên than đau họng và chứng mệt mỏi mãn tính. Cha anh là ông Rodney và mẹ anh là bà Joan đưa anh đi tới nhiều bác sĩ, nhưng các bác sĩ không chuẩn đoán được bệnh. Sau đó anh không thể cử động và nói chuyện, không thể nhận ra những người xung quanh. Anh rơi vào hôn mê. Theo cha mẹ anh thì anh có thể chết bởi vì não không còn hoạt động nữa. Anh ở trong tình trạng đời sống thực vật, không còn hy vọng nào.

Ông Rodney và bà Joan sắp xếp nhà cửa để đón Martin về nhà. Họ muốn anh có một cuộc sống tiện nghi hơn có thể trong thời gian chờ chết. Đó là một thử thách rất khó khăn đối với cha mẹ anh. Thỉnh thoảng bà Joan trải qua những lúc khủng hoảng chán nản; vì thế vào một ngày, bà thì thầm vào tai con trai: «Mẹ hy vọng con mau ra đi». Bà tưởng rằng con trai không thể nghe được điều đó. Nhưng Martin càng ngày càng hiểu những gì cha mẹ làm cho anh: cử chỉ chăm sóc, âu yếm, lời nói yêu thương hay mệt mõi, chán nản…Anh chia sẻ sau khi được phục hồi: «ba năm sống đời sống thực vật, tôi bắt đầu tỉnh dậy. Tôi ý thức được mọi thứ như người bình thường”.

Anh thật sốc, khi nhận thức rằng mình bị đóng băng trong một thân xác cứng đơ cho đến hết cuộc đời. Anh nhận thấy mình không thể giao tiếp với người khác. Vậy là anh không được để ý và được yêu mến. Anh nói: “Tôi không thể cử động và cũng không nói được. Tôi không thể làm được dấu hiệu nào, âm thanh nào để  mọi người hiểu rằng tôi đã ý thức được”.

Để chiến đấu sự trầm cảm, người thanh niên quyết định dồn tất cả nghị lực tinh thần. Anh xây dựng một thế giới riêng, thế giới của những giấc mơ. Anh cảm tưởng mình là một cậu con trai-ma. Không ai để ý đến anh, không ai nhìn thấy anh. Anh trải qua thời kỳ vừa phải điều chỉnh lại giờ giấc vừa quan sát những chuyển động của những bóng tối xuyên qua các bộ phận. Anh xác định vị trí những tiếng ồn, đọc lại nhịp sống của một ngày. Anh cũng thử phục hồi sự kiểm soát của não bộ.

Anh thay đổi suy nghĩ một cách tích cực, cố gắng để đem lại niềm vui cho cha mẹ, người đã phải vất vả đau khổ vì anh. Từng bước một, anh bắt đầu giao tiếp với sự giúp đỡ của một nhân viên y tế và sự hỗ trợ yêu thương không ngừng của người mẹ. Cuộc sống của anh lại một lần nữa ở bước ngoặt. Anh bắt đầu cảm thấy hữu ích. Cuối cùng, anh có thể chứng tỏ cho gia đình và những người thân thấy anh đang hiện diện, anh đang sống. Anh có thể giao tiếp được với gia đình. Mẹ của Martin đã được tái sinh với anh, bà đi từ tuyệt vọng đến việc đồng hành liên tục với con trai. Anh bắt đầu phục hồi chức năng và sớm tỏ lộ tài năng về tin học và đề nghị làm việc tại trung tâm mà anh đã lui tới trong 12 năm hôn mê, anh bày tỏ: «trở nên hữu ích là điều quan trọng nhất đối với tôi»

Nguồn hỗ trợ thực sự trong giai đoạn bị đóng băng, như anh chia sẻ: “người duy nhất tôi thực sự có thể nói chuyện là Chúa. Ngài không phải là một phần của thế giới tưởng tượng của tôi, Ngài là thật, một sự hiện diện bên trong và bên ngoài tôi”. Chính điều này đã cho anh sức mạnh, đến nỗi trong nỗi đau khổ mà anh được yêu cầu chết, luôn xãy ra một điều gì đó đẹp bất ngờ: một người lạ đến gặp anh và coi anh ta là một người có ý thức, một tiếng kêu đau đớn nhờ đó Martin cảm nhận “rằng có một nơi trên thế giới dành cho mình”.

