Nhà thờ Đức Bà Sài Gòn.

Nhà thờ Đức Bà Sài Gòn.

Vương  cung thánh đường Chính tòa

Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội
Nhà thờ Đức Bà Sài Gòn

Mặt  trước Nhà thờ Đức Bà Sài Gòn với tượng Đức Bà Hòa Bình
Thông tin cơ bản
Vị trí Thành phố Sàigòn
Tôn giáo Công giáo
Rôma
Nghi  lễ Latinh
Năm cung hiến 1959
Tước hiệu giáo hội
hoặc tổ chức
Tiểu vương cung thánh đường
Giám quản G.B. Huỳnh Công Minh
Website TGP.TPHCM
Mô tả kiến trúc
Kiến trúc sư J.Bourard
Thể loại kiến trúc Nhà thờ chính tòa
Phong cách kiến trúc Kiến trúc Roman
Hướng mặt tiền Đông
Năm hoàn thành 1880
Chi phí xây dựng 2,5 triệu franc Pháp
Thông số kỹ thuật
Chiều dài 00 mét (0 ft)
Chiều rộng 00 mét (0 ft)
Chiều rộng lọt lòng 00 mét (0 ft)
Tổng chiều cao 00 mét (0 ft)
Vật liệu gạch đỏ
Nhàthờ Đức Bà Sài Gòn (tên chính thức: Vương cung thánh đường Chính tòa Đức
Mẹ Vô nhiễm Nguyên tội
, tiếng Anh: Immaculate
Conception Cathedral Basilica
, tiếng Pháp: Cathédrale
Notre-Dame de Saïgon
) là nhà thờ chính tòa của Tổng giáo phận Thành phố Sàigòn. Đây cũng là nhà thờ Công giáo có quy mô lớn và đặc sắc, một những công trình kiến trúc thu hút nhiều khách tham quan nhất tại thành phố này.
Lịch sử
Tượng đồng Giám mục Adran và Hoàng tử Cảnh
Ngay sau khi chiếm Sài Gòn, Pháp đã cho lập nhà thờ để làm nơi hành lễ cho người Công giáo trong đoàn quân viễn chinh. Ngôi nhà thờ đầu tiên được lập ở đường Số 5 (nay là đường Ngô Đức Kế). Đây vốn là một ngôi chùa nhỏ của người Việt bị bỏ hoang do chiến cuộc, cố đạo Lefebvre đã biến ngôi chùa này thành nhà thờ. Vì ngôi nhà thờ đầu tiên đó quá nhỏ nên vào năm 1863, Đô đốc Bonard đã quyết định cho khởi công xây dựng ở nơi khác một nhà thờ khác bằng gỗ bên bờ “Kinh Lớn” (còn gọi là kinh Charner, địa điểm là trụ sở Tòa Tạp Tụng thời Việt Nam Cộng hòa). Cố đạo Lefebvre tổ chức “Lễ đặt viên đá đầu tiên” xây dựng nhà thờ vào ngày 28 tháng 3 năm 1863. Nhà thờ được dựng bằng gỗ, hoàn thành vào năm 1865, ban đầu gọi là Nhà thờ Saigon. Về sau, do nhà thờ gỗ này bị hư hại nhiều vì mối mọt, các buổi lễ được tổ chức trong phòng khánh tiết của Dinh Thống Đốc cũ, về sau cải thành trường học Taberd, cho đến khi nhà thờ lớn xây xong.
Tháng 8 năm 1876, Thống đốc Nam kỳ Duperré đã tổ chức một kỳ thi vẽ đồ án thiết kế nhà thờ mới. Ngoài mục tiêu có chỗ thờ phụng, hành lễ cho tín đồ, việc xây dựng nhà thờ lớn cũng nằm trong mục đích phô trương đạo Công giáo và sự vĩ đại của nền văn minh nước Pháp trước người dân thuộc địa. Vượt qua 17 đồ án thiết kế khác, đồ án của kiến trúc sư J. Bourard với phong cách kiến trúc Roman cải biên pha trộn nét phong cách kiến trúc Gotich đã được chọn. Ban đầu, địa điểm xây cất được đề nghị ở 3 nơi:
  • Trên nền  Trường Thi cũ (nay là góc đường Lê Duẩn và Hai Bà Trưng, tức vị trí tòa
    Lãnh sự Pháp).
  • Ở khu Kinh  Lớn (tại vị trí nhà thờ cũ, nay thuộc đường Nguyễn Huệ).
  • Vị trí  hiện nay.
Sau cùng vị trí hiện nay đã được chọn.[1]. Sau khi đề án thiết kế được chọn, Đô đốc Duperré cho đấu thầu việc xây dựng nhà thờ và cũng chính kiến trúc sư này là người trúng thầu và trực tiếp giám sát công trình. Mọi vật liệu từ xi măng, sắt thép đến ốc vít đều mang từ Pháp sang. Đặc biệt, mặt ngoài của công trình xây bằng loại gạch đặt làm tại Marseille (Pháp), để trần, không tô trát, không bám bụi rêu mà đến nay vẫn còn màu sắc hồng tươi.
Ngày 7 tháng 10 năm 1877, Giám mục Isidore Colombert đặt viên đá đầu tiên trước mặt Phó soái Nam Kỳ và đông đủ nhân vật cấp cao thời ấy. Nhà thờ được xây dựng trong 3 năm. Lễ Phục sinh, ngày 11 tháng 4 năm 1880, nghi thức cung hiến và khánh thành do cố đạo Colombert tổ chức trọng thể với sự có mặt của Thống đốc Nam Kỳ Le Myre de Vilers. Hiện nay, trên bệ phía trên, bên trong cửa ra vào nhà thờ, có chiếc bảng cẩm thạch gắn trong hành lang (transept) ghi ngày khởi công, ngày khánh thành và tên vị công trình sư. Tất cả mọi chi phí xây dựng, trang trí nội thất đều do Soái phủ Nam Kỳ đài thọ, với số tiền 2.500.000 franc Pháp theo tỷ giá thời bấy giờ. Ban đầu, nhà thờ có tên gọi là Nhà thờ Nhà Nước vì nó do nhà nước Pháp bỏ tiền xây dựng và quản lý.
Dòng chữ Latin nơi cổng chính cho biết năm khánh thành Năm 1895, nhà thờ xây thêm hai tháp chuông, mỗi tháp cao 57,6 m và có 6 chuông đồng  lớn nặng 28,85 tấn. Trên đỉnh tháp có đính một cây thánh giá cao 3,50 m, ngang 2 m, nặng 600 kg. Tổng thể chiều cao từ mặt đất lên đỉnh thánh giá là 60,50 m.
Hai tháp chuông vươn cao nhìn từ phía sau Trên vườn hoa trước nhà thờ, năm 1903, người Pháp cho dựng tượng đồng Pigneau de Béhaine (còn gọi là Giám mục Bá Đa Lộc hoặc Giám mục Adran vì vị này làm Giám mục hiệu tòa Adran) dẫn hoàng tử Cảnh (con vua Gia Long) để ca ngợi công lao của nước Pháp “bảo hộ”, “khai hóa” cho Việt Nam. Tượng đài này bao gồm một bệ bằng đá hoa cương đỏ hình trụ tròn và bên trên là bức tượng tạc hình Giám mục Adran với phẩm phục giám mục, tay trái dẫn hoàng tử Cảnh. Tượng làm bằng đồng, được đúc tại Pháp, giới bình dân thời đó thường gọi là tượng “hai hình” để phân biệt với tượng “một hình”, là bức tượng của Đô đốc Hải quân Pháp Genouilly ở phía công trường Mê Linh (nay là cuối đường Hai Bà Trưng, gần bờ sông Sài Gòn). Năm 1945, tượng này bị phá bỏ, nhưng cái bệ đài bằng đá hoa cương đỏ thì vẫn còn tồn tại ở đó mà không có bất cứ một bức tượng nào đặt lên trên.
Năm 1958, Linh mục Giuse Phạm Văn Thiên (sau làm Giám mục giáo phận Phú Cường, giờ đã qua đời), cai quản Giáo xứ Sài Gòn thời ấy, đã đặt tạc một tượng Đức Mẹ Hòa Bình bằng loại đá cẩm thạch trắng Carrara của Ý. Tượng được tạc tại Pietrasanta cách Roma khoảng 500 km. Khi tượng hoàn tất thì được đưa xuống tàu Oyanox vào ngày 8 tháng 1 năm 1959 từ hải cảng Gênes chở tượng qua Việt Nam và tới Sài Gòn ngày 15 tháng 2
năm 1959. Sau đó, công ty Société d’Entreprises đã dựng tượng Đức Mẹ lên bệ đá vốn còn để trống kể từ năm 1945 trước nhà thờ. Tự tay linh mục viết câu kinh cầu nguyện “Xin Đức Mẹ cho Việt Nam được hòa bình” rồi đọc trước đông đảo quan khách có mặt hôm ấy. Ngày hôm sau, Hồng y Aganianian từ Roma qua Sài Gòn để chủ toạ lễ bế mạc Đại Hội Thánh Mẫu Toàn Quốc, đã làm phép bức tượng này vào buổi chiều ngày 17 tháng 2 năm 1959. Từ sự kiện này mà từ đó nhà thờ có tên gọi là Nhà thờ Đức Bà.
Tượng Đức Mẹ Hòa bình và hai tháp chuông nhà thờ Ngày 5 tháng 12 năm 1959, Tòa Thánh đã cho phép làm lễ “xức dầu”, tôn phong Nhà thờ Chính tòa Sài Gòn lên hàng tiểu Vương cung thánh đường (basilique). Từ đó, tên gọi chính thức của thánh đường là Vương cung thánh đường Đức Bà Sài Gòn.
Năm1960, Tòa Thánh thành lập hàng giáo phẩm Việt Nam với ba tòa Tổng Giám mục tại Hà Nội, HuếSài Gòn. Nhà thờ trở thành nhà thờ chinh tòa của vị Tổng giám mục Sài Gòn cho đến ngày nay.
[sửa] Những nét đặc sắc
Trong quá trình xây dựng, toàn bộ vật liệu xây dựng từ xi măng, sắt thép đến ốc vít đều mang từ Pháp sang. Mặt ngoài của công trình xây bằng loại gạch đặt làm tại Marseille để trần, không tô trát, (đến nay vẫn còn màu sắc hồng tươi), không bám bụi rêu. Một số ngói vỡ trong nhà thờ có in hàng chữ Guichard Carvin, Marseille St André France (có lẽ là nơi sản xuất loại ngói này), mảnh ngói khác lại có hàng chữ Wang-Tai Saigon. Có thể đây là mảnh ngói được sản xuất sau tại Sài Gòn dùng để thay thế những mảnh ngói vỡ trong thời gian Thế chiến thứ hai do những cuộc không kích của quân Đồng Minh. Toàn bộ thánh đường có 56 ô cửa kính màu do hãng Lorin của tỉnh Chartres (Pháp) sản xuất.
