Nỗi Đau Của Tuổi Già – Huy Phương

Huy Phương

Ở đây, chúng ta không bàn chuyện đau nhức, cao máu, tiểu đường… nữa, vì đã có quá nhiều vị bác sĩ quan tâm tới tuổi già trên đất Mỹ này rồi.
Những loại đau trên đã có thuốc và có chính phủ Mỹ trả tiền, nhưng có những thứ đau khác không có thuốc chữa và cũng không ai kê vai gánh vác giùm.

Báo OC Register thứ sáu tuần trước có đăng tin một ông già bị người ta đem bỏ trước cổng một ngôi chùa ở thành phố Westminster.
Ông lặng lẽ ngồi trước hiên chùa suốt ngày.
Cảnh sát đến mang ông vào bệnh viện tâm thần.
Ông không có trong người bất cứ một thứ giấy tờ nào để biết được ông là ai, ở đâu.
Ông không nói một lời nào, chỉ biết lặng lẽ, đôi khi cười một mình như một người mất trí.
Ông là một người châu Á, Việt Nam cũng chưa chừng, như vậy ông không phải sinh ra ở đây, hay từ trên trời rơi xuống như cô bé Maika trong một tập phim Tiệp Khắc.
Vậy là có người chở ông tới và bỏ ông lại đây, không ai ngoài con cái hay thân thích của ông.

Lâu nay thỉnh thoảng người ta thấy có những thiếu phụ sinh con rồi đem con bỏ vào thùng rác, nhưng chưa thấy ai đem cha mẹ vứt bỏ ngoài đường.
Ông già chỉ cười vu vơ, trí nhớ của ông đã suy kiệt, nếu không ông sẽ đau khổ biết chừng nào?
Trước đây người ta kể chuyện có người chở bà mẹ già bỏ ở cây xăng, tôi không tin, tưởng là chuyện đùa, nhưng bây giờ thực sự lại có người “ đem cha bỏ chùa ”.

Cũng lại câu chuyện của một người già…
Tháng trước, trong một dịp đưa người thân đi Việt Nam, tại quầy vé China Airline ở phi trường Los Angeles tôi đã chứng kiến một cảnh khá đau lòng.
Trong khi mọi người đang xếp hàng trình vé, cân hàng thì một bà cụ người Việt cứ loay hoay lúng túng trước quầy vé với các thứ giấy tờ vương vãi, bề bộn trên sàn nhà.
Bà ngồi bệt xuống đất hết móc túi này đến túi nọ, vẻ mặt lo lắng.

Một nhân viên an ninh phi trường thấy tôi cũng là người Á Đông, ngỏ ý muốn tôi lên giúp bà cụ.
Nhân viên quầy vé cho biết bà có vé máy bay, một visa nhập cảnh Việt Nam nhưng không có passport hay thẻ xanh.
Tôi giúp bà moi từ đống giấy tờ ra chỉ thấy một cái hộ chiếu của Việt Nam cấp cách đây mười mấy năm khi bà đến Mỹ đã hết hạn và một cái ID của bà do tiểu bang Florida cấp.

Bà mới từ Florida đến phi trường LOS mấy giờ trước đây một mình và trình giấy tờ để lên máy bay đi Việt Nam.
Cuối cùng, bà cũng lên được máy bay, nhưng bà sẽ không bao giờ có thể trở lại Florida nữa vì trong tay bà không có passport của Hoa Kỳ, không thẻ xanh, không “entry permit”.
Đây là trường hợp một bà mẹ già, quê mùa bị con cái “mời khéo” về Việt Nam.

Tội nghiệp cho bà đã ngồi trên máy bay năm sáu tiếng đồng hồ để đến phi trường LAX, sắp tiếp tục chặng đường về Việt Nam nhưng không biết là mình không thể trở lại Mỹ và lòng bất nhân của con cái.
Hình ảnh bà già này cứ ám ảnh tôi mãi.
Bà vụng về, quê mùa, có lẽ cũng chẳng giúp ích được gì cho con cái mà chỉ thêm gánh nặng.

Thôi để cho bà đi, khi biết mình không trở lại Mỹ được thì chuyện đã rồi.
Tuổi bà có nằm lại trên quê hương cũng phải, sống chẳng giúp ích gì được cho ai, chết ở đây bao nhiêu thứ tốn kém.

Hai vợ chồng sang Mỹ từ hai mươi năm nay, đi làm nuôi con, mua được căn nhà đã pay off.
Khi các con đã có gia đình ra riêng thì ít năm sau ông cụ cũng qua đời.
Thấy mẹ hiu quạnh trong một căn nhà khá 1ớn, mà giá nhà đang lên, các con bàn với mẹ bán nhà đi rồi về ở với các con.
Bà mẹ bán nhà, thương con chia đều cho mỗi đứa một ít, còn dăm nghìn dắt lưng, rồi về ở với con.
Bà không biết lái xe, không biết chữ nghĩa, cũng không biết trông cháu làm homework, nên cha mẹ chúng phải nhờ người đưa đón.

Bà thích nấu ăn, gói bánh, kho cá, nhưng sợ nhà hôi hám, con cái không cho. Lúc đầu thì chẳng sao, lâu dần mẹ thành gánh nặng.
Buổi chiều, đứa con gái xô cửa trở về nhà, thấy mẹ đang gồi xem TV, nó hất hàm hỏi:
-“Có hiểu gì không mà thấy má ngồi coi suốt ngày vậy?”
Có lúc chuông điện thoại reo, đứa con nhấc máy, bên kia không biết ai hỏi gì, trước mặt bà già, nó trả lời nhát gừng:
-“Bả ấy đi khỏi rồi!”

Một bà mẹ khác, ở chung nhà với một đứa con nhưng nhờ một đứa con khác đưa đi bác sĩ.
Xong việc, nó đưa mẹ về rồi lẹ lẹ dọt xe đi làm.
Bà già vào tới cửa, móc túi mãi không tìm ra cái chìa khóa nhà. Bà không có chìa khóa, không cell phone, cũng không biết tiếng Anh, bà sợ sệt không dám gõ cửa hàng xóm.
Bà ngồi đó, trên bục cửa cho tới chiều, khi đứa con ở chung nhà đi làm về, thì bà đã kiệt sức vì khô nước, phân và nước tiểu đầy mình.

Đời xưa, người ta kể chuyện trong một gia đình, có hai vợ chồng đối xử với ông cha già đã run rẩy của mình tệ bạc, cho cha ăn trong cái “mủng dừa”.
Một hôm hai vợ chồng đi làm về thấy đứa con nhỏ của mình đang hì hục đẽo một cái gáo như thế, được cha mẹ hỏi, nó “thành thật khai báo” rằng “để dành cho cha mẹ lúc về già”.
Đâu phải ai nuôi con cũng nghĩ tới lòng cha mẹ, cũng như nhớ chuyện “trồng đậu có đậu, trồng dưa có dưa”.

Huy Phương

CẢM ƠN “CHIẾN HỮU” CỦA BA! – Tác giả: Nguyễn Xuân Hoàng

Tác giả: Nguyễn Xuân Hoàng 

Sau năm 1975, cả gia đình tôi từ Pleiku trở về quê mẹ Quảng Ngãi . Đó là những năm tháng cực kỳ khó khăn. Ruộng đã vào hợp tác . Đi làm công điểm thì nhiều nhưng cuối vụ lúa được chia rất ít. Mẹ chưa quen ruộng đồng, làm theo với người ta sức yếu nên thường đau ốm luôn. Bà từ nhỏ đi học rồi làm công chức nên cũng không biết ruộng mạ là gì. Nhà có cả thảy tám miệng ăn. Bữa đói, bữa no. Những đêm mùa đông lạnh rét dài, cái đói giày vò không ngủ được.  Để chống đói chị tôi “sáng kiến” món ” nem rau muống” : một cái bánh tráng sống nhúng nước rồi cắt làm bốn, gói được bốn cái “nem rau muống”, chấm với mắm cái.  Nhìn chị em tôi xúm xít quanh rổ rau muống, ba tôi im lặng, mắt nhìn nơi khác…Một hôm ba nói với mẹ: ” Chắc là anh phải kiếm một nghề gì đó làm thêm”. Nói là làm, dồn chút vốn liếng còn lại, vay mượn thêm một ít, ba tôi sắm chiếc xe đạp thồ.

Ngày đầu lạ nước lạ cái chưa quen khách hàng, bến bãi, ba đạp xe đi lơ ngơ suốt ngày vẫn không có khách.  Không nản lòng, hôm sau, rồi hôm sau nữa, từ sáng sớm ba đã dắt xe ra đường đến tối mịt mới về nhà. Từ ấy, ba làm nghề xe đạp thồ. Thỉnh thoảng chị em tôi đi học vẫn thường thấy ba gò lưng đạp xe trên đường, tấm áo ba mặc loang đầy mồ hôi bạc thếch. Có khi ba tôi chở khách, có khi chở mắm, chở heo hoặc chở cá từ biển Đức Lợi lên chợ Trạm, Sông Vệ. Những năm tháng ấy tuyến đường từ Đức Lợi lên chợ Trạm, Sông Vệ rất xấu. Mùa đông mưa dầm đường đầy bùn lầy, ổ gà, ổ voi. Ba và chiếc xe thồ lấm lem như trâu cui.  Mà đâu chỉ có lên chợ Trạm, Sông Vệ, ba còn chở khách đi chợ Chùa, lên tận những vùng heo hút Ba Tơ, Trà Bồng, Minh Long… Suốt 20 năm dường như ba chưa nghỉ một ngày nào.

Chị đầu tôi vào Đại học Qui Nhơn, ba tôi tất tả trên đường.  Chị kế tôi vào Đại học Sư phạm ngoại ngữ Đà Nẵng, ba tôi càng vất vả hơn. Rồi tôi và em tôi vào Đại học Tổng hợp Huế, ba tôi đã qua thời trai trẻ, người có yếu đi nhưng vẫn ngày ngày miệt mài đạp xe.  Tiền ăn học không gởi được đủ tháng cho mấy chị em, ba gởi gối đầu từng nửa tháng một. Tôi ra bưu điện Huế nhận tiền mà nhớ xé ruột gương mặt gầy gò cháy nắng của ba. Do đạp xe nặng nhọc, hai bàn chân cha bị sừng hóa, các đầu ngón biến thành hình tam giác. Ba thường lặng lẽ lấy nước muối để ngâm đôi bàn chân nứt nẻ ấy.

Mỗi bận hè về thăm nhà, ra lại trường, ba lại cặm cụi chở chị em tôi ra bến xe. Xe chạy xa rồi vẫn còn thấy dáng ba đứng nhàu úa thầm lặng bên chiếc xe đạp thồ. Không hiểu ba tôi lấy đâu ra sức lực để đạp xe ròng rã suốt 20 năm trời như vậy. Có những ngày đau ốm, cảm hàn chỉ ăn được cháo mà ba vẫn đạp xe, bởi tháng nào tiền ăn học của chị em tôi cũng tới liền liền.  Khi em út tôi vào Đại học Thủy sản Nha Trang, năm ấy ba tôi đã gần 60, sức yếu đi nhiều.  Ba nói em tôi ra trường sẽ treo xe giải nghệ. Ngày ba còn trẻ khỏe mạnh, mối đi xe của ba rất nhiều.  Đoạn sau này ba già yếu, người đi ít hơn. Ba cũng không chở nặng được nữa, nhưng cũng không nghỉ một ngày nào, chắt chiu gửi tiền nuôi em tôi ăn học.

Rồi em tôi ra trường, có việc làm, ba quyết định giải nghệ. Buổi sáng sớm ông dắt xe thồ ra ngoài sông Vệ, chăm chút rửa thật sạch. Có người muốn mua lại chiếc xe, ông chỉ lắc đầu cười. Ba thương chiếc xe – vât vô tri ấy bằng một tình cảm đặc biệt.  Ba thường gọi vui nó là ” chiến hữu” của ba. Treo chiếc xe lên xà nhà, ba buồn mấy tháng trời.

Năm rồi tôi về thăm nhà, ba khoe “Gia đình mình vừa được công nhận là gia đình hiếu học tiêu biểu”. Tôi cầm tấm bằng lớn bằng bìa cuốn vở học sinh ba đưa mà thấy lòng nặng trĩu. Nhìn lên xà nhà, “Chiến hữu” của ba vẫn còn đó với những chiếc căm đã gỉ rét, ghiđông sạm đen, mạng nhện giăng đầy khung xe. Ba cười bảo ” Chiếc xe bây giờ nó cũng già nua lụm cụm như ba”. 20 năm trời, ba tôi đã dùng nó để “thồ” năm chị em tôi đến giảng đường đại học.  Ừ, nếu có gia huy của gia đình, có lẽ gia huy của gia đình tôi sẽ là hình ảnh cách điệu một chiếc xe đạp thồ – ” Chiến hữu” thân thiết của ba.

Nói vui vậy mà lòng rưng rưng.  20 năm, 50 cây số trung bình một ngày, vị chi là bốn vạn cây số mà ba đã đi. Viết những dòng này, cho con thay mặt năm chị em cảm ơn ba 20 mươi năm trời nhọc nhằn vì chị em con. Và xin cảm ơn “CHIẾN HỮU” của ba.
N.X.H

CẬU TÔI – NGÔ TRƯỜNG AN-Truyện ngắn

NGÔ TRƯỜNG AN

Nhân chuyện lùm xùm sùng bái lãnh tụ của ông võ sư mấy ngày qua. Nay, mình kể chuyện ông cậu của mình, cũng một thời tôn thờ lãnh tụ khủng khiếp cho đến… năm 2005. (Lúc đó Internet cũng chưa phổ biến). Chuyện là vầy.

Cậu quê Quảng Ngãi, có vợ và ba đứa con. Năm 1954 cậu tập kết ra Bắc, mãi đến năm 1978 cậu mới về lại quê.

Mặc dù thống nhất đất nước năm 1975, nhưng cậu không hồi hương được là vì khi ra Bắc, cậu cưới vợ và có hai đứa con nữa. Điều này, bà vợ ở Quảng Ngãi không chấp nhận ông về sống chung. Vì vậy, sau đó ông ly dị với bà ngoài trở về sống với bà trong. Cậu nói: cuộc sống trong này sung túc hơn, đó là lý do cậu quay lại.

Cậu rất thần tượng bác Hồ. Đi đâu, ngồi đâu cậu cũng nói về bác. Những mẩu chuyện, những giai thoại không biết cậu cóp nhặt từ đâu mà mỗi lần nói về bác Hồ là cậu say sưa, huyên thuyên bất tận.

Tết năm 2005 mình về quê ngoại chúc tết. Lúc mình xuống nhà thăm cậu thì thấy cậu ngồi nói chuyện với những người hàng xóm sang chơi đầu năm. Vẫn điệp khúc về bác Hồ, cậu say sưa ca tụng.

(XEM TIẾP TRONG ATTACHMENTS KÈM THEO)

Khi khách về hết, mình hỏi cậu:

– Cậu nè, nếu bây giờ có một phép màu nào đó làm bác Hồ sống lại lãnh đạo ở miền bắc. Cũng với chính sách đưa dân vào hợp tác xã làm công ăn điểm. Cũng xếp hàng mua dầu hỏa, nước mắm, cá khô. Cũng phải xin giấy đi đường khi đến nơi khác. Cũng phải vác cuốc ra đồng khi nghe trống đánh, và cũng phải vác cuốc ra về khi nghe tiếng trống báo hiệu hết giờ làm việc. Rồi nuôi được con gà, con heo cũng phải bán cho hợp tác xã chớ không được bán cho ai khác… Đó là cuộc sống ở miền bắc sau năm 1954, do bác Hồ lãnh đạo. Vậy cậu có muốn sống lại thời đó dưới sự lãnh đạo của bác Hồ không? Cậu nói thật lòng đi! Đầu năm, đầu tháng đừng có nói dối nha cậu!

Không suy nghĩ, cậu trả lời ngay:

– Khùng điên gì muốn sống lại thời cực khổ đó mậy!

– Ủa, vậy sao cậu ca ngợi bác Hồ tài giỏi, nhân đức mà lãnh đạo để dân cực khổ vậy?

Cậu gay gắt:

– Thời đó đang chiến tranh nên phải chấp nhận cực khổ. Mầy không thể nói thế được!

– Dạ, thì con vẫn đang nói về thời ấy đấy. Nếu bây giờ cho cậu sống trong thời ông Diệm lãnh đạo ở miền nam. Thời đó người dân được quyền sở hữu đất đai. Được quyền đi lại và định cư bất cứ nơi đâu mà không cần phải xin giấy đi đường, giấy chuyển hộ khẩu, nhập hộ khẩu gì cả. Được quyền tiếp cận mọi thông tin… con nói ví dụ, ở miền bắc cậu mua được cái radio, cậu phải đăng ký với nhà nước và nhà nước chỉ cho phép cậu nghe mỗi đài của nhà nước phát thanh thôi. Còn trong nam, cậu có thể nghe bất cứ đài phát thanh nào nếu cậu muốn. Trong giai đoạn đó có rất nhiều đài quốc tế phát thanh Việt ngữ, như: BBC, ASIA, Phi Luật Tân, Trung Hoa Tự Do, Bắc Kinh… Ngoài ra, cậu có thể viết báo, viết truyện, hoặc làm thơ…mà không cần thông qua kiểm duyệt. Vậy cậu có muốn sống trong thời như thế không? Cậu nói thiệt đi!

Cậu trả lời cũng không suy nghĩ:

– Được sở hữu tài sản, được tự do đi đây đi đó mà sao không muốn? Nhưng vấn đề là mầy nói có đúng không!

Tôi xuống giọng chứng minh:

– Cậu à, khi cậu ra đi thì mợ và ba đứa em vẫn ở chung với bà ngoại. Sau đó thì mợ mới mua đất cất nhà và nuôi ba đứa con ăn học, trong đó có hai đứa đậu tú tài toàn phần. Ngôi nhà năm gian hoành tráng hôm nay được xây từ thời ông Diệm. Nếu chính sách ông Diệm, ông Thiệu cũng y chang chính sách bác Hồ, thì làm sao mợ xây được nhà và mua sắm tiện nghi như thế này phải hông cậu? Cũng bằng ấy thời gian, nhưng ngoài bắc cậu làm lụng vất vả vẫn chưa xây được nhà đúng không? Con nghe thằng Tư năm 1976 ra thăm cậu về nói, nhà ba ở như một cái chòi chăn vịt, xe đạp cũng chưa có mà đi.

Cậu vẫn chống chế:

– Nhưng bác Hồ là người lãnh đạo nhân dân đánh thắng đế quốc để giành độc lập, còn thằng Diệm chỉ là thằng rước voi về giày mả tổ!

– Cậu ơi, người lãnh đạo hơn người bình thường là ở cái tầm nhìn cậu ạ. Biết bao nhiêu nước bị đô hộ nhưng họ chẳng cần đánh nhau, rồi cuối cùng họ cũng giành được độc lập. Cậu thấy đó. Trên thế giới hiện nay chẳng còn nước nào bị đô hộ cả. Chiến thắng chẳng nói lên được điều gì khi mà sau chiến thắng ấy nhân dân lại lầm than trong cảnh đói nghèo, lạc hậu, mất tự do. Nhật Bản họ chấp nhận thua Mỹ, để rồi ngày nay họ thành cường quốc. Nếu ngày ấy, họ quyết đánh Mỹ đến người Nhật cuối cùng thì chẳng biết điều gì sẽ đến với đất nước họ hôm nay.