Đối với Martin tình yêu lớn hơn tất cả. Anh đã gặp được tình yêu với Chelsea, người đã luôn động viên khuyến khích anh. Anh thấy trước cuộc sống đối với anh thất khó khăn, «nhưng tình yêu lớn hơn tất cả» vị hôn thê của anh trả lời anh như thế. Họ đã cưới nhau vài tháng sau đó. Trong lễ cưới Martin xin đọc bài ca về Đức ái của Thánh Phaolô: «Hiện nay đức tin, đức cậy và đức mến, cả ba đều tồn tại, nhưng cao trọng hơn cả là đức mến». (1Cr 13, 1-13)

Anh chia sẻ với một sự xác tín: “Cuộc sống của tôi tràn ngập ba điều này, nhưng hôm nay, tôi biết rằng tình yêu thật sự cao trọng nhất. Tôi đã từng trải với tư cách là một đứa con trai, một thanh niên trưởng thành, một người đàn ông. Với tư cách là con trai, anh trai, cháu trai và người bạn. Tôi đã thấy sợi dây liên hệ giữa con người. Tôi biết rằng chính tình yêu đã cho phép tôi vượt qua những bóng tối của cuộc sống «đời sống thực vật của tôi».

Khi được mời làm chứng cho sự “tái sinh” của mình, anh chia sẻ rằng chúng ta phải thường xuyên nhớ rằng vấn đề khuyết tật thực sự không phải là vấn đề chính, chúng chỉ là rào cản thể lý nhưng tinh thần là quan trọng vì “nếu bạn không mong đợi để thành công, sau đó bạn sẽ không bao giờ làm gì được. Đây là bí mật liên tục của mỗi bước. Đó là một mối quan hệ, một tình yêu luôn cứu rỗi tôi”. (Aleteia13-4- 2018)

Ngọc Yến 

Radio Vatican

VÌ SAO TÔI TIN VÀO THIÊN CHÚA

VÌ SAO TÔI TIN VÀO THIÊN CHÚA

 Một số tác giả tôi yêu thích là những người theo thuyết bất khả tri, những người chân thành và dũng cảm đối diện cuộc đời mà không có đức tin vào một Thiên Chúa của mình.  Hầu như họ đều khắc kỷ, những người bình an với việc có lẽ Thiên Chúa không tồn tại và có lẽ chết là hết.  Tôi thấy được điều này nơi James Hillman, một người mà tôi vô cùng ngưỡng mộ, và là người có rất nhiều điều để dạy cho các tín hữu về ý nghĩa của việc lắng nghe và tôn trọng linh hồn con người. 

Nhưng có một điều tôi không ngưỡng mộ nơi các nhà khắc kỷ bất khả tri. Dù họ dũng cảm đối diện với giả định rằng Thiên Chúa không tồn tại và chết là hết, nhưng họ lại không có cùng dũng cảm đó để đặt ra chất vấn về chuyện nếu Thiên Chúa tồn tại, và chết không phải là hết thì sẽ thế nào.  Nếu như có Thiên Chúa và nếu giáo lý của đức tin chúng ta đúng thì sao?  Họ cũng cần phải đối diện với chất vấn đó nữa.