Móng của thánh đường được thiết kế đặc biệt, chịu được tải trọng gấp 10 lần toàn bộ kiến trúc ngôi nhà thờ nằm bên trên. Và một điều rất đặc biệt là nhà thờ không có vòng rào hoặc bờ tường bao quanh như các nhà thờ quanh vùng Sài Gòn – Gia Định lúc ấy và bây giờ.
Nội thất thánh đường được thiết kế thành một lòng chính, hai lòng phụ tiếp đến là hai dãy nhà nguyện. Toàn bộ chiều dài thánh đường là 93m. Chiều ngang nơi rộng nhất là 35 m. Chiều cao của vòm mái thánh đường là 21 m. Sức chứa của thánh đường có thể đạt tới 1.200 người.
Nội thất thánh đường có hai hàng cột chính hình chữ nhật, mỗi bên sáu chiếc tượng trưng cho 12 vị thánh tông đồ. Ngay sau hàng cột chính là một hành lang và kế đó là nhiều nhà nguyện nhỏ với những bàn thờ nhỏ (hơn 20 bàn thờ) cùng các bệ thờ và tượng thánh nhỏ làm bằng đá trắng khá tinh xảo. Bàn thờ nơi Cung Thánh
làm bằng đá cẩm thạch nguyên khối có hình sáu vị thiên thần khắc thẳng vào khối đá đỡ lấy mặt bàn thờ, bệ chia làm ba ô, mỗi ô là một tác phẩm điêu khắc diễn tả thánh tích. Trên tường được trang trí nổi bật 56 cửa kính mô tả các nhân vật hoặc sự kiện trong Thánh Kinh, 31 hình bông hồng tròn, 25 cửa sổ mắt bò bằng kính nhiều màu ghép lại với những hình ảnh rất đẹp. Tất cả các đường nét, gờ chỉ, hoa văn đều tuân thủ theo thức Roman và Gôtich, tôn nghiêm và trang nhã. Tuy nhiên, trong số 56 cửa kính này hiện chỉ còn bốn cửa là nguyên vẹn như xưa, còn các cửa kính màu khác đều đã được làm lại vào khoảng những năm 1949 để thay thế các cửa kính màu nguyên thủy của nhà thờ đã bị bể gần hết trong thế chiến thứ 2. Trên trán tường của cửa chính
nhà thờ có hàng chữ Latinh:
DEO OPTIMO MAXIMO BEATIEQUE MARIA VIRGIN IMMACULATOE
Nghĩa là: Thiên Chúa tối cao đã ban cho Đức Trinh Nữ Maria được ơn Vô Nhiễm Nguyên Tội.
Còn trên trán tường của cửa vào bên phải có những hàng chữ bằng tiếng Hoa, thật ra đó là hai câu đối: “Nhà thờ Thiên Chúa đầy ân đức – Thánh mẫu vô nhiễm nguyên tội“. và hàng chữ nói tới năm khánh thành nhà thờ 1880.
Nội thất thánh đường ban đêm được chiếu sáng bằng điện (không dùng đèn cầy) ngay từ khi khánh thành. Vào ban ngày, với thiết kế phối sáng tuyệt hảo, hài hòa với nội thất tạo nên trong nội thất thánh đường một ánh sáng êm dịu, tạo ra một cảm giác an lành và thánh thiện. Ngay phía trên cao phía cửa chính là “gác đàn” với cây đàn organ ống, một trong hai cây đàn cổ nhất Việt Nam hiện nay. Đàn này được các chuyên gia nước ngoài làm bằng tay, thiết kế riêng, để khi đàn âm thanh đủ cho cả nhà thờ nghe, không nhỏ mà cũng không ồn. Phần thân đàn cao khoảng 3 m, ngang 4 m, dài khoảng 2 m, chứa những ống hơi bằng nhôm đường kính khoảng một inch. Phần điều khiển đàn nằm riêng nối với thân đàn bằng những trục, có những phím đàn như đàn organ bình thường và những phím to đặt dưới sàn nhà (dài chừng 3 m, ngang khoảng 1 m) để người điều khiển đàn đạp lên khi dùng nốt trầm. Đàn còn có những thanh gõ lớn để đập vào phần dưới các ống hơi phát ra âm thanh. Hiện nay, cây đàn này đã hoàn toàn hỏng do bị mối ăn phần gỗ bàn phím điều khiển bằng tay.
Ban đầu, hai tháp chuông cao 36,6 m, không có mái và chỉ có độc một chiếc cầu thang hẹp chừng 40 cm bề ngang. Nội thất gác chuông rất tối và sàn được lót sơ sài bằng những miếng gỗ nhỏ cách khoảng, nhìn xuống thấy sâu hút. Vào năm 1895, thánh đường xây thêm hai mái chóp để che gác chuông cao 21 m, theo thiết kế của
kiến trúc sư Gardes, tổng cộng tháp chuông cao 57 m. Có tất cả 6 chuông lớn (sol: 8.785kg, la: 5.931kg, si: 4.184kg, đô: 4.315kg, rê: 2.194, mi: 1.646kg), gồm sáu âm, nặng tổng cộng 28,85 tấn, đặt dưới hai lầu chuông. Bộ chuông này được chế tạo tại Pháp và mang qua Sài Gòn năm 1879. Trên tháp bên phải treo 4 quả chuông (sol, do, rê, mi); tháp bên trái treo 2 chuông (la, si). Trên mặt mỗi quả chuông đều có các họa tiết rất tinh xảo. Tổng trọng lượng bộ chuông là 27.055kg tức khoảng 27 tấn, nếu tính luôn hệ thống đối trọng(1.840kg) được gắn
trên mỗi trái chuông thì tổng trọng lượng của bộ chuông sẽ là 28.895kg.Ba quả chuông to nhất là chuông si nặng 4.184kg, chuông la nặng 5.931kg và đặc biệt là chuông sol là một trong những quả chuông lớn nhất thế giới: nặng 8.785 kg, đường kính miệng chuông 2,25 m, cao 3,5 m (tính đến núm treo). Chuông này chỉ ngân lên mỗi năm một lần vào đêm Giao thừa Âm lịch.Các chuông đều được điều khiển bằng điện từ bên dưới. Riêng ba chiếc chuông lớn trước khi đánh đều được khởi động bằng cách đạp (vì quá nặng) cho lắc trước khi bật công tắc điện. Vào ngày thường, thánh đường chỉ cho đổ một chuông mi vào lúc 5 giờ sáng và đổ chuông re vào lúc 16g15. Vào ngày lễ và chủ nhật, nhà thờ thường cho đổ ba chuông theo hợp âm Mi, Re và Do ( đúng ra là hợp âm ba chuông
Mi, Do và Sol, nhưng vì chuông Sol qua nặng nên thay thế bằng chuông Do). Vào đêm Giao thừa thì mới đổ cả 6 chuông. Tiếng chuông ngân xa tới 10 km theo đường chim bay.Bộ máy đồng hồ trước vòm mái cách mặt đất chừng 15 m, giữa hai tháp chuông được chế tạo tại Thụy Sĩ năm 1887, hiệu R.A, cao khoảng 2,5 m, dài khoảng 3 m và ngang độ hơn 1 m, nặng hơn 1 tấn, đặt nằm trên bệ gạch. Dù thô sơ, cũ kỹ nhưng hoạt động khá chính xác. Để điều chỉnh đồng hồ, phía sau máy có một chiếc đồng hồ to cỡ đồng hồ reo trong gia đình. Chỉ cần theo dõi chiếc đồng hồ con này, có thể biết đồng hồ lớn chạy chậm, nhanh, đúng hay sai giờ. Mỗi tuần phải lên giây đồng hồ một lần và chiếc cần để lên giây đồng hồ giống như tay quay máy xe. Đồng hồ còn có hệ thống bao giờ bằng búa đánh vô các chuông của nhà thờ, tuy nhiên đã không còn hoạt động do dây cót quá cũ.
Mặt trước thánh đường là một công viên với bốn con đường giao nhau tạo thành hình thánh giá. Trung tâm của công viên là bức tượng Đức Mẹ Hòa bình (hay Nữ vương Hòa bình). Tượng do nhà điêu khắc G. Ciocchetti thực hiện năm 1959. Tên của tác giả được ở trên tà áo dưới chân, phía bên trái của bức tượng. Bức tượng cao 4,6
m, nặng 8 tấn, bằng đá cẩm thạch trắng của Ý, được tạc với chủ đích để nhìn từ xa nên không đánh bóng, vì vậy mà toàn thân tượng, kể cả vùng mặt vẫn còn những vết điêu khắc thô. Tượng Đức Mẹ trong tư thế đứng thẳng, tay cầm trái địa cầu, trên trái địa cầu có đính cây thánh giá, mắt Đức Mẹ đăm chiêu nhìn lên trời như đang cầu
nguyện cho Việt Nam và cho thế giới được hoà bình. Chân Đức Mẹ đạp đầu con rắn (mà hiện nay, đầu con rắn đã bị bể mất cái hàm trên). Trên bệ đá, phía trước bức tượng, người ta có gắn một tấm bảng đồng với hàng chữ Latinh:
REGINA PACIS – ORA PRO NOBIS – XVII. II. MCMLIX
Nghĩa là: NỮ VƯƠNG HÒA BÌNH – CẦU CHO CHÚNG TÔI – 17.02.1959
Phía dưới bệ đá, người ta đã khoét một cái hốc chỗ giáp với chân tượng Đức Mẹ, trong đó có một chiếc hộp bằng bạc, chứa những lời kinh cầu nguyện cho hoà bình của Việt Nam và thế giới. Những lời cầu nguyện đó được viết lên trên những lá mỏng bằng những chất liệu khác nhau như bằng vàng, bạc, thiếc, nhôm, giấy, dađồng,
được gởi tới từ nhiều miền của Việt Nam, kể cả từ một số vùng ngoài miền Bắc.