Cậu à, chắc cậu cũng nghe nói lại hoặc đọc báo hoặc xem phim tài liệu chứ ngoài đời làm gì gặp được bác Hồ, đúng không? Trong này bọn con cũng nghe nói ông Diệm, ông Thiệu chứ chưa ai gặp mặt bao giờ. Nhưng để biết một lãnh đạo tốt hay tồi, mình chỉ cần nhìn vào cuộc sống chung quanh mình thì hiểu. Cậu không nhất thiết phải trèo lên đầu nguồn để xem dòng nước trên ấy trong hay đục. Mà, cậu hãy nhìn dưới hạ lưu, nếu nước dưới hạ lưu đục thì nước trên đầu nguồn đục và ngược lại phải hông cậu?

Điều cuối cùng con muốn nói với cậu là, dù muốn hay không thì ông Hồ cũng là người của lịch sử và ổng đã qua đời. Vậy hãy để ông yên nghỉ chứ không nên nói nhiều về ông, một khi mình chưa hiểu tường tận.

Mình chào cậu ra về. Cậu thờ ơ gật đầu vẻ không vui. Đến tháng Chín âm lịch năm ấy mình vô dự giỗ ngoại và ghé nhà cậu, thì không thấy ảnh chân dung của bác – trước kia được treo trang trọng ở căn giữa, giờ không còn nữa.

Cậu mất năm 2014 thọ 85 tuổi.

Nhớ cậu!

NGÔ TRƯỜNG AN

18.04.2023

From: TRUONG LE

THẰNG ĐI MẤT BIỆT! ~ tác giả: Tiểu Tử ~Truyện ngắn

Thuy Tinh

~ tác giả: Tiểu Tử ~

Sáng nào, nếu trời không mưa, bà Hai cũng vắt cái khăn rằn lên vai, chụp cái nón lá đã tưa vành lên đầu, xách giỏ trầu đi ra phía vàm rạch trèo lên mô đất cao, ngồi chồm hổm vừa nhai trầu vừa nhìn qua bên kia sông, nhìn miết.

Mô đất nầy, cách đây hơn ba mươi năm -hồi thời kháng chiến chống Tây- chính tay bà và đồng bào trong xóm đã đắp lên làm ụ súng cho du kích bắn tàu Tây chạy ngoài sông Cái. Hồi đó, mô đất cao lắm. Bây giờ nó đã mòn lần nhưng vẫn còn đủ cao để bà Hai, dầu ở vị trí ngồi, vẫn nhìn thấu tuốt qua bên kia sông.

Bên kia sông là quận Gò Keo, ở đó có sở cao su của Năm Lượm, em út của bà. Bà còn nhớ rõ như in:

– Hồi nẳm, thằng Lượm làm cặp-rằng trong sở cao su của thằng tây Mi-Sên. Kế đến tây rút đi – đâu hồi một ngàn chín trăm năm mấy gì đó – thằng Mi-Sên kêu bán rẻ lại cho thằng Lượm. Thằng hên! Nó bán đi phần ruộng ông già để lại cho nó rồi chạy thêm mớ nợ, mua trọn gói sở cao su! Vậy rồi nó giàu ngang, mới tức cười!

Thường thì kể đến đây bà Hai hay ngừng lại để xỉa cục thuốc qua lại mấy lần rồi mới nói tiếp:

– Bây coi! Hồi thời ông gì đó, chỉ có Út Lượm là sắm được chiếc ca-nô tổ chảng, chạy lên chạy xuống tỉnh hà rầm. Lâu lâu còn cho mấy ông lớn mượn đi bắn le le nữa! Hồi ông nhà tao còn sống, nó hay lái ca-nô qua đây nhậu với ổng. Mẹ! Mỗi lần ca-nô nó vô tới đầu vàm rạch là nó hú còi nghe điếc con ráy, còn làm nổi sóng cho nước phóng lên bờ, bà con trong xóm ai cũng hay la ‘có ông Út qua’!

Bà thường ngừng ở đây để cười khịt khịt mà nghe sung sướng ở trong lòng, bởi vì trong ba thằng em trai, bà Hai thương thằng em út nầy nhứt. Bà hay nói:

– Thằng Lượm tuy ít học hơn hai anh của nó nhưng bụng dạ nó tốt lắm. Ăn ở có nhơn nên dân thợ trong sở cao su ai cũng thương. Hồi giàu lên rồi, nó cũng không quên ai hết. Như anh Ba của nó đi tập kết đâu tuốt ngoài bắc viết thơ về gởi gắm hết người nầy tới người kia cho nó, vậy mà nó cũng lén nuôi đàng hoàng. Còn thằng anh Tư của nó theo bên vợ làm thầy giáo ở Cần Thơ muốn mở trường tư thục gì gì đó, nó cũng mang tiền xuống giúp. Thằng tốt!

Trong làng Bình Quới nầy ai cũng biết vụ bà Hai ngày ngày ra ngồi trên mô đất nhìn miết qua bên kia sông. Chuyện xảy ra sau ‘giải phóng’, từ ngày người con trai út của bà – tên Trực – ở Sài Gòn về thăm bà và để cho hay là vợ con của Trực đã theo tàu hải quân di tản rồi, còn Trực thì phải lo khai báo với chánh quyền mới để có giấy tờ hợp lệ bởi vì Trực là sĩ quan của chế đõ cũ. Trực nói:

– Chừng có giấy tờ, con về đây ở với má. Chắc chừng vài ba bữa nửa tháng, hà!

Nghe vậy, bà Hai rất vui, têm trầu ăn liền liền! Bà nói:

– Tao chỉ có hai thằng con, mà Trời thương, thằng nào cũng được hết. Thằng Cang -thằng lớn- đi lính quốc gia. Nghe nói nó đánh giặc gan lỳ. Vậy mà không bao giờ nó nói động tới thằng cậu Ba nó ở ngoài kia. Còn thằng Trực -thằng út- thì thông minh học giỏi, vậy mà sau khi anh hai nó chết trận ở Công-tum Công-tiết gì đó, nó đang học đại học cũng bỏ học đi lính nói để trả thù cho thằng anh!

Bà hay ngừng một chút rồi mới nói tiếp, như để kết một câu chuyện:

– Bây giờ thì hết giặc rồi. Vài bữa thằng Trực về đây, tao sẽ chỉ nó lo chăm sóc cây trái vườn tược thế cho con Tư, để con nhỏ còn đi lấy chồng chớ!

Nói như vậy bởi vì mấy năm gần đây, từ ngày ông Hai nằm xuống, bà Hai hay ngã bịnh bất thường nên người em bà con ở bên quận gởi đứa con gái là cô Tư -ba mươi tuổi, chưa chông- qua ở với bà để lo cơm nước vườn tược v.v… Cô Tư kêu bà bằng Dì.

Sau khi Trực trở về Sài Gòn, một hôm đò ngang từ bên quận Gò Keo qua làng Bình Quới ngừng lại trước nhà bà Hai thả xuống một ông già lưng mang ba-lô, ốm nhom đen thui, đầu bạc trắng. Người lái đò chỉ tay nói lớn:

– Ông đi thẳng vô trong, cái nhà gạch nền đúc đó, đó!

Nghe lao xao, cô Tư nói:

– Dì Hai! Dì Hai! Có ai kìa!

Bà Hai nheo mắt nhìn, má bên trái của ông già có một nút ruồi với một sợi râu lăng quăng. Bà rớt nước mắt:

– Mầy còn sống hả Ba?

Vậy là hai chị em gặp lại nhau, vẫn nhìn ra được nhau sau hơn hai mươi năm xa cách! Út Lượm hay tin cũng xách ca-nô chạy qua thăm anh Ba, tủi tủi mừng mừng. Cô Tư dầu chưa biết ‘Cậu Ba‘ là ai nhưng trước cảnh gặp nhau đó, cô cũng nghe xúc động nước mắt chảy quanh….

Sau đó, để hàn huyên cho đã, nên ông Ba dự trù ở lại chơi thêm năm bảy hôm.

Bữa nọ lối mười giờ sáng, có tiếng ca-nô chạy xộc vô rạch. Thằng Kiên, con Út Lượm, u vào nhà, vừa thở vừa nói:

– Con qua rước bác Ba về can thiệp gắp vụ nầy, họ đang kiểm kê để tịch thâu sở cao su ở bển đó!

Ông Ba cười:

– Bây làm gì như Mỹ bỏ bom vậy?

Rồi quay qua bà Hai:

– Chị để em qua bển một chút. Em nói mấy tiếng rồi về, hà! Biểu con Tư nó nấu cho em miếng cháo gà ăn chơi!

Rồi ông xuống ca-nô qua quận. Bà Hai ở nhà đợi em. Càng lúc càng trưa, rồi đứng bóng, rồi xế bóng. Chừng đó mới thấy một chiếc xuồng nhỏ, với tiếng giầm khua nước lách chách, đâm đầu vào chân cầu thủy tạ trước nhà, ông Ba lò dò bước lên. Bà Hai và cô Tư chạy ra bươn bả:

– Ủa! Sao vậy cậu Ba? Còn ca-nô đâu?

Ông Ba lắc đầu:

– Tụi nó kiểm kê luôn rồi!

Bà Hai thở hắt ra:

– Còn thằng Út!

Ông Ba cười như mếu:

– Nhờ nó có công nuôi cách mạng nên mấy đồng chí đó giữ nó lại làm trong tổ kế hoạch, làm tổ viên thôi nhưng cũng có lương.

Bà Hai phun cốt trầu nghe cái phẹt:

– Hứ! Đồng chí với đồng rận! Lương với lậu!

Bà ngừng ở đó, nhai miếng trầu trong miệng như nhai cái tức ở trong lòng. Một lúc, bà mới nói:

– Tao tưởng mầy đi theo tụi nó mấy chục năm để làm được cái giống gì, té ra mầy cũng trớt quơ cũng bạch tuộc như mấy thằng cô hồn trôi sông lạc chợ chớ có hơn gì đâu? Hỏi chớ mầy đi theo tụi nó chi lâu vậy?

Ông Ba đốt điếu thuốc rồi ngồi bập liên miên, làm như khói thuốc có thể che cho ông đỡ ê mặt! Bà Hai xỉa cục thuốc qua lại, ấn mạnh vô răng như muốn kỳ cọ cho cái ‘lớp tức’ nó bong ra! Một lúc sau, bà nói với cô Tư, giọng thật trầm tĩnh:

– Tư! Mầy đẩy xuồng trong xẽo ra đưa cậu Ba qua sông, đi!

Cô Tư nhìn bà, ngạc nhiên. Nhưng người ngạc nhiên nhứt là ông Ba. Ông nuốt nước miếng rồi mới nói được:

– Bộ chị đuổi em hả chị Hai?

Bà Hai tằng hắng:

– Tôi đâu có đuổi! Ai mà dám đuổi cách mạng! Tôi… mời cậu ra khỏi nhà, chớ ở lại đây, thiên hạ cười tôi thúi mặt sao cậu?

Ngần ngừ một chút như định nói gì, nhưng rồi ông Ba lẳng lặng xách ba-lô cuối đầu đi thẳng ra bờ rạch, bước xuống xuồng mà nghe như trời đất ngã nghiêng chao đảo….

Thằng em đi rồi, bà Hai như người mất hồn. Tối ngày làm thinh, ngồi bó gối trên bộ ván nhỏ kê ngoài hàng hiên, vừa ăn trầu liên miên vừa nhìn đăm đăm ra phía rạch như đợi như chờ cái gì. Thấy kỳ, cô Tư hỏi:

– Bộ đợi ai sao dì Hai?

Một lúc, bà mới trả lời:

– Tao đợi thằng Trực! Nó nói nó đi năm ba bữa gì đó là về. Vậy mà đã hơn con trăng rồi sao hổng thấy bóng dáng gì hết.

Rồi bà lầm bầm:

– Thằng! Đi mất biệt!

Cô Tư nói:

– Con nghe nói…

Rồi ngừng ngang. Cô định nói là cô có nghe nói sĩ quan chế độ cũ đều bị đi cải tạo, chắc giống như đi ở tù… nhưng cô sợ dì Hai hết hồn nên cô bỏ lửng câu nói. Trong nhà, ngoài cô Tư ra, ông Út Lượm –lúc nầy lâu lâu chèo xuồng qua thăm chị Hai– cũng biết vụ ‘cải tạo’ nhưng ông không dám nói cho bà chị biết. Vì vậy, bà Hai cứ ngày ngày ngồi đợi thằng con. Và trách: «Thằng đi mất biệt!»

Mới đầu, bà còn ngồi chờ trên bộ ván hàng hiên. Thời gian sau, khi trời nắng ráo, bà hay đi tuốt ra ngoài vàm rạch lên ngồi trên mô đất để có thể nhìn thẳng qua bên kia sông. Như vậy, ‘khi nào thằng nhỏ nó về, mình thấy nó từ đằng xa, nó có đi đò, trong đám đông mình cũng nhìn ra được nó liền hà!’.

Vậy rồi ngày ngày bà ra ngồi trên mô đất, như một pho tượng. Thiên hạ trong làng đi ghe đi xuồng ngang qua, có hỏi thì bà trả lời, lúc nào cũng chỉ có một câu:

– Ợ… Tao đợi thằng đi mất biệt!

Không ai ngừng lại để hỏi tiếp coi ‘Thằng đi mất biệt’ là ai?. Riết rồi thành quen nên lâu lâu nghe có người chèo ngang qua hỏi cho lấy có: “Đợi thằng đi mất biệt hả bà Hai?”. Rồi đi tuốt….

Cái mô đất bà ngồi, bây giờ láng cón. Cỏ dại chỉ mọc cao ở dưới chân, bao quanh giống như một hàng rào. Người mẹ đợi con đó ngã bịnh rồi chết, hai năm sau. Bà nhắm mắt mà trong lòng chắc vẫn trách thằng con sao đi mất biệt. Lúc hấp hối, bà Hai còn rán thều thào:

– Bây chôn tao ở đầu vàm cho tao thấy thằng Trực trở về….

* * *

‘Thằng đi mất biệt’ được thả về sáu năm sau, nhờ học tập tốt. Đi đón Trực ở bến xe đò quận Gò Keo là ông Ba và ông Út. Ông Út, vì rầu sự nghiệp nên già khú, vẫn là công nhân nhà máy cao su. Ông Ba về thọ tang bà Hai rồi ở lại luôn Bình Quới để giữ ‘đất đai ông bà’ kẻo ‘mấy thằng ác ôn nó quen thói côn đồ đớp hết của người ta’, ổng nói như vậy! Bây giờ, ông Ba hay cười gằn, cầm cây rựa quơ quơ:

– Tụi nó có muốn vô nhà nầy phải bước qua xác của tao, nè!

Hai ông đưa Trực ra đầu vàm thăm mả bà Hai nằm cách mô đất không xa. Sau khi thắp nhang vái lạy, ông Ba kể cho Trực nghe chuyện bà Hai ngày ngày ra ngồi trên mô đất để trông ‘thằng đi mất biệt’.

Trực ngồi thụp xuống, úp mặt vào hai tay khóc ngất. Ông Ba chấp tay nói như nói trước mặt người chị:

– Chị Hai ơi! Thằng đi mất biệt của chị, nó về rồi nè!

Bỗng, mặt ông nhăn nhúm lại, giọng ông cao lên:

– Mà… thằng Trực đâu phải là thằng đi mất biệt đâu, chị Hai!

Rồi ông nấc lên, vứa đấm vào ngực vừa la lớn:

– Em mới là thằng đi mất biệt đây, chị Hai à!

Ông quì xuống ôm lấy mộ bia, gục đầu lên đó, nức nở. Cái đầu tóc trắng lắc qua lắc lại, nói lên tâm tư của một người không tìm ra đáp số cho bài toán khó.

Ông Út khom xuống, đặt tay lên vai anh bóp nhẹ:

– Anh Ba à! Anh nói được như vậy là anh đã thấy con đường về rồi đó, anh Ba!


 

Người con lai và chiếc vỏ ốc – Truyện ngắn- Hoàng Thanh

 Hoàng Thanh

Bước vào tiệm food to go, tôi thoáng thấy một phụ nữ da đen – mà tôi nghĩ ngay là người Mỹ đen hay Phi châu, đứng trước quầy thức ăn dường như đang lựa chọn. Như thường lệ, tôi đứng đợi tới phiên mình. Bỗng dưng nghe cô ta nói rất rõ ràng bằng tiếng Việt “Bán cho tui một phần cơm chiên nhỏ”, làm tôi ngạc nhiên quay lại nhìn, vì không ngờ cô ta nói tiếng Việt rành thế. Da cô này rất đen, đúng điệu là dân lai Mỹ đen chính hiệu. Khi tôi ra bàn ngồi ăn, cô gái bước đến rụt rè chỉ vào chiếc ghế bên cạnh tôi và hỏi “Tui ngồi đây được không?” Tôi gật đầu.

Trời Cali vào đông lành lạnh, ngồi gắp từng đũa mì Nam vang nóng mà nghe ấm cả lòng. Đang múc muỗng nước lèo thì chị da đen lên tiếng “Trời lạnh quá, ăn cái này ngon lắm mà không chắc bụng”. Tôi quay sang nhìn thì bắt gặp cô đen vừa đưa tay chỉ chỉ vào tô mì tôi đang ăn, vừa nói với ánh mắt có vẻ thèm thuồng. Chị đen nói với cái giọng chân chất rất nhà quê “Cơm chiên nó hổng ngon bằng nhưng nó chắc cái bụng, tui mới khiêng đồ nặng nổi”. Thấy ái ngại, tôi nói ngay “Chị ăn không, tôi kêu tặng chị một tô”. Chị đen lắc đầu “Giờ ăn hổng kịp đâu, trễ xe bus là cả tiếng nữa mới có chuyến sau”. Tôi hỏi “Chị làm gì mà phải khiêng nặng?”. Chị đáp “Tui lau chùi cầu tiêu, lau sàn nhà, chùi rửa hết tất cả phòng, sắp xếp đồ đạc lại ngay ngắn, khiêng bàn ghế, nhiều bàn ghế nặng lắm, cái gì tui cũng làm hết đó, để mười giờ người ta vô thì mọi thứ phải sạch sẽ đâu vô đó”. Rồi chị tiếp “Tui ở xa, nên 7 giờ phải dậy rồi, đi xe bus tới đây thì phải đổi xe bus khác mới tới. Nhưng đói quá nên tui phải xuống mua đồ ăn cho no bụng cái đã rồi mới lấy bus đi tiếp đến chỗ làm”. Tôi cứ nghĩ chắc chị đen này đi làm thêm overtime ngày cuối tuần, nên tôi nói “Chị làm thêm cuối tuần vậy, họ trả chị khá không?” Chị nói ngay “Tôi đâu có lãnh lương, làm cho nhà thờ mà, cái này là tui tự nguyện làm, tui làm là cho Chúa, mà tui làm nhiều năm nay rồi…”.

Vừa thấy tội nghiệp cho chị đen, tôi vừa thầm khâm phục chị đã có can đảm mà đứng chờ hai chuyến bus từ 7 giờ sáng, ngày chủ nhật – là lúc mà ai nấy đều đang ngon giấc với khí trời rất lạnh ở bên ngoài. Chị không những đã làm được điều phi thường đó, không có lương, một cách vui vẻ, mà lại từ nhiều năm qua…

Bỗng dưng tôi muốn làm quen “Chị tên gì? Mà tại sao chị lại tự nguyện làm công việc này từ bao lâu nay, nhà thờ không có người nào phụ chị sao?”. Thấy có người quan tâm, chị đen có vẻ xúc động, nỗi xúc động mà tôi linh cảm như của một con người thường bị hất hủi bỏ rơi. Chị nói nhỏ lại “Tui tên Amy, là tên Mỹ đó, còn tên Việt nam, tui không thích nó…”. Chị có tên Việt nam? “Ừa, mà tui ghét nó lắm…”. Tôi ngạc nhiên “Tại sao chị lại ghét tên mình?” Chị đen im lặng, và rồi chị kể, bằng cái giọng quê mùa mộc mạc ….