Tôi tin rằng Thiên Chúa tồn tại, không phải bởi tôi chưa từng có chút nghi ngờ, cũng không phải bởi tôi được nuôi dạy trong đức tin với những người đã làm chứng sâu đậm cho chân lý của đức tin đó, cũng không phải bởi đại đa số nhân loại trên hành tinh này tin vào Thiên Chúa.  Tôi tin rằng một Thiên Chúa của lòng mình tồn tại vì những lý do mà tôi không thể nói rõ được: là sự tốt lành của các thánh, một hạt giống không bao giờ phôi phai trong lòng tôi, biểu hiện của đức tin trong cảm nghiệm của riêng tôi, lòng dũng cảm của các bậc tử đạo xuyên suốt dòng lịch sử, chiều sâu thăm thẳm trong giáo huấn của Chúa Giêsu, những thấu suốt sâu sắc trong các tôn giáo khác, trải nghiệm thần nghiệm của vô số người, nhận thức của chúng ta về mối liên kết với cộng đoàn các thánh và những người thân yêu đã qua đời, những lời chứng chung và riêng của hàng trăm người đã chết lâm sàng rồi được sống lại, những chuyện chúng ta trực cảm vượt ngoài mọi lý luận lô-gích, vòng tuần hoàn hồi sinh trong cuộc đời chúng ta, chiến thắng của sự thật và sự thiện trong suốt lịch sử, sự thật rằng hy vọng không bao giờ chết, sự cưỡng bách không nguôi trong chúng ta muốn được hòa giải với người khác trước khi chết, chiều sâu vô tận của trái tim con người, và việc các nhà vô thần và bất khả tri trực cảm rằng có thể điều này cũng hợp lý.  Tất cả cho tôi thấy sự hiện hữu của một Thiên Chúa sống động của tôi.

Tôi tin Thiên Chúa hiện hữu vì đức tin thành sự, ít nhất là thành sự đến mức độ của chúng ta.  Sự hiện hữu của Thiên Chúa tự chứng minh đến mức độ mà chúng ta đón nhận một cách nghiêm túc và sống cuộc đời mình dựa trên điều đó.  Nói đơn giản, chúng ta hạnh phúc và bình an đến mức độ chúng ta liều mình sống đức tin, một cách rõ ràng hay không chút nghi hoặc gì.  Những người hạnh phúc nhất mà tôi biết cũng là những người đáng kính, dễ thương, vị tha, và quảng đại nhất tôi biết.  Đây không phải tình cờ. 

Leon Bloy từng nói rằng trong đời chỉ có một nỗi buồn thực sự, đó là không được làm thánh.  Chúng ta thấy trong câu chuyện về chàng thanh niên giàu có trong Tin mừng đã từ chối lời mời của Chúa Giêsu muốn anh sống đức tin sâu sắc hơn.  Anh đã buồn rầu bỏ đi.  Dĩ nhiên, làm một vị thánh và sống buồn bã, không phải là chuyện trắng hay đen, cả hai đều có những mức độ.  Nhưng trong chuyện này có sự nối tiếp.  Chúng ta hạnh phúc hay buồn bã cũng tương xứng với mức độ chúng ta thành tín hay bất tín với những gì là độc nhất, là chân, thiện, mỹ.  Tôi biết rõ điều này trong đời mình.  Tôi hạnh phúc và bình an đến mức độ tôi đón nhận đức tin cách nghiêm túc và sống đức tin trong thành tín, càng thành tín tôi càng thấy bình an, và ngược lại.

Trong tất cả chuyện này, còn có một “luật nghiệp quả” nói cụ thể là vũ trụ trả lại cho chúng ta chính xác những gì chúng ta cho nó.  Như Chúa Giêsu đã nói, “Anh em đong bằng đấu nào sẽ được đong lại bằng đấu ấy.”  Những gì chúng ta thở ra, đến cuối cùng chính là những gì chúng ta hít vào.  Nếu chúng ta thở ra ích kỷ thì sẽ hít vào ích kỷ, nếu chúng ta thở ra cay đắng thì sẽ gặp đắng cay, nếu chúng ta thở ra tình yêu, nhân từ và tha thứ thì chúng ta sẽ nhận lại cùng mức độ đó.  Cuộc sống và vũ trụ của chúng ta có một cơ cấu yêu thương và công bằng thâm sâu, tự nhiên và không thể bàn cãi đã được viết sẵn, một cơ cấu chỉ có thể được viết nên bởi một trí tuệ thần thiêng sống động và một tâm hồn yêu thương.