Dùng Cần Sa Ở Thanh Thiếu Niên

Câu Chuyện Thầy Lang: Dùng Cần Sa Ở Thanh Thiếu Niên

(11/16/2012)

nguồn: vietbao.com

Tác giả : Bác Sĩ Nguyễn Ý Đức

Trong cuộc bầu cử chức vụ Tổng Thống Hoa kỳ cũng như Thượng Hạ Viện liên bang ngày 6 tháng 11, 2012 vừa qua, có thêm hai tiểu bang Connecticut và Massachusetts đã hợp thức việc dùng cần sa trong mục đích y học. Như vậy là hiện nay có 18 tiểu bang Hoa Kỳ và Washington D.C. cho phép dùng cần sa để trị bệnh. Trước sự việc này, nhiều bậc phụ huynh cảm thấy e ngại vì con em mình sẽ có thêm cơ hội để hút cần sa.

Tại nhiều quốc gia, trẻ em bắt đầu thử với cần sa ngay từ khi còn ở lớp 8, lớp
10. Trẻ em ghiền dễ đưa tới những hành động vô ý thức, những tổn thương cơ thể
do tai nạn hoặc dính líu vào hành động tình dục không muốn và không an toàn.
Chúng cũng hay mang vũ khí nhỏ và hay đánh lộn hơn là trẻ không dùng cần sa.

Sớm khám phá để hỗ trợ, cứu giúp là điều cần thiết ngõ hầu tránh được những hậu
quả không tốt cả về thể xác, tâm thần và xã hội cho con trẻ.

a-Những dấu hiệu dùng cần sa ở tuổi trẻ

Trẻ em dùng cần sa đều rất dễ dàng nói dối để phủ nhận có vấn đề khi cha mẹ căn
vặn. Nhiều khi nói chỉ hút chứ không hít vào. Cho nên các bậc cha mẹ đều cần đề
cao cảnh giác, để ý những dấu báo hiệu dùng thuốc ở con mình.

Dấu hiệu sớm nhất thường là thay đổi thái độ và hành động của chúng.

Học hành đang chăm chỉ tiến bộ, trở thành chểnh mảng, có điểm xấu, hay trốn học
hoặc đi học trễ, bị đuổi; tính tình thay đổi, kém tập trung, mau quên.

Tác phong bất thường có thể là tự cô lập, thu mình không giao tiếp với ai, buồn
rầu, cáu gắt với anh chị em trong nhà, bỏ những giải trí thường ưa thích, đôi
khi ăn cắp vặt để có tiền mua thuốc.

Các em ăn ngủ thất thường, hay than phiền chóng mặt, mệt mỏi, bước đi không
vững, mắt đỏ hoe. Nhiều em trở nên hoang tưởng, hoảng hốt một cách vô cớ. Trên
quần áo, trong phòng ngủ có mùi cần sa.

b-Những nguy cơ đưa đến tuổi trẻ dùng cần sa

Hầu hết người dùng cần sa đều nói là để có cảm giác thoải mái và yêu đời. Với
trẻ em thì có rất nhiều lý do khiến các em hút rồi ghiền cần sa.

– Nhiều em thấy người khác hút, tò mò thử coi xem sao, sau nhiều lần thấy thích
rồi thành thói quen và ghiền.

– Có em thì bị bạn bè ép dụ hoặc tình nguyện dùng khi muốn được chấp nhận vào
băng nhóm.

– Nhiều khi các em dùng vì sống trong gia đình có người ghiền rượu, thuốc ma
túy.

– Các em dùng để giải tỏa buồn bực, khó khăn xảy ra trong gia đình như bố mẹ
bất hòa, vắng mặt thường xuyên, tính tình bất nhất lúc khó khăn lúc buông thả.

– Các em gặp trở ngại trong việc học, không được hướng dẫn cho tương lai, trốn
học.

– Có nghiên cứu cho thấy gene di truyền cũng có vai trò trong việc dùng cần sa
và các thuốc khác.

c-Tác dụng của cần sa

Cần sa có tác dụng khác nhau trên cơ thể tùy theo cách dùng, có dùng chung với
rượu hay các thuốc khác, nhất là có chứa nhiều hay ít hoạt chất cannabinol.

Có cháu sau khi dùng trở nên như mất cảm giác, tê dại. Nhưng đa số lại thấy
tinh thần lên cao do đó có chuyện lạm dụng. Cháu cười nói huyên thuyên nhưng
không gẫy gọn, mạch lạc. Chúng như bị thu hút bởi những cảm giác, âm thanh, mùi
vị thông thường và thấy những sự việc vụn vặt trở nên hấp dẫn, khêu gợi. Với
các cháu, khái niệm về không gian không còn, chúng như bị phân đôi và thời gian
như lắng đọng, chậm lại.

Các cháu cảm thấy khát nước và đói. Tim tăng nhịp đập, miệng khô, đi đứng
nghiêng ngả mất thăng bằng, cử động chậm chạp, cặp mắt đỏ ngầu, con ngươi mở
to. Huyết áp lên cao, nhất là khi dùng cần sa chung với các thuốc kích thích
khác hay với rượu.

Sau đó khoảng vài ba giờ thì triệu chứng phai lạt dần và người phi thuốc
cảm thấy rã rượi rồi đi vào giấc ngủ triền miên.

d-Diễn biến sự lạm dụng

Cũng như đối với các hóa chất có thể lạm dụng khác, người dùng cần sa sẽ trải qua
mấy giai đoạn:

– Nghe nói cần sa làm tinh thần phấn khởi, yêu đời, nên muốn thử cho biết.

– Sau vài lần thử thấy hay hay, hấp dẫn bèn thử nữa.

– Ám ảnh với cảm giác thích thú kích động bèn dùng thường xuyên hơn và dùng mọi
thủ đoạn để có thuốc.

– Giai đoạn cuối là dùng bất cứ thuốc nào khác thay thế để thỏa mãn cảm giác
mong muốn.

Đó là điểm nguy hại vì khởi đầu từ cần sa các cháu có thể đi tới nghiện các
loại thuốc khác độc hại hơn như là hồng phiến, bạch phiến, rượu mạnh, các hóa
chất kích thích tâm thần khác.

e-Để ngăn ngừa con em dùng cần sa

Thực ra không có phương cách toàn hảo nào để ngăn ngừa việc con người mắc vào
các tật ghiền, nghiện ngập. Hơn nữa thuốc gây nghiền lại hiện diện khắp nơi,
tương đối mua dễ dàng lại luôn luôn quyến rũ người không có nghị lực, không có
quan niệm sống lành mạnh.

Cho tới nay, chưa có dược phẩm nào để chữa người nghiền cần sa, ngoại trừ cố
vấn, đối thoại, giải thích.

– Sự hỗ trợ của gia đình, bạn bè đóng vai trò rất quan trọng.

– Điều cần là cha mẹ phải sống gần gũi với con cái, hỗ trợ, theo dõi sinh hoạt
hàng ngày của con mình.

– Bắt đầu nói chuyện với con cái về ảnh hưởng không tốt đối với sức khỏe của
cần sa và các loại thuốc gây nghiền ngay khi còn bé.

– Cho con cái hay là chúng có thể thảo luận các vấn đề khó khăn với mình bất cứ
lúc nào và trong tinh thần cởi mở, hiểu biết.

– Luôn luôn đề cao cảnh giác: khi nghi là con cái dùng cần sa thì phải hành
động ngay để cứu chữa.

– Đừng ngần ngại do dự khi thấy cần sự giúp đỡ các nhà chuyên môn về ghiền hút.

– Có nhiều chương trình phục hồi dành riêng cho giới trẻ nghiện ngập. Nơi đây
các em sống hoàn toàn nhịn thuốc đồng thời học hỏi cách thức đối phó với các
vấn đề khó khăn về cảm xúc, hành vi, thể xác gây ra do cần sa.

– Quan trọng hơn cả là chính các em phải ý thức được vấn đề và muốn thay đổi.

Kết luận.

Vấn đề dùng cần sa trong trị bệnh đang còn được tranh luận. Phe ủng hộ cũng
nhiều mà phe chống đối cũng không phải là ít. Nhưng việc dùng cần sa để trở
thành ghiền của các em thiếu niên đang là một vấn nạn cho nhiều gia đình và xã
hội. Việc con cái dùng cần sa hoặc các chất gây ghiền khác là mối quan tâm lớn
của các bậc làm cha mẹ.

Tại nhiều quốc gia, trẻ em bắt đầu thử với cần sa ngay từ khi còn ở lớp 8, lớp
10. Trẻ em ghiền dễ đưa tới những hành động vô ý thức, những tổn thương cơ thể
do tai nạn hoặc dính líu vào hành động tình dục không muốn và không an toàn.
Chúng cũng hay mang vũ khí nhỏ và hay đánh lộn hơn là trẻ không dùng cần sa.

Khám phá ra sớm để hỗ trợ, cứu giúp là điều cần thiết ngõ hầu tránh được những
hậu quả không tốt cả về thể chất lẫn tâm thần và xã hội cho con trẻ.