… ” Khi Má sinh ra tui thì mọi người ai cũng đã ghét tui rồi. Chỉ vì tui ra đời dưới ngôi sao xấu, bởi vì cái màu da đen đúa không sao che dấu được của tui. Tui đâu có quyền được chọn màu da gì để sinh ra, cả Má tui cũng không chọn được cho tui. Nhà tui nghèo lắm, ở ven bờ một con sông. Gia đình tui gồm có sáu người: Má và năm chị em, chị Hai, chị Ba, chị Tư , tui, rồi đến em trai Út. Mấy chị và em trai là da vàng, chỉ có tui là đen thui thôi. Nhà tui nghèo mạt rệp, cả căn nhà dột nát không có cả cái bàn hay cái giường, cái ghế. Một mình Má đi mò ốc cả ngày để bán lấy tiền mua đồ ăn cho sáu miệng ăn. Mới ba, bốn tuổi là tụi con nít đã ghét tui. Tui tên Tí, họ Mai là họ của Má, vì Ba bỏ Má từ khi Má mới có bầu tui. Tụi con nít cả đám cứ đi theo sau tui hát nhạo là “Cút về Mỹ đi con Tí đen”. Có đứa còn lấy que tre vít cứt chim, cứt gà rồi kêu cả bọn xúm lại đè tôi xuống, trét vô miệng tui, tới khi nào tui lạy, tui khóc thì tụi nó mới tha.

Năm sáu tuổi, Má cho tui với mấy chị đi học trường làng, nhưng tụi học trò khinh ghét tui lắm. Có lần tụi nó hè hội đồng tống một đống cứt gà vô miệng, tui không chống cự được nên nuốt vô cổ họng, nghe thúi ình và chua loét. Tui oẹ ra, tụi nó bóc nhét vô lại. Tui vùng vẫy, la hét. Thấy tui khóc dữ quá, mấy chị và em trai xúm lại binh, thì tụi nó đánh mấy chị, vừa đánh tụi nó vừa chửi ” Đồ Mỹ đen không cha cút về nước đen mà sống “. Lần đó tui chạy về khóc với Má sưng cả mắt. Má cứ im lặng và rồi bà cho tui nghỉ học luôn. Nhiều lúc tui thèm được đi học, thèm được chơi chung, bất cứ trò chơi nào với chúng bạn, vậy mà đứa nào cũng chê là tui đen, tui dơ, tui thúi… hổng ai thèm chơi.

Tui tủi thân lắm nên hỏi Má. Má bảo là “Ba bỏ Má từ lúc tui chưa sinh ra nữa”. Tôi ức lắm, hỏi lại “Thế Ba tên gì? Sao Má không đi tìm?”. Má im lặng, rồi Má khóc. Tui thương Má quá, và tui ghét Ba lắm. Tui thề sẽ có một ngày tui tìm gặp Ba và hỏi Ba cho ra lẽ…”. Im lặng. Chị đen tiếp “Tại Ba mà giờ này tui vẫn chưa biết đọc, biết viết. Người ta nói là tui mù chữ. Mắt tui sáng mà, tui thấy đường, nhìn tờ báo thì tui chỉ thấy hình, chớ không biết đọc”…

Rồi từ đó tui thui thủi chơi một mình. Nhà nghèo quá làm gì có tiền mua đồ chơi, nên tui cứ quanh quẩn bên bờ biển mà lượm mấy cái vỏ ốc, hốt cát bỏ vô đó, rồi đổ đi, rồi lại hốt vào. Hễ có lượm được cái vỏ ốc nào đẹp đẹp, tui để dành vô cái thùng giấy, lâu ngày có nhiều, tui đem ra ngắm một mình , thích lắm. Tui nhớ lần nọ tui đem ra khoe con bạn, nó lại kêu mấy đứa khác tới coi. Tui khoái lắm, trong bụng chắc mẫm thế nào bọn nó cũng khen cho coi. Ai dè, tự dưng thằng Tọc giựt mạnh một cái làm rách thùng giấy, rồi nó quăng tung tóe hết cả chục cái vỏ ốc của tui ra biển. Tui hoảng hốt giơ hai tay chụp lại nhưng không kịp, thế là mất hết đống vỏ ốc ” gia tài ” mà tui gom góp gần cả năm trời. Tui đứng đó khóc ròng, cúi xuống nhìn thì chỉ còn sót lại trên cát một cái vỏ ốc to bằng nửa bàn tay, một bên màu đen còn nửa bên kia màu trắng. Tui lật đật lượm lên, dấu vào túi áo. Đám trẻ xúm quanh la to “Cút về Mỹ mà lượm vỏ ốc. Ở đây không có thứ gì cho mầy đâu, đồ da đen”. Tui tủi thân quá chạy về nhà khóc với Má. Lần đó Má cũng khóc. Hôm đó Má nói “Làm cái vỏ ốc mà còn sướng hơn Má con mình, bởi nó không biết buồn, không biết khóc, nó tự do khi thì nằm trên cát, lúc lại nhập vào biển cả bao la. Còn Má con mình, suốt đời chỉ sống nhục mãi ở đây thôi”. Tui quý cái vỏ ốc trắng đen này lắm, cứ lâu lâu đem ra nhìn. Phần nửa màu đen, sao mà đen thủi đen thui giống da của tui, còn bên kia màu trắng lại óng ánh như có pha lê. Nhớ có lần Má tui dạy “Con người ta giống cái vỏ ốc này vậy, có đen có trắng, có tốt có xấu. Da con dù có đen như bên này, nhưng con phải sống tốt, sao cho cuộc đời mình có ý nghĩa mà óng ánh như nửa bên kia”…

Một hôm bỗng dưng Má nói “Tí đen ơi, đúng là Trời thương Má con mình, mình sắp hết khổ rồi…”. Thì ra là chính phủ nước của Ba tui (chính phủ Mỹ) cho nhà tui đi theo diện con đen (con lai). Má và tui mừng hơn bắt được vàng. Lúc vô phỏng vấn, tui run quá nên cứ khóc, mà tay chân thì lạnh ngắt. Tui cứ sợ ông Bill – tên ông hỏi chuyện Má tui, mà thấy tui đen, tui xấu, tui hôi, tui dơ… ổng không cho đi thì tui phải ở đây suốt đời tui khổ lắm. Má tui cũng khóc, năn nỉ cô thông dịch xin ông Bill cho đi Mỹ. Lúc đó tui nghe ai cũng nói ở Mỹ sướng lắm, con nít được đi học, dù mình đen cũng không ai đánh mình, không ai nhét cứt vô miệng mình… Khi đó chị Hai và chị Ba có chồng rồi, còn chị Tư và em trai thì chưa. Má định nếu được đi Mỹ rồi thì Má sẽ nhờ người làm đơn xin chính phủ cho chị Tư và em tui đi sau. Đêm trước hôm phỏng vấn, Má lo quá không ngủ được, mấy mẹ con cứ ngồi ôm nhau khóc cả đêm. Với gia đình tui, thì nước Mỹ là thiên đàng, chỉ tới Mỹ thì chúng tui mới hết khổ. Khi ông Bill biết rằng chị Tư và em trai còn độc thân, ông nói “Chiến tranh đã làm cho Bà và các con cực khổ, nên nay vì nhân đạo, chúng tôi cho Bà, cô con gái lai và cả hai người con độc thân cùng đi để qua Mỹ đùm bọc nhau mà sống”. Cả nhà tui khóc, vì mừng quá, đến nỗi quên cả nói lời cám ơn ông Bill…

Đặt chân đến “thiên đàng” Virginia, bốn Má con tui không biết một chữ tiếng Anh, nói không được câu nào, mà đọc cũng rặn không ra, còn viết thì một chữ bẻ đôi cũng không biết. Một người quen cùng làng ngày xưa nhận ra Má nên giúp tìm dùm cho chúng tôi thuê một căn appartment nhỏ xíu một phòng ngủ để cả nhà ở chung.

Cả nhà tui đi làm đủ thứ nghề nặng nhọc đễ đắp đỗi qua ngày. Tui còn nhớ lần thi vô quốc tịch, tui lo quá chừng, cứ học thuộc lòng những câu hỏi như con vẹt, vì tui có đọc và hiểu được chữ nào đâu. Có một chị người Việt đọc cho tui nghe các câu hỏi rồi biểu tui học cho thuộc, hễ người ta hỏi câu nào thì trả lời y như đã thuộc. Vậy mà may mắn ghê, tui đậu. Khi họ hỏi tui muốn có tên Mỹ không, hay vẫn muốn giữ cái tên Việt nam là Tí Mai, thì tui khóc. Không biết nói tiếng, tui nhờ cô thông dịch nói dùm với ổng là “Tui ghét lắm cái tên Tí đen, vì nó đen như màu da tui, đen như tuổi thơ nghèo hèn của tui”. Ông Mỹ trắng hỏi tui muốn tên gì. Lúc đó tui chỉ nhớ đến đứa cháu họ xa, đi lính cho quân đội Mỹ. Có một lần về thăm Má con tui ở Virginia, nó nói lý do nó đi lính là vì nó muốn đền ơn chính phủ. Tui nhớ mang máng nó có nói quân đội Mỹ gọi là… “AMI”… gì đó thì phải. Thiệt tình khi đó tui không biết chữ “AMI” viết làm sao nữa, nên tui nói đại với cô thông dịch là “Tui muốn cám ơn chính phủ Mỹ, cám ơn ông Bill đã thương mà cho Má con tui đi, nên tui muốn có tên Mỹ là AMI, có nghĩa là quân đội”. Tui còn nhớ khi nghe tui nói vậy thì cô này cười, dễ thương lắm, và cô viết tên tôi lên tờ giấy đưa cho ông Mỹ. Thế là passport của tui có cái tên Amy Mai từ đó. Mãi sau này tui mới biết là cô đã quên chữ e rờ (R), vì quân đội viết là “army”, nhưng sao có người lại nói với tui là cô ta cố tình quên…?

Sau đó vài năm thì phát hiện ra là Má tui bị có nước trong phổi. Bác sĩ sau khi hỏi cặn kẽ thì giải thích rằng “Do Má ngâm nước lạnh hằng mấy chục năm liền khi đi mò ốc, nên giờ phổi Má yếu lắm”. Mấy chị em sợ quá, đứa nào cũng đi làm quần quật mà không sao đủ tiền mua thuốc cho Má. May mà Trời thương, nên lại có người hàng xóm ngày xưa biết chuyện, bảo chị em tui qua Cali ở đi thì khí hậu ấm sẽ tốt hơn cho sức khỏe của Má. Nhưng tiền đâu mà mua vé máy bay? Cô Anh bảo “Khi xưa lúc chồng cô mới chết, cô một mình với con nhỏ, sức khỏe yếu nên không sao ngâm nước nổi, nhờ Má cho cô bữa bịch ốc, khi mấy con tôm mà sống qua ngày, nên cô muốn đền ơn Má bằng cách mua bốn vé máy bay cho chúng tôi qua Cali, cô cũng đã thuê sẵn một appartment nhỏ (cô Anh đã trả trước một tháng tiền nhà) cho Má con tui.

Thế là cả nhà kéo nhau qua Cali. Cả tháng trời không ai xin được việc làm. Khi chỉ còn vài ngày là hết tháng, tụi tui lo lắm vì tiền đâu để trả cho tháng tới? Gọi phone cho cô Anh thì cô và gia đình đi đâu rồi nên không sao liên lạc được. Một buổi tối trước ngày Giáng sinh, mấy Má con đứng đón bus về nhà. Trời lại lạnh, bụng ai cũng đói, nên không còn sức để mà đi, cứ đứng mà run. Chúng tôi thấy nhiều người đi vào một nhà thờ nhỏ. Vì lạnh quá, nên chúng tôi cũng đi vô đại định tìm một chỗ trú cho ấm chút rồi sẽ về. Đó là buổi tối đánh dấu một bước ngoặc lớn trong cuộc đời chúng tui. Trên kia, mục sư Bảo đang giảng về tình yêu của Chúa. Ông nói “Chúa luôn dang rộng vòng tay yêu thương cho mọi người”. Có lẽ lúc ấy, vì quá buồn, mỏi mệt và tủi thân, nên bốn Má con đứng khóc ròng. Một người đàn bà bước lại hỏi thăm  sau này tui mới được biết là vợ mục sư Bảo). Má con tui thật lòng kể hết. Vợ chồng mục sư cùng một vài cô chú ở nhà thờ thấy tội nghiệp nên chở dùm mấy Má con về nhà, rồi hôm sau người ta đem đồ đến cho, bàn ghế, quần áo, tiền bạc, thức ăn. Rồi đích thân vợ chồng mục sư giúp điền đơn dùm Má con tui để xin tiền bệnh, tiền trợ cấp. Cũng chính nhờ sự động viên, nâng đỡ cả về vật chất lẫn tinh thần mà má con tui mới sống nổi qua ngày…

Và từ đó chúng tui đi nhà thờ mỗi chủ nhật. Cám ơn Chúa. Cầu nguyện cho Má mau hết bệnh. Cầu nguyện cho mấy chị em có công ăn việc làm. Các cô chú trong nhà thờ đối xử rất tốt với tui, không ai nhìn màu da tui mà khinh khi hết. Tui vui lắm khi mọi người cứ kêu “Amy, đến phụ cô làm cái này đi!”, “Amy, ăn chút gì cho có sức rồi hẵng làm chứ cháu ..”. Và tui biết là ở nơi nào có Chúa, thì tui có tình thương…

Mang ơn vợ chồng mục sư Bảo và các cô chú trong nhà thờ, nên mấy chị em tui tình nguyện làm bất cứ việc gì nhà thờ cần. Tiền thì không có, nên chúng tui đóng góp bằng công sức và thời gian. Tui không bao giờ buồn vì công việc mình làm hết. Mà cầu tiêu ở Mỹ sạch sẽ lắm kìa, không có dơ, không có thúi như mấy đống cứt gà mà hồi nhỏ tui phải nuốt đâu. Tui vui lắm, dù công việc có cực nhọc cách mấy, vì tui biết mình làm là đền đáp công ơn Chúa…

Và rồi một ngày Chúa gọi Má tôi về với Ngài. Bà chết khi trong túi mấy chị em cộng lại hết vẫn chưa được một đồng. Lúc còn sống, Má cứ ước có tiền về Việt nam thăm chị Hai, chị Ba và các cháu. Vậy mà mơ ước chưa thành, Má đã ra đi. Tui còn nhớ lúc biết mình sẽ không qua khỏi, Má nói với các chị em tui “Ngày xưa Má cứ ước ao cả nhà mình qua đến được thiên đàng, nhưng nếu như Má có mất thì mấy con ráng lo cho Má về Việt nam mà chôn cất, dù gì nằm bên bờ sông ngày xưa với mấy con ốc, Má vẫn thấy ấm lòng hơn…”. Cả nhà ai cũng đều biết ước nguyện cuối cùng của Má là được chôn nơi miền quê cha đất tổ, mà đào đâu ra tiền để chở xác Má về Việt nam? Tụi tui chỉ biết khóc, vì không mua nổi một quan tài cho Má. Vợ chồng mục sư Bảo biết rõ ước nguyện của Má, nên tối nào mục sư cũng lên đài kêu gọi mọi người giúp một tay. Đêm nào mấy chị em cũng ngồi trên đài với mục sư Bảo và tụi tui cứ khóc, thương Má, mang ơn vợ chồng mục sư và tất cả những người hảo tâm. Nhiều người mang tiền đến tận nhà giúp. Cuối cùng quyên góp được 16 ngàn đồng – cả một gia tài mà mấy chị em tui không bao giờ dám mơ tới. Phải, 16 ngàn đồng – con số này suốt đời tui không thể nào quên. Đó là công ơn của hằng trăm người, mà nhiều nhất là vợ chồng mục sư Bảo và bác sĩ Nguyễn Hùng. Anh Tuấn ở nhà quàn biết hoàn cảnh nhà tui, nên anh bớt cho hai ngàn tiền chi phí chuyên chở xác Má về Việt nam. Em trai tui được mua vé đi cùng về Việt nam với Má. Rồi số tiền còn lại thì mục sư đưa cho em tui về mua đất và lo chôn cất Má. Thế là cuối cùng Má cũng được về yên nghĩ vĩnh viễn bên vùng ven biển ngày nào với những con ốc nhỏ ngày xưa. Tạ ơn Chúa. Tạ ơn những tấm lòng…

Hôm đưa em trai ra phi trường, tui đưa nó gói giấy trong đó có cái vỏ ốc trắng đen. Tui dặn nó nhớ thảy xuống huyệt khi chôn Má. Nó không chịu, hỏi lại là “Chị quý nó lắm mà?”. Tui gật đầu. Nhưng tui biết Má thích biển, và đặc biệt là cái vỏ ốc này, Má cũng quý nó như tui. Lời Má dạy con ghi nhớ, con không tiền, không có gì tặng Má. Thôi con gửi Má cái vỏ ốc này, Má mang theo mà về với Chúa. Mong Má nói với Ngài rằng “Con Tí đen vẫn luôn cố gắng sống tốt, sao cho cuộc đời đẹp và có ý nghĩa như nửa trắng óng ánh bên kia của vỏ ốc…

Chị Amy ngừng kể. Tôi im lặng, vì tôi biết có nói gì cũng sẽ là rất thừa thãi vào giây phút này. Bất chợt chị nói “Tui không biết tên Ba, phải chi tui được gặp lại ông Bill năm nào phỏng vấn, có thể tui nhờ ổng tìm ra Ba tui… ”

– Chị mong gặp lại Ba chị à? Chị không giận Ba sao?

– Ngày xưa tui ghét Ba lắm. Nhưng Chúa dạy rằng “Mình phải biết tha thứ và yêu thương. Tui chỉ mong gặp Ba, để nhìn ông và kêu một tiếng “BA” một lần trong đời”. Ngừng một chút, chị tiếp “Và tui sẽ nói rằng “Ba đã làm Má khổ và con buồn. Vậy thôi…”

Gió ngoài trời lành lạnh, báo hiệu một mùa Giáng sinh nữa lại sắp đến. Tôi hỏi “Năm nay Giáng sinh, chị sẽ làm gì?”. Chị Amy buồn buồn đáp “Tui đến nhà thờ dọn nhà cầu, khiêng bàn ghế, lau chùi các phòng, dự Thánh lễ rồi về nhà… nhớ Má. Má mới mất năm ngoái thôi, nên tui nhớ bả lắm, nhớ cả cái vỏ ốc trắng đen ngày xưa…”. Chị lại tiếp “Năm nào tui cũng đâu có tiền mà mua gì dâng tặng nhà thờ, hay tặng vợ chồng mục sư – người mà gia đình tui mang ơn cả đời, nên tui chỉ biết cầu nguyện cho mọi người. Nhiều lúc tui buồn lắm, vì không năm nào có tiền mua món quà gì dâng Chúa…”

– Những gì chị làm, chắc chắn là Ngài sẽ biết mà. Tôi tin chắc là thời gian, công sức và tấm lòng của chị, sẽ là một trong những món quà mà Ngài ưng ý nhất…

Chị Amy chỉ cười, không nói. Tự dưng chị hỏi “Khi nào cuộc đời tui đăng lên báo, chị cho tui xin ba tờ được không?”