Dĩ nhiên, không điều nào trong những điều này chứng minh sự hiện hữu của Thiên Chúa với những bằng chứng theo kiểu khoa học hay toán học, nhưng đâu thể tìm được Thiên Chúa bằng một thí nghiệm kinh nghiệm luận, một phương trình toán học hay một tam đoạn luận triết học. 

Chúng ta tìm thấy Thiên Chúa, rõ ràng và dứt khoát, nơi một đời sống quên mình, nhân từ, chân thành và tốt lành.  Điều này có thể có trong tôn giáo hay ngoài tôn giáo.Thầy dòng Biển Đức người Bỉ, Benoit Standaert, đã nói rằng khôn ngoan là ba sự thêm một.  Khôn ngoan là tôn trọng tri thức, tôn trọng sự chân thật và vẻ đẹp, tôn trọng mầu nhiệm.  Và điều thứ tư, khôn ngoan là tôn trọng một Đấng nào đó. 

Rev. Ron Rolheiser, OMI

From: suyniemhangngay1& ThuNNguyen

Không Hiểu… và Sợ

Không Hiểu… và Sợ

Mc 9, 30-37

“Con Người sẽ bị nộp vào tay người đời, họ sẽ giết chết Người, và ba ngày sau khi bị giết chết, Người sẽ sống lại.”

 “vì Người đang dạy các môn đệ rằng :”

Thưa Thầy Giêsu, những lời Thầy dạy xa xôi mù mịt quá

nên Thầy có dạy vài lần nữa thì các ông cũng “không hiểu” vì trong tâm trí lòng dạ các ông còn đang “đang say men chiến thắng”,

các các ông đã chứng kiến bao việc Thầy làm quá là hiển hách,

bao lời nói của Thầy làm cho các ông kinh sư và Pharisêu câm họng,

bao điều Thầy giảng dậy làm cho dân chúng há mồm trợn mắtngỡ ngàng ngạc nhiên

Thầy mà làm vua thì đất nước Do thái sẽ trở nên siêu cường quốc, chẳng đất nước nào dám hó hé và chẳng có sức mạnh nào địch nổi.

Vậy các điều Thầy dạy,các ông môn đệ “không hiểu” thì có gì ngạc nhiên đâu.

Tại sao các ông “sợ” nhỉ ?

Có phải Thầy lại “mắng” cho là “ngu muội, ngu tối” (Mc 6,52 ; 7,18) không ?

Có phải biết mình đầu óc bã đậu ruột đặc như bí mà đâm ra sợ không ?

Có phải cái “nội lực” trong Thầy mạnh quá làm thành khoảng cách nên sợ không ?

Có phải sợ Thầy không cho ngồi trên ghế cao bên tả bên hữu để cai trị trong “vương quốc” của Thầy không ?

Có phải sợ bị Thầy đuổi về không cho đi tu ý quên không cho đi theo Thầy nữa không ?

Tin Mừng ông Mác-cô cứ thẳng thừng như thế đấy. Đã không hiểu lại còn cộng sợ nữa thì thành ra “cần lù” (cù lần).

Thế mà thực tế Thầy lại dùng đến những kẻ “cù lần” nhỉ ?