Bác sĩ Nguyễn Ý-Đức

www.bsnguyenyduc.com

Nghẹn ngào bức ảnh anh ôm em trên bãi rác

Nghẹn ngào bức ảnh anh ôm em trên bãi rác
Hình ảnh người anh bế em mình ngồi trên bãi rác, nhìn vào khoảng không tuyệt vọng khiến mọi người không cầm được nước mắt.
Hai anh em ôm nhau thật chặt, đang cùng tìm sự sống trong nỗi tuyệt vọng trước bãi rác thải mênh mông ở Kathmandu , Nepal . Bao trùm lên nét buồn thảm của hai anh em là không khí ô nhiễm, ảm đạm, thiếu hơi thở của sự sống ở vùng Kathma này.
Bức ảnh từng lọt vào Top 10 bức ảnh ấn tượng nhất thế giới năm 2011, và đang được lan truyền nhanh chóng trên mạng với thông điệp: “Sống chậm một chút, làm việc chậm một chút, yêu thương nhiều một chút để thấy rằng cuộc đời này không trôi qua một cách vô nghĩa. Đôi khi bạn chỉ cần nhắm mắt lại, chỉ vài phút thôi, bạn cũng có thể cảm nhận được ý nghĩa cuộc sống. Đôi khi bạn chỉ cần ngừng chạy, chỉ vài phút thôi, bạn có thể cảm nhận được nhịp điệu cuộc sống…”.

Nhiếp ảnh gia Hồng Kông, Chan Kwok Hung tâm sự, hai anh em trong bức ảnh này đang sống cùng bà ngoại ở khu vực gần đó. Hằng ngày người anh cõng em đi tìm trong đống rác khổng lồ, cố gắng tìm ra những vật hữu ích có thể bán được để mua thức ăn sống qua ngày

Tượng Đức Mẹ duy nhất con lại sau vụ cháy và bão Sandy ở Queens, New York

Tượng Đức Mẹ duy nhất con lại sau vụ cháy và bão Sandy ở Queens, New York
Mai Vy
11/4/2012

New York – Tượng Đức Trinh nữ Maria là thứ còn lại duy nhất của một gia
đình bị phá sập vì hỏa hoạn trong cơn bão Sandy, ở Breeze Point, Queens,
New York City hôm 30 tháng 10, 2012. Trên gần 100 căn nhà bị phá hủy và
bốc cháy vào đêm 29.

Theo báo cáo, đến ngày 30/10 có ít nhất 15 người đã thiệt mạng do cơn bão Sandy tại Hoa Kỳ, trong lúc có hàng triệu người ở miền Đông Hoa Kỳ bị mất điện trong một phạm vi lớn, ngập lụt và cây gẫy. Thành phố New York bị thiệt hại nặng nề nhất do bị mất điện lan rộng và ngập lụt đáng kể ở nhiều nơi.(Spencer Platt / Ảnh Getty)

Người đàn ông ăn mày có biệt thự 3,5 triệu USD.

Người đàn ông ăn mày có biệt thự 3,5 triệu USD.

Ít ai nghĩ rằng người đàn ông già đi trên đường phố Manhattan để ăn xin và

bán báo lại là một diễn viên hài kịch đang sở hữu tòa nhà trị giá khoảng 3,5

triệu USD.

Người đàn ông ăn mày có biệt thự 3,5 triệu USD

Ông Irwin Corey (97 tuổi) hàng ngày vẫn đi ăn xin trên đường phố Manhattan

để gom tiền mua thuốc cho trẻ em Cuba.

Người đàn ông đó là Irwin Corey (97 tuổi), đã ăn xin trong suốt 17 năm qua, đều đặn cả 7 ngày trong tuần. Điều lạ là ông làm điều đó không phải vì kiếm tiền cho bản thân, bởi ông không phải người vô gia cư, mà có hẳn một căn nhà sang trọng ở New York có trị giá khoảng 3,5 triệu USD. Người ta cho rằng đó cũng là cách để ông thoát khỏi sự cô đơn, từ khi bà vợ yêu quý qua đời. Tất cả số tiền mà ông Corey kiếm được đều dành để mua thuốc
cho trẻ em ở Cuba. Có ngày “cao điểm” ông kiếm được tới 250 USD từ bán báo và ăn xin.

Người đàn ông ăn mày có biệt thự 3,5 triệu USD

Ông Corey bán báo để kiếm tiền làm từ thiện.

Người đàn ông ăn mày có biệt thự 3,5 triệu USD

Tòa nhà sang trọng có giá khoảng 3,5 triệu USD mà ông Corey đang ở.

Trong cuộc đời làm diễn viên của mình, ông Corey đã từng làm việc với Jackie Gleason, Woody Allen và David Letterman. Thực tế, hiện tại ông vẫn thỉnh thoảng biểu diễn nghệ thuật. Ông chia sẻ với tờ New York Times rằng, tuần trước ông mới bay tới Chicago để biểu diễn hai tối ở một câu lạc bộ.

Về việc từ thiện ở Cuba, ông Corey đã tự bay tới đó. Ông kể rằng ông đã từng chụp ảnh với Fidel Castro trong chuyến từ thiện của mình.

Người đàn ông ăn mày có biệt thự 3,5 triệu USD

Ông Corey đã từng chụp ảnh với Fidel Castro khi làm từ thiện ở Cuba.

Khi ông ăn xin trên đường phố, một số người nhận ra ông là diễn viên hài kịch, nhưng đa số cũng nhìn nhận ông giống như những kẻ ăn xin khác. Những điều đó dường như chẳng hề quan trọng với ông Corey, đơn giản ông chỉ muốn làm  để giúp đỡ những người khó khăn hơn mình.

Người đàn ông ăn mày có biệt thự 3,5 triệu USD

Ông Corey đang gom những đồng tiền kiếm được trong ngôi nhà sang trọng

của mình.

10 câu hỏi cho Đức Đạt Lai Lạt Ma

Tác giả: Đạt Lai Lạt Ma

Dịch giả: Phạm Thu Hương

Tạp chí Time đã phỏng vấn Đức Đạt Lai Lạt Ma tại thành phố New York vào tháng 5 năm 2010 với bài “10 Câu hỏi đến Đức Dalai Lama “.
1. Câu hỏi: Ngài đã bao giờ cảm thấy tức giận hoặc điên tiết chưa? Kantesh Guttal, Pune, ẤN ĐỘ
Đức Đạt Lai Lạt Ma: Ồ, có chứ, tất nhiên rồi. Tôi là người mà. Nói chung, nếu một người không bao giờ tức giận, thì tôi nghĩ có điều gì đó đã sai. Anh ta bị hâm hâm trong đầu rồi.
[Cười lớn.]
2. Câu hỏi: Làm thế nào mà ngài luôn lạc quan và trung thực khi có quá nhiều thù ghét trên thế giới vậy? Joana Cotar, FRANKFURT, ĐỨC.
Đức Đạt Lai Lạt Ma: Tôi luôn nhìn một sự kiện nào đó từ góc nhìn rộng lớn. Luôn có vấn đề nào đó, chết chóc nào đó, hành động tàn sát hoặc khủng bố nào đó hoặc bê bối ở mọi nơi,
mọi ngày. Nhưng nếu bạn nghĩ toàn bộ thế giới là như vậy, thì bạn đã sai. Vì trong 6 tỷ người, những người gây rối chỉ là số ít.
3. Câu hỏi: Vai trò đặt ra cho ngài đã thay đổi ra sao kể từ khi ngài lần đầu tiên trở thành Đức Đạt Lai Lạt Ma? Andy Thomas, CARMARTHEN, WALES, ANH QUỐC.
Đức Đạt Lai Lạt Ma: Tôi trở thành Đạt Lai Lạt Ma không dựa vào tự nguyện. Dù tôi có nguyện vọng hay không, tôi [cũng phải nghiên cứu] triết học Phật giáo như một tăng sinh bình thường trong các tu viện lớn. Cuối cùng tôi nhận ra mình phải có trách nhiệm.
Thỉnh thoảng có khó khăn, nhưng nơi nào có thử thách, nơi đó lại thực sự là một cơ hội để phục vụ được nhiều hơn.
4. Câu hỏi: Ngài có thấy khả năng hòa giải nào với chính phủ Trung Quốc trong cuộc đời ngài không? – Joseph K.H. Cheng, MELBOURNE, ÚC.
Đức Đạt Lai Lạt Ma: Có chứ, có khả năng. Nhưng tôi thấy kinh nghiệm quá khứ đã cho thấy điều này không dễ dàng chút nào. Có nhiều người bảo thủ, cái nhìn của họ rất hạn hẹp và thiển cận. Họ không nhìn vấn đề một cách toàn diện. Tuy nhiên, người dân bên trong
nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đã có sự tiếp xúc rộng hơn với thế giới bên ngoài. Càng ngày càng có nhiều tiếng nói bất bình trong nhân dân, đặc biệt là trong giới trí thức. Những điều này sẽ thay đổi – điều đó sẽ phải xảy ra.
5. Câu hỏi: Làm thế nào chúng tôi có thể dạy con cái chúng tôi không được nổi giận? – Robyn Rice, GRAND JUNCTION, COLORADO, MỸ.
Đức Đạt Lai Lạt Ma: Trẻ em luôn nhìn vào cha mẹ. Cha mẹ nên bình tĩnh hơn. Bạn có thể dạy con bạn rằng bạn đang đối diện với rất nhiều vấn đề nhưng bạn phải phản ứng những vấn đề đó với một tinh thần bình tĩnh và lý trí. Tôi luôn có cái nhìn này về hệ thống giáo dục hiện đại: chúng ta dành sự quan tâm cho phát triển não bộ, thế nhưng về sự phát triển lòng tốt thì chúng ta rất ỷ lại.
6. Câu hỏi: Ngài đã bao giờ từng nghĩ mình là một người bình thường thay vì là một Đức Đạt Lai Lạt Ma chưa? – Grego Franco, MANILA, PHI LUẬT TÂN,
Đức Đạt Lai Lạt Ma: Có chứ, khi còn trẻ. Thỉnh thoảng tôi cảm thấy, “Ôi, thật là một gánh nặng. Mình mong sao mình được là một người Tây Tạng vô danh. Khi đó, mình sẽ được tự do hơn.” Nhưng sau đó tôi nhận ra vị trí của mình là một cái gì đó hữu ích cho những người khác. Hiện nay tôi cảm thấy hạnh phúc rằng mình là Đạt Lai Lạt Ma. Đồng thời, tôi chẳng bao giờ cảm thấy mình là người có chút đặc biệt. Như nhau – chúng ta tất cả đều như nhau.
7. Câu hỏi: Ngài có nhớ Tây Tạng không? Pamela Delgado Córdoba, AGUASCALIENTES, MEXICO.
Đức Đạt Lai Lạt Ma: Có chứ. Văn hóa Tây Tạng không những thích hợp với cổ xưa mà còn thích hợp với thế giới ngày nay. Sau khi quan sát các vấn đề bạo lực, chúng tôi thấy rõ văn hóa Tây Tạng là văn hoá của lòng từ bi và bất bạo động. Ngoài ra còn khí hậu nữa. Ở
Ấn Độ trong suốt mùa mưa, thời tiết quá ẩm ướt. Khi đó, tôi rất nhớ [Tây Tạng].
8. Câu hỏi: Ngài nói gì với những người sử dụng tôn giáo như là một cái cớ để bạo lực hoặc giết người? Arnie Domingo, THÀNH PHỐ QUEZON, PHI LUẬT TÂN.
Đức Đạt Lai Lạt Ma: Có những người sùng đạo, vô tội bị lôi kéo bởi một số người có quan tâm khác hẳn. Quan tâm của họ không phải là tôn giáo mà là quyền lực hay đôi khi là tiền bạc. Họ lợi dụng niềm tin tôn giáo. Trong trường hợp như vậy, chúng ta phải phân
biệt được: những [điều ác đó] không sinh ra bởi tôn giáo.
9. Câu hỏi: Ngài đã bao giờ thử mặc quần chưa? – Ju Huang, STAMFORD, CONNECTICUT, MỸ.
Đức Đạt Lai Lạt Ma: Khi trời rất, rất lạnh. Và đặc biệt vào năm 1959, khi tôi chạy trốn, tôi có mặc quần dài, như người dân mặc. Vì thế, tôi có kinh nghiệm rồi.
10. Câu hỏi: Ngài có tin thời gian của ngài tại đây trên trái đất này đã là một thành công? – Les Lucas, Kelowna, British Columbia, CANADA.
Đức Đạt Lai Lạt Ma: Hmmm. Điều đó tương đối thôi. Thật quá khó để nói. Mọi cuộc sống con người đều gồm một phần thất bại và một phần thành công.
Hết.