– Được chứ. Tôi đáp ngay.

– Tui sẽ mang biếu vợ chồng mục sư Bảo một tờ, bác sĩ Nguyễn Hùng một tờ, còn một tờ tui sẽ nhờ ai đó đọc cho tui nghe, tại tui không biết chữ, rồi thì tui sẽ giữ nó mãi suốt đời. Phải chi Má còn sống, nghe đọc tờ báo này, chắc Má tui vui lắm…”.

Chị Amy nhờ tôi gửi bài viết này kính tặng vợ chồng Mục sư Nguyễn Xuân Bảo, bác sĩ Nguyễn Hùng cùng tất cả những tấm lòng nơi Thánh đường Sàigòn. Chị nói “Đây là món quà – từ trái tim, chị dâng tặng mọi người nhân mùa lễ Giáng Sinh “.

Trước khi chia tay, tôi hứa sẽ mang tặng chị Amy ba tờ báo, và sẽ đọc cho chị nghe. Chị nói “Cám ơn người đẹp”. Tôi ngượng ngùng “Chị đừng gọi tôi là người đẹp, kỳ lắm”. Amy đáp “Đẹp chứ, bởi vì chị trắng hơn tui..”…

Tôi quay đi. Chạnh cả lòng. Nhìn xuống làn da mình, tôi tự hỏi “Cuộc đời này có được bao người thật sự “trắng da” hơn chị?”

Hoàng Thanh

From: Tu-Phung

Love Story, Bản Tình Ca Bất Hủ và Chuyện Tình Muôn Thuở

Vương Trùng Dương

(Đặc San Lâm Viên)

“Un amour éternel en un moment conçu”

(Félix Arvers)

“Tình trong giây phút mà thành thiên thu”

(Khái Hưng)

Trong bài thơ Ngập Ngừng của nhà thơ Hồ Dzếnh, in trong thi phẩm Quê Ngoại năm 1943, đến nay đã tròn 80 năm. Trong đó có mấy câu, nhiều người đã nhớ:

“Tình mất vui khi đã vẹn câu thề

Ðời chỉ đẹp những khi còn dang dở

… Cho nghìn sau… lơ lửng với nghìn xưa”.

Tập thơ nầy đã tái bản ở Sài Gòn năm 1969, và bài thơ được nhạc sĩ Trần Thiện Thanh phổ nhạc thành ca khúc Chuyện Hẹn Hò, nhạc sĩ Anh Bằng phổ thành bài hát Anh Cứ Hẹn… Ngoài ra, vài bài thơ của ông đã phổ nhạc: Hoa Mẫu Đơn (Anh Bằng) “Ước chi sống lại thời xưa ấy. Để ta trẻ mãi, để hẹn nhau”, Chiều (Dương Thiệu Tước) “Nhớ nhà châm điếu thuốc. Khói huyền bay lên cây”.

Trong ca khúc Khi Đã Yêu của nhạc sĩ Phượng Linh (Nguyễn Văn Đông) có câu: “Bao ước mơ còn trong đợi chờ. Cho nghìn sau nối lại nghìn xưa”.

Từ xưa đến nay và Đông, Tây có nhiều tác phẩm đề cập đến tình yêu ngang trái (diabolik lovers), đó cũng là lẽ thường tình trong cuộc sống. Trong các bộ tiểu thuyết kiếm hiệp của nhà văn Kim Dung trong chốn võ lâm, thu hút độc giả không chỉ chuyện đấu chưởng, kiếm pháp, bí kiếp độc tôn thiên hạ… mà những mối tình ngang trái. Không có mối tình nào ngang trái trong đời sống đầy oan nghiệt như trong truyện kiếm hiệp. Nào là cuộc tình xảy ta giữa hai phái hắc/bạch, thù hận không đợi trời chung giữa các môn phái, hận thù chủng tộc, hiềm khích bởi là con, đệ tử của kẻ thù, cuộc tình tay ba ôm hận trong lòng… (Hai thập niên trước, tôi có viết về Những Mối Tình Ngang Tái Trong Tác Phẩm Kim Dung). Chính những cuộc tình ngang trái oái ăm nầy đã lôi cuốn độc giả từ chương nầy đến chương khác.

Ngày 16/12/1970, phim Love Story (Chuyện Tình) với nhạc phẩm chủ đề của Francis Lai được trình chiếu đầu tiên ở Hoa Kỳ thu hút khán giả trong 4 tuần liên tục. Nhiều nhà phê bình cho rằng Love Story là bản nhạc xuất sắc, xứng đáng được liệt vào hàng kiệt tác. Theo bình chọn của American Film Institute, nhạc phẩm Love Story của Francis Lai, nằm trong 100 bản nhạc phim hay nhất mọi thời đại. Nhạc phim Love Story đứng hạng thứ 9, chỉ thua các nhạc phim kinh điển như Casablanca, Cuốn Theo Chiều Gió, West Side Story, Bác Sĩ Zhivago… nhưng lại vượt qua mặt My Fair Lady.

Phim Love Story lần đầu tiên được chiếu tại rạp Rex ở Sài Gòn vào tháng 3/1971, khán giả đông nghẹt suốt 6 tuần lễ, hầu hết ở giới trẻ… tuy thời kỳ chinh chiến nhưng trào lưu lãng mạn từ phương Tây dã ảnh hưởng đến miền Nam VN vào thập niên 1960s.

Tác phẩm Love Story, tiểu thuyết lãng mạn của nhà văn người Mỹ Erich Segal, nhà xuất bản Harper & Row, ra mắt đúng ngày Lễ Tình Yêu, 14 tháng 2 năm 1970. Tác phẩm gồm 22 chương, vừa ấn hành đã thuộc loại best seller, bán chạy nhất trong năm 1970 tại Mỹ và được dịch ra hơn 25 ngôn ngữ (Chuyện Tình qua bản dịch của Phan Lệ Thanh).

Thông thường thì đạo diễn dựa vào tác phẩm ăn khách để dựng thành phim nhưng kịch bản của Erich Segal viết cho hãng phim Paramount Pictures về cuộc tình lãng mạn và bi thương giữa đôi tình nhân trẻ Oliver (tài tử Ryan O’Neal) và Jenny (minh tinh Ali MacGraw) thời còn sinh viên. Sau đó, hãng Paramount Pictures và đạo diễn Arthur Hiller đã yêu cầu Erich Segal viết thành tiểu thuyết để giới thiệu với độc giả, vì vậy tác phẩm xuất hiện cùng năm 1970, trước khi phim ra mắt.

Nhạc sĩ người Pháp Francis Lai (1932-2010) theo học tại đại học Harvard, Yale ở Hoa Kỳ, giáo sư văn học ở đại học Princeton, Dartmouth… đại học Oxford ở Anh, đại học Munich ở Đức. Nhưng tên tuổi ông lừng lẫy với nhạc sĩ sáng tác, khoảng 600 nhạc phẩm và hơn 100 ca khúc cho phim.

Phim Love Story được đề cử 7 giải Oscar năm 1970 nhưng chỉ đoạt được 1 giải cho nhạc phim. Lúc đó, nhạc phim không có lời, khi phim được trình chiếu, lời của Carl Sigman (dựa theo tình tiết trong phim để viết thành ca khúc) với tiếng hát của danh ca Andy Williams trở thành tình khúc bất hủ.

Tại giải Trái Cầu Vàng 1971, phim Love Story được đề cử 7 giải (phim hay nhất, đạo diễn, kịch bản, nam nữ diễn viên vai chính, nam diễn viên vai phụ, nhạc phim) và đoạt 5 giải (phim hay nhất, đạo diễn, kịch bản, nữ diễn viên vai chính, và nhạc phim).

Trong khi đó tác phẩm Love Story, khoảng 130 trang, được bán chạy nhất ở Hoa Kỳ và qua các bản dịch cũng thuộc loại best seller nhưng không có nhà phê bình văn học nào ca ngợi đến nó.

Điều trùng hợp giữa nhạc sĩ Francis Lai và nhà văn Erich Segal đều mất cùng năm 2010.

Theo lời kể của nhạc sĩ Francis Lai, nguồn cảm hứng của ông tìm được khúc nhạc Love Story vào lúc nửa khuya. Ca khúc Love Story với giai điệu và tiết tấu nhẹ nhàng, khoan thai, lâm ly, réo rắt… hình dung được nỗi buồn man mác.

Nhạc phẩm Love Story của Farncis Lai được Phạm Duy chuyển sang ca khúc Chuyện Tình, ấn hành trước năm 1975, in cả 3 tiếng Việt, Pháp và Anh.

Biết dùng lời rất khó, để mà nói rõ

Ôi biết nói gì, cuộc tình lớn quá

Chuyện tình đáng nhớ, tuy cũ như là biển già trắng xoá

Cuộc tình quý giá như những ngọc ngà nàng dành cho ta

Ôi biết nói gì ?

Với một lời quý mến, mà nàng nói đến

Khi bước chân vào cuộc đời vắng ngắt

Cuộc tình thứ nhất, muôn kiếp muôn đời là tình vĩnh viễn

Vì nàng đã hiến đôi cánh tay mềm nghìn đời quyến luyến

ĐK:

Lòng ta đầy kín, lòng ta đầy kín

Là muôn nghìn chuyện yêu đương, câu hát thần tiên

Và những mộng huyền mênh mang, đầy kín hồn hoang

Man mác tình duyên

Thôi hết cuộc đời im tiếng

Ðời lẻ loi đã tan, ta đã được nàng

Làm gì còn tiếng than, nắm đôi tay thiên thần

Ði suốt mùa Xuân…

Sẽ còn được biết mấy? Một đời luyến ái

Yêu sẽ lâu dài hoặc là quá ngắn? Thật là khó đoán

Nhưng vẫn cho rằng cuộc đời có hết, loài người có chết

Sao sáng trên trời ngày nào sẽ tắt

Em vẫn gần ta!

Với cuộc tình bi thương muôn thuở, tác phẩm Love Story của Erich Segal cũng na ná như những tác phẩm cổ điển với cuộc tình thơ mộng của giới trẻ nhưng gặp ngang trái bởi gia đình còn quan niệm lạc hậu “môn đăng hộ đối” (Oliver, con nhà quý tộc, Jenny giai cấp bình dân, gốc Italy, thân phụ là tù binh Italy, được đưa sang Mỹ và sau đó xin lưu trú) nhưng với sức mạnh của tình yêu đã vượt qua vòng cương tỏa đó. Cuối cùng khi Jenny sang Paris, tiếp tục theo học cao học về âm nhạc nhưng không may bị bệnh hoại huyết (leukemia) không có tiền chữa trị. Oliver ở Hoa Kỳ linh cảm điều gì không may xảy ra cho người yêu nên sang Paris, nhưng Jenny từ chối việc nhờ vả bên gia đình chồng và chỉ cần được sống những ngày cuối đời bên nhau.

Khi ông Barett, cha của Ollier biết được hoàn cảnh bệnh tình của Jenny và con trai xin tiền chữa trị cho vợ, ông mang theo số tiền lớn cho con, nhưng đã muộn.

Tại bệnh viện, Oliver gặp cha, cho biết “Jenny chết rồi!”. Ông Barett tỏ lời ân hận, nhưng đã muộn!. Bóng tối phủ kín!. (Nếu) Jenny được cứu sống thì không có 3 tác phẩm (truyện, phim và ca khúc) để lại cho đời. Trước đó chuyện tình Lan và Điệp trong tác phẩm Tắt Lửa Lòng của nhà văn Nguyễn Công Hoan (1933), với ca khúc của các nhạc sĩ Lê Dinh, Minh Kỳ và Anh Bằng. Và, tuồng cải lương làm đẫm lệ. Hay chuyện tình Lương Sơn Bá, Chúc Anh Đài vào thế kỷ thứ tư đời Đông Tấn với tuồng cải lương buồn da diết.

Thấm thoát đã gần sáu thập niên, lúc đó ở phố cổ Hội An, người bạn thân với tôi đang có mối tình rất đẹp với cô nữ sinh học dưới hai lớp, khi anh khoác áo chiến y thì gia đình ngăn cấm không muốn con gái sớm chít khăn tang, cuộc tình tan vỡ! Anh tình nguyện phục vụ trong đơn vị tác chiến ở núi rừng Tây nguyên, nơi đó sống chết với đồng đội cho bớt cô đơn “Nhưng không chết người trai khói lửa. Mà chết người em nhỏ hậu phương” (Chuyện Hoa Sim – Anh Bằng). Thời gian trôi qua với bao thăng trầm nhưng “cái thuở ban đầu” đó vẫn “Ngàn năm hồ dễ mấy ai quên” (Thế Lữ). “Aimer c’est mourir un peu!.. C’est la vie”.

Nay quý cụ, tuổi già thường mất ngủ, trằn trọc làm gì cho khổ tâm, lấy iPhone, vào YouTube, hoài cố nhân với Love Story “Cố nhân xa rồi, có ai về lối xưa” (Hoài Cảm – Cung Tiến) và cho giấc mơ “lơ lửng với nghìn xưa”.

Little Saigon Aug 2023

Vương Trùng Dương

(Đặc San Lâm Viên)

Nghe nhạc phẩm Love Story với tiếng Violin và Piano:

Nhiệm Mầu-Truyện ngắn

Trong thế chiến thứ hai, người đàn ông tên Martin Wall là một tù nhân chiến tranh bị giam tại trại tù binh ở Siberia, từ đó anh phải rời xa quê hương Ukraina, bỏ lại người vợ Anna và cậu con trai Jacob của mình. Martin và gia đình mỗi người một phương, bặt vô âm tín, thậm chí sau khi anh bị bắt một thời gian, đến cả việc người vợ Anna sinh thêm một đứa con gái tên là Sonia mà anh cũng không hề hay biết.

Vài năm sau, Martin được trả tự do, lúc này anh kiệt quệ cả về thể chất lẫn tinh thần, nhìn vẻ bề ngoài của anh lúc bấy giờ như một ông già lọm khọm. Không những vậy, trên tay và chân của anh còn lưu lại nhiều vết sẹo, điều khiến anh đau lòng hơn nữa, là anh không còn khả năng sinh con.

Sau khi được ra tù, chuyện đầu tiên mà Martin làm là tìm kiếm vợ con mình. Cuối cùng, anh cũng nghe ngóng được tin tức của họ từ hội Chữ Thập Đỏ, người ta nói rằng vợ con anh đã chết trên đường đi tới Siberia. Martin đau khổ tột cùng và anh vẫn không hay hề biết rằng mình còn có một cô con gái trên thế gian này.

Thật ra, không lâu sau khi Martin bị bắt, Anna đã may mắn đưa được con trai Jacob chạy trốn đến nước Đức. Cô gặp được một đôi vợ chồng nông dân tốt bụng tại đó, đôi vợ chồng này đã cho mẹ con cô ở lại. Vì vậy, Anna sống yên ổn tại đó, đồng thời cô cũng giúp họ làm việc đồng áng và dọn dẹp nhà cửa. Cũng vào thời gian này, cô sinh đứa con gái Sonia. Anna tin rằng, chỉ cần Martin còn sống, họ nhất định sẽ trùng phùng, nhất định có thể tạo lập một cuộc sống mới. Nhưng, cuộc đời vốn không ai có thể biết trước. Vài năm sau đó, cuộc chiến tranh tàn khốc đã đưa nước Đức đến bờ vực của sự thất bại. Anna và con tin rằng sẽ có cơ hội để đoàn tụ với Martin.

Tuy nhiên, điều họ không ngờ là, Hồng quân Liên Xô đã tập trung những người dân di cư như họ lại, đưa họ lên một con tàu đông đúc như tàu chở súc vật, nói rằng sẽ đưa họ về nhà, nhưng thực chất là đưa họ đến trại tập trung đầy chết chóc ở Siberia.

Sau khi biết chuyện, hi vọng của Anna vụt tắt, cô cảm thấy tuyệt vọng, rồi sinh bệnh nặng. Cô biết mình không thể sống được bao lâu nữa, chỉ ngày qua ngày cầu nguyện: “Cầu xin ông trời, hãy phù hộ cho hai đứa trẻ bất hạnh của con!”. Một ngày nọ, Anna gọi Jacob đến bên cạnh và nói: “Con trai của mẹ, mẹ bệnh nặng lắm rồi, có lẽ không sống được bao lâu nữa. Mẹ sẽ ở trên trời phù hộ các con. Jacob, con phải hứa với mẹ, không bao giờ được bỏ rơi em gái Sonia”.

Sáng sớm hôm sau, Anna qua đời. Người ta đem thi thể của cô chất lên xe hàng và chở đến một khu nghĩa địa đầy rẫy những ngôi mộ vô danh. Còn hai đứa trẻ thì bị đem lên tàu hỏa, đưa đến một cô nhi viện gần đó.
Về phần Martin, người đang chìm đắm trong tuyệt vọng, lúc này đang làm việc như cỗ máy trong một nông trang. Một buổi sáng, Martin gặp Greta, một cô gái làm cùng nông trang với anh. Greta luôn mỉm cười để ý đến anh. Martin không ngờ rằng, cô gái luôn lạc quan yêu đời, thông minh lanh lợi này lại là bạn học ngày xưa của mình. Bôn ba nhiều nơi, trải qua bao biến cố thăng trầm, mà họ lại có thể gặp nhau ở đây, cả hai đều cảm thấy đúng là duyên phận.

Chẳng bao lâu sau, họ tổ chức hôn lễ. Martin cảm thấy cuộc sống của mình tìm lại được ánh mặt trời, cuộc sống lại trở nên có ý nghĩa. Greta cũng cảm thấy vô cùng hạnh phúc. Nhưng cô luôn mong mỏi có một đứa con để yêu thương, chăm sóc.

Đến một ngày, Greta nói với chồng: “Martin, có nhiều đứa trẻ trong cô nhi viện, chúng ta hãy nhận một đứa về nuôi có được không?”. Martin phản bác: “Greta, sao em lại có ý nghĩ như vậy, anh không thể chịu thêm bất cứ sự đả kích nào nữa, em có hiểu không?”. Greta vô cùng buồn bã.

Nhưng cuối cùng mong muốn mãnh liệt được trở thành một người mẹ của cô đã thuyết phục được Martin. Vào một buổi sáng, Martin nói với Greta: “Em hãy đến cô nhi viện nhận nuôi một đứa trẻ đi”. Greta vui mừng khôn xiết, cô lập tức lên tàu đi đến cô nhi viện.

Greta bước trên hành lang tối tăm của cô nhi viện, nhìn về phía lũ trẻ đang xếp thành hàng, chăm chú quan sát, cân nhắc. Nhìn thấy những khuôn mặt trầm mặc, những ánh mắt cầu xin của lũ trẻ, Greta chỉ muốn mở rộng vòng tay ôm lấy tất cả chúng vào lòng và đưa về nhà. Nhưng cô biết rằng, điều đó là không thể.

Đúng vào lúc này, có một đứa trẻ cười thẹn thùng bước về phía cô. Greta quỳ xuống, xoa đầu đứa trẻ: “Cháu à, cháu có đồng ý đi theo cô không? Đến một nơi có cả cha lẫn mẹ?”.

“Đương nhiên cháu đồng ý, nhưng cô đợi chút, cháu đi gọi anh trai. Chúng cháu phải đi cùng nhau, cháu không thể bỏ lại anh trai mình được”.