“Tình yêu không biết đến sợ hãi ; trái lại, tình yêu hoàn hảo loại trừ sợ hãi, vì sợ hãi gắn liền với hình phạt và ai sợ hãi thì không đạt tới tình yêu hoàn hảo” (1Ga 4,18)

“Ai tiếp đón một em nhỏ”

người ta hay nghĩ đến em nhỏ với dáng vẻ bên ngoài như đẹp đẽ dễ thương, hồn nhiên đơn sơ thật thà, dễ bảo dễ dạy, biết vâng lời cha mẹ, chưa biết phạm tội, luôn luôn kính trọng người trên…

Nếu Tin Mừng cũng chỉ dạy bảo người ta giống trẻ nhỏ như thế thì có gì là độc đáo đâu, mà có tập sống trở lại cái thuở trẻ thơ thì cũng chỉ là ngây thơ… cụ, ngô ngố cả đám đấy thôi.

Nhưng là tiếp đón một người đói không có gì ăn, tiếp đón một người nghèo không có nhà cửa ẩn mình, không có quần áo che thân bị rét mướt…

những con người bị lệ thuộc như một đứa trẻ phải nương tựa vào cha mẹ vì nó không có khả năng đáp ứng được những nhu cầu cần thiết của bản thân nó.

“Vì danh Thầy”.

Nhiều người hiểu lầm vì danh Thầy nên vẫn cứ tuyên bố rằng tôi tha thứ cho nó là vì Chúa, nếu không vì Chúa thì tao đập vỡ sọ. Nói chung là tôi làm công làm phúc cho người ta vì Chúa…

Ôh ! một thứ “lạc đạo” buồn cười thật !

Người được tha thứ hay cho ăn cho mặc cũng chẳng vui vẻ gì vì họ lấy danh Chúa ra mà lập công cho mình thôi. Họ tha thứ như một kẻ cả, đứng ở trên để ban phát xuống.

Có khi nào yêu như Chúa yêu không ?

Có khi nào có tình yêu nhưng-không (vô điều kiện)  không ?

Có khi nào có tình yêu dâng hiến chính bản thân mình không ?

Có khi nào cho đi mà không tính toán hay vụ lợi không ?

Vì danh Thầy là trả lời những câu hỏi này đấy. Có vì danh Thầy như thế thì khi tiếp đón “người nhỏ” mới là tiếp đón chính Thầy và tiếp đón Thầy là tiếp đón chính Cha của Thầy.

“Ai muốn làm người đứng đầu, thì phải làm người rốt hết, và làm người phục vụ mọi người”.

Qua cuộc tử nạn của Đức Giêsu thì Ngài đã cho các ông thấy :

phục vụ là dâng hiến chính bản thân mình và Ngài đến trần gian giống như một trẻ nhỏ, lệ thuộc vào gia đình khi còn nhỏ…

ba năm đi rao giảng thì lệ thuộc vào người ta, họ có vui vẻ đó nhận hay từ chối… và kết thúc cuộc đời là hoàn toàn phó nộp trong tay người đời.

Một bản án bất công như chiên con bị đem đi xén lông, làm thịt…không rên la trách cứ.

 Tóm lại : Tất cả mọi chuyện kể trên chỉ được giải đáp khi diễn tiến Thầy Giêsu bị bắt, bị trói, bị đánh đòn, bị khạc nhổ vào mặt, bị đội mạo gai, bị vác thập giá… bị treo trên cây thập tự chết tất tưởi “và ba ngày sau khi bị giết chết, Người sẽ sống lại”.

Người đã tỏ mình ra cho các ông nhiều nơi nhiều cách nhiều lần khác nhau và từ đó… các ông mới À ra ! tức là đến lúc các ông thôi “không hiểu” nữa vì nay lòng dạ tâm trí đã bừng mở ra rồi.

Và cũng từ đây các ông đã trở nên những chứng nhân hùng hồn sống động và sẵn sàng hiến dâng chính mạng sống mình, bước theo con đường Thầy Giêsu đã đi.

Chẳng sợ “con ma” nào cả !

“Hỡi những kẻ ngoại tình, các người không biết rằng : yêu thế gian là ghét Thiên Chúa sao ?

Vậy ai muốn là bạn của thế gian thì tự coi mình là thù địch của Thiên Chúa”.

OTC