Một tu sĩ khiếm thị được phong chức linh mục

Một tu sĩ khiếm thị được phong chức linh mục

Minh Đức

 

WHĐ (19.10.2012) – Ngày Chúa Nhật, 14-10 vừa qua tại Nhà thờ Thánh Hippolyte, quận 13 Paris (Pháp), Thầy Phó tế Phêrô Phạm Văn Dương, Dòng Anh Em Đức Mẹ Lên Trời, đã được truyền chức linh mục.

Không có vấn đề chiếu cố hay thương cảm đối với Thầy Dương. Câu hỏi cần phải trả lời là: “Thầy có đủ khả năng để trở thành một linh mục không?” Cũng như tất cả các vị bề trên Dòng Anh Em Đức Mẹ Lên Trời, Cha Jean-François Petit, người dạy học cho Thầy Dương trong 6 năm, đã trả lời: Có! Đúng vậy, vị tu sĩ 33 tuổi này – bị mù vĩnh viễn vào năm 2004 do vi rút tấn công mô thần kinh – đã có đủ điều kiện để được thụ phong linh mục.

Lễ phong chức là kết quả của một suy nghĩ lâu dài đối với các vị bề trên, và cũng là một cam kết của cộng đoàn cho phép thầy sống đời sống tu sĩ và học tập trong những điều kiện tốt nhất.

Cho đến nay, trường hợp của Thầy Dương là trường hợp duy nhất ở Pháp – Canada cũng có một linh mục khiếm thị – và việc phong chức linh mục cho một thầy khuyết tật là rất hiếm.

Phong chức một linh mục bị khuyết tật đòi hỏi đương sự cũng như cộng đoàn phải luôn thích nghi. Thầy Phêrô Dương đã có thể theo đuổi việc học nhờ một máy tính nhận dạng giọng nói và những bản văn Kinh Thánh hay Phụng vụ bằng chữ nổi. Sau khi chịu chức, tân Linh mục Phêrô Dương sẽ làm việc mục vụ tại Giáo xứ Thánh Hippolyte và tháng 11, Cha sẽ trở về Việt Nam để làm phụ tá Giám tập.

Giáo luật dự trù như thế nào về những trường hợp khuyết tật như Thầy Dương? Giáo luật chỉ nói không được truyền chức cho người mắc bệnh tâm thần. Điều 1041 của Bộ Giáo luật quy định: “Người mắc bệnh tâm thần, theo ý kiến các nhà chuyên môn, được coi là không thể chu toàn thừa tác vụ cách thích đáng”.

Còn điều 930, triệt 1, quy định: “Linh mục đau bệnh hoặc già yếu, nếu không đứng được thì có thể ngồi cử hành hy tế Thánh Thể, tuân thủ Luật Phụng vụ, nhưng không được cử hành trước mặt dân chúng (làm lễ công khai) nếu không được Bản quyền sở tại (tức Đức Giám mục) cho phép”.

Còn triệt 2 quy định về các linh mục khiếm thị: “Linh mục mù loà, hay bị tật bệnh nào khác, vẫn có thể cử hành hy tế Thánh Thể hợp pháp, khi dùng bất cứ bản văn Thánh lễ nào đã được phê chuẩn, hoặc trong trường hợp cần thiết, được sự trợ giúp của một linh mục hay một phó tế hoặc một giáo dân đã được huấn luyện thích đáng”.

Dòng Anh Em Đức Mẹ Lên Trời do Linh mục Emmanuel d’Alzon, Tổng Đại diện Giáo phận Nîmes từ năm 1838 tới 1878, thành lập vào năm 1845. Dòng được khai sinh trong một ngôi trường trung học mang tên Assomption (Đức Mẹ Lên Trời) tại thành phố Nîmes, miền Nam nước Pháp, và đến nay, đã có mặt tại gần 30 quốc gia. Dòng Anh Em Đức Mẹ Lên Trời hoạt động trong nhiều lĩnh vực như giáo dục, xuất bản, hành hương và đại kết.

Dòng Anh Em Đức Mẹ Lên Trời có mặt tại Việt Nam từ năm 2006 và đến tháng 9-2009, Dòng đã có thể mở một Tập viện tại Bà Rịa.

Nguồn:  WHĐ

nguồn: Maria Thanh Mai gởi

 

Giáo phận Xuân Lộc đón nhận 1000 tân tòng

Giáo phận Xuân Lộc đón nhận 1000 tân tòng

Giuse Khổng Hữu

10/21/2012                                            Nguồn: Vietcatholic.net

Sáng chúa nhật 21 tháng 10, ngày Khánh Nhật Truyền Giáo, giáo phận Xuân Lộc hân hoan vui mừng đón nhận 1035 Anh Chị Em Tân Tòng gia nhập Hội Thánh.

Xem hình ảnh

Thánh lễ do Đức Cha Đaminh Nguyễn Chu Trinh, Giám mục giáo phận chủ tế. Cùng
đồng tế có Đức Cha Toma Vũ Đình Hiệu, phụ tá giám mục. Đức Ông Vinh Sơn Đặng
Văn Tú. Cha Đaminh Trần Xuân Thảo, Quản hạt Hố Nai kiêm trưởng ban truyền giáo
giáo phận. Cha Giuse Nguyễn Kim Đoan, Quản hạt Tân Mai kiêm phó ban truyền giáo
giáo phận. Quý cha trong giáo phận.

Đến dự lễ có rất đông quý tu sĩ nam nữ thuộc các dòng tu trong giáo phận, hơn
1000 thân nhân các anh chị em dự tòng, gần 2000 anh chị em thuộc các tôn giáo
bạn, hơn 1000 anh chị em tác viên Tin Mừng, và rất đông các thành phần dân chúa
trong giáo phận tề tựu về giáo xứ Hà Nội Hạt Hố Nai, ước chừng buổi lễ Khánh
Nhật Truyền Giáo hôm nay có khoảng 10 ngàn người tham dự.

Những tiết mục văn nghệ vui tươi chào mừng mọi người do các sơ Dòng Đaminh và
anh chị em giáo lý viên phụ trách.

Trước giờ lễ, Đức ông Vinh Sơn Đặng Văn Tú chia sẻ với mọi người đề tài “Tự do
tôn giáo là gì?” đồng thời Ngài lưu ý hơn đến anh chị em dự tòng chuẩn bị lãnh
nhận bí tích thánh tẩy hôm nay về sự tự do tôn giáo, Ngài nói: Với tuyên ngôn
“Dignitatis humanae” của công đồng Vatican II về tự do tôn giáo, Giáo Hội Công
giáo từ chối mọi cưỡng bách đối với lương tâm của con người về vấn đề tôn giáo.
công đồng Vatican II đã đưa ra một định nghĩa về tự do tôn giáo: sự tự do này
“hệ tại con người không bị chi phối vì sự cưỡng bách của cá nhân, đoàn thể xã
hội hay bất cứ quyền bính trần gian nào khác. Với ý nghĩa đó, trong lãnh vực
tôn giáo, không ai bị ép buộc hành động trái với lương tâm, cũng không ai bị
ngăn cấm hành động theo lương tâm, dù cho đó là hành động riêng tư hay công
khai, một mình hay cùng với người khác, trong những giới hạn chính đáng.” Và
ngài nhấn mạnh “Tự do tôn giáo thực sự được xây dựng trên phẩm giá con người,
một phẩm giá đúng như lời Thiên Chúa mạc khải và chính lý trí cho biết được.
Quyền tự do tôn giáo của con người trong cơ cấu pháp lý của xã hội phải được
chấp nhận là một quyền lợi dân sự”.