Greta cảm thấy vô cùng băn khoăn, bất lực lắc đầu: “Nhưng cháu à, cô chỉ có thể đưa một mình cháu đi thôi”. “Không, cháu muốn đi cùng anh trai mình. Trước đây chúng cháu cũng có mẹ, khi mẹ qua đời đã dặn anh trai không được bỏ rơi cháu”.

Lúc này, Greta cảm thấy bản thân không muốn chọn bất kì đứa trẻ nào khác, bởi vì đứa trẻ trước mặt cô vô cùng đáng yêu, đã thu hút toàn bộ sự chú ý của cô. Tuy nhiên, cô nghĩ rằng mình phải về thương lượng lại với Martin.
Khi về đến nhà, Greta lại khẩn cầu Martin: “Martin, có một chuyện em muốn thương lượng với anh. Em phải nhận nuôi hai đứa trẻ, bởi vì đứa trẻ mà em chọn có một người anh trai, nó không thể rời bỏ anh trai của mình. Em mong anh đồng ý nhận nuôi đứa trẻ này được không?”

“Greta, vậy sao em không chọn đứa trẻ khác, mà lại nhất quyết là bé gái này? Theo anh thấy thì tốt nhất đừng chọn đứa nào cả”.

Lời nói của Martin khiến Greta vô cùng đau lòng, cô thậm chí còn không muốn đến cô nhi viện nữa. Nhìn thấy bộ dạng buồn bã của Greta, trong lòng anh chợt trào dâng niềm thương cảm. Tình yêu rốt cuộc lại giành chiến thắng.

Lần này, Martin và Greta cùng đi đến cô nhi viện, Martin cũng muốn gặp đứa bé gái đó. Đứa bé gái ra ngoài hành lang tiếp đón họ, lần này, cô bé nắm chặt tay cậu bé đi cùng. Đó là một cậu bé gầy gò, trông rất yếu ớt, nhưng đôi mắt của cậu bé lại ngập tràn sự dịu dàng và lương thiện. Lúc này, cô bé mở to đôi mắt sáng, nhẹ nhàng hỏi Greta: “Cô đến đón chúng cháu phải không?”

Greta chưa kịp trả lời, thì cậu bé đứng bên cạnh đã mở lời: “Cháu đã đồng ý với mẹ là sẽ không bao giờ bỏ rơi em gái. Khi mẹ cháu mất, cháu đã hứa như vậy. Vậy nên, đáng tiếc là em gái cháu không thể đi cùng với hai người”.

Martin âm thầm quan sát hai đứa trẻ vừa đáng yêu lại đáng thương này. Một lát sau, anh tuyên bố đầy quả quyết: “Chúng tôi nhận cả hai đứa trẻ này”. Martin đã bị cậu bé gầy gò ốm yếu trước mắt lay động bởi tình yêu thương của mình dành cho em gái.

Vậy là Greta đưa hai anh em đi thu dọn quần áo, Martin đến văn phòng làm thủ tục nhận nuôi. Sau khi Greta thu dọn đồ đạc, đưa hai đứa trẻ đến văn phòng, liền thấy Martin bần thần lúng túng đứng ở đó. Gương mặt trắng bệch, đôi tay run rẩy, dường như không dám kí vào thủ tục nhận nuôi.

Greta sợ hãi hỏi: “Martin! Anh làm sao vậy? Martin?”

“Greta, em nhìn những cái tên này xem!”. Greta nhận lấy tờ thủ tục nhận nuôi có ghi tên hai đứa trẻ: “Jacob Wall; Sonia Wall, Mẹ: Anna (Bartel) Wall; Cha: Martin Wall”.

“Em có biết không Greta, hai đứa trẻ này là con ruột của anh! Một là đứa con trai mà anh tưởng rằng đã chết từ lâu, một là đứa con gái mà anh chưa từng gặp mặt!”

Martin xúc động đến nỗi nước mắt nhạt nhoà, anh vừa nói vừa quỳ xuống, ôm chặt hai đứa trẻ vào lòng, anh xúc động thốt lên: “Kỳ tích, thật là kỳ tích! Ôi! Cảm ơn trời đất đã phù hộ chúng con. Greta, nếu như không phải em đã thỉnh cầu anh nhận nuôi chúng, nếu như không có trái tim nhân ái của em, có lẽ anh đã không thể gặp được kỳ tích này rồi”.

Sự thiện lương của Martin, lòng nhân ái của Greta và lời hứa đầy trách nhiệm của cậu bé Jacob, tất cả đã tạo nên một kỳ tích. Hạnh phúc thực sự luôn tồn tại, chỉ cần bạn biết tin tưởng và sống đúng với con người thật của chính mình, phép màu của số phận có thể sẽ đến với bạn trong tương lai.

From: NguyenNThu

Hàng xóm-Truyện ngắn

Ngày 29 tháng Tư- 2023 đọc tin một anh chàng Texas sang nhà hàng xóm bên cạnh bắn chết 5 mạng vì “tội” họ đã  phàn nàn với anh ta bắn súng ở sân sau làm ồn khi con họ đang ngủ.

Vụ này tôi giật mình vì cũng có trường hợp tương tự nhưng may mắn hơn những nạn nhân này.

Hồi tôi mới dọn đến căn nhà đầu tiên, hàng xóm bên cạnh nuôi một con chó to lớn, mỗi lần thấy tôi ra vườn sau nó chồm chân lên hàng rào thấp ( loại mắt cáo bằng kim loại) vừa sủa vừa như muốn nhảy sang ăn tươi nuốt sống tôi làm tôi hết hồn và ngại không dám ra sân sau vì sợ chó. Vợ chồng tôi hậm hực bàn tính phải sang nói chuyện với chủ nhà để họ xích con chó lại kẻo có ngày mình thành nạn nhân của con chó dữ tợn này. Ngay như sân trước nhà tôi chưa kịp cắt khi cỏ hơi cao thì ông hàng xóm đối diện đã sang nhà nhắc nhở kẻo ảnh hưởng đến cảnh quan nhà ông ta và khu phố. Tôi đã vui vẻ cám ơn ông và hôm sau sân cỏ được cắt gọn gàng sạch sẽ, thì nay tôi cũng có quyền sang nhắc nhở hàng xóm nuôi chó kia chứ. Ở xứ Mỹ dân chủ này ai cũng có quyền phát biểu ý kiến, cả với tổng thống nói chi với hàng xóm quèn. Tôi nghĩ thế và hăm hở đợi dịp sang “phàn nàn” nhà hàng xóm.

Chiều hôm sau tôi nghe thấy tiếng ông Mỹ đang lao xao ở sân sau nhà ông, thế là tôi liền mở cửa ra vườn sau nhà mình, chuẩn bị tuôn ra hết những bực dọc lo âu bấy lâu. Tôi hăng hái tiến về phía hàng rào thì thấy ông Mỹ to con mặc áo thun sát nách, hai cánh tay ông ta xăm trổ đầy những hình thù quái dị, tay cầm ly bia uống dở mặt đỏ gay và bà vợ ngồi bên cạnh, gương mặt thuộc loại “bà chằn” đang hút thuốc lá phì phèo, chắc họ đang ăn nhậu và tôi là người phá đám cuộc vui của họ. Ông ta ngạc nhiên thấy tôi đến gần hàng rào và nhìn tôi bằng đôi mắt đỏ ngầu như thách thức tôi lên tiếng, con chó to lớn của họ đủng đỉnh đi qua đi lại như…dằn mặt tôi, nhưng dù con chó  to cao dữ dằn bao nhiêu chắc cũng… thua ông chủ. Bức tranh toàn cảnh gia đình ông Mỹ hàng xóm làm tôi phát… ớn,  những bực bội khó chịu trong tôi bấy lâu bỗng tan biến mất. Tôi khép nép líu ríu mỉm cười và… lễ phép:

– Xin chào… chào… ông bà.

Ông Mỹ hất hàm hỏi:

– Bạn có vẻ như muốn nói điều gì ?

Tôi… hiền dịu trả lời:

– Từ ngày gia đình tôi dọn đến đây tôi chưa gặp ông bà lần nào. Hôm nay tôi chỉ muốn chào ông bà một tiếng thôi. Chúc vui vẻ nhé.

Nói xong tôi vội quay vào nhà. Từ đó tôi không dám mơ ước khiếu nại vụ con chó nữa. Hai vợ chồng tôi bàn tính khi nào có tiền sẽ thay hàng rào khác cao hơn, an toàn hơn để không sứt mẻ tình hàng xóm.

Nhờ…sợ hàng xóm mà yên chuyện, nếu không biết đâu tôi cũng lãnh mấy viên đạn như vụ kia rồi.

“Tránh voi chẳng xấu mặt nào”, ông bà ta đã dạy thế. Là hàng xóm với nhau, mỗi người một chút chịu đựng, một chút hiểu chuyện thì cuộc sống an vui biết bao.

Hàng xóm ở Việt Nam tôi từng sống và lớn lên thật hiền hòa thân thiện, vì người ta sống lâu dài ở một địa chỉ, một khu xóm, có khi từ đời ông bà cha mẹ cho tới đời con cháu nên tình hàng xóm càng ngày càng gần gũi thân thuộc, đúng với câu “Tắt lửa tối đèn có nhau”. Ðầu trên xóm dưới đều là quen biết, người ta biết rõ ngọn nguồn gia cảnh của nhau, sang nhà hàng xóm mượn con dao, cái búa, cái thang hay mượn lon gạo, xin chén nước mắm khi nhỡ nhàng là chuyện thường tình. Có những anh hàng xóm, cô hàng xóm thuở nào còn làm ta nhớ mãi. Dĩ nhiên cũng có những hàng xóm không ưa nhau, bất hòa cãi vã nhưng không động chút là chém giết nhau.

Hàng xóm ở Mỹ thì ngược lại, may ra ta chỉ biết tên quen mặt vài nhà bên cạnh, họ không tình cảm như hàng xóm ở Việt Nam, có lẽ vì cuộc sống riêng tư khép kín của mỗi nhà, vì họ hay di chuyển dọn nhà đi, vì do khác màu da, khác ngôn ngữ nên chỉ có xã giao bề ngoài. Bởi thế thấy hàng xóm Mỹ luôn mỉm cười chào hỏi ta đừng vội mừng nhé. Gia đình chị Linh bạn tôi khi mới dọn đến căn nhà vừa mua, chị hàng xóm người Mỹ bên cạnh đã ân cần bước sang nhà với một hộp bánh cookie và lời chúc mừng hàng xóm mới. Chị Linh cảm động lắm. Thế rồi sau một thời gian quen biết nhau hơn, có dịp chuyện trò nhiều hơn chị Linh tưởng như gặp người tri kỷ, cao hứng và có cả chân tình kể cho chị hàng xóm Mỹ nghe nào căn nhà này vợ chồng chị mua tiền mặt, chỉ tốn vài trăm tiền ký giấy tờ là dọn vào ngay, nào chồng chị là kỹ sư lâu năm của hãng máy bay, nào con gái chị đang là sinh viên y khoa năm cuối, Linh kể tới đâu thì chị Mỹ kêu lên thán phục tới đó: ”Wow…very good”, “Wow, wonderful”.

 Thế mà tình hàng xóm đang nồng ấm bỗng hóa ra “hận thù” vợ chồng nhà Mỹ lạnh lùng ra mặt và thay đổi thái độ, bắt bẻ, khó dễ nhà hàng xóm Việt đủ điều. Vợ chồng Linh chán ngán đã nghĩ đến chuyện bán nhà đi nơi khác, may quá Linh chưa kịp thực hiện rao bán nhà thì gia đình nhà Mỹ đã …âm thầm dọn đi mất tiêu. Ít hôm sau thấy căn nhà của họ đã dán giấy “ foreclosed”. Họ trả nợ mortgage không nổi nên nhà bank lấy nhà. Biết đâu cả ti vi tủ lạnh, bộ sofa trong nhà cũng …toàn đồ trả góp? Thì làm sao họ vui vẻ cho được với nhà Châu Á di dân tị nạn trên đất nước họ đã thành công thế kia. Linh đã học được một bài học vô cùng quý giá.

Sống ở đâu phải theo nếp sống nơi ấy. Tôi chỉ muốn là một hàng xóm bình thường và dễ chịu của họ.

Tôi đã bán căn nhà trước và ở căn nhà hiện nay với vài kinh nghiệm về tình hàng xóm.

Một buổi chiều ngày lễ Tạ Ơn vợ chồng tôi đã trễ giờ hẹn, vội vàng mang món ăn ra xe để tới nhà người em, vừa lùi xe xuống đường thì một bà hàng xóm cách nhà tôi mấy căn chạy đến chặn xe lại nhờ vả. Có lẽ bà đứng ngoài sân nãy giờ chờ gặp ai thì nhờ người đó, bà làm mất cái cell phone đang tìm không ra nhờ tôi đến nhà giúp. Tôi thật sự đang nôn nóng tới nhà người em vì mọi người đang chờ nhưng chỉ vài giây suy nghĩ tôi quyết định xuống xe đi bộ theo bà vào nhà, lấy cell phone của tôi ra bấm số cell phone của bà, tiếng phôn của bà reo lên và bà đã tìm ra nó, bà cám ơn tôi rối rít. Thôi thì đằng nào cũng trễ giờ, cũng đến bữa tiệc muộn mà giúp được hàng xóm cũng vui, lòng khỏi áy náy.

Nhà tôi nằm đối diện ngay góc cua quẹo trái. Ðịa thế đẹp sáng sủa cho lũ trẻ bước vào xin kẹo mùa Halloween, bởi thế Halloween nào nhà tôi cũng sáng đèn cho trẻ đến nhà, hao kẹo nhưng vui người vui mình.

Tôi thích trồng hoa lá trước sân nhà, từ mùa Xuân cho tới tàn Thu có hoa Hồng, hoa Sứ, hoa Crepe Myrtle thay nhau nở hoa. Trước cửa nhà có thùng thư chung của dãy phố, ai đến lấy thư sẽ được ngắm hoa lá sân trước nhà tôi nở đẹp theo mùa. Không biết hàng xóm có ý nghĩ ấy không? Nhưng tôi vẫn cứ vui và tin rằng tôi trồng hoa làm đẹp nhà mình và làm đẹp lòng hàng xóm trong phút giây họ ra lấy thư.

Căn nhà đối diện nhà tôi là gia đình người Mỹ trẻ tuổi họ mới đến thuê căn nhà, khi bên này bên kia thấy mặt nhau họ đều giơ tay chào lịch sự. Họ cắt cỏ sạch sẽ làm đẹp một góc phố, thùng rác và thùng recycle tới ngày đổ họ mang ra để phía trước gọn gàng trước khi rời nhà đi làm. Một hôm trời đầy gió, thùng recycle sau khi đổ xong đã lăn lóc ra ngoài đường và gió lôi đi xa, tôi đã chạy theo kéo thùng recycle để ngay ngắn trở lại trên sidewalk nhà họ, vừa giúp nhà hàng xóm vừa…giúp đời, không còn vật cản trên đường cho xe cộ đi qua an toàn. Chẳng ai nhìn thấy, chẳng ai hay biết, chỉ có chồng tôi biết và khen “Hoan hô bà hàng xóm tốt bụng ”.

Nhà hàng xóm bên trái là một người mẹ độc thân với hai đứa con, thỉnh thoảng họ đi vacation đều qua nói với tôi một tiếng nhờ trông nhà giùm, tôi cảm thấy ấm áp lòng khi được hàng xóm tin tưởng…giao việc trông nhà giùm họ.

Nhà hàng xóm bên phải là gia đình người Mễ cũng trẻ tuổi ( Vậy là có mình gia đình tôi…già cả nhất góc đường này) Nhà Mễ làm phiền tôi nhiều nhất.

Gia đình Mễ đông người, ngoài mấy đứa con còn có cha mẹ già, đã thế họ còn giữ trẻ kiếm thêm thu nhập, mỗi lúc mấy bà mấy cô đồng hương Mễ của họ mang con tới gởi và đón con về là xe đậu tràn lan sang cả lề đường nhà tôi và nhà đối diện. Có lần tôi lùi xe từ sân nhà mình để xuống đường, ngó phía sau bên phải, bên trái và đối diện bên kia đều có xe đậu lề đường quây lại thành một hình chữ U làm tôi de xe vất vả khó khăn chỉ sợ đụng chạm xe họ. Tôi hồi hộp lo lắng nhưng khi chị Mễ bên cạnh lơn tơn ra sân thấy tôi de xe nhúc nhích từng chút một chị ái ngại hỏi “Are you OK ?” tôi cũng ráng nở nụ cười trả lời ngon lành: “Ok No problem”. Vẫn còn bản tính người Việt Nam khách sáo nhún nhường để làm vừa lòng người khác, thay vì “mặt sưng sỉa lên” nói thẳng nói thật lòng mình rằng:” Tôi chán cảnh đậu xe của khách khứa nhà chị lắm rồi”.

Thoát ra khỏi vụ de xe tôi sung sướng chạy thong dong trên đường tới chợ và hy vọng rằng lúc quay về nhà thì xe hàng xóm Mễ cũng đã “di tản” bớt, trả lại không gian lòng lề đường nhà tôi cho tôi dễ dàng lái xe lên drive way an toàn.

Nhà Mễ này lại có máu văn nghệ nữa cơ, qua khe hở hàng rào sân sau tôi thấy trong cái patio rộng là dàn trống to như một ban nhạc. Thỉnh thoảng họ tụ tập bạn bè ăn uống và ca hát đàn trống rộn ràng tới khuya. Căn phòng ngủ của tôi “vô phước” nằm gần ngay hàng rào nên tôi phải thưởng thức nhạc ngoài mong muốn, có hôm âm nhạc ru hồn tôi lạc vào giấc ngủ muộn, có hôm tôi lơ mơ ngủ nửa thức nửa tỉnh.

Những ngày cuối tuần tôi thường tha hồ thức khuya dậy muộn, nhưng có buổi sáng sớm tôi đang say ngủ bỗng choàng tỉnh giấc vì tiếng máy cắt cỏ giòn giã vang lên. Thì ra anh Mễ hàng xóm đang cắt cỏ khi mới 8 giờ sáng. Chắc anh ta muốn cắt cỏ giờ này cho mát mẻ vì trời Texas mùa hè nóng sớm mà vô tình phá hủy giấc ngủ ngon trớn của tôi.

Chưa bao giờ tôi có ý nghĩ sẽ sang nhà hàng xóm Mễ “phàn nàn” họ làm ầm ĩ khiến tôi mất ngủ cả. Vụ con chó dữ trước kia tôi còn chào thua thì vụ thỉnh thoảng mất ngủ chỉ là chuyện nhỏ.

Ngoài nhà anh Mễ, thêm một hàng xóm mà tôi chưa biết mặt bao giờ cũng góp phần làm tôi mất ngủ.

Ðằng sau vườn nhà tôi là một khu apartment, chỉ cách nhau một hàng rào, có đêm tôi nghe ai đó to tiếng cãi vã, đêm vắng lặng nên những âm thanh dữ dội vọng sang càng rõ, có vẻ như hai vợ chồng cãi nhau, họ lôi nhau chạy ra ngoài chửi bới nhau cả khu xóm cùng nghe.

Nhưng dù nhà Mễ bên cạnh chơi nhạc tới khuya hay bên kia apartment người ta cãi nhau nửa đêm về sáng thì hàng xóm làm tôi mất ngủ vẫn ít hơn …chính tôi làm tôi mất ngủ, trằn trọc thao thức chỉ vì một câu văn chưa vừa ý hay một câu thơ chưa tròn.