Thánh lễ được bắt đầu bằng cuộc kiệu rước sách Tin Mừng và đoàn đồng tế tiến từ
xứ đường giáo xứ Hà Nội một vòng quanh nhà thờ tiến về lễ đài phía đông, hòa
với tiếng hát vui mừng hân hoan của cộng đoàn “Từ muôn phương ta về đây sánh
vai lên đường, đường đưa ta đi lên đền Chúa ta. Lòng hân hoan ta hòa chung
tiếng hát nhịp nhàng vui hát mừng danh Chúa cứu độ ta…”.

Mở đầu thánh lễ, đại diện ban truyền giáo, Cha Giuse Nguyễn Kim Đoan, Quản hạt
Tân Mai kiêm phó ban truyền giáo giáo phận lên dâng lời chào mừng quý đức cha,
quý cha, quý tu sĩ, quý khách và cộng đoàn. Đồng thời Ngài giới thiệu các thành
phần tham dự lễ hôm nay để cầu nguyện cho công cuộc truyền giáo của giáo phận
và cụ thể là cho 1035 anh chị em Tân Tòng.

Ngỏ lời với cộng đoàn, Đức Cha Đaminh Giáo Phận, thay mặt Đức Cha Tôma Phụ Tá,
Đức Ông, Quý Cha Quản Hạt và Quý Cha đồng tế rất vui mừng ngày khánh nhật
truyền giáo hôm nay có sự hiện diện rất đông đủ các thành phần trong giáo phận
nói lên tình hiệp nhất, sự hiệp thông quý giá trân trọng. trong dịp này ngài
ngỏ lời với cộng đoàn “Ngày 11 tháng 10 năm 2011, Đức Thánh cha Bênêđictô XVI
đã ban hành Tự sắc “Porta Fidei” (Cánh cửa Đức Tin), qua đó, Ngài muốn Giáo Hội
cử hành NĂM ĐỨC TIN và đã được khai mạc ngày 11 tháng 10 vừa qua, nhân kỷ niệm
đúng 50 năm ngày khai mạc Công đồng Vatican II, và bế mạc ngày lễ Chúa Giêsu
Kitô Vua Vũ Trụ, ngày 24 tháng 11 năm 2013. Hiệp cùng Giáo Hội hoàn vũ, Giáo
Hội Việt Nam đã tổ chức lễ khai mạc Năm Đức Tin ngày 12 tháng 10 vừa qua. Giáo
phận chúng ta vừa khai mạc Năm Đức Tin hôm 18 tháng 10 vừa rồi tại nhà thờ
Chính Tòa, và hôm nay Chúa nhật Truyền giáo tại các giáo xứ ngày 21 tháng 10.
Trong tâm tình hân hoan tạ ơn Chúa dịp mừng Kim Khánh Giáo phận (1965-2015), và
được khích lệ bởi tinh thần Năm Thánh Giáo hội Việt Nam 2010, “nỗ lực đào sâu
và làm tăng trưởng đức tin cũng như hâm nóng lại nhiệt tình loan báo Tin Mừng”,
tôi mời gọi mọi thành phần dân Chúa nỗ lực Canh tân đời sống đức tin trong
chương trình năm năm mừng Kim Khánh Giáo phận. Chúng ta đã vui mừng thấy chương
trình mục vụ của Giáo phận hòa một nhịp với chương trình mục vụ chung của tất
cả Giáo hội Việt Nam. Hôm nay, niềm vui của chúng ta lại được tăng thêm vì
chương trình Năm Đức Tin xác nhận và soi sáng thêm cho chương trình mục vụ của
Giáo phận chúng ta.

Trong dịp này, Đức Cha Giáo Phận tha thiết nhắc nhở mọi người: “Mỗi người công
giáo nên kết thân với một người lương, coi người đó như anh em ruột thịt và đem
hết lòng yêu thương họ. Mỗi gia đình công giáo nên kết thân với một gia đình
lương dân, coi họ như thân quyến của mình, sẵn sàng chia ngọt sẻ bùi; khi có kỵ
giỗ, cưới xin hay lễ lạc gì trong gia đình, hãy mời họ cùng thông hiệp. Nhờ đó
hai bên thắt chặt mối giây thân ái và qua tình thân nầy, Tin Mừng của Chúa
Ki-tô sẽ được lan toả như ánh nến đêm Vọng Phục Sinh”.

Trình tự lễ nghi diễn tiến nhịp nhàng đạo đức thánh thiện, ca đoàn hát rất hay,
chất lượng âm thanh phục vụ cho buổi lễ rất tốt.

Trước khi kết lễ, Cha Đaminh Trần Xuân Thảo, Quản Hạt Hố Nai, kiêm trưởng ban
truyền giáo giáo phận, lên dâng lời cảm ơn quý đức cha, đức ông, quý cha quản
hạt và quý cha đồng tế, mọi thành phần Dân Chúa. Ngài trân trọng cảm ơn anh chị
em các tôn giáo bạn, quý chính quyền các cấp, anh chị em tân tòng và quý thân
nhân, anh chị em tác viên Tin Mừng, Dòng Thánh Gioan Thiên Chúa, các thành phần
trong cộng đoàn Giáo Xứ Hà Nội, quý công ty âm thanh ánh sáng, ban tây nhạc,
anh chị em ca đoàn và tất cả mọi người đã cộng tác giúp đỡ cho buổi lễ được
thêm phần sốt sắng long trọng.

Kế đến Đức Cha Giáo Phận phát bằng chứng nhận và trao quà tượng trưng cho một
số Anh Chị Em Tân Tòng và trao quà cho đại diện Anh Chị Em Tôn Giáo Bạn.

Nhận phép lành cuối lễ, cộng đoàn vui sướng hát vang bài ca “Hãy ra đi rao
giảng tin mừng. Bước hiên ngang trên đường truyền giáo. Kìa đồng lúa chín ngát
trời, triệu nhành đong đưa vẫy mời, sóng lúa vàng dạt dào mơ ước…”.

Nguyện xin Chúa qua lời bầu cử của Mẹ Maria Mân Côi ban cho chúng con ý thức
việc truyền giáo bằng tâm tình đơn sơ:

• “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, dạy bảo họ tuân giữ mọi
điều Thầy đã truyền cho anh em.” (Mt 28, 19-20)

• “Khốn thân tôi nếu tôi không rao giảng Tin mừng.” (1 Cr 9,16).

Xin hân hoan chúc mừng 1035 Anh Chị Em Tân Tòng, xin Chúa là Cha nhân lành và
Mẹ Maria dịu hiền luôn đồng hành với các Anh Chị trong ơn gọi Kitô hữu.

Nhà thơ Nguyễn Chí Thiện từ trần và đã gia nhập đạo Công Giáo


Nhà thơ Nguyễn Chí Thiện từ trần và đã gia nhập đạo Công Giáo

RFA
10/2/2012      nguồn: Vietcatholic.net
Nhà thơ “ngục sĩ” Nguyễn  Chí Thiện từ trần và đã gia nhập đạo Công Giáo
Thi sĩ Nguyễn Chí Thiện, được mệnh danh “Ngục sĩ”, nhà thơ phản kháng nổi  tiếng nhất của Việt Nam, vừa từ trần tại Santa Ana, California, Hoa Kỳ lúc 7  giờ 17 phút sáng ngày 2/10/2012, hưởng thọ 73 tuổi
Ông sinh ngày 27 tháng 2 năm 1939 tại Hà Nội, học hành và sinh sống ở Hà Nội,
Hà Nam, Hải phòng với song thân phụ mẫu và một người chị.
Ông từng bị chế độ Việt Nam Dân chủ Cộng Hoà bắt giam từ năm 1961, vì tội  “phản tuyên truyền” bằng những bài thơ phê phán chế độ. Được trả tự do vào  tháng 11 năm 1964, đến tháng 2-1966 ông lại bị tống giam đến tháng 7-1977.  Ông viết lại bằng tay tập thơ “Hoa địa ngục” sáng tác và ghi nhớ trong tù.
Tháng 7-1979, ông đem đưa được tác phẩm này vào bên trong toà đại sứ Anh. Ông
không đi tị nạn ở Anh và bị bắt ngay trước cổng toà đại sứ, bị tống giam thêm
12 năm, với chế độ giam giữ khắc nghiệt hơn hết so với những khoảng thời gian
bị giam cầm trước đó.
Tập thơ “Hoa địa ngục” từ toà đại sứ Anh ở Hà Nội được chuyển tới giáo sư  Patrick Honey (1925-2005) dạy tại đại học Luân đôn. Sau đó thơ ông được phổ  biến trên báo chí, sách vở của người Việt hải ngoại, được dịch và xuất bản  bằng Anh, Pháp, Việt ngữ. Năm 1985 ông được tặng thưởng khiếm diện giải  thưởng thơ quốc tế tại Rotterdam.
Từ năm 1981 Tổ chức Ân xá Quốc tế Amnesty International, Tổ chức Theo dõi
Nhân quyền Human Rights Watch và Tổ chức nhân quyền Quê Mẹ cùng phát động
chiến dịch kêu gọi quốc tế can thiệp với nhà cầm quyền Việt Nam về trường hợp
của ông.
Suốt thời gian đó ông bị giam tại Hoả Lò, Hà Nội, đến năm 1985 bị đưa đi biệt  giam giữa rừng, kiệt sức và gần chết đói. Năm 1990 ông được đưa tới trại tù Ba Sao săn sóc thuốc men, và được trả tự do vào tháng 10 năm 1991.
Được anh ruột bảo lãnh sang Hoa Kỳ từ năm 1995, ông ghi lại và phổ biến tập  “Hoa địa ngục” thứ nhì, gồm những bài ông sáng tác và ghi nhớ trong thời gian  cầm tù sau . GS Nguyễn Ngọc Bích dịch tác phẩm nay sang Anh ngữ và xuất bản  song ngữ. Ông viết tự truyện bằng Anh ngữ, được đại học Hawaii xuất bản trong  “Beyond Works: Asian Writers on Their Works.”
Thi sĩ “ngục sĩ” Nguyễn Chí Thiện được giải thưởng của Hội Nhà văn  Quốc tế vào năm 1998. Ông sang Pháp, ở lại đó 3 năm để viết “Hoả Lò tập  truyện”. Tác phẩm được dịch sang Anh ngữ, đại học Yale xuất bản năm 2007.
Nhà thơ cư ngụ tại quân Cam California từ năm 2004, phải phấn đấu thường  xuyên với những di chứng bệnh tật trong suốt 27 năm tù ngục, nhưng vẫn đi  nhiều nơi để nói chuyện về kế hoạch dân chủ hoá Việt Nam.
Ông là một người độc thân, mất đi trong sự săn sóc của bạn bè thân hữu và  những cuộc thăm viếng của những đồng bào Việt Nam ái mộ thơ văn của ông,  ngưỡng mộ ý chí bất khuất của ông trước chế độ cộng sản của Nhà nước Việt Nam  Xã hội Chủ Nghĩa.
Vietcatholic xin nói thêm, khi đi tù tại ngoài Bắc Việt Nam, thi sĩ đã cảm  phục tinh thần của Cha Vinh , đã tìm hiểu đạo Công Giáo nên trước khi từ  trần, thi sĩ đã xin gia nhập đạo Công Giáo. LM Cao Phương Kỷ đã rửa tội cho thi sĩ và ban các phép bí tích sau cùng cho thi sĩ.
Thi sĩ lấy tên Thánh là: Thomas More
Xin cầu nguyện cho linh hồn Thomas More  Nguyễn Chí Thiện sớm được hưởng Nhan Thánh Chúa.
xem thêm:   Nuvuongcongly.net
VOA

Tháng Mân Côi

Tháng Mân Côi

TRẦM THIÊN THU

 

Hằng năm, Giáo hội Công giáo dành Tháng Mười để tôn kính Đức Mẹ Mân Côi. Theo miêu tả của tu sĩ Alan de la Roch, Dòng Đa Minh thế kỷ XV, Đức Mẹ đã hiện ra với thánh Đa Minh năm 1206 sau khi thánh nhân cầu nguyện và sám hối vì đã không thành công trong
việc chống tà thuyết Albigensianism (*). Đức Mẹ đã khen ngài về sự chiến đấu anh dũng của ngài chống lại tà thuyết và trao cho ngài Chuỗi Mân Côi làm vũ khí phi thường, đồng thời giải thích cách sử dụng và hiệu quả của Chuỗi Mân Côi. Đức Mẹ bảo thánh Đa Minh rao truyền Chuỗi Mân Côi cho những người khác.

Kinh Mân Côi có nguồn gốc từ chính Thiên Chúa, từ Kinh thánh, và từ Giáo hội. Không lạ gì khi Chuỗi Mân Côi gần gũi với Đức Mẹ và mạnh mẽ đối với Nước Trời.

Rất nhiều người đã được ơn từ việc lần Chuỗi Mân Côi. Chân phước GH Gioan Phaolô II cũng thường xuyên lần Chuỗi Mân Côi khi ngài đi bách bộ. Nếu xem lại lịch sử, chúng ta thấy có nhiều chiến thắng nhờ Chuỗi Mân Côi. Truyền thống ban đầu đã có chiến thắng
tà thuyết Anbi tại trận Muret năm 1213 nhờ Chuỗi Mân Côi.

Dù không muốn chấp nhận truyền thống đó thì cũng phải chân nhận rằng thánh GH Piô V đã góp phần chiến thắng đội quân Thổ Nhĩ Kỳ vào Chúa Nhật đầu tháng 10 năm 1571. Ngay thời điểm đó có Hội Mân Côi (Rosary confraternities) tại Rôma và những nơi khác. Do
đó, thánh GH Piô V đã truyền phải tôn kính Kinh Mân Côi vào chính ngày đó.

Năm 1573, ĐGH Grêgôriô XIII công bố việc mừng lễ Đức Mẹ Mân Côi tại các nhà thờ có bàn thờ dâng kính Đức Mẹ Mân Côi. Năm 1671, ĐGH Clêmentô X mở rộng lễ này trên toàn cõi nước Tây Ban Nha. Chiến thắng anh dũng lần thứ hai trên người Thổ Nhĩ Kỳ, những người đã có lần (cũng như người Nga) đe dọa phá hủy văn minh Kitô giáo, xảy ra vào ngày
5-8-1716, khi hoàng tử Eugene đánh bại họ tại Peterwardein (Hungary). Do đó, ĐGH Clêmentô XI mở rộng lễ Đức Mẹ Mân Côi trong toàn Giáo hội.

Lm. William G. Most đã viết trong cuốn “Đức Maria trong Đời sống Chúng ta” (Mary in Our Lives): “Ngày nay, các mối nguy hiểm còn lớn hơn người Thổ Nhĩ Kỳ, không chỉ đe dọa Kitô giáo mà đe dọa cả nền văn minh, Đức Mẹ thúc giục chúng ta trở lại với Chuỗi Mân Côi để được giúp đỡ. Nếu nhân loại đủ số người làm vậy, đồng thời thực hiện các điều kiện khác mà Đức Mẹ đã đưa ra, chúng ta có lý do chính đáng để tin rằng chúng ta sẽ thoát khỏi mọi mối nguy hiểm”.

Nhưng thiết nghĩ chúng ta cần tích cực lần Chuỗi Mân Côi hàng ngày không vì mong được lợi cho mình mà vì lòng yêu mến chân thành. Người Việt Nam có câu: “Mưu sự tại nhân,
thành sự tại thiên”
. Cứ hành động bằng tất cả niềm tin, cậy, mến thì chúng ta không bao giờ phải thất vọng.

Chúng con xin trao phó mọi sự cho Thiên Chúa và Đức Mẹ, xin quan phòng và lo liệu cho chúng con hôm nay và mãi mãi. Amen.

TRẦM THIÊN THU

(*) Albigensianism: Anbi giáo, một phong trào Kitô giáo được coi là hậu duệ thời trung cổ của Mani giáo (Manichaeism – xem chú thích bên dưới) ở miền Nam nước Pháp hồi thế kỷ XII và XIII, có đặc tính của thuyết nhị nguyên (đồng hiện hữu của hai quy luật đối
nghịch là Thiện và Ác). Thuyết này bị kết án là tà thuyết thời Tòa án Dị giáo (Inquisition).

Manichaeism: Mani giáo, hệ thống tôn giáo nhị nguyên do tiên tri Manes (khoảng 216–276) sáng lập ở Ba Tư hồi thế kỷ III, dựa trên vụ xung đột nguyên thủy giữa ánh sáng và bóng tối, kết hợp với các yếu tố của Kitô giáo ngộ đạo (Gnostic Christianity), Phật giáo (Buddhism), Bái hỏa giáo (Zoroastrianism), và các yếu tố ngoại giáo khác. Thuyết này bị chống đối từ phía Hoàng đế La mã, các triết gia phái tân Platon (Neo-Platonist) và các Kitô hữu chính thống.