Hàng xóm của tôi dù là màu da nào, dù họ là ai, dưới mắt tôi họ vẫn là những hàng xóm dễ thương cho tôi thêm niềm vui trong cuộc sống này.

NTTD

From: Tu-Phung

Chuyện nhà, chuyện người

Bác Lộc (Giao Chỉ) có Vài hàng gửi cháu Nam và Yến.

1)Bác hiện bắt đầu sống trong giai đoạn bác gái 87 tuổi mở đầu bước vào bệnh Alzheimer. Hoàn toàn không nhớ chuyện thông thường. Luôn luôn hỏi bác mọi chuyện. Nói xong là quên ngay. Suy nghĩ sai lầm vì bộ óc như máy điện tử bị hư. Bác Lộc trai bắt buộc phải cố gắng học tập để trở thành người chồng tốt nhất thế giới. Tuyệt đối không làm bà xã buồn. Bác Lộc tuyệt đối không nói KHÔNG với bà xã. Và nói dối liên tục. Em thích ông Trâm, anh cũng thích ông Trâm. Em thích ông Bai, anh cũng thích ông Bai.

2)Bác đã theo dõi bệnh của anh Phạm Phú Nam. Bị Cancer ai cũng nghĩ rằng Nam không qua khỏi. Nhưng sống đến ngày nay quả nhiên là phép lạ. Cancer với Alzheimer là chỗ quen biết. Chúng nó rủ nhau đến thăm bệnh nhân. Nhưng rồi ai cũng sẽ có ngày cuối cùng. Trong thời gian qua bộ máy điện tử xuất sắc của Phạm Phú Nam đã bắt đầu sinh chuyện. Tất cả mọi ý kiến của Nam về việc tổ chức bác đều chiều theo nhưng thực sự đã đến lúc Nam phải nghỉ ngơi. Người duy nhất trên thế giới này phải hoàn toàn thay đổi để giúp Nam là cô Yến. Người vợ. Tuyệt đối không tranh cãi, không đóng góp ý kiến. Hãy trở thành người khác. Không quan tâm đến thiên hạ sự. Không quan tâm đến bất cứ chuyện bên ngoài. Chỉ cố giữ cho người chồng lý tưởng vui vẻ, dù bất cứ hoàn cảnh nào. Tất cả mọi người đều công nhân Nam là người gương mẫu và lương thiện. Nam được mọi người yêu quý và đang cần cháu Yến trông nom săn sóc. Không cần quan tâm đến chuyện phải trái đúng hay sai. Tất cả đều cố gắng là làm cho Nam vui vẻ. Tuyệt đối không nhắc chuyện không cần thiết. Giữ cho chính mình thanh thản và truyền cho người thân sự bình yên. Phật dạy rằng hãy Buông mọi nỗi ưu phiền của cuộc đời. Chúa dạy rằng Lỗi tại ta mọi đường.

Bác Lộc xin gửi bài viết về ông bà Nguyễn Đình Tạo cho cháu đọc.

Thiên hạ đón người về, đây là chuyện người vợ ngồi chờ chồng ra đi.

Bác Lộc vừa đi thăm bạn cùng khóa là bác Nguyễn đình Tạo.

Hình ảnh đẹp đẽ nhất là bác Tạo nằm trên ghế dài như bộ xương khô 90 tuổi. Bác Tạo gái còn trẻ ngoài 70 ngồi vuốt nhưng sợi tóc thưa cho chồng. Chị ngồi chờ mấy hôm nay cho đến giây phút anh đi. Thực sự ông Tạo đã không còn nhận ra ai từ 2 năm qua. Bệnh Alzheimer. Sống là xác thực nhưng hồn thiêng đã phiêu du cõi ngoài. Nguyễn Đình Tạo bỏ đất Bắc ra đi từ Hà Nội ngày 1 tháng 3 năm 1954. Vào Đà Lạt học võ bị với 300 anh em Bắc kỳ 20 tuổi. Hiệp định Geneve chia đôi đất nước. Bạn cùng khóa nhiều người đón được gia đình di cư. Anh Tạo hoàn toàn mất liên lạc và tiếp tục cô đơn theo đời lính. Lập gia đình có thêm con và sự nghiệp cuối là trung tá quận trưởng 75 đã ở lại đi tù cộng sản 9 năm. Khi được tự do, ông quận trưởng ngày xưa gặp vợ cũ đã có gia đình mới nên đành chia tay. Nguyễn đình Tạo chỉ còn duy nhất một con đường vượt biên.  Ông đem theo cậu con trai gan dạ ngon lành nhất đi đường bộ qua Cam Bốt. Bao nhiêu gian nan vất vả nhưng không thành công. May mắn bố con còn quay về được. Lại tìm đi đường biển.  Bố đi trước.Thằng con gan dạ hơi teo nên tạm chờ. Ông Tạo qua Mỹ nhưng mất thằng con yêu quý và gan dạ. Thấy bố đi êm, nó bèn lên đường. Cháu ở lại biển Đông. Ông Tạo làm thợ giặt ủi và đi bỏ báo để sống mà tìm con. Con ông sẽ không bao giờ tìm thấy những ông tìm được có vợ mới. Ngày xưa ở Đà Lạt có quen cô gái trẻ, ai mà biết được bây giờ nàng cũng đã có gia đình tan vỡ nhưng lại độc thân tại chỗ ở San Jose. Anh Tạo trở thành nhà thơ Đông Anh làm phụ tá giám đốc IRCC và làm thơ tán tỉnh cô Đông Em. Anh em cùng khóa tổ chức đám cưới cho cặp tình Rổ giá cặp lại với thực đơn bánh mì cầm tay. Đám cưới đứng ngồi vui vẻ cùng với ngày họp khóa đoàn viên. Ông Tạo nhận thêm hội Văn Thơ Lạc Việt đang tạm thời nghỉ mát. Ông gầy dựng cho sống lại huy hoàng. Các bạn tù như Hà Thượng Nhân và nhiều người tham dự. Cô vợ trẻ Đà Lạt tự lực cánh sinh bước từ thợ nail lên bà chủ. Mỗi lần hỏi gia cảnh nàng lại thưa rằng nhà em cứ thơ thẩn suốt ngày, chết em thôi. Ông Tạo vừa làm thơ với 9 năm ngục tù, vừa tiếp tục tìm con chết và làm hồ sơ đoàn tụ tất cả những đứa con sống còn ở Việt Nam. Ông bà mua nhà nhỏ rồi chuyển qua nhà rộng hơn. Khi ông về hưu thì bà vợ trẻ Đà Lạt vẫn trông nom cửa tiệm Nail còn nhiều tương lai. Một hôm mới sáng ra ông trung tá quận trưởng kiêm chỉ huy liên đoàn địa phương quân nhìn cô vợ lên tiếng hỏi rằng: Bà là ai, đến đây có chuyện gì. Em tưởng anh nói đùa hóa ra anh nói thật. Anh chẳng biết em là ai. Có lần đang ngồi bên nhau anh Tạo đứng lên đòi người đưa anh về. Về nhà. Đây không phải nhà mình. Em biết đưa anh về đâu. Chuyện người thân đóng vai khách lạ kéo dài suốt 2 năm. Rồi anh yếu dần. 911 đưa anh đi rồi em lại chở anh về. Tuần qua, nhà thơ Đông Anh được 911 chở đi lần cuối. Vợ chồng bác Lộc vào thăm anh chị Tạo. Ông quận trưởng kiêm chỉ huy địa phương quân anh hùng trên đường đi Đà Lạt nằm như bộ xương khô. Cô vợ trẻ, người tình năm xưa ngồi vuốt những sợi tóc thưa. Hỏi rằng vậy thì sau cùng sống bên nhau ra sao sau một kiếp người. Sao trông cô quá hốc hác mệt mỏi. Em không sao. Chỉ phải thức nhiều canh giây phút anh ra đi. Tiệm Nail ra sao. Phải ở nhà nên giao cho người ta rồi. Tuy anh Tạo không biết nhưng nghĩ rằng em là người quen mặt. Không thấy em anh ấy buồn. Tuy bệnh này hồn lìa khỏi xác. Vậy mà thấy người quen mắt anh Tạo tươi hơn đôi chút. Tôi chợt nhớ câu thơ ai viết.

Thiên hạ bao nhiêu người, sao anh chỉ thấy mình em. Tóc thưa sợi ngắn, sợi dài. Vẫn còn 2 sợi biết mình thương nhau…

Mở máy chợt thấy Elvis Phương dài hơi hát nhạc Lê Hựu Hà Yêu nhau, thương nhau, thương nhau, thương nhau. Giờ này còn yêu đương gì nữa. Chỉ thương nhau thôi. Tóc còn 2 sợi biết mình thương nhau…

Giao Chỉ, San Jose.

From: Tuan Ba Cao & KimBang Nguyen

MÙA XUÂN BÊN KHUNG CỬA -Truyện ngắn

Nguyễn Thị Thêm

Người lính già ngồi nhìn ra khung cửa. Nắng rực rỡ ngoài kia. Những hạt nắng nhảy nhót lung linh.

Ông đưa tay lên gãi đầu. Ông lại cười một mình. Ông biết cái đầu ông bây giờ tức cười lắm. Hôm qua bà vợ già đã đặt cái ghế giữa nhà, kéo ông ngồi xuống và hớt tóc cho ông. Bà đâu phải là thợ, bà cũng chưa hề hành nghề này bao giờ thế mà hôm nay bà ra tay “Đè đầu cưỡi cổ” ông. Ông ngồi yên. Mà ông không ngồi yên cũng không được bởi bà đã choàng cái khăn bà may giống ở tiệm, quấn kín cổ cho ông. Bà cười lỏn lẻn:

– Ông chịu khó ngồi yên nghen. Ông mà cựa quậy lung tung, tôi lỡ tay sẽ biến ông thành sư cọ.

Ông tức cười quá nhưng không dám trả lời. Ông mà mở miệng, nước miếng lại trào ra thành dòng. Thôi thì mặc kệ, bả muốn chơi kiểu nào cũng được. Đời ông từ lâu đã giao phó cho con gà mái dầu dễ thương này rồi.

Bà vừa hớt vừa xoay trở, bờ ngực đè lên vai ông cọ qua cọ lại nhiều lần. Ông cũng thấy xuân tình nổi lên, nếu mà ngày xưa bà sẽ chết dưới tay ông. Nhưng cũng nhưng mắc dịch, cái tông đơ đã lâu không sử dụng nó nghiến cái tóc ông đau từng hồi. Ông tự nhủ: “Thây kệ! ráng chịu đau, la lên lại chảy nước miếng”. Cái máy rè rè, bà nghiêng bên này, nghiêng bên kia, lúc dùng lược lúc dùng dao cạo, sửa tới sửa lui. Ông rọ rạy khó chịu. Bà nhét tay ông vào trong khăn dỗ dành:

– Ráng chút nữa, tui sẽ biểu bầy nhỏ mua cái máy khác. Máy mới nó đi ngọt hơn. Đừng! đừng… ông lại rọ rạy, tui dớt bên này sâu hơn rồi nè. Phải sửa lại bên kia cho nó đều. Ông thiệt là…

Một hồi sản phẩm của bà cũng xong, bà đứng ra phía trước nghiêng người ngắm nó ra vẻ hài lòng. Lột khăn choàng ra. Kéo ông đứng dậy bà cười:

– Bi giờ ông giống lính mới tò te nhập quân trường. Thôi đi vào ghế nằm nghỉ ngơi một lát, dọn dẹp xong, tui tắm cho ông.

Vào phòng tắm bà lại lôi máy cạo râu chơi một vòng lả lướt trên mặt ông trước khi lột sạch đồ và đưa ông vào bathtub. Bà lấy cái ghế nhỏ kéo ông ngồi xuống. Bà bước hẳn vào trong, thử nước vừa ấm và cẩn thận gội đầu cho ông. Bà cười giọng reo vui:

– Đại Úy, tóc cắt kiểu này không sai luật quân trường phải không? Tui cắt tóc cũng chiến lắm chứ bộ.

Ông làm thinh nhớ đến quân trường ngày đầu nhập ngũ, nhớ những lần tập huấn:”Quân trường đổ mồ hôi, chiến trường bớt đổ máu” Nhớ cái nhìn sửng sốt lẫn thương cảm của mẹ nhìn thấy con trai cái đầu húi cua và gương mặt sạm nắng.

– Ông nè, hớt tóc ở nhà đỡ cho ông khỏi phải chờ đợi ở tiệm đau cả lưng. Dẫu tui hớt có xấu đi một chút, nhưng già rồi mình đâu có đi đâu mà ngại. Mà ông đừng lo, lần đầu chưa quen tay, tui hớt chưa đều, mai mốt tui lành nghề mấy ông già hàng xóm thấy mê, qua đòi tui hớt và tắm rửa ông đừng có ghen nha.

Ông cố nín cười về câu pha trò của bà, bà cũng kéo ông về thực tại về những lần phải đi hớt tóc ngoài tiệm. Phải rồi, ông nhớ lại mỗi lần đi tiệm hớt tóc, bà vợ ông đã gọi trước lấy hẹn để ông khỏi phải chờ. Nhưng lần nào chú thợ cũng bận hớt một hoặc hai người trước ông. Ông ngồi xuống ghế, bà ngồi ghế kế bên luôn chậm nước miếng và đỡ cho đầu ông không gục xuống. Cái lưng ngồi lâu lại đau thắt cả người. Bà lại dìu ông đứng dậy rồi đỡ ông đi loanh quanh bên ngoài.

Tới phiên ông vào cắt, ông không thể nào ngồi vào cái ghế dễ dàng dù ghế đã hạ thấp xuống hết cỡ. Chú thợ và bà phải nâng ông lên trên ghế và xoay cho ông ngồi ngay ngắn. Cũng tội nghiệp chú thợ, đầu ông cứ ngọ ngoạy và gục xuống vì mỏi cổ. Có khi ông ngủ gục, giật mình một cái khiến chú thợ hết hồn. Cho nên lần nào ông đi hớt tóc bà vợ cũng kè một bên nâng đầu ông lên cho thẳng. Tóc ông hớt bay vào  người bà,  mỗi lần đi tiệm về, tắm ông xong bà cũng phải tắm luôn cho mình.

-Xong rồi. Sạch sẽ, đẹp trai. Mời đại úy bước ra.

Bà lại dìu ông bước ra khỏi bathtub trần truồng như nhộng. Nhìn vào gương ông không khỏi chạnh lòng. Ông già này là ông đó sao? Ông muốn khóc cho mình, cho số phận chua chát của  kiếp người, một người lính già bệnh tật. Hai tay vịn vào bàn ông giang chân hơi rộng ra để bà mang tã. Ông lại đứng yên nhìn mình trong gương. Cảm xúc lúc nãy biến mất dường như ông không quen người này, cái gã lạ mặt cứ nhìn chăm chăm vào ông.

– Giơ chân lên đi ông, chân này trước nè

Bà vỗ vỗ ở chân làm ông giật mình. Ông giơ chân lên để bà mặc quần, hết vỗ chân này bà lại vỗ chân kia, nếu không chân ông cứ dính chặt trên nền không nghe ông sai bảo. Mặc áo cho ông xong xuôi, bà cầm tay ông lên ngắm:

– Móng tay ông đã dài nữa rồi. Thôi sẵn nó mềm tui cắt luôn cho đủ bộ.

Bà dắt tay ông dìu ngồi trên cái bồn toilet đã được đậy nắp lại:

– Đưa tay trái đây ông.

Bàn tay bà nắm lấy tay ông  kéo về phía mình và ngồi xuống tẩn mẩn cắt từng móng tay, móng chân cho ông. Cái đầu bà cúi xuống chăm chỉ.

Chăm chỉ như khi bà mới về làm dâu nhà ông, lau thật kỹ bộ lư đồng bàn thờ. Cô dâu mới miền Nam đôi mắt ngây thơ sợ sệt bước vào gia đình ông. Một gia đình miền Trung cổ hũ, thân phận dâu cả phải lo kỵ giỗ, gia nương mồ mả nhà chồng.

Những móng tay bị cắt kêu tách tách. Ông nhớ những ngày quê nhà, bà hí hoáy bên nồi bánh Tết, lửa trong bếp sáng rực, kêu lách tách như vậy. Giòn giã hơn, vui tươi hơn. Còn bây giờ tiếng kêu như những nhịp đau thương từ trái tim ông reo lên thương cảm. Người vợ 43 năm chung thủy của ông có được gì đâu chớ. Chỉ nhận được từ ông bao nỗi cay đắng truân chuyên. Nước mắt ông ngân ngấn nhưng tay đã bị bà giữ chặt. Bà giữ cuộc đời ông bằng tất cả trái tim của một người vợ lính.

Xoa hai bàn tay lại với nhau, bà cười cười:

-Tất cả sạch sẽ, tươm tất. Đại úy ơi! xin cho tiền típ.

Ông cười, nước miếng lại chảy ra thành dòng. Bà với tay, lấy cái khăn chùi sạch, nhẹ nhàng chọc quê,:

– Thấy gà mái dầu xấu xí thèm gà móng đỏ phải không?.

Rồi bà dìu ông vào phòng, để ông ngồi lên giường, ôm ông xoay người cho ông nằm xuống. Bà kéo chăn đắp lên người ông, nâng giường cho đầu ông vừa tầm. Bà nói:

– Thôi ngủ một giấc cho khỏe đi ông! Tui đi tắm rồi tui xuống nấu cơm.

Và vậy bà đã xuống phòng ăn. Ông nằm im nhìn lên trần nhà buồn vui lẫn lộn. Có ai ngờ cuộc đời ông lại như thế này. Ông thường thấy bạn bè về bên ông tâm tình. Ông thấy thằng bạn trèo lên lợp nhà trong trại Thanh hà bị sét đánh chết. Ông nhìn thấy con rắn đang bò đến bên ông khi hai tay ông đang ôm bó tre thật lớn. Ông thấy bạn, thấy thù. Thấy những cái nón cối, thấy đầu súng kè kè bên hông ông. Ông thấy mình đói, cái đói cồn cào kinh hoàng như tiêu diệt từng tế bào của con người. Cái đói người tù giết mòn ý chí và nghị lực. Cái đói đến từng đêm dù bây giờ ông vẫn ăn no đủ. Những giấc mơ không đầu không đuôi vùi dập ông mỗi đêm. Những hình ảnh bạn bè thân quen đến với ông hàng ngày. Ông chìm vào thế giới đó và mênh mang trong cuộc sống. Đôi khi ông vô tình quên hẳn sự hiện hữu của bà.

Hôm nay, sao ông lại thấy bầu trời đẹp, thấy bà thật dễ thương. thấy thèm một dĩa cà và vã ăn với mắm ruốc hay một tô bún bò huế thật cay nghi ngút khói. Ông nhớ ngày bà ra Huế thăm ông, Ông chở bà bằng xe đạp đi loanh quanh thành nội thăm bà con. Thời kỳ chiến tranh căng thẳng, VC hay pháo kích bất ngờ. Nhưng thây kệ, mấy khi vợ lính ra thăm chồng, mấy khi ông được nghỉ phép đặc biệt. Cuộc sống lính tráng biết sao được ngày mai, hạnh phúc trong tay cứ hưởng. Thế là hai vợ chồng trẻ trên chiếc xe đạp đi khắp nơi. Tình yêu ngọt ngào tưởng như vô tận. Ông lại chép miệng thật thèm, thèm đủ thứ và tưởng chừng như có bà một bên để ông ôm siết bà thật chặt. ” Ôi! cô giáo của riêng ông!”

Ông lại sờ lên đầu. Cái đầu mới hớt của anh lính mới tò te, râu ria nhẵn nhụi. Cả một thời trai trẻ lại về. Ông nhắm mắt lại, nhớ mùa xuân quân trường. Nhớ nụ hôn ngọt mềm: “Em đến thăm anh vào một ngày đẹp nắng…”

Nguyễn Thị Thêm

From: Tu-Phung


 

Chuyện về người phụ nữ Việt lấy chồng thuộc bộ tộc kỳ lạ nhất nước Mỹ

Kimtrong LamLương Văn Can 75.

Chuyện về người phụ nữ Việt lấy chồng thuộc bộ tộc kỳ lạ nhất nước Mỹ

Người phụ nữ Việt kể chuyện lấy chồng thuộc bộ tộc kỳ lạ nhất nước Mỹ. Nguyễn Yến Nhi- Một người phụ nữ Việt chia sẻ, chồng chị xuất thân từ tộc người Amish. Cộng đồng này từ chối các tiện nghi của thế giới hiện đại, không dùng điện, đi xe ngựa và chú trọng phát triển nông nghiệp.

Trước khi kết hôn với người đàn ông Mỹ John Lapp (39 tuổi), chị Nguyễn Yến Nhi (35 tuổi, quê Kiên Giang) chưa từng biết đến chuyện giữa lòng nước Mỹ giàu có và phát triển bậc nhất thế giới có một cộng đồng trung thành với lối sống tối giản, từ chối gần như mọi tiện nghi của nhân loại.

Họ không sử dụng điện, không dùng tivi, không dùng radio, không chụp hình, không dùng pin sạc, không dùng máy tính kết nối mạng. Trong cuộc sống của họ cũng không có sự hiện diện của điện thoại di động.

Cả cộng đồng đi lại chủ yếu bằng xe ngựa, coi nông nghiệp và nghề mộc là nền tảng cơ bản… Họ cho rằng, công nghệ sẽ ảnh hưởng đến văn hóa, khiến các thành viên trong cộng đồng xa cách nhau và bị đồng hóa với bên ngoài.

Những người đặc biệt này thuộc tộc người Amish. Tộc Amish có khoảng 300.000 người sống rải rác ở các bang Pennsylvania, Ohio, Indiana, New York của Mỹ.

Chị Nguyễn Yến Nhi đang sinh sống ở Mỹ.

Bộ tộc Amish xuất hiện ở Mỹ từ thế kỷ 18. Họ có những quy tắc truyền thống nghiêm ngặt được duy trì suốt hàng trăm năm. Người nào làm ngược lại với các quy tắc đó sẽ bị xem là “tội lỗi”.

Chia sẻ về người chồng của mình, chị Yến Nhi cho biết, trước đây, anh John Lapp sống ở bang Pennsylvania, nơi tập trung đông đảo người Amish.

Theo truyền thống của cộng đồng, anh chỉ học hết lớp 9 và đi làm nghề mộc, dựng các ngôi nhà bằng gỗ. Người đàn ông này không được phép lái xe, không sở hữu ô tô. Thi thoảng đi đâu xa, anh được phép sử dụng các phương tiện công cộng.

Vì không dùng điện nên nhà của John Lapp chỉ có các thiết bị chạy bằng gas như bếp gas, tủ lạnh gas. Gia đình anh cũng không có tivi. Anh có máy tính nhưng chiếc máy tính này đã bị lược bỏ hết các thiết bị có thể kết nối mạng.

“Trước đây, gia đình anh không sử dụng điện thoại. Nhưng sau này, để phục vụ cho việc truyền tin, ba bốn gia đình đã lắp một chiếc điện thoại bàn để ở một căn chòi độc lập”, chị Nhi kể.

Xe ngựa là phương tiện di chuyển của người Amish.

Cộng đồng người Amish sinh sống rất đoàn kết và tôn trọng các yếu tố thuộc về tình yêu, gia đình. Tuy nhiên, giữa sự phát triển không ngừng của thế giới hiện đại, nhiều người trẻ Amish đã lựa chọn rời bỏ cộng đồng để trải nghiệm thế giới bên ngoài. “Sau nhiều lần suy nghĩ, tôi cũng đã đưa ra quyết định khó khăn ấy”, John nói.

Năm 2018, người đàn ông này rời bỏ cộng đồng của mình. Điều này đồng nghĩa rằng, mối quan hệ của anh với gia đình và nhà thờ không còn như trước nữa. Anh không được ăn cùng bàn nếu dùng bữa chung, không được tham gia vào những buổi tiệc của gia đình.

Trước đây, theo quy tắc của cộng đồng, anh John chỉ học hết lớp 9. Vì vậy, khi bước chân ra ngoài, người đàn ông này không có bằng cấp, không có nhiều lựa chọn công việc.

“Sau đó, anh xin vào làm ở một công ty về in ấn 3D và máy móc. Anh dần làm quen với các tiện nghi, đi máy bay, du lịch, sử dụng điện thoại di động, máy tính kết nối mạng”, người phụ nữ Việt nói.

Chuyện tình xuyên biên giới của cặp đôi vợ Việt – chồng Amish

Khoảng thời gian này, người đàn ông Mỹ cũng mở rộng các mối quan hệ, giao lưu kết bạn nhiều hơn. Anh được một người bạn Việt Nam giới thiệu làm quen với chị Yến Nhi.

“Khi ấy, tôi đang sống ở Kiên Giang, còn anh sống ở Mỹ. Chúng tôi trò chuyện qua mạng”, chị Yến Nhi nhớ lại.

Thời gian này, chị Yến Nhi đang tham gia một chuyến đi hỗ trợ trẻ em tại Campuchia nên có nhiều chuyện hơn để chia sẻ với John Lapp. Hai người tìm thấy ở nhau sự đồng điệu, niềm tin và cùng có chung mong muốn hỗ trợ những trẻ em có hoàn cảnh khó khăn.

John với những câu chuyện về cộng đồng kỳ lạ Amish càng khiến người phụ nữ Việt cảm thấy tò mò. “Khi quen John, tôi mới biết đến người Amish. Tôi rất bất ngờ khi nghe anh kể về bộ tộc kỳ lạ”, chị Nhi nhớ lại.

Qua cách John chia sẻ, chị Yến Nhi cảm thấy anh luôn day dứt và đã phải suy nghĩ rất nhiều khi đưa ra quyết định rời khỏi cộng đồng. Những tâm sự, nỗi niềm cứ thế khiến họ xích lại gần nhau.

Cả hai trò chuyện, cập nhật hình ảnh thường xuyên cho nhau. Đến một ngày, khi nhận ra, Yến Nhi như một phần tất yếu không thể thiếu với mình, người đàn ông Mỹ quyết định nói lời tỏ tình.

Tháng 2/2019, John đến Việt Nam để gặp gỡ Yến Nhi. Người phụ nữ Việt chưa từng nghĩ mình sẽ yêu và lấy một người ngoại quốc. Trong gia đình, Yến Nhi còn được xem là trụ cột. Tuy nhiên, sự kiên trì và tình cảm chân thành của anh đã khiến chị rung động.

Trong năm 2019, John còn quay lại Việt Nam thêm 4 lần nữa để thăm người yêu. Họ quyết định kết hôn vào đầu năm 2020, sinh sống ở bang Pennsylvania.

Tự xây nhà, làm vườn, sống tự cung tự cấp

Sau một thời gian đi làm ở công ty in ấn, anh John nhận thấy nếu tiếp tục làm công việc này, anh sẽ không có nhiều thời gian dành cho gia đình. Hơn nữa, mức thuế đóng cao khiến anh nghĩ tới việc muốn được làm chủ chính mình.

Nỗi nhớ lối sống xưa khiến người đàn ông Mỹ lên kế hoạch nghỉ việc. Anh tìm một nơi ở mới để xây nhà và thực hiện cuộc sống tự cung tự cấp như cộng đồng mình trước đây.

Tháng 7/2021, vợ chồng chị Yến Nhi mua mảnh đất rộng ở 8ha ở bang Tennessee, thuộc khu vực rừng nguyên sinh cũ, vắng dân cư và rất ít xe cộ qua lại. Nơi đây có thời tiết ít lạnh hơn và mức thuế phải đóng thấp hơn ở bang cũ.

Cả hai tự xây nhà, sử dụng các vật liệu thân thiện môi trường thay vì sử dụng công nghệ xây nhà hiện đại phổ biến tại Mỹ.

Anh John tự xây dựng ngôi nhà bằng gỗ theo kỹ thuật của người Amish.

Thời gian đầu, để có lối vào đất, John phải thuê người đổ một con đường nhỏ từ ngoài đường lớn vào nơi dựng nhà. Đây là một trong những lần ít ỏi họ thuê người khi xây nhà. Tất cả mọi hoạt động xây dựng sau đó đều do người đàn ông Mỹ đảm nhiệm. Anh tự thiết kế, đo đạc, dựng vách, làm mái…

Chị Yến Nhi nhớ lại những tháng đầu vất vả nhất: “John tự đào đất, đào hầm, lái máy phát cây, chặt rễ. Anh ấy cũng tự mua gỗ về cắt và dựng vách. Dù chỉ mới học hết lớp 9 nhưng với kinh nghiệm dựng nhà của người Amish, anh thiết kế được một ngôi nhà 2 tầng rất chắc chắn”.

Anh John tự tay thiết kế ngôi nhà chắc chắn.

Thời điểm cặp vợ chồng Việt – Mỹ xây nhà, John vẫn phải dành khoảng 2/3 thời gian trong tháng đi làm ở bang cũ (cách bang Tennessee 10 giờ di chuyển ô tô – PV) để có tiền trang trải cuộc sống.

Mỗi tháng, họ dành khoảng 7-10 ngày cho việc dựng nhà. Có lần, vì muốn tiết kiệm chi phí, họ dựng lều ngủ tại công trình. Nhưng vì đêm quá lạnh, con trai 10 tháng tuổi lại ốm sốt, nên cả hai sau đó đành phải thuê nhà nghỉ cách đó nửa tiếng đi xe. “Tiền nhà nghỉ, tiền ăn khá tiêu tốn. Đó là một áp lực lớn với vợ chồng”, chị Yến Nhi nói.

Vì anh John không có bằng kỹ sư xây dựng nên trong suốt quá trình thi công, đại diện của giới chức địa phương đã nhiều lần tới kiểm tra về độ an toàn của ngôi nhà. Tất cả các hạng mục từ dựng hầm, làm vách, lợp mái, hệ thống đường điện… đều được nghiệm thu chuyên môn.

Đầu năm 2022, cặp vợ chồng chính thức chuyển vào ngôi nhà mới ở. Ngôi nhà không kết nối được hệ thống nước sạch, cả hai tự đào giếng để lấy nước sinh hoạt. Song, nguồn nước bị phèn không thể sử dụng. Họ nghĩ ra cách mua bồn chứa nước mưa và tận dụng thêm nguồn nước tự nhiên từ suối.

Hoàn thiện ngôi nhà 2 tầng, chị Yến Nhi cùng chồng bắt tay vào khai hoang, làm vườn, trồng các loại cây ăn quả, cây rau. Họ ăn uống đơn giản với những thứ mình tự trồng được.

Chị Nhi tham gia các phiên chợ nông sản đều đặn mỗi tuần.

“Nhiều người hỏi tôi, lấy chồng Mỹ sao phải cực thế?”

Từ sau khi chuyển về nơi ở mới sinh sống, John quyết định nghỉ hẳn việc ở nhà làm nông nghiệp cùng vợ. Vì vẫn lưu giữ tư tưởng của người Amish nên anh muốn dành thời gian cho gia đình và giữ nhiều thói quen của cộng đồng.

Kinh tế gia đình họ chủ yếu dựa vào nông nghiệp theo truyền thống của người Amish. Tính trung bình, họ thu được khoảng 400-800USD/tuần, tùy vào lượng nông sản bán ra.

Ngoài việc lựa chọn lối sống nông nghiệp, cặp vợ chồng Việt – Mỹ còn học các bí quyết bảo quản thực phẩm, rau củ quả theo cách của người Amish để trữ các loại thực phẩm từ 2 đến 3 năm. Họ cũng không sử dụng tivi trong nhà vì cho rằng xem tivi sẽ rất mất thời gian. Cả hai hạn chế đến bệnh viện, chữa bệnh bằng thảo dược.

Thấy con gái lấy chồng Mỹ nhưng lại tự xây nhà, hàng tuần đi chợ bán rau quả kiếm thêm thu nhập, gia đình của chị Nhi ở Việt Nam rất sốc. “Mọi người nói, tưởng lấy chồng Mỹ phải sướng chứ sao lại sống cực như vậy? Nhiều bạn bè cũng hỏi tôi sao phải chọn con đường đó?”, chị Yến Nhi kể.

Chị Yến Nhi thừa nhận, việc chồng xuất thân từ tộc người Amish đã ảnh hưởng không nhỏ đến lối sống của họ. Chính những điều khác thường khiến nhiều người bàn tán. Có người thì lo lắng, thương cô thật lòng, nhưng cũng có người coi rằng, lựa chọn của vợ chồng Nhi là kỳ dị.

Yến Nhi chia sẻ câu chuyện của gia đình qua kênh “Vợ Việt chồng Amis”, nhiều người không khỏi bất ngờ về cuộc sống của cặp đôi.

Trước những lời bàn tán, chị Yến Nhi dường như không bận lòng. Người phụ nữ Việt tâm sự, ban đầu nghe chồng kể, chị cũng có những suy nghĩ không tích cực về tộc người Amish. Nhưng lâu dần, chị lại thấy yêu thích và tôn trọng lối sống của họ. Người Amish luôn đặt tình yêu và sự tha thứ lên hàng đầu. Họ có nhiều thói quen tốt, sống thân thiện với môi trường.

Đặc biệt, những người Amish truyền thống thường không muốn lấy bất cứ thứ gì của người khác nên rất hạn chế nhận trợ cấp. Họ cũng không muốn người khác nghĩ mình là người nghèo. Họ tự lao động và dù khó khăn vẫn nhường phần trợ cấp cho những người không có khả năng lao động.

“Tôi thấy điều này thể hiện rất rõ ở con người John. Nhiều thời điểm khó khăn nhưng chưa khi nào anh nghĩ đến việc sẽ ngồi không nhận sự trợ giúp từ ai đó. Bản thân tôi hoàn toàn hài lòng với cuộc sống hiện tại và cảm thấy rất hạnh phúc”, chị Yến Nhi cho hay.

VietBF@ sưu tập


 

ANH TÔI – (Nguyễn Thị Thái Hòa)

ANH TÔI – (Nguyễn Thị Thái Hòa)

TamAn

Sau ngày mất nước người anh còn lại bị bắt đi “cải tạo”.

Anh tôi cũng như ba tôi trước sau đều phục vụ thuộc tại tiểu đoàn 12 Pháo Binh. Tuy là sĩ quan cấp úy, nhưng không hiểu sao anh tôi lại bị đưa ra Bắc.

Đầu năm 1977 gia đình tôi mới nhận được tin và xin giấy đi thăm nuôi. Gia đình đơn chiếc, nên tôi phải thay Mẹ làm “thân cò” lặn lội ra Bắc tìm anh Hai.

Nói là đi tìm vì thực sự tôi chưa biết đích xác là anh tôi đang ở đâu? Sau tháng tư Đen, trong miền Nam cũng như ngoài Bắc nhà tù CS mọc lên như nấm dại. Có những nhà tù chúng nó dựng lên chưa kịp đặt tên thì những người Lính miền Nam “bị gảy súng” đã đầy ắp và người Tù cũng bị di chuyển liên miên.

Tuy rằng khi nhận tin thân nhân mình ở chổ này, nhưng khi ra tới nơi thì họ đã bị chuyển đi nơi khác nên mỗi khi đi

thăm nuôi mà gặp ngay được người nhà của mình đúng như lời nhắn thì thật là họa hiếm.

Tôi nghe ngóng, lần mò hỏi thăm mười mấy người lối xóm và theo họ đi ra Bắc tìm thăm thân nhân. Ai cũng tay xách nách mang, trên mặt người nào cũng đầy vẻ lo âu mệt mỏi. Phương tiện di chuyển là xe lửa, xe đò nhưng rất khó khăn nên phải mất hơn mười ngày mới ra tới Hà Nội. Chưa ra tới nơi, chưa kịp gặp thân nhân thì những giỏ quà của chúng tôi bị bọn công an dọc đường tịch thu hơn phân nữa. Có người mất sạch!

Trong đoàn người đi tìm thăm thân nhân này có tôi là trẻ nhất, ốm yếu nhất . Hỏi thăm đủ nơi, đủ chổ, có khi mất thêm đôi ba ngày nữa mới tìm tới được nơi nhốt thân nhân của mình. Cũng là may mắn, một số người đi chung tìm được thân nhân của họ tôi thì tìm được nơi anh tôi bị giam giữ là một vùng đất xa tít tuốt trên Cao Bằng, Lạng Sơn.

Tới nơi thì trời đã sẩm tối, đoàn người ngồi chờ trong một cái chòi tranh phía ngoài trại tù . Đâu chừng một giờ sau, một gã công an xuất hiện. Với cái giọng Nghệ An trọ trẹ nặng như đeo đá, gã gọi từng người, trình đủ thứ giấy tờ, hạch hỏi đủ thứ chuyện, rồi đến cái màn lục xét những giỏ đồ thăm nuôi, và sau cùng mới gọi người tù ra.

Tôi sốt ruột vì ai cũng được gọi gặp thân nhân mà tên của anh tôi thì chẳng nghe . Lo âu, mệt & đói, làm hai mắt hoa lên, đầu óc nặng trỉu, hết đứng lên ngồi xuống, trong lòng như lửa đốt.Thấy những người cùng đoàn đang khóc mừng , tíu tít hỏi thăm thân nhân họ, trong lòng tôi cứ như bị kim châm.

Ngơ ngác chưa biết tìm ai để hỏi. Bỗng có một gã công an đến gần tôi ra lệnh :

– Người nhà của cô bị nhốt chỗ khác, xách đồ đi theo tôi…

Như có sức mạnh vô hình, tôi quên mệt. Rất nhanh, đứng dậy xách hai giỏ đồ đi theo .

Trời tối như mực. Gã công an mang súng đi trước với cái đèn pin nhỏ

Quanh co một đổi quảng chừng năm mười phút cách nhà tù. Tôi hỏi: Thưa ông, gần tới chưa?

Gã không trả lời lầm lũi đi tiếp.

Thêm một đoạn nữa cũng đâu chừng năm phút gã dừng lại, tôi nghe như có tiếng nước chảy của một con suối nhỏ, một tên đứng phía dưới khoát nước lên nói : ê, đừng lại đây đi!

Có tiếng xì xào của vài tên công an nữa đang chờ sẳn ở đó. Chúng nó hỏi gã dẫn đường

Tới rồi à?

Gã công an dẫn đường ra dấu cho tôi đứng lại.

Tôi sốt ruột hỏi :

Dạ thưa ông chừng nào thì tới chổ anh tôi ở?

Chúng nó phá lên cười rồi nói:

Gấp gì, đằng nào cô cũng gặp người nhà mà, ở đây “ủng hộ” chúng tôi một tí đi… đã!

Chúng nó kéo dài chữ “đã” ra và cười hô hố…

Tôi chưa kịp phản ứng gì thì chúng đã xúm lại , giựt hai giỏ xách đồ của tôi liệng ra xa, lột áo quần, đè tôi xuống, hai

thằng trong bọn chúng đứng phía trên đầu tôi, mỗi thằng một bên, dùng hai chân đạp mạnh lên hai cánh tay giang thẳng của tôi cho một thằng khác hảm hiếp.