nguồn: Maria Thanh Mai gởi

Từ trẻ nhặt rác đến ứng cử viên giải Hòa bình Thiếu nhi Quốc tế

Từ trẻ nhặt rác đến ứng cử viên giải Hòa bình Thiếu nhi Quốc tế
nguồn: VOA

Kesz ngồi đằng sau một cậu bé 5 tuổi lắng nghe một bài học. Kesz bị bỏng nặng hồi 8 năm trước tại một bãi rác ở gần thủ đô Manila
Simone Oredain
17.09.2012
MANILA — Từ đi nhặt rác đến vận động cho quyền trẻ em, một cậu bé xuất thân từ thành phố Cavite gần thủ đô Manila của Philippines đang là một trong 3 ứng cử viên cho giải thưởng Hòa bình Thiếu nhi Quốc tế. Giải thưởng thường niên này ghi nhận những đóng góp đáng kể trong việc đối phó với các vấn đề của trẻ em và dự kiến sẽ được công bố trong tuần này tại thành phố The Hague. Từ Manila, thông tín viên Simone Orendain tường trình về cậu bé 13 tuổi tên Kesz, người sáng lập ra một tổ chức đã giúp hơn 10.000 trẻ em có hoàn cảnh như chính cậu.
Kesz nở nụ cười rạng rỡ trước những đứa trẻ ăn mặc nhếch nhác đang chen chúc ngồi nghe cậu đọc một câu chuyện về một chú chuột đi lên mặt trăng để tìm pho mát. Chúng tụ tập ngồi quanh một chiếc bàn trong trung tâm giữ trẻ chỉ có 1 phòng này ở Barangay Muzon, một cộng đồng nghèo khó ven vịnh Manila.
Kesz và một số tình nguyện viên trẻ tuổi nữa dạy bọn trẻ đọc hiểu, quyền trẻ em, vệ sinh cá nhân và trồng rau.
Kesz nói: “Em nhìn thấy bản thân mình qua những đứa trẻ này. Khi em đi đến những thành phố khác và nhìn thấy lũ trẻ xin ăn trên đường phố, em như thấy hình ảnh của chính mình. Vì thế mà em muốn dốc lòng giúp chúng.”
Từ lúc Kesz mới 2 tuổi cậu đã phải đi xin ăn, ăn cắp vặt và nhặt rác tại bãi rác nơi gia đình cậu sinh sống. Cậu nói ở nhà cậu bị ngược đãi và sau đó cậu bỏ trốn.
Kesz đọc câu chuyện về một chú chuột đi lên mặt trăng để tìm pho mát
​​Một ngày nọ, các thành viên của Câu lạc bộ 8586, một nhóm Kitô hữu vận động cho trẻ em tìm thấy Kesz đang ngủ bên ngoài một cửa hàng tạp hóa. Efren Penaflorida nhớ lại cậu bé 4 tuổi Kesz khắp người đầy ghẻ choàng tỉnh dậy và vội xin tiền.
Anh Penaflorida nói: “Nhưng tất nhiên là chúng tôi không cho tiền. Điều mà tôi và người hướng dẫn của tôi KB làm là mời cậu bé tham dự lớp học xe đẩy mà trong đó chúng tôi cho em thức ăn và một nền giáo dục cơ bản. KB bây giờ là người giám hộ của Kesz.”
Lớp học xe đẩy là một chương trình học tập khác dành cho trẻ em đường phố, một hình thức trường học mini di động có cung cấp bữa ăn và đồ dùng vệ sinh cá nhân.
Người sáng lập Câu lạc bộ 8586, Harnin “KB” Manalaysay, gửi Kesz trở về nhà với cam kết trả tiền học phí cho cậu bé. Nhưng thay vì đi học cậu lại buộc phải đi nhặt rác. Khi Kesz 5 tuổi, cậu bị những người nhặt rác bâu quanh xe chở rác xô ngã vào đống lốp xe đang cháy. Câu lạc bộ 8586 trả chi phí điều trị bỏng cho Kesz nhưng sau đó mẹ Kesz bỏ rơi cậu.
Kesz cho biết: “Mẹ em nói ở với Câu lạc bộ 8586 tốt hơn vì em sẽ được chăm sóc.
Bà ấy cũng nói em là người gây xui xẻo cho bà ấy.”
Dưới sự dìu dắt của Manalaysay và những người hướng dẫn khác, vận hạn của Kesz
đã thay đổi. Cậu bé 6 tuổi trở thành học sinh xuất sắc. Khi cậu vừa tròn 7 tuổi, Kesz đã ước một điều ước quan trọng vào dịp sinh nhật của mình.
Kesz nói thêm: “Em ước rằng trẻ em nghèo khó cũng nhận được những thứ mà em đã
nhận được.”
Kesz nói cậu muốn trẻ em nghèo có những thứ như dép xỏ ngón, đồ chơi và bánh kẹo, những thứ mà cậu từng có. Đây là khởi đầu cho sứ mệnh đầy tham vọng của Kesz. Những món quà mà Kesz ước vào sinh nhật mình hàng năm giờ đây có thêm quần áo, đồ dùng vệ sinh cá nhân và một thông điệp giản đơn gửi đến cho bọn trẻ, rằng đừng đánh mất hy vọng bởi vì chính các em cũng có thể đảo ngược lại cuộc đời của mình.
Khi chương trình được nhân rộng, Kesz và một nhóm những tình nguyện viên trẻ tuổi bắt đầu dang tay giúp đỡ đến hàng ngàn trẻ em nghèo khó ở Manila. Mùa xuân năm rồi, tổ chức Campioning Community Children vươn ra ngoài Philippines để đến với trẻ em cơ nhỡ ở Indonesia.
Klarence Baptista, một giám sát viên tình nguyện 22 tuổi, nói nguyên tắc làm việc của Kesz quả là phi thường.
Cô Baptista nói “Kesz giống như một thứ ánh sáng soi đường và truyền cảm hứng cho những người xung quanh chỉ đơn giản bằng cách giúp đỡ người khác.”
Nhưng quá khứ khó khăn vẫn đeo đuổi Kesz. Sau khi cậu được đề cử giải thưởng Hòa bình, Kesz bắt đầu nhận được những lời đe dọa tống tiền vì được giới truyền thông để ý tới. Sự việc này khiến cậu phải lánh xa công chúng và chỉ sử dụng tên “Kesz” thay vì tên họ đầy đủ để bảo vệ danh tính của mình.

Vợ chồng trẻ Quận Cam 70% ly dị


Vợ chồng trẻ Quận Cam 70% ly dị

September 18, 2012   nguồn: Báo Nguoi-Viet.com

Thiên An/Người Việt

Nhiều người mang chuyện ly dị ra chỉ để hù dọa vợ hay chồng mình khi nóng giận, nhưng dựa trên những số liệu gần đây của Sở Kiểm Kê Dân Số Hoa Kỳ (US Census Bureau) thì không ít những lời nói vu vơ đó sẽ có thể trở thành là sự thực, nhất là trong khu vực Quận Cam.


Trẻ em là những người bị thiệt thòi nhất khi cha mẹ ly dị. (Hình minh họa: TORU
YAMANAKA/AFP/Getty Images)
Tài liệu của US Census Bureau năm 2010 cho biết tỉ lệ ly dị trung bình của nước Mỹ là khoảng 50%, tiểu bang đi đầu là California 60% mà Quận Cam là vùng có tỉ lệ ly dị cao nhất, gần 70%.
Từ nhiều năm trở lại đây, tỉ lệ lập gia đình trong dân số Hoa Kỳ ngày càng giảm, trong khi con số ly dị từ các cặp vợ chồng đó ngày một tăng lên. Cứ ba cặp đôi nào vượt qua được các thử thách và quyết định đi tới hôn nhân, thì chỉ 1 trong số đó sẽ giữ được mái ấm của mình. Với tỉ lệ ly dị cao tới gần 70% giữa các đôi vợ chồng ở Quận Cam, có thể nói rằng những đứa trẻ nào ở Quận Cam, mà có được cả ba lẫn mẹ để thưa chào trước khi đi học hay khi về nhà, là những đứa trẻ may mắn. Những
đứa trẻ không có được may mắn đó sẽ phải đối mặt với nhiều vấn đề về tâm lý cũng như các phương diện khác của cuộc sống. Con gái sống với cha hay con trai sống với mẹ thường có những khó khăn trong việc bộc lộ cảm xúc. Con gái sống với mẹ thường có tinh thần trách nhiệm cao, nhưng dễ trở nên già dặn hơn các bạn đồng trang lứa. Ðáng buồn hơn, một số có thể trở nên hư hỏng và đánh  mất tương lai của chúng. Thống kê cho thấy con trai thiếu sự dạy dỗ của cha  có tỉ lệ phạm tội cao gấp đôi mức bình thường.
Bà Lynne Diamond, người sáng lập  và là giám đốc của Divorce Wizards ở Newport Beach nói, “Ðau lòng nhất là  những đứa trẻ, có những đứa mới ba tuổi không biết sẽ ra sao.” Có những đôi  vợ chồng cần sự cố vấn của bà hơn 30 tiếng mới quyết định được việc họ sẽ  chia nhau nuôi dạy con như thế nào trong khoảng thời gian sau ly dị. Công việc của bà Diamond là chuyên về hòa giải và cố vấn cho các vụ ly dị. Bà có  bằng thạc sĩ tư vấn và đã làm trong ngành 17 năm nhưng bà cũng cho biết là  hầu hết các cặp vợ chồng đã điền đơn ly dị thì cũng khó được hòa giải thành công, nhất là các cặp vợ chồng đã tìm tới luật sư. Tuy từng học và lấy bằng  luật, bà Diamond bày tỏ sự thiếu thiện cảm của mình với những luật sư trong lĩnh vực ly dị.
Tòa thường lấy $1,000 cho một cuộc ly dị, bất kể đó là một cuộc ly dị đơn giản hay phức tạp. Với con cái và tài sản giữa hai bên, việc ly dị dễ trở nên rắc rối khiến cho cặp vợ chồng phải nhờ tới sự giúp đỡ của luật sư. Khi một bên đã gọi luật sư thì bên kia thường sợ thua thiệt và gọi một luật sư khác cho riêng mình. Bà Diamond lấy một cái tên từ danh sách khách hàng dài sáu trang của bà, danh sách các cặp vợ chồng phải nhờ tới sự trợ giúp của luật sư. Ðôi vợ chồng mà bà lấy để làm ví dụ đã phải ra tòa 31 lần với luật sư của họ. Mỗi bên đã trả $150,000 cho luật sư của mình.
Ly dị là tốn kém, nhưng tiền bạc thường không phải là điều mất mát lớn nhất từ các vụ ly dị. Với các bậc làm cha làm mẹ, tranh giành quyền nuôi dạy con cái luôn là điều làm họ đau đầu nhất. Người may mắn hơn sẽ được giữ con trong khi người kém may mắn hơn sẽ chỉ được gặp con theo một thời khóa biểu vạch sẵn. Người không có việc làm tốt và ổn định không những sẽ mất quyền giữ con mà còn phải đóng tiền child
support cho người kia. Những người sau khi ly dị sẽ gặp nhiều sức ép tài chính hơn, cho con cái cũng như nhà ở hay thức ăn, những thứ mà giờ đây không còn được chia sẻ bởi người chồng hay người vợ của mình nữa.
Các cặp vợ chồng đến gặp bà  Diamond tới từ các độ tuổi và tầng lớp khác nhau, 20 tuổi có, 80 tuổi có, nghèo có, giàu có. Lý do cãi vã và ly dị cũng vô vàn, mỗi cặp mỗi cảnh. Tất cả đều mong khi ly dị xong họ có thể kết thúc các vấn đề trong đời sống vợ
chồng của mình. Việc ly dị là không hề đơn giản nhưng lại là phương án tốt nhất mà một số người có thể chọn cho mình. Với họ, đó có thể là một quyết định sáng suốt. Với một số khác, khi họ nhận ra được sự phức tạp của việc ly dị thì đã trễ.
Cứ 10 cặp vợ chồng ở Quận Cam thì 7 cặp sẽ kết thúc trong sự tan vỡ. Theo khảo sát thì ba cặp còn lại cũng nghĩ tới việc ly dị nhưng họ không biến ý nghĩ đó thành hiện thực. Trong cuộc sống hiện đại khi thời gian là vàng bạc, con người dường như quyết định mọi thứ nhanh chóng hơn, kể cả việc chấm dứt đời sống vợ chồng. Khi nghĩ tới việc ly dị như một phương án để kết thúc cho mọi khó khăn trong đời sống gia đình,
thiết nghĩ một chút thời gian để nói chuyện với nhau có thể giữ bạn lại ở bên phía 30% may mắn của các cặp vợ chồng ở Quận Cam.