Sau mỗi một thằng, chúng nó bắt tôi xuống con suối nhỏ đó rửa ráy, rồi leo lên cho thằng khác làm tiếp….

Giữa núi đồi hoang vu, giữa đồng mông hiu quạnh, kêu trời, trời chẳng thấu, kêu đất , đất chẳng nghe.

Với bản năng sinh tồn tôi cắn răng mềm người chịu đựng, nước mắt ứa ra nhưng không dám kêu la, không dám kháng cự mặc cho một lũ “đười ươi” sáu, bảy thằng “phóng uế” lên thân xác mình… Lòng thầm mong sao cho chóng qua tấn tuồng bỉ ổi này!

Trước khi kéo nhau đi, chúng vổ vai nhau cười ngả nghiêng, cười thỏa mãn, cười man rợ, giọng cười của lũ ác quỷ hiện hình, một tên trong bọn chúng quay lại hăm dọa:

-Liệu mà câm mồm lại nhá…

Khi chúng bỏ đi, tôi lăn mình xuống suối để rửa cho hết những vết dơ trên người. Mặc lại áo quần, mò mẩm trong bóng tối tìm lại hai giỏ đồ…

Lạnh lẻo, run rẫy, toàn thân tôi đau đớn vô cùng , hai cánh tay tôi như muốn gẩy nát, tôi không đi nổi, tôi lết từng đoạn, nhắm hướng mà lết và không biết bao lâu, khi lết tới được trại tù thì trời cũng gần sáng.

Tôi mong mặt trời lên, mong nhìn thấy được anh Hiệp của tôi mong trao được giỏ quà và để theo kịp đoàn người thăm tù trở về Nam.

Vậy mà chờ cũng gần tới trưa chúng nó mới cho gọi anh Hiệp ra.

Bằng cái giọng rất đểu cáng, một tên công an vờ vịt nạt nộ tôi:

– Đi đâu cả đêm qua bây giờ mới mò tới? Hết giờ thăm nuôi rồi biết chửa?!

Rồi chúng nó bảo là đã qua giờ thăm nuôi, nên tôi chỉ được đứng bên ngoài hàng rào kẽm gai 15 phút và được gởi giỏ đồ ăn lại.

Có gã công an dẫn đường đêm qua đứng gần đó , hai con mắt cú vọ của nó gờm gờm nhìn tôi..

Dù tôi không được nói ra được nhưng nhìn thần sắc thiểu não, nhìn bộ đồ nhầu nát lấm sình đất chưa kịp khô trên người tôi, anh Hiệp cũng đoán được chuyện gì đã xẩy ra cho em gái mình.

Tôi biết đêm qua, khi tấm thân của tôi bị vùi dập bởi loài quỉ đỏ thì lòng dạ anh Hiệp cũng nôn nóng từng giây chờ gặp tôi. Anh Hiệp nhìn tôi, hai mắt đỏ rực, những tia máu trong mắt anh như muốn nổ tung. Anh cắn chặt vành môi . Tay đấm mạnh vào ngực, rồi nghiến răng, hai con mắt như tóe lửa quay qua nhìn tên công an.

Hai chữ  “trời ơi” của anh không thoát ra khỏi cổ họng, mà sao tôi nghe rõ mồn một, như xoáy vào tim óc tôi, nghe như tiếng rên siết của trái tim anh.

Tôi biết anh Hiệp đau khổ đến cùng độ. Anh nhìn tôi với anh mắt đau đớn, thương xót đứa em gái bất hạnh khốn khổ của mình.

Hai anh em chỉ cách nhau có một hàng rào kẻm gai, mà sao như cách xa ngàn dậm không sao vói tới. Một tay anh bấu vào hàng rào kẻm gai đến chảy máu, tay khác cố thò ra ngoài tỏ dấu muốn nắm lấy tay tôi. Đầu anh gục xuống sát hàng dây kẻm gai miệng thì cứ rên siết có một câu : Ti ơi, Ti ơi …

Tôi không nói được gì hết, chỉ nhìn anh mà khóc.Tiếng khóc uất nghẹn của tôi như một lời xác nhận khiến anh Hiệp càng đau, càng điên thêm. Rồi thì anh té nhào xuống, ngất đi. Bạn Tù khiêng anh vào trong . Tôi đứng chết trân nhìn theo, khóc nghẹn, tôi thấy máu trong lòng bàn tay anh tươm ra. Trời hởi, trời ơi

Bọn công an đuổi tôi về. Tôi không muốn về. Tôi kêu gào, tôi van xin chúng cho tôi được ở lại với anh tôi.

Những người đi chung trong đoàn, thấy hoàn cảnh thê lương của tôi, họ thương hại, họ dỗ dành, an ủi, họ bảo nhau cố nán lại chờ tôi về cùng. Họ xúm lại dìu tôi đi.

Tôi đành phải theo họ ra về mang theo tủi hờn và nét mặt đau đớn của anh Hiệp…

Đó là lần gặp gở sau cùng của anh em tôi.

Trở về nhà, tôi sống trong những ngày tháng đau đớn trên thân xác. Kinh hoàng trong tâm tưởng. Âm thầm đau khổ. Không dám than thở với ai, kể cả người mẹ thân yêu của mình.

Trời hởi, trong đoàn người cùng đi thăm chồng, thăm cha, thăm anh em của họ, tại sao chỉ có mình tôi trở thành nạn nhân của loài quỉ đỏ? Tại sao lại là tôi? Tại sao lại là tôi chứ? Tại sao tôi phải nhận chịu tai họa ghê tởm đó?

Có ai hiểu thấu tâm trạng của một người đàn bà trẻ yếu đuối sa cơ thất thế, khi rơi vào tay những tên công an độc ác!

Nhưng trong muôn ngàn cay đắng, tôi thầm tạ ơn Trời Đất, vì đã không có một giọt máu nào của loài quỉ dữ thành hình trong tôi. Tôi chỉ biết lấy đó làm điều an ủi…

Và rồi mỗi lần đến kỳ thăm nuôi, trong lòng tôi cứ đắn đo, lo lắng, suy nghĩ. Những đôi mắt cú vọ của những tên công an khốn kiếp, cái cảm giác kinh hoàng cứ lẩn khuất trong tâm tưởng không thôi… Nhưng mà trời hởi, tôi không thể không đi, bởi hình ảnh ghẻ lở ốm đói của những người tù mà tôi được nhìn thấy làm tôi chạnh lòng , tôi đau xót, nghĩ rằng biết đâu anh của mình cũng sẽ như thế nên tôi không nở, nên lại tất tả ngược xuôi mua sắm và chuẩn bị cho lần ra đi tới… Tôi không thể ích kỹ, tôi nhớ tới anh Lộc, anh Kính, hai người anh tôi đã chết cho tôi được sống trong tết Mậu Thân 68.

Hai tháng sau cái đêm khốn nạn đó, tôi ra thăm lần nữa thì mới hay anh Hiệp đã bị bắn chết ngay tại hàng rào sau trại chỉ vài hôm sau khi tôi ra về. Về sau bạn tù của anh kể lại : Khi tôi ra về rồi, một lúc sau thì anh Hiệp tỉnh lại. Lầm lì mấy ngày không nói. Trong một buổi “học tập chính trị” anh tôi đã không giữ được bình tỉnh, chửi bới công an khốn kiếp, lợi dụng, hiếp dâm thân nhân của tù cải tạo, thì ngay tối hôm đó anh tôi bị lôi ra khỏi chổ nằm. Không ai biết anh Hiệp bị đưa đi đâu. Đang đêm họ nghe hàng loạt tiếng súng. Họ đoán trước được số phận của anh tôi.

Sáng sớm hôm sau, trước giờ “lao động” Bạn Tù thấy xác anh Hiệp nát bấy bên cạnh hàng rào sau lưng trại tù. Chúng phao tin là anh âm mưu trốn trại nên bị bắn hạ.

Họ được lệnh bó chiếu chôn cất anh…

Vô tình và oái oăm, Bạn Tù chôn anh ngay trên phần đất mà tôi bị hảm hiếp hai tháng trước.

“Anh Hiệp ơi, Anh Hiệp ơi…”

Bạn Tù của anh để mặc tôi kêu gào, rũ rượi bên nấm mồ mới đắp sơ sài của anh. Trước mặt mấy tên công an, họ không dám nói lời an ủi tôi, họ không dám khóc anh.

Hơn một tuần lễ ở lại trong buôn làng của người Nùng , sau mọi thủ tục tiền và vàng lo lót, chúng chịu để yên cho tôi mướn người đào mộ lên, mướn họ đem xác anh tôi đi thiêu .

Có lẽ vì có tính toán trước dùm tôi , nên Bạn Tù chôn anh rất cạn.

Khi thấy xác anh Hiệp được cất lên, tôi có cảm tưởng như anh tôi bị chôn sống như những người trong gia tộc hồi tết Mậu Thân.

Thêm một lần phải chứng kiến cái cảnh nát lòng này.

Trời hởi, những cái chết đau thương vẫn không buông tha những người ruột thịt thân yêu của tôi!

Đêm hôm đó, giữa núi rừng lạnh lẽo, cô đơn ngồi nhìn đống lửa thiêu rụi thi thể anh tôi. Đống lửa cao ngất trời. Lửa hỏa ngục ở trần gian. Lửa thiêu đốt thân xác người anh thân yêu của tôi. Lửa đang đốt cháy trái tim tôi.

Tôi thấy nét mặt anh tôi ẩn hiện trong ngọn lửa.. Nét mặt rạng rỡ của tuổi thanh niên. Nét mặt sạm nắng của thời lao vào bom đạn. Dáng dấp anh trong bộ đồ lính trận, giọng nói ồ ề mỗi lần về phép. Từ đầu thềm nhà đã lên tiếng gọi : Ti ơi, anh về nè

Anh Hiệp ơi, sao không là Mẹ, là Ba, là ông bà Nội , không là ai khác, mà gọi con Ti đầu tiên?

Trước khi bị bắn gục anh cũng gọi “Ti ơi” có phải không?

Trời ơi, cho tới bây giờ, tôi vẫn không thể nào quên được đôi mắt đỏ ngầu của anh tôi, vẫn không quên được cái âm thanh thê thiết của bốn chữ “Trời ơi, Ti ơi”. Cho tới bây giờ tôi vẫn nghe rõ, rõ lắm.

Nhưng mà tiếng tôi gọi “Trời ơi, anh Hiệp ơi” thì không ai nghe thấy hết…

Cho đến bây giờ tôi vẫn không thể nào quên được nét mặt đau đớn tột cùng của anh tôi khi biết đứa em gái nhỏ bé của mình bị hảm hiếp…

*** Khi viết lại những dòng chữ này, tôi thương, tôi nhớ vô cùng những người anh thân yêu của tôi. Những người anh cùng chung huyết thống. Những người anh bất hạnh, vắn số của tôi đã chết cho tôi được sống.

Anh tôi bị bắn chết đau đớn, chết không kịp trối trăn chỉ vì lên tiếng phản đối những tên công an quỉ dữ đội lốt người , đã hảm hiếp em gái mình.

Từ Cao Bằng, Lạng Sơn, mang tro cốt của anh Hiệp trở lại Huế. Tôi định gởi anh lại trong phần đất hương hỏa của Gia Tộc ở Phủ Cam, để cho anh nằm chung với những người anh khác. Sẽ về Long Khánh nói dối mẹ rằng Anh Hiệp vẫn còn sống. Nhưng không ngờ trên sân ga Huế, lũ công an mọi rợ xét giỏ xách của tôi, chúng đổ tung hai trái bầu khô mà người Nùng cho tôi để đựng tro cốt của Anh Hiệp xuống đất chỉ vì nghi tôi dấu vàng trong đó. Tìm không thấy vàng, chúng nó đá hai trái bầu khô văng xuống đường rầy xe lửa rồi bỏ đi…

Tôi quì, tôi bò xuống thềm ga mong hốt lại được phần nào tro cốt của anh tôi. Nhưng mà xác anh bay trong gió. Xác anh bị lôi theo bước chân của những người qua lại, vô tình.

“Anh Hiệp ơi, đừng đi. Đứng lại đi anh Hiệp…”

Tôi khóc, tôi kêu xin anh tôi.

Nước mắt tôi rơi theo mớ xương tro cốt tung tóe khắp nơi. Xác anh lẫn trong tóc, bám trên khuôn mặt đầy nước mắt của tôi. Trong lòng hai bàn tay của tôi chỉ còn được một ít thôi…

Trời hởi, cũng trên sân ga này, tôi đã từng ôm xác của Linh, đứa em khờ dại của tôi. Chỉ chưa đầy một năm sau, tôi lại ôm mớ hài cốt không trọn vẹn của anh Hiệp với một trái tim tan nát…

Bao nhiêu năm tháng qua rồi, nước mắt không bao giờ rửa sạch những nỗi đau trong lòng vì cái chết đau thương của anh Hiệp. Người anh đau khổ, người anh yêu dấu, người anh rất tội nghiệp của tôi.

***Năm năm trời ngược xuôi trên nhiều nẻo đường từ Nam ra Bắc vì thương cha già và những người anh sa cơ thất thế lọt vào tay quỉ dữ, tôi cố gắng làm tròn bổn phận của một đứa con, của một đứa em, mặc dù thân xác tôi chịu nhiều đắng cay tủi nhục. Đau đớn lắm, nhưng tôi không cho phép mình ngã quỵ khi những người thân yêu của tôi đang cần tôi.

Mỗi lần nhìn người mẹ có quá nhiều đau khổ, tôi không dám mở lời, tôi đành câm nín. Tôi tự nhủ phải đứng vững vì mẹ. Tôi không nỡ để mẹ bị đọa đày thêm trong nỗi đau khi biết dứa con gái độc nhất mà bà thương yêu trân quí phải hứng chịu những oan khiên khốn khổ…

Giờ đây, tôi tin là các anh của tôi luôn phù hộ cho tôi, đứa em gái bất hạnh, lắm nổi truân chuyên của họ nên tôi mới vượt qua mọi thăng trầm, mọi nỗi gian nan mà sống cho đến ngày hôm nay…

Thực tình, tôi không muốn khơi lại những vết đau cũ. Một đoạn đời hơn 35 năm sau ngày mất Nước, không đủ làm tôi nguôi ngoai, những vết đau vẫn còn mưng mủ, vẫn còn làm tâm trí tôi nhức nhối không thôi.

Với tôi, hình ảnh những người thân yêu có thể để ngủ yên trong tâm trí. Nhưng những hành động bỉ ổi man rợ của bè lũ CS & tay sai thì không thể tha thứ và không được quên !

Gia đình tôi, bản thân tôi chỉ là một trong muôn vạn những gia đình nạn nhân khác, nhưng khi viết lại những câu chuyện đau thương của chính mình, & gia đình tôi như một lời tâm sự, nhắc nhở, tôi mong nó được xem như một lời cảnh báo cho những thế hệ sau tôi về chế độ phi nhân phi nghĩa của CS mà hơn 40 năm trước đã có những lớp người trẻ cùng trang lứa tôi, các anh tôi, vì mù quáng, vì non dại vô tình bị gạt gẩm đã chạy theo chúng …

Tôi muốn tát vào mặt những người ăn cơm Quốc Gia thờ ma CS. Những người bán rẻ lương tâm mình cho Ác Quỷ . Bởi vì tôi thấy những đau khổ, oan khiên trong quá khứ của tôi vẩn còn dính chặt trên khuôn mặt hắc ám của bè lủ tác tạo ra nó.

Còn một điều khốn nạn nữa là ra tới hải ngoại này mà phải hít thở cùng một bầu không khí với những kẻ cơ hội chủ nghĩa, đón gió trở cờ, phải nhìn thấy những khuôn mặt bẩn thĩu của những người tự xưng là trí thức háo danh , tham lợi, biết CS là độc ác, vô luân mà vẫn chạy theo chúng, làm ngơ trước đau khổ của đồng loại…

Tôi đã trải qua mọi đọa đày, khổ ải, hiểm nguy, thiệt thòi, mất mát từ thể chất tới tinh thần.

Lớn lên trong chiến tranh nên sợ hải bao phủ trọn không gian ,thời gian của tuổi thơ. Mới chín, mười tuổi đầu, tai đã sớm nghe những lời rên siết, than van của ông bà, cha mẹ, đã dược dạy phải tránh né người này, phải xa lánh người kia, mà chẳng hiểu tại sao? Mắt đã sớm nhìn thấy những xác người cháy đen sau mổi lần xóm làng bị đạn pháo kích mà không hiểu từ đâu? Trái tim non nớt của tôi biết đau rất sớm mà không biết vì nguyên nhân nào? Tâm trí đặc quánh những sợ hải. Đầu óc đã biết phân vân tự hỏi, tại sao người ta lại giết nhau

Không ai giải thích cho trẻ con những việc làm của người lớn!

Tuổi thơ của tôi có rất nhiều đêm thảng thốt, giật mình khi nghe tiếng đại bác vọng về.Tuổi thơ của tôi là giữa đêm khuya ngơ ngác khi bị lôi tuột xuống giường đẩy vào hầm trú ẩn.Tuổi thơ của tôi đã nhìn thấy những chiếc quan tài phủ cờ chở về trong xóm…

Tuổi thanh xuân của tôi gắn liền với hình ảnh những thi thể không trọn vẹn được lôi lên từ những mồ chôn tập thể của tết Mậu Thân. Phải nhìn thấy những xác người bê bết máu, xác trẻ thơ vô tội, xác người sình thúi, lúc nhúc những ruồi bọ trên những con đường mà thường ngày mình đến trường.

Những giấc mơ trong tưổi thanh xuân của tôi là những đôi mắt mở trừng, những con mắt oán hờn, trách móc, của những người anh bị bắn chết trong nhà của ông bà nội…

Tuổi thanh xuân của tôi đặc kín những lo âu, buồn phiền, sợ hải, nghi ngờ…

Tôi đã sống như con ốc thu mình trong vỏ. Dè dặt với mọi người. Không dám đối diện những người bạn của các anh mình. Những người cùng lớp cùng trường, ăn cùng mâm, ngủ cùng chiếu. Mới hôm qua là bạn , nay là thù, đứng về phía bên kia hàng ngủ của lủ Quỉ Đỏ, quay lại cầm súng sát hại những người anh thân yêu ruột thịt của mình…

Cái chết là lẽ đương nhiên của con người, vì đâu có ai sống hoài.Thân xác nào rồi cũng phải nằm ngay ngắn trong qua tài, dưới ba tấc đất, nhưng nào ai muốn trở thành những thân xác co quắp, không toàn hình hài, bị vùi chung nhau một hầm!

Chỉ có bọn CS ác độc vô luân mới hành xử như thế với đồng loại của mình…

Tâm trí tôi đau đớn theo từng cái chết đau thương của từng người thân trong gia đình. Thân xác tôi là cái giá phải trả để đổi lấy giỏ quà thăm nuôi, từng viên thuốc, cho những người thân yêu trong gia đình đang mang thân tù tội.

Người dù đã chết trong đau đớn tủi nhục, bây giờ thân xác họ cũng đã thoát ra khỏi cảnh đời ô trọc này rồi. Nhưng người còn sống, không sao tự giải thoát mình khỏi những vết thương đã quá ăn sâu trong da thịt, trong tâm hồn… Nhắc lại chuyện đã qua chỉ thêm đau lòng. Nhưng mà khổ nổi, tôi không thể nguôi ngoai!

Brisbane 15-8-2005

Thái Hòa